i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/thang08/31/van_hoa_sinh... · web viewxin cảm ơn...
TRANSCRIPT
1
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC----------------------------
DƯƠNG MẠNH THẮNG
VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ – XÃ BA VÌ
HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
2
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC----------------------------
DƯƠNG MẠNH THẮNG
VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ – XÃ BA VÌ
HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
Chuyên ngành: Nghiên cứu Văn hóa
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TH.S. NGUYỄN THÀNH NAM
Hà Nội - 2014
3
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự quan
tâm, giúp đỡ và động viên. Vì vậy tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người đã
dõi theo và sát cánh bên tôi, giúp tôi hoàn thành đề tài của mình.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Nguyễn
Thành Nam, giảng viên khoa Văn hóa học, trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Thầy là người trực tiếp tư vấn và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Xin cảm ơn Ban quản lý Vườn quốc gia Ba Vì, xã Tản Lĩnh – huyện Ba
Vì và Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Ba Vì, thị trấn Tây Đằng – Ba Vì –
Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu có liên quan đến đề tài.
Xin cảm ơn gia đình ông Triệu Tiến Thi, thôn Hợp Nhất – xã Ba Vì –
huyện Ba Vì – Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát và thu thập
thông tin cần thiết cho đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Dương Mạnh Thắng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI VÀ KHÁI
QUÁT VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ,
XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI..........................................................9
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI............9
1.1.1 Thuyết sinh thái văn hóa và khái niệm văn hóa sinh thái........................9
1.1.2 Đặc trưng của văn hóa sinh thái.............................................................13
1.1.3 Cấu trúc của văn hóa sinh thái...............................................................15
1.2 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC
GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI...................................21
1.2.1 Lịch sử người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì – xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội.....................................................................................21
1.2.2 Khái quát về địa bàn sinh sống của người Dao Quần Chẹt....................25
Chương 2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN
CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ – HUYỆN BA VÌ –
HÀ NỘI..........................................................................................................28
2.1 GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI VẬT THỂ.......................................28
2.1.1 Nhà ở......................................................................................................28
2.1.2 Trang phục..............................................................................................34
2.1.3 Ẩm thực..................................................................................................40
2.1.4 Dược liệu................................................................................................44
2.2 GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI PHI VẬT THỂ..............................52
2.2.1 Lối sống, phong tục tập quán ứng xử với tự nhiên.................................52
2.2.2 Nghệ thuật dân gian................................................................................55
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
5
2.2.3 Tín ngưỡng, lễ hội dân gian...................................................................60
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN
CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ.......................................................64
3.1 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO
QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA
VÌ – HÀ NỘI..................................................................................................64
3.1.1 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt thể hiện tư tưởng
sống hòa hợp với tự nhiên...............................................................................64
3.1.2 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt góp phần bảo vệ,
cải tạo tự nhiên theo hướng tích cực...............................................................66
3.1.3 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội...........................................................................67
3.2 GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA
BA VÌ..............................................................................................................68
3.2.1 Giải pháp từ phía cộng đồng người DaoQuần Chẹt tại khu vực Vườn
quốc gia Ba Vì.................................................................................................68
3.2.2 Giải pháp từ phía các cấp chính quyền...................................................73
3.3 BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI
DAO QUẦN CHẸT HƯỚNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI
VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI........76
KẾT LUẬN....................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................83
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
6
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môi trường tự nhiên là điều kiện sống vô cùng quan trọng và không thể
thiếu của con người. Con người là một phần của giới tự nhiên, muốn tồn tại
được con người cần phải thích ứng và hòa hợp với môi trường tự nhiên. Ngày
nay, khi môi trường đã trở thành vấn đề của toàn cầu vẫn tồn tại hai quan
điểm đối lập nhau: một là tuyệt đối hóa việc bảo vệ môi trường đến mức cực
đoan; hai là chỉ quan tâm tới việc tăng trưởng kinh tế mà không cần quan tâm
tới môi trường tự nhiên.
Do ảnh hưởng và tác động của Cách mạng Công nghiệp vào đầu thế kỷ
XVIII, đặc biệt là cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ XX
cho đến nay, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã có sự thay đổi sâu sắc cả
về bề rộng lẫn chiều sâu.. Để thoả mãn nhu cầu vật chất ngày càng tăng của
mình, con người đã tìm mọi biện pháp để thúc đẩy, mở rộng các hoạt động
sản xuất và trong suốt một thời gian dài, tăng trưởng kinh tế trở thành mục
tiêu trung tâm, chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của
các quốc gia trên thế giới. Theo đó, phạm vi và mức độ tác động của con
người vào giới tự nhiên ngày càng gia tăng. Từ việc khai thác vừa đủ cho nhu
cầu, con người bắt đầu khai thác tài nguyên một cách ồ ạt dẫn đến sự hủy hoại
môi trường tự nhiên. Việc vắt kiệt tài nguyên thiên nhiên khiến cho hàng triệu
hecta rừng trên thế giới bị tàn phá, khai thác khoáng sản làm biến đổi bề mặt
tự nhiên, môi trường sống của con người và sinh vật, phá hủy môi trường sinh
thái hay các khu công nghiệp mọc lên như nấm ở khắp các quốc gia khiến cho
bầu khí quyển bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozôn
hay động đất, sóng thần… ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống được ví như
sự trừng phạt bởi cơn thịnh nộ của tự nhiên giáng xuống nhân loại. Từ một
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
7
góc độ nào đó ta có thể thấy sự phát triển về kinh tế đem lại những chuyển
biến cho xã hội, đánh dấu sự thành công trong việc trinh phục tự nhiên của
con người. Tuy nhiên, dưới góc độ sinh thái học chúng ta có thể thấy rằng
những thành công đó đang “chống lại” con người.
Trước những bức bách của vấn đề môi trường sinh thái, sự lo ngại về
triển vọng phát triển của con người trong hiện tại và tương lai, nhận thức về
tự nhiên, về mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người đã có những thay
đổi căn bản. Thay vì coi tự nhiên là nguồn của cải vô tận và chỉ biết khai thác
từ đó những gì có lợi cho mình như trước đây, con người ngày nay đã nhận ra
rằng, tự nhiên là một thể thống nhất và sức chịu đựng của nó trước những tác
động của con người không phải là vô hạn, bên cạnh việc sử dụng, khai thác tự
nhiên, con người còn phải bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, phải
“chung sống hài hòa” với tự nhiên.
Ở Việt Nam hiện nay, sự phát triển kinh tế cũng là một trong những
trọng tâm phát triển đất nước hướng tới sự nghiệp Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Việc phát triển kinh tế chủ yếu tập trung ở các khu vực trọng điểm và
đều là các thành phố lớn, các khu đô thị. Bên cạnh đó, nhiều khu vực rừng núi
lại gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Nhưng cũng chính những
khu vực rừng núi là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số lại có những giá trị
văn hóa sinh thái được hình thành từ lâu đời và đang được lưu giữ, trao truyền
qua nhiều thế hệ. Các giá trị văn hóa sinh thái này đang chịu tác động mạnh từ
nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật, hội nhập và đổi mới theo cả hướng
tích cự và tiêu cực. Một vấn đề cấp thiết đặt ra đó là phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống cộng đồng các tộc người thiểu số nhưng vẫn giữ lại các giá trị
văn hóa sinh thái quý giá trở thành bài học giáo dục cho sự phát triển kinh tế
phải gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
8
Khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì thuộc xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
là nơi sinh sống của cộng đồng người Dao Quần Chẹt. Trải qua thời gian dài
sinh sống tại đây, người Dao Quần Chẹt đã hình thành nên những nét văn hóa
sinh thái đặc thù. Những giá trị văn hóa sinh thái này được lưu truyền trong
cồng đồng người Dao Quần Chẹt từ đời này qua đời khác, nó gắn liền với
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của họ. Với phương thức sinh hoạt kinh tế
nông nghiệp nương rẫy và săn bắn hái lượm, cộng đồng người Dao Quần Chẹt
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Đối với họ thiên nhiên là nguồn sống, là yếu
tố quyết định đến sự tồn vong và phát triển của họ. Những giá trị văn hóa sinh
thái đó được xem như văn hóa ứng xử của người Dao Quần Chẹt với môi
trường, văn hóa sinh thái góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi của con
người tác động đến tự nhiên. Người Dao Quần Chẹt tận dụng, khai thác tự
nhiên phục cho cuộc sống của mình, đồng thời họ cũng bảo vệ và cải tạo tự
nhiên theo hướng tích cực. Việc nghiên cứu bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt tại đây không chỉ nhằm phát triển kinh
tế, đời sống mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển bền vững tại khu
vực Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội trong tương lai.
Chính vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại Vườn Quốc gia Ba Vì xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà
Nội” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và văn hóa đã được
quan tâm trong nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố như: Cơ sở văn
hóa Việt Nam – Trần Quốc Vương; Cơ sở văn hóa Việt Nam – Trần Ngọc
Thêm; Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa – Ngô Đức Thịnh (Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993)…. Các công trình nghiên cứu này đề cập đến
vấn đề lý luận chung của văn hóa, tập trung vào việc nghiên cứu các hệ thống
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
9
lý thuyết, khái niệm, cấu trúc, đặc trưng của văn hóa. Đây là những công trình
cần thiết cung cấp những kiến thức cơ bản về văn hóa nói chung và định hình
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn hóa khu vực.
Những công trình nghiên cứu về văn hóa của các dân tộc thiểu số cũng
được thực hiện rất nhiều. Nghiên cứu về văn hóa của tộc người Dao ở Việt
Nam có: Người Dao ở Việt Nam – Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng,
Nguyễn Nam Tiến (1971); Xác minh tên gọi và phân nhóm các ngành Dao ở
Tuyên Quang – Phạm Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn (1971); Vấn đề phân loại
các nhóm Dao ở Việt Nam – Nguyễn Khắc Tụng (1995); Nhà cửa của người
Dao xưa và nay – Nguyễn Khắc Tụng (1977); Văn hóa truyền thống của
người Dao ở Hà Giang – Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999); Văn
hóa truyền thống các dân tộc ở Hà Giang – Hùng Đình Quý (Nhà xuất bản
Hà Giang, 1994)… Các công trình nghiên cứu trên đã khảo tả lại bức tranh
sinh động về lịch sử, văn hóa, phương thức sinh hoạt, tôn giáo, tín ngưỡng, tri
thức dân gian… của người Dao ở Việt Nam. Qua đó, cung cấp cho chúng ta
những kiến thức cần thiết, sự am hiểu về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể của người Dao. Nhưng những nhóm Dao ở địa phương lại có nhiều bản
sắc riêng. Chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về nhóm Dao Quần Chẹt
ở khu vực Vườn quốc gia Ba Vì – xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
Nghiên cứu vấn đề về môi trường và sinh thái ở nước ta ít được đề cập
đến. Vấn đề này chỉ thực sự được quan tâm ở những thập niên cuối của thế kỉ
XX cho đến nay, đó là khi chúng ta nhận thấy được tầm quan trọng của việc
bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái gắn liền với sự tăng trưởng
kinh tế, phát triển bền vững đất nước. Có thể kể đến các công trình như: Môi
trường sinh thái – Vấn đề và giải pháp của Phạm Ngọc Trầm (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội 1997); Sinh thái học và môi trường của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2002); Sinh thái và môi
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
10
trường – Nguyễn Văn Tuyên (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998)… Từ
các công trình này, vấn đề sinh thái học và môi trường được quan tâm, đồng
thời các cảnh báo và dự đoán xu hướng cho các vấn đề về môi trường đặc biệt
quan tâm. Đó như là những hồi chuông cảnh tỉnh cho sự lạm dụng khai thác
thiên nhiên một cách không khoa học ở nước ta.
Vấn đề về văn hóa sinh thái chỉ thực sự được quan tâm trong thời gian
gần đây khi liên tiếp những sự việc, những vấn đề về môi trường có liên quan
đến văn hóa xảy ra. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như: Văn hóa
sinh thái – Nhân văn của Trần Lê Bảo chủ biên (Nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội, 2001); Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền núi phía
Bắc nước ta hiện nay – Trần Thị Hồng Loan (2002); Vấn đề văn hóa sinh thái
trong sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay – Trần Thị Hồng Loan,
Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội, 2012… Nhìn chung các công trình
nghiên cứu trên vấn đề văn hóa sinh thái chỉ được đề cập đến dưới góc độ là
tác động của con người vào tự nhiên, hay mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trường.
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao và văn hóa sinh thái,
nhưng chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu về Văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện
Ba Vì – Hà Nội. Vì vậy luận văn không trùng lặp với bất kì công trình nghiên
cứu nào ở trên. Các tài liệu, công trình nghiên cứu đó chỉ phục vụ mục đích
tham khảo của tác giả.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là những giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt bao gồm: Văn hóa sinh thái vật thể và Văn hóa sinh
thái phi vật thể.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
11
Giá trị văn hóa sinh thái vật thể cần xem xét và nghiên cứu về: kiến trúc,
nhà ở, ẩm thực, trang phục, dược liệu, đồ dùng sinh hoạt.
Giá trị văn hóa phi vật thể cần nghiên cứu: đạo đức sinh thái, phong
tục, tập quán ứng xử với tự nhiên, nghệ thuật dân gian, lễ hội và tín ngưỡng
dân gian.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian của đề tài là khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì thuộc
xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
Phạm vi về thời gian được xác định khi nghiên cứu các giá trị văn hóa
sinh thái truyền thống là những giá trị được hình thành và ổn định từ trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hiện nay là những giá trị được hình thành
trong những năm đổi mới có sự tác động, ảnh hưởng bởi các chính sách quản
lý của Nhà nước.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích của đề tài:
Thông qua việc điều tra, nghiên cứu các giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện
Ba Vì – Hà Nội đề tài nhằm khẳng định những nét đẹp và giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống của tộc người Dao Quần Chẹt. Từ đó góp phần giúp các cán
bộ địa phương có những giải pháp thiết thực, hợp lý nhằm bảo lưu các giá trị
văn hóa sinh thái truyền thống đang dần mai một.
Nhiệm vụ của đề tài:
Để thực hiện các mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về sinh thái học, văn hóa sinh thái của người
Dao Quần Chẹt ở Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
nói riêng và văn hóa sinh thái nói chung để đưa ra những nhận định về các giá
trị văn hóa sinh thái.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
12
Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống, đòng thời hướng đến sự phát triển bền vững của người Dao
Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận: Là phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử, duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin nhằm phân tích, đánh giá những
giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt và sự tác động của những
giá trị văn hóa sinh thái đó đến đời sống văn hóa tinh thần, sinh hoạt xã hội,
kinh tế… của cộng đồng người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia Ba
Vì, xã Ba Vì – Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp nghiên cứu liên
ngành Văn hóa học với Dân tộc học được vận dụng để nghiên cứu về người
Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nôi.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được áp dụng
nhằm hệ thống các thông tin, tư liệu thu thập được thông qua việc nghiên
cứu lý thuyết, thư tịch, tài liệu và phỏng vấn trực tiếp về người Dao Quần
Chẹt ở xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội. Phân tích nhằm làm rõ các vấn
đề từ nhiều góc độ, tổng hợp và khái quát vấn đề giúp tác giả dễ dàng nắm
bắt thông tin.
Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng để
thực hiện đề tài. Từ việc nghiên cứu thực địa khu vực Vườn quốc gia Ba
Vì, khu vực sinh sống và sản xuất của người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì –
huyện Ba Vì – Hà Nội nhằm thu thập các thông tin liên quan, hữu ích cho
đề tài. Các thao tác cụ thể được sử dụng là quay phim, ghi âm, chụp ảnh…
đặc biệt là phương pháp phỏng vấn sâu được áp dụng với các thông tín viên
là người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
13
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài bước đầu chỉ ra những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của
người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – huyện – Ba Vì
– Hà Nội. Qua đó chỉ ra những nét đẹp cần lưu giữ, bảo tồn và phát huy
trong thời kỳ đổi mới đất nước trong văn hóa sinh thái của người Dao Quần
Chẹt nơi đây.
Đề tài cung cấp những thông tin chính xác làm tư liệu tham khảo để
các nhà nghiên cứu, các cán bộ văn hóa hay các cán bộ hoạch định chính
sách từ đó đưa ra những phương án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa sinh
thái truyền thống của người Dao Quần Chẹt, gắn với việc phát triển bền
vững của người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba
Vì – huyện – Ba Vì – Hà Nội.
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu và Tài liệu tham khảo đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa sinh thái và khái quát về người Dao
Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã ba Vì – huyện Ba Vì – Hà Nội
Chương 2: Giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của người Dao Quần
Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa sinh thái truyền thống của người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba
Vì, xã Ba Vì – huyện – Ba Vì – Hà Nội
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI VÀ KHÁI QUÁT
VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ,
XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ VĂN HÓA SINH THÁI
1.1.1 Thuyết sinh thái văn hóa và khái niệm văn hóa sinh thá
Thuyết sinh thái văn hóa: (Cultural ecology)
Thuyết sinh thái văn hóa, tức thuyết Tiến hóa đa tuyến hay Tiến hóa đa
hệ (Multilinear evolution) được cho là ra đời vào khoảng năm 1950, tập trung
nghiên cứu mối liên hệ giữa con người – môi trường – văn hóa, gắn liền với
tên tuổi của nhà nhân học người Mỹ Julian Steward (1902 – 1972). Phương
pháp của sinh thái văn hóa có nhiệm vụ làm rõ quan hệ giữa văn hóa với môi
trường tự nhiên từ quan điểm con người là chủ thể tồn tại, thích ứng với môi
trường thông qua văn hóa, còn văn hóa thì chịu ảnh hưởng lớn của các loại tài
nguyên môi trường mà con người sử dụng. Trong những khu vực khác nhau
nhưng có môi trường giống nhau và phương thức khai thác môi trường giống
nhau thì có khả năng có những nền văn hóa giống nhau phát triển song hành.
Chính vì hiện tượng phát triển song hành như vậy của văn hóa mà Julian
Steward còn đặt tên khác cho lý thuyết của mình là thuyết Tiến hóa đa hệ. Khi
sử dụng thuyết Sinh thái văn hóa cần quan tâm đến tương quan giữa văn hóa
và môi trường, coi môi trường là nhân tố quan trọng trong học thuyết. Tiến
hóa đa tuyến đồng nghĩa với việc thích nghi những yếu tố nòng cốt của văn
hóa như tổ chức xã hội, cơ cấu chính trị, tôn giáo… là những yếu tố chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường cụ thể, chứ không xem trọng những yếu tố
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
15
văn hóa nghệ thuật mà Steward xem là những yếu tố không nòng cốt, không
chịu ảnh hưởng gì mấy của môi trường.
Con người trải nghiệm cuộc sống của mình và phải thích nghi với các
môi trường tự nhiên thông qua bối cảnh văn hóa. Sinh thái văn hóa là các
dạng thức văn hóa hình thành và phát triển tương ứng với những môi trường
nhất định như sinh thái biển đảo, sinh thái đồng bằng châu thổ, sinh thái cao
nguyên… Ở Việt Nam có rất nhiều loại hình sinh thái tự nhiên tương ứng với
các khu vực cư trú của các tộc người. Những tộc người sinh sống lâu đời tại
một môi trường sinh thái, họ sẽ có những trải nghiệm, thích nghi, sáng tạo,
hình thành những kỹ năng sống và thể hiện sắc thái tâm lý cũng như các dạng
thức văn hóa phù hợp với môi trường sinh thái ấy, đó là văn hóa sinh thái tộc
người. Trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên. Những thành tựu văn hóa đạt được từ việc thích nghi với môi trường
sống, con người hình thành nên những loại hình văn hóa như là những tập
hợp sắc thái văn hóa đặc trưng và tạo nên cốt lõi của nền văn hóa. Ngoài ra
cũng trong chính sự thích nghi với môi trường, con người đã hình thành nên
những hình thức sinh hoạt kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội… Con người
tồn tại bằng tri thức dân gian mà họ tích lũy được để lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Tri thức dân gian của các tộc người ở Việt Nam hết sức đa
dạng và phong phú, phản ánh rõ nét đặc trưng văn hóa của cư dân vốn chịu
ảnh hưởng rất nhiều từ tự nhiên.
Sử dụng khung lý thuyết về Sinh thái học văn hóa của nhà nhân học Mỹ
Julian Steward để nghiên cứu về những giá trị văn hóa sinh thái của người
Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì đáp ứng được những yêu
cầu về lý luận và thực tiễn của đề tài, góp phần làm rõ hơn về văn hóa sinh
thái các tộc người ở Việt Nam.
Khái niệm văn hóa sinh thái:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
16
Văn hóa sinh thái là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời
sống, nhưng để có thể hiểu “văn hóa sinh thái” là gì trước tiên chúng ta cần
phải hiểu rõ về “văn hóa” và “sinh thái”.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều những định nghĩa, quan niệm khác
nhau về văn hóa. Mỗi một định nghĩa, quan niệm về văn hóa đó được các học
giả đưa ra khi xem xét văn hóa gắn liền với một lĩnh vực cụ thể, nhất định.
Chính vì vậy việc đưa ra một định nghĩa chung nhất, khái quát nhất về văn
hóa là vô cùng khó bởi lẽ văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực trong đời sống. Dưới
góc độ triết học: “Văn hóa được xem là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội và
tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”.
Ở Việt Nam, trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa, GS.Trần
Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình”. [12; tr.10]
Văn hóa được xem là những giá trị, bao gồm cả giá trị vật chất hoặc tinh
thần được con người tích lũy và sáng tạo trong hoạt động sống, thích ứng với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Con người vừa là chủ thể, vừa là
khách thể của văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được con người tạo ra nhằm
mục đích phục vụ cho chính cuộc sống của con người.
Như vậy, hiểu theo một cách khái quát nhất: “Văn hóa là những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống
nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người. Các giá trị văn hóa được
lưu giữ và truyền thụ từ đời này qua đời khác”.
