i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/thang08/13/van_dung_thi... · web viewbám sát...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN TIẾN DŨNG
VẬN DỤNG THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG
ĐẠI VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM ĐƯỜNG
LUẬT
Ở LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Chữ
HÀ NỘI - 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi lời tri ân và biết ơn sâu sắc đến Thầy - Phó giáo sư
- Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, động
viên, khích lệ em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Khoa sau đại học,
Trường Đại học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và
tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy trong Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo,
bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy, công tác tại trường THPT Giao Thủy C,
trường THPT Quất Lâm, cũng như Sở giáo dục – Đào tạo tỉnh Nam Định, đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi được học tập nghiên cứu để hoàn thành khóa học.
Xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình dành cho tôi sự quan tâm, chia
sẻ, động viên, khích lệ trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để tôi hoàn
thành luận văn này.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Dũng
ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP : Đại học Sư phạm
GS : Giáo sư
NXB : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
THPT : Trung học phổ thông
TS : Tiến sĩ
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
Tr : Trang
3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... i DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................ ii MỤC LỤC ............................................................................................................. iii DANH MỤC BẢNG ............................................................................................. vi MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 4 4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 5 5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................... 5 6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 6 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................... 6 8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN..............................71.1. Cơ sở lí luận .................................................................................................... 7 1.1.1. Vài nét về thi pháp học ................................................................................ 7 1.1.2. Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam .......................................... 8 1.1.2.1. Hệ thống ưóc lệ trong văn học trung đại..................................................81.1.2.2. Thiên nhiên trong văn học trung đại.......................................................131.1.2.3. Quan niệm về không gian, thời gian.......................................................171.1.2.4. Quan niệm về con người.........................................................................201.1.3. Thơ Nôm Đường luật và quan niệm dạy học thơ Nôm Đường luật theo hướng vận dụng thi pháp ...................................................................................... 26 1.1.3.1. Thơ Nôm Đường luật..............................................................................261.1.3.2. Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật........................................261.1.3.3. Đặc trưng của thơ Nôm Đường luật.......................................................301. 2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 34 1.2.1. Vai trò, vị trí của thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ....................................................................................................... 34
4
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi dạy học thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ...................................................... 361.2.2.1. Thuận lợi.................................................................................................361.2.2.2. Khó khăn.................................................................................................36CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG THÍCH HỢP THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT Ở LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ............................................ 382.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại hiện nay....................................................382.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại ở trường trung học phổ thông hiện nay 382.1.2. Thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT hiện nay 412.1.2.1. Khảo sát tình hình dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở THPT 412.1.2.2. Kết quả khảo sát......................................................................................432.1.2.3. Nhận xét về thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay 452.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 trung học phổ thông .......................................................... 492.2.1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc.............................................................492.2.1.1. Bám sát thi pháp của thơ HánNôm Đường luật trung đại.......................492.2.1.2. Bám sát văn bản gốc và giai đoạn sáng tác của tác phẩm văn học trung đại ............................................................................................................. 502.2.1.3. Đối chiếu các văn bản, phát hiện, khơi gợi, kích thích sự hình thành năng lực so sánh, liên tưởng, tưởng tượng ......................................................... 512.2.1.4. Tạo không khí tranh luận, đối thoại giữa các tổ, nhóm, cá nhân 542.2.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ Nôm Đường luật ở chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT .................................... 562.2.2.1. Hướng dẫn học sinh xác định những nét tiêu biểu của thi pháp văn học trung đại liên quan đến tác phẩm ........................................................................ 562.2.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội văn bản trên cơ sở thi pháp tác giả ......................................................................................................... 582.2.2.3. Hướng dẫn học sinh vượt rào cản ngôn ngữ thông qua hoạt động cắt nghĩa, chú giải ..................................................................................................... 722.2.2.4. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu về thi pháp được sử dụng trong tác phẩm ........................................................................................... 81
5
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM.........................................................................84
3.1. Mục đích thực nghiệm...................................................................................84
3.2. Yêu cầu thực nghiệm.....................................................................................84
3.3. Địa bàn, đối tượng và bài thực nghiệm.........................................................85
3.4. Thời gian và quy trình tiến hành thực nghiệm..............................................85
3.4.1. Thời gian thực nghiệm...............................................................................85
3.4.2. Quy trình tiến hành thực nghiệm................................................................86
3.5. Giáo án thực nghiệm.....................................................................................86
3.5.1. Yêu cầu chuẩn bị........................................................................................86
3.5.1.1. Đối với giáo viên.....................................................................................86
3.5.1.2. Đối với học sinh......................................................................................87
3.5.2. Giáo án thực nghiệm..................................................................................88
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm.......................................................................98
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................101
1. Kết luận..........................................................................................................101
2. Khuyến nghị...................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................104
PHỤ LỤC..........................................................................................................106
6
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Các bài thơ Nôm Đường luật ở THPT...............................................35
Bảng 2.1. Thống kê số câu hỏi thi pháp trong phần tìm hiểu bài của các bài thơ
Nôm Đường luật trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình cơ bản.........43
Bảng 2.2. Thống kê kết quả khảo sát giáo án......................................................43
Bảng 2.3. Thống kê kết quả phiếu khảo sát phương pháp dạy học
của giáo viên (15 giáo viên).................................................................................44
Bảng 3.1. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng..................................................85
Bảng 3.2. Thống kê kết quả tiếp thu kiến thức của học sinh trong sự
so sánh, đối chứng................................................................................................99
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc dạy học các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là
một thách thức lớn đối với không chỉ người đứng lớp mà cả những nhà nghiên
cứu về phương pháp. Ở mảng văn học này tồn tại không ít những rào cản về văn
tự (cả Hán và Nôm), văn hóa, lịch sử…. trong mối tương quan với thời đại
chúng ta.
Văn học trung đại Việt Nam suốt một nghìn năm lịch sử trải qua các triều
đại phong kiến với bao truyền thống hiển hách dựng nước và giữ nước…Hơi
thở của dân tộc đọng lại trong từng câu chữ với bao vẻ đẹp hào sảng kết tinh ở
nhiều thể loại: Chiếu, Biểu, Hịch, Phú, Cáo, Văn tế và các thể tài văn xuôi khác
Mảng văn học này chiếm một vị trí đặc biệt trong nhà trường và rất cần
được dạy học một cách bài bản, sâu sắc bởi nó tác động đến từng học sinh theo
những cách riêng
Nhưng xác định rõ thi pháp của thời kỳ, giai đoạn này cũng như trào lưu
của từng tác giả, tác phẩm vẫn còn là cái gì đó chưa được chú ý một cách
nghiêm túc. Vì vậy công việc dạy học bộ phận văn học này gần như chưa đi
đúng được các vấn đề bản chất sâu sắc cần thiết.
Thơ Nôm Đường luật là một thành tựu rực rỡ của thơ ca Việt Nam. Đó là
những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật (gồm cả những bài
thơ theo thể Đường luật hoàn chỉnh và cả những bài theo thể Đường luật phá
cách). Để dạy tốt những tác phẩm này, người dạy cần phải nắm rõ bản chất, đặc
trưng, thi pháp của thể thơ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tìm hiểu về thi pháp của
thơ Nôm Đường luật vẫn chưa được thực sự coi trọng trong quá trình dạy học ở
nhà trường phổ thông hiện nay.
Việc chuẩn bị từ sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo.... Thậm
chí cả công việc đào tạo cho sinh viên trẻ về thi pháp văn học trung đại cũng
chưa được dụng công đến mức cần thiết. Việc dạy học các tác phẩm Hịch, phú,
cáo và đặc biệt là thơ ca còn tồn tại nhiều điều bất cập. Vì vậy ở luận văn này
chúng tôi hướng sự chú ý đến việc “Vận dụng thi pháp văn học trung đại vào
2
dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 - Trung học phổ thông.”
Nhà trường Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI đang khẩn trương
hiện đại hóa hướng đi, phương pháp vào với từng môn học để hội nhập khu vực
và quốc tế, vừa để giữ gìn bản sắc riêng của dân tộc thì ở văn học trung đại đã
bảo tồn được sâu sắc bản sắc riêng về văn hóa dân tộc.
Đặc biệt trong chương trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng
phát huy năng lực cho người học như hiện nay thì việc cung cấp những kiến
thức nền tảng cho học sinh là rất thiết yếu để các em học sinh có thể chủ động
lĩnh hội khám phá tri thức một cách có sáng tạo. Vì vậy việc vận dụng thi pháp
vào dạy thơ Nôm Đường luật cũng là một hướng đổi mới để các em học sinh có
thể tự nghiên cứu, tìm hiểu được nhiều những tác phẩm thơ Nôm Đường luật
không đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
2. Lịch sử nghiên cứu
Dạy học hiện đại phải đi từ khái quát đến cụ thể. Nếu không giải quyết được
cái khái quát thì khi gặp cái cụ thể ta không giải quyết được. Việc nghiên cứu
thi pháp và vận dụng sâu sắc thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ Nôm
Đường luật đang đặt ra những vấn đề có thể nói là rất cấp thiết, vận dụng thi
pháp vào dạy thơ Nôm Đường luật trong nhà trường hiện nay còn nhiều hạn
chế. Bởi lẽ văn học trung đại đã được đưa vào học tập trong nhà trường phổ
thông từ nhiều năm nay, ở cả cấp THCS và cấp THPT. Và ở trường phổ thông
cũng đã dành một thời lượng nhất định để định hướng tìm hiểu một số tác phẩm
nhất định. Tuy nhiên vấn đề vận dụng thi pháp vào trong giảng dạy thì còn
nhiều hạn chế. Các tác giả đã từng nghiên cứu về thi pháp văn học trung đại
phải kể đến Trần Đình Sử với “Thi pháp văn học trung đại” và “Mấy vấn đề về
thi pháp văn học trung đại Việt Nam.” Trong các công trình của mình, có thể
nói Trần Đình Sử là người hệ thống và vận dụng lí thuyết thi pháp một cách
công phu, bài bản nhất ở cả ba phương diện: Không gian, thời gian, ngôn ngữ.
Nhưng đi sâu vào từng tác phẩm của từng tác giả, phát hiện được những nét riêng
trong cá tính sáng tạo của họ thì như còn để ngỏ.
3
Nguyễn Đăng Na có “Văn học trung đại Việt Nam tập 1, 2” nhưng cũng chủ
yếu hệ thống sắp xếp lại những thành tựu trước đó của ông. Còn Lã Nhâm Thìn
với “Thơ Nôm Đường luật” thì trong đó tác giả cũng chủ yếu đi sâu phân tích
nội dung các bài thơ mà ít chú ý dến phương pháp. Với Bùi Văn Nguyên và Hà
Minh Đức thì lại đi sâu vào hình thức cổ thể của thơ ca Việt Nam. Trần Nho
Thìn thì chủ yếu khẳng định sự đóng góp của Trần Đình Hượu với văn hóa dân
tộc mà cũng ít chú ý đến thi pháp của văn học.…. Bên cạnh các công trình
nghiên cứu còn phải kể đến các bài báo, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
quan tâm tìm hiểu đến văn học trung đại và thi pháp của văn học trung đại.
Nhìn chung các tác giả nghiên cứu đã đưa ra nhiều phương pháp khác nhau
để tìm hiểu nghiên cứu về thi pháp văn học trung đại nói chung và thi pháp của
thơ Nôm Đường luật nói riêng. Tuy nhiên việc nghiên cứu vận dụng thi pháp
của văn học trung đại vào giảng dạy thì thực sư chưa được quan tâm, đặc biệt là
việc vận dụng thi vào dạy những bài thơ Nôm Đường luật ở chương trình Ngữ
Văn 10 THPT.
Ở nước ngoài đặc biệt là ở phương Tây vấn đề vể thi pháp đã được tìm hiểu
và nghiên cứ khá sớm nên họ đã hình thành cả một bộ môn thi pháp học để
nghiên cứu về thi pháp trong sáng tác. Thuật ngữ thi pháp học (poetika) đã được
Aristote đề cập đến cách đây hơn hai nghìn năm, đó là công trình tổng kết kinh
nghiệm về nghệ thuật kịch thời Hi Lạp cổ đại, nó làm nên một học thuyết về
nguyên tắc mô phỏng, miêu tả các loại và thể, các hình thức thơ ca mà người Hi
Lạp tiếp nhận. Nó là một trình khoa học có ảnh hưởng sâu, rộng đến văn hóa
Châu Âu thời cổ đại, thời phục hưng và cho đến thế kỷ XVIII- XIX.
Cuối thế kỷ XIX, trên thế giới lại mới quan tâm đến vấn đề thi pháp, lúc
này họ nhìn văn hóa nghệ thuật theo một quy luật sáng tác riêng. Các công trình
thi pháp học tiêu biểu phải kể đến như M. Bakhtin cho xuất bản cuốn “Mấy vấn
đề sáng tác Dostoievki” và sau này là “Mấy vấn đề thi pháp Dostoievki”.
Khrapchenco cũng đã tổng kết thi pháp học lịch sử như là khuynh hướng nổi bật
của nghiên cứu văn học Liên Xô từ năm 1959.
Ở nước ta vấn đề thi pháp cũng đã dược manh nha từ những năm đầu thế kỷ XX
4
tuy nhiên phải đến những năm cuối thế ky XX thì thi pháp mới được nhìn nhận
như một bộ môn nghiên cứu thực sự và bộ môn thi pháp học mới được chính thức
ra đời để đưa vào học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Người có công lớn đưa thi pháp
học đến Việt Nam chính là Giáo sư Trần Đình Sử một người đã có nhiều năm bỏ
công sức để nghiên cứu về vấn đề thi pháp. Cho đến nay vấn đề thi pháp đã được
nhìn nhận như một bộ môn khoa học nghiên cứu thực thụ. Nhưng những công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học còn mang nặng tính hàn lâm, kinh viện mà ít chú
trọng đi vào ứng dụng trong thực tế giảng dạy.
Tuy nhiên đi vào tìm hiểu thực tế trong quá trình giảng dạy các tác phẩm
văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng thì hầu hết các thầy cô
giáo và các em học sinh cũng chưa quan tâm nhiều đến vấn đề thi pháp mà
người dạy cũng như người học mới chỉ chú trọng vào nội dung được thể hiện
trong rác phẩm cũng như một vài bút pháp nghệ thuật tiêu biểu. Thậm chí với
một số người khái niệm thi pháp còn rất xa lạ và họ coi đó là công việc của các
nhà nghiên cứu. Ở phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả cũng chỉ dám đề cập
đến việc vận dụng thi pháp vào trong thực tế giảng dạy một vài bài thơ Nôm
Đường luật cụ thể trong chương trình Ngữ Văn THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở của thi pháp học nói chung và thi pháp văn học trung đại nói riêng
để có những vận dụng linh hoạt vào việc giảng dạy thơ Nôm Đường luật ở
chương trình THPT. Vì thế khi thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hướng tới
những nhiệm vụ và mục đích sau:
Góp phần giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới
phương pháp dạy học văn hiện nay: Tổ chức hoạt động dạy học tác phẩm văn
chương trong chương trình THPT.
– Nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề vận dụng thi pháp vào giảng dạy, chú ý đến
những ưu thế và tính khả thi của hướng đi này trong việc vận dụng vào thực tế
dạy học bộ môn Ngữ văn, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn
5
trong nhà trường phổ thông hiện nay.
– Tác giả cũng xin được đề xuất một quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy
học theo hướng vận dụng thi tháp và thử nghiệm vận dụng thi pháp vào thực tế
giảng dạy khi tiến hành dạy học một số bài thơ Nôm Đường luật ở chương trình
Ngữ văn ở bậc THPT ...
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu về thi pháp học nói chung và thi pháp văn
học trung đại nói riêng, chúng tôi đã tìm hiểu, đối chiếu để vận dụng thi pháp
văn học trung đại vào dạy thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT nhằm giải quyết
một cách tốt nhất hướng tiếp cận các tác phẩm thơ Nôm Đường bằng các biện
pháp thích hợp nhất để đạt hiệu quả tối ưu theo định hướng dạy học đọc - hiểu
văn văn bản như hiện nay.
4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu
Với tính chất bước đầu, luận văn giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu
như sau:
– Cơ sở lí luận của phương pháp dạy học vận dụng thi pháp và hoạt động dạy
học văn theo hướng vận dụng thi pháp.
– Vận dụng phương pháp dạy học vận dụng thi pháp vào việc tổ chức hoạt
động dạy học một số bài thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn lớp
10 THPT.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu nắm vững thi pháp văn học trung đại và có những biện pháp vận dụng thích
hợp vào quy trình dạy học thơ Nôm Đường luật thì hiệu quả giờ học sẽ cao hơn.
6. Phương pháp nghiên cứu .
Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đặt ra, trong quá trình thực hiện, người
viết đã kết hợp, vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương
pháp nghiên cứu thực nghiệm, cụ thể là:
– Phương pháp phân tích, tổng hợp
– Phương pháp điều tra, khảo sát
– Phương pháp so sánh
6
– Phương pháp thực nghiệm
– Phương pháp thống kê
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
– Đề tài góp phần khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học vận dụng thi
pháp – một phương pháp có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh trong quá trình dạy học nói chung và phù hợp với đặc trưng của
việc dạy học văn nói riêng trên con đường hiện thực hoá luận điểm cơ bản của
việc dạy học văn hiện nay: học sinh là bạn đọc sáng tạo.
– Trên cơ sở đó, bước đầu xây dựng quy trình của phương pháp dạy học vận
dụng thi pháp vào những giờ dạy học văn cụ thể ở trường THPT, góp thêm một
tiếng nói mới, một cách nhìn mới trong nỗ lực tìm kiếm cách thức đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng và biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học
trung đại vào dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 Trung học phổ thông
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vài nét về thi pháp học
Thi pháp học là bộ môn khoa học đặc thù, nó hướng tới việc khám phá cấu
trúc biểu hiện của nghệ thuật trên các các cấp độ khi nghiên cứu, phân tích hay
phê bình một tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “thi pháp
học là là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức,
phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong
sáng tác văn học” [7, tr 304]. Như vậy hiểu một cách đơn giản thì thi pháp học
là một bộ môn khoa học nghiên cứu các hình thức nghệ thuật của văn học. Còn
theo Từ điển Bách khoa văn học giản yếu Nga ghi lại thì “Thi pháp học là khoa
học về cấu tạo của các tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ
mà chúng sử dụng.”[5, tr 936]. Trong công trình Những vấn đề thi pháp
Đôxtoiepxki, tác giả M. Bakhtin không nêu ra định nghĩa trực tiếp về thi pháp
học nhưng nội dung nghiên cứu của ông về Đôxtoiepxki như “Cái nhìn nghệ
thuật độc đáo” hay “ngôn ngữ đa giọng” cũng đã xác nhận nội dung của thi
pháp học. Công trình Thi pháp văn học Nga cổ của D. X. Likhasốp nghiên cứu
về hệ thống thể loại, cách khái quát nghệ thuật, các phương tiện văn học, không
gian, thời gian nghệ thuật cũng đã đề cập nhiều những khái niệm, nhiều những
vấn đề của thi pháp.
Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây cũng có nêu ra một vài định nghĩa
khác về thi pháp học nhưng tựu chung lại thì đều xem văn học như một nghệ
thuật. Theo nhà lí luận văn học người Nga V. Girmunxki thì : “Thi pháp học là
khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách là một nghệ thuật” [8, tr 5].
Như vậy, tác giả đã định nghĩa về thi pháp học trong sự lồng ghép giữa tính
khoa học và tính nghệ thuật của văn học. Từ định nghĩa này nhà nghiên cứu văn
học Viện sĩ V. Vinogradop đã cụ thể hóa vấn đề thi pháp như sau “Thi pháp học
là khoa học về hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức
tác phẩm của sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm
8
văn học. Nó muốn bao quát không chỉ là các hiện tượng của ngôn từ thơ, mà
còn là cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân
gian.” [18, tr. 8]. Ở đây tác giả chủ yếu nhấn mạnh vào đối tượng đặc thù của
thi pháp học là hình thức tổ chức tác phẩm văn học.
Khi xem thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật đã
bao hàm được một phạm vi rất rộng, từ tác phẩm cụ thể, thể loại đến các khái
quát phổ quát. Điểm làm cho thi pháp học có vị trí độc lập phân biệt với các bộ
môn khác trong khoa văn học là thi pháp chỉ nghiên cứu cấu trúc và thuộc tính
nghệ thuật của văn học từ góc độ nghệ thuật. Thi pháp học còn bao gồm sự miêu
tả, khám phá hệ thống các phương tiện cấu trúc nghệ thuật cụ thể mang sắc thái
dân tộc và cá nhân, như thi pháp văn học Nga, thi pháp văn học Trung Quốc,
hoặc trong nước thì có thi pháp văn học trung đại, thi pháp văn học hiện đại, thi
pháp thơ Tản Đà, thi pháp thơ Tố Hữu…
1.1.2. Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam
1.1.2.1. Hệ thống ưóc lệ trong văn học trung đại
Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước lệ
là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự
vật và hiện tượng hiện lên đúng với những qui ước và đúng với cách hiểu
của cả cộng đồng.
Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Bởi lẽ,
văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng bắt nguồn từ
mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, lăng
kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có
tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, trong một giai đoạn, một dòng
văn học nhất định.
Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam được nhà văn sử dụng triệt để,
nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới
bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của
văn học. Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong
kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.
9
Xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, lắm nghi thức, công thức. Xã
hội bị lễ nghĩa trói buộc, nên văn chương tất phải ước lệ. Tấng lớp Nho học xem
sách xưa, lời nói cuả thánh hiền, người trước là chuẩn mực thì văn chương
không thể không đạt đến những mẫu mực về bút pháp, dùng từ, xây dựng hình
ảnh, hình tượng, sử dụng điển tích, điển cố,... Với các nhà văn thời này văn
chương phải “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”; sáng tác văn học là hình thức
trước thư lập ngôn, nên văn chương ước lệ mới đẹp, mới sang trọng. Trong tác
phẩm, nhà văn càng sử dụng nhiều nghệ thuật ước lệ chừng nào thì càng uyên
áo, càng đẹp; mới thực hiện được chức năng giáo dục đạo lý của nó; mới góp
phần hình thành mẫu người phong kiến lý tưởng.
Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam bao gồm ba tính chất: Tính uyên
bác và cách điệu hóa cao độ. Tính sùng cổ. Tính phi ngã.
* Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ
Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mệnh
danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi
như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác
học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng
khách, trà dư tửu hậu.
Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ
sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí
thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và
Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương
Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên tính uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ.
Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố,
điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng
văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn,
có tính nghệ thuật cao.
10
Hay:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngóai còn cười gió đông
(Nguyễn Du)
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân gìau đủ khắp đòi phương.
(Nguyễn Trãi)
Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa,
“văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang
văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ
thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.
Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi. Trong cái
nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời
sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách
điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày
liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,... Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang
sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(Nguyễn Du)
Tạo vật thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như
mai, cúc, tùng, bách, liễu,...
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Bà huyện Thanh Quan)
Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng
cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh, Tú bà…
11
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?
Thời bấy giờ, người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ
bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa
đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái
đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của
chúng,mới tả thực.
* Tính sùng cổ:
Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân
tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn
mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Với họ thời đại hòang kim không có trong
thực tại. Thời đại hòang kim chỉ có vào thời Nghiêu, Thuấn; người anh hùng
nghĩa sĩ lý tưởng là Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng (Hịch tướng sĩ văn). Chân lý
quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy
tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa (lập luận trong
Quân trung từ mênh tập của Nguyễn Trãi là một minh chứng).
Vì vậy mà văn học trung đại thường đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu
mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi
thánh, thi tiên, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,...
Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi
tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá
là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng;
tác phẩm của họ rất giàu giá trị.
* Tính phi ngã:
Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người
chưa bao giờ dám “sống là mình”, “sống với mình”. Con người chỉ sống với
không gian mà không sống cùng thời gian.
Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng
tộc, địa vị xã hội. Vì thế con người được phân thành hai loại: quân tử và tiểu
nhân. Trong cuộc sống cũng như trong văn chương, yêu đương tự do khó có thể chấp
nhận và không bao giờ đạt được hạnh phúc. Hôn nhân xây dựng trên cơ sở đẳng
cấp, môn đăng hộ đối. Người có văn hóa giáo dục là người biết khắc kỉ, biết giữ
12
mình, biết nhún mình, thu mình lại, hạ thấp cái tôi cá nhân của mình.
Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một
ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không
bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình
sáng tạo.
Tranh vẽ, thơ vịnh đều có sự quy định theo một công thức nhất định: tứ
quý, tứ linh, tứ thú,... Tạo vật thì phải là xuân lan, thu cúc, hoa điểu, tùng hạc,
con người thì ngư, tiều, canh, mục. Buổi chiều phải có chim bay về tổ, mục
đồng thổi sáo réo rắt ngồi trên mình trâu về thôn xa, người lữ thứ bước vội trên
đường, chùa xa chuông ngân tiếng âm trầm giục giã khách giang hồ,... Cảnh
trăng khuya thì có thuyền gối bãi, thuyền chở trăng; đêm thì có tiếng dế nỉ non,
khoan nhặt, giọt ba tiêu thánh thót rơi buồn,...
Truyện luôn có nhân vật giai nhân tài tử, trai anh hùng gặp gái thuyền
quyên. Gái đẹp luôn được miêu tả: mặt hoa da phấn, “làn thu thủy nét xuân
sơn”, lưng ong, gót sen; anh hùng thì râu hùm hàm én; đấng trượng phu, bậc
quân tử được ví như cây tùng, cây bách nơi chốn lâm tuyền, sẽ làm rường cột
cho quốc gia,... Cốt truyện thì theo một công thức định sẵn như: gặp gỡ, ly tán,
đòan viên,...
Thơ phải cách luật. Luật phối thanh bằng trắc của thơ phú cũng quy định
nghiêm ngặt, chặt chẽ, khiến cho người làm thơ phải diễn tả thế giới bằng thính
giác có tinh “phi ngã” của cộng đồng tao nhân mặc khách. Bố cục thơ cũng định
sẵn, bất di bất dịch. Ngay cả tiêu đề thơ cũng quanh quẩn: ngôn hòai, thuật hoài,
ngôn chí,...
Người viết văn làm thơ có một kho điển cố, điển tích, kho thi liệu, văn liệu chung.
Tất cả đều là những hình ảnh, những ngôn từ ước lệ phi ngã. Nói chuyện tri âm, tri
kỉ thì “mắt xanh chẳng để ai vào”, nói tình yêu lỡ dỡ thì có chuyện Thôi Oanh
Oanh, Trương Quân Thụy. Nói người phụ nữ tài hoa thì ví như nàng Ban, ả Tạ.