Còn “Sinh thái” trong tiếng Hi Lạp là “Oikos” có nghĩa là nhà ở, nơi cư
trú, nơi sinh sống của mọi sinh vật, trog đó có cả con người. Môi trường sinh
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
17
thái chính là ngôi nhà của các loài sinh vật, là môi trường sống. Dưới góc độ
sinh thái học, môi trường sinh thái bao gồm các yếu tố: Thổ quyển, thủy
quyển, khí quyển và các loài sinh vật. Đây là những yếu tố quan trọng không
thể thiếu trong một hệ sinh thái.
Từ sự tìm hiểu về “văn hóa” và “sinh thái” có nhiều quan niệm về văn
hóa sinh thái khác nhau được đưa ra:
Một cách khái quát có thể hiểu: “Văn hóa sinh thái là tất cả những giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và
cải biến tự nhiên nhằm tạo ra một môi trường sống tốt hơn”.
Theo TS. Trần Thị Hồng Loan: “Văn hóa sinh thái là toàn bộ những
phương thức và những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo,
tích lũy và phát triển trong quá trình ứng xử với các loài sinh vật khác, nhằm
tác động và cải biến tự nhiên vì sự tồn tại của cả con người và giới tự nhiên ở
cả hiện tại và tương lai. Nó được thể hiện thông qua trình độ nhận thức của
con người về môi trường tự nhiên, tình yêu sâu đậm cũng như qua những
hành vi của họ đối với tự nhiên trong hoạt động thực tiễn của chính bản thân
con người”. [14; tr.50]
Trước hết, văn hóa sinh thái được hiểu là những sản phẩm vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến tự
nhiên. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển của tự nhiên, con người
cũng giống như vô vàn các loài sinh vật khác trên trái đất mối tồn tại và phát
triển thì không thể không có mối liên hệ nào với tự nhiên. Những nhu cầu cơ
bản nhất của con người như được ăn, uống cũng cần có sự tác động đến tự
nhiên. Cùng với sự phát triển của con người, đã có giai đoạn con người quan
niệm rằng mình là bá chủ của muôn loài, là kẻ thống trị giới tự nhiên bằng
những hoạt động, những tác động vào môi trường tự nhiên một cách thái quá,
con người cho rằng tự nhiên phải khuất phục trước trí tuệ của con người.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
18
Nhưng không, đó là một trong những quan niệm hết sức sai lầm của con
người trong mối quan hệ với tự nhiên. Sớm nhận thức được tầm quan trọng
của tự nhiên và sợi dây liên kết giữa con người và tự nhiên, những cư dân
phương Đông hiểu rằng con người không phải là bá chủ vạn vật, là kẻ thống
trị tự nhiên mà con người chỉ là một phần của tự nhiên mà thôi. Lịch sử Triết
học phương Đông đã cho thấy các học thuyết như: “Tam tài”, “Thiên – Nhân
hợp nhất”… chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa con người với môi trường tự
nhiên. Con người phụ thuộc vào thiên nhiên, khai thác và cải tạo tự nhiên theo
mục đích của cuộc sống và hướng tới một môi trường sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, chính trong quá trình tác động vào tự nhiên, con người đã
không ngừng cải biến tự nhiên theo mục đích có lợi nhất cho mình. Qua đó
con người sáng tạo ra các giá trị vât chất và tinh thần khác nhau. Các giá trị
này một mặt đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của con người, mặt khác thể
hiện sự hiểu biết và cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên. Văn
hóa sinh thái xét về nguồn gốc chính là sự sáng tạo của con người trong quá
trình tác động và cải tạo tự nhiên vì sự tồn tại và phát triển của chính con
người. Văn hóa sinh thái được thể hiện thông qua chính trình độ nhận thức
của con người đối với tự nhiên, qua những hành vi ứng xử của con người với
tự nhiên.
Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động, tác động của con người cải biến
môi trường tự nhiên đều trở thành giá trị văn hóa sinh thái. Những giá trị văn
hóa sinh thái được hình thành và lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác tự chứng minh được sự tốt đẹp của nó cũng như sự cần thiết đối với
cuộc sống của con người. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải
tương đối ổn định, thể hiện được bản sắc của tộc người thông qua cách ứng
xử với môi trường tự nhiên.
1.1.2 Đặc trưng của văn hóa sinh thái
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
19
Văn hóa sinh thái cũng như văn hóa nói chung mang trong mình những
đặc trưng cơ bản:
Tính sáng tạo là đặc trưng thứ nhất của văn hóa sinh thái. Tính sáng tạo
của văn hóa sinh thái cũng như của văn hóa mà nói thì đây là đặc tính cốt lõi
nhất. Trong hoạt động cải biến tự nhiên phục vụ mục đích sống, con người
với tư duy đã sáng tạo ra các cách thức nhằm thích nghi với môi trường tự
nhiên. Con người có tư duy không ngừng sáng tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần, điều này đem đến sự thích nghi cao nhất với tự nhiên, đem lại lợi
ích cho cuộc sống của con người. Những sáng tạo này đã hình thành nên các
giá trị văn hóa sinh thái.
Tính nhân văn là đặc trưng thứ hai của văn hóa sinh thái. Tính nhân văn
được thể hiện thông qua hoạt động, hành vi của con người tác động vào môi
trường tự nhiên. Trong quá trình sống con người không ngừng khai thác và
tác động vào tự nhiên. Những hoạt động mang tính quá mức làm hủy hoại
môi trường tự nhiên, môi trường sống của các loài là trái với tính nhân văn.
Mọi hoạt động khai thác tự nhiên đều phải có một điểm dừng, phải có một
giới hạn. Nếu vượt quá giới hạn là điều không thể chấp nhận, nó sẽ gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực đến tự nhiên. Thông qua các giá trị văn hóa sinh
thái, con người điều chỉnh được các hành vi, sự tác động của mình vào tự
nhiên khiến cho những hoạt động đó không đi quá mức cho phép, đảm bảo
môi trường được bảo vệ. Tính nhân văn của văn hóa sinh thái được thể hiện
qua đó.
Tính dân tộc cũng là một đặc trưng của văn hóa sinh thái. Tính dân tộc
trong văn hóa sinh thái mang những bản sắc riêng của từng dân tộc được thể
hiện thông qua cách ứng xử của con người với tự nhiên, thông qua những giá
trị vật chất và tinh thần được hình thành và lưu giữ, trao truyền qua nhiều đời,
nhiều thế hệ. Mỗi một tộc người lại có những cách ứng xử với môi trượng tự
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
20
nhiên khác nhau, thể hiện trình độ nhận thức của tộc người đó trong việc khai
thác và tận dụng tự nhiên.
Tính trường tồn là đặc trưng thứ tư của văn hóa sinh thái. Những giá trị
văn hóa sinh thái được hình thành từ rất lâu, trải qua thử thách với thời gian,
những giá trị nào mang tính tốt đẹp, thực sự hữu ích với cuộc sống của con
người sẽ được lưu giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ. Chính sự lưu giữ và
trao truyền qua nhiều thế hệ tạo nên sự ổn định tương đối của các giá trị văn
hóa sinh thái. Tính trường tồn của văn hóa sinh thái giúp tạo ra sự đan xen
giữa những giá trị truyền thống và hiện đại giúp cho con người kế thừa truyền
thống, từng bước cải tiến và sáng tạo ra những giá trị mới thích hợp với từng
thời đại.
1.1.3 Cấu trúc của văn hóa sinh thái
Văn hóa là một chỉnh thể phức tạp gồm đa dạng các thành tố. Tùy theo
việc phân chia theo những tiêu chí khác nhau mà có sự nhận diện về cấu trúc
của văn hóa theo các cách khác nhau. Văn hóa sinh thái cũng vậy, dưới các
góc độ khác nhau sẽ có các cấu trúc văn hóa sinh thái tương ứng.
Từ góc độ hình thái giá trị, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái vật thể
- Văn hóa sinh thái phi vật thể
Từ góc độ xã hội học, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái cá nhân
- Văn hóa sinh thái cộng đồng
Từ góc độ lịch sử, cấu trúc của văn hóa sinh thái bao gồm:
- Văn hóa sinh thái truyền thống
- Văn hóa sinh thái hiện đại
Giáo sư Trần Ngọc Thêm xem xét văn hóa dưới góc độ văn hóa ứng xử
đã đưa ra các cấu trúc văn hóa sau:
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
21
Văn hóa ứng xử
Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên Văn hóa ứng xử với môi trường
xã hội
Văn hóa tận dụng
môi trường tự nhiên
Văn hóa ứng phó với
môi trường tự nhiên
Văn hóa tận
dụng môi
trường xã hội
Văn hóa ứng
phó với môi
trường xã hội
Như vậy, cấu trúc văn hóa của Giáo sư Trần Ngọc Thêm có thể xem là
một cấu trúc văn hóa sinh thái. Theo đó, Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã chỉ rõ
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người là một phần của giới tự
nhiên. Sự tận dụng và ứng phó với môi trường tự nhiên của con người được
thể hiện trong cơ cấu bữa ăn, kiến trúc ngôi nhà ở, phương thức sản xuất, các
tập quán sinh hoạt… cũng chính là những biểu hiện của các giá trị văn hóa
sinh thái.
Từ việc tìm hiểu cấu trúc văn hóa sinh thái dưới các góc độ khác nhau
cho thấy cấu trúc văn hóa sinh thái dưới góc độ hình thái giá trị phù hợp với
hướng tiếp cận của đề tài trong việc phân tích và đánh giá các giá trị văn hóa
sinh thái của người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội.
Văn hóa sinh thái vật thể bao gồm:
Kiến trúc: Khi thiết kế và xây dựng các công trình kiến trúc, con người
bao giờ cũng phải chú ý đến một số điểm cơ bản như: đặt hướng chính, hình
dáng tổng thể, thiết kế xung quanh, trang trí nội thất, kết cấu vật liệu... sao
cho phù hợp với điều kiện địa lý, mặt bằng xây dựng, điều kiện về khí hậu,
ánh sáng,... và còn phải tạo ra được sự tương xứng cân đối, hài hòa giữa các
công trình đó với cảnh quan xung quanh như một chỉnh thể thống nhất.
Những công trình này không những phải đúng, bền về nội dung mà còn phải
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
22
đẹp, hài hòa về hình thức. Các công trình kiến trúc là sản phẩm vật chất phản
ánh một cách rõ nét nhất giá trị văn hóa sinh thái của con người thông qua
việc thích nghi với môi trường tự nhiên. Con người tạo ra những công trình
kiến trúc là nơi ở, nơi trú ngụ tranh mưa nắng, những tác động của tự nhiên.
Đây vừa là cách thức con người tận dụng tự nhiên ở chỗ lấy các nguyên vật
liệu xây dựng từ thiên nhiên mà còn là cách ứng phó với những khó khăn,
thiên tai mà tự nhiên đem đến cho con người. Những kiến trúc do con người
tạo ra dần không chỉ để ở mà còn có nhiều chức năng khác nữa. Nhưng điều
quan trọng nhất để tạo ra một kiến trúc tốt đó là sự hòa hợp với thiên nhiên.
Trang phục: Có thể nói trang phục là một trong những hình thức biểu
hiện rõ nhất của văn hóa sinh thái. Các hình thức trang phục đã thể hiện được
sự hiểu biết về môi trường và khả năng vận dụng những điều kiện cụ thể của
môi trường vào công việc thiết kế trang phục của con người. Trang phục được
sáng tạo và thiết kế phải vừa phù hợp với hoàn cảnh vừa tạo điều kiện tốt
nhất, thoải mái, dễ chịu nhất trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong các
hoạt động khác. Không chỉ có vậy, trang phục còn thể hiện rõ khả năng thẩm
mỹ, sự sáng tạo và sự khéo léo của con người, hướng đến sự hòa hợp với
thiên nhiên. Trang phục không chỉ để bảo vệ, để che đi phần thân thể nhạy
cảm khi con người ý thức được về cái tôi tự trọng của mình mà nó còn thể
hiện được cái đẹp về hình thức bên ngoài và cái đẹp trong tâm hồn của mỗi
con người. Việc con người sử dụng các chất liệu từ thiên nhiên, thiết kế trang
phục và màu sắc thích hợp cho thây sự hài hòa giữa con người và tự nhiên.
Dược liệu: Đây cũng là một trong những giá trị của văn hóa sinh thái,
thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên. Tự nhiên không
chỉ cung cấp nguồn lương thực, dinh dưỡng cho con người, cung cấp cho con
người nguyên vật liệu làm nhà…mà với sự phong phú, đa dạng của thực vật
đã trở thành một kho thuốc quý báu giúp con người tồn tại, chống lại được
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
23
nhiều căn bệnh. Trải qua những quá trình lâu dài nghiên cứu, sử dụng thử
nghiệm trong cuộc sống con người đã biết được công dụng của các loài thảo
mộc, thực vật có ích trong việc chữa bệnh. Con người ngày càng biết được
nhiều tính năng, công dụng của nhiều loại động, thực vật khác nhau, và từ đó
vận dụng những động, thực vật này vào trong lĩnh vực y học để bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Con người cần phải nhận thức được rằng,
nguồn dược liệu không phải là vô tận nên bên cạnh việc khai thác, sử dụng nó
một cách hợp lý, phải có ý thức tái tạo lại những dược liệu đó trong chừng
mực. Những giá trị văn hóa sinh thái giúp con người nhận thức được điều này
và có những hành động thiết thực hơn với tự nhiên.
Ẩm thực: Việc con người lấy các sản vật từ tự nhiên làm thức ăn đã diễn
ra từ ngàn đời nay, ngay từ khi lịch sử loài người bắt đầu. Hầu hết các thức ăn
của con người đều là dạng vật chất tự nhiên được khai thác từ môi trường
sống. Nhưng mỗi tộc người sinh sống tại các khu vực, các vùng lãnh thổ khác
nhau lại có văn hóa ẩm thực khác nhau. Sở dĩ như vậy bởi họ chịu tác động,
ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến đời sống sinh hoạt của mình. Điều đó
chi phối cách thức chế biến các món ăn cũng như giới hạn các sản phẩm khai
thác từ thiên nhiên theo các khu vực nhất định. Điều này lý giải sự khác nhau
về khẩu vị của cư dân các vùng khác nhau, cũng giống như việc cư dân vùng
biển chủ yếu ăn hải sản, ăn cay và chua. Còn cư dân vùng núi chủ yếu ăn các
loài thực vật, động vật trong rừng…
Đồ dùng sinh hoạt: Công cụ lao động cũng là một nhân tố không thể
thiếu trong hoạt động cải tạo tự nhiên của con người, và trình độ của công cụ
lao động sẽ góp phần quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Công cụ lao động
được tạo ra ngày càng hữu hiệu trong việc cải tạo, khai thác tự nhiên cho thấy
sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Nhưng không phải như vậy mà
con người lạm dụng khoa học vào khai thác tự nhiên một cách ồ ạt. Cần có sự
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
24
điều chỉnh sao cho hài hòa, vừa khai thác vừa bảo vệ và xây dựng lại hướng
tới sự phát triển bền vững.
Văn hóa sinh thái phi vật thể bao gồm:
Đạo đức sinh thái: Đạo đức sinh thái là những quan niệm, những cách
thức ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường sống xung
quanh họ. Đạo đức sinh thái có vai trò đặc biệt quan trọng, nó điều chỉnh hành
vi của con người, xã hội loài người đối với tự nhiên. Mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên là vô cùng mật thiết và sâu sắc, dựa trên cơ sở nền tảng là
nhu cầu và lợi ích. Đạo đức sinh thái của một tộc người, một nhóm xã hội trở
nên đúng đắn nếu như nó được hình thành xuất phát trên cơ sở đảm bảo lợi
ích của cả tự nhiên và con người. Việc lạm dụng tự nhiên phục vụ cho lợi ích
của con người là trái với đạo đức sinh thái, vi phạm đọa đức sinh thái.
Phong tục, tập quán sinh thái: Phong tục, tập quán, thói quen, lối sống
của một tộc người là thứ đã được hình thành từ rất lâu. Nó có thể được ghi
chép cụ thể hoặc không nhưng trong cộng đồng người mà nó tồn tại, tất cả
mọi thành viên đều mặc định phải tuân theo. Phong tục, tập quán sinh thái
cũng gắn liền với cộng đồng, nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi thành viên
trong cộng đồng đó. Phong tục tập quán sinh thái của một cộng đồng phải phù
hợp với môi trường tự nhiên hay chính xác hơn là do điều kiện tự nhiên quy
định. Biểu hiện của phong tục, tập quán sinh thái là những quy định, những
điều cấm kỵ con người không được làm với tự nhiên. Các phong tục tập quán
đó đã góp phần định hướng những hành vi và cách ứng xử của con người với
tự nhiên, thể hiện rõ văn hóa sinh thái của cộng đồng.
Nghệ thuật dân gian: Nghệ thuật là một hình thức biểu hiện của văn
hóa. Trong các tác phẩm nghệ thuật dân gian, yếu tố văn hóa sinh thái được
thể hiện thông qua các tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học có sự sáng
tác, ghi chép lại đều thể hiện tâm tư, tình cảm của con người đối với tự nhiên.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
25
Chủ đề về tình yêu lứa đôi ít thấy trong các tác phẩm văn học dân gian nhưng
chủ đề về thiên nhiên, môi trường lại xuất hiện rất nhiều. Trong các thể loại
như truyện cổ tích, thần thoại, thơ ca… hình ảnh thiên nhiên và cách ứng xử
của con người đối với tự nhiên luôn được khắc họa, lột tả chân thực. Bởi lẽ,
trong thời kỳ đầu khi xã hội chưa đạt đến trình độ phát triển, con người chưa
trinh phục được các thửu thách của tự nhiên thì tự nhiên trở thành các thế lực
siêu nhiên, thần thánh mà con người phái tôn thờ, khuất phục. Các tác phẩm
văn học nghệ thuật không chỉ thể hiện sự hiểu biết của con người về tự nhiên
mà còn đánh dấu khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Mặt khác, với
hình thức biểu đạt sinh động nhưng cũng đầy chất tư duy, trừu tượng, các thể
loại văn học, nghệ thuật dân gian truyền tải các gái trị văn hóa sinh thái đến
với người tiếp nhận một cách hết sức gần gũi, thân thuộc. Chính vì thế, nghệ
thuật dân gian góp phần gìn giữ và lưu truyền các giá trị văn hóa sinh thái.
Tín ngưỡng, lễ hội dân gian: Việt Nam là một đất nước nông nghiệp.
Việc phải phụ thuộc vào thiên nhiên trong hoạt động nông nghiệp từ sớm đã
hình thành trong tâm thức người Việt tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh.
Người Việt quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự sống và linh
hồn. Khi những thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán ập đến làm cho mùa màng bị
ảnh hưởng mà con người vẫn chưa giải thích được các hiện tượng đó một
cách khoa học thì họ trở nên tôn thờ các hiện tượng tự nhiên. Họ tôn thờ mây,
mưa, sấm chớp… Nhưng xét về bản chất thì đây chính là việc con người
không thể đối đầu với tự nhiên. Các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên được ra đời.
Tín ngưỡng và lễ hội là hai thành tố không thể tách rời, chúng thường song
hành cùng với nhau. Các tín ngưỡng, lễ hội có nội dung hướng về thiên nhiên
thể hiện sự tôn trọng của con người đối với tự nhiên, không những thế nó còn
thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
26
Như vậy, dù được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng
những giá trị văn hóa sinh thái luôn được lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác trong một cộng đồng người. Các giá trị văn hóa sinh thái được
hình thành qua chính kinh nghiệm sống của con người, nó thể hiện sự hiểu
biết của con người với tự nhiên, khả năng chinh phục tự nhiên của con người
nhưng nó cũng là những quy chuẩn, là thước đo giới hạn điều chỉnh những
hành vi của con người nhằm duy trì mối quan hệ tương hỗ, hướng đến lợi ích
chung cho cả con người và tự nhiên.
1.2 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC
GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI.
1.2.1 Lịch sử người Dao Quần Chẹt tại Vườn quốc gia Ba Vì – xã Ba
Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội
Người Dao hay còn gọi là Mán, Động, Dạo, Kiềm Mùn, Kiềm Miền…
sinh sống tại nhiều tỉnh thành trên khắp nước Việt Nam. Các tên goi như
Mán, Dạo, Xá… là tên gọi dân gian của các tộc người khác gán cho người
Dao. Các tên gọi này có ý miệt thị, dành cho người của những dân tộc bị coi
là man ri, không thuộc vùng sinh sống của người Hán tại Trung Quốc.
“Động” là tên được dùng phổ biến của người Dao ở các tỉnh miền núi phía
Bắc trước đây. “Động” là tên gọi của một đơn vị cư trú trước đây của người
Dao giống như làng của người Kinh. Tên “Dào” hay “Dạo” là sự goi chệch
của từ “Dao” mà thành. Tên “Xá” chỉ thấy ở Yên Bái và Lào Cai, một bộ
phận Dao quần trắng có tên là “Xá họ”. Tên gọi “Mán” là từ chữ “Man” trong
tiếng Hán mà ra. Nhìn chung các tên gọi như Mán, Dạo, Xá… là các tên gọi
phiếm xưng mang tính chất miệt thị.
Tên tự nhận của người Dao là “Kiềm Miền” hay “Kiềm Mùn”. “Kiềm” có
nghĩa là rừng, còn “Miền” hay “Mùn” có nghĩa là người. “Kiềm Miền”, “Kiềm
Mùn” được hiểu là “Người ở rừng”. Tên gọi này cũng chỉ là cách gọi phiếm
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
27
xưng rất chung chung bởi lẽ người cư trú ở khu vực rừng núi không chỉ có người
Dao mà còn có nhiều tộc người khác. Ở nước ta cũng có nhièu trường hợp tên
gọi như vậy như: Vân-kiều, Bru, Xinh mun… Trong nhiều thư tịch, sách cổ ngữ
của Trung quốc có đề cập đến tên “Dao” như trong Quế Hải Ngu Hành Chí có
viết: “Người Dao vốn là dòng dõi Bàn Hồ ở Ngũ Khê…” hay trong Lĩnh Ngoại
Đại Đáp viết: “Người Dao có nhiều thôn lạc, mạnh nhất là người Dao la man,
người Ma viên… Hang núi càng xa thì người Dao càng nhiều”.
Như vậy tên Dao là tên tự nhận của người Dao, nó gắn liền với lịch sử
hình thành của dân tộc Dao. Ở Việt Nam hiện nay, tên “Dao” đã được thống
nhất gọi chung cho người Dao, trong đó lại có các nhóm Dao khác nhau cư
trú tại các khu vực khác nhau trên nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Về nguồn gốc của dân tộc Dao, cho đến nay người Dao vẫn lưu truyền
truyền thuyết về “Bàn Hồ” hay “Bàn Vương”. Chuyện Bàn Hồ không chỉ là
câu chuyện truyền miệng mà nó còn được ghi chép trong rất nhiều những
cuốn “Bảng văn” và trong các sách cúng của người Dao:
“Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen, vằn vàng,
mướt như nhung, từ trên trời giáng xuống được Bình Hoàng yêu quý nuôi
trong cung. Một hôm Bình Hoàng nhận được chiến thư của Cao Vương, nên
đã cho họp bàn bá quan văn võ để tính kế tiêu diệt Cao Vương nhưng không
ai hiến được kế sách gì. Trong khi đó, Bàn Hồ từ trong cung điện nhảy ra sân
rồng quỳ lạy xin được đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ đi, Bình Hoàng
có hứa nếu giết được Cao Vương sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ bơi qua biển
bày ngày bảy đêm mới tới nơi Cao Vương ở. Cao Vương thấy con chó đẹp
đến phủ phục dưới sân rồng thì cho là điềm lành nên đem vào cung nuôi.
Nhân một hôm Cao Vương uống rượu say, Bàn Hồ cắn chết Cao Vương rồi
ngoạm lấy đầu Cao Vương đem về báo công với Bình Hoàng.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
28
Bàn Hồ lấy được công chúa đem vào núi Cối Khê (Chiết Giang) ở,
không lâu sau vợ chồng Bàn Hồ sinh được 6 con trai và 6 con gái. Bình
Hoàng ban cho 12 người con của Bàn Hồ thành 12 họ khác nhau. Riêng
người con cả được lấy họ cha, các con thứ lấy tên làm họ gồm: Bàn, Lan,
Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu
Bàn Vương sinh sôi ngày càng nhiều, cho đến đời Hồng Vũ (khoảng cuối thế
kỷ XIV) do hạn hán kéo dài suốt ba năm không có gì để ăn, nhà vua phải cấp
cho con cháu Bàn Vương mỗi người một cái búa, một con dao quắm để đốn
cây rừng làm rấy. Con cháu Bàn Vương phát hết núi của vua nên vua lại phải
sắc cấp để phân tán đi các nơi kiếm ăn”.
Như vậy, Bàn Hồ chỉ là một nhân vật huyền thoại truyền thuyết nhưng
lại được người Dao thừa nhận là “ông tổ” và thờ tự rất tôn nghiêm. Qua
truyền thuyết trên ta cũng phần nào hiểu được về lịch sử phát triển của người
Dao và các cuộc thiên di của họ đến các khu vực khác để sinh sống. Người
Dao ở Việt Nam có thể khẳng dịnh rằng họ có nguồn gốc từ Trung Quốc di cư
đến nước ta. Thời điểm chính xác khi người Dao di cư đến Việt Nam cho đến
nay vẫn chưa thể khẳng định được. Có nhiều tài liệu cho rằng người Dao đã
đến Việt Nam rất sớm từ khoảng thể kỷ thứ XII, XIII. Nhưng bên cạnh đó
nhiều tài liệu lại đưa ra những bằng chứng chứng minh người Dao di cư đến
Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XVII.
Người Dao Quần Chẹt hiện nay sinh sống tại Yên Bái, Hòa Bình, Hà
Nội, Tuyên Quang đã từ Quảng Đông (Trung Quốc) vào Vĩnh Phúc nước ta
rồi di cư đến các địa điểm trên. Tên gọi Dao Quần Chẹt còn gắn liền với một
truyền thuyết cổ: “Ngày xưa có một cô gái người Dao, mẹ bị ốm nặng nên cô
phải vào rừng tìm thuốc cứu mẹ. Cô lặn lội trong rừng sâu tìm hái thuốc cho
mẹ, khi đã tìm được thuốc quay trở về thì cô bị cây rừng, dây gai vướng vào
váy không sao đi về nhanh được. Khi về được đến nhà thì mẹ cô đã chết. Cô
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
29
đau khổ và thề sẽ không bao giờ mặc váy nữa”. Từ đó, người phụ nữ Dao
nhóm này mặc quần hẹp bó sát chân dài đến mắt cá, gấu có thêu hoa văn.
Ba Vì là một vùng đất có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa
dạng, thuận lợi cho việc mưu sinh nên người Dao Quần Chẹt đã đến đây sinh
sống. Hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào ghi chép chính xác thời gian
người Dao đặt chân đến Ba Vì – Hà Nội. Toàn xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà
Nội có sáu họ người Dao là: Triệu, Bàn, Lý, Dương, Phùng, Đặng. Ban đầu
chỉ có vài hộ gia đình, cho đến khi thành lập xã Ba Vì năm 1948 cả xã đã có
25 hộ sinh sống. Năm 1963 người Dao Quần Chẹt bắt đầu định canh định cư,
đến năm 1967 đã ổn định cuộc sống, toàn xã lúc này có khoảng 70 hộ dân.
Hiện nay toàn xã Ba Vì có 461 hộ dân phân bố trong ba thôn là: Yên Sơn,
Hợp Sơn và Hợp Nhất. Toàn xã Ba Vì có gần hai nghìn người sinh sống gồm
ba dân tộc chính là Dao, Kinh và Mường. Trong đó người Dao chiếm 98%,
còn lại là người Mường và người Kinh.
Người Dao Quần Chẹt tại khu vực xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội có
tập quán sống thành thôn, làng. Trong cộng đồng người Dao Quần Chẹt,
những gia đình cùng họ thường có xu hướng liên kết, xích lại gần nhau.
Người Dao Quần Chẹt có truyền thống đoàn kết trong sinh hoạt, các gia đình
trong thôn, làng tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong các công việc lớn nhỏ
như ma chay, cưới xin, xây nhà… Theo quan niệm của người Dao Quần Chẹt,
cứ từ ba đến năm nóc nhà tạo thành một làng. Trước đây, người Dao Quần
Chẹt sinh sống thành các làng ở lưng chừng vùng núi Ba Vì có độ cao khoảng
từ 200m đến 1000m. Hiện nay, người Dao Quần Chẹt đã sinh sống định cư ở
vùng chân núi Ba Vì, có sự xen kẽ với các tộc người khác như người Kinh,
người Mường nhưng họ chỉ là số ít, còn người Dao Quần Chẹt có số lượng
đông hơn.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
30
Người Dao Quần Chẹt cũng có các phong tục tập quán giống với các
nhóm Dao khác như Lễ cấp sắc, lễ Tết nhảy. Lễ cấp sắc là một trong những
nghi lễ quan trọng của người Dao Quần Chẹt. Người Dao Quần Chẹt quan
niệm rằng người con trai dù có lớn khôn, có lấy vợ sinh con mà chưa qua lễ
cấp sắc thì vẫn không được coi là người lớn, không được tham gia bàn bạc
các công việc quan trọng của làng và khi chết không được về với tổ tiên,
không phải là con cái Bàn Vương. Lễ cấp sắc được tổ chức cho con trai 14, 15
tuổi. Khi tổ chức xong lễ cấp sắc người con trai mới được lấy vợ, mới có tên
âm. Nhưng đồng bào người Dao Quần Chẹt chỉ tổ chức lễ cấp sắc khi người
đàn ông đã có vợ. Lễ cấp sắc là một lễ lớn nên việc tổ chức rất cầu kỳ và cần
có điều kiện về kinh tế gia đình mới làm lễ cấp sắc.
Lễ Tết nhảy hay còn gọi là lễ Nhảy lửa của người Dao Quần Chẹt không
có thời gian tổ chức cố định. Việc tổ chức lễ tết nhảy tùy thuộc vào gia đình
có người con trai lấy vợ cúng Bàn Vương, hứa đến khi nào tổ chức lễ Tết
nhảy để tạ ơn Bàn Vương. Lễ Tết nhảy không chỉ có các thành viên trong gia
đình tham gia mà còn có sự góp mặt của những gia đình trong làng được mời,
đặc biệt không thể thiếu một nhân vật quan trọng đó là thầy cúng, thầy mo.
Trong lễ Tết nhảy có sự tham gia của hai thầy cúng, một người cúng còn một
người nữa nhảy múa. Lễ Tết nhảy là một hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo
của người Dao nói chung và người Dao Quần Chẹt nói riêng, có sự kết hợp
của các yếu tố nghệ thuật dân gian, tín ngưỡng và tôn giáo.
1.2.2 Khái quát về địa bàn sinh sống của người Dao Quần Chẹt
Xã Ba Vì là một xã miền núi nằm dưới chân núi Ba Vì thuộc huyện Ba Vì.
Phía đông giáp xã Vân Hòa phía bắc giáp xã Tản Lĩnh, Ba Trại. Phía tây giáp xã
Minh Quang, Khánh Thượng. Phía Nam là núi Ba Vì. Với tổng diện tích tự
nhiên là 2538,01 ha, dân số chiếm 98% là người đồng bào Dao Quần Chẹt.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
31
Xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Ba
Vì. Ngày 16 tháng 01 năm 1991, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Nay là Chính
phủ) ban hành Quyết định số 17/CT phê duyệt luận chứng kinh tế thành lập
khu rừng cấm quốc gia Ba Vì. Đến ngày 18 tháng 12 năm 1991 Chủ tịch Hội
đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 407/CT về việc
đổi tên rừng cấm quốc gia Ba Vì thành Vườn quốc gia Ba Vì. Tháng 5 năm
2003 Vườn quốc gia Ba Vì được Chính phủ quyết định mở rộng quy hoạch
sang tỉnh Hoà Bình. Hiện nay, tổng diện tích của vườn 10.814,6 ha thuộc địa
giới hành chính của 16 xã thuộc 3 huyện của thành phố Hà Nội và hai huyện
của tỉnh Hòa Bình cách trung tâm Thủ đô 60 km về phía Tây.
Vườn Quốc gia Ba Vì nằm trong tọa độ từ 20 độ 55′ đến 21 độ 07′ vĩ độ
bắc. Từ 105 độ 16′ đến 105 độ 25′ kinh đông. Bao gồm 3 phân khu là: Phân
khu bảo vệ nghiêm ngặt trên cốt 400 và Phân khu phục hồi sinh thái dưới cốt
400, phân khu dịch vụ hành chính. Vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì có diện
tích trên 35.000 ha thuộc địa phận 16 xã miền núi thuộc huyện Ba Vì, Thạch
Thất, Quốc Oai của Hà Nội và Lương Sơn và Kỳ Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Vườn Quốc gia Ba Vì có chức năng trồng, bảo tồn và phục hồi tài nguyên
thiên nhiên, di tích lịch sử văn hóa, nghiên cứu khoa học kết hợp với du lịch
và học tập. Vườn quốc gia Ba Vì với 3 kiểu rừng: Rừng kín thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới; rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim á
nhiệt đới và kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi thấp.
Núi Ba Vì với 2 đai cao nên hệ thực vật nơi đây khá phong phú và đa dạng, đã
ghi nhận 1209 loài thực vật bậc cao thuộc 99 họ, 472 chi. Nhiều loài cây quý
hiếm như: Bách xanh (Calocedrus marcrolepis), thông tre (Podocarpus
nerrifolius), sến mật, giổi lá bạc, quyết thân gỗ, bát giác liên. Ở Vườn quốc
gia cũng đã thống kê được 503 loài cây thuốc.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
32
Vườn quốc gia Ba Vì là nơi có khí hậu trong lành, mát mẻ, có nhiều
cảnh quan thiên nhiên ngoạn mục với nhiều con suối bắt nguồn từ núi rừng
Ba Vì quanh năm nước chảy như Thiên sơn – suối Ngà, Ao Vua, Khoang
Xanh, hồ Tiên Sa. Đây còn là nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hóa như: đền
Thượng, đền Trung, đền Hạ đền thờ Bác Hồ, tháp Báo Thiên, động Ngọc
Hoa.. Chính những điều kiện trên đã tạo nên cho Vườn quốc gia Ba Vì từ lâu
đã thành một nơi nghỉ mát vùng núi cao lý tưởng của cả nước.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
33
Chương 2
GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ – HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
2.1 GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI VẬT THỂ
2.1.1 Nhà ở
Nhà ở cổ truyền, nhà ở truyền thống của các dân tộc nói chung và của
người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội nói riêng được coi là
một trong những đối tượng nghiên cứu phức tạp và quan trọng nhất trong
nghiên cứu văn hóa sinh thái vật chất. Hơn nữa, để có thể làm rõ mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, yếu tố và các giá trị văn hóa sinh thái tộc người
thể hiện trong kiến trúc ngôi nhà thì việc nghiên cứu không thể tách rời điều
kiện khách quan đã tác động đến nó như: điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa,
các tập tục cổ truyền…
Người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội là một cộng
đồng riêng biệt. có tập quán sống thành từng làng, thôn. Theo quan niệm của
họ, cứ ba nhà tạo thành một làng, chỉ cần cư trú trên một khu vực nhất định là
tạo thành làng. Tính cộng đồng, tương trợ lẫn nhau trong làng xã người Dao
Quần Chẹt rất cao, họ giúp đỡ lẫn nhau những khi có khó khăn hoạn nạn hoặc
trong những dịp có công việc lớn như ma chay, cưới hỏi, dựng nhà… Người
Dao Quần Chẹt ở Ba Vì sinh sống ở vùng giữa và vùng cao suốt từ chân núi
lên đến đỉnh núi Ba Vì. Phần lớn những gia đình người Dao Quần Chẹt cùng
họ có xu hướng thắt chặt quan hệ khăng khít, gần gũi hơn. Bộ máy vận hành
của làng theo chế độ tự quản giống như nhiều tộc người khác ở nước ta., trong
làng có một người đứng đầu là trưởng làng, trưởng bản (chẩu, giằng) do dân
làng bầu chọn. Chẩu – giằng là người có uy tín trong làng, am hiểu các phong
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
34
tục tập quán truyền thống, biết cúng bái. Người này có quyền quyết định cao
nhất trong các hoạt động của làng, đứng ra giải quyết các mâu thuẫn của làng
theo tục lệ.
Có nhiều cách phân loại nhà ở dựa trên các tiêu chí khác nhau, nếu dựa
trên cấu tạo của nền nhà thì nhà của người Dao Quần Chẹt được chia thành ba
loại: nhà nền đất, nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất. Nhà của người Dao Quần
Chẹt thường có kết cấu từ ba đến năm gian, từ hai đến bốn mái, bộ khung
được làm khá vững chắc bằng gỗ, chân cột được kê trên đá tảng, có nhiều loại
mọng. Vì kèo của những nhà này có nhiều cột, kể cả nhưng cột chốn mái có
thể lợp ngói, lợp dạ, lợp bằng ván gỗ. Nhà người Dao Quần Chẹt thường có từ
hai đến ba bếp, ít cửa ra vào và cửa sổ. Cửa lớn thường được mở ở gian chính,
nếu là ba gian thì gian giữa là gian chính. Với nhà năm gian, gian chính
thường là gian thứ ba từ trái sang hoặc từ phải sang. Với nhà sàn, toàn bộ gian
chính có thể cả gian bên cạnh dùng để thờ cúng tổ tiên, tiếp khách, làm nơi
ngủ cho con trai lớn tuổi. Đối với nhà trệt nền đất, gian chính và các gian bên
cạnh thường được ngăn làm hai theo chiều ngang của nhà. Phần trước được
dùng để tiếp khách, thờ cúng, là nơi ngủ của con trai lớn tuổi, phần sau là nơi
ngủ của vợ chồng gia chủ và các thành viên khác. Các kiểu nhà của người
Dao Quần Chẹt cũng được xây dựng dựa trên điều kiện tự nhiên, đất, khí hậu
sao cho thích hợp với loại nhà sàn, nhà nền đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất.
Việc khai thác gỗ và các vật liệu làm nhà là rất vất vả, tốn nhiều công
sức. Người Dao Quần Chẹt khai thác gỗ và nguyên liệu phải vào sâu trong
rừng. Khi tìm được cây gỗ ưng ý người ta dùng rìu chặt hạ cây, thường thì
phải phát quang quanh khu vực thân cây đổ trước đó, phải quan sát hướng địa
hình để chọn khu vực thích họp cho cây đổ. Mùa khai thác nguyên liệu làm
nhà thường trùng với mùa khô cuối năm là thời điểm nông nhàn, đặc biệt là
khai thác các loại cây họ tre, nứa còn phải tránh ngày trăng sáng, không phải
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
35
bất kể ngày nào cũng đi khai thác được. Người Dao Quần Chẹt còn có ngày
kiêng không đi rừng lấy cây gỗ.
Giống như gỗ, các loại cây họ tre nữa như tre gai, mai, vầu, diễn... được
người Dao Quần Chẹt sử dụng không chỉ làm nhà mà còn làm lán, lều trại.
Thời gian khai thác các loại nguyên liệu tre nứa là bất cứ khi nào trong năm
đều có thể được. Người ta quan niệm tre, nứa khai thác vào các ngày không
trăng nghĩa là đầu và cuối tháng âm lịch thì sẽ tốt hơn, không bị mọt. Người
Dao Quần Chẹt chỉ khai thác cây tre, nứa ở các khu rừng non cạnh khu vực
nương rẫy của họ chứ không khai thác trong rừng giá, tránh sự ảnh hưởng tới
sinh thái môi trường. Thông thường để dựng được một ngôi nhà gỗ tương đối
ổn định, chắc chắn người Dao Quần Chẹt phải mất từ hai đến ba năm tìm
nguyên liệu, chuẩn bị các điều kiện vật chất. Qua một thời gian, khi cưa, xẻ
đủ số lượng gỗ dự kiến, đồng thời chuẩn bị xong khả năng kinh tế người Dao
Quần Chẹt mới chọn đất làm nhà bằng cách bói gạo. Việc dựng nhà nhanh
hay chậm,tốn bao nhiêu thời gian phụ thuộc vào quá trình chuẩn bị nguyên
vật liệu xây nhà.
Đối với kiều nhà nền đất (nhà trệt): Nhà nền đất được cất ở nơi tương
đối bằng phẳng dưới chân núi, đôi khi cũng thấy xuất hiện nhà nền đất ở bên
sườn núi dốc. Nguyên vật liệu xây nhà nền đất chủ yếu là gỗ, cây que, các
loại dây rừng, cỏ tranh. Nguồn nguyên vật liệu này có sẵn và được khai thác
từ tự nhiên. Dụng cụ làm nhà rất đơn giản chỉ là cưa, các loại đục, bào. Cách
làm nhà nền đất của người Dao Quần Chẹt gần giống với cách làm nhà của
người Mông. Tường được trình bằng đất hoặc thưng ván, mái nhà được lợp
bằng cỏ, rơm rạ hoặc ngói âm dương. Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo
khá đơn giản. Thông thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang
và một bộ kèo đơn.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
36
Mặt cắt nền nhà đất
Chú thích:
1: Cửa chính
2: Lối ra vào gian bếp
3: Cửa phụ
4: Bàn thờ tổ tiên
5: Bàn tiếp khách
6: Tủ
7: Giường ngủ của con trai
8: Giường ngủ của khách
9: Bếp nấu ăn
10: Buồng ngủ của vợ chồng gia chủ
11: Buồng ngủ của vợ chồng trẻ
13: Trạn bát
14: Nơi dự trữ lương thực
15: Máng nước
Nhà nửa sàn nửa đất: Đây là kiều nhà được xây dựng dựa trên việc lợi
dụng địa thế đất dốc, không bằng phẳng. Phần nền đất của ngôi nhà được dựa
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
37
vào núi, phần sàn được làm bằng gỗ hoặc tre, có nhà được làm từ hai đến ba
tầng, cầu thang được bố trí bên trong ngôi nhà. Điều đặc biệt của loại hình
nhà nửa sàn nửa đất này là tận dụng được địa hình, địa thế đất. Đây là kiểu
nhà có kiến trúc khá độc đáo và thú vị của người Dao. Nhà nửa sàn nửa đất
tận dụng tối ưu các đặc điểm, lợi thế của môi trường tự nhiên.
Mặt cắt nền nhà nửa sàn nửa đất
Chú thích:
A: Nền đất, B: Nền sàn
1: Cầu thang
2, 3: Cửa giáp ranh giữa nền sàn và nền đất
8: Phòng ngủ của con trai lớn và
khách nam
9: Phòng ngủ của gia chủ
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
38
4: Bàn thờ tổ tiên
5: Bếp khách
6: Bếp nướng
7: Bàn tiếp khách
10: Phòng ngủ của vợ chồng trẻ
11: Trạn bát
12: Bếp lò
13: Nơi để củi, cối giã gạo
14: Sàn phơi, máng nước
Nhà sàn: Nhà sàn của người Dao cũng giống như nhà sàn của nhiều dân
tộc khác từ cách làm đến nguyên vật liệu được chọn. Khung nhà được làm
bằng gỗ, xung quanh thưng ván hoạc tre, vầu, mái lợp gỗ hoặc ngói âm
dương. Cầu thang được đặt bên ngoài ngôi nhà.
Mặt cắt nền nhà sàn
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
39
Chú thích:
1: Cầu thang
2: Cửa chính
3: Bàn thờ
4: Phần dành cho con trai và khách
5: Phần dành cho gia chủ
6: Bếp khách
7: Nơi ngủ của bà hoặc con gái
8: Nơi dành cho con gái lớn hoặc
vợ chồng trẻ
9: Bếp nấu ăn
10: Trạn bát, chum đựng rượu
11: Cối xay
12: Thùng đựng nước rửa chân
13: Sàn phơi
14: Cửa phụ
Người Dao Quần Chẹt không có thợ chuyên làm nhà. Tất cả mọi người
trong thôn xóm đều biết làm mộc, biết làm nhà. Phụ nữ Dao Quần Chẹt không
thua kém gì đàn ông, họ biết sử dụng đục, cưa, bào, đẽo bằng rìu như những
người đàn ông. Khi trong thôn xóm có người xây nhà, tất cả các hộ gia đình
đều cử người đến giúp đỡ. Tập quán tương trợ lẫn nhau đã được người Dao
Quần Chẹt hình thành từ lâu đời trong bất cứ công việc gì nên việc cất nhà
được giúp đỡ nhiệt tình và hoàn thành rất nhanh chóng.