Cha mẹ là huyên đường, vợ chồng là tao khang. Nhớ quê hương thì trông áng
mây Tần xa xa... Tất cả đều có nguồn gốc ở trong văn chương cổ Trung Hoa mà
người viết văn, làm thơ cũng như người đọc văn, đọc thơ phải thông thạo.
13
Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác
phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động
nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công
thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều
khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã
khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần
Tế Xương, Tản Đà,... Chỉ có điều, do tính qui phạm nghệ thuật; nên sự khác biệt
trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các cây bút ấy chỉ là những hình
thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng văn
học bấy giờ mà thôi.
1.1.2.2. Thiên nhiên trong văn học trung đại
Đi vào tìm hiểu những tác phẩm thơ ca của cha ông xưa, người đọc như
được sống giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tĩnh lặng vừa
hòanh tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình như không
thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác
phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng triết học
phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.
Riêng thơ ca thì thơ tức cảnh cũng là như tranh sơn thủy chiếm một vị trí hết
sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến.
Hiện tượng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời
trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác
thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng
tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình,
xã hội của cư dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước. Hiện tượng
nghệ thuật này cũng có thể nẩy sinh từ hệ triết học phương Đông: con người hòa
đồng với vạn vật, tạo vật và con người tương sinh trong thế giới này. Và cũng có
thể xuất phát từ đời sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực
phương Đông.
Hiện tượng này cũng có thể lý giải bằng hệ tư duy tổng hợp Đông phương,
14
bằng tính cách duy cảm của dân tộc ta. Con người không nhìn nhận mình là chủ
thể mà cảm nhận mình là một yếu tố cùng với thiên nhiên tạo nên sự sống của
thế giới thực tại này. Con người duy cảm nên luôn đắm mình vào những biến
thái mong manh, tinh vi của tạo vật để giao cảm, giao hòa. Vì vậy, ta hiểu văn
chương trung đại thơ ca chiếm một vị trí quan trọng và trong văn xuôi lại thắm
đượm chất thơ, cảm xúc trữ tình.
Vì những căn cứ trên, thiên nhiên không tách khỏi con người như một khách
thể trong văn chương. con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ thể. Con
người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của chính mình.
Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân, chưa thực sự là
đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem
thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức một cách
không tự giác.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại tôn trọng
sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả như là một
khách thể.
Từ tư tưỏng và quan niệm trên, văn chương trung đại đã miêu tả thiên nhiên theo
một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác của tạo vật mà gợi tả linh hồn của thiên
nhiên. Thiên nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa
đựng những cảm giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi gởi gắm
những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người.
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
..........
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
(Mãn Giác Thiền sư)
15
Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân như con
người. Các nhà thơ xưa không chấp nhận cái thấp hèn, những sự vật tầm thường
nên thiên nhiên trong thơ họ luôn là những tạo vật cao sang. Các nhà thơ bầu
bạn hay tri âm tri kỷ với thiên tao nhã, sang trọng như: “Sơn thủy yên hoa tuyết
nguyệt phong” (Hồ Chí Minh). Họ tự ví mình như cốt cách phong độ của “Mai,
lan, cúc, trúc” hay “Tùng, cúc, trúc, mai”.
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
(Nguyễn Trãi)
Hay:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người thân
(Nguyễn Du)
Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục, tầm thường cũng là
để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
Hoặc:
Đến trường đào mận ngặt chăng thông Quê cũ ưa làm chủ trúc thông
(Nguyễn Trãi)
Do cảm thụ thiên nhiên như vậy, nên văn thơ có hai đặc tính:
Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá
linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
dịch thơ:
16
N
g
ủ
d
ậy ngó song mây Xuân về
vẫn chửa hay
Sog song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay.
(Xuân hiểu-Trần Nhân Tông)
Thiên nhiên trong thơ thường được phối màu thanh đạm, đường nét thanh
tao; nhưng mang đậm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc
sống đời thường.
Đồng bằng nhô núi biếc
Hình thế tựa diều bay
Cầu vắt qua khe nước
Chùa nằm tít đỉnh mây
(Đề núi cánh diều-Lê Quý Đôn)
Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào, tình cảm lắng sâu của
người làm thơ. Những vần thơ đã trích là một thí dụ. Đọc những vầng thơ của
Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Lê Quý Đôn,… ta như nghe thấy hơi thở nhịp
điệu tâm hồn của các thi nhân ấy. Thơ của các thi nhân ấy là tâm hồn sáng láng,
nhân cách cao cả, phong thái tự tại của chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.
1.1.2.3. Quan niệm về không gian, thời gian
* Không gian nghệ thuật
Không gian là nơi con người tồn tại. Trong tác phẩm văn học, không gian
nghệ thuật chính là những nơi chốn, địa điểm được diễn tả trong tác phẩm.
Trong tác phẩm văn học không gian nghệ thuật được chia thành các hình
thức sau:
Không gian vũ trụ: Rộng lớn, kì vĩ.
Không gian đời thường: Gần gũi, quen thuộc.
Không gian vay mượn: Đó thường là những không gian tượng trưng, được vay
mượn ở Trung Quốc:
Mượn núi, sông để diễn tả sự xa cách, sự ngăn cách.
17
“Yêu nhau mấy núi cũng leo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Hay: “Núi cao chi lắm núi ơi!
Núi che mặt trời không thấy người thương”.
Mượn núi Thái Sơn để diễn tả núi cao.
Mượn Trường An, Lạc Dương để diễn tả kinh đô.
Mượn sông Dịch Thuỷ để diễn tả nơi biệt li.
Mượn sông Tiêu Tương để diễn tả miền thương nhớ.
Khi tìm hiểu cần lí giải được những hình ảnh tượng trưng đó, hiểu được
những địa danh đã đi vào điển cố, điển tích. Không gian nghệ thuật trong các tác
phẩm văn học cũng được chia thành:
Không gian địa lí.
Không gian tâm lí.
Con người sống chiếm một khoảng không gian. Không gian đó chính là
không gian địa lí. Trong bài ca dao, có hai kiểu không gian. Không gian địa lí xa
thì xa, gần là gần. Xa hay gần chính là đơn vị dùng để diễn tả khoảng cách.
Ngoài không gian địa lí trong bài ca dao còn có khoảng không gian vô hình, đó
là không gian tâm lí. Không gian tâm lí không như không gian địa lí, xa hay gần tuỳ
thuộc vào sự cảm nhận của con người. Không gian tâm lí được đo bằng sự nhạy
cảm của trái tim. Chính vì vậy nên có rất nhiều nghịch lí. Có khi xa mà gần, có
khi gần mà xa. Nếu có khoảng cách về không gian địa lí, con người sống có tình
cảm thì khoảng cách đó có thể thu hẹp được:
"Yêu nhau chẳng ngại đường xa
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Còn sống mà có khoảng cách về tâm lí thì gần cũng trở nên xa.
* Thời gian nghệ thuật
Con người thời cổ đại và trung đại chưa xem thời gian và không gian như
những phạm trù trừu tượng. Thời ấy, người ta cảm nhận thời gian bằng sự trực
cảm, bằng những tín hiệu không gian, bằng sự vận động của thiên nhiên và sự
sống của con người. Bước đi của thời gian được theo dõi bằng thời tiết bốn mùa,
18
bằng thời vụ nông tang, bằng sen tàn, cúc nở, bằng oanh vàng liễu biếc hay
tiếng Đỗ quyên kêu.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
(Nguyễn Du)
Hay:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
Từ kinh nghiệm trực cảm, người xưa có hai nhận thức về thời gian:Quan sát cận cảnh hằng ngày, nhận thức thời gian tuyến tính một đi không trở
lại. Thời gian tuyến tính vận động mau lẹ, đầy hình ảnh, đầy màu sắc cụ thể và
giàu chất sống. Thời gian tuyến tính là thời gian của thế giới phàm tục
Quan sát thế giới từ xa, nhận thức thời gian tuần hòan qua sự tuần hòan của
vũ trụ. Đây là quan niệm thời gian theo chu kỳ, thời gian quay tròn không đi
mất, động mà tĩnh, ngưng đọng, phi thời gian. Thời gian chu kỳ là thời gian của
cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử.
Trong hai quan niệm thời gian này, người xưa chủ yếu hướng về thời gian
chu kỳ, họ cho rằng thời gian tuyến tính phục tùng thời gian chu kỳ. Vì vậy,
cảnh trong thơ xưa nhìn chung là cảnh ngưng đọng, phi thời gian, màu sắc đạm
bạc giàu ý nghĩa biểu tượng triết lý hơn là hiện thực.
Trong truyện cổ, do cảm giác thời gian tuyến tính và chu kỷ song hành, nên
cốt truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi tiên, rồi từ cõi tiên trở
lại cõi trần, từ thời gian tuyến tính đi lên thời gian chu kỳ rồi quay về thời gian
tuyến tính. Truyện Từ Thức lên tiên sống với thế giới phi thời gian, sau đó trở
về lại cõi trần và thấy trăm năm đã trôi qua.
19
Trong thơ ca cổ điển, các nhà thơ cũng cấu tứ theo hai ý niệm thời gian như
thế. Bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu khẳng định điều đó:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hòang hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Tản Đà dịch)
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thời gian chu kỳ ngưng đọng biểu đạt lối
sống nhàn tản, bất hòa với cõi nhân gian thế thái:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Hoặc:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
20
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời gian hầu như tĩnh tại đồng hiện, con người như
đóng khung trong thời gian lắm sắc màu lòe lọet, nhịp điệu trì trệ ấy mà cảm
nghe sự bất lực của một kẻ sĩ :
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)
1.1.2.4. Quan niệm về con người
* Con người vũ trụ
Thời trung đại, con người và thiên nhiên tạo vật được nhìn nhận là một khối
thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về hội nhập cùng đại vũ trụ.
Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ.
Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong
văn chương: con người vũ trụ. Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ
biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ,
có kích thước vũ trụ.
Đó là khi con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn)
Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng giám lòng thành
thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người tìm
về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng, cây cỏ. Khi nhập thế thì
rồng mây gặp hội.
Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
(Thuật Hòai-Phạm Ngũ Lão)
21
Hay:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Nguyễn Cổng Trứ)
Người đẹp là người sánh ngang với sự hoàn mỹ của vũ trụ và khiến trời đất
cũng ghét ghen:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
(Kiều- Nguyễn Du)
Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hòan của vũ trụ, âm dương
tiêu trưởng. Tư tưỏng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên, nên người
quân tử “xuất xư”, “hành tàng” một cách ung dung thanh thản: gặp tai biến
không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ luôn sống theo
khái niệm “Thời”, theo qui luật: bĩ tắc thái, cùng tắc thông. Trong văn chương
xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo
hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập
hẳn vào vũ trụ:
* Con người đạo đức
Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong
(Nguyễn Trãi)
Thời trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta gán tâm
cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể. Thời gian, không gian đều có
xấu tốt, độc lành. Tòan bộ xã hội được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo -
đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn hóa.
Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan
mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai cực
đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa thành hai
tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo
đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối với các loại tiêu thuyết, cổ
tích thời trung đại:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)
Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên chở
đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng
đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương gần như minh
họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ; khuyên con
người tích thiện, hành thiện.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
(Nguyễn Du)
Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất lưỡng
nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả thánh thiện.
Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên về cái đẹp phi
vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn học chủ yếu được xây
dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác, nhất là xúc gíac bị xem là
thô tục, phi mỹ học.
* Con người phi cá nhân
Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm rạch
ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề có cơ sở xã
hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng
cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như một cá nhân cá thể ý thức.
Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai
trò của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng.
Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi lứa đến
tình yêu nước,... tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp.
Nhân vât trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là họ
diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài.
Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều
có những nghi thức riêng.
Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng
về nhiều phương diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình
cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa;
nhưng không có màu săc cá nhân.
Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm
cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên ngoài và những dấu
hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận quân xâm lược thì
“nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Kiều Nguyệt Nga thủy
chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu mà mang theo trên đường
công danh khoa cử. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo hon, sầu não thì
“khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.
Thủ pháp thể hiện tâm lý nhân vật là thủ pháp ngoại hiện. Nhân vật vì vậy
lúc nào cũng động đậy, không bao giờ chịu ngồi yên trầm tư. Tiểu thuyết, vì thế
nặng về sự kiện và cốt truyện hơn là khai thác tâm lý trực tiếp. Trong truyện
không có ngôn ngữ nhân vật mà chỉ có lời phụ đề trữ tình của tác giả hay lời của
tác giả đặt vào miệng các nhân vật, bắt nhân vật nói hộ mình. Do vậy, nhân vật
thiếu cá tính, tính cách. Nhân vật nếu có tính cách thì tính cách cũng rõ ràng,
đơn giản và bất biến.
* Con người ý thức
Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại thể, xét
trong một giai đọan văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong thực tiễn đời
sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là không có con người
cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai đọan cuối thế kỷ XVIII.
Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng
hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là
thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân
bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo
lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.
Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất
hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng
định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ,...
Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hưong để minh chứng cho điều đã nói ở trên.
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi
lọan trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống
ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm
tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn
chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”, cũng mụ mị ngắm
nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:
Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
(Đánh đu)
Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho
người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới
nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng định
một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ.
Qủa cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời trầu)Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo vật thế giới,
xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh âm, đường nét sống
động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !
(Tự tình I)
Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức. Nguyễn
Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân. Hưởng lạc
là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao
nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà dùng “Ba vạn sáu nghìn ngày”.
Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công Trứ nằm trong phạm vi
thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất ngưỡng” hay:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
hoặc:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba
phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng tư tự
hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ hài hòa, tự tin,
phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính tóan được mất khen chê. Đấy là bước
phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong
văn học Việt Nam thời trung đại.
Phải chăng con người ý thức cá nhân cá thể của văn học giai đọan này sẽ là
tiền đề cho sự tiếp nối và phát triển con người cá nhân trong văn chương giai
đọan sau này, khi có sự hội nhập với nền văn hóa phương Tây hiện đại.
1.1.3. Thơ Nôm Đường luật và quan niệm dạy học thơ Nôm Đường luật theo
hướng vận dụng thi pháp
1.1.3.1. Thơ Nôm Đường luật
Thơ Nôm Đường luật chiếm giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống, tư tưởng tình cảm của cộng đồng người Việt Nam, đặc biệt là trong thời
trung đại. Thơ Nôm Đường luật là tiếng nói gửi gắm tình cảm, tư tưởng, suy
nghĩ của nhiều bậc tri thức về con người, thiên nhiên, quan niệm sống thời
trung đại.
Theo các nghiên cứu văn học thì thơ Nôm Đường luật là những bài thơ viết
bằng chữ Nôm theo luật của thơ Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo
thơ luật Đường phá cách có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào vào bài thơ thất
ngôn như thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…
1.1.3.2. Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật
Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật trải qua một thời gian khá dài
trong tiến trình lịch sử phát triển của nền văn học dân tộc, nhưng nhìn chung là
trải qua ba giai đoạn đó là: giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển và giai
đoạn cuối.
* Giai đoạn hình thành:
Cho đến nay chưa có bằng chứng chứng minh được một cách chính xác, cụ
thể về thời gian ra đời của thơ Nôm Đường luật. Nhưng theo Đại Việt sử kí toàn
thư của Ngô Sĩ Liên, một bộ thông sử chính thức của nhà nước phong kiến và
cũng theo nhiều nhà nghiên cứu đánh giá về khả năng ra đời của chữ Nôm thì
thơ Nôm Đường luật ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XIII. Tuy nhiên cho đến nay
thì văn bản chữ Nôm đầu tiên của thể thơ này còn giữ được là tập thơ Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu thơ Nôm Đường luật
chủ yếu được bắt đầu từ tập thơ này. Tuy nhiên Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm
Đường luật đầu tiên hiện nay còn lại chứ chắc chắn không phải là sáng tác tác
đầu tiên bằng thơ Nôm.
Giai đoạn phát triển:
Chữ Nôm ra đời cũng như thơ Nôm Đường luật được sáng tác đã đánh
dấu một bước ngoặt trong lịch sử văn học dân tộc. Thơ Nôm Đường luật
chính là tiếng nói, hơi thở, là hồn của dân tộc. Trải qua quá trình phát triển
thơ Nôm Đường luật không ngừng lớn mạnh để đạt đến đỉnh cao trong nền
văn học nước nhà.
Từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, Tú
Xương được coi là năm thế kỉ phát triển và có nhiều thành tựu vượt bậc. Tuy
nhiên trong năm thế kỉ phát triển ấy thơ Nôm Đường luật lại trải qua nhiều
chặng khác nhau với những đặc điểm riêng độc đáo.
- Từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương thơ Nôm Đường luật phát triển khá
mạnh mẽ. Đây vừa là giai đoạn đi từ thể nghiệm đến ổn định đồng thời cũng là
giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thể loại thơ ca này. Nhờ có giai đoạn này mà
ngay từ đầu, thơ Nôm Đường luật đã khẳng định được vị trí của mình trong lịch
sử văn học dân tộc. Có thể nêu một số đặc điểm của từng thờ kì trong giai đoạn
phát triển rực rỡ này.
Ý thức về việc phải “nhập nội” một thể thơ ngoại lai nên trên cơ sở đó ông
cha ta đã nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo ra một lối thơ cho người Việt. Vì thế
cách gọi thơ Nôm Đường luật là thơ Hàn luật để chỉ loại thơ này có từ thời Hàn
Thuyên. Người có công lớn đầu tiên trong việc nỗ lực cố gắng xây dựng một lối
thơ Việt chính là Nuyên Trãi, Với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã thực sự tạo
cho lịch sử văn học Việt Nam một lối thơ mới có những điểm khác biệt với thơ
Đường luật. Tiếp sau Nguễn Trãi còn phải kể đến Hồng Đức quốc âm thi tập,
Bạch Vân quốc ngữ thi tập…
Thế kỉ XV có thể nói là thế kỉ của thơ Nôm Đường luật, bởi sự xuất hiện của
hai tập thơ lớn là Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập. Ở đó ta quan
sát thấy cả sự kế thừa cũng như tìm tòi, mở hướng theo xu hướng xã hội hóa
trong nội dung phản ánh và đay được coi như là một quy luật phát triển của thơ
Nôm Đường luật.
Từ sau Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước Hồ Xuân Hương thơ Nôm phát triển với
nhịp độ bình thường.Cũng trong khoảng gần hai thế kỉ nhưng thơ Nôm Đường luật
thé kỉ XV, XVI đã đạt được những thành tựu xuất sắc, rực rỡ, trong khi đó thế kỉ
XVII và nử đầu thế kỉ XVIII thơ Nôm Đường luật không có những tác giả, tác
phẩm lớn dù số lượng thơ Nôm dược sáng tác không phải là ít. Những tac giả
sáng tác nhiều thơ Nôm Đường luật như Trịnh Căn, Trịnh Doanh thì ngay cả những
bài hay nhất cũng không thể đọ được với thơ Nôm của các bậc tiên bối như
Nuyên Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nói như vậy là không có nghĩa gần hai thế kỉ
này thơ Nôm không có đóng góp gì lịch sử phát triển của văn học dân tộc mà trên
thực tế những tìm tòi thể nghiệm của thơ Nôm Đường luật giai đoạn này chính là
tiên đề thúc đẩy sự phát triển của thơ Nôm Đường luật ở những thế kỉ sau.
- Sau gần hai thế kỉ phát triển với nhịp điệu bình thường từ nửa cuối thế kỉ
XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX thơ Nôm Đương luật được khởi sắc trở lại với sự
đóng góp to lớn của Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân
Hương thời kì này được coi như là một hiện tượng của nền văn học dân tộc mà
nói như Xuân Diệu thì “Bà chúa thơ Nôm” đã giành lại vị trí vốn có trước đây
của thơ Nôm Đường luật.
Với Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật tiếp tục xu hướng dân tộc hóa
đồng thời chuyển sang con đường dân chủ hóa về nội dung và hình thức thể
loại. xu hướng dân chủ hóa thể thơ Đường luật là là xu hướng mạnh mẽ nhất
trong các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ
Xuân Hương là trường hợp duy nhất sáng tác không cần bất cứ một thứ ánh
sáng của học thuyết tôn giáo nào, một thứ chính trị nào từ trên dọi xuống. Có
thể nói Hồ xuân Hương là sự giải tỏa hoàn toàn khỏi giáo điều phong kiến, là sự
đoạn tuyệt triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với Hồ Xuân Hương,
thơ Nôm Đường luật không còn ở địa vị ‘đẳng cấp trên’ trong hệ thống thể loại
văn học trung đại, nó cũng thoát khỏi phong cách trang nghiêm “cao quý” để đi
thẳng vào cuộc sống đời thường với những góc cạnh, bi kịch… nhưng đó là
cuộc sống thực mà con người ta hằng ngày vẫn phải sống. Đến Hồ Xuân
Hương, thơ Nôm Đường luật đã thực sự là một cuộc cách tân đầy ý nghĩa,
những hình ảnh cuộc sống đời thường, dân dã, nguyên sơ, chất phác đã trở
thành đối tượng thẩm mĩ của nhà thơ. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục vốn xa lạ
với phong cách trang trong, cao quý của thơ Đường luật bỗng trở nên gần gũi,
thích hợp với phong cách trữ tình trào phúng của Hồ Xuân Hương.
Xu hướng dân chủ hóa thể loại là xu hướng chủ đạo trong những sáng tác
của Hồ Xuân Hương. Xu hướng này mạnh mẽ đến nỗi đôi khi người ta có cảm
giác Hồ Xuân Hương không lo tìm kiếm tính dân tộc ở một vài yếu tố hình thức
mà Nguyễn Trãi là người đầu tiên thể hiện tinh thần phá cách một cách mạnh
mẽ với những câu thơ lục ngôn để người đọc có thể đễ dàng nhận diện được thơ
Nôm Đường luật. Tuy nhiên, không chú ý ở mặt hình thức thể hiện nhưng Hồ
Xuân Hương lại xây dựng một lối thơ Việt cho riêng mình bằng chính nội dung
thể hiện. Đó là việc nhà thơ đã đưa vào một nội dung “không nghiêm chỉnh’ vào
một hình thức thơ “nghiêm chỉnh” để tạo nên sức công phá mạnh mẽ, mới mẻ
cho hồn thơ dân tộc.
Công bằng mà nói, việc làm nên vẻ rạng rỡ của thơ Nôm Đường luật thời kì
này ngoài những nét riêng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” còn phải kể đến
gương mặt “hoài cổ” của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nói đến cái chất “ngông”
đầy tài năng của Nguyễn Công Trứ…. Việc hội tụ đươc nhiều gương mặt tiêu
biểu đã tạo cho thơ Nôm Đường luật sự phong phú, đa dạng, mới mẻ trong diện
mạo của nền văn học dân tộc.
* Giai đoạn cuối:
Đến cuối thế kỉ XIX Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai tác giả đã
chuyển thơ Nôm Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận- hiện đại.
Với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tầm khái quát nghệ thuật của thơ Nôm
Đường luật vừa được mở rộng vừa được nâng cao hơn.Chức năng phản ánh
xã hội của thể loại không chỉ dừng lại ở mức “trữ tình thế sự”, “tư duy thế
sự”, “trào phúng thế sự’ mà còn vươn tới chỗ phản ánh xã hội với những chi
tiết hiện thực sinh động, phong phú.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai tác giả vẫn tiếp tục xu hướng dân chủ
hóa trong thơ Nôm Đường luật theo phong cách trào phúng. Có điều đáng lưu ý
là ở hai nhà thơ này đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình
để tạo ra những vần thơ “cười ra nước mắt”. Với hai tác giả trên, người ta đã có
thể nói tới một xã hội thực dân phong kiến ở thành thị trong thơ Tú Xương, một
xã hội nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, ở đó với nhiều hạng người, nhiều
màu sắc sinh hoạt chân thực, sinh động. Có thể nói Nguyễn Khuyến, Tú Xương
cũng là những nhà thơ để lại phong cách tác giả khá đậm nét trong thơ Nôm
Đường luật.
Với sự sung sức của những cây bút ấy, lại kết hợp với sự chuẩn bị chu đáo
về nhiều mặt, thơ Nôm Đường luật có khả năng chuyển sang văn học hiện đại
và gặt hái nhiều thành tựu xuất sắc hơn nữa. Tuy nhiên do sự phát triển của xã
hội và cũng để đáp ứng nhu cầu phản ánh và nhu cầu thưởng thức của cuộc
sống, nền văn học dân tộc xuất hiện nhiều thể loại mới thực hiện tốt chức xã hội
và chức năng thẩm mĩ mà thơ Nôm Đường luật không thể vươn tới được. Và
sinh mệnh của thơ Nôm Đường luật đã chấm dứt khi chữ Nôm không còn được
dùng trong sáng tác.
1.1.3.3. Đặc trưng của thơ Nôm Đường luật
Ngoài những đặc điểm chung của văn học trung đại thì thơ Nôm Đường luật
cũng có những đặc điểm riêng mang được bản sắc của thơ ca Việt. Nói một cách
ngắn gọn bản chất của thơ Nôm Đường luật là sự kết hợp hài hòa giữa “yếu tố
Nôm” và “yếu tố Đường luật”. Hai yếu tố này hòa quyện đan xen vào với nhau
tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm thơ Đường luật.
Mỗi một yếu tố lại có những giá trị biểu đạt, biểu cảm riêng, có giá trị thẩm
mĩ khác nhau nhưng chúng lại có những tính độc lập tương đối, có thể tách ra để
nhận diện đặc điểm của thể loại. Tuy nhiên trong một bài thơ Nôm Đường luật
thường có kết hợp cả hai yếu tố trên. Tất nhiên chúng sẽ có mức độ đậm nhạt
không giống nhau trong từng bài thơ. Giáo viên cần thấy được giá trị biểu đạt,
biểu cảm, giá trị
“Yếu tố Nôm” trong thơ Nôm Đường luật được xây dựng bằng hai nội
dung: thứ nhất, đó là những gì thuộc về dân tộc; thứ hai, là những gì thuộc về
dân dã, bình dị (Nôm là đọc biến âm của Nam và Nôm còn được hiểu là nôm na,
dân dã).
“Yếu tố Nôm” được biểu hiện ở các mặt đề tài, chủ đề là hướng tới những
vấn đề của đất nước, dân tộc; biểu hiện về mặt ngôn ngữ là chữ Nôm, từ Việt,
ngôn ngữ văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống; về hình ảnh là những hình ảnh
chân thực, bình dị, dân dã; về câu thơ là những câu năm chữ, sáu chữ đan xen
bài thất ngôn; về nhịp điệu là cách ngắt nhịp ¾ trong câu thơ bảy chữ ( lẻ trước,
chẵn sau) khác với cách ngắt nhịp 2/2/3, 4/3 (của thơ Đường luật).