Nhìn chung, với cả ba loại hình nhà ở truyền thống của người Dao Quần
Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội ít nhiều đã phản ánh được điều kiện
địa lý, hoàn cảnh sản xuất và sự giao lưu văn hóa của người Dao Quần Chẹt
với các tộc người khác. Ngôi nhà là một trong những kiến trúc đặc trưng nhất,
thể hiện rõ nét nhất sự thích nghi, tận dụng và ứng phó với môi trường tự
nhiên của con người. Ngôi nhà còn được coi là một phức hợp văn hóa, là sự
kết hợp của các yếu tố kiến trúc, tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo, sinh hoạt…
của con người. Mặc dù có ba loại hình nhà ở khác nhau nhưng với mỗi một
loại hình nhà ở, người Dao Quần Chẹt luôn có thiết kết thuận tiện và hợp lý
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
40
nhất cho những sinh hoạt của các thành viên trong gia đình. Không chỉ có
vậy, bên cạnh kiến trúc nhà sinh hoạt chính, một số ngôi nhà của người Dao
Quần Chẹt còn có các kiến trúc phụ. Vườn trồng rau hay trồng cây thuốc
thường thấy xuất hiện ở nhiều loại hình nhà cả nhà trệt, nhà nửa sàn nửa đất
và nhà sàn. Với loại hình nhà sàn thường ít có chuồng gia súc, thường chuồng
gia súc được đặt dưới gầm nhà sàn. Với loại hình nhà nửa sàn nửa đất và nhà
nền đất (nhà trệt) thì khu vực chường gia súc được xây dựng riêng biệt.
Ngôi nhà của người Dao Quần Chẹt trở thành một không gian văn hóa,
nó là một minh chứng cho những giá trị văn hóa sinh thái của người Dao
Quần Chẹt, thể hiện sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên.
2.1.2 Trang phục
Cùng với nhà ở, trang phục là một trong những hình thức biểu hiện rõ
nét của văn hóa sinh thái. Các hình thức trang phục thể hiện sự hiểu biết về
môi trường và khả năng vận dụng những điều kiện cụ thể của môi trường vào
công việc thiết kế trang phục của con người.
Văn hóa trang phục: là những ý nghĩa, giá trị của văn hóa tộc người
được thể hiện thông qua trang phục. Các thành tố tạo nên văn hóa trang phục
là y phục, đồ trang sức và cách con người lựa chọn, ứng xử với việc sử dụng
chúng. Trong văn hóa trang phục, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ thì
bản sắc dân tộc được thể hiện rõ nét, thường xuyên và lâu bền nhất. Người
Dao Quần Chẹt đã tạo ra những nét văn hóa tiêu biểu và của riêng họ. Một
trong những yếu tố tạo nên đặc trưng của văn hóa Dao Quần Chẹt đó là trang
phục. Trang phục của người Dao Quần Chẹt được đánh giá là thấm đẫm văn
hóa tộc người, là sản phẩm cần thiết đối với đời sống.Trang phục của người
Dao Quần Chẹt chứa đựng những tư tưởng, tình cảm, phản ánh sinh động và
chân thực nhiều khía cạnh của văn hóa tộc người cũng như của đời sống
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
41
người Dao Quần Chẹt. Trên một bộ trang phục đẹp, không thể không nhắc
đến sự kết hợp tài tình giữa hoa văn, họa tiết trang trí và màu sắc trên trang
phục của người thiết kế. Hoa văn là một dạng thức tái hiện các yếu tố tự
nhiên, được ghi chép qua ấn tượng, được sàng lọc và định hình qua tư duy và
được biểu hiện qua xúc cảm thẩm mỹ. Tín ngưỡng và tư duy thẩm mỹ của
người Dao Quần Chẹt luôn gắn với ngũ sắc. Trong quan niệm dân gian của
người Dao Quần Chẹt, ngũ sắc mang tính nguồn gốc thủy tổ của tộc người và
sự may mắn. Màu sắc trên trang phục của người Dao Quần Chẹt thể hiện sự
hòa hợp với môi trường sống, môi trường tự nhiên. Ngũ sắc rở thành màu sắc
chủ đạo được trang trí trên trang phục tạo ra nét độc đáo trong văn hóa mặc
của người Dao Quần Chẹt.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
Trang phục cổ truyền
Thường phục Lễ phục Đồ trang sức
Nam phục
Nữ phục
Y phục
trẻ em
Thầy cúng
Cô dâu
Chú rể
42
Phân loại trang phục của dân tộc
STT Thường phục Lễ phục
Khăn đội đầu Khăn đội đầu
Áo dài Áo dài
Yếm Yếm
Dây lưng Dây lưng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
43
1 Nữ phục Cô dâuXà cạp Xà cạp
Quần Quần
2
Nam phục
Khăn
Chú rể
Khăn
Áo Áo
Quần Quần
3
Y phục
trẻ em
Mũ
Thầy cúng
Mũ, áo dài
Áo Dây lưng
Quần Váy
Các loại trang phục của người Dao Quần Chẹt
Tên gọi Dao Quần Chẹt khiến ta liên tưởng đến bộ trang phục của người
phụ nữ. Trang phục thường ngày của người phụ nữ gôm có khăn đội đầu, áo
dài, yếm, dây lưng, quần và xà cạp. Khăn đội đầu không có hoa văn trang trí,
phải rất khéo léo người phụ nữ Dao Quần Chẹt mới đội lên đầu chiếc khăn có
tạo hình như hai chiếc sừng nhọn hai bên. Sau đó dùng chiếc khăn nhỏ có
thêu hoa văn ở hai đầu để đội bên ngoài, chiếc khăn này được để từ cằm buộc
lên đỉnh đầu. Áo dài của người phụ nữ Dao Quần Chẹt có màu chàm, không
có công thức cắt may nào cụ thể. Nhưng bằng sự khéo léo của mình, khi cắt
may cho ai người đó tự ướm mình vào để biết số lượng vải cần dùng. Hai thân
trước và hai thân sau của áo đều có hoa văn, họa tiết trang trí. Trên áo có
trang trí các hoa văn như xương rồng, cũi lợn, hình cây cối, con người, các
môtip hoa văn hình học, hình chim thú, hình sao tám cánh… Hoa văn trên
trang phục của người Dao Quần Chẹt không được dệt theo vải mà chủ yếu là
họ tự thêu hoặc gắn lên.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
44
Đặc điểm dễ nhận biết trên trang phục của người phụ nữ Dao Quần Chẹt
đó là chiếc quần chỉ dài quá gối một chút và được bó sát. Quần cũng được
nhuộm màu chàm, dưới gấu có thêu hoa văn. Phụ nữ Dao Quần Chẹt chủ yếu
sử dụng các loại trang sức bằng bạc, ít sử dụng đồ trang sức bằng vàng hay đá
quý. Các loại trang sức thường được dùng phổ biến như vòng tay, vong chân,
vòng cổ, nhẫn, khuyên tai.
Sách Sưu thần ký của Cao Bản thời Tấn có ghi chép: “Ngườn Man kéo
vỏ cây lấy sợi, dùng quả nhuộm màu, thích quần áo ngũ sắc…” Như vậy, tư
duy màu sắc gắn liền với nhiều mặt đời sống xã hội của người Dao và nó đã
được xuất hiện trên trang phục của người Dao. Người Dao còn có sự ảnh
hưởng của Nho giáo, nhiều học giả đã đưa ra giả thuyết rằng năm màu trên
trang phục của người Dao là tượng trưng cho ngũ hành, là biểu hiện của Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi sự kết hợp màu và họa tiết trang trí trên trang
phục của người Dao đều mang triết lý của cuộc sống.
Ngoài linh hồn trên thân thể con người, người Dao Quần Chẹt cũng
quan niệm cây cối, sông suối, rừng núi cũng đều có những loại ma riêng.
Những loại ma này cùng với linh hồn của những người chết không bình
thường trở thành ma dữ, thường gây hại cho con người, mùa màng và gia súc
nên đồng bào phải thường xuyên cúng bái. Vì vậy biểu tượng cây cối, sông
nước, rừng núi được biểu hiện khá rõ nét, dày đặc và thành kính trên trang
phục lễ hội, sinh hoạt của người Dao Quần Chẹt cũng như của thầy cúng.
Những biểu tượng đó luôn được người Dao Quần Chẹt trân trọng, trau truốt
mang theo bên mình mọi nơi, mọi lúc.
Cuộc sống của người Dao Quần Chẹt giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn đất
trời cùng với sự hiện diện của muôn loài sinh vật đã trở thành chủ đề cho những
trang trí trên trang phục của người Dao Quần Chẹt. Khi con người hòa mình vào
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
45
thiên nhiên, cảm nhận tình yêu và cuộc sống, vốn có nguồn cảm xúc dồi dào, các
hình tượng thiên nhiên được in đậm trong trí nhớ, trở thành ấn tượng sâu sắc
trong tâm thức. Cỏ cây, hoa lá gắn liền với người Dao bởi họ luôn tìm trong cỏ
cây, hoa lá đó sự sống, sự che chở, bảo vệ. Hơn nữa cây cỏ hoa lá còn là nguồn
dược liệu quý gắn liền với cuộc sống người Dao Quần Chẹt. Cỏ cây đem đến
cho người Dao Quần Chẹt sức khỏe, sự sống, sự tồn vong. Vì vậy, hình ảnh cỏ
cây hoa lá luôn được tái hiện một cách sinh động, có hồn trên từng đường kim
mũi chỉ thêu nên trang phục của người Dao Quần Chẹt.
Cùng với hình tượng cỏ cây, hoa lá thì chim thú cũng là người bạn thân
thiết của cư dân sinh sống nơi núi rừng. Mỗi hình trang trí của một con vật lại
được kết cấu đa dạng trong sự sắp xếp thành cụm hoa văn phúc hợp. Có
những hình ảnh chim thú đứng đơn lẻ nhưng đi cùng với nó lại là những họa
tiết trang trí bổ sung khác như cây cối hoặc chim thú nhỏ khác. Biểu tượng
chim thú được diễn tả cùng cây cỏ, hoa lá và con người đã khẳng định thêm
tình yêu thiên nhiên, môi trường của người Dao Quần Chẹt. Hình chim thú
thấp thoáng trong sự rậm rạp của cây cối, rừng già cho thấy sự quan sát tinh tế
và sự giao cảm giữa con người và thiên nhiên. Sự sống được đồng bào người
Dao Quần Chẹt nâng niu, gìn giữ và bảo vệ, người Dao coi thiên nhiên là lẽ
sống, trở thành thông điệp được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Những giá trị văn hóa sinh thái luôn hiện hữu và được nhắc nhở trong cuộc
sống của người Dao Quần Chẹt trong mọi mặt của đời sống, ngay từ những
điều bình dị nhất.
Trên trang phục cổ truyền của người Dao Quần Chẹt, bên cạnh hoa văn
hình cây cỏ, muông thú thì hoa văn hình người cũng giữ một vị trí quan trọng.
Hoa văn hình người thường được sắp đặt ở vị trí cao nhất. Ở vị trí đó con
người sống trong thiên nhiên,cỏ cây, chim thú với muôn màu sắc. Hình ảnh
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
46
con người không bao giờ xuất hiện đơn lẻ mà thường thành nhóm và đan xen
với các họa tiết cây cỏ, chim thú. Điều này cho thấy sự mong ước gắn kết các
nhóm người, gắn kết trong cộng đồng người Dao Quần Chẹt và sự hòa hợp,
gắn bó với thiên nhiên. Các giá trị văn hóa sinh thái đã được người Dao Quần
Chẹt đúc kết qua nhiều đời, nhiều thế hệ, thể hiện rõ nét trên trang phục
thường ngày cũng như trang phục lễ hội của người Dao Quần Chẹt.
2.1.3 Ẩm thực
Khu vực sinh sống của người Dao Quần Chẹt nằm trong khu vực bảo tồn
của Vườn Quốc gia Ba Vì, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi, thiên nhiên ưu
đãi nên từ lâu đồng bào người Dao Quần Chẹt đã biết khai thác những sản vật
trong tự nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình. Bên cạnh việc khai thác tự
nhiên, người Dao Quần Chẹt còn sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và trao đổi
hàng hóa với các dân tộc khác.
Người Dao Quần Chẹt thường ăn hai bữa chính trong ngày là bữa sáng
và bữa tối. Họ thường ăn bữa phụ vào buổi trưa vì thường đi làm nương rẫy
xa nên thường ăn sáng trước rồi mang theo cơm ăn trưa. Lương thực chính là
gạo, bao gồm cả gạo tẻ và gạo nếp. Sau gạo, nguồn lương thực quan trọng thứ
hai là ngô. Ngô thường được xay thành bột để nấu cháo đặc. Ngoài ra, khi
thiếu đói họ còn tìm các loại củ như củ mài, củ bấu hoặc các loại bột như bột
đao, bột báng để chế biến đồ ăn. Người Dao Quần Chẹt cũng thường xuyên
đồ xôi để ăn trong những ngày Tết và lễ như: lễ vào nhà mới, lễ cưới hoặc
trong những ngày gia đình nhờ anh em giúp cây ruộng, gieo trồng ngô lúa,
làm chuồng trại gia súc. Đặc biệt, trong Tết Thanh minh nhiều nhà còn đồ xôi
nhiều màu.
Ngoài các nguồn lương thực chính là gạo và ngô, người Dao Quần Chẹt
cũng có nhiều món chế biến từ thịt và cá rất đa dạng. Món xào: khi thịt gà,
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
47
thịt lợn, thịt dê, thịt bò người Dao Quần Chẹt thường đem xào gừng và nghệ.
Đối với thịt lợn, thịt gà khi chế biến món sào đều cho một ít nước và thường
cho thêm gừng. Một số món như thịt bò, thịt trâu còn tươi cũng được đem xào
chín với gừng. Chỉ có lòng gan lợn. thịt chim, thịt chuột đồng, nhộng được
xào khô và cho thêm hành, gừng hoặc lá chanh thái nhỏ và cho một ít rượu.
Trường hợp xào cho nhiều người ăn còn nêm thêm một số hương vị như thảo
quả, quế, gừng, sả... Món luộc: để làm món thịt luộc, người Dao Quần Chẹt
thường rửa sạch thịt và cắt thành miếng to bằng bàn tay. Sau đó bỏ vào nồi
hoặc chảo, cho nước vừa đủ rồi bắc lên bếp lửa đun sôi, dùng đũa lật và chọc
vào thịt để kiểm tra, nếu thấy chín đều thì vớt ra. Nước luộc thịt được đem
nấu canh với rau cải, cải bắp hoặc với rau ngót, mồng tơi. Trước khi ăn, thịt
luộc chín được đem thái hoặc chặt thành miếng nhà xếp vào bát, đĩa hay đổ
thịt ra lá dong, lá chuối. Món hầm: thịt hầm cũng được người Dao Quần Chẹt
ưa thích. Món thịt hầm thường phải có thêm những thứ bổ trợ như đu đủ,
khoai sọ, măng khô, giá đậu tương, su hào... Tuỳ theo đặc điểm của món thịt
hầm, họ có cho thêm một số gia vị như rượu, hành, hồ tiêu, củ sả, riềng,
gừng... Món nấu: trong các món ăn của người Dao Quần Chẹt, nếu so sánh
với các món xào, luộc và hầm thì các món nấu từ thịt cũng không phải là ít.
Họ rất thích ăn thịt lợn nạc nấu hoặc rim, nhất là thịt gà nấu canh gừng. Nhiều
khi đậu phụ, trứng gà cũng được đem nấu canh. Ngoài ra, họ còn hay nấu
canh thịt lợn nạc với phở hoặc miến dong, nấu xương lợn với bí đao... Khi bắt
được những con cá to họ cũng hay đem nấu canh với gia vị. Nhìn chung,
trong những ngày Tết hoặc lễ thường thấy xuất hiện nhiều món thịt nấu. Với
ốc đồng hoặc ốc suối, họ thường đem rửa sạch, chặt đuôi rồi nấu canh nghệ,
khi ăn thì mút lấy thịt bỏ vỏ. Món rán được chế biến khá đơn giản. Khi thấy
chảo nóng thì cho mỡ vừa đủ, sau đó đập trứng hoặc cho đậu phụ hay cá
xuống rán cho đến khi chín thì vớt ra. Món nướng: Trước đây khi thịt lợn,
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
48
người Dao Quần Chẹt có thói quen lấy ít gan có cả mật và thịt nạc đem ướp
muối rồi dùng tre gắp lại, đặt cạnh than hồng để nướng. Khi chín gan được
thái từng miếng, mật thì cho vào bát rượu, sau đó chia cho mọi người cùng ăn,
thịt nướng thái ra bát cho trẻ con ăn. Đối với các món rau, trong các món thức
ăn hàng ngày, món rau nấu canh mặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau
nào cũng được người Dao Quần Chẹt đem nấu canh, chẳng hạn như rau cải,
cà chua, bắp cải, đu đủ, su su, rau bí, rau rền, măng, mướp, bầu, bí, khoai
sọ.... Các loại rau như: mùi khai, ngọn khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải
làn, rau đớn thường được xào, ít dùng nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn
phải cho một ít nước để đun cho rau chín, tránh cho rau bị cháy. Hiện nay, do
ảnh hưởng văn hoá, người Dao Quần Chẹt cũng ưa thích món rau luộc. Rất
nhiều loại rau như rau cải, bắp cải, su hào, rau rền...được họ đem luộc ăn với
nước chấm.
Người Dao Quần Chẹt có tập quán uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, chỉ có
đàn ông Dao Quần Chẹt là hay uống rượu, nhất là khi nhà có khách. Còn nữ
giới chỉ uống rượu thuốc để chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tết cũng như lúc có
bạn bè. Nước uống thường ngày của người Dao Quần Chẹt là nước lã đun sôi
với một loại rễ, lá cây rừng hoặc hạt vối, vừa mát vừa bổ. Hiện nay, nhiều gia
đình người Dao Quần Chẹt đã tự trồng chè nên nước chè xanh cũng bắt đầu
trở thành đồ uống phổ biến của họ. Theo tập quán, cứ đến bữa ăn chính, tất cả
các thành viên trong gia đình đều phải ngồi vào mâm cùng ăn uống. Về vị trí
ngồi, hàng phía trên là nơi ngồi của đàn ông, còn hàng phía dưới hoặc tiếp
giáp bếp là chỗ ngồi của phụ nữ và trẻ con. Việc chia ra thành nhiều mâm để
ăn uống thường chỉ xảy ra khi trong nhà có khách hoặc các thành viên quá
đông, không đủ chỗ ngồi ăn cùng mâm. Tuy vậy, hiện nay cũng có một số gia
đình thích chia ra thành 2 mâm để ăn uống cho thuận tiện. Khi đó, mâm trong
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
49
gian bếp có bà, mẹ cùng con dâu và các cháu nhỏ, còn mâm trong gian khách
có ông, bố cùng các con trai và các cháu trai lớn tuổi.
Trong ăn uống của người Dao Quần Chẹt, khi mọi người ngồi vào mâm
phải chờ cho đủ cả gia đình mới được cầm bát đũa. Người Dao Quần Chẹt có
thói quen trong bữa ăn mời, nhường nhịn và gắp thức ăn cho nhau. Bố mẹ gắp
cho ông bà và con cái, ông bà gắp cho các cháu nhỏ. Khi thịt gà dù to hay bé đều
đành bộ gan cho ông bà, đùi chân cho những đứa trẻ bé nhất, còn đầu cánh để
cho những đứa lớn hơn. Trong bữa ăn, nếu có khách chủ nhà cũng không quên
mời và luôn tay gắp miếng ăn ngon cho khách. Người Dao Quần Chẹt vừa ăn
cơm vừa uống rượu, khách thường nhấc chén uống rượu mỗi khi chủ nhà nâng
chén mời nhưng không chạm chén. Do vậy, khách cần dựa theo khả năng của
mình mà uống nhiều hay ít mỗi khi nhấc chén uống rượu. Khi uống cạn chén
khách cứ tự nhiên để cho chủ nhà rót rượu xuống. Nếu cảm thấy không muốn
uống nữa thì lấy tay đẩy nhẹ miệng chai lên mỗi khi thấy chủ nhà định rót rượu
xuống chén của mình. Khi ăn cơm xong hoặc đang ăn không được để đũa lên
miệng bắt, bởi vì họ quan niệm rằng chỉ trong những ngày ma chay hoặc xới
cơm cúng vong hồn người chết mới được để đũa như vậy.
Đối với các nghi lễ của người Dao Quần Chẹt như đám cưới, vào nhà
mới, đám ma, có một số món ăn thường được chế biến theo chuẩn mực đã
được tập quán cộng đồng quy định. Chẳng hạn, trong đám cưới thường phải
có các món như: xôi, thịt lợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu với một số
món như măng, đậu tương hầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá
nhiều món và được chế biến như trong những ngày Tết Nguyên đán. Trong lễ
cấp sắc, họ thường ăn thịt lợn, thịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt
sóc để cúng lễ. Còn trong đám ma có thịt lợn luộc, thịt lợn xào, rau cải nấu,
nhất thiết phải có món đu đủ nấu hoặc bi chuối rừng nấu với xương lợn. Về
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
50
cách sắp xếp số lượng người ngồi ăn trong mâm, vị trí ngồi, ngôi thứ, vị thế
trong dòng họ, chỗ ngồi theo tuổi tác và địa vị của khách… thì tuỳ theo sự
quy định của từng loại nghi lễ.
Cũng như nhiều dân tộc khách, người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì biết tận
dụng những ưu đã của thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên mà sinh tồn. Con
người và thiên nhiên có mối quan hệ mật thiết, khăng khít không thể tách rời.
Văn hóa ẩm thực của đồng bào Dao Quần Chẹt cũng là một mặt biểu hiện của
văn hóa sinh thái. Tuy được thể hiện dưới nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác
nhau nhưng dưới góc độ nào di chăng nữa thì những giá trị văn hóa sinh thái
luôn gần gũi và xuất hiện với tần xuất cao trong đời sống sinh hoạt của đồng
bào Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì.
2.1.4 Dược liệu
Người Dao Quần Chẹt tại xã Ba vì, huyện Ba Vì – Hà Nội có một kho
tàng tri thức dân gian hết sức phong phú. Người Dao Quần Chẹt đã biết vận
dụng những tri thức dân gian đúc kết từ bao đời nay vào trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp như dự báo thời tiết, khí hậu để biết thời vụ giao trồng, chăn
nuôi gia súc gia cầm sao cho phù hợp. Điều đặc biệt trong kho tàng tri thứ dân
gian của người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội mà không
thể không nhắc đến đó là các bài thuốc nam cổ truyền. Nghề thuốc và chế dược
liệu của người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì được coi là nghề “truyền thừa”. Gắn
bó cả cuộc đời với nghề thuốc cổ truyền dân tộc, lương y Triệu Thị Thanh ở
bản Dao Hợp Sơn cho biết là đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người. Để biết
làm nghề, ngay từ lúc còn nhỏ bà đã theo bà, theo mẹ của mình đi hái cây
thuốc trong vùng rừng núi Ba Vì. Lớn lên, với những kiến thức kinh nghiệm
học hỏi từ bà và mẹ được tích lũy lại, bà Thanh bốc thuốc, chữa bệnh không
lấy tiền cho người dân trong bản, trong xã và các địa phương lân cận. Từ đó,
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
51
bà khổ luyện thành người có tay nghề cao. Hiện nay, bà là lương y có tiếng ở
bản người Dao Quần Chẹt, am hiểu tường tận về từng loài cây, vị thuốc và
công dụng của nó.
Bà Triệu Thị Hòa, nguyên là chủ tịch hội Đông y xã Ba Vì khi được
phỏng vấn về nghề thuốc cổ truyền nói rằng: “Chẳng ai biết chính xác những
bài thuốc chữa bệnh của người Dao có từ bao giờ, chỉ biết khi lớn lên là được
cha mẹ truyền cho. Trẻ con người Dao trên núi Ba Vì, có đứa còn chưa sõi
nhưng chỉ cây thuốc nào hỏi tên là cây gì, chữa bệnh gì thì nói vanh vách.
Nghề làm thuốc được người Dao truyền miệng, không ghi chép vào sách vở...
Một số bài thuốc phổ biến thì có cách chế biến và liều lượng giống nhau,
nhưng cũng có bài thuốc lại khác nhau do cách phối vị thuốc của mỗi gia
đình theo bí quyết riêng. Bởi vậy, thuốc Nam của dân tộc Dao gọi là cổ
truyền cũng được mà gia truyền cũng đúng”.
Theo bà Triệu Thị Bảy, một trong những lương y có tiếng ở bản Hợp
Nhất (có trên 40 năm làm nghề thuốc) cũng cho biết: “Cách truyền nghề của
người Dao ở Ba Vì là theo cách trực quan. Người mới vào nghề phải theo
chân các bậc tiền bối có nhiều kinh nghiệm lên núi tìm kiếm cây thuốc. Khi
nhận biết được các loại cây thuốc thì mới được dạy cách xem bệnh và bốc
thuốc để chữa bệnh”.
Như vậy, nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì là sự kế thừa
kinh nghiệm của những thế hệ đi trước, lớp trước “truyền thừa” cho lớp sau,
lớp sau “kế thừa” tri thức đã có từ lớp trước. Không những “truyền thừa” về
kỹ thuật, người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì còn truyền thừa về y lý của nghề.
Theo đó, khi dùng thuốc chữa bệnh, lương y đều có bốn bước xử lý theo
nguyên tắc là trị bệnh, khỏi bệnh, chống tái phát và tiệt nọc bệnh. Tính
“truyền thừa” nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì còn thể hiện ở
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
52
chỗ trước hết họ làm thuốc là để chữa bệnh cho bản thân mình, dân tộc mình,
sau đó mới là chữa cho mọi người.
Thầy thuốc Triệu Thị Thanh cho biết rằng khi người Dao Quần Chẹt đến
vùng núi Ba Vì để "an cư lập nghiệp", họ phải ở tít trên lưng chừng núi cao và
dựa vào rừng Ba Vì để kiếm sống. Vì thế khi lâm bệnh, người Dao Quần Chẹt
phải tìm cây rừng để tự chạy chữa. Với kinh nghiệm dân gian truyền từ đời
này qua đời khác, người Dao Quần Chẹt Ba Vì biết bốc thuốc chữa những
bệnh thường gặp như phong, thấp khớp, sỏi thận, đái buốt, đái dắt, đái tháo
đường, ho hen, ho lao, ho ra máu, trĩ nội, trĩ ngoại, hậu sản, dạ dày, viêm
phổi… Lúc đầu, người Dao Quần Chẹt Ba Vì có phong tục bốc thuốc cứu
người không lấy tiền, ai khỏi bệnh thì đến nhà thầy thuốc tạ ơn tổ tiên bằng
sản phẩm nông nghiệp như con gà, gạo nếp, chai rượụ… Về sau, nhờ danh
tiếng của thuốc dân tộc Dao Quần Chẹt ở Ba Vì lan xa, nghề thuốc của người
Dao Quần Chẹt trở thành kế sinh nhai.
Nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì là sự kết hợp “truyền
thống dân gian” và “môi trường sinh thái”. Vùng rừng núi Ba Vì là vùng núi
trung bình và thấp, tiếp giáp với vùng bán sơn địa, nổi lên giữa đồng bằng
(cách hợp lưu sông Đà và sông Hồng 20 km về phía nam). Trong Vườn quốc
gia Ba Vì có một số đỉnh núi có độ cao trên 1000m như Đỉnh Vua (1296m),
đỉnh Tản Viên (1227m), đỉnh Ngọc Hoa (1131m), đỉnh Viên Nam (1081m) và
một số đỉnh thấp hơn. Núi Ba Vì gồm hai dải chính là dải chạy theo hướng
Đông - Tây qua đỉnh Tản Viên dài 9 km và dải chạy theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam cũng qua đỉnh Tản Viên dài 11 km. Ba Vì là một vùng núi rừng có
độ dốc khá lớn, sườn phía Tây do đổ xuống sông Đà nên dốc hơn so với sườn
Tây Bắc và sườn Đông Nam. Địa hình càng lên cao độ dốc càng tăng, từ độ
cao 400m trở lên, độ dốc trung bình là 350, và có vách đá lộ thiên nên việc đi
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
53
lại là rất khó khăn. Không chỉ là nơi có điều kiện địa lý tự nhiên nguyên sơ,
vùng núi Ba Vì còn là nơi có hình thái khí hậu thủy văn khá đặc biệt. Sự phối
hợp giữa gió mùa và vĩ độ đã tạo nên khí hậu trong vùng là nhiệt đới ẩm với
mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân năm trong khu vực là 23,40C. Ở
vùng thấp, nhiệt độ thấp nhất xuống tới 2,70C. Nhiệt độ cao nhất có khi lên tới
420C. Ở độ cao 400m nhiệt độ trung bình năm 20,60C; từ độ cao 1000m trở
lên nhiệt độ chỉ còn 160C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối có thể xuống 0,20 C. Nhiệt
độ cao tuyệt đối chỉ là 33,10C. Lượng mưa trung bình năm 2.500mm, phân bố
không đều trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7 tháng 8. Độ ẩm không khí
là 86,1%. Vùng thấp thường khô hanh vào tháng 12, tháng 1. Từ độ cao 400m
trở lên không có mùa khô. Chính nhờ môi trường sinh thái tự nhiên đặc biệt
và thuân lợi như vậy vùng rừng núi Ba Vì là vùng thực vật lý tưởng đối với
nghề thuốc truyền thống. Theo thống kê ở sách Cây thuốc người Dao Ba Vì,
trong số 1.209 loài thực vật có trong rừng Quốc gia Ba Vì, có tới 507 loại cây
cỏ người Dao Quần Chẹt dùng làm thuốc chữa bệnh Trong số những loài
dược liệu này, có những cây thuộc loại quý và hiếm. Trong danh sách thống
kê mà Tiến sĩ Trần Văn Ơn, Trưởng bộ môn Thực vật trường Đại học Dược
Hà Nội công bố, mỗi loại thảo dược quí đều có tên thường dùng, tên theo
tiếng Dao và tên khoa học (VD: cây “bình vôi” tên gọi theo tiếng Dao là “đìa
đòi pẹ”). Với việc mỗi loại thảo dược dùng để chữa bệnh đều có tên gọi bằng
tiếng Dao cùng với tên gọi phổ thông như thế, nó xác nhận rằng người Dao
Quần Chẹt ở Ba Vì là những chủ nhân thực sự của nguồn dược liệu quý giá
này. Như vậy, có thể nói điều kiện tự nhiên (địa lý và khí hậu) vùng núi Ba Vì
là vùng lý tưởng cho những loài thực vật sinh trưởng. Trong môi trường ấy,
người Dao Quần Chẹt với kinh nghiệm truyền thống của mình đã nhận ra
công dụng của nhiều loại dược liệu quý hiếm được lưu giữ trong vùng. Vì thế
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
54
có thể nói rằng nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì chính là sự kết
hợp giữa truyền thống dân gian và môi trường sinh thái.
Đối với người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì, làm nghề thuốc không đơn thuần
chỉ là việc sử dụng dược liệu để bốc thuốc. Họ kiêm luôn cả công việc tìm
kiếm cây thuốc, chế biến dược liệu và xem bệnh bốc thuốc. Như vậy, thầy
thuốc người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì vừa làm nhiệm vụ của người tìm kiếm
và chế biến dược liệu, vừa là người xem bệnh để bốc thuốc. Để có được một
khả năng như thế, rõ ràng chỉ có thể là nhờ sự kế thừa tri thức cổ truyền của
dân tộc cũng như kế thừa kinh nghiệm gia truyền của mỗi một gia đình mà có.
Thường thường, những vị thuốc quý hiếm vẫn ẩn mình trên núi cao hùng vĩ.
Vì thế, người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì khi làm thuốc phải khổ công lặn lội
trong rừng sâu núi thẳm mới tìm kiếm được chúng. Có thể nói, việc tìm kiếm
dược liệu là một kỳ công của người làm thầy thuốc ở nơi đây. Sau khi thu hái
được, người ta mang về và băm hay chặt thành những kích cỡ khác nhau, phù
hợp với mỗi loại dược liệu. Sau đó, dược liệu đã sơ chế này được rửa sạch để
phơi hay sấy khô. Mỗi loại dược liệu có cách phơi sấy khô rất khác nhau, sao
cho việc phơi sấy vẫn đảm bảo trọn vẹn công dụng của mỗi một loại dược
liệu. Đây là công đoạn đòi hỏi người làm thuốc phải xử lý dược liệu một cách
rất công phu, tỷ mỷ. Sau công đoạn này, thuốc được lưu giữ như đóng gói, cất
trong những dụng cụ bảo quản để sau đó dùng bốc thuốc hay chế biến thành
những dạng khác. Những công việc như thế là công đoạn “làm” thuốc hay “sơ
chế” thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì.
Hiện nay, người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì có ba cách “sử dụng” thuốc để
chữa bệnh. Cách thông dụng nhất đối với thuốc đông y là “sắc thuốc” để
uống. Cách thứ hai là sử dụng thuốc theo hình thức “tắm thuốc”. Cách dùng
này phụ thuộc vào thể trạng của một số người; hoặc liên quan đến một số
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
55
bệnh đặc thù (như phục hồi sức khỏe sản phụ sau sinh nở…). Khi dùng theo
cách tắm thuốc, người Dao Quần Chẹt thường phối hợp những loại dược liệu
cần thiết khác nhau, đun sôi với một lượng nước cần cho người tắm, sau đó để
đến khi còn ấm khoảng 300C thì ngâm mình vào tắm. Thuốc tắm của người
Dao Quần Chẹt Ba Vì nổi tiếng nhất là loại thuốc tắm đẻ truyền thống. Loại
thuốc này giúp cho người sản phụ nhanh chóng phục hồi sức khỏe, sạch máu
huyết và sau khi sinh nở từ 7 đến 10 ngày, sản phụ có thể lao động bình
thường như trước khi sinh. Hai cách dùng thuốc vừa nói ở trên là hai cách
dùng thuốc truyền thống của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì. Cách thứ ba là
dùng dưới dạng “cao thuốc” hay “cao lá”. Theo những thầy thuốc người Dao
Quần Chẹt ở Ba Vì, loại thuốc “cao lá” mới chỉ xuất hiện khoảng mấy chục
năm gần đây. Đây có thể coi là cách sử dụng thuốc “cải tiến” của người Dao
Quần Chẹt Ba Vì, khác với hai cách dùng truyền thống đã nói ở trên, vừa tiện
dụng mà vẫn giữ được công dụng của thuốc. Theo đó, người ta phối hợp rất
nhiều loại dược liệu khác nhau, đun nấu chúng liên tục trong nhiều tuần liền
để cô lại thành cao. Có nhiều loại cao chữa những bệnh khác nhau và cũng rất
công dụng. Sau khi thuốc nấu thành cao, người dùng có thể ngâm rượu để
uống, nuốt từng miếng nhỏ, hấp với nước cơm để uống… Như vậy, cách thức
chế biến và sử dụng dược liệu của người Dao Quần Chẹt là rất đa dạng. Nó
vừa lưu giữ cách thức chế biến và sử dụng theo lối truyền thống, vừa có
những “cải tiến” cho phù hợp và tiện lợi.
Trong điều kiện hiện nay, nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì
đã có sự thay đổi. Theo đó, người ta vừa tiếp tục “thu hái” cây thuốc trong tự
nhiên vừa chủ động “trồng thuốc” để có nguồn dược liệu. Và nghề thuốc nơi
đây không còn là nghề “tự cung, tự cấp” nữa mà đã trở thành một “nghề” để
thu nhập. Cần có sự kết hợp giữa tri thức dân gian và y học hiện đại để đạt
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
56
được hiệu quả cao hơn trong việc sử dụng các loại dược liệu. Nghề thuốc của
người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì bây giờ có nguy cơ thất truyền là do nguồn cây
thuốc trên rừng đã ngày càng cạn kiệt. Hơn nữa, rừng Quốc gia Ba Vì đã trở
thành khu rừng cấm khai thác nên người Dao Quần Chẹt không được tùy tiện
lên núi hái thuốc. Để tránh không làm cho nghề thất truyền, những lương y
như bà Triệu Thị Thanh, Triệu Thị Bảy cùng nhiều người Dao Quần Chẹt
khác đã tìm kiếm cây thuốc trong rừng về trồng tại vườn nhà. Tuy nhiên, có
những loài rất quý hiếm như cây hoa tiên, củ dòm, cây bổ máu huyết rồng,
cây dào xị, cây đìa sản, cây đìa ùi, cây xạ đen, cây kim ngân… phải trồng từ
mười đến hai mươi năm mới sử dụng được. Cho nên, theo những thầy thuốc
này, có gần 280 loài thảo dược ở Ba Vì đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt,
trong đó 120 loài đứng trên bờ bị tuyệt chủng.
Trước tình trạng ấy, với tài trợ của những quỹ phát triển như Quỹ
Rockerfeller, Quỹ châu Á và Trung tâm Môi trường và phát triển cộng đồng,
Dự án “Phát triển mô hình du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng tại huyện Ba
Vì, thành phố Hà Nội”, người Dao Quần Chẹt ở Ba vì đang tìm cách bảo tồn
nguồn dược liệu hiện có. Theo đó, người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì tham gia
tích cực gìn giữ môi trường thiên nhiên làm nên đặc trưng cây thuốc của
người Dao Quần Chẹt nơi đây. Cộng đồng người Dao Quần Chẹt tham gia
tích cực vào những hoạt động tập huấn, nâng cao tri thức cho người dân bản
địa. Theo đó, những dự án nói trên còn xuất bản sách thuốc và giúp người
Dao Quần Chẹt thành lập công ty dược của cộng đồng để phát triển nguồn
dược liệu quý hiếm. Dự án “Phát triển mô hình du lịch sinh thái và du lịch
cộng đồng tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” đã mời Dược sỹ từ các trường
Đại học Y, Dược Hà Nội tới tập huấn cho các thầy thuốc người Dao Quần
Chẹt ở ba bản Yên Sơn, Hợp Nhất và Hợp Sơn xã Ba Vì. Nội dung tập huấn
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
57
là cách thức bảo tồn bền vững, thu hái chế biến sản phẩm thảo dược để tiến
tới đăng ký “thương hiệu Làng nghề thuốc”. Những Quỹ và dự án nói trên đã
giúp những hộ gia đình người Dao Quần Chẹt lập vườn ươm nhân giống cây
thuốc có sẵn, cung cấp giống thuốc mới, hỗ trợ chế biến, sử dụng dụng cụ
phơi sấy đơn giản. Đặc biệt, khuyến khích người Dao Quần Chẹt Ba Vì thành
lập công ty thuốc, khác với mô hình hợp tác xã đã có trước đây.
Ngày 28/2/2012, công ty Cổ phần thuốc người Dao Quần Chẹt Ba Vì đã
chính thức đi vào hoạt động. Công ty này tồn tại dưới dạng bao gồm những
công ty nhỏ của cộng đồng người Dao Quần Chẹt, do người Dao Quần Chẹt
góp vốn, góp đất, góp bí quyết bài thuốc, góp nguyên vật liệu xây dựng…
Những công ty nhỏ của cộng đồng người Dao Quần Chẹt chiếm hơn 50% vốn
của cả Công ty lớn. Có những bài thuốc gia truyền được nghiên cứu một cách
khoa học tại trường Đại học Dược Hà Nội rồi sau đó chuyển giao lại cho các
lương y dưới dạng góp cổ phần. Với cách làm này, người Dao Quần Chẹt có
thể tham gia hoạt động như nhân viên công ty, hợp đồng trồng và cung cấp
dược liệu cho công ty. Nhưng có một khó khăn là những lương y người Dao
Quần Chẹt Ba Vì hiện không có bằng cấp hành nghề do pháp luật chưa quy
định cơ quan nào có quyền cấp bằng hành nghề cho những người làm nghề
thuốc cổ truyền dân tộc. Điều đó khiến cho việc công nhận làng nghề thuốc
và lập công ty thuốc cổ truyền dân tộc gặp không ít khó khăn.
Cần phát triển nghề thuốc của người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì trở
thành một nghề có thể tạo ra thu nhập chính, đáp ứng được đời sống vật chất
của đồng bào Dao. Trước đây, những thầy thuốc người Dao Quần Chẹt Ba Vì
lặn lội trên những nẻo đường để bán thuốc. Vì không có thương hiệu, nên họ
cứ lang thang bán thuốc từ năm này qua năm khác, từ nơi này sang nơi khác
với bao gian truân, cơ cực. Họ đã từng hát “Người Dao ta không có đất/ Lam
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
58
lũ chạy theo núi rừng/ Đói nghèo bám chặt vào lưng”. Hiện nay, nhờ định cư
và nhờ những dự án bảo tồn và phát triển y học cổ truyền, người Dao Quần
Chẹt ở Ba Vì có triển vọng về một cuộc sống ấm no dựa vào chính vốn liếng
quý báu của dân tộc mình. Lấy trường hợp thầy thuốc Triệu Thị Hòa, hiện là
chủ tịch hội Đông y xã Ba Vì làm ví dụ: Từ năm 1994 sau khi được nghỉ hưu
đến nay, bà lấy nghề làm thuốc gia truyền dân tộc Dao Quần Chẹt là nghề
sinh sống. Theo bà, nghề này có triển vọng làm giầu được. Bà cho biết, sau
khi bán thuốc cổ truyền được ba năm, bà đã xây được một ngôi nhà bốn gian
đổ mái bằng và ba gian nhà bếp. Từ đó, bà đề nghị Ủy ban nhân dân xã cho
phép thành lập Hội đông y xã Ba Vì và được tỉnh đồng ý quyết định thành lập
ngày 30/6/1996. Từ đó, với khoảng hai mươi năm làm nghề thuốc dân tộc
Dao, gia đình bà đã xây được hai nhà hai tầng và mua sắm trong nhà những
tiện nghi đầy đủ. Các con của bà hiện cũng đang theo nghề thuốc cổ truyền
của dân tộc Dao là nghề sinh sống.
Như vậy, dựa vào tri thức dân gian cổ truyền, kết hợp với môi trường
sống thích hợp là vùng núi Ba Vì (đỉnh núi cao nhất 1296m, có nhiều cây
thuốc quý), người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội vừa duy
trì được truyền thống văn hóa dân tộc, vừa đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh
phúc của mình. Qua việc bảo lưu và phát triển được nghề thuốc cổ truyền,
những người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì cho chúng ta thấy một một ví dụ
điển hình về việc bảo vệ văn hóa sinh thái nơi cộng đồng người Dao Quần
Chẹt cư trú. Từ đó phát huy được giá trị của nghề cổ truyền dân tộc để làm
giàu cho dân tộc mình và phục vụ cho xã hội.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
59
2.2 GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI PHI VẬT THỂ
2.2.1 Lối sống, phong tục tập quán ứng xử với tự nhiên
Các hình thái văn hoá đầu tiên của loài người liên quan đến nhu cầu căn
bản nhất của con người đó là nhu cầu sinh tồn. Để sinh tồn họ phải ăn, ở và
mặc. Đó cũng là những quan hệ đầu tiên của con người với môi trường.
Thông qua những hoạt động cơ bản nhất đáp ứng nhu cầu của đời sống hằng
ngày là ăn, mặc, ở và đi lại con người đã tác động qua lại với tự nhiên. Trải
qua nhiều thế hệ, những thói quen, lối sống của con người hình thành và được
trao truyền trở thành những phong tục, tập quán mang tính cộng đồng.