Xét ở chủ đề thiên nhiên trong thơ Nôm Đường luật chúng ta thấy rõ “yếu
tố Nôm” được sử dụng chủ yếu trong việc xây dựng những bức tranh thiên
nhiên dân dã , bình dị, giàu chất dân tộc; không có những bức tranh hoành tráng,
kì vĩ. Có thể khảo sát “yếu tố Nôm” trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn
Trãi – một tấm lòng yêu thiên nhiên mà theo Xuân Diệu “lòng yêu thiên nhiên
tạo vật là một kích thước để đo một tâm hồn”. “Cây chuối” là một bài thơ viết
về đề tài thiên nhiên trong Quốc âm thi tập. Tuy nhiên, với việc chọn hình ảnh
cây chuối làm đối tượng biểu đạt thì Nguyễn Trãi đã có sự cách tân so với nghệ
thuật truyền thống – tức tác giả đã sử dụng yếu tố Nôm trong việc chọn đề tài.
Bởi bút pháp quy phạm của văn học trung đại đã quy định một số loài cây, hoa
để làm đối tượng biểu đạt. Nếu là cây phải là: tùng, cúc, trúc, mai…; là hoa phải
là: đào, sen, lan, huệ…
Việc xuất hiện một số hình ảnh dân dã, bình thường trong cuộc sống như bè
muống, lãnh mùng, kê, khoai, lạc…trở thành đề tài ngâm vịnh quả thực rất hiếm
thấy.Tuy nhiên, hình ảnh cây chuối là một ngoại lệ, nó khiến cho thơ của
Nguyễn Trãi đậm chất dân tộc hơn tạo nét riêng trong dòng văn học trung đại.
Chủ đề của bài “Cây chuối” cũng khác hẳn so với sự ước lệ trong văn học trung
đại. Cây chuối với cảm hứng Thiền là biểu tượng của cái tâm hư không, thanh
tịnh của những người tu hành nói riêng và con người nói chung. Còn với cảm
hứng Nho là biểu tượng phẩm chất người quân tử kiên trinh. Khi vào thơ
Nguyễn Trãi, cây chuối được thể hiện với cảm hứng khác, sâu sắc, kín đáo
nhưng không kém phần rạo rực, sôi nổi: cảm hứng về tình yêu, tuổi trẻ. Ta lại
bắt gặp một bức tranh hết sức mộc mạc, bình dị về cảnh làm lụng, sinh hoạt như
một “lão nông tri điền” ở bài “Thuật hứng 24”
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
Bên cạnh những hình ảnh hết sức thanh thoát, tao nhã như “đìa thanh” và
vẻ cao quý của hoa sen. Chúng ta cũng thấy những hình ảnh còn lại “muống”,
“cỏ” hết sức chân thực, dân dã và hàng loạt từ Việt được dùng để miêu tả cuộc
sống dân quê mộc mạc khiến cho câu thơ thấm đẫm phong vị dân tộc. Với việc
dùng tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Trãi đã miêu tả thành công một bức tranh thôn quê
hết sức tự nhiên, sống động với chính ngôn ngữ của dân tộc.
Ở bài “Thuật hứng -25”:
“Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen bãi đậu kê”
Với những từ Việt “cày”, “cuốc” và “đậu, kê” Nguyễn Trãi đã tạo nên một
bức tranh hết sức thuần việt, một thú vui dân dã. Những yếu tố Nôm đã khiến
cho thơ ông trở nên gần gũi, chất phác đậm tính dân tộc hơn.
Trong thơ Nguyễn Trãi còn có sự vận dụng ngôn ngữ dân gian, tục ngữ
rất sáng tạo:
“Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì rập khuôn
Lân cận nhà giàu no bữa cốm;
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn”
Những câu thơ trên đều lấy ý từ ngữ : “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Ở
gần nhà giàu đau răng ăn cốm, ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn ”. Khi đi vào
câu thơ của Nguyễn Trãi đã được vận dụng khéo léo, dồn nén được ý tứ của
những câu tục ngữ thật cô đọng, hàm súc. Ngôn ngữ thơ mang giá trị biểu cảm cao
nhưng vẫn dễ hiểu với người đọc.
“Yếu tố Nôm” còn thể hiện ở việc sử dụng các câu năm chữ, sáu chữ đan
xen trong bài thất ngôn và cách ngắt nhịp ¾ (lẻ trước, chẵn sau) tạo nên những
sắc thái riêng và giá trị biểu cảm của câu thơ, bài thơ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ chỉ có sáu chữ khác hẳn với thơ luật Đường hoàn chỉnh đã tập
trung lột tả được hình ảnh nhân vật trữ tình đang trong thời gian rảnh rỗi, tâm
hồn thư thái, đang “hóng mát”. Những tưởng là một thi nhân đang tận hưởng
thú vui tao nhã của mình nhưng đó không phải là con người của Nguyễn Trãi.
Bởi ông là “người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn”(chữ dùng của
nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn), một con người dù có bận bịu với cuộc sống
nhưng không lúc nào quên chuyện “ái ưu” với dân, với nước:
“Bui có một lòng trung liễn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”
(Thuật hứng số 24)
Con người ấy khi nhìn cảnh sống của dân chỉ mong sao:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của tác giả. Một
tấm lòng lo cho dân được ấm no, hạnh phúc. Một niềm hạnh phúc chung cho tất
cả mọi người “khắp đòi phương”. Ở bài “Tùng” để khắc họa một đặc điểm của
cây tùng mà ít loại cây nào có được, Nguyễn Trãi viết:
“Cội rễ bền, dời chẳng động”
Câu thơ chỉ có sáu chữ, lại ngắt nhịp 3/3 ngắn gọn, chắc nịch, dứt khoát:
“Cội rễ bền/ dời chẳng động” tăng thêm tính khẳng định sức sống mãnh liệt,
khỏe khoắn, kiên cường, bất khuất của cây tùng. Kết thúc bài thơ cũng với câu
lục ngôn, ngắt nhịp 1/5 “Dành/ để trả nợ dân cày” như một lời hứa quyết tâm với
nhân dân của một tấm lòng luôn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước.
Hay để miêu tả sức sống mãnh liệt của thiên nhiên vào hè, tác giả đã sử dụng
cách ngắt nhịp ¾ nhằm lột tả đầy đủ biểu hiện của cảnh vật:
“ Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ
Hồng liên trì/ đã tiễn mùi hương”
Tất cả dường như đều muốn trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình.
Cây hòe trước hiên cứ như đang "đùn đùn" mà lên, đùn đùn mà toả rộng; cây
lựu như đang "phun" ra những tia màu đỏ chói, như muốn cháy hết mình. Dưới
ao những đài sen đang tỏa ngát hương thơm. Bằng tài quan sát và sự cảm nhận
tinh tế của mình Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh mùa hè thật sinh động,
đầy sức sống lôi cuốn người đọc.
Như vậy, chính “yếu tố Nôm” đã tạo nên những đặc sắc trong thơ Nôm
Đường luật với những biểu hiện đầy đủ của các yếu tố. Tuy nhiên, để có thể
hiểu được giá trị của một bài thơ Nôm Đường luật chúng ta còn phải nắm được
các “ yếu tố Đường luật” của bài thơ. Có như vậy mới có thể lần tìm được
những lớp nghĩa sâu kín dưới bề mặt con chữ của dòng thơ Nôm luật Đường.
1. 2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vai trò, vị trí của thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn
Trung học phổ thông
Thơ Nôm Đường luật từ khi ra đời đã khẳng định được vai trò, vị trí của nó
trong đời sống xã hội. Những vần thơ Nôm dù mộc mạc, giản dị như thơ của
Nguyễn Trãi hay những vần thơ uyên bác của Bà huyện Thanh Quan thì cũng
đều để chuyển tải tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người Việt Nam
Vì thế trong chương trình Ngữ văn THPT, thơ Nôm Đường luật chiếm một
thời lượng khá lớn, được học tập và giảng dạy ở cả lớp 10 và 11. Tất cả những
bài được đưa vào giảng dạy đều đã được thẩm định, tuyển chọn rất kĩ lưỡng để
cho học sinh học tập.
Bảng 1.1. Các bài thơ Nôm Đường luật ở THPT
Lớp Tên bài Tác giả Tiết Nhóm bài
10
(kì 1)
Cảnh ngày hè Nguyễn Trãi 38 Văn bản trữ tình
Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm 40 Văn bản trữ tình
11
(kì 1)
Tự tình Hồ Xuân Hương 5 Văn bản trữ tình
Câu cá mùa thu Nguyễn Khuyến 6 Văn bản trữ tình
Thương vợ
Vịnh khoa thi hương
Trần Tế Xương 9
10
Văn bản trữ tình
Chạy giặc Nguyễn Đình Chiểu 17 Văn bản trữ tình
Vì vậy việc dạy học thơ Nôm Đường luật có một vai trò, vị trí vô cùng
quan trọng trong việc tìm hiểu về thơ ca Trung đại Việt Nam nói chung và
nhằm giúp học sinh tiếp cận, khám phá được cái hay, cái đẹp của thể thơ
này nói riêng. Từ đó các em học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết
sâu sắc về xã hội, về con người lúc bấy giờ.
Thơ Nôm Đường luật được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT đều
là những bài đặc sắc đã được tuyển chọn từ những tác giả tiêu biểu. Tuy
nhiên, các soạn giả chủ yếu đưa vào chương trình nhằm mục đích đặt việc
tìm hiểu thơ Nôm Đường luật trong việc tìm hiểu đặc điểm của văn bản trữ
tình nói chung để phục vụ cho việc giảng dạy phần Tập làm văn như cảm
thụ, biểu cảm, nghị luận... Và các tác phẩm thơ Nôm Đương luật cũng
đều đặt trong nhóm các bài thơ trung đại khác nói chung chứ chưa tách ra
để tìm hiểu kĩ về đặc trưng thể loại, về thi pháp... so với các thể thơ
Trung đại khác, nên còn nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu các bài thơ
này.
1.2. Những thuận lợi và khó khăn khi dạy học thơ Nôm Đường luật trong
chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông
1.2.1.1. Thuận lợi
Thơ Nôm Đường luật được đưa vào chương trình phổ thông từ khá sớm, ở
chương trình Ngữ văn 7 các em đã được làm quen với một số tác phẩm thơ Nôm
Đường luật như Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, Qua Đèo Ngang của Bà
Huyện Thanh Quan, Bạn đến chơi nhà của Nguyễn khuyến. Vì thế dù ít nhiều
nhiều các em đã được tiếp cận với thể loại thơ ca này ở các lớp dưới và cũng có
những nền tảng nhất định. Bởi vậy lên chương trình THPT các em lại tiếp tục
được tìm hiểu thể loại thơ này nên cũng có nhiều những thuận lợi. Đa số các em
học sinh đã nắm được tên tác giả, bài thơ, thể thơ và nội dung, nghệ thuật cơ bản
của thể thơ này. Các em cũng có những hứng thú nhất định trong việc tìm hiểu,
khám phá những bài thơ này so với một số bài thơ trung đại khác.
Đội ngũ các thầy cô giáo cũng có kiến thức chuyên môn vững vàng, có
những hiểu biết nhất định về thể thơ này khi tìm hiểu nghiên cứu, giảng dạy.
Hiện nay nguồn dữ liệu khai thác trên phương tiện công nghệ thông tin cũng
tương đối thuận tiện nên cũng cũng việc tìm hiểu, nghiên cứu, trau dồi về thể
thơ này cũng có nhiều thuận lợi hơn.
1.2.1.2. Khó khăn.
Đa số học phổ thông chưa thật sự thích học văn học trung đại nói chung và
thơ Nôm Đường luật nói riêng vì các em cho rằng văn học giai đoạn này vừa
khó, vừa khô, lại có nhiều những điển cố, điển tích khó hiểu nên việc tiếp cận
gặp nhiều khó khăn. Nhiều học sinh học xong bài vẫn không hiểu tác phẩm thơ
Nôm Đường luật ấy nói cái gì, để làm gì.
Với giáo viên giảng dạy thể thơ này thì phương pháp chủ yếu cũng chỉ
là thuyết giảng, hỏi đáp, đọc chép, còn các phương pháp đọc sáng tạo, đọc
diễn cảm, vận dụng thi pháp thể loại, giảng bình còn rất ít, và thực sự chưa
được chú trọng. Do đó việc tìm hiểu thể thơ này mới chỉ dừng lại ở việc
cung cấp nội dung kiến thức mà chưa thấy hết cái hay, cái đẹp của thể thơ
này một cách thực thụ.
Nhiều bài dạy chưa cho thấy được chất trữ tình của tác phẩm, chưa dạy
đúng đặc trưng thể loại, chưa biết vận dụng những thi pháp cơ bản của thể thơ
này để cắt nghĩa, giảng giải cho thật sâu sắc. Vì thế những câu hỏi đưa ra còn
vụn vặt,đơn điệu, chưa khơi gợi được tư duy sáng tạo của học sinh và chưa tạo
hứng thú cho người học. Với lại một số tác phẩm nội dung khá phong phú
nhưng thời lượng dành cho lại rất ít, thậm chí có tiết phải dạy đến hai bài liền
nên việc giảng dạy chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nọi dung
chính của bài thơ chứ không đủ thời gian để tìm hiểu khai thác những cái hay,
cái đẹp của tác phẩm.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG THÍCH HỢP THI PHÁP
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM
ĐƯỜNG LUẬT Ở LỚP 10 - THPT
2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại hiện nay
2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại ở trường trung học phổ thông
hiện nay
Thực tế cho thấy việc dạy học thơ Nôm Đường luật cho học sinh THPT
hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc dạy học thơ Nôm Đường luật đã
được nhiều người quan tâm cả ở trong và ngoài nhà trường. Đã có nhiều hướng
nghiên cứu về giảng dạy và tiếp nhận thơ Nôm Đường luật, đã có nhiều kiểu
dạy học truyền thống và hiện đại về thơ Nôm Đường luật. Và thực tế qua nhiều
năm đứng trên bục giảng cùng với nhiều những giáo viên say mê với nghề,
nhưng cho đến nay việc dạy thơ Nôm Đường luật vân là một thách thức và chưa
đạt được hiệu quả tối ưu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn một nguyên
nhân mà người viết bận tâm nhiều nhất để phát hiện đúng bản chất của công
việc này chính là việc chưa bám sát thi pháp của thơ ca trung đại vào trong
giảng dạy.
Việc dạy học thơ trung đại là dạy thơ trên giảng đường khác tiếng. Vì vậy
công việc này phải được tiến hành một cách bài bản. Từ tương quan văn hóa của
hai thời kì hiện đại với trung đại, người công dân mới và người công dân thời
trung đại trong sự kế thừa và phát triển, sự phù hợp của thơ trung đại với việc
đọc hiện đại, những bài thơ được chọn trong sách giáo khoa đã thật tiêu biểu
cho thời đại đó chưa (chẳng hạn tính chất tập quyền thời trung đại trong thơ thời
Lí – Trần và người công dân hiện đại để chuẩn bị cho tâm lí tiếp nhận những
tác phẩm Lí – Trần. Chẳng hạn tính chất “Thượng trí quân, hạ trạch dân”
trong thơ thời Lê tiêu biểu là Nguyễn Trãi qua một số hình ảnh “Tướng sĩ
một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, “Ta lấy toàn quân là
hơn để nhân dân nghỉ sức” )
Như vậy công việc dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật còn là một vấn
đề khá nan giải. Để giải mã được nội dung, tư tưởng của tác phẩm cần thiết phải
tiếp cận hình thức nghệ thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể thống
nhất của hai mặt hình thức và nội dung. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung,
là cách thể hiện nội dung. Nội dung trong tác phẩm văn học cần phải được suy
ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính nội dung” (Trần Đình Sử). Vì vậy
phương pháp chủ yếu của thi pháp học là phương pháp hình thức, có thể hiểu
“Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của
tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó” (Nguyễn Văn
Dân). Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận cần phải nắm vững
mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi “Trong tác phẩm nghệ
thuật, tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm
hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và
ngược lại cũng vậy ” và “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn
chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó khỏi nội dung có nghĩa là hủy diệt bản
thân nội dung và ngược lại tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt
hình thức ” (Belinxki) [11; 256]. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn, không
ít cách dạy, cách học vi phạm nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình thức. Học
tác phẩm văn học nhưng thoát ly văn bản. Trong nhà trường phổ thông có rất
nhiều hiện tượng dạy tác phẩm văn chương nhưng lại tìm hiểu qua loa văn bản,
học sinh học đôi khi chỉ học lướt qua văn bản, giáo viên thì chỉ coi trọng tìm
“ý”, vì thế mới có tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không không
cần kể mà chỉ nêu ý chính ( Nguyễn Viết Chữ) [3; 9]. Đặc biệt là khi dạy đến
những tác phẩm thơ trung đại, việc dạy và học thơ trung đại Việt Nam đến nay
vẫn còn là nỗi khổ của người giáo viên trung học phổ thông. Như chúng ta đã
biết, để khám phá, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của một một bài thơ trung đại thì
không chỉ đòi hỏi ở người giáo viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc những kiến thức về thi pháp thời đại, thi pháp tác giả, thể loại văn học,… mà còn đòi hỏi người học
sinh cũng phải có những kiến thức nhất định về những vấn đề trên. Đây là một đòi hỏi chỉ
có thể thực hiện ở những học sinh yêu thích, say mê tìm hiểu tác phẩm văn học. Trong bối
cảnh hiện nay, còn được mấy học sinh yêu thích bộ môn này trong một lớp!
Vì vậy mà giáo viên chỉ đơn giản là truyền thụ kiến thức một chiều thiên về
nội dung hoặc tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc rồi truyền thụ cho học
sinh mà không chú ý đến khát vọng, tâm lý học sinh. Việc tìm hiểu tác phẩm
quá chú trọng nội dung tư tưởng tác phẩm trong dạy học văn trong một thời gian
dài đã gây hậu quả nghiêm trọng. Một thực trạng nữa trong dạy học văn hiện
nay là còn một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết, say mê với nghề
nghiệp, lên lớp theo phương pháp cũ, thiếu sáng tạo, hấp dẫn. Đặc thù của các
môn khoa học xã hội là nội dung kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa,
sách giáo viên nên nếu giáo viên không chịu khó đổi mới, sáng tạo thì dễ đi vào
con đường mòn là trình bày lại nội dung cố định. Chúng tôi đã dự nhiều giờ
thao giảng và nhận thấy giáo viên chỉ cố gắng trình bày lại những điều có sẵn
trong sách giáo khoa, vì thế giờ học rơi vào tình trạng hình thức. Ngay cả giờ
giảng được đánh giá là thành công thì tính chất độc diễn của giáo viên thể hiện
khái rõ nét. Thậm chí có giờ dạy diễn ra sôi nổi, nhưng thực chất chỉ là một màn
kịch diễn ra khéo léo, tất cả được giáo viên tập dượt trước, cả những câu hỏi bài
cũ, và chỉ định học sinh nào phát biểu. Nhiều giáo viên được khen là hay nhưng
thực chất là diễn thuyết hay. Học sinh học xong là kiến thức hầu như không còn
đọng lại là bao nhiêu.
Tuy nhiên, để đổi mới phương pháp giảng dạy thành công, nếu chỉ có sự
nỗ lực của giáo viên thì không đem lại kết quả mà quan trọng cần có sự hưởng
ứng tích cực từ phía học sinh. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh
là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Hiện nay học
sinh phải học nhiều môn, các em không có điều kiện đầu tư thời gian đích đáng
cho tất cả các môn sinh ra tình trạng học lệch. Học theo phương pháp mới đòi
hỏi các em phải đầu tư thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập, xử
lý thông tin khoa học. Đa số học sinh không có đủ tài liệu cần thiết và chưa hình
thành tư duy phản biện, độc lập trong học tập. Những khó khăn từ hai phía thầy
và trò khiến cho việc đổi mới phương pháp dạy học rơi vào vòng luẩn quẩn,
hình thức, ít có chuyển biến mạnh và hiệu quả chưa cao. Từ thực trạng trên, có
thể thấy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay đang mất
đi rất nhiều sức hấp dẫn đối với học sinh. Để lí giải điều này là cả một vấn đề
không đơn giản. Từ chương trình, nội dung đến phương pháp giảng dạy của
giáo viên cũng như tâm lí học tập của học sinh cũng cần phải xem xét.
2.1.2. Thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT hiện nay
2.1.2.1. Khảo sát tình hình dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở THPT
*Mục đích khảo sát:
- Tìm hiểu thực tế dạy học ở một số trường THPT ở địa bàn tỉnh Nam Định
nhằm phát hiện những khó khăn, thuận lợi, những ưu điểm và hạn chế của giáo
viên và học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập thơ Nôm Đường luật ở
trường THPT hiện nay.
- Tìm ra nguyên nhân của những hạn chế từ đó đề xuất một số biện pháp
khắc phục.
*Thời gian và đối tượng khảo sát:
Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay,
chúng tôi đã tiến hành khảo sát 84 học sinh lớp 10 trường THPT Giao Thủy C
huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định và 84 lớp 10 trường THPT Quất Lâm huyện
Giao Thủy tỉnh Nam Định để thu thập các thông tin về sở thích, kiến thức, kỹ
năng cơ bản của học sinh khi học các văn bản thơ Nôm Đường luật.
Chúng tôi cũng khảo sát ý kiến, giáo án của 15 giáo viên giảng dạy Ngữ
văn ở 02 tổ Văn của 02 trường THPT trên địa bàn (có cả những giáo viên phụ
trách những lớp có học sinh được chọn khảo sát ở trên) để nắm rõ về quá trình
dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay.
Thời gian chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở
THPT là ở học kì I trong năm học 2014 – 2015.
* Tư liệu khảo sát:
- Sách giáo khoa Ngữ văn 10
- Sách giáo viên Ngữ văn 10
- Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 10
- Giáo án của một số thầy cô dạy Ngữ văn lớp 10
* Nội dung khảo sát:
- Những khó khăn và thuận lợi của học sinh khi học các tác phẩm thơ Nôm
Đường luật.
- Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên khi giảng dạy các tác phẩm
thơ Nôm Đường luật.
- Các phương pháp, biện pháp giảng dạy thơ Nôm Đường luật của giáo viên.
- Tâm lí, thái độ của học sinh khi học các tác phẩm thơ Nôm Đường luật.
- Năng lực cảm thụ, phân tích thơ Nôm Đường luật của học sinh.
Mẫu phiếu khảo sát và giáo án ở phần phụ lục.
*Phương pháp khảo sát:
- Lấy phiếu điều tra các nội dung đề xuất trong luận văn rồi tổng hợp và
đánh giá kết quả khảo sát.
- Nghiên cứu bài làm của học sinh.
- Nghiên cứu giáo án và trao đổi với giáo viên.
- Nghiên cứu Sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo.
* Quá trình khảo sát:
- Dự giờ, quan sát hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh lớp 10,
phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh.
Tiến hành phỏng vấn một số giáo viên trực tiếp dạy và một số học sinh ở lớp 10
- Sử dụng một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan
2.1.2.2. Kết quả khảo sát
Bảng 2.1. Thống kê số câu hỏi thi pháp trong phần tìm hiểu bài của
các bài thơ Nôm Đường luật trong sách giáo khoa Ngữ văn 10
chương trình cơ bản
Số TT Tên bài thơ Số câu hỏi
phần tìm
hiểu bài
câu hỏi về thi
pháp
Tỉ lệ %
1 Cảnh ngày hè 5 1 20
2 Nhàn 5 2 40
Cộng 10 3 20
Bảng 2.2. Thống kê kết quả khảo sát giáo án
Số TT Tên trường Số giáo
án khảo
sát
Kết quả
Có chú
trọng
đến thi
pháp
Tỉ lệ
%
Chưa
chú
trọng
Tỉ lệ
%
1 THPT Giao Thủy C 5 3 60 2 40
2 THPT Quất Lâm 4 2 50 2 50
Cộng 9 5 55,5 4 45,5
Bảng 2.3. Thống kê kết quả phiếu khảo sát phương pháp dạy học
của giáo viên (15 giáo viên)
NỘI DUNG KHẢO SÁT SỐ GV KHẢO SÁT
lựa chọn
TỈ LỆ
%
1. Quá trình giảng dạy các tác phẩm thơ
Nôm, các thầy cô có quan tâm đến việc
vận dụng thi pháp không?
a. Thường xuyên 5 33,3
b. Đôi khi 8 53,3
c. Không quan tâm 2 13,3
2. Các thầy cô đã bao giờ giải thích cho
học sinh về thi pháp văn học trung đại
chưa?a. có 4 26,7
b. Không 6 40
c. Đôi khi 5 33,3
3. Để giúp cho học sinh hiểu được các
tác phẩm thơ Nôm Đường luật các thầy
cô thường dùng biện pháp nào?
a. Thuyết giảng 9 60
b. Giảng bình 4 26,7
c. Đọc diễn cảm 2 13,3
4. Để hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu
các văn bản các thấy cô thường chú
trọng đến phương pháp nào?
a. Thuyết giảng 9 60
b. Trao đổi, đối thoại 3 20
c. Thảo luận nhóm 3 20
5. Các thầy cô đã bao giờ giải thích cho
học sinh hiểu về đặc điểm thơ Nôm
Đường luật chưa?
a. Thường xuyên 4 26,7
b. Đôi khi 6 40
c. Chưa bao giờ 5 33,3
2.1.2.3. Nhận xét về thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay
Ở chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT có 02 bài thơ Nôm Đường luật, đó là
“Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi và “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Quá trình thu thập, xử lý thông tin đã giúp chúng tôi có một số nhận xét
như sau:
* Ưu điểm:
- Học sinh được điều tra, khảo sát của hai trường đều là những học sinh có ý
thức học tương đối tốt. Việc soạn bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi đọc hiểu trong
sách giáo khoa đã trở thành việc làm thường xuyên của các em. Nhiều em còn
dành thời gian để đọc các tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học.