Người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì cũng có lối sống sinh thái văn hóa mang
tính nhân văn sâu sắc. Là dân tộc có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
nương rẫy, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, người Dao Quần Chẹt từ sớm đã
biết rõ vai trò của tự nhiên với sự sống, sự sinh tồn của họ. Việc làm nương,
làm rẫy, chăn nuôi và thu thập sản vật từ tự nhiên là những hoạt động đảm
bảo cho đời sống của người Dao Quần Chẹt. Qua nhiều thế hệ đúc kết lại
những kinh nghiệm, người Dao Quần Chẹt có những quy định bất thành văn
trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên. Việc khai thác rừng hay săn bắt
vẫn được diễn ra thường xuyên trong cuộc sống của người Dao Quần Chẹt,
nhưng họ đồng bào đã có cách khai thác hợp lý tài nguyên rừng, vừa khai thác
nhưng vừa kết hợp bảo vệ, bảo tồn. Ví dụ như việc khai thác, chuẩn bị nguyên
vật liệu cho xây nhà, tìm gỗ, chặt cây… người Dao Quần Chẹt không xâm
phạm, không phá hủy các khu vực rừng già, rừng nguyên sinh mà chỉ khai
thác ở khu rừng non bên ngoài gần nương rẫy của họ. Khi khai thác gỗ, người
Dao Quần Chẹt chỉ khai thác những cây phù hợp sử dụng, không phải khai
thác, chặt phá một cách ồ ạt, bên cạnh đó đồng bào còn trồng lại cây con để
phát triển rừng.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
60
Việc săn bắt cũng tương tự, với thú rừng trước đây người Dao Quần
Chẹt chỉ săn bắt các con thú rưởng thành mà thôi, những con nhỏ thì được thả
lại về rừng, đó cũng là một cách ứng xử thân thiện, tích cực với tự nhiên trong
mối quan hệ tự nhiên – con người. Hoạt động khai thác các nguồn dược liệu
diễn ra mạnh mẽ trong đời sống của người Dao Quần Chẹt với thiên nhiên,
khu vực rừng trong Vườn quốc gia Ba Vì. Nhưng đã hình thành tập quán từ
lâu đời, đồng bào Dao Quần Chẹt nơi đây khai thác rất có ý thức bảo vệ, bảo
tồn các loại cay dược liệu quý. Theo đồng bào Dao Quần Chẹt, có những loại
dược liệu quý phải từ mười đến hai mươi năm mới có thể khai thác sử dụng.
Nếu như khai thác hết những cây dược liệu đó mà không có biện pháp bảo tồn
thì sẽ có lúc không còn chúng nữa để sử dựng, mà đối với người Dao Quần
Chẹt thì thiếu thuốc, thiếu dược liệu như thiếu đi tấm bùa hộ mệnh cho cuộc
sống của họ.
Những quy đinh bất thành văn tồn tại trong cộng đồng thôn, bản người
Dao Quần Chẹt ở Ba Vì là biểu hiện của một nền văn hóa sinh thái lành
mạnh. Những quy định ngầm, bất thành văn ấy quy định và điều chỉnh những
hành vi, cách thức ứng xử của mỗi người Dao Quần Chẹt với tự nhiên. Mặc
dù chỉ là những sự cưỡng chế mặc nhiên bất thành văn nhưng sức mạnh của
những phong tục, tập quán này rất lớn vì nó gắn liền với đời sống cộng đồng
và ăn sâu vào tiền thức của mỗi cá nhân trong cộng đồng đó.
Những phong tục tập quán ứng xử với tự nhiên có thể tồn tại qua nhiều
thế hệ thì phải thích hợp với điều kiện tự nhiên, thích hợp với lối sống của
cộng đồng và được cả cộng đồng thừa nhận, bảo vệ. Con người với tự nhiên
có mối quan hệ rất mật thiết, những phong tục tập quán ứng xử với tự nhiên
của con người bị chi phối bởi chính điều kiện tự nhiên nơi con người sinh
sống. Nhưng ngược trở lại, chính con người cũng nhận ra và điều chỉnh
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
61
những hoạt động, hành vi của mình đối với tự nhiên theo hướng tích cực, có
lợi cho nhu cầu của cả con người và tự nhiên. Những phong tục, tập quán từ
lâu đời đã định hướng cho những hành vi ứng xử của mỗi thành viên trong
cộng đồng người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì mang đậm tính sinh thái, đồng thời
góp phần tích cực trong việc nâng cao ý thức sinh thái cho cộng đồng người
Dao Quần Chẹt nơi đây.
2.2.2 Nghệ thuật dân gian
Trong đời sống văn hóa của mỗi tộc người, những hình thức nghệ thuật
là không thể thiếu trong việc đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị về tinh
thần của con người. Mỗi một tộc người lại có những giá trị văn hóa tinh thần,
những hình thức nghệ thuật dân gian đặc trưng riêng biệt. Trong đó, thơ ca
dân gian là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con
người. Thơ ca là hình thức nghệ thuật đặc biệt sử dụng chất liệu ngôn từ,
thông qua hình tượng nghệ thuật mà khắc họa nên những bức tranh muôn màu
muôn vẻ của cuộc sống con người, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa.
Nguồn gốc của thơ ca không hề xa lạ mà nó bắt nguồn ngay từ chính
trong những hoạt động lao động sản xuất của con người. Đối với cư dân nông
nghiệp mà đặc biệt là những tộc người cư trú nơi núi rừng hoang vắng thì thơ
ca là hình thức văn nghệ giúp họ xua tan những phiền toái, mệt mỏi, căng
thẳng những khi lao động. Ban đầu, đơn giản chỉ là những câu nói có vần, có
điệu. Sau đó, qua thời gian phát triển những câu thơ, câu hát đó được tập hợp
lại theo những chủ đề trong cuộc sống tạo thành những bài thơ, bài ca được
truyền thụ cho nhiều thế hệ. có thể nói, trước hết thơ ca dân gian là sản phẩm
của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Không chỉ có nguồn gốc ra đời xuất phát
từ lao động sản xuất, thơ ca dân gian còn chịu tác động trực tiếp và bị tri phối
bởi các hình thức thái tôn giáo, tín ngưỡng. Cũng chính vì thế cho nên trong
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
62
thơ ca của các dân tộc ta thường thấy có sự phân biệt thể loại giữa thơ ca phản
ánh đời sống sinh hoạt, tình yêu con người, yêu thiên nhiên với các thể loại
thơ ca phục vụ cho nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng.
Người Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội cũng có một
kho tàng thơ ca dân gian hết sức phong phú và đa dạng. Các bài thơ của người
Dao Quần Chẹt cho đến ngày nay vẫn được lưu truyền rộng rãi. Thơ của
người Dao Quần chẹt tuy đơn giản về kết cấu nhưng lại phản ánh rất chân
thực và sâu sắc đời sống sinh hoạt của họ. Người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì
cũng giống như nhiều nhóm Dao ở các địa phương khác, họ vẫn lưu truyền
trong cộng đồng những truyền thuyết, thần thoại về nguồn gốc dân tộc mình
và về cuộc di cư tìm vùng đất mới, tìm sự sống mới của cộng đồng Dao. Cùng
với các truyện thần thoại, cổ tích đó thì thơ ca dân gian của người Dao Quần
Chẹt là tiếng ca ai oán cho thân phận của những người mồ côi bất hạnh. Qua
phần khái quát về lịch sử tộc người Dao đã trình bày trên chương một chúng
ta đã biết người Dao từ Trung Quốc di cư đến Việt Nam, con đường họ đi gặp
phải biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Người Dao đi để tìm nguồn sống, đi
để được sinh tồn. Những bài thơ, bài ca này miêu tả nỗi khổ đâu bất hạnh, cơ
cực của những người mồ côi cha mẹ, mồ côi đất nước, không nơi nương tựa.
Đa phần những bài thơ ca này đều mang tính chất tự than.
Người Dao Quần Chẹt còn có những bài thơ ca dùng trong nghi lễ và
phong tục tập quán khác nhau. Từ quan niệm về con người và vũ trụ, thần
linh mà người Dao Quần Chẹt đã sáng tác ra những bài thơ ca sử dụng trong
các dịp lễ, cúng riêng biệt. Khi đứa trẻ mới được sinh ra đời, người Dao Quần
Chẹt tổ chức lễ cúng cho đứa trẻ đó. Người cha của đứa trẻ trong lễ cúng sẽ
trực tiếp múa và hát các bài ca, bài thơ với nội dung cầu mong thần linh phù
hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh, không bệnh tật, tránh khỏi những điều xấu xa…
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
63
Hay các bài thơ sử dụng trong lễ Cấp sắc cũng rất đa dạng. Khi đứa trẻ trai
trong cộng đồng người Dao Quần Chẹt sắp đến tuổi trưởng thành (khoàng từ
10 đến 17 tuổi) sẽ được tổ chức lễ Cấp sắc. Trong lễ Cấp sắc có nhiều lễ khác
nhưng với mỗi lễ, thầy cúng lại truyền cho đứa trẻ cấp sắc những bài kinh
dưới dạng thơ ca. Ngoài ra, người Dao Quần Chẹt còn có thơ ca sử dụng
trong các hoạt động khác như lễ tang, ma chay, lễ cưới, lễ mừng nhà mới…
Một phần không thể không nhắc đến trong kho tàng thơ ca dân gian của
người Dao Quần Chẹt đó là thơ ca phản ánh lao động và tình yêu thiên nhiên.
Đây là thể loại mang nhiều những giá trị sâu sắc, thể hiện nhận thức, tình yêu,
sự gắn bó của con người với tự nhiên. Công việc lao động của người Dao
Quần Chẹt rất vất vả:
“Con người lao động phải dậy sớm
Gà gáy mình đã phải dậy rồi
Cho gà, cho lợn ăn đã muộn
Khi đến giờ thìn phải lên nương”
Người Dao luôn phải vất vả dậy sớm làm các công việc nhà, chăn gia
súc xong rồi lên nương. Người Dao chỉ ăn cơm hai bữa chính là bữa sáng và
bữa tối. Buổi trưa người Dao mang theo cơm ăn tạm trên nương, điều này cho
thấy họ phải lao động cực nhọc, khó khăn mới có được cái để ăn, để mặc.
“Tháng giêng hoa đào nở trong vườn
Tháng hai hoa mận ở trong vườn
Tháng ba cây trẩu hoa nở trắng
Tháng tư phù dung nở màu vàng
Tháng giêng đến xuân đã phải lo
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
64
Nam nữ cầm dao đi phát rừng
Tháng hai dắt trâu cày ruộng mạ
Tháng ba cây mạ mọi nơi xanh
Tháng tư cây mạ cấy xuống ruộng
Tháng năm làm cỏ phát bờ ruộng
Tháng sáu trồng chuối chẳng nên trồng
Tháng bảy trồng hành phải đất tốt
Tháng tám trồng tỏi ở đồn khô
Tháng chín thu lúa về cất giữ
Tháng mười trồng trè lên núi đồi
Tháng mười một lập đông mọi thứ khô
Tháng mười hai rồng con chạy về biển
To nhỏ mọi người ở trên đời
Lập đông mọi thứ trồng không nên”.
(Bài ca mười hai tháng – Bài một)
Qua “Bài ca mười hai tháng – Bài một” thơ ca dân gian của người Dao
cho thấy họ đã có những nhận thức về tự nhiên qua mười hai tháng trong
năm. Người Dao Quần Chẹt biết cách nhìn thời tiết, khí hậu để xác định các
khoảng thời gian trong năm. Ứng với đó, người Dao Quần Chẹt có những
phương thức lao động và chăn nuôi hợp lý, phù hợp với từng mùa trong năm.
“Tháng giêng đến xuân đã phải lo
Nam nữ cầm dao đi phát rừng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
65
Tháng hai dắt trâu cày ruộng mạ”
Tháng Giêng mùa xuân đến cây cỏ lên trong rừng, nam nữ người Dao
Quần Chẹt cầm dao lên rừng phát quang. Đến tháng Hai dắt trâu đi cày, tháng
Ba cây mạ mọi nơi xanh… cứ thế tuần tự lần lượt hết các tháng trong năm
người Dao Quần Chẹt lao động không biết mệt mỏi, mong cho bản làng no ấm,
đủ đầy.
“Lập đông mọi thứ trồng không nên”.
Mùa đông đến cái giá lạnh bao trùm khắp bản làng, nương rẫy, người
Dao Quần Chẹt biết được điều đó nên đã đúc kết rằng khi mùa đông tới không
thích hợp để trồng chọt bất cứ loại cây nào.
“Tháng giêng con rắn hóa thành rồng
Tháng hai con lợn nhảy khỏi chuồng
Tháng ba ngựa trắng đi chơi chợ
Tháng tư chuột con đi trên mây
Tháng năm dê đen đứng trên tảng đá
Tháng sáu nghé con nở như hoa nở
Tháng bảy khỉ đen kêu trên cây
Tháng tám hổ hoang đi trên núi
Tháng chín gà vàng gáy trong lồng
Tháng mười mèo con ngủ gần bếp
Tháng mười một chó con chạy khắp thôn
Tháng 12 rồng vàng lui về biển”.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
66
(Bài ca mười hai tháng – Bài hai)
Khác với Bài một, trong “Bài ca mười hai tháng – Bài hai” của người
Dao Quần Chẹt lại thể hiện sự hiểu biết của con người với tự nhiên thông qua
các loài vật nuối, các loài chim thú trên rừng. Điều này cho thấy sự gần gũi,
gắn bó của con người đối với tự nhiên, mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên là mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau.
Như vậy có thể thấy thơ ca của người Dao Quần Chẹt cũng thể hiện sự
hiểu biết, trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Thông qua việc phản
ánh tình hình lao động, thơ ca người Dao Quần Chẹt còn đồng thời thể hiện
được tình yêu thương, gắn bó của con người với tự nhiên. Đây là một trong
những biểu hiện của văn hóa sinh thái rõ nét.
2.2.3 Tín ngưỡng, lễ hội dân gian
Trong lịch sử phát triển của loài người, con người luôn phải nương tựa,
lệ thuộc vào thiên nhiên để sinh sống. Vũ trụ và thiên nhiên luôn là những bí
ẩn mà con người cần giải đáp. Trước thiên nhiên hùng vĩ, bí ẩn, con người
dường như trở nên nhỏ bé. Người Dao Quần Chẹt cũng như nhiều dân tộc
khác ở Việt Nam, hoạt động kinh tế cổ truyền chủ yếu là nông nghiệp nương
rẫy du canh du cư kết hợp với săn bắn, hái lượm thì việc họ phải chịu những
tác động, những sự chi phối của thiên nhiên là tất yếu. Và khi họ không thể
giải thích các hiện tượng tự nhiên theo khoa học thì những hiện tượng đó trở
thành những thế lực siêu nhiên, siêu phàm với những năng lực đặc biệt có khả
năng quyết định đến vận mệnh của họ.
Trong tâm thức của người Dao Quần Chẹt đã được hình thành từ bao đời
nay, thế giới được cai quản bởi các vị thần linh. Trong quan niệm của người
Dao Quần Chẹt ở xã Ba Vì, lực lượng thế giới siêu nhiên vô cùng phức tạp,
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
67
các lực lượng siêu nhiên này có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống của con
người, với những hoạt động của thôn bản. Ngoài việc quan niệm con người có
12 hồn trên các bộ phận cơ thể ra thì đối với thiện nhiên, người Dao Quần
Chẹt quan niệm mọi sự vật đều có linh hồn. Người Dao Quần Chẹt quan niệm
rằng sông sối, cây cối, núi rừng đều có những loại ma riêng. Những loại ma
này cùng với linh hồn của những người chết không bình thường trở thành ma
dữ, thường gây hại cho con người, mùa màng và gia súc nên đồng bào phải
thường xuyên cúng bái. Việc thờ cúng các thần linh, các loại ma có liên quan
đến tự nhiên biểu hiện sự nhớ ơn và tôn thờ sức mạnh, cầu ban phúc cho con
người, gia súc của người Dao Quần Chẹt đến tự nhiên.
Gắn liền với các tín ngưỡng tôn thờ tự nhiên của người Dao Quần Chẹt
là những lễ hội cộng đồng. Lễ hội dân gian là một bộ phận đặc sắc không thể
thiếu trong kho tàng di sản văn hóa của người Dao Quần Chẹt. Cũng như lễ
hội của các tộc người khác, lễ hội của người Dao Quần Chẹt là một sinh hoạt
tổng hợp gồm các mặt tinh thần, vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa
nghệ thuật. Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hóa không thể thiếu
của tộc người. Lễ hội chiếm một khoảng thời gian khá lớn với nhiều hoạt
động phong phú và nó hướng con người tới niềm tin, mơ ước về một cuộc
sống tốt đẹp hơn, sức khỏa dồi dào, mùa màng bội thu… Nội dung chính
trong các lễ hội của người Dao Quần Chẹt mang đậm tính nhân sinh, tập trung
vào việc cầu tài lộc, cầu mùa, cầu mưa, cầu thần linh, trừ tà ma…
Trình tự diễn ra lễ hội cũng bao gồm hai phần là phần lễ và phần hội.
Phần lễ bao gồm hoạt động, nghi thức cầu, cúng, lễ, tế. Phần hội là các sinh
hoạt văn hóa văn nghê,trò diễn. Địa điểm diễn ra lễ hội là một không gian
rộng lớn trong thôn, nơi có môi trường tự nhiên sạch, trong lành thoáng đãng.
Trong lễ hội thầy cúng đọc bài cầu cúng cho mưa thuận gió hòa, mùa màng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
68
tươi tốt, sức khỏe mạnh mẽ, dẻo dai. Cầu mong mọi sự yên bình, mọi người
an lành, con người thi nhau bảo vệ rừng, môi trường sinh thái, phát triển sản
xuất cho người Dao Quần Chẹt hết đói nghèo.
Ngoài những lễ hội mang tính đặc trưng như lễ “Cấp sắc”, lễ “Nhảy
lửa” thì các lễ hội mang tính cộng đồng của người Dao Quần Chẹt đều hướng
về thiên nhiên, các vị thần rừng, sông suối. Điều nay cho thấy trong tín
ngưỡng và lễ hội của người DaoQuần Chẹt, những giá trị văn hóa sinh thái
được thể hiện rõ nét. Thông qua việc thờ cúng các lực lượng tự nhiên đã cho
thấy con người có mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên. Các giá trị văn hóa
sinh thái được thể hiện, lồng ghép đan xen với các giá trị văn hóa, tín ngưỡng
truyền thống khiến cho văn hóa sinh thái được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Trong thời gian một năm, người Dao Quần Chẹt có bốn lễ lớn. Thứ nhất là lễ
Thanh Minh được tổ chức vào đầu mùa xuân nhằm cảm tạ ơn đức của tổ tiên
đã phù hộ, che chở cho gia đình trong suốt một năm qua. Thứ hai là lễ Cầu an,
lễ Cầu an được tổ chức vào mùa hè. Khi lễ Cầu an diễn ra, mọi thành viên
trong gia đình, các hộ trong làng đều một lòng hướng về tổ tiên, các vị thần
linh và Bàn Vương để cầu mong cho sự no ấm của bản làng. Thứ ba đó là lễ
Giằm tháng bảy được tổ chức vào ngày 14 tháng 7 âm lịch hằng năm. Đây là
lễ cúng giao mùa, người Dao Quần Chẹt cầu mong sức khỏe và mùa màng
tươi tốt, bội thu. Và thứ tư đó là lễ tết Nguyên Đán.
Nét đặc trưng trong các sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội của người
Dao Quần Chẹt đó là tục thờ Tản Viên Sơn Thánh. Đệ nhất phúc thần Tản
Viên hay còn gọi là Nam thiên thần tổ, vị tổ của bách thần, vị thần đứng đầu
trong Tứ bất tử. Tản Viên Sơn Thánh là vị thần có công trị thủy, đánh giặc
ngoai xâm, là biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, khi chết trở thành phúc
thần che chở, trừ họa cho nhân dân. Theo truyền thuyết, Đức Thánh Tản Viên
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
69
ngự ở đỉnh núi Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội. Đức Thánh Tản Viên được thờ
tại Đền Và (Đông cung) thuộc xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây – Hà Nội. Tại
Đền Và, bài vị Tản Viên Sơn Thánh được thờ cùng với bài vị của Cao Sơn và
Quý Minh, tục gọi là Tam Vị Đức Thánh Tản. Theo truyền thuyết kể lại Tản
Viên, Cao Sơn và Quý Minh là ba anh em họ. Tản Viên là con ông bác còn
Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em ruột con ông chú. Ba anh em con chú
con bác gắn bó ruột thịt cùng cai quản vùng núi Ba Vì. Ở huyện Ba Vì, Tản
Viên Sơn Thánh được thờ tại Đền Thượng nằm trên núi đỉnh Ba Vì có độ cao
1227m, theo truyền thuyết và Ngọc Phả thì ngôi đền này được xây dựng từ
thời An Dương Vương.
Người Dao Quần Chẹt có tục thờ Tản Viên Sơn Thánh từ khi đến sinh
sống tại vùng rừng núi Ba Vì. Tản Viên Sơn Thánh là vị thần cai quản vùng
núi Ba Vì, người Dao Quần Chẹt sinh sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên,
họ khai thác sản vật của rừng núi Ba Vì nên việc thờ tự Tản Viên Sơn Thánh
là để cảm tạ sự che chở và bảo vệ của Đức Thánh Tản tới cộng đồng người
Dao Quần Chẹt nơi đây. Tục cúng thần núi Tản Viên được người Dao Quần
Chẹt thường được tổ chức năm lần trong một năm trong các khoảng thời gian:
ngày mùng 3 tháng 1, ngày mùng 3 tháng 3, ngày mùng 6 tháng 6, ngày mùng
2 tháng 8 và vào dịp cuối đông tháng 12 theo âm lịch. Thần núi Tản Viên
được người Dao Quần Chẹt thờ cúng tại Miếu làng. Miếu làng không chỉ thờ
thần núi Tản Viên mà còn thờ các vị thần linh cai quản các quả đồi, các dòng
chảy, dòng suối. Mỗi một làng người Dao Quần Chẹt lại có một Miếu thờ.
Trong làng của người Dao Quần Chẹt luôn có một thầy Mo, thầy Mo là người
trực tiếp chịu trách nhiệm thờ cúng thần núi Tản Viên. Khi đến ngày tổ chức
lễ cúng thần núi Tản Viên, các gia dình trong làng tập trung ở nhà ông thầy
Mo để chuẩn bị. Vật phẩm cúng thần núi Tản Viên là gà, lợn, rượu, cơm tẻ…
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
70
Với mỗi làng khác nhau lại có một chu kỳ tổ chức cúng Đại lễ thần núi Tản
Viên khác nhau, thời gian giữa các lần Đại lễ là khoảng từ năm năm hoặc
mười năm một lần. Đại lễ được tổ chức bởi trưởng làng, do trưởng làng khao
vọng. Tục thờ thần núi Tản Viên và các nghi lễ liên quan là một trong những
biểu hiện của giá trị văn hóa sinh thái trong đời sống của người Dao Quần
Chẹt, thể hiện lòng biết ơn tới thần núi Tản Viên đồng thời cũng là hoạt động
thắt chặt mối quan hệ với tự nhiên của người Dao Quần Chẹt
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ
3.1 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
Việt Nam là một đất nước có nhiều tộc người sinh sống và có sự đa dạng
về các loại địa hình khác nhau. Những tộc người cư trú tại các khu vực có
diều kiện tự nhiên giống nhau có thể hình thành nên những nền văn hóa tương
đồng, tồn tại song hành với nhau. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng, quyết định
và chi phối của tự nhiên đến đời sống con người. Con người tác động ngược
trở lại tới tự nhiên thông qua văn hóa sinh thái.
Người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – Hà
Nội có nguồn gốc từ Trung Quốc, họ đã di cư đến vùng Vĩnh Yên, Phú Thọ
nước ta từ khoảng thế kỷ thứ XVII, XVIII rồi dần di chuyển lên sinh sống tại
vùng núi Ba Vì hiện nay. Qua quá trình thích nghi với điều kiện tự nhiên tại
khu vực rừng núi Ba Vì, người Dao Quần Chẹt đã hình thành nên những mối
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
71
quan hệ mật thiết, khăng khít với tự nhiên, môi trường. Biểu hiện cho mối
quan hệ mật thiết đó chính là những giá trị văn hóa sinh thái của người Dao
Quần Chẹt. Những giá trị văn hóa sinh thái này góp phần điều chỉnh, quy định
hành vi ứng xử của con người với môi trường tự nhiên.
3.1.1 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt thể hiện tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên
Để đáp ứng được những nhu cầu trong sinh hoạt của mình, người Dao
Quần Chẹt cần có những lượng vật chất để tồn tại. Người Dao Quần Chẹt phải
khai thác các sản vật từ tự nhiên, khu vực rừng núi Ba Vì. Không chỉ có việc
khai thác tự nhiên, người Dao Quần Chẹt còn có những hoạt động mang tính
chủ động cải tạo tự nhiên theo hướng tích cực, phục vụ cho nhu cầu của cuộc
sống. Đối với mỗi tộc người khác nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức của
tộc người đối với việc tác động vào tự nhiên mà hình thành nên những quan
niệm khác nhau trong mối quan hệ tự nhiên – con người. Có những quan niệm
cho rằng con người hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, có quan niệm lại cho
rằng thiên nhiên là tùy ý con người khai thác sử dụng… Nhưng người Dao
Quần Chẹt tại Ba Vì lại có tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên. Điều này cho
thấy trong nhận thức của cộng đồng Dao Quần Chẹt đã hiểu rất rõ vai trò của
tự nhiên với cuộc sống của con người. Con người không phải là kẻ thống trị
vạn vật mà chỉ là một phần trong tự nhiên mà thôi. Chung sống hài hòa, thiết
lập mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ giữa con người với tự nhiên là điều cấp thiết
nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của cộng đồng. Tư tưởng sống hòa
hợp với tự nhiên là một giá trị văn hóa sinh thái truyền thống nổi bật, hình
thành từ lâu đời, được truyền thụ qua nhiều thế hệ của người Dao Quẩn Chẹt.
Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên đã làm cho con người có một lối sống sinh
thái lành mạnh, có sự tôn trọng và bảo vệ các điều kiện tự nhiên cần cho sự
sống, không gây ảnh hưởng tới môi trường. Để tồn tại và phát triển, không còn
cách nào khác con người phải chung sống hòa hợp với tự nhiên.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
72
Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên của người Dao Quần Chẹt thể hiện
rõ nét trên các giá trị văn hóa của họ, cả trong những giá trị vật thể và phi vật
thể. Ngôi nhà ở hay bộ trang phục của người phụ nữ Dao Quần Chẹt là minh
chứng cho sự chung sống hòa hợp với thiên nhiên của họ. Thông qua việc
nghiên cứu kiến trúc, kết cấu ngôi nhà ở đã cho thấy sự thích ứng của người
Dao Quần Chẹt với môi trường sống, họ biết cách làm sao tạo ra sự thuận tiện
nhát trong sinh hoạt nhưng vẫn hài hòa giữa tự nhiên, tận dụng mà cũng là
ứng phó với tự nhiên. Hoa văn trang trí, màu sắc hay kiểu dáng của bộ nữ
phục người Dao Quần Chẹt lại thể hiện óc thẩm mỹ cao, sự thực dụng và trình
độ hiểu biết về tự nhiên của họ, tất cả như hòa cùng với dòng chảy sự sống
của tự nhiên.
3.1.2 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt góp
phần bảo vệ, cải tạo tự nhiên theo hướng tích cực
Được hình thành từ lâu đời, trao truyền qua nhiều thế hệ, các giá trị văn
hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt ăn sâu vào các sinh hoạt của cộng
đồng và tiềm thức mỗi con người. Có những giá trị văn hóa sinh thái hiện hữu
dễ dàng nhận thấy được, nhưng cũng có những giá trị tiền ẩn, sâu xa. Thông
qua lối sống, phong tục tập quán hay những quy định bất thành văn về việc
ứng xử với tự nhiên tồn tại trong trong cộng đồng góp phần điều chỉnh, định
hướng cho hành vi của con người. Hay nói cách khác, các giá trị văn hóa sinh
thái giúp cho người Dao Quần Chẹt có lối sống sinh thái lành mạnh, thân
thiện với tự nhiên hơn. Từ việc có những cách ứng xử hài hòa với tự nhiên,
người Dao Quần Chẹt đã có những hành động bảo vệ môi trường. Trong lao
động sản xuất, việc làm nương rẫy người Dao Quần Chẹt không đốt rừng, hủy
hoại hệ sinh thái nữa mà có những biện pháp bảo vệ tự nhiên như chỉ khai
thác rừng non, định canh định cư làm nương rẫy ở một khu vực, trồng mới
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
73
các khu vực rừng đã khai thác… Văn hóa sinh thái là kết quả của quá trình
người Dao Quần Chẹt tác động và cải biến tự nhiên. Các giá trị của văn hóa
sinh thái là những mặt tích cực góp phần tạo ra cho người Dao Quần Chẹt có
một môi trường sống tốt đẹp, hài hòa hơn với tự nhiên. Môi trường tự nhiên
được bảo vệ, các nguồn tài nguyên được khai thác có biện pháp bảo tồn song
song giúp đảm bảo không phá hoại hệ sinh thái, gìn giữ được các nguồn lực
cho những thế hệ mai sau.
3.1.3 Các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
Văn hóa sinh thái yêu cầu con người trong các hoạt động sản xuất phải
có sự kết hợp hài hòa với tự nhiên. Lợi ích của con người dựa trên lợi ích của
xã hội. Các giá trị văn hóa sinh thái có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động
sản xuất kinh tế của người Dao Quần Chẹt. Muốn cộng đồng phát triển thì
việc đầu tiên cần quan tâm đó là nâng cao đời sống vật chất của cộng đồng đó
bằng cách phát triển kinh tế. Đối với cộng đồng Dao Quần Chẹt có hoạt động
kinh tế chủ đạo là nông nghiệp nên việc phụ thuộc vào tự nhiên là tất yếu.
Phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo vệ môi trường góp phần đảm bảo các
nguồn lực không bị suy thoái. Hay nói cách khác, bảo vệ tự nhiên song song
với việc khai thác giúp con người sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
lâu hơn, khoa học hơn, vừa đáp ứng nhu cầu của con người lại giúp cải thiện
tự nhiên theo hướng tích cực hơn. Không chỉ có vậy, các tri thức dân gian của
người Dao Quần Chẹt nằm trong những bài thuốc cổ truyền là nội dung của
văn hóa sinh thái tộc người đã phát triển trở thành nghề thuốc. Người Dao
Quần Chẹt dựa vào nghề bốc thuốc và chữa bệnh có thể tạo ra của cái vật
chất, đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Việc đời sống vật chất của cộng đồng được
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
74
nâng cao, kinh tế phát triển tạo ra nguồn vốn, nguồn quỹ trong cộng đồng
phục vụ cho việc phát triển xã hội. Nguồn quỹ này có thể được sử dụng trong
việc xây dựng các công trình văn hóa, hoặc sử dụng cho các nhu cầu ưu tiên
như y tế, giáo dục… góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nhìn chung, các giá trị văn hóa sinh thái vật thể và phi vật thể của người
Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – Hà Nội có
những nét đặc trưng độc đáo. Các giá trị văn hóa sinh thía này góp phần quy
định và điều chỉnh hành vi ứng xử của cộng đồng Dao Quần Chẹt với môi
trường tự nhiên. Đồng thời, các giá trị văn hóa sinh thái còn góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong bối cảnh đất nước đang đổi mới từng
ngày như hiện nay, việc duy trì các giá trị văn hóa sinh thái và trao truyền góp
phần giáo dục, nâng cao nhận thức cho các thế hệ mai sau thêm hiểu biết về
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Với sự phát triển của xã hội, sự giao
lưu văn hóa giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ, các giá trị văn hóa sinh thái
của người Dao Quần Chẹt phái đối đầu với nhiều thách thức để duy trì và phát
huy, một mặt phải đảm bảo phù hợp với xã hội, mặt khác phải giữ gìn được
bản sắc dân tộc. Trong đời sống và sinh hoạt cộng đồng của người Dao Quần
Chẹt, các giá trị văn hóa sinh thái vẫn luôn được quan tâm và giữ một vị trí
quan trọng, tạo nên bản sắc văn hóa tộc người.
3.2 GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT TẠI VƯỜN QUỐC GIA
BA VÌ
3.2.1 Giải pháp từ phía cộng đồng người DaoQuần Chẹt tại khu vực
Vườn quốc gia Ba Vì
Văn hóa là sản phẩm của con người, do con người tạo ra thông qua hoạt
động sống của mình. Bản chất của văn hóa chính là sự sáng tạo. Con người là
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
75
chủ thể sáng tạo ra văn hóa nhưng đồng thời cũng là khách thể chịu sự chi
phối của văn hóa. Văn hóa cộng đồng góp phần điểu chỉnh hành vi của mỗi cá
nhân những cũng chính mỗi cá nhân trong cộng đồng sẽ là người đưa ra quyết
định ảnh hưởng tới sự tồn vong của mỗi giá trị văn hóa. Những giá trị văn hóa
mang tính tích cực, phù hợp với đời sống sinh hoạt của cộng đồng sẽ được gìn
giữ và trao truyền cho thế hệ khác. Còn những giá trị văn hóa không phù hợp
với cộng đồng sẽ dần mai một và mất đi qua các giai đoạn lịch sử.
Người Dao Quần Chẹt tại Ba Vì là chủ nhân của những giá trị văn hóa
sinh thái đặc sắc. Những giá trị văn hóa sinh thái này được hình thành và trao
truyền qua nhiều thế hệ người Dao Quần Chẹt, nó đã khẳng định được vai trò
và vị trí của mình đối với đời sống cộng đồng Dao Quần Chẹt. Chính vì vậy,
mỗi cá nhân trong cộng đồng Dao Quần Chẹt đều có ý thức giữ gìn và phát
huy những nét đẹp trong văn hóa sinh thái của họ.
Nâng cao trình độ dân trí:
Cộng đồng người Dao Quần Chẹt tại Ba Vì là chủ nhân của những giá trị
văn hóa sinh thái. Để giữ gìn cũng như phát huy hiệu quả của những giá trị
văn hóa sinh thái này thì chính cộng đồng người Dao Quần Chẹt là đối tượng
cần quan tâm nhiều nhất, họ có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ họ là chủ thể
sáng tạo ra những giá trị văn hóa sinh thái đó, những giá trị văn hóa sinh thái
này phục vụ cho lợi ích của họ và nó chỉ được giữ gìn khi chính họ cần nó.
Nâng cao trình độ dân trí là yêu cầu bắt buộc và cần thiết để mỗi cá
nhân trong cộng đồng người Dao Quần Chẹt ý thức được tầm quan trọng của
việc gìn giữ các giá trị văn hóa sinh thái, phát huy các giá trị đó gắn liền phát
triển kinh tế với việc bảo vệ môi trường. Việc nâng cao trình độ dân trí cho
người Dao Quần Chẹt cần có sự phối hợp của các cấp chính quyền, đưa ra
các biện pháp hợp lý đối với từng đối tượng. Cần có sự giúp đỡ của đội ngũ
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
76
cán bộ văn hóa và những người hiểu biết về kho tàng tri thức dân gian, các
giá trị văn hóa sinh thái là người Dao Quần Chẹt. Đối với đối tượng là thế hệ
trẻ, những người sống trong sự tương đối đầy đủ về vật chất, họ chưa ý thức
được tầm quan trọng của các giá trị văn hóa sinh thái với đời sống cần thực
hiện giáo dục các giá trị văn hóa sinh thái cho họ thông qua nhiều kênh thông
tin khác nhau. Cần có sự phối hợp giữa nhà trường với cơ quan chức năng
lồng ghép các giá trị văn hóa sinh thái tộc người vào giảng dạy trong chương
trình học của học sinh trên địa bàn. Cần phát triển công tác giáo dục và mở
rộng hệ thống tuyên truyền để nâng cao trình độ dân trí cho cộng đồng người
Dao Quần Chẹt, giúp họ có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên và về vai trò của con người trong hệ thống con người – xã
hội – tự nhiên.
Thực hiện giáo dục, tuyên truyền các giá trị văn hóa sinh thái cho thế
hệ trẻ:
Song song với việc cộng đồng người Dao Quần Chẹt có ý thức giữ gìn
các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống thì vấn đề nảy sinh hiện nay đó là:
sự giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ giữa các tộc người, sự phát triển của
kinh tế dựa trên khoa học kỹ thuật tiến bộ, sự lơ là của thế hệ trẻ đối với văn
hóa dân tộc đã ảnh hưởng tới việc phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền
thống của người Dao Quần Chẹt tại Ba Vì.
Sự giao lưu văn hóa là điều tất yếu xảy ra giữa các tộc người trong cùng
một khu vực lãnh thổ hoặc trong các vùng lân cận. Giao lưu văn hóa mang
đến nhiều điều mới lạ, các tộc người có sự ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau, có
khi yếu tố văn hóa nội sinh lấn át nhưng cũng có khi yếu tố văn hóa ngoại
sinh lấn át nội sinh. Với trường hợp người Dao Quần Chẹt tại xã Ba Vì, huyện
Ba Vì – Hà Nội thì trong địa bàn xã gồm 3 thôn Yên Sơn, Hợp Nhất, Hợp
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
77
Nhất có 98% dân số là người Dao Quần Chẹt nhưng sự giao lưu văn hóa vẫn
diễn ra mạnh mẽ với các vùng lân cận. Đặc biệt phải kể đến sự giao lưu văn
hóa giữa người Dao và người Kinh. Văn hóa của người Kinh có sự ảnh hưởng
nhất định tới cộng đồng người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì trong đời sống và sinh
hoạt hằng ngày. Biểu hiện của sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa Kinh – Dao
Quần Chẹt thông qua những kiến trúc nhà mới theo kiểu nhà người Kinh,
cách thức lao động hay trong sinh hoạt ăn, mặc ở của người Dao. Sự giao lưu
văn hóa này dẫn đến việc những nét văn hóa cổ truyền của người Dao Quần
Chẹt có xu hướng mờ nhạt đi. Đồng thời sự lơ là của giới trẻ trong cộng đồng
người Dao Quần Chẹt càng khiến cho những giá trị văn hóa sinh thái không
được coi trọng. Nhưng người Dao Quần Chẹt cư trú thành từng thôn bản có
tính cố kết cộng đồng cao, các gia đình cùng họ có xu hướng xích lại gần
nhau hơn nên những nét văn hóa vẫn được duy trì và gìn giữ nhưng sự giao
lưu văn hóa sẽ là khó tránh khỏi. Chính vì vậy, việc thực hiện giáo dục và
tuyên truyền các giá trị văn hóa sinh thái rộng rãi trong cộng đồng người Dao
Quần Chẹt, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ là vô cùng cần thiết. Trong những
thập niên gần đây, khu vực Vườn quốc gia Ba Vì đã trở thành khu bảo tồn, dự
trữ sinh quyển quốc gia. Chính vì vậy những giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt cần được giữ gìn và phát huy để góp phần bảo vệ thiên
nhiên, môi trường khu vực rừng bảo tồn.
Để thực hiện tuyên truyền, giáo dục nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt, các cấp chính quyền cần phối
hợp với người dân ưu tiên hoạt động truyền thông bằng trên các kênh như đài,
báo, truyền hình, tranh tuyên truyền cổ động... Trực tiếp thực hiện các hoạt
động thiết thực góp phần giáo dục văn hóa sinh thái như việc mở các lớp giáo
dục nhận thức về văn hóa sinh thái cho thế hệ trẻ, đưa vấn đề văn hóa sinh
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
78
thái gắn liền với bản sắc văn hóa tộc người và sự phát triển bền vững vào các
cuộc họp, các sinh hoạt cộng đồng. Thế hệ trẻ người Dao Quần Chẹt hiểu rõ
về nét đẹp trong các văn hóa sinh thái là điều kiện cần thiết để lưu truyền và
phát huy các giá trị văn hóa sinh thái.
Xây dựng mô hình du lịch sinh thái gia đình, làng bản:
Hiện nay, du lịch trở thành một hoạt động gắn liền với phát triển kinh tế
và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa. Hình thức du lịch sinh thái và du lịch
văn hóa tộc người hiện nay đang rất được ưa thích và phát triển mạnh. Đã có
nhiều mô hình du lịch sinh thái được xây dựng, hoạt động và rất thành công.
Việc áp dụng xây dựng các mô hình du lịch sinh thái tư nhân cá thể và du lịch
sinh thái làng bản có thể được thực hiện từ phía cộng đồng người Dao Quần
Chẹt kết hợp với Ban quản lý Vườn quốc gia Ba Vì. Các mô hình du lịch sinh
thái như vậy sẽ góp phần bảo lưu các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao
Quần Chẹt. Không chỉ có vậy, phát huy các giá trị văn hóa sinh thái gắn liền
với hoạt động du lịch góp phần cải thiện kinh tế, tạo ra nguồn thu nhập cho
người Dao Quần Chẹt. Khi kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện thì các
vấn đề của cộng đồng, xã hội sẽ được giải quyết, tạo tiền đề hướng tới sự phát
triển bền vững tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì của người Dao Quần Chẹt.
Xây dựng khu trưng bày, nhà truyền thống bảo tồn và giới thiệu các
giá trị văn hóa sinh thái:
Xây dựng khu trưng bày giới thiệu nét đẹp trong các giá trị văn hóa sinh
thái là hoạt động có tính khả thi cao. Kết hợp với việc trưng bày các sản phẩm
đặc trưng cho văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt có thể bày bán các
vật phẩm quà lưu niệm như trang phục, đồ thủ công, các phương thuốc cố
truyền… Việc xây dựng khu trưng bày về văn hóa sinh thái sẽ góp phần tích
cực trong hoạt động phát triển du lịch. Để có thể thực hiện được cần có sự kết
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
79
hợp giữa các cơ quan văn hóa và cộng đồng người Dao Quần Chẹt. Các cơ
quan văn hóa đảm bảo việc hoạt động và nội dung của khu trưng bày, cộng
đồng người Dao Quần Chẹt đóng góp các sản phẩm trưng bày và cùng cộng
tác với cán bộ chuyên môn nghiên cứu nội dung trung bày các giá trị văn hóa
sinh thái, tạo ra các hoạt động triển lãm theo chủ đề…
Tổ chức và duy trì các hoạt động văn hóa, lễ hội cộng đồng, thi tìm
hiểu về văn hóa sinh thái:
Việc duy trì và tổ chức các lễ hội mang tính cộng đồng là hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa, tinh thần của người Dao
Quần Chẹt. Hoạt động lễ hội có sự tích hợp của nhiều dạng sinh hoạt văn hóa,
các lễ hội mang tính cộng đồng diễn ra định kỳ là tạo điều kiện cho các giá trị
văn hóa sinh thái được lưu truyền rộng rãi.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các giá trị văn hóa nói chung là văn hóa
sinh thái tộc người nói riêng dành cho cộng đồng người Dao Quần Chẹt.
Thông qua những cuộc thi đó, các giá trị văn hóa sinh thái tộc người được
tuyên truyền rộng rãi, giúp cho văn hóa sinh thái thấm dần trong tiềm thức
của mỗi người. Chỉ khi người Dao Quần Chẹt hiểu rõ và ý thức về sự cần
thiết và vai trò quan trọng của văn hóa sinh thái đối với việc phát triển kinh tế,
bảo vệ môi trường thì họ mới trân trọng và có ý thức bảo tồn những giá trị
văn hóa đó.
3.2.2 Giải pháp từ phía các cấp chính quyền
Để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa sinh thái đặc trưng của
người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, không chỉ xuất phát
từ phía chủ nhân của những giá trị văn hóa đó mà cần có sự kết hợp của các
cấp chính quyền, các cơ quan chức năng có liên quan trong lĩnh vực văn hóa.