- Đa số học sinh được hỏi đều nắm được tên tác giả, thể thơ, nội dung cơ bản
của các bài thơ Nôm Đường luật. Các em đều thích học 2 bài này hơn so với các
bài thơ Trung đại khác cũng như các bài thơ Đường của Trung Quốc bởi học
sinh không phải tìm hiểu văn bản chữ Hán khó thuộc, khó nhớ, khó hiểu. Nhiều
em đã học thuộc bài ngay sau khi học, các em cũng hiểu được vai trò quan trọng
của hoàn cảnh sáng tác đối với tác phẩm, sự liên quan mật thiết giữa các tác
phẩm thơ Nôm Đường luật với hoàn cảnh xã hội đương thời. Nhiều em có khả
năng cảm thụ tương đối tốt đối với nội dung, nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
- Nhìn chung đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, hầu hết đều
đạt trình độ chuẩn. Các thầy cô đều là giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm và
yêu nghề. Giáo viên đều ý thức được vị trí vai trò của thơ Nôm Đường luật,
đồng thời hiểu được những khó khăn của học sinh khi học các tác phẩm văn học này. Không những vậy, các giáo viên đều được bồi dưỡng chuyên môn hàng năm,
nhiều giáo viên không ngừng tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công
nghệ thông tin... thu hút hứng thú học của học sinh.
- Các trường, tổ, nhóm bộ môn thường xuyên tổ chức các chuyên đề, hội giảng
(những bài thơ Nôm Đường luật có số tiết giảng dạy trùng với dịp 20-11) nên
giáo viên có cơ hội đầu tư, tìm hiểu sâu hơn các bài thơ Nôm Đường luật.
Thông qua dự giờ, góp ý, giáo viên học hỏi và rút được nhiều kinh nghiệm cho
giờ dạy của mình.
- Gần đây có rất nhiều sách tham khảo trên thị trường giúp giáo viên, học sinh
có những hướng dẫn cụ thể cho từng bài để dạy và học các bài thơ Nôm Đường
luật được tốt hơn.
* Hạn chế:
- Đa số giáo viên đều cho rằng các bài thơ Nôm Đường luật đưa vào chương
trình Ngữ văn lớp 10 là chưa phù hợp vì ở độ tuổi này các em khó có thể hiểu
hết giá trị nội dung, nghệ thuật của các bài thơ do tầm hiểu biết văn học sử chưa
đủ và tầm nhận thức, cảm thụ còn hạn chế.
- Cũng nhiều học sinh không thích học văn học Trung đại trong đó có thơ Nôm
Đường luật vì đây là phần văn khô và khó. Các em soạn bài rất sơ sài, nhiều em
chép trong các loại sách học tốt mà không hiểu nội dung. Các em hầu hết chỉ
nắm được nội dung cơ bản của ba bài thông qua phần ghi nhớ chữ chưa nhận
thức được giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, chưa có kiến thức về thể
loại thơ cũng như hoàn cảnh lịch sử ra đời của các bài. Sự cảm nhận của các em
còn thụ động, máy móc và công thức, phần lớn là diễn nôm tác phẩm. Nhiều
học sinh học xong bài vẫn không hiểu học những tác phẩm thơ Nôm Đường luật
để làm gì. Từ việc không hiểu ý nghĩa nhân văn, giá trị bất tử của các tác phẩm
thơ Nôm Đường luật dẫn đến việc không có hứng thú tiếp nhận.
- Đa số giáo viên được hỏi về phương pháp giảng dạy của ba bài thơ Nôm
Đường luật đều sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết giảng, hỏi đáp, đọc chép
còn các phương pháp đọc diễn cảm, đọc sáng tạo, so sánh đối chiếu về thi pháp thể loại,
giảng bình thì rất ít. Vì họ đều cho rằng mất thời gian, không đủ giờ và các em đều soạn bài ở
nhà nên đã đọc rồi. Do đó chất lượng giờ dạy trên lớp chưa cao.
- Khảo sát giáo án của hai giáo viên, chúng tôi thấy hai giáo án chưa thấy được
tính chất trữ tình của tác phẩm, chưa dạy tác phẩm đúng đặc trưng thể loại; hệ
thống câu hỏi chưa hợp lý còn vụn vặt, đơn điệu, chưa phân loại được các đối
tượng học sinh; lượng kiến thức còn hạn chế. Nhiều giáo viên được phỏng vấn
có tâm lý ngại đổi mới phương pháp, giáo án soạn một lần dạy trong nhiều năm
trừ các tiết hội giảng mới đầu tư hơn.
*Nguyên nhân:
- Giáo viên chưa nhận ra mối liên hệ giữa nhà văn – tác phẩm – bạn đọc, chưa
chú ý đến đặc trưng thể loại của tác phẩm.
-Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy, học hiện nay tràn lan trên thị trường
hầu hết đều xa rời đặc trưng thể loại.
- Do khoảng cách thời đại tác phẩm ra đời với thời đại học sinh đang sống.Vì
không hiểu hoàn cảnh lịch sử, điều kiện sống, quan điểm tư tưởng cũng như
quan điểm thẩm mỹ của cha ông ta nên đã dẫn đến hiện tượng các em đánh
đồng thời trung đại với thời đại ngày nay.
- Do khoảng cách về vốn sống, tầm văn hóa, tầm hiểu biết của học sinh và thời
Trung đại. Các tác phẩm thơ Nôm Đường luật sử dụng nhiều các thành ngữ, tục
ngữ, điển tích mà các em không hiểu được. Thí dụ: khi học bài “Thương vợ”
của Trần Tế Xương, một số em chỉ hiểu đơn thuần bài thơ nói về tình thương
đối với vợ. Mà thực ra thành ngữ “dãi nắng dầm mưa” được Tú Xương vận
dụng sáng tạo, đảo trật tự thành “ năm nắng mười mưa dám quản công” để diễn
tả số phận long đong, vất vả, gian chuân của bà tú... hoặc trong bài Cảnh ngày
hè, Nhàn thì những điển cố, điển tích như Ngu cầm, Rượu đến cội cây... học
sinh cũng chưa thực sự hiểu sâu sắc. Việc vận dụng các tri thức về lịch sử xã hội
vào việc lý giải nội dung các tác phẩm này còn gặp nhiều khó khăn nên các em không hiểu và
không cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ.
- Việc tiếp nhận văn học Trung đại nói chung, thơ Nôm Đường luật nói riêng phải
dựa trên hệ thống đề tài, chủ đề, hệ thống hình tượng- nghệ thuật. Nhưng
những hệ thống này hiện nay đều không phù hợp nữa. Vì thế việc dạy học văn
học thơ Nôm Đường luật gặp nhiều lúng túng.
- Thơ Nôm Đường luật phát triển và tồn tại có chịu ảnh hưởng lớn của văn học
Trung Quốc. Vì thế việc tìm hiểu thơ Nôm Đường luật không thể tách rời với
việc xem xét ảnh hưởng của văn học Trung Quốc. Công việc này gần như quá
sức với cả giáo viên và học sinh.
- Giáo viên chưa có các biện pháp thích hợp với đặc trưng thể loại của thơ Nôm
Đường luật. Hầu hết các giờ học đều đơn điệu, xa cách nhận thức thẩm mỹ của học
sinh nhất là học sinh lớp 7. Giáo viên chỉ chú trọng đến thuyết giảng mà chưa quan
tâm học sinh lĩnh hội như thế nào. Trong khi giảng bài, giáo viên thường liệt kê nội
dung phân tích một cách đơn thuần, học sinh thì thụ động nghe và ghi chép. Nhiều
câu hỏi cần được chia sẻ, khám phá nội dung nghệ thuật thì chưa được phát huy.
Giáo viên còn cảm thụ giúp học sinh, hệ thống câu hỏi đơn điệu chưa kích thích
được tính tích cực trong nhận thức của học sinh. Đặc biệt, giáo viên chưa chú trọng
đến hạt nhân nhân văn, yếu tố làm nên sức hấp dẫn, trường tồn của thơ Nôm Đường
luật. Vì vậy, giờ học chưa có trọng tâm, chỉ tìm hiểu bề ngoài mà không thấy hết
chiều sâu của tác phẩm.
Từ thực trạng tìm hiểu trên, chúng tôi nhận thấy rằng muốn giảng dạy tốt
thơ Nôm Đường luật ở THPT giáo viên phải có những biện pháp thích hợp gắn với
việc vận dụng thi pháp của văn học trung đại để hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ hơn,
sâu hơn về thơ Nôm Đường luật. Tình trạng duy ý văn bản còn diễn ra khá phổ biến,
việc giải mã thông tin nghệ thuật của văn bản cũng chưa được giải quyết một cách
cụ thể, thấu đáo, việc dạy các tác phẩm thơ Nôm Đường luật còn xa rời nguyên lí
dạy học hiện đại đó là đi từ khái quát dến cụ thể. Hiểu được thi pháp thì mới có cơ
sở để hiểu quan niệm nghệ thuật cũng như cách sử dụng ngôn ngữ, kết cấu, các biện
pháp nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của các nhà thơ biểu hiện trong từng tác
phẩm cụ thể. Có như vậy, giáo viên mới tạo cho học sinh những điều kiện cần thiết
để hiểu được kết cấu, ngôn ngữ, quan niệm nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật. Vì
vậy chúng tôi đề xuất một một số biện pháp dạy học thơ Nôm Đường luật theo
hướng vận dụng thi pháp sau:
2.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy học
thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 trung học phổ thông
2.2.1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc
2.2.1.1. Bám sát thi pháp của thơ Hán Nôm Đường luật trung đại
Thi pháp thơ Nôm Đường luật nói riêng và thơ trung đại nói chung đều
mang được vẻ đẹp của tâm hồn người Việt, vì thế khi tìm hiểu khám phá các
tác phẩm văn học giai đoạn này chúng ta phải bám sát đặc trưng thi pháp
của thơ Hán, Nôm Đường luật thì mới hiểu sâu sắc được nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
Phân tích một văn bản thơ chữ Nôm Đường luật bao giờ cũng đòi hỏi người
tiếp nhận phải phân định được bố cục và kết cấu, đề tài, thể loại, thi liệu, ngôn
ngữ giọng điệu... của bài thơ. Trên những cơ sở đó hướng dẫn học sinh đi tìm
hiểu, phân tích để tìm ra ý nghĩa của nó trong việc biểu hiện nội dung và thể
hiện những sáng tạo nghệ thuật của mỗi tác giả.
Trước hết việc xác định bố cục của một bài thơ Đường luật là tương đối
dễ dàng vì nó đã có quy định chặt chẽ. Đó là cái khung cố định cho những bài
thơ chung một thể loại. Bố cục là cách để gọi tên chức năng cho từng phần. Ví
dụ hai câu đề có chức năng mở bài bằng cách nêu ra sự vật, hiện tượng để giới
thiệu khái quát vấn đề mà nhà thơ đề cập tới. Hai câu thực có chức năng nêu ra
các hiện tượng, sự vật sát với đề thơ để làm rõ hơn, cụ thể hơn vấn đề. Hai câu
luận có chức năng luận bàn về những hiện tượng, sự vật đã được nói từ bốn câu
kể trên. Đó là sự nhận thức trên cơ sở thực tiễn của hình tượng, sự vật mà khái
quát nâng lên thành một luận đề mang tính lí luận để làm sâu sắc thêm ý thơ.
Hai câu kết có chức năng làm ngưng kết ý bài. Giáo viên cần căn cứ vào đó để
có cách tìm hiểu linh hoạt. Ví dụ, khi dạy bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương
thì đây là một bài thơ tuân theo các quy định nghiêm ngặt của phong cách thơ
Đường. Vì vậy, giáo viên nên hướng dẫn học sinh khai thác theo bố cục của bài
thất ngôn bát cú, gồm 4 phần đề - thực – luận – kết. Ở mỗi phần luôn có sự song
hành bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học
sinh khai thác tìm hiểu.
Tiếp cận văn bản theo hướng vận dụng thi pháp hướng chúng ta đặt mối
quan tâm đến ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu... của tác phẩm. Ngôn ngữ, giọng
điệu của tác phẩm chính là thái độ đánh giá cuộc sống của tác giả thông qua cảm
xúc thẩm mĩ gửi gắm qua câu chữ. Nhiều khi ngôn ngữ, giọng điệu, nhịp điệu
trong tác phẩm văn chương lại có mối liên hệ khăng khít với nhau. Ta có thể
nhận ra giọng điệu nhẹ nhàng, nhịp điệu khoan thai, ung dung như những bước
chân đang thả bộ của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua câu thơ “một mai, một cuốc, một
cần câu” trong bài thơ Nhàn. Ta có thể lắng nghe âm thanh “lao xao chợ cá”
của làng ngư phủ đang vang vọng lại trong tâm hồn Nguyễn Trãi trong Cảnh
ngày hè để thấy được vẻ đẹp tâm hồn thi nhân khi cảm nhận về cuộc sống.
Bám sát đặc trưng thi pháp của thơ Hán, Nôm Đường luật là giúp giáo viên
và học sinh nắm được những điều cơ bản nhất về nội dung và hình thức nghệ
thuật của tác phẩm thơ ca trung đại.
2.2.1.2. Bám sát văn bản gốc và giai đoạn sáng tác của tác phẩm văn học
trung đại
Mỗi tác phẩm văn chương lại được ra đời vào những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, trong đó phải kể đến yếu tố văn bản gốc của nhà văn – người sáng tác và
hoàn cảnh lịch sử xã hội tác động đến việc ra đời của tác phẩm. Vì vậy trong
quá trình dạy tác phẩm thơ trung đại nói chung và thơ Nôm Đường luật nói
chung chúng ta phải có sự hiểu biết kĩ lưỡng về tác giả đã sáng tác bài thơ trong
hoàn cảnh nào, phong cách nghệ thuật của nhà văn ra sao. Bởi lẽ đời tư của tác
giả cũng góp một phần quan trọng để tạo nên cá tính sáng tạo hoặc ngôn ngữ
giọng điệu của nhà thơ.
Ví dụ khi tìm hiểu về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi ta phải biết
được hoàn cảnh sáng tác bài thơ này của tác giả là khi đã về ở ẩn ở Côn Sơn cho
nên mọi hình ảnh, cảnh vật đều mang đậm những nét của cảnh làng quê thôn dã
với cây hòe, cây lựu, ao sen, âm thanh của tiếng chợ quê quen thuộc... Và chính
điều này đã làm cho giọng điệu của bài thơ trở nên tươi vui, ấm áp mang tính
ngợi ca vẻ đẹp cuộc sống của nhà thơ khi được sống hòa mình vào với thiên
nhiên và cuộc sống của nhưng con người nơi làng quê mộc mạc, giản dị.
Bên cạnh đó chúng ta còn cần phải bám sát vào văn bản gốc của bài thơ vì
đây đều là những bài thơ được sáng tác, được viết bằng chữ Nôm mà thế hệ ngày
nay ít biết đến những loại văn tự này. Cũng ở bài thơ Cảnh ngày hè của
Nguyễn Trãi ta có thể thấy được nhiều từ, ngữ cổ mà nay rất ít dùng vì thế
người giáo viên phải bám sát vào văn bản gốc để giải thích, cắt nghĩa cho học
sinh. Ví dụ như từ “rồi” nghĩa là rỗi rãi, rảnh rỗi, nhàn hạ, từ “tiễn” mà văn bản
gốc là từ “tịn” nghĩa là sen dưới ao đã gần hết mùi hương để muốn nói tới mùa
hè đã sắp hết, từ “dắng dỏi” nghĩa là tiếng ve ngân lên nghe thánh thót, lúc trầm
lúc bổng như những bản đàn. Hoặc từ “dẽ có” mà văn bản gốc là “lẽ có” nghĩa
là lẽ ra nên có cây đàn của vua Ngu Thuấn để gảy lên khúc Nam phong ca ngợi
cuộc sống thái bình của nhân dân.
Như vậy việc bám sát văn bản gốc và thời đại, giai đoạn sáng tác đóng một
vai trò khá quan trọng trong quá trình dạy học văn chương nhất là các tác
phẩm thơ, ca trung đại. Vì điều này sẽ hướng cho học sinh hiểu đúng, hiểu
sâu về tác phẩm.
2.2.1.3. Đối chiếu các văn bản, phát hiện, khơi gợi, kích thích sự hình thành năng
lực so sánh, liên tưởng, tưởng tượng
Tìm hiểu, khám phá, phân tích các tác phẩm văn học trung đại không chỉ
đơn thuần là phân tích ngôn từ, lớp nghĩa mà muốn học sinh ngoài sự cảm thụ
và say mê còn phải thực sự hiểu được những cái mới trong những tác phẩm để
củng cố thêm niềm say mê với văn học trung đại, trân trọng những sự sáng tạo
của cha ông ta. Những cái mới ở đây là mới về nội dung, ngôn từ của tác phẩm
so với những tác phẩm ra đời trước nó, cùng nó và sau nó, đó là những giá trị,
những khía cạnh còn phù hợp với thời đại mới ngày nay.
Tác phẩm văn chương là sản phẩm lịch sử của thời đại, nhưng với tài năng
của mình, nhà văn có những sáng tạo vượt qua tầm thời đại của mình, thậm chí
có thể mang tới những dự báo cho tương lai. Muốn tìm ra cái mới cần phải dựa
trên những giá trị được xem là ổn định của tác phẩm như: đề tài, chủ đề, thi lệu,
cảm hứng, phương thức... Ví dụ bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi một đề
tài khá mới mẻ, nổi bật trong thơ ca trung đại đương thời. Sự sáng tạo của bài
thơ là ở việc phá vỡ những quy định chặt chẽ của thơ Đường luật. Thông thường
với những bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật có bố cục : đề , thực, luận, kết (2
– 2 – 2 – 2) nhưng Nguyễn Trãi đã phá luật tạo nên một bố cục mới 1 – 5 – 2.
Không những vậy ngôn ngữ thơ ông không cầu kì, kiểu cách mà toàn là ngôn
ngữ thuần Việt bình dị, dân dã, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói của người
dân nhưng được sử dụng khéo léo, tinh tế. Đặc biệt là việc chêm, xen một số câu
lục ngôn vào bài thơ làm cho thơ Nguyễn Trãi mang được cái tươi mới, độc đáo,
đặc sắc của thơ Nôm Đường luật. Thi liệu không phải là thi liệu của văn học
cổ, những điển cố, điển tích mà những cảnh vật sống động, mang đậm dấu ấn
làng quê thôn dã mộc mạc. Vì vậy, người giáo viên vừa phải đảm bảo truyền đạt
những giá trị lịch sử đã ổn định mà nhà thơ phản ánh trong tác phẩm vừa phải
giúp học sinh nhận thức được những cái mới nhất, những giá trị xã hội thẩm
mĩ hiện đại trong tác phẩm, tức là cái mới cũng phải nằm trong sự so sánh đối
chiếu với những yếu tố tương tự trước và sau nó. Đối với tác phẩm muốn phân
tích, đánh giá đúng đắn nội dung, nghệ thuật của tác phẩm phải vận dụng quan
điểm và phương pháp lịch sử “ Cần phải đặt mỗi tác phẩm cũ vào điều kiện
lịch sử của nó, nhận rõ quan hệ giữa tác phẩm và thời đại, như thế chúng ta
mới có thể hiểu được những giá trị cũ và tìm thấy trong đó những bài học
cho chúng ta ngày nay” [9, tr.17] để làm được điều này giáo viên phải có vốn
sống ở nhiều lĩnh vực, phải sống phong phú cuộc sống hiện tại và nhạy
cảm với cái mới.
Trong giảng dạy tác phẩm văn chương, so sánh là một biện pháp được dùng
khá phổ biến vì nó luôn mang hiệu quả bất ngờ. So sánh sẽ giúp học sinh mở
rộng, khắc sâu kiến thức văn học cho chính bản thân mình, đồng thời thấy được
những nét riêng, nét chung, sự kế thừa, phát triển đặc biệt là những dấu ấn sáng
tạo của từng tác giả trong tác phẩm. Thông qua so sánh sẽ giúp học sinh khắc
sâu ấn tượng về những hình tượng nổi bật trong tác phẩm.
Khi dạy các tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở THPT cũng vậy, giáo viên
cũng cần sử dụng biện pháp so sánh để học sinh ấn tượng hơn với nội dung của
bài thơ, đồng thời giúp các em có cái nhìn toàn diện hơn về văn học trung đại
thời bấy giờ cũng như đặc điểm sáng tác văn chương của từng tác giả. Khi dạy
bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, giáo viên có thể so sánh với các bài thơ có
hình ảnh liên quan như:
“Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây”
( Mạn thuật bài 6)
Hay ở hai câu cuối Cảnh ngày hè có thể so sánh:
“ Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ thửa nguyền”
( Tự thán bài 4)
Hoặc những bài thơ cùng chủ đề trong thơ Lê Thánh Tông như: Vịnh cảnh mùa
hè, Lại vịnh nắng mùa hè... Các bài thơ này đều miêu tả cảnh mùa hè, hoặc hình
ảnh về cỏ cây hoa lá, cuộc sống ở thôn quê..., cảnh ở đây thường rất tươi đẹp
tràn đầy sức sống, làm cho giọng điệu bài thơ trở nên tươi vui, rạng rỡ, tình thì
sâu lắng, thiết tha. Giáo viên cũng có thể so sánh với hình ảnh “đầu tường lửa
lựu lập lòe đâm bông” trong thơ Nguyễn Du để thấy được sự tài tình trong nghệ
thuật miêu tả cảnh vật của mỗi nhà thơ ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm.
Khi dạy bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo viên mở rộng, so sánh với các
bài thơ khác của ông cùng đề tài hoặc có hình ảnh tương tự như khi nói về “dại, khôn”
nhà thơ đã từng viết:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn
Hoặc khi nói về sự đua chen danh lợi nơi chốn quan trường đầy khắc nghiệt
ông lại viết:
“Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử Hết
cơm, hết rượu, hết ông tôi”
Hay: “Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thì hơn hết mọi lời”
Tóm lại việc so sánh, đối chiếu là một việc làm hết sức cần thiết khi giảng
dạy văn chương và đặc biệt là với văn học trung đại. Qua việc so sánh đối chiếu
làm cho học sinh hiểu rõ, hiểu sâu hôn về tác phẩm, về tác giả và về cả hoàn
cảnh, thời đại mà tác giả sáng tác. Từ đó học sinh có cái nhìn toàn diện sâu sắc
về bài thơ và cũng có kĩ năng tìm hiểu, khai thác, so sánh đối chiếu với các tác
phẩm văn học khác.
2.2.1.4. Tạo không khí tranh luận, đối thoại giữa các tổ, nhóm, cá nhân
Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần tạo ra được không khí tranh
luận, đối thoại sôi nổi giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân với nhau để vừa
kích thích sự hứng thú trong học tập lại vừa phát huy được tính chủ động sáng
tạo của học sinh. Hoạt động nhóm là một ví dụ: Nhóm được hiểu ở mức đơn
giản là tập hợp những cá thể lại với nhau theo những nguyên tắc nhất định, giải
quyết những vấn đề trong những thời gian xác định phụ thuộc vào số người,
nhiệm vụ và sự tương tác của các thành viên. Theo hướng đi này người học
được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức chủ đạo, hướng
đạo. Người học sinh không bị động tiếp thu sự truyền giảng của thầy như trước
đây mà chủ động, tự giác, tích cực.
Về cách thức, giáo viên có thể chia học sinh thành từng nhóm nhỏ
( theo tổ hoặc theo bàn), cùng thảo luận, trao đổi vấn đề mà giáo viên đưa ra. Sau đó,
mỗi nhóm cử một đại diện lên trình bày. Các nhóm khác lắng nghe và phát
biểu nhận xét, bổ sung, thậm chí tranh luận, bác bỏ. Mỗi nhóm phải trình bày
sao có tính thuyết phục để bảo vệ quan điểm của mình. Giáo viên tham gia
định hướng, khái quát kịp thời và điều khiển để cuộc đối thoại không biến thành
cuộc tranh cãi khiến giờ học trở nên căng thẳng. Những cuộc đối thoại như vậy có
tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn trong quá trình học tập, tự
đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình thảo luận. Qua đối
thoại, học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập thể, tăng cường tinh
thần trách nhiệm, sự tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo của các em.
Phạm vi: nhóm, tổ, lớp sẽ tạo môi trường giao tiếp ở từng mức độ lớn
dần, người học sinh theo từng mức độ đặt trong những tình huống chủ động thể
hiện được mình trong chừng mực phản biện, bảo vệ, bác bỏ, tiếp nhận với tư
cách chủ thể.
Về nội dung, đối thoại trong quá trình tiếp nhận văn học ở nhà trường
là đối thoại dựa trên sự cảm thụ tác phẩm một cách cá nhân, sáng tạo. Ở đây,
học sinh đọc tác phẩm (bản thể thẩm mĩ) là để đối thoại với tác giả (chủ thể
thẩm mĩ) về giá trị nghệ thuật của những kí hiệu ngôn ngữ, hình tượng nghệ
thuật, tính cách nhân vật, tình huống, cảm xúc… và đối thoại với chính mình
để xác lập mối quan hệ giữa ý đồ sáng tác của tác giả và những yếu tố nghệ
thuật của tác phẩm với tri thức, kinh nghiệm của chính bản thân mình. Trên cơ
sở đó, học sinh lại tiếp tục đối thoại với giáo viên, với các học sinh khác để
được tiếp xúc với những quan niệm, điểm nhìn, cách lí giải khác, để được
nghe nhiều tiếng nói, giọng điệu khác, tức là được tham gia trực tiếp vào một
cuộc đối thoại lớn, nhiều chiều.
2.2.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ
Nôm Đường luật ở chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT
2.2.2.1. Hướng dẫn học sinh xác định những nét tiêu biểu của thi pháp văn học
trung đại liên quan đến tác phẩm
Để học sinh hiểu thấu đáo, sâu sắc về các tác phẩm thơ Nôm Đường luật
trong chương trình người dạy cần từng bước hướng dẫn các em tìm hiểu về đặc
trưng của thi pháp thơ trung đại để học sinh nắm bắt được vấn đề và có sự chủ
động, sáng tạo trong việc tiếp cận, khám phá tác phẩm. Ở chương trình Ngữ văn
lớp 10 THPT chỉ có hai bài thơ tiêu biểu của hai nhà thơ cũng rất tiêu biểu của
nền văn học trung đại là Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Nhàn của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Đây chỉ là hai bài thơ nhỏ trong một mảng thơ Nôm khá lớn của
hai nhà thơ nổi tiếng trong văn học trung đại. Vì vậy nếu không tiếp cận với văn
học trung đại một cách khái quát thì dễ rơi vào tình trạng “Thầy bói xem voi”.
Khi dạy những bài thơ này, dù thời lượng hạn hẹp, chúng ta cũng không thể bỏ
qua việc giới thiệu một cách khái quát nhất về một số phương diện như thi pháp
văn học trung đại (giới thiệu một số nội dung liên quan như đề tài, bút pháp, thi
liệu, quan niệm về thiên nhiên,…). Với cách dạy từ hướng vận dụng thi pháp thì
việc giúp học sinh nắm được những đặc điểm cơ bản về thi pháp thời đại chính
là chìa khóa để giải mã những bài thơ cụ thể sau này.
* Với bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi có thể hướng dẫn học sinh tìm
hiểu một số đặc điểm thi pháp sau:
+ Đề tài: Đề tài về mùa hè là một trong những đề tài ít gặp trong thơ ca, nhất là
thơ ca trung đại. Vì thế chọn một bức tranh cảnh ngày hè đã cho thấy được nét
độc đáo trong tâm hồn và thơ ca của Nguyễn Trãi.
+ Thể thơ: Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi được viết theo thể thơ Nôm thất ngôn
bát cú đường luật nhưng đã được phá cách độc đáo bằng việc chen thêm những
câu lục ngôn vào phần đầu và phần cuối của bài thơ. Với lối viết giản dị, dễ hiểu
ngôn ngữ mộc mạc của thể thơ thì bài thơ đã tạo được những nét độc đáo cho
thơ ca trung đại nói chung và thơ ca Nguyễn Trãi nói riêng. Điều này tạo cho
bài thơ mang được âm hưởng và tiếng nói rất riêng của người Việt.
+ Bút pháp: bài thơ cũng sử dụng những bút pháp quen thuộc của văn học trung
đại như tả cảnh ngụ tình, bút pháp điểm xuyết, tượng trưng với những nét chấm
phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật.
+ Thi liệu: thơ viết về mùa hè thường ít gặp trong văn học Trung đại Việt Nam.
Vì thế có thể nói bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi khá mới mẻ, hấp dẫn và
rực rỡ sắc màu. Cảnh ngày hè ở đây không vắng vẻ, đìu hiu, u buồn như một số
bài thơ trung đại khác mà ngược lại rất đẹp, rất tươi mới, sinh động.
+ Âm hưởng: âm hưởng chung của bài thơ là bức tranh ngày hè tươi mát, giàu
màu sắc, hình ảnh, đường nét, âm thanh, hình khối với không khí tươi vui rạng
rỡ, với vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân hòa cùng thiên nhiên tràn đầy sức sống và
cuộc sống sôi động, náo nhiệt của mọi người. Bài thơ mang một âm hưởng hoàn
toàn khác với nhiều tác phẩm của thơ ca trung đại.
Với bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm dấu ấn của thi pháp thơ trung đại
lại được thể hiện trên các bình diện sau:
+ Đề tài: Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại thể hiện được một đề mang đậm
chất triết lí về lẽ sống nhàn tản của một số nhà thơ trung đại khi họ lánh đục
về trong để giữ mình, giữ khí tiết. Với họ cuộc sống nhàn tản không vướng
vòng danh lợi được sống hòa mình vào với thiên nhiên, đất trời trong cái thú
tự do, tự tại như những nhà hiền triết.
+ Thể thơ: Nhàn là một bài thơ Nôm được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú
Đường luật tuân thủ chặt chẽ theo bố cục đề, thực, luận, kết, bình đối của thơ ca
truyền thống. Tuy nhiên ở đây lại có những nét khác biệt độc đáo so với thơ
Đường luật thông thường, đó là thơ Đường luật bốn câu đầu nghiêng về cảnh,
bốn câu sau nghiêng về tình thì ở Nhàn lại có sự đan xen giữa cảnh và tình
xuyên suốt bài thơ.
+ Thi liệu: thơ viết về cảnh vui thú điền viên, ung dung tự tại của các nhà Nho
về ở ẩn để lánh đời thoát tục, không vướng bụi trần, không màng danh lợi cũng
được khá nhiều nhà thơ trung đại lựa chọn để gửi gắm tâm tư, tình cảm, gửi
gắm những tâm sự của mình về nhân tình thế thái.
+ Âm hưởng: âm hưởng chung của bài thơ là âm hưởng của một cuộc sống tự
do, nhàn tản, thảnh thơi, thư thái, được sống với những gì mình có, những gì
mình thích, không phải vội vã, bon chen, không lo toan, tính toán, lại được sống
hòa hợp với thiên nhiên, đất trời, cỏ cây hoa lá.
+ Ngôn ngữ: về ngôn ngữ trong Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giản dị,
mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ gần gũi với ngôn ngữ của cuộc sống đời thường.
2.2.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội văn bản trên cơ sở thi
pháp tác giả.
Tác phẩm văn chương là sự sáng tạo của nhà văn vì thế ở mỗi tác giả lại
có những phong cách riêng, mỗi tác phẩm lại có những giọng điệu riêng nên
việc tìm hiểu, nghiên cứu về thi pháp phải đặc biệt lưu ý vấn đề này. Mỗi
một tác phẩm văn học dẫu thuộc cùng một thể loại nhất định cũng là một
sáng tạo mà nhà văn phải nung nấu cả đời. Nếu không chú ý đến việc khám
phá cái riêng của thi pháp tác giả, bức tranh văn học sẽ nghèo nàn, đơn
điệu cả về bố cục và màu sắc, dễ ra lò theo lối công nghiệp hàng loạt, triệt
tiêu phần cá nhân, tính sáng tạo của con người. Trong khi đó vận động của
dòng chảy văn học ngày càng khẳng định phẩm chất sáng tạo như một đặc
điểm sống còn của người viết. Vì vậy dạy những bài thơ Nôm Đường luật
theo hướng vận dụng thi pháp thì đặc điểm thi pháp tác giả là hết sức cần
thiết không thể bỏ qua.
* Với bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: Thi pháp thơ Nguyễn Trãi
là những nét nghệ thuật sáng tạo đặc sắc mang dấu ấn riêng của tác giả vượt
ra ngoài những quy phạm của văn học trung đại. Trong bài thơ Cảnh ngày
hè nét đặc trưng thi pháp thơ Nguyễn Trãi được thể hiện ở những bình diện
sau:
+ Thi đề: Nguyễn Trãi đã phá vỡ tính ước lệ ngay từ thi đề của bài thơ Nếu
như thơ ca cổ chọn mùa xuân với mưa bay lất phất, mùa thu với lá vàng rơi,
tuyết phủ... thì ở đây Nguyễn trãi lại chọn cho mình bức tranh phong cảnh của
ngày hè oi ả, chói chang mà thơ ca trung đại ít khi đụng tới. Tuy nhiên ở Cảnh
ngày hè của Nguyễn Trãi ta lại bắt gặp một mùa hè dịu mát, rực rỡ sắc màu
với một không gian thoáng đãng, cởi mở tràn đầy sức sống của con người và
cảnh vật cùng âm thanh, ánh sáng, đường nét hết sức tươi đẹp, sinh động, hấp
dẫn. Và có lẽ từ sau Nguyễn Trãi đề tài mùa hè đã được quan tâm nhiều hơn
trong thơ ca trung đại, đặc biệt là trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê
Thánh Tông đã xuất hiện rất nhiều bài thơ về cảnh ngày hè như: Vịnh cảnh
mùa hè, Lại vịnh nắng mùa hè trong đó có nhiều hình ảnh về ngày hè rất gần
gũi với cuộc sống đời thường: “Nghi ngút tàn mây tán lửa che
Rùng người thay bấy gọi là hè”. Hay đó là những ngày hè oi ả, chói
chang
“Mai gầy liễu guộc, cỏ le te
Biết chạy làm sao khỏi nắng hè”
hoặc “Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”
Như vậy đề tài về ngày hè trước đó ít được quan tâm thì từ sau Cảnh
ngày hè của Nguyễn Trãi mùa hè đã trở thành một nguồn cảm hứng trong thơ
ca trung đại.
+ Thi hứng: Các nhà thơ xưa thường tìm cảm hứng trong cảnh vật Trung Hoa,
như sông Xích Bích, hồ Động Đình, bến Tầm Dương, sông Tiêu Tương,...
Nhưng trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi tuyệt nhiên không thấy có các cảnh
sắc Trung Hoa, hay các cảnh xây dựng theo tưởng tượng theo lối ước lệ, có
chăng là giấc mơ Nghiêu, Thuấn thoảng qua trong cái niềm mong mỏi “Dân
giàu đủ khắp đòi phương”để luôn mong cho dân giàu, nước mạnh. Còn lại ở đây
là những cảnh quen thuộc, bình dị dân dã thường ngày của làng quê Việt Nam
đã đem đến nguồn cảm hứng lớn trong thơ Nguyễn Trãi. Sở dĩ như vậy là vì gần
suốt đời mình, Nguyễn Trãi đã gắn bó với nhân dân, yêu nhân dân, yêu cuộc
sống của họ, ông lo trước nỗi lo của dân, đau nỗi đau của dân và cùng chia sẻ
những buồn vui với họ. Có lẽ vì điều đó mà những hình ảnh gần gũi, giản dị ở
chốn thôn quê như lảnh mùng tơi, bè rau muống, luống dọc mùng...` vẫn thường
xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Trì thanh phát cỏ ương sen”
+ Thi liệu: Các nhà thơ xưa khi miêu tả cảnh sắc trong thơ ca của mình
thường chọn những thi liệu rất quen thuộc, mang tính công thức, ước lệ như
tả cây ngô đồng, hoa cúc, lá vàng rơi, hay đó là cảnh phong, hoa, tuyết,
nguyệt... Và đặc biệt là nói tới ngày hè các nhà thơ xưa thường nhắc tới tiếng
cuốc kêu như:
“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc”
hay “cuốc, cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc” (Lê Thánh Tông)
Ngay cả trong thơ Nguyễn Du sau này cũng là âm thanh quen thuộc của tiếng
cuốc gọi hè: “Dưới trăng quyên đã gọi hè”
Nhưng trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi nhà thơ đã tránh được
những công thức ước lệ đó, mặc dù cảnh ở đây vẫn là cỏ cây, hoa lá, tiếng ve...
nhưng thi liệu quen thuộc ấy lại có ngay trong cuộc sống nơi thôn dã của làng
quê Việt Nam. Nói chung các hình ảnh thơ ở đây đều được hiện lên với đặc
điểm chung là rất sinh động, cụ thể, gần gũi của vùng thôn quê Việt Nam.
Điểm mới, độc đáo ở đây là vẫn có “cảnh cũ” “người xưa” nhưng hồn thơ thì
đã vượt ra khỏi sự khuôn sáo của thi tứ cổ điển.
+ Ngôn ngữ nghệ thuật: Phá vỡ tính ước lệ, tính quy phạm trong thơ ca trung
đại nói chung và trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nói riêng và trong đó Cảnh
ngày hè là một nét tiêu biểu, nổi bật của thơ Nguyễn Trãi. Nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ thuần Việt của tác giả đã đạt đến sự tinh tế, phá cách độc đáo,
mạnh mẽ. Bài thơ dùng rất ít các điển cố, điển tích của thơ ca cổ mà chủ yếu
dùng hình ảnh, ngôn ngữ của cuộc sống đời thường. Thấy rất rõ là trong bài
thơ này, Nguyễn Trãi đã sử dụng chủ yếu những từ thuần Việt trong sáng,
gần gũi, dể hiểu, giàu sức gợi: hóng mát, đùn đùn, tán rợp giương, phun thức
đỏ, tiễn mùi hương.....
Ở đây tác giả đã huy động đến mọi giác quan để miêu tả cảm nhận về
bức tranh ngày hè, từ phong thái ung dung thư thái, thảnh thơi để hóng mát
trong ngày trường đến cảnh vật được quan sát một cách tinh tế, giàu cảm xúc; đó
là những cây hòe đang giương tán lá sum xuê xanh tốt trong những ngày hè để
tỏa bóng mát cho đời. Hình ảnh cây hòe một loại cây rất gần gũi với cuộc sống
đời thường, đây cũng được coi là loài cát mộc (cây mang lại niềm vui) nên hầu
hết được đều được trồng trong các gia đình ở nông thôn, cây hòe cũng đã đi vào
nhiều áng thơ ca trung đại:
“ Hồng bay lựu, màn vây liễu,
Hương nức sen, bóng rợp hòe ”
(Hồng Đức quốc âm thi tập – Lê Thánh Tông)
Hay trong thơ Nguyễn Du: “Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc một sân quế hòe ”
Trong văn học Trung Hoa cũng có nhắc tới hình ảnh của cây hòe:
“Xuân sang hoa nở thiếp về
Chàng ơi đến gốc cây hòe nhận con”.
Còn ở đây cây hòe trong thơ Nguyễn Trãi đang độ sinh sôi, nảy nở một cách
mãnh liệt đến mức “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương” tất cả như đang đùn ra,
tuôn ra, chảy ra, giương ra một màu xanh của tán lá. Theo thuật phong thủy của
phương Đông thì những nơi cây cối tốt tươi, giàu sức sống thì nơi đó sinh khí
hội tụ, vượng khí dồi dào, rất tốt cho tinh thần, sức khỏe của con người.
Bức tranh phong cảnh ngày hè còn phải kể đến là hình ảnh của cây lựu
đang trổ hoa đỏ thắm trước hiên nhà, đó là những bông sen đang dìu dịu ngát
hương dưới ao, đó còn là âm thanh dắng dỏi của tiếng cầm ve đang báo hiệu
hè về hòa cùng âm thanh lao xao của chợ cá từ làng ngư phủ đó đây vang
vọng lại. Tất cả góp phần tạo nên bức tranh ngày hè sôi động, rộn rã, tươi vui.
Ngôn ngữ nghệ thuật còn phải kể đến việc dùng từ táo bạo, đặc sắc của
tác giả, trong bài thơ nhà thơ đã dùng một loạt các động từ mạnh để diễn tả
sức sống tràn trề của cảnh vật đó là những từ giương, phun, tiễn... cho thấy
sức sống như đang cựa quậy, phun trào từ bên trong của cảnh vật. Đặc biệt
động từ phun trong câu thơ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ cho thấy hình
ảnh những bông hoa lựu đang phun ra, tuôn ra một màu đỏ rực rỡ điểm lên
cái nền xanh của cây lá cũng là để diễn tả sức sống đang trỗi dậy mãnh liệt
trong những ngày hè. Câu thơ để lại những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng
người đọc để hơn ba trăm năm sau Nguyễn Du cũng có cách diễn tả khá đặc
sắc, độc đáo về hình ảnh hoa lựu trong Truyện Kiều
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”.
Tuy nhiên ở mỗi nhà thơ lại có nhưng điểm riêng, độc đáo khác nhau. Câu
thơ của Nguyễn Trãi thiên về diễn tả sức sống đang tuôn trào, trỗi dậy thì
Nguyễn Du lại chủ yếu đi vào nghệ thuật tạo hình đặc sắc với ánh lửa lựu
đang lập lòe như những đốm sáng trước hiên nhà.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trãi còn ở khả năng sử dụng từ
láy tài tình, độc đáo. Trong bài thơ ta thấy Nguyễn Trãi đã lắng nghe để cảm
nhận được những âm thanh lao xao của chợ cá làng ngư phủ đang rộn ràng
náo nhiệt từ ngoài xa vọng lại, nhà thơ cũng cảm nhận được những âm thanh
dắng dỏi của tiếng đàn ve đang ngân lên thành khúc nhạc rộn rã để chào đón
mùa hè. Tiếng ve dắng dỏi cũng đã có lần vang lên vào những ngày hè trong
thơ Lê Thánh Tông:
“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve”
Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trãi còn phải kể đến việc nhà thơ đã chêm,
xen những câu thơ lục ngôn đầy sáng tạo vào trong những bài thơ thất ngôn
để tạo ra âm hưởng mới cho thơ Việt. Và có lẽ việc xen những câu thơ lục
ngôn vào thơ thất ngôn đã đánh dấu một bước tiến mới trong thơ Nôm Đường
luật của người Việt, nó không chỉ đơn thuần là phá vỡ tính quy phạm chặt chẽ
về niêm, luật của thơ Đường luật mà còn tạo ra những âm hưởng riêng, cách
ngắt nhịp riêng. Ví dụ như câu thơ Rồi hóng mát thuở ngày trường chúng ta
thấy cách ngắt nhịp ở đây là 1/2/3 rất khác biệt với thơ ca truyền thống. Hoặc
câu kết lục ngôn một hình thức khá phổ biến trong thơ Nguyễn Trãi cũng
được thể hiện trong bài thơ này Dân giàu đủ khắp đòi phương mang đến cho
câu thơ, bài thơ một âm hưởng ngân vang, khắc khoải về nỗi mong muốn cho
nhân dân được sống trong bình yên, ấm no, hạnh phúc.
+ Không gian nghệ thuật: Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi được đón nhận
từ một không gian thoáng đãng, nhưng giản dị gần gũi ở chốn thôn quê dân
dã, với cặp mắt mắt tinh tế, nhạy cảm nhà thơ đã chớp được cái hồn của tạo
vật để vẽ lên một bức tranh ngày hè mang đậm đà sắc màu của làng quê Việt
Nam, góp thêm cho thơ ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh ngày hè giản
dị, đơn sơ nhưng mang đậm tâm hồn Việt.
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Bài thơ mở ra không gian nghệ thuật đầy thi vị, ngập tràn không khí
của làng cảnh Việt Nam. Đó là không gian của cỏ cây, hoa lá, không gian sinh
hoạt của những con người thôn quê. Mở đầu bài thơ là hình ảnh của thi nhân
trong dáng nhàn tản, thảnh thơi dạo chơi hóng mát ngắm nhìn cảnh vật, không
gian ấy rất hợp Nguyễn Trãi khi về ở ẩn được sống hòa mình vào thiên nhiên,
đất trời.
Vì thế mà không gian ngày hè được cảm nhận bằng ấn tượng đầu tiên
chính là hình ảnh cây hòe đang đùn đùn ra những tán lá xanh tốt che rợp cả
một góc trời, cây hòe một loại cây rất gần gũi, gắn bó với những người dân
quê, nó không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế mà nó còn đang tỏa bóng
mát cho đời làm cho những ngày hè trở nên dịu mát. Cùng với cây hòe sum
xuê là cây lựu trước hiên nhà đang phun ra những chùm hoa đỏ thắm tạo cho
bức tranh ngày hè một sắc màu rực rỡ, thế nhưng người đọc lại không hề cảm
thấy chói chang gay gắt bởi cái gam màu nóng của hoa lựu đã được hòa lẫn
trong cái màu xanh dịu mát của cây lá.
Không gian của ngày hè được đẩy ra xa hơn khi nhà thơ cảm nhận được
hương sen dìu dịu, ngan ngát đang lan tỏa trong không gian của những ngày
hè oi ả. Đến đây người đọc đã cảm nhận được bức tranh ngày hè độc đáo của
Nguyễn Trãi, đó chính là sự phối của màu sắc, hình ảnh, đường nét, hình khối.
Bức tranh hiện lên đa sắc màu với màu xanh tràn ngập của cây hòe, màu đỏ
điểm xuyết của hoa lựu, màu hồng dịu mát của hoa sen làm cho bức tranh
phong cảnh ngày hè không hề oi ả mà ngược lại rất dịu mát và sinh động, tràn
đầy một sức sống.
Không gian ngày hè được tiếp tục mở ra với cảnh chợ cá của làng ngư
phủ, đó là không gian quen thuộc dân dã bình dị của chốn thôn quê. Ở đó có
không khí ồn ào, náo nhiệt của cảnh mua bán, có tiếng cười nói của người
người đổi trao, không gian chợ cá ở đây không đơn thuần là nơi mua bán hàng
hóa nữa mà nó còn là không gian giao lưu văn hóa của cộng đồng người Việt.
Vì thế không gian của chợ cá làng ngư phủ gợi lên hình ảnh của một cuộc
sống thanh bình, no đủ ở chốn thôn quê.
+ Thời gian nghệ thuật: Thời gian được nói tới trong Cảnh ngày hè cũng
mang được những nét riêng, độc đáo, trước hết là những ngày trường thi nhân
rối rãi dạo chơi ngắm cảnh, ngày trường ở đây có thể hiểu là ngày dài, nhưng
cũng có thể hiểu là nhiều ngày liên tiếp đó là khoảng thời gian rảnh rỗi hiếm
hoi của Nguyễn Trãi một người vốn thân nhàn mà tâm không nhàn.
Thời gian trong Cảnh ngày hè cũng được thi nhân cảm nhận một cách
tinh tế, có thời điểm của đầu hè khi vạn vật đang bắt đầu sinh sôi, nảy nở với
hình ảnh của tán hòe đang đùn đùn ra những phiến lá, có thời điểm ở giữa hè
khi hoa lựu đã nở hoa đỏ thắm, có thời điểm cuối hè khi sen dưới ao đã ngát
mùi hương. Như vậy phải có một sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế ở nhiều thời điểm
khác nhau thì nhà thơ mới vẽ lên được bức tranh ngày hè mang tính tổng hợp
của nhiều giác quan, của nhiều thời điểm như thế.
Cảnh ngày hè còn có thời gian của buổi chiều tà với bóng tịch dương
đang dần buông xuống. Tuy nhiên cảnh chiều tà ở đây cũng có những nét
riêng rất đặc biệt khác hẳn với cảnh buổi chiều trong thơ ca cổ, ở đó không có
những cảnh buồn bâng khuâng của
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu” hay đó là nỗi buồn
của man mác của người lữ khách xa quê: Trời chiều bảng lảng bóng hoàng
hôn. Ngược lại buổi chiều trong thơ Nguyễn Trãi lại rất tươi vui náo nhiệt với
âm thanh của tiếng cầm ve kêu râm ran ở khắp nơi, đó còn là âm thanh lao xao
của tiếng chợ chiều làng xa vọng lại gợi lên một khung cảnh thanh bình, đầm
ấm của chốn làng quê bình dị. Nhịp thời gian trong Cảnh ngày hè không hề
ngưng đọng như thơ ca truyền thống mà ở đây lại có sự vận động không
ngừng của con người và cảnh vật. Tất cả là sự hội tụ của trí tuệ, tâm hồn ở một
bậc cao nho, đại nhân, đại trí, đại dũng để vẽ nên bức tranh cảnh ngày hè hoàn
hảo và tuyệt mĩ đến như vậy.
+ Con người : Cũng giống như rất nhiều các nghệ sĩ khác , bức tranh thiên
nhiên của Nguyễn Trãi ở đây tràn đầy sức sống, âm thanh, màu sắc nhưng
không không thể thiếu vắng hình ảnh của con người. Thiên nhiên dù đẹp đến
mấy cũng phải gắn với cuộc sống con người, thiên nhiên không gắn với con
người thì thiên nhiên đó sẽ rất đơn, điệu buồn tẻ.
Hình ảnh con người chính là tâm điểm để vẽ lên những bức tranh sống
động, giàu màu sắc. Tuy nhiên trong thơ ca trung đại con người thường bị
khuất lấp giữa thiên nhiên, chìm vào thiên nhiên chứ không hiện hình rõ nét,
nhưng trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi thì con người lại tỏa sáng trước
thiên nhiên, ở đây thiên nhiên chỉ là phông, nền để tô thêm, tôn thêm vẻ đẹp
của con người.
Mở ra trong bức tranh thiên nhiên ấy là khung cảnh của một thi nhân rảnh
rỗi, an nhàn dạo chơi hóng mát, ngắm cảnh. Có lẽ đây là phút giây nhưnhàn rỗi
hiếm hoi, bất đắc chí của tác giả, một phút giây nhàn thời buổi loạn của một con
người thân nhàn mà tâm không nhàn.
Cái giây phút thảnh thơi ngồi hóng mát của Nguyễn Trãi trong những ngày
hè có lẽ là những phút giây thư giãn hiếm hoi để thi nhân được tĩnh tâm lắng
mình vào không gian của đất trời, của cỏ cây hoa lá để có được một bức tranh
cảnh ngày hè sinh động tươi đẹp đến thế.
Sáng tác Cảnh ngày hè có lẽ là lúc Nguyễn Trãi đã về ở ẩn ở Côn Sơn để
vui cùng với thiên nhiên, núi rừng. Tuy nhiên dù về ở ẩn nhưng tấm lòng
Nguyễn Trãi vẫn canh cánh một nỗi lòng lo cho dân, cho nước . Cái ẩn của
Nguyễn Trãi chỉ là bậc tiểu ẩn mà đã tiểu ẩn thì phải cư thành thị chỉ những bậc
đại ẩn thì mới cư lâm tuyền để trốn đời, thoát tục tránh xa vòng danh lợi, không
bận đến sự đời. Với Nguyễn Trãi ông chỉ lánh đời chứ không trốn đời, thậm chí
ông còn mang nặng nỗi lo cho đời, vì thế mà ông đã nghe thấy được âm thanh
lao xao của chợ cá làng ngư phủ, cảm nhận được âm thanh dắng dỏi của tiếng
đàn ve. Đó chính là âm thanh của cuộc sống đang vang vọng lại trong tâm hồn
tác giả, được tác giả lắng nghe, và đón nhận nó một cách nồng nhiệt bằng cả trái
tim và tâm hồn tinh tế của mình. Cũng chính vì vậy mà nhà thơ mong ước có
cây đàn của vua Nghiêu, vua Thuấn thuở xưa để gảy lên khúc Nam phong ngợi
ca cuộc sống nơi thôn dã hôm nay : Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Đây vốn là điều mà Nguyễn Trãi vẫn thường trăn trở, vẫn thường canh cánh nỗi
lòng mình, cũng là điều mà Nguyễn Trãi đã từng nhắc đến rất nhiều lần:
“Bui có một lòng trung liễn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”
Hay: Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
Đó cũng là điều mà hơn hai mươi năm sau khi nguyễn Trãi mất Lê Thánh Tông
ở ngôi vua thì ông cũng từng ca ngợi:
“Nhà nam, nhà bắc đều no mặt,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”.
Có thể nói đó là tư tưởng “Thượng trí quân, hạ trạch dân” mà Nguyễn Trãi và
Lê Thánh Tông có nhiều điểm chung, điểm gặp gỡ.
* Với bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm lại có những nét nghệ thuật sáng tạo độc đáo mang dấu ấn riêng của
tác giả và cũng là những dấu ấn riêng của văn học trung đại. Trong bài thơ
Nhàn thì đặc trưng thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được thể hiện ở
những bình diện:
+ Thi đề: Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chọn cho mình một cuộc sống nhàn với một
phong thái ung dung nhàn tản, thư thái, thảnh thơi để được hòa mình vào cuộc
sống của thiên nhiên nơi thôn dã trong dáng vẻ của một lão nông thực thụ:
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”.
Đó là cuộc sống của con người không màng tới công danh, xa lánh vòng danh
lợi, tìm vui thú trong những công việc của cuộc sống đời thường. Triết lí sống
nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là lối sống của rất nhiều những nhà Nho
trung đại đương thời như Nguyễn Dữ, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác... khi
họ rời xa chốn quan trường để tìm về với cuộc sống ở ẩn để được sống nhàn với
chính mình, tránh xa cuộc sống bon chen, danh lợi nơi thị thành.
Như vậy đề tài về cuộc sống nhàn, vui thú điền viên nơi thôn dã, hay ẩn
mình nơi lâm tuyền, thâm sơn cùng cốc vốn là đề tài được nhiều nhà thơ trung
đại lựa chọn. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã góp một tiếng nói của mình vào
để làm nên một triết lí sống mang đầy tính nhân sinh về cuộc sống thời trung
đại trở thành một nguồn cảm hứng lớn trong thơ ca trung đại.
+ Thi hứng: Cũng giống như trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ta
tuyệt nhiên không thấy có các cảnh sắc Trung Hoa, hay các cảnh xây dựng
theo tưởng tượng, theo lối ước lệ, tượng trưng của thơ ca cổ mà cảm hứng
trong Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được lấy ngay từ những cái có trong
cuộc sống dân dã của đời thường. Ở đây là những cảnh quen thuộc, bình dị
dân dã thường ngày của làng quê Việt Nam. Đó là những lão nông với
mai, cuốc, cần câu... trong những ngày thảnh thơi kiếm cá, hay đó là cảnh
cuộc sống sinh hoạt đạm bạc của đời thường với những thứ hết sức gần
gũi, quen thuộc:
“ Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Sở dĩ có những cảnh như vậy là vì gần suốt đời ngoài mấy năm ra làm quan
cho nhà Mạc còn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gắn bó với thiên nhiên, yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống nơi nhà quê thanh bình, trong sáng mà ở đó con
người được sống thư thái, thanh nhàn. Điều mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã
từng nhắc tới trong nhiều tác phẩm của mình:
“Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay...”
+ Thể thơ: Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được làm theo thể thơ thất ngôn bát
cú, Đường luật với cách cấu tứ quen thuộc theo bố cục đề, thực, luận, kết, có
tiểu đối, bình đối, có cảnh, có tình quen thuộc... Tuy nhiên ở đây vẫn có cái độc
đáo của thơ Nôm Đường luật qua sự phá cách về hình ảnh, thi pháp, thi liệu,
giọng điệu... Ở thơ Đường luật bốn câu đầu thường nghiêng về tả cảnh, bốn câu
cuối nghiêng về tả tình nhưng trong Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta lại thấy
cảnh, tình được đan xen hòa lẫn tạo nên một bức tranh gần gũi gắn bó với nơi
thôn quê bình dị, dân dã rất đời thường. Ở đây không có cái khuôn sáo, công
thức hoặc sự tuân thủ quá chặt chẽ về niêm luật như những bài thơ Đường luật
thông thường mà nó mang được âm hưởng của tiếng nói, tâm hồn người Việt
rất đậm đà.
+ Nhân vật trữ tình: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình ảnh của những con
người lao động bình thường trong những công việc bình thường nhưng con
người ấy lại vừa mang được dáng dấp của một thi sĩ đang tìm cảm hứng ở nơi
đồng quê thôn dã, lại vừa có dáng vẻ của một nhà hiền triết đang ung dung tản
bộ, ngắm cảnh vật, biết sự đời.
Nhân vật trữ tình xuất hiện ngay ở phần mở đầu của bài thơ trong tư thế
nhàn tản: “Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào”.
Ở đây có những cái khác biệt với thơ Đường luật là những câu đầu thường tả
cảnh còn trong Nhàn ta có thể bắt gặp ngay nhân vật trữ tình đang rất ung dung,
tự tại với những công việc tự do, yêu thích của mình. Giọng thơ vang lên với
một âm hưởng quen thuộc về cái thú nhàn dạo chơi, ngắm cảnh như những vần
thơ trong Thuật hứng của Nguyễn Trãi:
“Một cày, một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen vãi đậu kê”
Nhân vật trữ tình tiếp tục được hiện lên với suy nghĩ mang đầy tính triết lí
của nhà thơ: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao ”
Đó là cách nói ngược nghĩa, đối lập mang tính triết lí về cuộc sống trong xã hội
lúc bấy giờ một triết lí thường gặp trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại ấy hiền lành ấy dại khôn.”
Hình ảnh nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ cũng xuất phát
từ con của tác giả, một con người vừa thông tuệ vừa tỉnh táo trong cách ứng xử
thì nhà thơ đã chọn cho mình nơi vắng vẻ là nơi không có người cầu cạnh, bon
chen là nơi con người được sống hòa hợp với thiên nhiên để tâm hồn được
trong sạch, thư thái, đó cũng là hình ảnh ẩn dụ để nói lên lối sống thanh bạch,
không màng danh lợi của tác giả. Cuộc sống ấy nó đối lập với chốn lao xao là
nơi ồn ào, náo nhiệt, là chốn quan trường bon chen danh lợi con người phải
sống bằng đua danh đoạt lợi, bằng cả những thủ đoạn hiểm độc của mình. Có lẽ
cũng chính vì điều đó mà nhà thơ muốn mượn điển tích về Thuần Vu Phần
uống rượu say ngủ dưới gốc cây hòe để nói về phú quý, danh lợi: “ Rượu đến
cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Ở đây tác giả đã mượn điển tích
của người xưa để nói lên cuộc sống nay với một thái độ coi thường phú quý,
danh lợi, coi danh lợi chỉ là một giấc chiêm bao thoảng qua mà thôi chứ không
có ý nghĩa gì. Đây chính là quan niệm sống phủ nhận phú quý, danh lợi để
khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của thiên nhiên và nhân cách con người mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra.
+ Giọng điệu, ngôn ngữ nghệ thuật: Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng có nhiều điểm mới mẻ, độc đáo, nhà thơ cũng đã mạnh dạn
phá vỡ tính ước lệ, tính quy phạm trong thơ ca trung đại để tạo ra ngôn ngữ
riêng, giọng điệu riêng cho thơ ca của mình. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
thuần Việt của tác giả đã đạt đến sự tinh tế, phá cách độc đáo, mạnh mẽ. Bài
thơ dùng rất ít các điển cố, điển tích của thơ ca cổ mà chủ yếu dùng hình
ảnh, ngôn ngữ của cuộc sống đời thường. Thấy rất rõ là trong bài thơ này,
nhà thơ đã sử dụng chủ yếu những từ thuần Việt trong sáng, gần gũi, dể hiểu,
giàu sức gợi như: Mai, cuốc, cần câu, thơ thẩn, dầu ai, dại, khôn, nơi vắng vẻ,
chốn lao xao.....
Ở đây tác giả đã huy động đến mọi giác quan để miêu tả cảm nhận về
bức tranh về cuộc sống đời thường, từ phong thái ung dung thư thái, thảnh
thơi đến dáng vẻ thơ thẩn dàu ai vui thú nào cho đến cảnh vật mai, cuốc, cần
câu... đều được quan sát một cách tinh tế, tỉ mỉ, giàu cảm xúc; đó là hình ảnh
của một cuộc sống giản dị, thuần khiết của một lão nông ở tại chốn thôn quê
với những dụng cụ quen thuộc để gợi lên nếp sống thanh bần của nhà Nho khi
về ở ẩn.
Ngôn ngữ nghệ thuật còn phải kể đến việc dùng từ độc đáo, đặc sắc của
tác giả để tạo ra một giọng điệu riêng, hình ảnh Một mai, một cuốc, một cần
câu với một nhịp thơ chậm rãi, điệp từ một được nhắc lại rõ ràng ta như cảm
nhận được từng nhịp bước chân khoan thai, thong thả của nhân vật trữ tình với
dáng vẻ thư thái, ung dung nhàn tản, vừa làm việc vừa ngắm cảnh, thả hồn
mình vào với thiên nhiên, đất trời. Ngôn ngữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn
phải kể đến những hình ảnh đối lập độc đáo ta dại với người khôn, nơi vắng vẻ
với chốn lao xao qua cách diễn đạt rất giản dị mà hàm ý lại vô cùng sâu sắc
của nhà thơ. Đây là cách nói đối lập, ngược nghĩa nhưng là để thể hiện quan
niệm sống của nhà thơ.
+ Không gian và thời gian nghệ thuật: Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được
tác giả gợi tả từ một không gian thoáng đãng, còn thời gian là bốn mùa tươi
đẹp. Tất cả đều rất giản dị gần gũi ở chốn thôn quê dân dã, với một tâm hồn
nhạy cảm nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh phong cảnh làng quê hết sức
êm ả, trữ tình ở đó có cảnh, có người hòa hợp, có thiên nhiên, có khung cảnh
bốn mùa tươi đẹp.
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Bài thơ mở ra không gian nghệ thuật đầy lãng mạn, mang không khí của
làng quê Bắc bộ Việt Nam. Đó là không gian của cỏ cây, hoa lá, của ao hồ dân
dã, không gian sinh hoạt của những con người thôn quê. Mở đầu bài thơ là hình
ảnh của thi nhân trong dáng nhàn tản, thảnh thơi vác cuốc, vác mai đi câu cá,
ngắm nhìn cảnh vật, không gian ấy rất hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về ở ẩn
được sống hòa mình vào thiên nhiên, hợp với thiên nhiên, đất trời. Không gian
trong Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là không gian của cuộc sống rất đời
thường, gần gũi ở chốn thôn quê với một cuộc sống đạm bạc:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Tất cả là không gian sinh hoạt của những người nhà quê thanh bần, dân dã thức
ăn là măng trúc, giá đỗ - sản phẩm cây nhà lá vườn, kết quả của công sức lao
động gieo trồng, chăm bón mà có được, đó còn là những cảnh sinh hoạt rất thôn
quê: xuân – tắm hồ sen, hạ - tắm ao cũng giống như biết bao những người xung
quanh khác gợi lên một nét sống rất giản dị mà lại thanh cao hòa hợp với thiên
nhiên, mùa nào thức nấy, tránh xa được vòng danh lợi, phú quý.
Thời gian được nói tới trong Nhàn cũng mang được những nét riêng, độc
đáo, đó là khoảng thời gian của bốn mùa với những nét đặc sắc của từng mùa,
thu với măng trúc, đông với giá đỗ, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Tất cả được
gợi lên như một bức tranh tứ bình giản dị mà trong sáng, cổ điển mà hiện đại.
Thời gian ở đây được thi nhân cảm nhận một cách tinh tế, với nhiều thời điểm
có đầy đủ xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thứ ấy. Như vậy phải có một sự quan
sát tỉ mỉ, tinh tế ở nhiều thời điểm khác nhau thì nhà thơ mới vẽ lên được bức
tranh thôn quê mang tính tổng hợp của nhiều thời điểm như thế.
2.2.2.3. Hướng dẫn học sinh vượt rào cản ngôn ngữ thông qua hoạt động cắt
nghĩa, chú giải
* Hoạt động chú giải
Chú giải là một hoạt động hết sức thiết thực khi dạy các tác phẩm văn
học trung đại nói chung và dạy học thơ Nôm Đường luật nói riêng. Chú giải
để học sinh hiểu rõ, hiểu sâu sắc hơn về nội dung của văn bản mà nhà văn
muốn gửi gắm.
“Chú giải là cách làm sáng tỏ một khái niệm, một phạm trù lạ bị che đậy hoặc ẩn
dưới một hình thức ngôn ngữ bác học hoặc ngôn ngữ lịch sử để biến chúng thành
cụ thể dễ hiểu và đặt chúng trong mối quan hệ với một bộ phận hoặc toàn bộ văn bản
để thấy được ý nghĩa, tác dụng của chúng trong toàn bộ văn bản” [9, tr. 42]. Biện
pháp này rất quan trọng, dùng cho việc dạy văn học trung đại nói chung và dạy
học thơ Nôm Đường luật nói riêng. Bởi ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật rất cô
đọng, hàm súc. Hình thức chữ Nôm vốn đã khó hiểu đối với học sinh, lại thêm các
biện pháp nghệ thuật như ước lệ, tượng trưng, điển tích, điển cố khiến cho bài thơ
càng trở nên khó hiểu và khó tiếp nhận. “Chú giải sâu chính là biện pháp rút ngắn
khoảng cách thẩm mĩ giữa học sinh với thơ cổ để tiếp nhận văn bản có hiệu quả,
đây là cách để thời sự hóa trở lại các văn bản cổ và bắc cho thơ cổ một chiếc cầu để
nối lịch sử với hiện tại, khôi phục lại, trẻ hóa văn bản thơ cổ để người đương thời,
nhất là lớp học sinh trẻ hiện nay dễ tiếp nhận ”[9, tr. 43].
Cách thức cụ thể của chú giải và tác dụng:
- Chú giải từ: Đây là điều khó khăn trong dạy học thơ Nôm Đường luật vì
ngôn ngữ của thơ Nôm Đường luật chủ yếu là chữ Nôm với những từ ngữ cổ,
thuật ngữ cổ rất xa lạ. Chú giải làm cho từ ngữ được hiểu một cách rõ ràng hay
nói cách khác là làm cho học sinh hiểu từ và thông nghĩa, hiểu câu trước rồi mới
có cơ sở để cảm thụ thơ.
Khi chú giải cần chú ý vào nghĩa của từng từ, tách ra từng tiếng mà giảng
nghĩa, rồi phải đặt từ đó vào câu thơ mới hiểu hết, hiểu cặn kẽ nghĩa của từ ngữ
đó. Bởi mỗi từ trong từng văn cảnh lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau. Đặt từ
trong câu thơ là đặt nó trong chỉnh thể nghệ thuật giúp học sinh có thể hiểu từ
một cách chính xác. Chẳng hạn bài thơ Cảnh ngày hè của nhà thơ Nguyễn Trãi,
trong bài này, tác giả sử dụng một số từ ngữ cổ mà nếu không giải nghĩa các từ
ngữ này, học sinh khó có thể hiểu hết ý nghĩa của câu thơ, bài thơ.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”Học sinh đã vấp phải hàng rào ngôn ngữ với một số từ rất xa lạ mà phần
chú thích sách giáo khoa cũng không có, hoặc có chú thích một cách sơ sài
không rõ nghĩa như một số từ: “rồi”, “ngày trường”. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải
chú giải từ:
- “rồi”: ở đây là chỉ sự rỗi rãi, rảnh rỗi
- “ngày trường”: là ngày dài và nhiều ngày liên tiếp
Sau đó đặt các từ vào câu thơ rồi kết hợp với các từ khác trong câu để hiểu
ý nghĩa của cả câu thơ. Câu thơ muốn nói tới cảnh thi nhân nhàn rỗi, rảnh rỗi
dạo chơi hóng mát trong suốt những ngày hè dài mà không có việc gì làm. Từ
việc chú giải từ trên, giáo viên giúp học sinh thấy được hoàn nhàn rỗi bất đắc dĩ
của Nguyễn Trãi khi về ở ẩn.
Hoặc trong câu thơ: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương” ở đây chung ta cũng
cần đi vào giải thích về một số từ ngữ
- “dắng dỏi” theo chú thích của sách giáo khoa là inh ỏi là chưa hợp lí mà
phải hiểu ở đây tiếng ve nó ngân lên thành từng đợt nghe lúc trầm, lúc bổng như
những bản đàn, bản nhạc.
- “tịch dương” là bóng nắng lúc chiều tà gợi lên sự vắng vẻ
Có thể nói từ chú giải từ đến chú giải sâu về ý là điều cần thiết để giúp học
sinh dần cảm nhận được nội dung ý nghĩa của câu thơ, hiểu được những gì mà
tác giả muốn gửi gắm qua những từ ngữ đó. Đây cũng chính là việc đưa học
sinh vào cuộc đối thoại với nhà thơ để làm bừng sáng nhận thức của các em
trong quá trình tiếp cận thơ Nôm Đường luật.
- Chú giải điển cố, điển tích: Cùng với việc chú giải từ ngữ, việc chú giải điển
cố, điển tích cũng là một hoạt động quan trọng trong quá trình giúp học sinh
vượt rào cản ngôn ngữ của tác phẩm thơ Trung đại. Điển cố, điển tích là lấy xưa
để nói nay, nhắc lại việc xưa bằng một vài chữ mà gợi lên sâu sắc các tầng ý
nghĩa, khiến lời văn thêm sinh động. Việc dùng điển cố, điển tích khiến câu thơ
trở nên hàm súc và chuyển tải được lượng thông tin lớn. Điều quan trọng trong
dạy học thơ Nôm Đường luật là phải hiểu được nội dung điển cố, điển tích và dụng ý của tác giả khi sử dụng các điển cố, điển tích đó. Với học sinh THPT nhất là học
sinh lớp 10, hiểu được nội dung điển cố, điển tích đã khó do nền tảng tri thức về văn học
cổ của các em còn nghèo nàn, nhưng tìm ra dụng ý nghệ thuật của tác giả trong việc đưa
điển cố, điển tích đó vào tác phẩm với các em còn khó khăn hơn. Phần lớn các em chỉ
hiểu hời hợt bề ngoài nên không thấy được cái hay, cái chất của văn chương, những cái ý
sâu xa mà điển cố, điển tích đó đưa lại.
Chú giải điển cố là giúp học sinh tái hiện nội dụng văn bản, ý nghĩa thẩm
mĩ của nó với người xưa, từ đó giúp các em tự vận động để hiểu thơ Nôm
Đường luật trong giai đoạn hiện nay. Chú giải điển cố bao giờ cũng gồm hai
bước. Thứ nhất, giáo viên cần chú giải nghĩa đen của điển cố, tức làm cho học
sinh hiểu biết rõ nguồn gốc của điển cố. Thứ hai, sau khi giúp học sinh nắm
được nghĩa đen của điển cố, giáo viên cần phân tích hoặc chú giải thêm giá trị
thẩm mĩ của nó, đặt nó vào trong văn cảnh để bình giảng, cắt nghĩa ý của câu
thơ, tìm ra tấc lòng của tác giả gửi gắm vào đó.
Chẳng hạn ở bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi ta có thể gặp điển cố
trong câu thơ “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng” thì giáo viên phải giải thích cho
học sinh hiểu Ngu cầm ở đây là cây đàn của vua Ngu Thuấn một trong những
triều đại thịnh trị trong truyền thuyết Trung Hoa để nhà thơ gảy lên khúc Nam
phong ngợi ca cuộc sống thái bình, thịnh trị của nhân dân ta. Khúc Nam phong
của vua Ngu Thuấn thường được gảy lên để ca ngợi cuộc sống thái bình, gió
nam thuận thì nhân dân ta thêm nhiều của cải, thêm sự giàu sang, phú quý.
Còn trong bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ở hai câu cuối tác giả có
sử dụng điển tích: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Ở đây tác giả đã dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc
cây hòe, rồi mơ thấy mình đang ở nước Hòe An, được hưởng công danh phú
quý rất mực vinh hiển, nhưng sau khi tỉnh dậy thì hóa ra đó chỉ là một giấc
mộng. Từ đó người ta thường dùng điển này để nói: phú quý chỉ như một giấc
chiêm bao. Trong bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mượn điển này cũng để nói:
phú quý chỉ như một giấc chiêm bao, không có thật, từ đó để thấy được thái độ
coi thường danh lợi, phú quý của nhà thơ.
Như vậy hoạt động chú giải là một trong những biện pháp quan trọng
trong quá trình dạy học thơ Nôm Đường luật. Biện pháp này giúp học sinh bước
đầu khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm thơ Nôm Đường luật góp phần
kích thích sự hứng thú và khả năng chủ động, tích cực suy nghĩ, tìm hiểu về
bài thơ. Bằng việc chú giải, giáo viên đã gợi mở cho học sinh tìm ra chìa
khóa giải mã và định hướng sự giải mã bài thơ cho học sinh khi tiếp xúc với
những yếu tố đầu tiên mang nhiều dụng ý nghệ thuật, rất công phu của tác giả
để chuyển từ văn bản thơ chết thành một tác phẩm sống động trong đầu mỗi
học sinh. Chú giải còn thúc đẩy quá trình tiếp nhận bài thơ thêm chắc chắn,
bởi nó đã làm cho yếu tố ngôn ngữ vốn được sử dụng một cách bóng bẩy đầy
hàm ý nghệ thuật trở nên dễ hiểu, cụ thể hơn nhất là khi đặt nó trong mối
quan hệ với chỉnh thể nghệ thuật.
* Hoạt động cắt nghĩa
Văn học trung đại nói chung và thơ Nôm Đường luật nói riêng là loại
hình văn học có khoảng cách lớn với học sinh cả về không gian và thời gian, về
tư duy nghệ thuật và về quan điểm thẩm mĩ. Vì thế mà người ta còn nói “dạy
văn học trung đại là dạy văn trên giảng đường khác tiếng”. Ngôn ngữ sử dụng
trong thơ Nôm Đường luật là chữ Hán và chữ Nôm, một thứ chữ quen thuộc với
cha ông ta nhưng lại rất xa lạ khó hiểu với học sinh hiện nay. Chính vì vậy, hoạt
động cắt nghĩa đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh vượt rào cản
ngôn ngữ để hiểu nghĩa của từ, câu, hình ảnh và mối quan hệ của chúng trong
văn bản từ đó tiếp cận được nội dung và ý đồ nghệ thuật của tác giả trong bài.
Cắt nghĩa chính là quá trình làm cho ý nghĩa của từ, của ngữ, câu và hình ảnh
nổi bật trong văn bản, làm sáng tỏ hình tượng. Cắt nghĩa là một cách tìm ra câu
trả lời của tác giả gửi đến bạn đọc thông qua văn bản.Vì vậy, yêu cầu đặt ra
với giáo viên Ngữ văn là phải có sự hiểu biết nhất định về phong tục tập quán,
nếp sống, văn hóa, lịch sử, xã hội, kinh nghiệm thẩm mĩ thì mới có sự cắt
nghĩa chính xác.
Cắt nghĩa ngôn ngữ gồm cắt nghĩa từ, cắt nghĩa hình ảnh và cắt nghĩa câu.
- Cắt nghĩa từ:
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ nên nghĩa của tác phẩm văn chương bắt
đầu bằng nghĩa biểu hiện trên bề mặt của ngôn từ, kể cả những tác phẩm thơ
của các nhà thơ Nôm Đường luật. Do một số những đặc trưng riêng trong cấu
trúc nên lớp nghĩa ngôn từ của thơ chữ Hán-Nôm trung đại có thể bao gồm lớp
nghĩa bề mặt (nghĩa đen, nghĩa hiển ngôn) lớp nghĩa biểu tượng, lớp nghĩa hiển
ngôn được toát lên từ toàn bộ chỉnh thể ngôn từ.
Lớp nghĩa bề mặt có giá trị thông báo về sự việc, hiện tượng, sự việc được
nói đến trong bài thơ. Ví dụ: Bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi thì trên bề
mặt của câu chữ là một bức tranh phong cảnh ngày hè hết sức tươi đẹp, sinh
động, tràn đầy sức sống, nhưng chúng ta cần chú ý vì bài thơ lại được đặt trong
chùm Bảo kính cảnh giới (nghĩa là gương báu răn mình) với ý nghĩa là răn bản
thân mình phải biết yêu quý thiên nhiên, tạo vật và đời sống của con người. Lớp
nghĩa này là căn cứ để xác định nghĩa biểu tượng của bài thơ.
Lớp nghĩa biểu tượng trong thơ là lớp nghĩa quan trọng bởi thơ trung đại
thường dùng cách diễn tả bằng những biểu tượng (do bị hạn chế về số lượng từ
miêu tả, nhưng các nhà thơ vẫn còn sử dụng một số lượng từ mang hàm nghĩa
biểu tượng nhất định mới diễn đạt nổi ý thơ). Người xưa làm thơ là để nói ý nên
rất chú trọng tạo cho ý thơ sâu lắng để người đọc cảm nhận được thơ đến nghiền
ngẫm và hiểu được cái hay cái đẹp của thơ, đạt đến điều đó mới làm say đắm
lòng người. Do yêu cầu trên nên thơ Nôm Đường luật diễn đạt ý tứ bằng từ
mang ý nghĩa trừu tượng vừa làm cho lời thơ giản dị, tự nhiên vừa làm cho ý thơ
hàm súc, ý nhị, sâu kín, tạo cho câu thơ có dư âm. Cách diễn đạt bằng biểu
tượng, bắt buộc người đọc cùng một lúc sử dụng hai tư duy, tư duy về hình ảnh
và suy luận để vừa bắt được hình ảnh thơ vừa phân tích ra ý nghĩa của chúng mà
hiểu ý thơ.
Lớp nghĩa được tạo nên bởi toàn bộ chỉnh thể trong thơ trữ tình trung đại
mới là lớp nghĩa chính mà trong quá trình phân tích ta cần chú ý đến nhất . Nó là
tầng nghĩa sâu kín mà nhà thơ trên còn đường sáng tạo đã tốn rất nhiều công sức,
tâm huyết để lựa chọn sắp xếp, hệ thống tất cả các phương tiện ngôn từ ấy để thể
hiện ý đồ ngôn từ của mình. Đây chính là tầng nghĩa chính đủ tất cả những tư
tưởng tình cảm, ý đồ của người viết, quan niệm nhân sinh mà nhà thơ muốn gửi
gắm đến bạn đọc, thông qua tác phẩm văn chương của mình. Bản thân lớp nghĩa này
rất đa dạng. Vì vậy, cắt nghĩa từ phải đặt trong mạch cảm xúc của câu thơ, bài thơ.
Ở bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu thơ:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.”
Trong câu thơ có những từ như “nơi vắng vẻ”, “chốn lao xao” cần phải
được cắt nghĩa để học sinh nắm được và hiểu rõ hơn về ý nghĩa của câu thơ, bài
thơ. Từ vắng vẻ ở đây không chỉ đơn thuần hiểu là nơi không gian vắng lặng,
hiu quạnh mà cần phải hiểu là nơi ít người qua lại, không có ai cầu cạnh, bon
chen, ở nơi đó tâm hồn nhà thơ được thư thái, tĩnh tâm, tự do, thoải mái sống
hòa hợp với thiên nhiên trong sáng. Đây cũng là cách nói ẩn dụ của nhà thơ để
chi lối sống tự do, thanh bạch, không màng tới danh lợi của một bậc hiền sĩ.
Tương tự như vậy cụm từ “chốn lao xao” cũng không đơn thuần là chỉ nơi đông
đúc, ồn ào mà chốn lao xao ở đây còn được dùng để chỉ nơi sang trọng, quyền
thế ở đó con người sống đua chen trong vòng danh lợi với tất cả những thủ đoạn
hiểm độc của mình.
- Cắt nghĩa hình ảnh: Mục đích của cắt nghĩa hình ảnh là làm bật sáng hình ảnh,
làm rõ dụng ý nghệ thuật của tác giả bài thơ. Cắt nghĩa cái biểu đạt thông qua
các hình ảnh hoặc hình tượng là một hình thức kiểm tra cao nhất, khó khăn nhất
đối với người học. Việc cắt nghĩa này buộc học sinh phải tự đặt mình vào vị trí
của văn bản để tiếp xúc văn bản. Bởi mỗi hình ảnh đều là sự sáng tạo độc đáo
của người nghệ sĩ, nhằm thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong tác phẩm.
Mặt khác hình ảnh trong thơ trung đại nói chung và thơ Nôm Đường luật nói riêng
thường cô đọng, súc tích gợi nhiều liên tưởng ở người đọc nhưng cũng là chỗ khó
khăn nhất, phức tạp nhất trong cảm thụ, tiếp nhận. Bởi xây dựng những hình ảnh
thơ, người nghệ sĩ thường sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật vừa làm tăng sức hấp
dẫn cho thơ vừa tăng tính hàm súc. Với thơ Nôm Đường luật, việc sử dụng nhiều
hình ảnh ước lệ, tượng trưng làm cho các câu thơ trở nên quen thuộc, đôi khi đến
sáo mòn công thức. Nhưng chính những hình ảnh quen thuộc đó lại gây những khó
khăn cho người đọc, nhất là với bạn đọc học sinh ngày nay. Vì đã sáo mòn thì ít
cảm xúc, ít gây được sự rung động, nếu không cắt nghĩa để gợi lên không khí,
khung cảnh, sự việc mà hình ảnh đó biểu đạt nên khó nắm bắt.
Ví dụ hình ảnh “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” trong bài Cảnh ngày hè
của Nguyễn Trãi đã gợi tả được hình ảnh cây lựu trước hiên nhà đang trổ những
chùm hoa đỏ thắm rực rỡ. Động từ phun được dùng một cách chính xác, tinh tế
để diễn tả màu đỏ của hoa lựu đang thời kì trổ bông mãnh liệt nhất, từ thức là
một từ cổ để chỉ màu, vẻ ở đây là chỉ màu đỏ của hoa lựu nở đỏ rực rỡ tạo cho
bức tranh thiên nhiên của ngày hè vừa giàu màu sắc, hình ảnh, đường nét lại vừa
tràn đầy một sức sống. Sự phối hợp tinh tế về các gam màu của Nguyễn Trãi; từ
màu xanh của tán hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen... đã tạo nên
bức tranh cảnh ngày hè không hề chói chang, gay gắt mà lại rất hài hòa, êm dịu,
mát mẻ.
- Cắt nghĩa câu: Câu là một đơn vị quan trọng để tạo nên một văn bản nhất
là đối với văn bản văn chương, văn bản thơ. Câu thường chứa lượng thông tin
hoàn chỉnh. Thông thường một câu hoàn chỉnh ít nhất phải có đủ các yếu tố chủ
ngữ, vị ngữ. Nhưng đối với thơ nhất là thơ Nôm Đường luật do yêu cầu về mặt
lời thơ (phải đẹp, chau chuốt, giàu hình ảnh và âm hưởng, lời thơ đa nghĩa mới
tạo sức hấp dẫn). Do vậy, người làm thơ phải khắc phục được giới hạn của ngôn
ngữ, trong đó có câu để biểu đạt những ý tứ thần diệu nhất.
Thơ trữ tình trung đại nhất là thơ Nôm Đường luật có yêu cầu rất chặt chẽ về
số chữ trong một câu, số câu, số dòng trong một bài thơ. Câu thơ trong thơ Nôm
Đường luật không được dài dòng, không hoặc ít thấy những câu viết theo lối kể lể,
miêu tả quá cụ thể, chi tiết mà thường hàm súc, đa nghĩa đồng thời cũng trau
chuốt, giản dị, hài hòa. Việc cắt nghĩa câu là một thao tác quan trọng để làm học
sinh hiểu được ý cơ bản của câu thơ.
Cắt nghĩa câu bao gồm:
Đặt câu thơ vào vị trí quan trọng của nó trong bài thơ để xác định chức năng
ngữ pháp mà câu đảm nhiệm từ đó làm rõ nghĩa câu thơ. Với thơ Nôm Đường
luật, mỗi câu thơ lại có chức năng, nhiệm vụ riêng. Các vị trí đó bản thân nó đã
mang một nội dung nhất định. Cắt nghĩa câu ở đây là phải làm cho học sinh xác
định rõ không chỉ vị trí câu thơ mà còn hiểu nghĩa của câu, cái hay, cái độc đáo
của những câu thơ ấy. Chẳng hạn, nhiệm vụ của câu thơ thứ ba trong một bài
thất ngôn tứ tuyệt là khái quát, mở rộng vấn đề đã được nêu ra ở câu thứ hai –
câu thừa đề.
Vì vậy, căn cứ vào đó, ta có thể thấy câu thơ thứ ba trong bài thơ Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng làm nhiệm vụ khái quát, mở rộng vấn đề
nhưng ở đây là khái quát, làm nổi bật lối sống thanh cao, nhàn tản của tác giả
với một quan niệm mang đầy tính triết lí về cuộc sống đó là sự đối lập giữa ta
dại với người khôn để nói lên lối sống nhàn của nhà thơ giữa những bộn bề
của cuộc sống đời thường.
Hoặc khi tim hiểu câu thơ Rồi hóng mát thuở ngày trường ta có thể cắt
nghĩa câu thơ trên cơ sở của những cách ngắt nhịp độc đáo Rồi/ hóng mát/ thuở
ngày trường với nhịp thơ 1/2/3 như ngắt ra, tách ra để cho thấy sự rỗi rãi, thảnh
thơi của tác giả trong nhưng ngày hè dạo chơi, hóng mát ngắm cảnh để thư thái
tâm hồn.
Trong các nội dung trên, cắt nghĩa từ và hình ảnh đóng vai trò hết sức
quan trọng. Vì tính hàm súc, cô đọng của thơ Đường luật nên khi phân tích cần
coi trọng khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh trong câu thơ. Bởi trong
một bài thơ Nôm Đường luật, thường có hệ thống từ, ngữ đã được tác giả dùng
để làm nổi bật chủ đề.
2.2.2.4. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu về thi pháp được sử
dụng trong tác phẩm
Nhóm được hiểu ở mức đơn giản là tập hợp những cá thể lại với nhau
theo những nguyên tắc nhất định, giải quyết những vấn đề trong những thời gian
xác định phụ thuộc vào số người, nhiệm vụ và sự tương tác của các thành viên.
Theo hướng đi này người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo
viên tổ chức chủ đạo, hướng đạo. Người học sinh không bị động tiếp thu sự
truyền giảng của thầy như trước đây mà chủ động, tự giác, tích cực.
Về cách thức, giáo viên có thể chia học sinh thành từng nhóm nhỏ
( theo tổ hoặc theo bàn), cùng thảo luận, trao đổi vấn đề mà giáo viên đưa ra. Sau
đó, mỗi nhóm cử một đại diện lên trình bày. Các nhóm khác lắng nghe và
phát biểu nhận xét, bổ sung, thậm chí tranh luận, bác bỏ. Mỗi nhóm phải trình
bày sao có tính thuyết phục để bảo vệ quan điểm của mình. Giáo viên tham gia
định hướng, khái quát kịp thời và điều khiển để cuộc đối thoại không biến
thành cuộc tranh cãi khiến giờ học trở nên căng thẳng. Những cuộc đối thoại như
vậy có tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn trong quá trình
học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình thảo
luận. Qua đối thoại, học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập
thể, tăng cường tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo
của các em.
Phạm vi hoạt động tổ, nhóm: lớp sẽ tạo môi trường giao tiếp ở từng mức
độ lớn dần, người học sinh theo từng mức độ đặt trong những tình huống chủ
động thể hiện được mình trong chừng mực phản biện, bảo vệ, bác bỏ, tiếp
nhận với tư cách chủ thể.
Về nội dung, đối thoại trong quá trình tiếp nhận văn học ở nhà trường là đối thoại
dựa trên sự cảm thụ tác phẩm một cách cá nhân, sáng tạo. Ở đây, học sinh
đọc tác phẩm (bản thể thẩm mĩ) là để đối thoại với tác giả (chủ thể thẩm mĩ) về
giá trị nghệ thuật của những kí hiệu ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, tính cách
nhân vật, tình huống, cảm xúc… và đối thoại với chính mình để xác lập mối
quan hệ giữa ý đồ sáng tác của tác giả và những yếu tố nghệ thuật của tác
phẩm với tri thức, kinh nghiệm của chính bản thân mình. Trên cơ sở đó, học sinh
lại tiếp tục đối thoại với giáo viên, với các học sinh khác để được tiếp xúc với
những quan niệm, điểm nhìn, cách lí giải khác, để được nghe nhiều tiếng nói,
giọng điệu khác, tức là được tham gia trực tiếp vào một cuộc đối thoại lớn, nhiều
chiều.
Chẳng hạn khi giảng dạy bài Cảnh ngày hè, giáo viên có thể cho học sinh
thảo luận nhóm (theo tổ hoặc theo bàn) về các vấn đề: Có thể chia lớp thành 4 tổ
(4 nhóm) yêu cầu các em về nhà chuẩn bị mỗi tổ (nhóm) một bức tranh phong
cảnh ngày hè trên cơ sở nội dung bài thơ, rồi các tổ (nhóm) cử đại diện lên
thuyết giảng, trình bày.
Các nhóm sẽ lắng nghe, sau đó sẽ tranh luận, bổ sung ý kiến cho nhau để
làm sáng tỏ vấn đề. Giáo viên trên cơ sở đó, sẽ định hướng, gợi mở cho các em
học sinh tìm hiểu, cảm nhận về bài thơ.
Giáo viên có thể sử dụng ngay câu hỏi trong sách giáo khoa để cho học sinh
thảo luận nhóm. Ví dụ câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài ở bài Nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?
- Không vất vả, cực nhọc.
- Không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân.
- Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, được hòa hợp với tự nhiên
- Quan niệm sống đó là tích cực, hay tiêu cựcTrên đây là một số biện pháp cơ bản về dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT
theo hướng vận dụng thi pháp văn học trung đại. Ngoài các biện pháp trên, chắc
chắn còn nhiều biện pháp khác. Tuy nhiên để giờ dạy tác phẩm thơ Nôm Đường
luật đạt hiệu quả cao, đòi hỏi người giáo viên cần áp dụng các biện pháp một cách
linh hoạt với từng đối tượng học sinh, với từng bài dạy; bản thân người giáo viên
cần tích cực đọc, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu để có cái nhìn sâu rộng về tác phẩm,
trên cơ sở đó từng bước hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc
cảm thụ, đi tìm cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học. Thành công của một giờ
dạy là không chỉ rèn cho học sinh năng lực cảm thụ văn học, mà quan trọng hơn,
những tác phẩm văn học ấy đã có sự tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của
các em học sinh.
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm là hình thức kiểm chứng lại những giả thiết, những tư tưởng
khoa học đã đề ra. Thực nghiệm của luận văn nhằm tìm kết quả đối chứng,
khẳng định tính khả thi của việc dạy học theo hướng VẬN DỤNG THI PHÁP ở
trường trung học phổ thông, từ đó góp phần đổi mới phương pháp dạy học, bồi
dưỡng, phát triền năng lực cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy hoc.
Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía giáo viên và học sinh trong quá trình thực
nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới về
cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh từ hướng
vận dụng thi pháp.
Từ việc thực nghiệm bằng những bài giảng cụ thể để đến những kết
luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để người nghiên cứu có thể
tiếp tục suy nghĩ về phương pháp dạy học các tác phẩm khác theo hướng
tiếp cận thi pháp.
3.2. Yêu cầu thực nghiệm
Giáo án và quá trình thực nghiệm phải thể hiện được tương đối rõ nét việc
vận dụng các biện pháp dạy học theo hướng vận dụng thi pháp vào thực tế dạy
học; đồng thời quá trình vận dụng đó cũng phải thể hiện được những hiệu quả
bước đầu trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi
tiếp nhận một văn bản văn học.
Dạy học các tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 ở THPT theo hướng vận
dụng thi pháp là một trong những hướng đi mới, còn ít người chú ý tới. Vì
vậy, việc thực nghiệm, đối chứng ở đây không phải là để khẳng định một điều
này so với một điều khác mà chỉ mang tính khảo sát, rút kinh nghiệm để có cơ sở
thực tiễn nhằm hoàn thiện cho các biện pháp dạy học mà người viết muốn đưa ra.
Từ đó có cơ sở để có thể phát triển, nhân rộng hướng dạy học theo các biện pháp
này.
3.3. Địa bàn, đôi tượng và bài thực nghiệm
Người viết luận văn chọn hai lớp thực nghiệm và hai lớp đối chứng trên địa
bàn huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Các cặp thực nghiệm, đối chứng là các
lớp trong cùng một trường có đối tượng học sinh tương đương về trình độ, khả
năng; giáo viên dạy cũng tương đương nhau về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
sư phạm cũng như tuổi đời, tuổi nghề.
Vì quá trình thực nghiệm đòi hỏi rất nhiều thời gian và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan, cho nên trong giới hạn của đề tài
chúng tôi đưa ra một bài dạy thực nghiệm là văn bản Cảnh ngày hè trong tập thơ
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
Câu hỏi kiểm tra, đánh giá kết quả của học sinh ở cuối bài học do các giáo
viên dạy lớp thực nghiệm và đối chứng cùng thống nhất với nhau theo nội dung,
mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức kĩ năng, chương trình do Bộ giáo dục- Đào
tạo quy định.
Bảng 3.1. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng
Trường Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng
Trường THPT Giao Thủy C 10A2 10A6
Trường THPT Quất lâm 10A1 10A3
3.4. Thời gian và quy trình tiến hành thực nghiệm
3.4.1. Thời gian thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trong năm học 2014 - 2015. Cụ thể:
Tháng 10 năm 2014: Tiến hành thực nghiệm văn bản “Cảnh ngày hè” của
Nguyễn Trãi.
Quá trình thực nghiệm gồm 5 bước:
Bước 1: Phát phiếu tham khảo ý kiến giáo viên.Bước 2: Gặp gỡ giáo viên thực nghiệm: nêu nhiệm vụ, giao tài liệu thực nghiệm,
giáo án thực nghiệm.
Bước 3: Giáo viên thực nghiệm ở các lớp (thực nghiệm và đối chứng) tiến hành
dạy một văn bản thực nghiệm.
Bước 4: Kiểm tra chất lượng tiếp thu bài của học sinh sau mỗi tiết học ở cả lớp
thực nghiệm và lớp đối chứng.
Bước 5: Thống kê, phân tích và xử lý kết quả thực nghiệm.
3.4.2. Quy trình tiến hành thực nghiệm
Một giáo viên trong tổ bộ môn sẽ sử dụng giáo án do người viết luận văn
thiết kế để bước đầu thể nghiệm việc dạy học bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn
Trãi theo hướng vận dụng thi pháp trong đó có sử dụng một số biện pháp mà
người viết luận văn đưa ra cùng với sự tham dự của tổ bộ môn và người viết
luận văn.
Trên cơ sở dự giờ, quan sát, rút kinh nghiệm giờ dạy thực nghiệm đó,
người viết luận văn sẽ chỉnh sửa giáo án và trực tiếp đứng lớp giảng dạy văn
bản với sự tham gia dự giờ của tổ chuyên môn.
Kết quả thực nghiệm sẽ được đánh giá trên cơ sở bài thu hoạch của học
sinh và những ý kiến nhận xét, đánh giá, đóng góp của đồng nghiệp trong tổ
chuyên môn.
3.5. Giáo án thực nghiệm
3.5.1. Yêu cầu chuẩn bị
3.5.1.1. Đối với giáo viên
Quá trình tìm hiểu bài giảng của giáo viên bao gồm hai việc chính: Tìm
hiểu tác phẩm và soạn giáo án
- Tìm hiểu tác phẩm:
+ Tìm hiểu những tư liệu lịch sử - xã hội có ảnh hưởng đến quá trình sáng tác
của bài thơ, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trãi trong bài thơ và trong các
sáng tác thơ Nôm Đường luật.
+ Tìm đọc các bài viết của những nhà nghiên cứu, phê bình, thiết kế bài giảng
liên quan đến tác giả và tác phẩm.
+ Tìm hiểu, so sánh với các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ khác cũng thời
với Nguyễn Trãi về đề tài, thể loại, đặc điểm thi pháp… để thấy được nét độc
đáo của tác phẩm.
+ Xác định mục đích, yêu cầu và các nội dung cần cung cấp cho học sinh qua
một số biện pháp mà luận văn đã đề ra.
- Soạn giáo án:
+ Giáo án phải thể hiện một cách cụ thể quan điểm dạy học, phương pháp lên
lớp, kết cấu bài giảng, nội dung kiến thức cần truyền đạt, các hình thức luyện
tập…theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay, đặc biệt
quan tâm đến quá trình phát triển năng lực cho học sinh. Một giáo án tuy có
nhiệm vụ chủ yếu là thể hiện sự vận dụng các biện pháp dạy học theo hướng vận
dụng thi pháp mà người viết đề xuất, nhưng giáo án đó vẫn phải có sự kết hợp
hữu cơ và sự vận dụng hài hòa các phương pháp, biện pháp dạy học khác một
cách thích hợp, qua đó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, lĩnh hội tác phẩm, từ
đó hình thành, củng cố các đơn vị kiến thức của bài học một cách sinh động,
linh hoạt, có hệ thống.
3.5.1.2. Đối với học sinh
Chủ thể học sinh chiếm một vai trò quan trọng trong tiến trình dạy học. Do
vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở nhà cho tiết học sắp tới
thông qua câu hỏi gợi ý và một số câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo
khoa. Đây là bước đầu tiên giúp học sinh thâm nhập tác phẩm, chuẩn bị tham
gia phân tích và tiếp thu bài giảng trên lớp. Trong quá trình chuẩn bị bài, học
sinh cần đọc kĩ tác phẩm, trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa, chuẩn bị một
số công việc như làm đồ dùng học tập, vẽ tranh tưởng tượng về phong cảnh
ngày hè; đặc biệt là các câu hỏi hướng đến việc xây dựng những nội dung của
các biện pháp do luận văn đưa ra.
Qua sự chuẩn bị này, các em sẽ nắm được một phần giá trị của tác phẩm, phần nào
nắm được những nét nghệ thuật tiêu biểu của tác giả từ đó làm cơ sở để tham gia
chiếm lĩnh tác phẩm trên lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn của thầy cô giáo.
3.5.2. Giáo án thực nghiệm
Tiết 38: Đọc văn.
CẢNH NGÀY HÈ(Bảo kính cảnh giới – bài số 43)
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
* Giúp học sinh:
1. Về kiến thức.
Nguyễn Trãi
- Cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn
Nguyễn Trãi (tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, nặng lòng với nhân dân, đất
nước)
- Thấy được vẻ đẹp của thơ Nôm Nguyễn Trãi: bình dị, tự nhiên, thể thất ngôn
xen lục ngôn.
2. Về Kỹ năng.
- Rèn kỹ năng đọc- hiểu thơ nôm Nguyễn Trãi.
3. Về thái độ.
- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của
nhân dân.
- Có tinh thần học hỏi và trau dồi để thêm yêu mến các tác phẩm văn chương
của cha ông.
B. THIẾT KẾ BÀI HỌC:
I. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh :
1. Giáo viên
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo.Đồ dùng, thiết bị dạy học (máy chiếu, tranh ảnh minh họa...)
- Soạn giáo án.
2. Học sinh
- Hs đọc, soạn bài trước ở nhà theo yêu cầu của GV và các câu hỏi SGK.
- Mỗi tổ vẽ một bức tranh cảnh ngày hè theo nội dung bài thơ.
II. Tổ chức hoạt động dạy- học:
HOẠT ĐỘNG 1
* Ổn định tổ chức lớp. (1’)
a. Kiểm tra bài cũ (4’)
* Câu hỏi:
- Đọc thuộc phần phiên âm và dịch thơ bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão? Em
đánh giá như thế nào về nỗi “thẹn” của tác giả?
* Đáp án:
- Học sinh đọc thuộc, diễn cảm (5đ)
- Nỗi thẹn của tác giả:
+ Thẹnhổ thẹnPhạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như
Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước.
+ Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ (lấy giá trị xưa làm chuẩn mực),
thêm nữa từ sự thật về Khổng MinhNỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển
nhiên. Song xưa nay, những người có nhân cách lớn thường mang trong mình
nỗi thẹn với người tài hoa, có cốt cách thanh caocho thấy sự đòi hỏi rất cao
với bản thân.
Hoài bão lớn: ước muốn trở thành người có tài cao, chí lớn, đắc lực trong
việc giúp vua, giúp nước.
Đó là nỗi thẹn tôn lên vẻ đẹp tâm hồn tác giả, thể hiện cái tâm vì nước, vì
dân. Một nỗi thẹn cao đẹp của người anh hùng. (5đ)
* Nhận xét, đánh giá :..................................................................................
b. Dạy bài mới:
* Giới thiệu bài mới. (1’)“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” đó là lời ngợi ca mà Lê Thánh Tông
dành cho Nguyễn Trãi và cũng là để minh oan cho ông. Nguyễn Trãi (1380-
1442) là tác giả VH lớn của VHTĐVN. Ông ko chỉ là tác giả của những áng hùng
văn “có sức mạnh bằng mười vạn quân” (Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ
mệnh tập) mà còn là tác giả của những bài thơ Nôm chan chứa cảm xúc, tình yêu
thiên nhiên, cuộc sống, nặng lòng với nhân dân, đất nước. Tập thơ Nôm Quốc âm thi
tập của ông gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, đánh dấu bước phát
triển của VH chữ Nôm trong VHTĐ.Tập thơ đó có nhiều phần, trong đó có phần
Vô đề (ko có tựa đề) nhưng được xếp thành một số mục cho chúng ta thấy rõ bức
chân dung tinh thần của Ức Trai. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài thơ Bảo
kính cảnh giới-số 43 (Cảnh ngày hè) thuộc mục Bảo kính cảnh giới (Gương báu
răn mình).
* Nội dung:
HOẠT ĐỘNG 2
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ĐẠT
Hs đọc Tiểu dẫn- sgk.
- Số lượng tác phẩm của tập
thơ Quốc âm thi tập?
- Các phần của tập thơ trên?
- Nội dung và nghệ thuật của
nó?
I. Tìm hiểu chung: (10’)
1. Tập thơ Quốc âm thi tập:
- Gồm 254 bài thơ Nôm.
- Các phần của tập thơ:
+ Vô đề: Ngôn chí, Mạn thuật, Tự thán,
Bảo kính cảnh giới,...
+ Môn thì lệnh: về thời tiết.
+ Môn hoa mộc: về cây cỏ.
+ Môn cầm thú: về thú vật.
- Nội dung: Thể hiện vẻ đẹp của con người
Nguyễn Trãi với 2 phương diện:
+ Người anh hùng với lí tưởng nhân nghĩa,
yêu nước, thương dân.
+ Nhà thơ với tình yêu thiên nhiên, quê
- Nhan đề Cảnh ngày hè do ai đặt? Nó thuộc mục nào trong phần Vô đề?
Yêu cầu hs đọc diễn cảm bài thơ với giọng đọc: thanh thản, vui.
- Em hãy xác định thể thơ và bố cục của bài thơ?
GV: HS có thể nêu các cách chia bố cục khác nhau:
+ 2 phần: tiền giải (4 câu đầu) và hậu giải (4 câu sau).
+ 2 phần: câu 2- 6 (vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên, cuộc sống) và câu 1-7-8 (vẻ đẹp
tâm hồn Nguyễn Trãi).
+ 4 phần: đề- thực- luận- kết. Gv hướng hs đến cách 2. hương, đất nước, cuộc
sống, con người.
- Nghệ thuật:
+ Việt hóa thơ thất ngôn bát cú Đường luật, sáng tạo thể thất ngôn xen lục
ngôn.
+ Ngôn ngữ vừa trang nhã, trau chuốt vừa bình dị, tự nhiên, gần với đời sống
thường ngày.
2. Bài thơ“Cảnh ngày hè”.
* Nhan đề: Cảnh ngày hè do người biên soạn sgk đặt.
- Là bài số 43 thuộc mục Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình)
* Đọc
- Học sinh đọc bài thơ.
* Thể thơ, bố cục:
- Thể thơ: : thất ngôn xen lục ngôn.
- Bố cục: 2 phần
+ Câu 2- câu 6: vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên, cuộc sống.
+ Câu 1, câu7-8: vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
- Đề tài được nói tới ở đây là
gi?
- Bức tranh cảnh ngày hè được
cảm nhận với những gì?
- Những hình ảnh nào, âm
thanh nào được Nguyễn Trãi
miêu tả trong bức tranh thiên
nhiên, cuộc sống ngày hè?
- Ngôn ngữ ở đây được tác giả
sử dụng ntn? Tác giả dùng
nhiều động từ diễn tả trạng
thái của cảnh ngày hè. Đó là
những động từ nào, trạng thái
của cảnh được diễn tả ra sao?
- Phân tích, chứng minh cảnh
vật thiên nhiên và cuộc sống
con người có sự hài hòa về âm
thanh và màu sắc, cảnh vật và
con người?
Học sinh thảo luận nhóm, cử
đại diện trình bày, Giáo viên
bổ sung, chốt ý.
II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Bức tranh thiên nhiên và bức tranh
cuộc sống:
a). Bức tranh thiên nhiên:
- Hình ảnh của bức tranh thiên nhiên được
miêu tả:
+ Cây hòe.
+ Hoa lựu.
+ Hoa sen.
Loại cây rất gần gũi, quen thuộc ở
nơi làng quê.
- Sắc thái của cảnh vật:
- Cây hoè: + Động từ mạnh “đùn đùn” gợi
tả sự vận động của một nguồn sống mãnh
liệt, sôi trào.
+ Kết hợp với hình ảnh miêu tả
“tán rợp giương”- tán giương lên che rợp.
Hình ảnh cây hoè đang ở độ phát
triển, có sức sống mãnh liệt.
- Hoa lựu: Động từ mạnh “phun” thiên về
tả sức sống. Nó khác với tính từ “lập loè”
trong thơ Nguyễn Du
(Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông)
thiên về tạo hình sắc.
Động từ mạnh “phun” diễn tả trạng
thái tinh thần của sự vật, gợi tả những
bông thạch lựu bung nở tựa hồ một cơn
mưa
So sánh với bản gốc là từ tịn
nghĩa là sen ngát hương nhưng
ở vào thời điểm cuối mùa
“Tường nọ nhặt khoan vang
tiếng cuốc
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve”
Lê Thánh Tông
hoa.
- Hoa sen: “tiễn mùi hương”- ngát mùi
hương.
Tính từ “ngát” gợi sự bừng nở, khoe sắc,
toả hương ngào ngạt của hoa sen mùa hạ.
Các động từ mạnh, tính từ sắc thái hóa
góp phần diễn tả một bức tranh thiên nhiên
mùa hè tràn đầy sức sống. Nguồn sống ấy
như tạo ra một sự thôi thúc tự bên trong,
đang ứ căng, đang tràn đầy trong lòng
thiên nhiên vạn vật, ko kìm lại được, khiến
chúng phải “giương” lên, “phun” ra hết
lớp này đến lớp khác.
b). Bức tranh cuộc sống:
- Sắc thái của âm thanh:
+ Âm thanh của cuộc sống con người: lao
xao chợ cá.
+ Âm thanh của tự nhiên: dắng dỏi cầm
ve.
- Âm thanh lao xao chợ cá:
+ Âm thanh đặc trưng của làng chài- dấu
hiệu của sự sống của con người.
+ Âm thanh từ xa vọng lại cái
nghiêng tai kì diệu, tinh tế và tấm lòng
luôn hướng đến con người và cuộc sống
của Nguyễn Trãi.
- Âm thanh Dắng dỏi cầm ve- tiếng ve kêu
râm ran khắp nơi như tiếng đàn.
Những âm thanh được gợi tả thật rộn rã,
- Em có nhận xét gì về bức
tranh thiên nhiên, cuộc sống
được Nguyễn Trãi miêu tả?
Gợi mở: + Sức sống của cảnh
vật?
+ Sự kết hợp giữa đường nét,
màu sắc và âm thanh, con
người và cảnh vật ntn?
+ Cảnh vật thiên nhiên ở đây
mang vẻ đài các, sang trọng
hay dân dã, giản dị đời
thường? So sánh với cách
miêu tả của tác giả thời Hồng
Đức: Nước nồng sừng sực đầu
rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi
chó lè( Lại vịnh nắng hè,3)?
+ Tác giả đã huy động các giác
quan nào để cảm nhận và miêu
tả bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống cảnh ngày hè?
tươi vui.
- Hình ảnh “chợ” gợi sự sầm uất, no
đủ, tươi vui bởi chợ quê không chỉ là nơi
giao thương buôn bán mà cong là nơi giao
lưu văn hóa của người dân.
Nhận xét:
- Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống được
miêu tả vào thời điểm cuối ngày nhưng ko
gợi cảm giác ảm đạm. Bởi ngày sắp tắt
nhưng sự sống ko ngừng lại. Thiên nhiên
vẫn vận động với một nguồn sống dồi dào,
mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống còn rộn rã những âm thanh tươi vui.
- Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống còn hết
sức sinh động. Bởi nó có sự kết hợp hài
hòa giữa đường nét, màu sắc và âm thanh,
con người và cảnh vật: màu lục của lá hòe
làm nổi bật màu đỏ của hoa lựu, ánh mặt
trời buổi chiều như dát vàng trên tán hòe
xanh; tiếng ve râm ran như những bản đàn
- âm thanh đặc trưng của mùa hè, hòa cùng
tiếng lao xao nơi chợ cá- âm thanh đặc
trưng của của làng chài từ xa vọng lại.
- Cảnh vật thiên nhiên ở đây mang vẻ dân
dã, giản dị đời thường nhưng cũng hết sức
tinh tế, gợi cảm, khác với cách miêu tả bức
tranh mùa hè có phần mộc mạc, thô tháp
của tác giả thời Hồng Đức.
- Tác giả đã huy động:
- Từ câu 2-5, Nguyễn Trãi đã
mở rộng hồn thơ của mình,
huy động nhiều giác quan và
cả sự liên tưởng để cảm nhận
và diễn tả những vẻ đẹp của
bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống cảnh ngày hè rất chân
thực, sinh động và gợi cảm.
Điều đó cho thấy ông có tình
cảm ntn với thiên nhiên và
cuộc sống con người?
- Hình ảnh con người được tác
giả gợi tả ntn?
- Câu thơ đầu với 6 chữ đặc
biệt cho thấy hoàn cảnh tác giả
sáng tác bài thơ này ntn?
Hs thảo luận, phát biểu.
Gv bình giảng sâu hơn.
Ức Trai là nhà thơ của thiên
nhiên:
“Non nước cùng ta đã có
duyên”(Tự thán- 4). Ông đến
với thiên nhiên trong mọi hoàn
cảnh:thời chiến, thời bình, lúc
buồn, khi vui, lúc bận rộn và
cả khi thư nhàn. Ông luôn
+ Thị giác: để cảm nhận màu sắc của lá
hòe xanh, hoa thạch lựu đỏ ngời.
+ Khứu giác: để cảm nhận hương sen thơm
ngát.
+ Thính giác: để thu nhận âm thanh lao
xao của chợ cá làng chài từ xa.
+ Thính giác và sự liên tưởng: để thấy
tiếng ve kêu inh ỏi tựa như tiếng đàn.
Điều đó cho thấy tác giả có sự giao
cảm mạnh mẽ và tinh tế với thiên nhiên
cảnh vật và cuộc sống con người.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi:
* Câu 1: Hình ảnh con người: Rồi - rỗi
rãihoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi
trong cuộc đời con người “thân” ko
nhàn mà “tâm” cũng ko nhàn.
Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư
thái, thanh thản.
Một ngày với khí trời mát mẻ,
trong lành.
Hoàn cảnh lí tưởng cả điều kiện khách
quan và chủ quan để Nguyễn Trãi làm thơ
và yêu say cảnh đẹp.
- Nguyễn Trãi đã mở rộng hồn thơ, huy
động nhiều giác quan và sự liên tưởng để
rộng mở hồn mình để đón
nhận mọi vẻ đẹp của thiên
nhiên, đất nước, cuộc sống con
người: “Túi thơ chứa hết mọi
giang san”(Tự thán-2)... Một
phút thanh nhàn với bậc khai
quốc công thần, tận trung, tận
lực giúp vua, giúp nước ấy thật
đáng quý biết bao...
- Vẻ đẹp của tâm hồn Nguyễn
Trãi qua 2 câu kết?
Hs thảo luận, phát biểu.
GV nhận xét, bổ sung, bình
giảng.
“ Vua Nghiêu Thuấn, dân
Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ thửa nguyền”
( Tự thán bài 4)
cảm nhận, diễn tả những vẻ đẹp của bức
tranh thiên nhiên, cuộc sống cảnh ngày hè
chân thực, tràn đầy sức sống, sinh động ,
vừa dân dã, giản dị vừa gợi cảm. Điều đó
cho thấy sự tinh tế, nhạy cảm, tình yêu
thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống của
ông.
* Câu 7-8: Mong ước của nhà thơ
- Ngu cầm – là cây đàn của vua Ngu
Thuấn, bậc minh quân gắn với khúc hát
Nam Phong mơ ước cho nhân dân
có cuộc sống giàu đủ.
- Câu 8: 6 chữ dồn nén cảm xúc cả bài
thơđiểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai ko
phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở cuộc
sống con người, ở nhân dân.
Khát vọng về cuộc sống thái bình, no
ấm, hạnh phúc cho nhân dân (dân giàu đủ)
và đó phải là cuộc sống thái bình, ấm no,
hạnh phúc cho tất cả mọi người ở mọi nơi
(khắp đòi phương).
Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng
trước hết tấm lòng của ông luôn đau đáu
một niềm với dân với nước:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
(Thuật hứng-5)
Vậy nên, Nguyễn Trãi hiếm khi có giây
Lê Thánh Tông cũng từng ca
ngợi:
“Nhà nam, nhà bắc đều no
mặt,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái
bình”.
HOẠT ĐỘNG 3
- Nhận xét khái quát về những
nét đặc sắc trong nội dung và
nghệ thuật của bài thơ?
phút thư nhàn, thanh thản. Nhưng ở trong
bài thơ này, ông có cả một “ngày trường”
thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng
lâng lâng, sảng khoái. Bởi niềm mơ ước,
nỗi trăn trở, giày vò tâm can ông, mục đích
lớn nhất của đời ông đã được thực hiện:
dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế
nên, nhìn cảnh sống của nhân dân qua
cuộc sống của những người dân chài vốn
lam lũ nay được yên vui, no đủ, ông mơ
ước có được cây đàn của vua Thuấn để
gảy khúc Nam Phong, ca ngợi cảnh “Dân
giàu đủ khắp đòi phương”. Đó là khát
vọng cao cả, đẹp đẽ của một con người hết
lòng vì dân vì nước.
III. Tổng kết: (3’)
1. Nghệ thuật:
- Cách ngắt nhịp đặc biệt: 3/4 ở câu 3 và
câu 4tập trung sự chú ý của người
đọc, làm nổi bật hơn cảnh vật trong ngày
hè.
- Thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn.
- Ngôn ngữ: giản dị mà tinh tế, biểu cảm.
2. Nội dung:
- Bức tranh cảnh ngày hè tràn đầy sức
sống, sinh động vừa giản dị, dân dã đời
thường vừa tinh tế, gợi cảm.
- Tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc
sống, tấm lòng vì dân, vì nước của tác giả.
HOẠT ĐỘNG 4
III. Hướng dẫn HS đánh giá, tổng hợp, củng cố, luyện tập: (1’)
- Vẻ đẹp thiên nhiên tâm hồn tác giả được thể hiện ở điểm nào ?
- Gợi ý:
+ Vẻ đẹp thiên nhiên: giản dị, thanh cao, tràn đầy sức sống
+ Vẻ đẹp tâm hồn: yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chan hoà với thiên nhiên,
canh cánh 1 nỗi niềm với dân với nước.
IV. Hướng dẫn học sinh tự học : (1’)
* Hướng dẫn học bài cũ:
Đọc thuộc bài thơ, ôn lại kiến thức bài học.
* Hướng dẫn chuẩn bị bài mới:
Đọc trước bài: Tóm tắt văn bản tự sự.
V. Tài liệu tham khảo: - Quốc âm thi tâp – Nguyễn Trãi
- Thơ Nôm Đường luật – Lã Nhâm Thìn
VI. Rút kinh nghiệm:
- Sự phối hợp giữa học sinh và giáo viên chưa thật nhịp nhàng
- Phân phối thời gian chưa thật hợp lí.
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Sau khi tiến hành các tiết dạy ở các lớp đối chứng và các tiết dạy ở lớp thực
nghiệm với giáo án đã thiết kế trên, chúng tôi tiến hành kiểm tra kết quả tiếp
nhận kiến thức của học sinh theo phiếu yêu cầu đã được phát ra với các nội
dung sau:
1) Bức tranh thiên nhiên ngày hè được Nguyễn Trãi quan sát, gợi tả như thế
nào? Có gì là đặc sắc?
2) Bức tranh cuộc sống ngày hè được nhà thơ cảm nhận như thế nào? Có gì mới
mẻ, độc đáo?
3) Hãy chỉ ra những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu được sử dụng trong bài thơ?
Cho biết tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó trong việc thể hiện nội dung
bài thơ?
4) Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi thể hiện qua bài thơ là gì?
5) Sau khi học xong bài thơ em thấy bài thơ đã giúp cho em những gì trong
cuộc sống?
Bảng 3.2. Thống kê kết quả tiếp thu kiến thức của học sinh trong sự so
sánh, đối chứng
Câu
hỏiLớp Số phiếu
Trả lời
Đúng,
đầy đủ
Ở mức
trung
bình
Sơ sài Chưa
đúng
Câu 1Thực nghiệm 84 41 32 08 03
Đối chứng 84 27 25 25 07
Câu 2Thực nghiệm 84 37 31 11 05
Đối chứng 84 26 28 23 07
Câu 3Thực nghiệm 84 43 29 10 04
Đối chứng 84 28 33 18 05
Câu 4Thực nghiệm 84 39 26 14 05
Đối chứng 84 29 35 12 08
Nhận xét: Trong tổng số 168 phiếu khảo sát được phát ra cho 4 lớp (2 lớp thực
nghiệm và 2 lớp đối chứng) ở 2 trường THPT tại địa bàn huyện Giao Thủy tỉnh
Nam Định, chúng tôi đã tổng hợp được kết quả như bảng thống kê trên. Kết quả
cho thấy sau khi được học với giáo án thực nghiệm, sự tiếp thu kiến thức của
học sinh đã có sự thay đổi rõ rệt. Cụ thể:
- Câu số 1: Số học sinh trả lời đúng, đầy đủ ở các lớp thể nghiệm cao hơn lớp
đối chứng là 14 em.
- Câu số 2: Số học sinh trả lời đúng, đầy đủ ở các lớp thể nghiệm cao hơn lớp
đối chứng là 11 em.
- Câu số 3: Số học sinh trả lời đúng, đầy đủ ở các lớp thể nghiệm cao hơn lớp
đối chứng là 15 em.
- Câu số 4: Số học sinh trả lời đúng, đầy đủ ở các lớp thể nghiệm cao hơn lớp
đối chứng là 10 em.
100
Sau khi dạy thực nghiệm, kiểm tra kết quả học tập của học sinh, thăm dò
ý kiến của học sinh và giáo viên dự giờ, chúng tôi sơ bộ có những đánh giá sau :
+ Việc vận dụng hướng dạy học này đã đem lại những kết quả ban đầu khả quan
về một số phương diện sau:
- Tỉ lệ học sinh nắm vững kiến thức sau giờ học là khá cao. - Giờ học tạo được
khí thế học tập sôi nổi.
+ Kết quả thăm dò học sinh và giáo viên dự giờ cho thấy những phản hồi tích
cực. Đa số đều thấy cách dạy này mới, khác hẳn với kiểu dạy tác phẩm văn
chương hiện tại. Nếu bình thường hướng khai thác một tác phẩm văn chương là
khai thác về phần nội dung tư tưởng trước, sau đó mới tìm hiểu những nét đặc
sắc nghệ thuật. Nhưng với cách dạy này thì lại đi ngược lại, từ nghệ thuật suy ra
nội dung, hơn nữa nghệ thuật lại được xem xét một cách hệ thống, bám sát
những đặc trưng phong cách nghệ thuật của tác giả. Dạy theo cách này, một tác
phẩm văn chương mới thực sự được giải mã một cách khoa học và được đặt
đúng vị trí của một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Hơn nữa sau mỗi giờ học
ngoài việc nắm vững kiến thức của bài học, học sinh còn nắm được một số lí
thuyết của thi pháp học, từ đó dần hình thành năng lực cảm thụ văn học cho học
sinh. Vì thế đa số ý kiến đều tán đồng.
+ Tuy nhiên còn một số ý kiến cho rằng cách dạy học theo hướng vận dụng thi
pháp là khá khó, nhất là với đối tượng học sinh yếu kém, hơn nữa với đối tượng
học sinh, việc nắm vững và vận dụng những kiến thức lí thuyết thi pháp học là
khá khó khăn.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, hướng dạy học tác phẩm văn chương theo
hướng bám sát thi pháp tác giả hoàn toàn có thể áp dụng vào thực tiễn, và có thể
trở thành một xu hướng dạy học tiến bộ và hiệu quả cao. Hi vọng với việc phát
huy những thế mạnh, hạn chế và khắc phục dần những nhược điểm, rút kinh
nghiệm sâu sắc, những lần thực nghiệm sau sẽ đạt kết quả cao hơn.
101
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trải qua gần một nghìn năm phát triển của lịch sử văn học Việt Nam, thơ
Nôm Đường luật có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng bởi những đóng góp
to lớn của nó đối với sự phát triển của văn học dân tộc về cả hai phương diện:
thực tiễn sáng tác và ý nghĩa lí luận. Nó đã phản ánh được những điều kiện bản
chất, quy luật của quá trình giao lưu, tiếp nhận văn học. Các tác phẩm thơ Nôm
Đường luật đã chiếm một vị trí khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn
THPT. Đưa các tác phẩm thơ trung đại, nhất là các tác phẩm thơ Nôm Đường
luật vào giảng dạy cho đối tượng học sinh lớp 10 là một bước tiến mạnh mẽ
trong dạy học văn, bởi lẽ với các tác phẩm thơ Đường luật thường giàu tính hàm
súc, hạn chế về khoảng cách tiếp nhận. Tuy nhiên, những tác phẩm đó cách
chúng ta hàng trăm năm, thể hiện những tư tưởng thẩm mĩ, cách cảm, cách hiểu
của người xưa về con người, cuộc sống khác hẳn với học sinh hiện nay. Trong
khi đó, trình độ nhận thức của học sinh còn nhiều hạn chế, vốn ngôn ngữ còn ít
ỏi, tri thức nền tảng về văn hóa, lịch sử, xã hội…còn nghèo nàn. Hơn nữa, nhiều
giáo viên hiện nay chưa thực sự coi trọng thi pháp thể loại khi dạy học văn nên
thường dạy các tác phẩm thơ Nôm Đường luật như dạy các tác phẩm thơ hiện
đại. Điều đó gây ra tình trạng học sinh không thích học mảng thơ này. Chính vì
vậy, dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật hữu hiệu không thể không coi trọng
đặc trưng thi pháp. Thi pháp thể loại là chìa khóa để giải mã các tác phẩm hàm
súc như thơ Nôm Đường luật.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của các môn học trong nhà trường phổ
thông, xuất phát từ yêu cầu khắc phục thực trạng dạy học kém hiệu quả của môn
Ngữ văn nói chung và dạy học tác phẩm thơ trung đại nói riêng, việc đổi mới
phương pháp dạy học là một nhu cầu cấp thiết, mang tính đột phá nhằm đưa
môn học này trở về đúng với vị trí và vai trò của nó trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Đặc biệt với tinh thần đổi mới phương pháp theo hướng phát huy
năng lực của học sinh. Vì vậy, luận văn muốn tìm đến một hướng dạy phù hợp,
102
nâng cao tính khoa học và nghệ thuật của một giờ dạy tác phẩm văn chương, lại
phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo về năng lực tư duy cho học sinh.
Luận văn đã đi sâu theo hướng dạy học tác phẩm văn chương trên cơ sở bám sát
thi pháp tác giả, thi pháp văn học trung đại. Đây là hướng dạy học đi sâu vào
văn bản để tìm những nét đặc sắc nghệ thuật của văn bản, dựa trên những đặc
trưng thi pháp thơ trung đại, thi pháp tác giả, từ hình thức nghệ thuật đó suy ra
nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Cách dạy này góp phần làm thay đổi lối
mòn trong cách dạy học văn truyền thống là luôn coi trọng phần nội dung của
một tác phẩm văn học, có xu hướng biến tác phẩm văn học thành một giờ giảng
đạo đức hay giờ bàn luận về những vấn đề lịch sử, văn hóa, xã hội mà coi nhẹ
hình thức nghệ thuật của tác phẩm, hoặc nếu có chú ý tìm hiểu thì cũng chưa
thành một hệ thống và không có cơ sở lý thuyết về những đặc trưng nghệ thuật
đó. Hơn nữa với hướng dạy học tác phẩm văn chương theo hướng vận dụng thi
pháp, ngoài lợi ích là dạy học hiệu quả một tác phẩm cụ thể còn góp phần trang
bị cho học sinh những tri thức về lý thuyết, hình thành năng lực cảm thụ văn
chương, từ đó bồi dưỡng tình yêu đối với môn học này.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học thơ Nôm Đường luật
theo hướng vận dụng thi pháp cho học sinh THPT, chúng tôi đã đề xuất một số
biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả dạy học thể thơ này. Để dạy tốt các
tác phẩm thơ Nôm Đường luật theo chúng tôi cái cốt lõi là phải khai thác được
hạt nhận tư tưởng nhân văn trong tác phẩm. Muốn làm được điều này, giáo viên
cần hướng dẫn các em chiếm lĩnh tác phẩm thông qua các biện pháp như gắn
với lịch sử hình thành của tác phẩm, đọc tác phẩm, phân tích kết cấu của tác
phẩm đó, vượt qua rào cản ngôn ngữ của văn học trung đại vốn xa lạ với các
em, tìm ra cái mới, so sánh đối chiếu để khắc sâu ấn tượng về tác phẩm. Các
biện pháp này sẽ đóng vai trò quan trọng để xây dựng hệ thống câu hỏi phân
tích tác phẩm và dựa trên cơ sở đó, biện pháp giảng bình sẽ giúp các em cảm
nhận rõ hơn chiều sâu của tác phẩm.
103
Từ những biện pháp đã đề xuất trên, chúng tôi thiết kế một giáo án về một
tác phẩm thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn THPT và tiến hành
dạy thực nghiệm. Những kết quả thu được sau quá trình thực nghiệm đã bước
đầu chứng minh những biện pháp do chúng tôi đề xuất có khả năng áp dụng
rộng rãi trong thực tế.
2. Khuyến nghị
- Muốn nâng cao hiệu quả dạy học thơ Nôm Đường luật, đồng thời phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên phải hiểu rõ
đặc trưng thi pháp của thơ Nôm Đường luật, phải ý thức được tầm quan trọng
của việc vận dụng thi pháp khi dạy học các tác phẩm này. Từ đó, giáo viên cần
có biện pháp dạy học phù hợp, giúp học sinh hiểu được giá trị nội dung, giá trị
thẩm mĩ mà tác phẩm đưa lại.
- Các tổ, nhóm chuyên môn cần thường xuyên tổ chức những chuyên đề
bồi dưỡng kiến thức về thi pháp văn học trung đại, thi pháp tác giả, hướng
dẫn giáo viên phương pháp giảng dạy theo hướng vận dụng thi pháp để giáo
viên có cái nhìn cụ thể hơn với một giờ dạy học tác phẩm văn chương đúng
đặc trưng thể loại.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học. Đồng thời nếu thấy học sinh yếu ở điểm nào, giáo viên cần bổ
sung kiến thức, kĩ năng cho các em ở điểm đó. Đây cũng là quá trình đòi hỏi sự
tận tâm, đầu tư chuyên môn, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học của người
giáo viên.
Để nâng cao chất lượng dạy và học tác phẩm thơ Nôm Đường luật cho
học sinh Trung học phổ thông, chắc chắn còn rất nhiều biện pháp khác và nhiều
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết, song việc dạy học theo hướng vận
dụng thi pháp vẫn là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế dạy học hiện
nay. Tuy vậy, do khả năng có hạn, những đề xuất đưa ra trong luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm, trao đổi,
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để những vấn đề đặt
ra trong luận văn ngày càng hoàn thiện hơn.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo viên Ngữ văn 10. Nhà xuất bản
Giáo dục, Việt Nam.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ
năng môn Ngữ văn THPT lớp 10. Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam.
3. Hoàng Hữu Bội (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 10. Nhà xuất bản Giáo
dục, Việt Nam.
4. Nguyễn Viết Chữ (2003), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo
loại thể. Nhà xuất bản đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Nguyễn Viết Chữ (2010), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong
nhà trường. Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam.
6. Trần Quang Dũng (2005), Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến trình
thơ Nôm Đường luật Việt Nam thời trung đại. Nhà xuất bản đại học Sư
phạm, Hà Nội.
7. Trần Thanh Đạm (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo loại
thể. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Bá Hán (2004), Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam.
9. Nguyễn Thanh Hùng (2007), Phương pháp dạy học Ngữ văn ở Trung học
cơ sở. Nhà xuất bản đại học Sư phạm, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Thanh Hương (2007), Để dạy và học tốt tác phẩm văn chương
(phần Trung đại) ở trường phổ thông. Nhà xuất bản đại học Sư phạm, Hà Nội.
11. Đặng Thanh Lê (1990), Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường
luật. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy theo SGK Văn 10 mới. Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
12. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ
XIX). Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam.
13. Phan Trọng Luận (2007), Phương pháp dạy học văn (tập 1). Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
105
14. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương – bạn đọc sáng tạo. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Na (2005), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (tập 1-2),
giáo trình cao đẳng sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,
Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam.
17. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (tập 1-2),
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
18. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học. Nhà xuất bản
Giáo dục, Việt Nam.
19. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam.
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
20. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Trần Đình Sử (2008), Lí luận văn học tập 2. Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
22. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật. Nhà xuất bản Giáo dục,
Việt Nam.
23. Lã Nhâm Thìn (2006), Bình giảng thơ Nôm Đường luật. Nhà xuất bản Giáo
dục, Việt Nam.
24. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại từ góc nhìn
thể loại. Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam.
25. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam. Nhà xuất bản
Khoa học xã hôi, Hà Nội.
106
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Kính gửi các thầy giáo, cô giáo.
Để phục vụ cho việc khảo sát về công tác dạy học văn trong trường THPT, xin
các thầy cô vui lòng điền vào phiếu trả lời dưới đây.
Chân thành cảm ơn quý thầy cô!
Họ tên giáo viên:…………………………… Trường:……………………… ......
1. Quá trình giảng dạy các tác phẩm thơ Nôm, các thầy cô có quan tâm đến
việc vận dụng thi pháp không?
a. Thường xuyên
b. Đôi khi
c. Không quan tâm
2. Các thầy cô đã bao giờ giải thích cho học sinh về thi pháp văn học trung
đại chưa?
a. có
b. Không
c. Đôi khi
3. Để giúp cho học sinh hiểu được các tác phẩm thơ Nôm Đường luật, các
thầy cô thường dùng biện pháp nào?
a. Thuyết giảng
b. Giảng bình
c. Đọc diễn cảm.
4. Để hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu các văn bản thơ Nôm các thấy cô
thường chú trọng đến phương pháp nào?
a. Thuyết giảng
b. Trao đổi, đối thoại
c. Thảo luận nhóm
107
5. Các thầy cô đã bao giờ giải thích cho học sinh hiểu về đặc điểm thơ Nôm
Đường luật chưa?
a. Thường xuyên
b. Đôi khi
c. Chưa bao giờ
108
PHỤ LỤC 2
PHIẾU KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH TIẾP THU KIẾN THỨC
CỦA HỌC SINH VỀ BÀI THƠ “CẢNH NGÀY HÈ”
Thông tin cá nhân:
Họ tên:…………………….............Lớp:……..Trường:.........................................
1) Bức tranh thiên nhiên ngày hè được Nguyễn Trãi quan sát, gợi tả như thế
nào? Có gì là đặc sắc?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
2) Bức tranh cuộc sống ngày hè được nhà thơ cảm nhận như thế nào? Có gì mới
mẻ, độc đáo?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
3) Hãy chỉ ra những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu được sử dụng trong bài thơ?
Cho biết tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó trong việc thể hiện nội dung
bài thơ?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
109
4) Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi thể hiện qua bài thơ là gì?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
5) Sau khi học xong bài thơ em thấy bài thơ đã giúp cho em những gì trong
cuộc sống?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….