Các cơ quan chức năng có vai trò định hướng để người Dao Quần Chẹt nhận
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
80
thức đúng đắn và vai trò quan trọng của những giá trị văn hóa sinh thái trong
đời sống sinh hoạt. Từ đó có sự kết hợp từ hai phía giữa người quản lý hoạt
động văn hóa và chủ nhân những giá trị văn hóa sinh.
Phát triển kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
cho đồng bào người Dao Quần Chẹt trong vùng:
Đây được xem là giải pháp quan trọng nhất, là cơ sở kinh tế cần thiết để
đảm bảo cho hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái đạt
hiệu quả cao nhất. Khi khắc phục được vấn đề kinh tế khó khăn, cuộc sống
của người Dao được đảm bảo hơn, các nhu cầu về vật chất được nâng cao sẽ
góp phần giảm đi những hủ tục lạc hậu trong sinh hoạt không còn thích hợp
với xã hội hiện đại nữa. Khi kinh tế không còn khó khăn nữa tạo điều kiện
cho các hoạt động giáo dục, y tế… giúp cho người Dao Quần Chẹt nâng cao
hiểu biết, nâng cao nhận thức về vai trò và nội dung của việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Mặt khác còn tạo điều kiện
giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ giữa cộng đồng người Dao Quần
Chẹt và tự nhiên, tránh các hiện tượng như phá rừng, khai thác tài nguyên
một cách kiệt quệ…
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế cho cộng đồng người Dao
Quần Chẹt tại Ba Vì, các cấp chính quyền và cơ quan chức năng cần:
Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
việc xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực
miền núi khó khăn, vùng 135…
Vận động đồng bào người Dao Quần Chẹt thay đổi phương thức sản
xuất nông nghiệp du canh sang định canh định cư, hạn chế mô hình kinh tế tự
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
81
cấp tự túc. Tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường hòa nhập phát triển trong
đời sống cộng đồng.
Giúp đỡ vốn, cây giống và khoa học kỹ thuật cho người Dao Quần Chẹt
trong sản xuất nông nghiệp, bên cạnh việc trồng cây nông nghiệp ngắn ngày
có thể phát triển các loại cây công nghiệp thích hợp với điều kiện tự nhiên của
vùng. Hỗ trợ con giống gia súc cho đồng bào người Dao Quần Chẹt kết hợp
chăn nuôi gia súc với sản xuất nông nghiệp.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu các giá trị văn hóa sinh thái của
người Dao Quần Chẹt:
Đây là một trong những điều kiện quan trọng cần thiết cho việc bảo tồn
các giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt. Bời vì, đội ngũ cán bộ
chuyên môn, các nhà khoa học nghiên có những nghiên cứu chính xác về văn
hóa sinh thái giúp nhận biết được những giá trị nào cần được bảo tồn và phát
huy. Từ đó giúp đưa ra các biện pháp thích hợp khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa sinh thái truyền thống.
Đồng thời giúp cho chúng ta giữ lại những giá trị văn hóa sinh thái truyền
thống đích thực còn phù hợp với xã hội, loại bỏ đi những hủ tục không còn
phù hợp với sự phát triển của xã hội nữa.
Để thực hiện tốt công tác nghiên cứu các giá trị văn hóa sinh thái truyền
thống của người Dao Quần Chẹt cần đảm bảo:
Đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật, các phương tiện cần thiết trong việc
nghiên cứu, đánh giá các giá trị văn hóa sinh thái.
Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, chuyên viên trong
lĩnh vực văn hóa.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
82
Đầu tư cải thiện và nâng cao cơ sở vât chất hạ tầng ở khu vực người
Dao Quần Chẹt sinh sống:
Cải thiện và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng tại khu vực xã Ba Vì, huyện
Ba Vì – Hà Nội là ưu tiên hàng đầu trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi
thúc đẩy giao lưu văn hóa, kinh tế trong vùng và với các vùng lân cận. Xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội là một xã vùng núi, việc nâng cao chất lượng cơ sở hạ
tầng, khắc phục những khó khăn còn tồn đọng còn giúp cho hoạt động khai thác,
sử dụng các nguồn tài nguyên hợp lý hơn. Để góp phần nâng cao cơ sở hạ tầng
tại địa bàn xã Ba Vì , huyện Ba Vì – Hà Nội cần thực hiện:
Có sự chuẩn bị về thiết kế, quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng sao cho
phù hợp với điều kiện thực tế của xã Ba Vì, huyện Ba Vì – Hà Nội.
Ưu tiên nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, không chỉ sử dụng
nguồn vốn của Nhà nước, cần huy động và tận dụng các nguồn vốn khác.
Sử dụng hợp lý, khoa học các nguồn vốn đầu tư cho việc cải thiện và
nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng.
Nhìn chung, để hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh
thái được thực hiện tốt cần có sự kết hợp giữa cộng đồng người Dao Quần
Chẹt và các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền. Từ trong chính cộng
đồng người Dao Quần Chẹt cần ý thức được tầm quan trọng trong việc giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái của mình. Đồng thời các cấp
chính quyền, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh nghiên cứu vận dụng các
giá trị văn hóa sinh thái vào trong hoạt động phát triển kinh tế, nâng cao chất
lượng đời sống xã hội theo hướng bền vững, đưa ra các giải pháp thích hợp
cho từng trường hợp cụ thể quyết định gìn giữ những nét văn hóa còn phù hợp
hay loại bỏ những hủ tục lạc hậu không còn thích hợp với xã hội.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
83
3.3 BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI
DAO QUẦN CHẸT HƯỚNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI
VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ, XÃ BA VÌ, HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
Quan điểm về Phát triển bền vững bắt đầu được quan tâm từ Hội nghị
quốc tế về môi trường do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Stockhom (Thụy Điển)
năm 1972 với việc đưa ra khái niệm “Phát triển phù hợp với sinh thái” và
quan điểm này chỉ thực sự ra đời với sự xuất hiện của Báo cáo “Tương lai của
chúng ta” của Ủy ban Brundtland do WCED (Ủy Ban môi trường và Phát
triển thế giới) soạn thảo và công bố năm 1987. Khi xem xét khái niệm “Phát
triển bền vững”, tùy theo góc độ nghiên cứu và nội hàm nghiên cứu của nó
được xác định ở phạm vi, mức độ khác nhau. Cho đến nay đã có khoảng 70
định nghĩa về phát triển bền vững.
Với quan điểm này, phát triển bền vững là sự phát triển có sự kết hợp hài
hòa giữa sự đáp ứng của nhu cầu của thế hệ hiện tại với cả nhu cầu của thế hệ
tương lai, tuyệt đối không vì thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà vi phạm
đến lợi ích của các thế hệ mai sau.
Có quan niệm cho rằng: “Phát triển bền vững là quy luật phổ biến của
thế giới vật chất. Phát triển bền vững là quá trình vận động tích cực mà trong
đó nguồn lực của sự phát triển luôn luôn được tái sinh, môi trường và hệ sinh
thái luôn luôn có khả năng đáp ứng tốt các nhu cầu của con người, kể cả con
người của thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai”.
Hay quan niệm: “Sự phát triển bề vững của một xã hội là một một quá
trình vận động của xã hội theo khuynh hướng các nguồn lực của sự phát triển
ngày càng được duy trì để chất lượng cuộc sống và điều kiện môi trường sống
của con người ngày càng được đảm bảo và nâng cao”.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
84
Các quan niệm, khái niệm trên đều có chung một đặc điểm đó là mục
tiêu của phát triển bền vững nhằm tận dụng, khai thác các nguồn lực của xã
hội một cách có kế hoạch, khoa học. Sử dụng các nguồn lực ở thế hệ hiện tại
phải đồng thời đảm bảo các nguồn lực không bị kiệt quệ, không mất đi, từ đó
không gây ảnh hưởng đến lợi ích của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững của
một xã hội là việc gắn liền phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên môi
trường. Để một xã hội đạt đến sự phát triển bền vững cần có sự phát triển bền
vững ở các linh vực: Kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và phát triển bền
vững cả về con người – chủ nhân của xã hội. Trong đó, phát triển bền vững về
kinh tế, văn hóa, môi trường luôn được quan tâm đặc biệt và có mối liên hệ
mật thiết, khăng khít giữa các lĩnh vực. Giữa văn hóa sinh thái và phát triển
bền vững của một xã hội cũng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái hướng tới sự phát
triển bền vững:
Trong sự phát triển nhanh chóng của đất nước hiện nay về mọi mặt kinh
tế, chính trị, xã hội… thì phát triển kinh tế đang là ưu tiên hàng đầu, trở thành
mục trọng tâm phát triển của đất nước. Kinh tế phát triển tạo tiền đề cho
những lĩnh vực khác được phát triển, hay nói cách khác tạo ra càng nhiều của
cải vật chất càng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Nhưng để
phát triển kinh tế, xã hội phải đầu tư và sử dụng toàn bộ các nguồn lực, khai
thác mạnh mẽ tài nguyên thiên nhiên. Chính vì vậy, nguồn tài nguyên thiên
nhiên bị ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo theo những vấn đề về sinh thái, môi
trường ô nhiễm…
Để phát triển kinh tế mà không gây ảnh hưởng tới môi trường, không tạo
ra những tác động tiêu cực đến đời sống của con người cần có một kế hoạch
phát triển bền vững. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
85
minh con người luôn chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên, phụ thuộc vào
tự nhiên để sinh tồn. Vì vậy cần đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ giữa con
người – văn hóa – tự nhiên. Con người trong hoạt động cải tạo và tận dụng tự
nhiên đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa sinh thái. Từ đó con người ứng xử
với tự nhiên, môi trường một cách có văn hóa, những giá trị văn hóa sinh thái
này góp phần điều chỉnh hành vi của con người tác động vào tự nhiên. Như
vậy, văn hóa sinh thái có một vai trò quan trọng trong việc duy trì mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên. Văn hóa sinh thái phải là một văn hóa ứng xử
với môi trường phù hợp với yêu cầu của sự phát triển bền vững. Văn hóa sinh
thái được biểu hiện ở những giá trị về mối quan hệ hài hòa giữa con người với
tự nhiên, các giá trị đạo đức, tâm lý, tập quán, lối sống… Đồng thời nó còn
được thể hiện qua sự quản lý khoa học môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Cộng đồng người Dao Quần Chẹt sinh sống tại địa bàn xã Ba Vì, huyện
Ba Vì – Hà Nội có phong tục, tập quán sinh hoạt phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên. Vùng rừng núi Ba Vì nơi họ sinh sống có nguồn tài nguyên thiên nhiên
hết sức phong phú và đa dạng, nhưng hiện nay khu vực rừng núi Ba Vì đã
được quy hoạch thành Vườn quốc gia Ba Vì, là khu bảo tồn dự trữ sinh quyển
lớn trong nước. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tập quán sinh hoạt, sản
xuất của người Dao Quần Chẹt. Người Dao Quần Chẹt không thể tự do khai
thác nguồn tài nguyên như trước đây nữa thì vấn đề đặt ra hiện nay đối đó là
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào
người Dao Quần Chẹt những vẫn giữ gìn và phát huy được nét đẹp trong văn
hóa sinh thái, văn hóa tộc người, hướng đến sự phát triển bền vững tại khu
vực Vườn quốc gia Ba Vì.
Vận dụng các giá trị văn hóa sinh thái phục vụ cho việc nâng cao chất
lượng đời sống, phát triển kinh tế theo hướng bền vững của người Dao Quần
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
86
Chẹt ở khu vực Vườn quốc gia Ba Vì cần tạo ra sự cân bằng trong hiệu quả
kinh tế với vấn đề môi trường. Để một cộng đồng hay một xã hột đạt đến sự
phát triển bền vững cần có sự phát triển bền vững từ nhiều lĩnh vực: Kinh tế,
Văn hóa, Con người, Môi trường.
Phát triển bền vững về kinh tế: Cần có sự hài hòa trong mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong việc khai thác các nguồn tài nguyên. Nhưng hiện
nay người Dao Quần Chẹt không được khai thác, thậm chí việc sử dụng đất
trong khu vực bảo tồn cũng có nhiều khó khăn thì cần phải thay đổi phương
thức sản xuất, thay đổi phong tục tập quán sinh hoạt. Nếu như trước đây có
thể khai thác các nguồn tài nguyên rừng như gỗ, dược liệu… thì hiện nay cần
có kế hoạch đổi mới trong hoạt động sản xuất. Người Dao Quần Chẹt có thể
định canh tại một khu vực nương rẫy nhất định, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
xóa bỏ hình thức “độc canh” trong sản xuất nông nghiệp. Đối với việc sử
dụng gỗ hay các loại lâm sản có thể khai thác tại các ku rừng non không nằm
trong khu vực bảo tồn. Đồng thời quy hoạch, hình thành các khu vườn chuyên
trồng các loại dược liệu cần thiết trong các bài thuốc của người Dao Quần
Chẹt. Các khu vườn thuốc này không chỉ đáp ứng được nhu cầu sử dụng của
người Dao Quần Chẹt mà còn góp phần bảo tồn các loại thực vật, sinh vật.
Song song với việc chuyển đổi phương thức sản xuất, sinh hoạt người Dao
Quần Chẹt cần hòa nhập với nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh giao lưu buôn
bán trong khu vực cũng như với các khu vực khác. Kinh tế thị trường giúp
nâng cao đáng kể chất lượng đời sống, dần xóa bỏ hình thức sinh hoạt tự cấp
tự túc của người Dao Quần Chẹt. Như vậy sẽ tạo ra được sự bền vững trong
kinh tế, người Dao Quần Chẹt không gây những tác động tiêu cực đến môi
trường sinh thái. Những giá trị văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
87
vẫn được suy trì và giữ vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người với tự nhiên.
Phát triển bền vững về văn hóa: Đây cũng là một vấn đề cần đề cập đến.
Trong bối cảnh giao lưu văn hóa giữa các tộc người, giữa các khu vực diễn ra
mạnh mẽ thì những giá trị văn hóa nói chung và văn hóa sinh thái của người
Dao Quần Chẹt nói riêng cần được quan tâm đặc biệt. Mỗi một tộc người sinh
sống tại một khu vực khác nhau sẽ hình thành nên những nét văn hóa đặc
trưng. Việc duy trì những nét văn hóa tộc người đó tạo nên sự đa dạng trong
cái chung của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa sinh thái của người Dao Quần
Chẹt góp phần xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, mang bản sắc riêng của tộc
người. Để đạt được sự phát triển bền vững về văn hóa, cộng đồng người Dao
Quần Chẹt cần có ý thức giữ gì và phát huy những giá trị văn hóa của mình,
đồng thời tiếp thu các giá trị văn hóa của các tộc người khác, từ đó phát huy
những giá trị văn hóa tốt đẹp, còn phù hợp với xã hội.
Phát triển bền vững về môi trường: Vai trò của văn hóa sinh thái rất quan
trọng trong việc phát triển môi trường bền vững. Con người luôn luôn tác
động, cải biến tự nhiên phục vụ cho mục đích và nhu cầu của cuộc sống.
Chính vì vậy giới tự nhiên phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ những hoạt
động của con người. Chúng ta cần biết rằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
không phải là vô tận, những thứ con chúng khai thác mạnh mẽ cho những nhu
cầu của cuộc sống có những loại tài nguyên tái sinh và những loại tài nguyên
không tái sinh. Để phát triển bền vững về môi trường tại khu vực Vườn quốc
gia Ba Vì thì cộng đồng người Dao Quần Chẹt có kế hoạch khai thác và sử
dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý kết hợp với công tác khôi phục, bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên. Con người thiết lập được mối quan hệ hài hòa với tự
nhiên thì tự nhiên, môi trường mới đạt đến sự phát triển bền vững.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
88
Phát triển bền vững về con người: Đây không chỉ là mục tiêu hướng đến
sự bền vững của cộng đồng người Dao Quần Chẹt tại khu vực Vườn quốc gia
Ba Vì mà nó còn là mục tiêu chung của toàn xã hội. Đầu tư cho việc phát
triển con người, phát triển nguồn nhân lực là việc làm đúng đắn cho sự phát
triển của xã hội: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Đối với cộng đồng
người Dao Quần Chẹt để có sự phát triển bền vững về con người cần: Nâng
cao chất lượng đời sống, tập trung đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe
cộng đồng. Bên cạnh đó cần tổ chức các hoạt động, sinh hoạt văn hóa đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện. Trong đó, nâng cao trình độ dân trí và sức khỏe cộng đồng là nhiệm vụ
hàng đầu cần được quan tâm.
Như vậy, để đạt đến sự phát triển bền vững của cộng đồng Dao Quần
Chẹt tịa khu vực Vườn quốc gia Ba Vì, xã Ba Vì – Hà Nội trước hết cần có sự
phát triển bền vững về kinh tế, môi trường, con người và văn hóa. Để đạt
được thành công cần có sự kết hợp giữa các cấp chính quyền và cộng đồng
người Dao Quần Chẹt, trong đó người Dao Quần Chẹt giữ vai trò quyết định
dối với vận mệnh của mình.
KẾT LUẬNTrong những thập niên gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội,
con người tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên. Điều này gây ra nhiều
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, các vấn đề về môi trường có liên quan
đến văn hóa được đề cập đến thường xuyên. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về
môi trường sinh thái và văn hóa sinh thái ở nước ta được quan tâm. Văn hóa
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
89
sinh thái là một nội dung của văn hóa, những giá trị văn hóa sinh thái có vai
trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi ứng xử của con người đối với
môi trường tự nhiên, thể hiện trình độ hiểu biết và khả năng chinh phục tự
nhiên của con người. Đồng thời văn hóa sinh thái còn giữ vai trò thiết lập mối
quan hệ hài hòa giữa con người và môi trường tự nhiên.
Người Dao Quần Chẹt là một bộ phận của cộng đồng người Dao ở Việt
Nam. Người Dao Quần Chẹt vẫn còn nhiều khó khăn trong đời sống cần được
các cấp chính quyền quan tâm. Sinh sống tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì,
xã Ba Vì – Hà Nội, người Dao Quần Chẹt đã hình thành nên những giá trị văn
hóa sinh thái đặc trưng. Văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt thấm
đẫm tình yêu thiên nhiên, tư tưởng sống hòa hợp giữa con người và môi
trường tự nhiên. Chính tư tưởng này hình thành nên mối quan hệ qua lại theo
hướng tích cực giữa người Dao Quần Chẹt với môi trường tự nhiên. Những
giá trị văn hóa sinh thái đã tác động mạnh đến hoạt động bảo vệ và cải tạo tự
nhiên của người Dao Quần Chẹt. Cải tạo và bảo vệ tự nhiên chính là một
trong những phương thức sinh tồn của con người, góp phần tái tạo những
nguồn lực từ tự nhiên, đảm bảo cho lợi ích của thế hệ hiện tại cũng như các
thế hệ tương lai. Vận dụng những giá trị văn hóa sinh thái này giúp cho người
Dao Quần Chẹt tại Ba Vì phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng đời
sống. Chính vì vậy, chúng ta cần có những biện pháp bảo tồn và phát huy
những giá trị tốt đẹp trong văn hóa sinh thái của người Dao Quần Chẹt hướng
đến sự phát triển bền vững tại khu vực Vườn quốc gia Ba Vì.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Phụng, Nguyễn Nam Tiến (1971), Người Dao
ở Việt Nam.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Sinh thái học và môi trường, Nhà xuất bản
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
90
Giáo dục, Hà Nội.
3. Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Sở
Văn hóa Thông tin Hà Giang xuất bản.
4. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Anh Cường (2001), Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt
Nam, Luận án TS Lịch sử, Viện dân tộc học.
6. Nguyễn Khắc Tụng (1977), Nhà cửa của người Dao xưa và nay.
7. Nguyễn Ngọc Ân (2011), Hoa văn trên trang phục cổ truyền của người
Dao ở miền núi phía bắc Việt Nam, Luận án TS Văn hóa học, Viện
Khoa học xã hội.
8. Phạm Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn (1971), Xác minh tên gọi và phân nhóm
các nghành Dao ở Tuyên Quang.
9. Phạm Minh Phúc (2012), Nhà người Dao áo dài ở Hà Giang, Luận án TS
Nhân học, Viện Khoa học xã hội.
10. Phạm Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái – Vấn đề và giải pháp,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Phạm Quang Hoan - Hùng Đình Quý (1999), Văn hóa truyền thống
người Dao ở Hà Giang, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
12. Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm
Thị Ngọc Trầm (2001), Văn hóa sinh thái - nhân văn, Nhà xuất bản
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
13. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
91
14. Trần Quốc Vương (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm
Mỹ Dung, Trần Thuý Anh (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
15. Trần Thị Hồng Loan (2012), Vấn đề văn hóa sinh thái trong sự phát triển
bền vững ở Việt Nam hiện nay, Luận án TS Triết học, Viện Khoa học
xã hội.
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
92
DANH SÁCH CÁ NHÂN CUNG CẤP THÔNG TIN
Họ tên Tuổi Địa chỉ Nghề nghiệp
Triệu Thị Bảy 60 Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy thuốc
Triệu Tiến Thi 60 Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Nông nghiệp
Triệu Thị Hòa 60 Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy thuốc
Triệu Thị Đông 59 Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy thuốc
Dương Đức Nguyên 68 Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy thuốc
Triệu Thị Thanh 68 Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy thuốc
Dương Đức Tiến 66 Thôn Hợp Nhất, xã Ba Vì,
huyện Ba Vì – Hà Nội
Thầy Mo
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
93
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC----------------------------
DƯƠNG MẠNH THẮNG
VĂN HÓA SINH THÁI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ – XÃ BA VÌ
HUYỆN BA VÌ – HÀ NỘI
PHỤ LỤC
Hà Nội - 2014
94
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
95
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
96
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
97
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
98
Nhà nền đất của người Dao Quần Chẹt
(Ảnh tác giả)
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
99
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
100
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
101
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
102
Vườn cây thuốc của người Dao Quần Chẹt
(Ảnh tác giả)
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
103
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
104
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
105
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
106
Quần và áo nữ người Dao Quần Chẹt
(Ảnh tác giả)
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí
107
Quang cảnh Vườn quốc gia Ba Vì
(Ảnh internet)
VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí