i. khÁi niỆm chung vỀ gia ĐÌnh - dhsptn.edu.vn dinh te bao cua xh.pdf · ... các quan hệ...
TRANSCRIPT
1
Chương I
GIA ĐÌNH - TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI
Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
1. Khái niệm Gia đình
Với tư cách là một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội. Gia
đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu
dài. Xuất phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải dựa
vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam và nữ giới, những hình
thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã
trải qua nhiều hình thức gia đình như: Gia đình đối ngẫu, gia đình hôn nhân
từng cặp, gia đình một vợ một chồng...
Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội các kiểu dạng tổ chức cộng
đồng mang tính tự nhiên, ngay từ đầu đã chịu sự quy định của sự biến đổi
trong sản xuất trong đời sống kinh tế - xã hội.
Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần
phải quần tụ thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong
những nhóm cộng đồng ấy còn mang sắc thái tự nhiên sinh học sống quần tụ
với nhau theo bày đàn, sinh sống bằng săn bắn hái lượm...
Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt những đòi hỏi của
đời sống kinh tế các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên
trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù hợp và
thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt của mỗi một nền sản
xuất. Gia đình dần dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh "xã hội
thu nhỏ". Nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách giản đơn các quan hệ
xã hội. Những gia đình được coi như một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ
nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì
2
gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội
mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất, bản
sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên trong gia đình trong sự tương tác
gắn bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp, tầng lớp trong mỗi
giai đoạn lịch sử của quốc gia, dân tộc.
Như vậy: Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản
trong đời sống cộng đồng của con người một thiết chế văn hoá xã hội đặc
thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của những quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa
các thành viên.
b. Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
* Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình
thành, tồn tại và phát triển gia đình
- Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm
thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và bảo đảm tái sản xuất ra con
người nhằm duy trì, phát triển nòi giống.
Cùng với sự phát triển của lịch sử Hôn nhân cũng có sự biến đổi sâu
sắc về hình thức tính chất và sắc thái của nó: Nếu như trong chế độ CSNT
hình thái hôn nhân chủ yếu là quần hôn. Trong các chế độ tư hữu hôn nhân
được hình thành xây dựng và thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích của những
người chủ sở hữu (gia đình gia trưởng - bảo đảm quyền lực của người chồng,
người cha, người chủ sở hữu tài sản và kế thừa tài sản...).
- Hôn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người và chỉ có ở
con người. Cho nên ngay từ đầu hôn nhân đã mang bản chất người nhân văn
và nhân đạo. Sự phù hợp về tâm lí, sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm
ngay từ ban đầu nó đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc đặc
thù của quan hệ hôn nhân.
3
- Tuy nhiên, cũng như mọi quan hệ xã hội khác Hôn nhân luôn chịu sự
chi phối của các quan hệ kinh tế và bản chất của chế độ xã hội mà trên đó nó
được hình thành và phát triển.
Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải
được xã hội thừa nhận ở những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư
hữu và các xã hội có sự phân chia giai cấp sự thừa nhận đó của các chuẩn
mực văn hoá và lối sống truyền thống của cộng đồng (tổ chức cưới, hỏi...).
- Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa đôi nam nữ
trước khi đi đến hôn nhân là cơ sở trực tiếp cho hôn nhân: Tình yêu. Cũng
như hôn nhân, tình yêu của mỗi thời đại, mỗi giai tầng, mỗi dân tộc và cộng
đồng tâm lý văn hoá cũng có những giá trị và chuẩn mực riêng với những
biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
* Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản, đặc trưng của
gia đình
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tính cách là một thiết chế xã hội. Trong gia
đình cùng với quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan
hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, ngay cả quan hệ cơ bản này cũng có những thay
đổi theo tiến trình lịch sử, những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự chi
phối của các điều kiện: Kinh tế, văn hoá, chính trị của xã hội. Mặt khác quan
hệ huyết thống ấy cũng gia nhập đan xen vào các quan hệ kinh tế và chính trị
xã hội của mỗi thời đại.
Thí dụ: Trong chế độ công xã nguyên thuỷ huyết thống về đằng mẹ
được coi là chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc gần xa khi ấy gia đình được
xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ.
Khi chế độ tư hữu ra đời vai trò của người đàn ông ngày càng được
khẳng định trong quan hệ gia đình gia trưởng. Gia đình theo huyết thống về
đằng cha (gia đình phụ hệ ra đời). Khi quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ
4
ngày càng gay gắt thì gia đình phu hệ phát triển: Gia đình chủ nô, gia đình
phong kiến gia trưởng và gia đình tư sản.
Chỉ có thể khắc phục được những mâu thuẫn này khi xoá bỏ được chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
* Quan hệ quần tụ trong một không gian sinh tồn
Ngay từ đầu xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và
giữa con người với nhau cộng đồng gia đình đã luôn cư trú quần tụ trong
một không gian sinh tồn từ lúc trong một hang đá hốc cây → sau đó là trong
một mái nhà. Dù không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi
phối của các quan hệ kinh tế - xã hội nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn luôn
được đặt ra, cho dù ngày nay khái niệm không gian sinh tồn không còn giữ
nguyên nghĩa như một giới hạn địa lý thuần tuý nữa. Cho dù sự can thiệp,
mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được thay thế, đảm nhận ở
mức độ đáng kể sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên, các thế hệ trong
mỗi gia đình không vì thế mà mất đi mà trái lại nó được củng cố, được thực
hiện nhờ thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày càng hiện đại đầy đủ hơn
(An cư lập nghiệp).
* Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên
trong gia đình
Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm đồng thời còn là một
quyền lợi thiêng liêng của gia đình của các thành viên gia đình đối với nhau.
Nuôi dưỡng không đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con
cháu mà còn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà, giữa các thành viên khoẻ mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh sống
đối với những thành viên gặp khó khăn, rủi ro về sức khoẻ về làm ăn sinh
sống. Mặc dù xã hội phát triển sự quan tâm của xã hội đối với gia đình và các
thành viên gia đình qua các chính sách bảo hiểm, chăm sóc y tế, dưỡng lão..
nhưng nuôi dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã hội dù có hiện đại
5
đến đâu cũng không thể thay thế được và càng không nên đặt vấn đề thay thế
hoàn toàn.
2. Vị trí gia đình trong xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến
đổi được "sắp xếp tổ chức" theo nhiều mối quan hệ, trong đó gia đình được
xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên.
Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ
sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định đối với gia đình.
Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức kết cấu và quy mô gia
đình. Mỗi gia đình hoà thuận thì cả cộng đồng xã hội tồn tại và vận động một
cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động, biến đổi của xã hội trước hết
vì lợi ích của mỗi công dân và thành viên của xã hội nhưng lợi ích của mỗi
công dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn
giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
b. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đình
Theo quan điểm về duy vât lịch sử đã chỉ ra rằng: Gia đình là những
hình thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất của trình độ phát triển kinh
tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại các phương thức sản xuất: cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, địa chủ phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và xã
hội chủ nghĩa đã lần lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về
hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình.
Từ gia đình tập thể quần hôn với hình thức huyết thống → gia đình
đối ngẫu cặp đôi bước sang hình thức gia đình cá thể một vợ một chồng. Từ
chỗ gia đình một vợ một chồng bất bình đẳng đối với người phụ nữ, người
vợ sang gia đình một vợ một chồng bình đẳng giữa nam và nữ, vợ và chồng.
Tất cả những bước phát triển ấy của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết
6
vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi
thời đại.
c. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội là cầu nối giữa
cá nhân và xã hội
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội gia đình được coi là thiết chế
cơ sở, đầu tiên và nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế độ tuân theo
những quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi
còn nhiều cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống mỗi nền văn hoá mỗi
vùng và địa phương khác nhau, và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên
và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Thông qua các hoạt động, tổ chức đời sống gia đình mỗi cá nhân, mỗi
gia đình tiếp nhận chịu sự tác động và phản ứng lại đối với những tác động
của xã hội. Thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách... của xã hội. Sự
đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội, Nhà nước
với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ tạo ra kết
quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội mỗi thời đại.
Cá nhân con người (thành viên của xã hội) chịu sự ảnh hưởng rất sâu
sắc của gia đình từ tư tưởng, đạo đức, lối sống và phong cách làm việc bởi vì
cha ông ta đã có câu: "Nòi nào giống ấy, giỏ nhà ai qua nhà nấy".
d. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong
đời sống cá nhân của mỗi thành viên mỗi công dân của xã hội
Từ thuở lọt lòng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay mỗi thành viên được
nuôi dưỡng chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động, cống hiến
và hưởng thụ đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình
và với gia đình.
Sự yên ổn hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng
cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt
động lao động của xã hội.
7
Rõ ràng là muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình, xây
dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các
mục tiêu phấn đấu của xã hội vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
II. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội. Gia đình đảm nhận
chức năng tái sản xuất ra con người, tái tạo bảo dưỡng sức lao động cho xã
hội. Trong sự phát triển của lịch sử, các chức năng của gia đình đã có nhiều
biến động một số chức năng của gia đình truyền thống đã bị mai một hay bị
thay thế bằng các chức năng khác phù hợp hơn khi xã hội chuyển từ xã hội
nông nghiệp chuyển sang xã hội công nghiệp. Nhưng chức năng tái sản xuất
ra con người vẫn luôn luôn và bao giờ vẫn là chức năng quan trọng nhất của
gia đình. Bởi nó là chức năng cố hữu đặc thù không một thiết chế xã hội nào
có thể thay thế được. Nó thực hiện việc duy trì nòi giống, chuyển giao văn
hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác và do đó nó là một trong hai nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại. Anghen đã từng viết: "Theo
quan điểm duy vật nhân tố quyết định trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp của
con người. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt ra thức ăn, quần áo, nhà
ở, và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là sản
xuất ra chính bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã
hội trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và một nước
nhất định đang sống là do 2 loại sản xuất đó quyết định: Một mặt do trình độ
phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình"1.
Ngày nay ở các nước phương Tây xuất hiện một số kiểu gia đình kỳ
quặc như: Gia đình độc thân, gia đình không sinh đẻ, gia đình đồng tính luyến
ái (Pháp luật cho phép)... Đó là hiện tượng không bình thường của gia đình.
Bởi lẽ nếu gia đình không sinh đẻ, không nuôi dạy con cái cũng có nghĩa là 1 M.E Tuyển tập T6. NXB Sự thật. H.1984, tr.26
8
không có sự duy trì nòi giống, không có sự chuyển giao văn hoá và như vậy
xã hội sẽ đi vào ngõ cụt không có sự phát triển. Gia đình không chỉ tái sản
xuất ra con người về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm,
tâm hồn, văn hoá tức là quá trình xã hội hoá con người. Quá trình biến đứa trẻ
từ một sinh vật người thành con người xã hội.
- Ngày nay trước sự tác động của khoa học - công nghệ hiện đại con
người không những làm chủ được quá trình sinh đẻ mà con người đẻ theo ý
muốn. Vì vậy mà chức năng sinh đẻ tái sản xuất ra con người của gia đình
ngày nay đã được xã hội hoá và kế hoạch hoá. Như vậy mới bảo đảm tái sản
xuất ra con người hợp lí vừa đảm bảo chất lượng chăm sóc vừa đảm bảo hạnh
phúc cho cha mẹ. Việc kế hoạch hoá trong sinh đẻ vừa có lợi cho gia đình, cá
nhân và xã hội.
Trong thực tế xã hội hiện nay một số gia đình vẫn còn tồn tại tư tưởng
bảo thủ, lạc hậu; đẻ nhiều để có con đàn cháu đống, đẻ nhiều con để trông cậy
khi tuổi già, đẻ con trai để nối dõi tông đường, đẻ con gái để có nếp có tẻ, có
người chấy rận chăm sóc mẹ... Những tư tưởng lạc hậu này cần phải đấu tranh
để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội, để góp phần làm cho xã hội phát triển hợp
lí giữa sự phát triển kinh tế - văn hoá và sự gia tăng dân số. Muốn thực hiện
tốt điều này cần trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức về kế hoạch hoá gia
đình, sức khoẻ sinh sản...
2. Chức năng nuôi dưỡng giáo dục con trẻ
Nuôi dưỡng giáo dục con trẻ là trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi người
làm cha, làm mẹ như Luật hôn nhân Gia đình đã ghi: "Cha mẹ có trách nhiệm,
nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành công dân có ích cho xã hội"1. Trẻ em sinh ra
phải được sinh trưởng và phát triển một cách bình thường và các quyền được
sống, được học tập, vui chơi, được chăm sóc và giáo dục, được tôn trọng về
nhân cách. Cha mẹ, người đỡ đầu có trách nhiệm tạo lập môi trường sống,
môi trường xã hội an toàn đối với cuộc sống và phát triển thể chất, tinh thần
cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện về tất cả mọi mặt.
9
Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên đối với trẻ em và là môi
trường giáo dục suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con
người. Từ khi lọt lòng trẻ em đã được thừa hưởng nền văn hoá gia đình qua
sự quan tâm chăm sóc của cha me, ông bà, cô dì, chú bác... Trẻ em được giáo
dục bằng những tình cảm ruột thịt của những người thân trong gia đình. Đó là
sự yêu thương của người mẹ, sự gia uy chỉ bảo của người cha, sự yêu quí của
ông bà nội ngoại, sự ganh đua đoàn kết của anh em trong bầu không khí hoà
thuận, êm ấm tất cả những gì trẻ nghe thấy, nhìn thấy, trẻ cảm nhận được đều
ghi sâu trong tâm trí trẻ thơ và trẻ có thể bắt chước những gì mà ông bà, cha
mẹ, anh chị đã thể hiện,..
Khi lớn lên quan hệ xã hội của trẻ được mở rộng nhưng tình cảm của
gia đình vẫn là động lực thôi thúc con người tự hoàn thiện nhân cách của
mình. Nếu gia đình có bầu không khí tâm lí không hoàn thuận sẽ có ảnh
hưởng không tốt tới trẻ thơ, sẽ là nguyên nhân dẫn tới sự bất ổn trong tâm hồn
trẻ thơ và là mầm mống cho những hành vi sai lệch ở trẻ em. Trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của con người vai trò của gia đình ở mỗi
giai đoạn, lứa tuổi là khác nhau:
+ Giai đoạn ấu thơ: Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên của con
người, gia đình là cầu nối giữa đứa trẻ với môi trường xung quanh, giúp trẻ
làm quen với thế giới đồ vật và hình thành những thói quen ban đầu cần thiết
của con người.
+ Giai đoạn tuổi mẫu giáo nhi đồng: Gia đình có vai trò chăm sóc giáo
dục trẻ tiếp tục hình thành và củng cố những thói quen tốt cho trẻ. Tổ chức
hướng dẫn các hoạt động cho trẻ giúp trẻ biết nhận thức cái đúng cái sai, cái
được phép và cái không được phép.
+ Giai đoạn thiếu niên và thanh niên mới lớn: Giai đoạn này gia đình
có nhiệm vụ giúp cho trẻ có khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc
sống hoạt động học tập và sinh hoạt, giúp trẻ hình thành những giá trị, những
10
chuẩn mực, thiết lập những mối quan hệ với những người xung quanh, giúp
trẻ hình thành, phát triển năng lực tự chủ, tự ý thức về bản thân.
+ Giai đoạn tuổi trưởng thành: Gia đình giúp cá nhân chuẩn bị bước
vào cuộc sống tự lập và phải trả lời được các câu hỏi làm nghề gì để kiếm
sống; sống theo lối sống nào? Yêu ai? Yêu như thế nào?...
+ Giai đoạn chuẩn bị kết hôn: Gia đình giúp cá nhân hiểu biết về ý
thức trách nhiệm của người làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ...
+ Giai đoạn tuổi già: Gia đình có chức năng chăm sóc, kính trọng và
chuẩn bị đón nhận tuổi già.
Tóm lại: Chúng ta có thể khẳng định rằng: Gia đình luôn luôn đóng vai
trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người nói
chung và trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói riêng. Chúng ta cần tránh tư
tưởng ỷ lại, dồn hết trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ cho giáo dục nhà trường,
để giáo dục gia đình có hiệu quả cha mẹ cần phải thường xuyên quan tâm đến
con trẻ và phối hợp với nhà trường, với các tổ chức xã hội, đoàn thể để giáo
dục con trẻ.
3. Chức năng kinh tế
Trong bất cứ thời đại nào kinh tế gia đình vẫn giữ vai trò quyết định
cho sự phát triển bền vững của gia đình.
Kinh tế gia đình phát triển, giàu có đảm bảo cuộc sống và sinh hoạt của
mỗi cá nhân sẽ giúp cho gia đình có điều kiện thực hiện tốt các chức năng
khác đồng thời cũng là điều kiện thực hiện tốt hạnh phúc gia đình.
Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, gia đình là đơn vị sản xuất, một đơn
vị kinh tế độc lập mọi người trong gia đình cùng chung lưng đấu cật cùng làm
cùng hưởng...
Trong xã hội công nghiệp hiện đại kinh tế gia đình được chuyển hoá
dưới dạng hoàn toàn khác. Trước kia gia đình là một đơn vị sản xuất nên chức
năng kinh tế của gia đình được thể hiện qua sự điều hành, tổ chức sản xuất,
kinh doanh ngay trong gia đình. Trong xã hội công nghiệp hiện đại mỗi thành
11
viên trong gia đình lại tham gia hoạt động ở một cơ sở sản xuất, kinh doanh
khác nhau. Họ chỉ còn lệ thuộc với nhau bằng sự góp tiền để tạo ra ngân sách
chi tiêu trong gia đình, nhằm thoả mãn những nhu cầu chung của mọi thành
viên trong gia đình và nhu cầu sống của mỗi cá nhân và như vậy là chức năng
kinh tế của gia đình chuyển từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng và điều
phối các chức năng còn lại của gia đình.
Chính do có sự chuyển đổi như vậy nên mọi người trong gia đình có
cảm tưởng bị mất đi chức năng kinh tế. Sự nhận thức thiếu đúng đắn về vấn
đề này sẽ làm cho các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo dẫn tới tình
trạng chồng một vốn, vợ một vốn, mọi người giấu diếm nhau về các khoản
thu nhập → Do đó chỉ cần có sự bất hoà nho nhỏ về tình cảm là dễ dàng dẫn
đến sự đổ vỡ của hạnh phúc gia đình. Điều này lí giải cho tại sao ở các nước
phát triển hiện nay tỉ lệ ly hôn ngày càng tăng.
Ở nước ta đang trên đường đổi mới từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu
chuyển sang nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh phát triển hiện tượng ly
hôn ngày càng tăng ở các đô thị vấn đề đặt ra cho mỗi gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới là: Đi đôi với việc phát triển kinh tế gia đình thì vấn đề giữ
gìn mối quan hệ đầm ấm đảm bảo hạnh phúc gia đình là vấn đề vô cùng quan
trọng không thể thiếu trong từng ngày, từng giờ của những cặp vợ chồng và
con trẻ.
4. Chức năng tổ chức đời sống vật chất và văn hoá gia đình
Gia đình như là tế bào thu nhỏ của xã hội, nó có chức năng tổ chức đời
sống vật chất và văn hoá tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình. Gia
đình tổ chức đời sống hợp lí, khoa học cho mỗi thành viên: Thoả mãn nhu cầu
ở chừng mực cần thiết như nhu cầu về ăn, uống, ở, mặc, vui chơi giải trí và
học tập, tu dưỡng.
Gia đình không chỉ thoả mãn nhu cầu vật chất cho mỗi thành viên mà
còn phải thoả mãn về nhu cầu tinh thần. Trong đời sống gia đình mối quan hê
giữa các thành viên trong tình ruột thịt, thương yêu hết mức trên kính, dưới
12
nhường nhằm tạo ra bầu không khí tâm lý gia đình đầm ấm hết sức tránh
những xung đột cãi vã đáng lí không thể xảy ra nếu không may xảy ra thì cần
phải được giải quyết kịp thời bằng con đường tình cảm, tế nhị. Mục tiêu chính
của việc tổ chức đời sống gia đình là nhằm mang lại hạnh phúc cho mỗi thành
viên trong gia đình. Tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong gia đình được bảo
đảm về sức khoẻ, có chăm sóc đầy đủ vui vẻ → tạo điều kiện cho mọi thành
viên trong gia đình gắn bó, thông cảm, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau cùng
chung sức để xây dựng gia đình hạnh phúc. Nếu người chủ gia đình biết cách
tổ chức tốt đời sống gia đình thì cuộc sống dù có nghèo đói một chút mọi
thành viên có thể thiếu thốn về vật chất nhưng họ lại được bù đắp bằng tình
cảm yêu thương đùm bọc lẫn nhau còn hơn những gia đình giàu sang phú quý
nhưng lại có bầu không khí tâm lý không hoà thuận, không tôn trọng lẫn
nhau, luôn luôn mâu thuẫn → biến gia đình thành địa ngục trần gian.
III. CÁC MỐI QUAN HỆ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG GIA ĐÌNH
1. Quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng trong gia đình là mối quan hệ: Bình đẳng, hiểu
nhau, yêu thương tôn trọng lẫn nhau, chung thuỷ với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
a. Trách nhiệm của người chồng
Người chồng là trụ cột trong gia đình. Có trách nhiệm lo toàn định
hướng cuộc sống cho cả gia đình đồng thời cũng là người phân sử mọi việc
gia đình. Muốn thực hiện được những điều đó người chồng phải có những
phẩm chất sau:
- Biết cách nói năng, hoạt bát, biết động viên vợ, con trong lúc khó khăn.
- Biết quan tâm chiều chuộng vợ.
- Biết cách đối xử ngoại giao lịch thiệp, ôn hoà và rộng lượng.
- Sống có bản lĩnh với những ước mơ cao đẹp, chung thuỷ với vợ, biết
cách chủ động thoả mãn nhu cầu tình dục của vợ để tạo ra sự hoà hợp.
13
- Tôn trọng vợ trong những hoạt động của gia đình đối xử với vợ hết
sức: bình đẳng trong giao tiếp, công việc trong chăm sóc và giáo dục con cái.
- Biết cùng vợ san sẻ công việc gia đình (xay lúa khỏi ẳm em).
- Có ý thức, trách nhiệm lo toan cuộc sống gia đình, có trí tuệ và có
phương pháp giáo dục dạy dỗ con cái.
b. Vai trò trách nhiệm của người vợ đối với chồng
Trách nhiệm nặng nề nhất của người vợ là nội trợ quan tâm chăm sóc
sức khoẻ cho chồng, con là người lo toan quán xuyến công việc nội trợ trong
gia đình.
Người vợ còn là người giúp cho chồng thành đạt "Phụ nữ trợ giúp một
cách đắc lực cho sự thành công, người nào yêu họ thì được họ truyền cho sức
mạnh, nghị lực, người nào được họ yêu sẽ có một hào quang uy thế bao bọc".
Để làm được điều trên người vợ phải hiểu được ước mơ, hoài bão của
chồng, để cùng chồng cảm thông chia sẻ, cùng lo lắng cho sự nghiệp của chồng.
Người chồng không gì vui sướng bằng có một người vợ thực sự hiểu
mình thực sự thông cảm và chia sẻ với mình những lúc khó khăn. Trong
những trường hợp người vợ có trình độ văn hoá, nghề nghiệp cao hơn chồng,
có sự đóng góp nhiều hơn chồng về kinh tế thì cần phải khiêm tốn, không nên
tự cao, tự đại tỏ ý coi thường chồng vì đó là nguyên nhân xung đột gia đình
dẫn đến li hôn. Để thực hiện tốt những điều trên đây người vợ cần:
- Giữ gìn nhan sắc cho đẹp để luôn luôn củng cố tình yêu của chồng.
- Tế nhị ngọt ngào trong ứng xử với chồng.
- Luôn thuỷ chung với chồng.
- Khéo léo, tế nhị trong ứng xử với khách.
- Luôn khuyến khích động viên chồng trong sự nghiệp.
- Biết cách ghen, đánh ghen một cách tế nhị vừa bảo vệ được hạnh
phúc gia đình, vừa bảo vệ được chồng.
14
2. Quan hệ cha mẹ và con cái
a. Trách nhiệm của cha mẹ với con cái
Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái là trách nhiệm của công dân
đối với cộng đồng, đối với xã hội, là trách nhiệm của người vợ đối với chồng
đồng thời cũng là trách nhiệm của cả hai vợ chồng trong việc chăm lo hạnh
phúc gia đình. Chăm sóc giáo dục con trẻ không chỉ là trách nhiệm quyền lợi
của các bậc cha mẹ mà còn là bổn phận của cha mẹ với con cái.
Cha mẹ có bổn phận nuôi con khôn lớn và bổn phận dạy con nên người
trở thành công dân có ích cho xã hội, đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai còn khó
khăn vất vả khôn lường.
Dạy con nên người bao gồm các nội dung sau:
- Dạy cho trẻ những tri thức hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người.
- Dạy cho trẻ biết cách làm người: Hiếu thảo, sống có tình nghĩa, cần
cù, chịu khó, kiên trì, năng đông, tự chủ sống có bản lĩnh, có đức tính khiêm
tốn, có lòng tự trọng, làm tốt trách nhiệm của con cái với cha mẹ, người thân
và đối với xã hội...
Dạy trẻ phải được tiến hành từ khi tuổi còn thơ như cha ông ta đã dạy:
"Dạy con từ thuở còn thơ,..". Bởi lẽ những thói quen tốt của con người phải
thường hình thành từ khi còn nhỏ, "tre già khó uốn" nếu có uốn được cũng rất
nhiều công sức.
Dạy trẻ cần phải hiểu con trẻ về mọi mặt không nên dùng vũ lực để uy
hiếp trẻ, cần phải dùng tình thương yêu, quan tâm chăm sóc, sự gương mẫu
của cha mẹ và những lời nói ngọt ngào của cha mẹ sẽ giúp cho trẻ hiểu được
những điều hay lẽ phải những việc nên làm và những điều không được phép
làm. Tuy nhiên cũng có những lúc lời nói ngọt ngào của cha mẹ không có tác
dụng thì cha mẹ phải dùng những biện pháp cứng rắn và nghiêm khắc.
Khi trẻ ở tuổi thiếu niên, tuổi dậy thì thì cha mẹ cần quan tâm đến cuộc
sống nội tâm của trẻ, cha mẹ phải luôn đóng vai người bạn lớn của con trẻ
mới dễ dàng dắt dẫn con, khuyên nhủ con có kết quả tốt hơn. Giai đoạn này
15
trẻ em không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn vì vậy mà suy
nghĩ và hành động của trẻ chưa được chín chắn còn thiếu suy nghĩ và bồng
bột, đôi khi tỏ ra ngang bướng lạ thường. Các em còn có sự lẫn lộn giữa dũng
cảm và liều lĩnh, kiên trì với bảo thủ, độc lập với cô lập... Cho nên nhiều
người còn gọi trẻ thiếu niên là "trẻ khó dạy", "trẻ nổi loạn".... Vì vậy mà đòi
hỏi các bậc làm cha mẹ phải thường xuyên quan tâm gần gũi đối với các em,
thông cảm chia sẻ với các em những vướng mắc khó khăn của các em và uốn
nắn kịp thời những sai lệch ở các em. Dạy con không chỉ đơn giản là những
điều giáo huấn hàng ngày mà cha mẹ cần quan tâm đến việc lo cho con học
hành đến nơi đến chốn. Người xưa có câu: "Cho con học chữ, học nghề là
thông minh nhất". Cha mẹ cần chú ý con mình học dốt dễ sinh chán học
nhưng có thể có khiếu khi học một nghề nào đó. Vì vậy mà không nên ép
buộc con trẻ theo ý muốn chủ quan của cha mẹ. Tuỳ theo năng lực sở trường
của con mà hướng cho con học chữ hay học một nghề nào đó phù hợp với con
trẻ. Nhưng dù học chữ hay học nghề thì cha mẹ cũng cần phải hiểu rằng trong
một xã hội phát triển trình độ văn hoá tối thiểu của con người, lao động phải
đạt được là hết THPT. Do đó mà dù làm gì đi chăng nữa thì cha mẹ cũng cần
phải tạo điều kiện, giúp đỡ con mình có được trình độ học vấn ở mức trung
bình đó.
Việc học tập của con trẻ đòi hỏi cha mẹ phải thường xuyên quan tâm,
theo dõi, đôn đốc nhắc nhở, cha mẹ phải thường xuyên liên hệ với thầy cô để
nắm được tình hình học tập của con và có những biện pháp phối hợp với nhà
trường để giáo dục con một cách kịp thời. Đồng thời ở gia đình cha mẹ phải
quan tâm đến thời gian biểu của con, đến phương pháp học tập của con, đến
các nhiệm vụ mà con mình phải hoàn thành trước khi đến lớp để giúp con
mình học tập tốt (Nêu một vài ví dụ cụ thể để chứng minh).
b. Trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ
Con cái cần phải thấu hiểu công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha
mẹ phải đền ơn và trả nghĩa cha mẹ:
16
- Phải lễ phép với cha mẹ, vâng lời cha mẹ. Cha mẹ là người sinh thành
và nuôi dạy con nên người vì vậy con cái không được vô lễ với cha mẹ, cha
mẹ gọi phải dạ, bảo phải vâng. Nói chuyện với cha mẹ phải xưng con, nói lời
phải nhẹ nhàng lễ phép, không được xúc phạm cha mẹ, to tiếng với cha mẹ và
không được quyền từ bỏ cha mẹ. Cha mẹ là người sống lâu năm có nhiều kinh
nghiệm, từng trải với đời nên những lời khuyên bảo của cha mẹ đều mang
tính khôn ngoan từng trải vì vậy mà con trẻ cần phải học tập và bắt chước
nghe theo những lời khuyên vàng ngọc đó.
Quan tâm chăm sóc cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ khi cha mẹ ốm đau,
con cái phải tận tâm chăm sóc sức khoẻ cho cha mẹ, chăm lo đời sống vật
chất cũng như cuộc sống tinh thần cho bố mẹ. Con trẻ phải hiểu rằng tỏ lòng
hiếu thảo đối với cha mẹ cốt ở sự thành tâm, thành ý chứ không phải ở hình
thức bề ngoài.
Phải luôn luôn tôn trọng cha mẹ, hỏi ý kiến, xin phép cha mẹ mỗi khi
làm những công to việc lớn trong gia đình đó cũng là tạo điều kiện cho cha
mẹ một tâm lý thoải mái bằng lòng với sự trưởng thành của con trẻ.
Tóm lại: Gia đình là một cộng đồng người, một tế bào xã hội mà các
thành viên của nó liên kết với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống (giữa ông bà, cha mẹ và con cháu) bằng sinh hoạt chung và có trách
nhiệm với nhau, theo đạo lý và pháp luật. Gia đình là một hiện tượng xã hội
lịch sử được hình thành rất sớm và tồn tại bền vững cùng với sự tồn tại của xã
hội loài người. Gia đình có những chức năng xã hội của nó đó là chức năng
duy trì nòi giống chức năng kinh tế, chức năng chăm sóc giáo dục trẻ em,
chức năng văn hoá và các chức năng xã hội khác.
17
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Theo Anh (chị) trong giai đoạn hiện nay số lượng trẻ em hư gia tăng
có đúng không? Trẻ em hư do nguyên nhân nào là chính?
2. Ly hôn hiện đang gia tăng ở thị xã, thị trấn, thành phố nơi trung tâm
văn hoá xã hội của địa phương tại sao vậy? Nguyên nhân nào là chủ yếu nhất?
3. Trong thời đại ngày nay với nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa các thành viên
gia đình trong một không gian sinh tồn đang có xu hướng tăng". Đúng hay
sai? Vì sao?
18
Chương 2
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
Khi nghiên cứu chương này yêu cầu sinh viên phải thực hiện các yêu
cầu sau đây:
- Hiểu và nắm vững khái niệm giáo dục gia đình, các đặc điểm, nội
dung của giáo dục Gia đình. Nắm vững các nguyên tắc và phương pháp tổ
chức giáo dục gia đình.
- Trên cơ sở và nắm vững những nội dung tri thức nêu trên sinh viên
phải biết vận dụng để nghiên cứu, xem xét thực tế giáo dục gia đình Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay nhằm tìm cách phát huy ảnh hưởng của giáo dục gia
đình trong công tác chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ.
- Để học tập, nghiên cứu có chất lượng sinh viên cần có thái độ nghiêm
túc khi nghiên cứu chương này đồng thời phải thực hiện đầy đủ những yêu
cầu chỉ dẫn của giảng viên.
NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Gia đình là tế bào của xã hội gia đình tốt sẽ tạo nên một xã hội tốt đẹp
điều này đã được Lịch sử phát triển của loài người thừa nhận. Từ xa xưa các
thế hệ đi trước luôn luôn coi trọng vai trò của giáo dục gia đình đối với sự
phát triển của xã hội. Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà giáo dục nổi tiếng của
Trung Quốc đã nói: "Tu thân tề gia, trị quốc bình thiên hạ".
Ngày nay trong xu thế phát triển của thời đại thì giáo dục gia đình lại
càng có vai trò quan trọng Hồ Chí Minh đã dạy "Giáo dục Nhà trường dù tốt
đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn".
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt
đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Sức mạnh to lớn
19
của giáo dục gia đình là giáo dục bằng tình cảm yêu thương chăm sóc, bằng
sự gương mẫu của những người làm cha mẹ, bằng sự kết hợp giữa quyền quy
của người cha và tình thương yêu chăm sóc của người mẹ. Thông qua hoạt
động sống, sinh hoạt lao động và học tập trong gia đình.v.v... Nhằm giúp cho
mọi thành viên hình thành và phát triển nhân cách con người theo những tiêu
chí mà gia đình mong đợi và phù hợp với những yêu cầu của xã hội.
I. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
1. Định nghĩa
Như chúng ta đã biết giáo dục là một quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch của nhà giáo dục nhằm giúp cho thế hệ trẻ tự tổ chức, tự điều
khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mình theo yêu cầu,
mục đích và nhiệm vụ giáo dục đã đề ra do đó ta có định nghĩa:
"Giáo dục gia đình là một quá trình tác động có mục đích có kế hoạch
của cha mẹ và những người thân trong gia đình tới thế hệ trẻ nhằm giúp các
em biết tự tổ chức, tự điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của mình để hình thành và phát triển các năng lực người và những phẩm chất
tốt đẹp của con người theo yêu cầu của xã hội".
2. Các khâu trong giáo dục gia đình
* Hình thành ý thức cá nhân
Hình thành ý thức cá nhân là làm cho thế hệ trẻ trong gia đình hiểu
được đạo lý của gia đình là gì? Cùng hàng loạt các chuẩn mực xã hội giúp họ
nhận thức được cái tốt, cái xấu, nhận thức rõ về vai trò trách nhiệm, vị thế của
mỗi thành viên trong gia đình. Vai trò bổn phận của người làm cha, làm mẹ,
làm con cái trong gia đình. Cùng với sự hiểu biết về gia lễ, gia phong, gia
pháp.v.v... Hiểu những quy tắc ứng xử trong gia đình, hiểu được đạo lý làm
con phải lấy chữ hiếu làm đầu, vợ chồng phải lấy chữ chung thuỷ làm cốt lõi.
Chỉ có nhận thức đầy đủ, sâu sắc thì con người mới tránh được những sai lầm,
thiếu sót trong cuộc sống gia đình, trong quan hệ ứng xử với những người
xung quanh và trong mọi hành động.
20
* Hình thành tình cảm niềm tin
Là khâu giúp cho mọi thành viên trong gia đình có được thái độ rung
động trước những vấn đề của cuộc sống gia đình và các vấn đề xã hội. Hình
thành cho thế hệ trẻ tình yêu thương đối với ông bà, cha mẹ và những người
thân trong gia đình. Tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương, tình cảm thầy trò,
tình yêu thương đồng loại đối với cộng đồng, giai cấp, dân tộc. Chính những
tình cảm đó sẽ là động lực thôi thúc con người đi đến chân lý. Trong giáo dục
gia đình tình yêu thương của cha mẹ đối với con trẻ và sự kính yêu của con
trẻ đối với cha mẹ sẽ là sợi dây liên kết tâm hồn của các thành viên trong gia
đình đối với nhau thành một tổ ấm.
Nên nhớ rằng tình yêu thương quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với
con trẻ là liều thuốc diệu kỳ, là động lực để cha mẹ dạy con nên người và là
một thứ keo gắn kết giữa cha mẹ và con trẻ. Một số gia đình hiện nay không
tạo ra được điều đó nên đã để xảy ra nhiều hiện tượng phi đạo đức: Con cái
không nghe lời cha mẹ cãi lại cha mẹ, hành hạ cha mẹ...v.v.
* Rèn luyện hành vi và thói quen
Hành vi và thói quen là thước đo của ý thức, tình cảm và nhân cchs của
con người. Con người nói mà không làm là con người sáo rỗng tình thương
yêu đối với cha mẹ phải được thể hiện bằng sự kính trọng lễ phép, sự quan
tâm chăm sóc cha mẹ khi khoẻ cũng như khi ốm đau già cả.
Thước đa của sự giáo dục gia đình là những hành vi, cử chỉ ứng xử thật
khớp giữa lời nói và việc làm của các thành viên trong gia đình. Trong thực tế
cuộc sống vẫn tồn tại hiện tượng nói một đằng làm một nẻo vì vậy mà mục
đích chính của giáo dục gia đình là rèn luyện các hành vi, hành động mang
tính chất gia lễ, gia phong, gia giáo cho các thành viên trong gia đình.
Sự giáo dục này phải được bắt đầu ngay tư khi đứa trẻ mới sinh ra bằng
việc tập luyện các kỹ năng về hành vi văn minh, văn hoá trong ăn uống, đi,
ngồi, nằm đứng. Các hành vi lễ độ với ông bà, cha mẹ, thầy cô và những
người lớn tuổi sao cho phù hợp với truyền thống và phong tục tập quán của
21
người Việt Nam trong thời hiện đại. (Từ cách vái chào, cách bắt tay, ôm hôn
phù hợp với vị thế...).
Quá trình rèn luyện đó phải đi đến hình thành thói quen. Thói quen là
hành vi đã trở thành nhu cầu tình cảm nên nó có tính bền vững nó khó hình
thành nên cũng rất kho vứt bỏ. Thói quen tốt là vốn quý giá do con người hoạt
động, tích luỹ mới có. Nó sẽ được dùng trong suốt cuộc đời của mỗi con
người. Vì vậy mà các bậc làm cha mẹ cần quan tâm tới việc hình thành thói
quen tốt cho con cái.
3. Đặc điểm của giáo dục gia đình
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục
suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người, cha mẹ
vừa là người sinh thành đồng thời là thày cô giáo đầu tiên đối với trẻ em.
Thời thơ ấu là thời kỳ rất quan trọng của sự phát triển tâm hồn con người.
Cha ông ta thường nói "Dạy con từ thủa còn thơ" thực tiễn đã chứng minh
vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục gia đình trong giai đoạn đầu tiên của
sự hình thành và phát triển nhân cách con người đặc biệt là giai đoạn từ lúc
sơ sinh đến lúc 5 tuổi.
Qua nghiên cứu các chuyên gia giáo dục đã khẳng định rằng: Một số
những thói quen tốt của con người nếu không được hình thành ở giai đoạn
trước 5 tuổi thì về sau rất khó hình thành và nếu có hình thành được thì đòi
hỏi bản thân đối tượng giáo dục phải có nghị lực, có sự cố gắng hết sức mình
mới hy vọng thành công.
+ Thế mạnh của giáo dục gia đình là giáo dục bằng tình cảm ruột thịt
giữa cha mẹ và con đẻ. Tình yêu thương sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ
đối với con trẻ tạo nên một sức mạnh cảm hoá vô cùng to lớn không thể gì so
sánh nổi. Bởi vì điều quan trọng nhất trong tâm hồn trẻ em đang lớn lên là:
Tình yêu thương trong một gia đình mà cha mẹ và con cái yêu thương nhau
đầm ấm mọi lời nói, việc làm của cha mẹ đều ảnh hưởng sâu sắc đến con trẻ.
22
Con trẻ thường dõi theo cha mẹ từng bước đi, đón ngay từ ánh mắt nụ cười
của cha mẹ, uống ngay từng lời khuyên bảo ân cần của cha mẹ...v.v.
Đặc điểm này khiến cho giáo dục của gia đình tốt hay xấu không phải
là do cha mẹ có nhiều hay ít thời gian tiếp xúc dạy dỗ con trẻ mình chủ yếu là
do cha mẹ quan tâm đến việc giáo dục con trẻ nhiều hay ít. Điều này đã bác
bỏ lối biện bạch của một số bậc cha mẹ nói rằng: "Con tôi chưa ngoan chưa
tốt vì tôi bận quá nhiều việc ít thời gian ở nhà để tiếp xúc với con".
Nếu thực sự quan tâm giáo dục con trẻ thì dù có thời gian ít vào dạy
con tốt. Trái lại ít quan tâm giáo dục con em, không biết cách giáo dục con
em thế nào cho đúng thì có suốt ngày bên cạnh con cũng không dạy con
nên người.
+ Những tác động giáo dục của gia đình đến trẻ em diễn ra mang tính
phức hợp từ nhiều phía: Đó là ảnh hưởng của truyền thống gia đình, bầu
không khí tâm lý của gia đình, nếp sống của gia đình, hoàn cảnh gia đình, ảnh
hưởng từ phía người cha, người mẹ.v.v... Những tác động trên đan xen vào
nhau có khi hỗ trợ cho nhau, có khi lại cản trở tác động của nhau hoặc làm vô
hiệu quá trình giáo dục của nhau. Vì vậy mà cha mẹ và những người lớn tuổi
trong gia đình cần phải có sự thống nhất với nhau trong quá trình giáo dục trẻ
em. (Nêu một vài ví dụ chứng minh).
+ Quá trình giáo dục trẻ em trong gia đình diễn ra trong nhiều giai đoạn
khác nhau ứng với mỗi thời kỳ phát triển tâm lý của trẻ tại các thời điểm đó
nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình phải có sự khác nhau.
Quá trình giáo dục con trẻ mang tính lâu dài, đòi hỏi cha mẹ và những
người lớn tuổi trong gia đình cần phải kiên trì chờ đợi sự tiến bộ ở trẻ em, tin
tưởng vào sự trưởng thành khôn lớn của trẻ em. Đồng thời cũng đòi hỏi các
bậc làm cha mẹ phải thường xuyên quan tâm củng cố rèn luyện những hành vi
thói quen mới được hình thành ở trẻ em để nó trở thành những phẩm chất tốt
của người công dân sau này.
23
+ Quá trình giáo dục trẻ em trong gia đình chịu sự chế ước của giáo dục
xã hội, chịu sự định hướng của giáo dục nhà trường và phụ thuộc khá lớn vào
khả năng tự giáo dục của bản thân mỗi người. Vì vậy đi đôi với việc giáo dục
con trẻ cha mẹ phải thường xuyên quan tâm tới chủ trương chính sách giáo
dục của Đảng và nhà nước quan tâm tới việc phối hợp với nhà trường với các
tổ chức xã hội, đoàn thể để giáo dục trẻ cho phù hợp với những định hướng
giá trị của xã hội (Phân tích một vài ví dụ để minh hoạ).
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
1. Giáo dục đạo đức
Cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình cần phải giáo dục trẻ
em trở thành những người có ích cho xã hội. Đó là giáo dục cho trẻ em có một
nhân cách toàn vẹn phát triển cả Đức lẫn Tài trong đó phải lấy Đức làm gốc.
Theo quan điểm của người Trung Quốc thì con người có Đức phải có các đức
tính sau: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
+ Nhân: là lòng thương người hay nói một cách khác là con người phải
có lòng nhân ái phải biết sống cho mọi người không chỉ cho riêng mình,
người nhân từ đi đến đâu cũng được quý trọng và ngưỡng mộ.
+ Lễ: là những phép tắc bắt buộc con người phải tuân theo để sống đúng
với đạo lý làm người, phải tôn trọng pháp luật biết lễ phép với người trên, ôn
hoà nhường nhịn kẻ dưới, biết thờ cha kính mẹ hoà thuận với anh em với bà
thân thuộc. Đến trường phải biết kinh trọng thầy cô, yêu quý bạn bè, ra đường
phải biết kính trọng và giúp đỡ người già cả, người tàn tật. Người có lễ là người
có nếp sống văn minh, lịch sự đi đến đâu cũng được nhiều người yêu quý.
+ Nghĩa: là làm theo lẽ phải ứng xử theo đường lối đúng đắn biết sống
có ơn nghĩa, phải ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, cố gắng đền đáp công ơn sinh
thành, dưỡng dục của cha mẹ, dù trong muôn vàn khó khăn cũng phải làm
cho cha mẹ vui lòng, đối với thầy cô giáo đã có công dạy dỗ nên người thời
phải trọn đời kính trọng và nhớ ơn sâu sắc đối với người thân phải biết sống
có ân nghĩa.
24
+ Trí: là sự thông minh là phần hiểu biết khôn ngoan chứa trong đầu óc
của con người. Người có trí là người thông minh có học vấn biết phân biệt
phải trái ở đời.
+ Tín: là sự tin cậy sự giữ lời hứa một cách ngay thẳng không hề gian
dối. Làm người phải biết trọng chữ Tín đó là danh dự của mình. Người biết
giữ chữ Tín là người có lòng tự trọng, không để người khác khinh bỉ mình.
Người có chữ tín luôn được mọi người yêu quý. Cha mẹ cần giáo dục cho con
cái biết trọng lời hứa đó là đức tính tốt đẹp mà ai cũng phải rèn luyện trong cả
cuộc đời. Muốn làm tốt được điều này đòi hỏi cha mẹ phải luôn luôn giữ lời
hứa đối với con trẻ.
Ngày nay đứng trước yêu cầu của xã hội về nội dung giáo dục đạo đức
đòi hỏi các bậc làm cha mẹ cần phải giáo dục cho con trẻ những nội dung
sau đây:
+ Có hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em có tình làng nghĩa xóm.
+ Trung với nước có nghĩa với nhân dân.
+ Sống làm việc chí công vô tư tuân theo hiến pháp và pháp luật.
Cụ thể là trong từng gia đình cần phải giáo dục con trẻ:
- Biết yêu thương bố mẹ và người thân trong gia đình.
- Biết kính trọng thầy cô người đã thường xuyên dạy dỗ dìu dắt con.
- Yêu làng xóm quê hương, chế độ xã hội chủ nghĩa, yêu trường lớp.
- Chấp hành tốt mọi nội quy, quy chế của nhà trường, pháp luật của
nhà nước.
- Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, tôn trọng quy tắc sinh sống của gia đình.
- Biết ơn những người có công với đất nước, biết giữ gìn phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của gia đình biết dũng cảm đấu tranh chống
cái xấu và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Biết làm tròn bổn phận của người con trong gia đình và người công
dân trong xã hội.
25
2. Giáo dục trí tuệ
Nhiệm vụ của cha mẹ trong gia đình là phải giúp trẻ hình thành thế giới
quan khoa học phát triển năng lực nhận thức, năng lực hoạt động trí tuệ, phát
triển trí thông minh sáng tạo, năng lực độc lập suy nghĩ và giải quyết vấn đề
trong học tập và trong cuộc sống...v.v. Giúp trẻ biết nhìn nhận về thế giới
xung quanh đang biến đổi.
Để thực hiện tốt nội dung trên: cha mẹ cần phải tổ chức tốt hoạt động
học tập và các hoạt động khác cho con em cụ thể là cha mẹ canà giáo dục
cho con:
- Có động cơ thái độ học tập đúng đắn, có phương pháp học tốt.
- Tạo điều kiện về thời gian về phương tiện, cơ sở vật chất để giúp đỡ
con học tapạ (góc học tập + sách vở, bút mực...).
- Rèn luyện thói quen học tập tự giác, có nề nếp học tập.
- Động viên khuyến khích trẻ tích cực học tập.
Bên cạnh đó cha mẹ cần phải giúp trẻ về nội dung và phương pháp học
tập có phương pháp ghi nhớ bài nhanh, giải bài tập sáng tạo giao thêm bài tập
ngoài những bài thầy cô giáo đã giao ở trường. Quan trọng hơn cả là cha mẹ
phải hình thành cho trẻ thói quen học tập độc lập và thói quen làm việc trí óc
một cách độc lập sáng tạo, giúp trẻ khả năng tự tổ chức hoạt động học tập của
mình trong các hoàn cảnh điều kiện khác nhau ứng với từng giai đoạn lứa
tuổi. Cha mẹ có phương pháp tổ chức và giáo dục trí tuệ cho trẻ theo từng giai
đoạn, lứa tuổi, hoàn cảnh.
- Về giúp con trẻ có phương pháp học tập ở nhà cha mẹ cần chú ý
Các điểm sau đây:
* Chuẩn bị bài tới lớp:
- Ôn bài cũ + học lí thuyết
- Làm bài tập
- Chuẩn bị bài mới theo hướng dẫn của giáo viên.
* Học bài: - Đọc kỹ SGK, vở ghi trên lớp
26
- Suy nghĩ hiểu kỹ nội dung ghi nhớ nội dung cơ bản của bài, chương.
- Học thuộc lòng định nghĩa, định lý... (có thể ghi nhớ bằng cách chép
vào sổ tay..)
- Vận dụng giải bài tập từ dễ đến khó.
3. Giáo dục lao động
Cha mẹ cần giúp con cái nhận thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của lao
động trong cuộc sống hàng ngày của gia đình và của toàn xã hội ⇒ trên cơ sở
đó hình thành nhu cầu lao động cho trẻ. Hay nói cách khác là cha mẹ phải biết
được yêu cầu của mình thành yêu cầu của trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau
như: Trò chuyện, nêu gương, giao việc phù hợp cho trẻ, (khi giao việc cần
chú ý giao cho trẻ thực hiện luân phiên cả ba loại lao động sau đây):
- Lao động phục vụ sinh hoạt: Rửa bát, quét nhà, lau bàn ghế... vệ sinh
thân thể, chăm sóc em bé, giặt quần áo dọn dẹp nhà cửa.
- Lao động học tập: học bài, làm bài, chuẩn bị đồ dùng học tập...
- Lao động sản xuất: trồng cây, chăn nuôi, làm nghề thủ công...
Lưu ý: Khi giao việc cho trẻ em cần tuân theo các nguyên tắc sau đây:
+ Giao việc phải phù hợp với lứa tuổi, trình độ, năng lực, sức khoẻ giới
tính, tính cách và sở trường của trẻ.
+ Công việc giao cho trẻ nên ổn định theo một kế hoạch thống nhất
không nên sai vặt, nên để cho trẻ tự do trong việc lựa chọn, cách thức, thời
gian tiến hành phù hợp.
+ Giao việc cho trẻ phải công bằng hợp lí dựa trên tình cảm và trách
nhiệm với tinh thần anh, chị em hoặc những người lớn tuổi kèm cặp giúp đỡ
để các em hoàn thành nhiệm vụ. (Tránh trường hợp đứa con ngoan chăm chỉ
bị giao nhiều việc đứa con lười lại giao ít...) cần tránh yêu cầu cao với con
đầu lòng, chiều chuộng con út để anh chị làn rốn cho được chơi.
+ Cha mẹ cần hướng dẫn cho con trẻ biết cách làm, hình thành thói
quen lao động có kỹ thuật, có tổ chức cho trẻ. Cha mẹ cần hướng dẫn cho
trẻ biết cách lao động và tự giác lao động (ngay cả khi bố mẹ đi vắng) giao
27
việc nói nhẹ nhàng, rồi làm mẫu hướng dẫn con cái làm theo, khuyên con
làm thử và rút kinh nghiệm rồi tập cho trẻ làm nhiều lần để hình thành thói
quen lao động.
+ Cha mẹ phải là tấm gương sáng về lao động tự giác, có tổ chức, có kế
hoạch đồng thời phải kiên trì chờ đợi sự tiến bộ của trẻ và phải thường xuyên
kiểm tra đôn đốc và giúp trẻ có thể tự kiểm tra tự đánh giá kết quả lao động
của mình.
4. Các mặt giáo dục khác
* Tổ chức cho trẻ vui chơi có văn hoá
Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu ở trẻ em trong gia đình vui
chơi giúp trẻ có tâm lý thoải mái, phát triển về thể lực, mở rộng tầm hiểu biết
về thế giới xung quanh, phát triển năng lực nhận thức và khả năng tư duy
sáng tạo của trẻ... Ngoài ra vui chơi còn giúp trẻ hình thành những tình cảm,
những phẩm chất tốt đẹp của con người như: Tinh thần đoàn kết, ý thức tập
thể, khả năng hợp tác, tính tự giác, tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, tính
chủ động sáng tạo trong vui chơi. Các trò chơi nghệ thuật còn có tác dụng
giáo dục tính thẩm mỹ cho trẻ. Vì vậy mà cha mẹ cần phải làm tốt các việc
sau đây:
- Tạo điều kiện cho trẻ được vui chơi thoải mái: chỗ chơi, đồ chơi.
- Giúp trẻ lựa chọn trò chơi cho phù hợp với lứa tuổi và trình độ.
- Hướng dẫn trẻ cách chơi và chú ý giáo dục phẩm chất đạo đức.
* Các loại trò chơi có thể tổ chức cho trẻ:
- Trò chơi vận động tự do với dụng cụ: đu, bập bênh, thang leo...
- Trò chơi vận động có thể lệ: trò chơi có quy định về thể lệ cách chơi
mà bất cứ lúc nào cũng tuân theo: Mèo đuổi chuột, đi chốn đi tìm.
- Trò chơi học tập: là trò chơi có mục đích giúp trẻ phát huy trí tuệ,
phát triển năng lực quan sát tư duy: Tập tô, tập vẽ...
- Trò chơi luyện giác quan: ghi nhớ bằng mắt, ghi nhớ bằng tai phân
biệt đồ vật qua xúc giác.
28
- Trò chơi phán đoán, suy sét: cờ vua, đi đường.
- Trò chơi phát triển trí nhớ: nhận xét từng bộ đồ vật phân biệt thừa
thiếu, tốt đẹp xấu.
(... rất nhiều loại trò chơi khác nữa).
* Giáo dục rèn luyện hành vi có văn hoá
Giáo dục hành vi có văn hoá cho trẻ em là một nội dung rất quan
trọng trong giáo dục tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ em. Văn hoá trong
hành vi đòi hỏi những cử chỉ đẹp, những hành vi đẹp. Giáo dục học đã
khẳng định rằng: Những tiêu chuẩn những quy tắc hành vi được con người
quán triệt ngay từ nhỏ sẽ trở thành một phẩm chất có giá trị cho xã hội và
đối với con người đó là một phẩm chất mà con người cho rằng "sự có giáo
dục". Giáo dục tư tưởng đạo đức có thể bắt đầu từ tri thức rồi dẫn đến hành
vi, cũng có thể từ hành vi mà dẫn đến tri thức và từ những tri thức mới để
dẫn đến những hành động cao hơn. Giáo dục thói quen hành vi có văn hoá là
sự kết hợp giữa 2 con đường.
- Vừa dạy các em hiểu biết để thực hiện những hành vi có văn hoá.
- Vừa giải thích cho các em hiểu nội dung ý nghĩa của cử chỉ, hành vi
đó nhằm góp phần hoàn thiện quá trình giáo dục tư tưởng, đạo đức thẩm mỹ
cho con người.
Những nội dung của hành vi có văn hoá cần giáo dục cho con trẻ là:
+ Có văn hoá trong việc thể hiện hình thức của con người:
- Luôn giữ mặt mũi, chân tay, thân thể sạch sẽ.
- Ăn mặc giản dị, sạch sẽ.
- Đi đứng ngay ngắn đĩnh đạc không dậm chân, lê dép.
- Ngồi thẳng tự nhiên không ngả nghiêng, không để chân tay lên ghế
khi ngồi.
- Khi ho, ngáp, hắt hơi phải lấy tay che miệng.
- Vẻ mặt luôn tươi tỉnh, vui vẻ khi tiếp xúc với người khác.
+ Có văn hoá trong ngôn ngữ:
29
- Phải biết chào khi gặp mặt và chia tay với người khác.
- Nhận quà và sự giúp đỡ của người khác phải có lời cảm ơn.
- Làm hỏng đồ dùng, hoặc làm phiền người khác phải xin lỗi.
- Đối với người lớn tuổi thì trong giọng nói, lời nói phải thể hiện sự
kính trọng: không nói trống không, nói năng phải lễ phép với bạn bè, em nhỏ
phải thể hiện sự trìu mến thương yêu.
- Không nói tiếng lóng, không dùng lời lẽ thô tục không nói bậy.
- Không nói những điều mình chưa biết rõ, chưa hiểu.
- Không nói cướp lời người khác, không nói to lớn người đang nói với
mình v.v...
+ Hành vi có văn hoá trong khi ăn:
- Ngồi vào bàn ăn phải quan tâm đến những người xung quanh. "Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng".
- Cùng với mọi người để chuẩn bị ăn: Lau bát, đũa, lấy cơm.
- Khi ăn không nên hấp tấp, không nhai quá nhanh, không nên nhồm
nhoàm, húp sột soạt, không gõ đũa vào bát hãy cố nhai không có tiếng động.
- Không gắp chòi lên trên hay chui xuống đũa của người khác.
- Không đảo bới để chọn thức ăn.
- Không dùng thìa chung để húp nước canh.
- Không nên chê bai, dè bỉu khi thức ăn không ngon.
- Không nên ăn chậm quá để mọi người chờ lâu.
- Ăn xong phải cùng mọi người thu dọn mâm bát.
- Lau miệng, uống nước sau khi ăn.
- Đang ăn mà ho, hắt hơi phải che miệng và quay ra ngoài...
+ Hành vi có văn hoá khi tiếp khách và đến chơi nhà người khác
- Có khách đến chơi nhà cần niềm nở, mời khách vào nhà, pha chế
nước uống mời khách, giới thiệu với khách những người lạ trong nhà và tiếp
chuyện với mọi người không bỏ quên ai cùng ngồi.
30
- Khi đến nhà người khác: phải gõ cửa, bấm chuông để báo trước cho
chủ nhà nếu trong nhà có đông người hãy chào chủ nhà trước sau đó nhìn mọi
người rồi chào chung: chào các bác, các chú, các cô... Thăm ai phải đúng hẹn
nếu có sự thay đổi phải thông báo trước.
* Hành vi có văn hoá trong thực hiện:
- Tập cho trẻ dậy đúng giờ quy định.
- Xếp sách vở đồ đạc có thứ tự.
- Tập làm việc theo kế hoạch và thời gian biểu.
* Hành vi có văn hoá nơi công cộng
- Trước khi ra khỏi nhà em hãy soi gương xem quần áo ăn mặc chỉnh
tề chưa.
- Ra đường gặp người họ hàng, lớn tuổi phải chào.
- Đi đường phải theo đúng quy định của luật giao thông.
- Cần phải biết giúp đỡ người già, tàn tật, trẻ nhỏ khi gặp họ khó khăn
trên đường.
- Gặp đám ma trên trường phải thể hiện thái độ nghiêm túc, cảm thông
không được cười đùa khi linh cữu đi qua.
- Gặp người lạ hoặc khách nước ngoài không nên xúm quanh hoặc nhìn
chằm chặp vào người đó.
III. NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH
1. Đảm bảo tính mục đích trong giáo dục gia đình
Giáo dục gia đình đòi hỏi các bậc làm cha mẹ và những người lớn tuổi
trong gia đình phải quán triệt tính mục đích trong mọi hoạt động giáo dục con
cái nhằm giúp trẻ em phát triển một cách toàn diện về mọi mặt.
Mục đích giáo dục của gia đình phải phù hợp với mục đích giáo dục
của xã hội và mục đích giáo dục của nhà trường. Để làm tốt được điều này đòi
hỏi cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình phải thống nhất với nhau
về nội dung, phương pháp để đạt được mục đích đó trong mọi suy nghĩ và
hành động.
31
2. Cha mẹ và người lớn phải gương mẫu trước con trẻ
Sự gương mẫu của cha mẹ, người lớn tuổi trong gia đình là vô cùng cần
thiết. Nó là điều kiện rất quan trọng để giáo dục trẻ em, bởi lẽ trẻ thường hay
bắt chước, trước khi nhận thức. Vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
"Dạy các cháu thì nói với các cháu tẻ là một phần, cái chính là phải cho các
cháu nhìn thấy cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy
cho trẻ thành người tốt trước hết các cô, các chú phải là người tốt".
Thật vậy trong thực tiễn chúng ta cũng rất thường gặp trẻ em kế thừa
được những phẩm chất tốt đẹp của ông bà, cha mẹ và những người lớn tuổi
trong gia đình. Cũng có nhiều trẻ em hư do nguyên nhân cha mẹ là những
người sống không gương mẫu, có hành vi phạm pháp.
Sự gương mẫu của cha mẹ là cơ sở tạo nên uy tín của cha mẹ trước con
trẻ. Uy tín của cha mẹ có sức cảm hoá thuyết phục con trẻ rất mạnh mẽ không
thể gì so sánh nổi. Uy tín đó được thể hiện qua lời nói của cha mẹ, những yêu
cầu của cha mẹ đối với con trẻ được con trẻ lắng nghe và tự giác làm một
cách sáng tạo qua sự tin yêu kính trọng của con trẻ đối với cha mẹ.
Khi còn nhỏ con trẻ nhận thức chủ yếu trên cơ sở cảm tính chúng rất
yêu quý bố mẹ, cho nên mọi hành vi của bố mẹ dưới con mắt trẻ thơ đều là
hợp lí. Sang đến tuổi nhi đồng và thiếu niên vốn tri thức hiểu biết của con trẻ
đã được mở rộng và ở tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đánh giá đến hành vi của
người khác một cách nghiêm túc. Các em đòi hỏi sự gương mẫu của người
lớn một cách khắt khe hơn là bản thân. Vì vậy nếu cha mẹ và người lớn tuổi
thiếu gương mẫu về đạo đức sẽ bị coi thường, họ sẽ bị mất niềm tin đối với
con trẻ, làm cho mối quan hệ giữa cha mẹ với con trẻ trở nên không bình
thường dẫn đến hậu quả khó lường trước được.
3. Bảo đảm giáo dục gắn với đời sống, với lao động
Lý luận và thực tiễn luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mọi tri
thức lý luận có nguồn gốc từ thực tiễn nhưng nó lại có một sứ mệnh vô cùng
quan trọng là quay trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận giáo dục gia đình được
32
đúc kết từ thực tiễn giáo dục nhưng nó có nhiệm vụ phải tham gia cải tạo
thực tiễn bằng việc làm đào tạo ra những nhân cách mới đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
Mục đích của giáo dục gia đình là đào tạo thế hệ trẻ thành người chủ
trong tương lai, là người trực tiếp lao động và cải tạo xã hội. Vì vậy trong quá
trình giáo dục đòi hỏi các bậc làm cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia
đình phải gắn liền dạy trẻ bằng lời nói thuyết phục với thực tế cuộc sống, sinh
hoạt của gia đình và hoạt động lao động xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong thời
kỳ CNH, HĐH.
Đảm bảo giáo dục gắn với đời sống, lao động xây dựng, bảo vệ cha mẹ
và những người lớn tuổi đưa trẻ em vào trong thực tế cuộc sống và hoạt động
lao động thông qua những hoạt động ấy làm cho tư tưởng, nhận thức của trẻ
em về những chuẩn mực xã hội thống nhất với hành vi và niềm tin về các
chuẩn mực xã hội đó.
Quá trình giáo dục là quá trình chuyển hoá các quan hệ xã hội, các yêu
cầu về việc thực hiện các chuẩn mực xã hội thành nhu cầu thể hiện của bản
thân đối tượng và phải được thể hiện thành nhu cầu thực hiện thành những
hành vi và thói quen tương ứng.
Hành vi và thói quen của trẻ chỉ có thể được hình thành củng cố một
cách bền vững trong cuộc sống, trong hoạt động và giao lưu. Vì vậy mà
giáo dục gắn với đời sống, với lao động trở thành một nguyên tắc giáo dục
có ý nghĩa rất quan trọng trong giáo dục trẻ em trong gia đình, nhà trường
và xã hội.
Để thực hiện tốt nguyên tắc giáo dục này cha mẹ cần lưu ý:
Mọi hoạt động của gia đình luôn gắn liền với hoạt động lao động, xây
dựng và bảo vệ quê hương cộng đồng và bảo vệ Tổ quốc. Cha mẹ phải nắm
cho được mọi chủ trương chính sách xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước của địa phương nơi mình đang sinh sống.
33
Cha mẹ phải làm cho trẻ quan tâm đến cuộc sống hiện tại của gia đình
quan tâm đến những người thân trong gia đình. Quan tâm đến các sự kiện lớn
trong đời sống chính trị, kinh tế và quốc phòng, văn hoá xã hội của đất nước.
Hiểu được những thành tựu, những khó khăn và những vấn đề cần giải quyết
trong thực tiễn cải tạo xã hội xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của
mỗi gia đình mỗi công dân đối với xã hội.
Cha mẹ cần tổ chức cho con em mình trực tiếp tham gia vào các hoạt
động lao động và lao động để tổ chức tốt cuộc sống gia đình, hoạt động lao
động, xây dựng phát triển kinh tế gia đình, các hoạt động lao động xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua các hoạt động lao động nhằm giúp các em hiểu
rõ được ý nghĩa của lao động đối với cuộc sống đối với con người đối với
cuộc sống gia đình đối với lao động hình thành cho trẻ kỹ năng lao động giỏi.
Cùng với việc tổ chức cho con trẻ tham gia các hoạt động lao động cha
mẹ nên cho các em tiếp xúc với những nhân tố mới trong cuộc sống, lao động.
Thông qua những nhân tố mới đó giáo dục tinh thần, ý thức đối với lao động
cho trẻ đồng thời kích thích các em sống học tập và làm theo các gương tốt.
Giáo dục gắn với đời sống, với lao động có nghĩa là cha mẹ và những người
lớn tuổi phải tổ chức tốt cuộc sống, tổ chức tốt hoạt động và giao lưu cho trẻ
em trong gia đình.
4. Tôn trọng nhân cách trẻ em, đảm bảo đúng quyền, bổn phận của trẻ em
Tôn trọng nhân cách trẻ em là yêu cầu cha mẹ phải nghiên cứu đánh giá
đúng ưu điểm, nhược điểm của trẻ em, đối xử với các em một cách bình đẳng,
lắng nghe ý kiến chân thành của trẻ em, luôn luôn đề cao phẩm giá, lòng tự
trọng của trẻ. Tin tưởng vào ý muốn tốt đẹp, tinh thần cầu tiến, nghị lực của
trẻ, sẵn sàng chia sẻ với trẻ những niềm vui và nỗi buồn, sự thành công và
thất bại của chúng trong mọi hoạt động.
Yêu cầu hợp lí đối với con trẻ là trong công tác giáo dục cha mẹ và
những người lớn tuổi trong gia đình luôn đề ra những tiêu chuẩn, và những
công việc hợp lý, vừa sức ngày càng nâng cao dần đối với trẻ. Và khi đã có
34
yêu cầu hợp lí cha mẹ yêu cầu trẻ thực hiện một cách nghiêm túc. Cha mẹ
phải có thái độ nghiêm túc đúng mực khi trẻ em không thực hiện đúng yêu
cầu, tránh tình trạng nhân nhượng, nuông chiều dễ dãi buông lỏng sẽ dẫn đến
những tác hại khó có thể lường trước được.
Nghiêm khắc đúng mực là phải kiên quyết khước từ những yêu cầu bất
hợp lý của trẻ, không chạy theo mọi ý thích của con không dung túng những
sai lầm thiếu sót của con trẻ, nhưng cần phải mềm dẻo, kiên trì thuyết phục
cảm hoá, tránh gây căng thẳng với trẻ em. Không nên mắng nhiếc trẻ nhiều.
Bởi như vậy sẽ làm cho trẻ mất niềm tin và trở nên nhút nhát, trơ lì, bướng
bỉnh. Mà cần phải giúp trẻ nhận thức được cái trẻ đã làm đúng, cái trẻ chưa
làm được, từ đó giúp trẻ tự hoàn thiện nhân cách của mình.
Hệ thống các yêu cầu do cha mẹ đề ra đối với con cái phải được cá thể
hoá. Yêu cầu càng được cá thể hoá bao nhiêu thì càng tốt với trẻ bấy nhiêu.
Cha mẹ cần lưu ý giữa tôn trọng và yêu cầu cao luôn luôn có quan hệ
mật thiết với nhau. Càng tôn trọng trẻ bao nhiêu thì cha mẹ càng cần phải đề
ra các yêu cầu hợp lí đối với trẻ bấy nhiêu.
Nhà giáo dục Makarencô đã khẳng định: "Trong phép biện chứng của
chúng ta hai cái đó thống nhất với nhau, khi ta đòi hỏi ở con người thật nhiều
thì bản thân sự đòi hỏi đã bao gồm sự tôn kính của chúng ta".
Để tôn trọng và yêu cầu hợp lý đối với con trẻ đòi hỏi cha mẹ phải luôn
luôn nắm vững đặc điểm tâm lí trẻ em qua từng giai đoạn lứa tuổi, đối xử với
con trẻ một cách bình đẳng, luôn luôn tin tưởng vào sự tiến bộ của con trẻ.
Phải có tình thương yêu, thông cảm vị tha đối với con trẻ và phải là người bạn
lớn đối với con.
Trong giao tiếp với con trẻ cha mẹ phải tôn trọng quyền của trẻ, tôn
trọng nhân cách của trẻ và phải có thái độ tự kiềm chế trong quan hệ với con
trẻ cả khi con trẻ có những hành vi đi ngược lại mong muống của cha mẹ.
Trong quá trình tổ chức cuộc sống gia đình cha mẹ cần phải đề ra
những yêu cầu hợp lý vừa sức với con trẻ và cần phải hướng dẫn con trẻ thực
35
hiện nghiêm túc những yêu cầu do cha mẹ đã đề ra. Đồng thời cha mẹ cần
phải có những lời lẽ động viên, kích thích con trẻ, để các em tự đề ra yêu cầu
và tự thực hiện yêu cầu mà cha mẹ vẫn thường mong đợi ở con trẻ.
5. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội
Thống nhất giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội là cha mẹ và
những người lớn tuổi phải phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường để thống nhất về mục đích, nội dung và phương pháp, phương tiện
giáo dục. Nhằm tiến hành giáo dục trẻ em ở mọi nơi, mọi lúc và tạo ra sức
mạnh tổng hợp trong quá trình giáo dục con trẻ. Giúp cho con trẻ phát triển
đúng hướng.
Thống nhất giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội là tạo ra một
môi trường giáo dục lành mạnh đối với con trẻ. Đồng thời còn thể hiện
nguyên lý giáo dục của Đảng, luật giáo dục và luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em
của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Nguyên tắc này đòi hỏi cha mẹ phải thường xuyên, chủ động kết hợp
với nhà trường và các lực lượng xã hội để giáo dục trẻ, nghe họ cung cấp
thông tin để đánh giá một cách chính xác, phối hợp với nhà trường với các lực
lượng xã hội về nội dung, biện pháp, hình thức tổ chức để giáo dục con trẻ.
Cha mẹ nên hưởng ứng tích cực các biện pháp giáo dục do nhà trường
phối hợp với tổ dân phố, tổ chức đoàn thể đề ra... Mỗi người làm cha mẹ cần
lắng nghe và bàn bạc với các thầy cô giáo, các lực lượng giáo dục khác về
kinh nghiệm giáo dục con trẻ trong gia đình với một thái độ cầu thị thực sự.
Không nên có thái độ giấu giếm che đậy những thiếu sót những sai lầm của
con trẻ mà cần phải trao đổi đối với nhà trường và các lực lượng giáo dục xã
hội để tìm cách tích cực nhất để tháo gỡ những vướng mác trong giáo dục
con trẻ.
Đồng thời trong cuộc sống gia đình cha mẹ cần phải biết kết hợp chặt
chẽ các ảnh hưởng giáo dục trong gia đình của mình. Đó là sự thống nhất giữa
cha và mẹ, giữa ông bà với cha mẹ trong sự giáo dục con trẻ.
36
Trong gia đình không nên có hiện tượng bố nghiêm khắc, mẹ lại nuông
chiều, ông bà chiều chuộng nhưng bố mẹ lại quá nghiêm khắc.
Làm tốt việc kết hợp các lực lượng giáo dục để thống nhất các ảnh
hưởng giáo dục. Mọi người, mọi cương vị khác nhau có thể giáo dục bằng
nhiều cách khác nhau. Song tất cả đều được quy về một mục đích chung nhất.
Làm tốt việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và các lực lượng giáo
dục cũng có nghĩa là tạo ra cho con trẻ một môi trường sống lành mạnh.
6. Nguyên tắc bảo đảm tính cá biệt
Đảm bảo tính cá biệt trong giáo dục là đòi hỏi cha mẹ phải nắm vững
đặc điểm tâm lý của con trẻ. Trên cơ sở đó đề ra những biện pháp tác động
giáo dục phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển năng lực riêng và cá tính tốt của
mình đồng thời thực hiện mục đích giáo dục toàn diện của gia đình đối với
mọi thành viên.
Xuất phát từ tình cảm gia đình, từ trách nhiệm và nghĩa vụ của những
người làm cha, làm mẹ, hàng ngày, hàng giờ thường xuyên tiếp xúc với con
trẻ vì vậy đòi hỏi các bậc làm cha mẹ phải hiểu con trẻ về mọi mặt, nắm rõ
năng lực sở trường của con, những nhu cầu hiện có và sẽ có của con, những
hành vi và thói quen chưa tốt và cá tính của con. Trên cơ sở đó cha mẹ có thể
tìm ra các biện pháp thuyết phục, cảm hoá, giáo dục con trẻ.
7. Giáo dục gia đình phải lấy tình thương yêu làm nền móng
Giáo dục gia đình không phải là một quá trình trói buộc trẻ bằng quyền
uy của những người làm cha, làm mẹ mà là quá trình khơi gợi những tài năng
và đức hạnh cao quý trong mỗi tâm hồn trẻ thơ. Muốn làm được điều đó đòi
hỏi các bậc làm cha mẹ phải dùng tình thương yêu cảm hoá chăm sóc của cha
mẹ đối với con trẻ nhằm tạo ra sự đồng cảm, lương tâm và tình cảm sâu sắc
của trẻ. Thực tiễn đã cho thấy vì tình yêu thương mà con trẻ phục tùng và tín
nhiệm cha mẹ hay vì tình thương yêu mà con trẻ đã vượt qua tất cả những khó
khăn, thử thách để đạt được mục tiêu phấn đấu của mình thoả lòng mong ước
của cha mẹ. Trong thực tế đã có những trường hợp trẻ mắc lỗi bố mẹ đe nẹt
37
nhưng con không nhận lỗi nhưng khi ông bà dùng tình thơng yêu khuyên nhủ
đứa trẻ đã nhận lỗi và hứa sẽ sửa chữa sai lầm. Vì vậy đòi hỏi cha mẹ phải
gần gũi quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ, tạo ra tình thương yêu trìu mến đối
với trẻ. Tạo cho trẻ có một chỗ dựa tinh thần vững chắc nhằm tạo ra động lực
giúp trẻ phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
8. Giáo dục gia đình phải bảo đảm thường xuyên liên tục
Trong quá trình giáo dục muốn hình thành một phẩm chất nhân cách tốt
cho trẻ đòi hỏi phải có một thời gian tương đối lâu dài và khi phẩm chất mói
được hình thành và chưa có tính bền vững vì vậy cha mẹ cần quan tâm củng
cố phẩm chất đó một cách thường xuyên liên tục để giữ vững phẩm chất đó
trong trẻ. Điều quan trọng hơn cả là cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia
đình cần phải giúp cho trẻ có lập trường tư tưởng vững vàng để các em có thể
chiến thắng những cám dỗ của cuộc sống đời thường ở mọi nơi mọi chỗ. Cha
mẹ không được lơ là, buông lỏng trong giáo dục gia đình.
IV. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Phương pháp giáo dục trẻ em trong gia đình là phương pháp hoạt động
phối hợp thống nhất giữa cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình với
những hoạt động của trẻ nhằm đạt được mục tiêu hình thành, phát triển và
hoàn thiện nhân cách cho trể theo yêu cầu của cha mẹ và xã hội đặt ra.
Phương pháp giáo dục trẻ em trong gia đình cũng rất đa dạng phong
phú tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh mà những người làm cha mẹ có thể
vận dụng các phương pháp giáo dục khác nhau. Các phương pháp giáo dục
trong gia đình:
- Phương pháp thuyết phục.
- Phương pháp trò chuyện, kể chuyện.
- Phương pháp nêu gương.
- Phương pháp giao việc.
- Phương pháp tổ chức trò chơi.
- Phương pháp tập luyện, rèn luyện.
38
- Phương pháp thưởng phạt.
1. Phương pháp thuyết phục
Phương pháp thuyết phục là phương pháp cha mẹ và những người lớn
tuổi trong gia đình, dùng lời nói để tác động đối với con trẻ nhằm giảng giải
hoặc giải thích về một vấn đề đạo đức hay một chuẩn mực xã hội nào đó để
giúp con trẻ hiểu về nó củng cố niềm tin và hình thành hành vi chuẩn mực với
xã hội.
Phương pháp thuyết phục là giúp con trẻ hiểu nội dung, ý nghĩa của các
chuẩn mực xã hội, các quy tắc đạo đức.
Hình thành ở con trẻ niềm tin vào các chuẩn mực xã hội trên cơ sở đó
hình thành hành vi và thói quen tương ứng một cách tự giác.
Muốn thực hiện tốt phương pháp này đòi hỏi cha mẹ và những người
lớn tuổi cần lưu ý thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
- Cha mẹ phải nắm được đặc điểm và trình độ nhận thức của trẻ để tìm
những lời lẽ cho phù hợp.
- Giọng nói phải mềm mỏng nhưng có sức thuyết phục lớn đối với con trẻ.
- Đặc biệt hơn cả là cha mẹ phải có thái độ ân cần, cảm thông sâu sắc
đối với con trẻ và phải có thiện chí đối với con trẻ trong mọi tình huống.
- Cha mẹ có thể kết hợp giảng giải bằng lời nói với việc sử dụng những
tấm gương trong cuộc sống hay những câu chuyện mang ý nghĩa giáo dục,
thuyết phục đối với trẻ.
- Cha mẹ cần lưu ý tránh nói dài dòng, kể lể khoa chương khích bác,
ám chỉ hoặc chỉ trích cần phá vỡ hàng rào ngăn cách cha mẹ và con cái.
2. Phương pháp giáo dục bằng nêu gương
Phương pháp giáo dục bằng nêu gương là cha mẹ và những người lớn
tuổi trong gia đình dùng những tấm gương tiêu biểu trong học tập, lao động,
rèn luyện, v.v... để kích thích con trẻ trong học tập, và làm theo, hoặc cũng có
thể dùng những tấm gương phản diện để nhắc nhở, giáo dục trẻ em tránh
những hành vi tương tự.
39
Nêu gương là phương pháp có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo
dục nhằm giúp trẻ phát triển năng lực phê phán và năng lực đánh giá hành vi
của người khác từ đó rút ra kết thúc, kết luận thiết thực đối với bản thân.
Thông qua phương pháp giáo dục nêu gương giúp trẻ em học và làm
theo những gương tốt tránh được những gương xấu đồng thời cũng giúp trẻ
hình thành được niềm tin về các chuẩn mực xã hội.
Để nêu gương có hiệu quả cha mẹ và những người lớn tuổi cần lưu ý:
- Cha mẹ cần phải nắm vững mục tiêu, nội dung giáo dục, nắm vững
đặc điểm, trình độ nhận thức của con trẻ để lựa chọn những tấm gương sáng
hay phản diện cho phù hợp. (Lấy tấm gương sáng là chủ yếu).
- Những tấm gương đưa ra phải gần gũi với cuộc sống thực tế, phải có
tính điển hình, cụ thể tránh tràn lan lung tung.
- Những tấm gương đưa ra phải toàn diện chưa đựng những khía
cạnh phong phú tránh đơn điệu nghèo nàn (ví dụ: Học giỏi những chăm
lâu, ngoan ngoãn).
- Những tấm gương đưa ra phải có tính khả thi tránh quá lý tưởng, khó
làm theo được.
- Cha mẹ phải kích thích con trẻ tự nêu gương đồng thời cha mẹ phải
luôn là tấm gương sáng để con trẻ học tập và làm theo.
3. Phương pháp giao việc
Phương pháp giao việc là phương pháp cha mẹ lôi cuốn con trẻ vào
hoạt động đa dạng phong phú với những công việc nhất định, với những ý
nghĩa xã hội nhất định để cho con trẻ ý thức được ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá
nhân của những công việc được giao từ đó họ có thái độ tích cực đối với
những công việc đó.
Thông qua phương pháp giao việc giúp cho con trẻ thể hiện được
những kinh nghiệm ứng sử trong các mối quan hệ xã hội đa dạng phong phú
hình thành được những hành vi ứng xử phù hợp với những yêu cầu của công
việc được giao.
40
Để phương pháp giao việc tiến hành có hiệu quả đòi hỏi cha mẹ và
những người lớn tuổi cần chú ý các yêu cầu sau đây:
- Khi giao việc cho con trẻ cha mẹ cần đưa ra những yêu cầu cụ thể,
giao việc này cho ai? những việc gì? mức độ cần hoàn thành như thế nào?
- Cha mẹ cần giúp con trẻ nhận thức được ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá
nhân của những công việc được giao. Trên cơ sở đó giúp con trẻ có ý thức
một cách đầy đủ về những nhiệm vụ mà con trẻ cần phải hoàn thành từ đó
kích thích họ tự giải và tích cực hoạt động để hoàn thành việc được giao.
- Cha mẹ cần căn cứ vào đặc điểm, tâm lý lứa tuổi đặc điểm giới tính
căn cứ vào năng lực sở trường của con trẻ để giao việc cho phù hợp.
- Cha mẹ cần phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở giúp đỡ con trẻ
hoàn thành công việc được giao.
- Cha mẹ cần thường xuyên kiểm tra đánh giá về việc hoàn thành
những công việc được giao của con trẻ trên cơ sở đó có những biện pháp động
viên khuyến khích để con trẻ hoàn thành tốt những công việc được giao.
4. Phương pháp tập luyện
Phương pháp tập luyện là phương pháp cha mẹ tổ chức cho con trẻ thực
hiện một cách đều đặn, có kế hoạch các hoạt động nhất định nhằm biến những
hành động đó thành những hành vi và thói quen ứng xử phù hợp với các
chuẩn mực xã hội phù hợp với phong tục tập quán trong gia đình.
Nhờ có phương pháp tập luyện mà ý nghĩa có thể chuyển thành việc
làm niềm tin chuyển thành hành động. Phương pháp tập luyện đặc biệt có
hiệu quả trong giai đoạn đầu của quá trình giáo dục và phát triển của con trẻ.
Để phương pháp tập luyện có hiệu quả đòi hỏi bố mẹ và những người
lớn tuổi trong gia đình cần chú ý:
- Cha mẹ phải giúp con trẻ hình dung một cách rõ nét về hành vi dưới
dạng những quy tắc ngắn gọn rõ ràng.
- Cha mẹ nên làm mẫu để con trẻ học tập và làm theo.
41
- Cha mẹ cần tổ chức cho con trẻ tập luyện dưới các hình thức khác
nhau tuỳ theo lứa tuổi, tuỳ theo hoàn cảnh điều kiện cụ thể.
- Cha mẹ cần có những biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi
để con trẻ có thể tập luyện và có những biện pháp khuyến khích, động viên để
con trẻ tích cực tham gia tập luyện.
- Cha mẹ cần quan tâm giúp đỡ con trẻ tập luyện, liên tục lặp đi lặp lại
nhiều lần ⇒ thành thói quen.
- Cha mẹ cần có những biện pháp kiểm tra đánh giá việc tập luyện
của con trẻ đồng thời giúp con trẻ tự kiểm tra đánh giá kết quả tập luyện
của mình.
5. Phương pháp rèn luyện
Là phương pháp cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình tổ chức
cho con trẻ thể hiện ý thức, tình cảm niềm tin của mình về các chuẩn mực xã
hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống gia đình và ngoài xã hội. Qua
đó hình thành và củng cố được những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã
hội và phong tục tập quán của gia đình đã được quy định.
Phương pháp rèn luyện giúp cho con trẻ thu lượm được những kinh
nghiệm thực tế và các quan hệ tập thể, các quan hệ xã hội. Thông qua rèn
luyện giúp con trẻ có động cơ, thái độ đúng đắn được các vấn đè của cuộc
sống đặt ra. Qua rèn luyện giúp con trẻ củng cố được hành vi, thói quen phù
hợp với các chuẩn mực xã hội.
Để phương pháp rèn luyện có hiệu quả cần phải tổ chức cuộc sống tổ
chức hoạt động và giao lưu cho con trẻ trong gia đình và ngoài xã hội. Thông
qua môi trường sống môi trường hoạt động cha mẹ giúp con trẻ rèn luyện
động cơ, ý chí để giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn giữa các ham muốn và
cái phải làm...
Cha mẹ căn cứ vào trình độ đã được giáo dục của con trẻ để tổ chức rèn
luyện cho trẻ.
- Phải kết hợp rèn luyện với kiểm tra và tự kiểm tra
42
- Rèn luyện phải được tiến hành một cách thường xuyên liên tục có
hệ thống.
- Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa sự tổ chức rèn luyện của cha mẹ với
sự tổ chức rèn luyện của con trẻ.
* Các mô hình tổ chức rèn luyện cho trẻ em trong gia đình.
+ Giáo dục rèn luyện qua lao động: Tổ chức cho con trẻ tham gia vào
các loại hình lao động trong gia đình thông qua đó giáo dục ý thức, tinh thần
và thái độ lao động. kỹ năng lao động cho con trẻ.
+ Giáo dục rèn luyện qua học tập: Thông qua tổ chức và hướng dẫn
con trẻ tự tổ chức học tập: cha mẹ giúp trẻ em lĩnh hội được hệ thống tri thức
kỹ năng kỹ sảo, hình thành và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ phát triển
trí thông minh sáng tạo và phát triển thể lực. Đồng thời giúp con trẻ hình
thành Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và những phẩm chất của công
dân và người lao động phù hợp với yêu cầu của xã hội.
+ Giáo dục rèn luyện thông qua vui chơi: Thông qua hướng dẫn con
trẻ tự tổ chức hoạt động vui chơi, cha mẹ giúp các em hình thành, phát triển
năng lực nhận thức, trí thông minh sáng tạo và các phẩm chất đạo đức..v..v.
Qua giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày cha mẹ giúp con trẻ hình
thành một hệ thống tri thức về các chuẩn mực xã hội. Hình thành niềm tin và
hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội đó.
6. Phương pháp Thưởng - Phạt
Phương pháp thưởng phạt nhằm đánh giá hành vi của con trẻ trong gia
đình đồng thời kích thích thúc đẩy điều chỉnh hay kìm hãm hành vi ứng sử
của con trẻ củng cố và phát triển những hành vi tốt đã hình thành ở các em.
* Phương pháp khen thưởng:
Phương pháp khen thưởng là phương pháp cha mẹ và những người lớn
tuổi trong gia đình biểu thị sự đánh giá tích cực đối với hành vi ứng sử của
con trẻ trong gia đình ở nhà trường và xã hội nhằm khích lệ, động viên con trẻ
duy trì và phát triển những hành vi ứng sử đẹp đẽ đó.
43
Khen thưởng có tác dụng khẳng định hành vi được khen của con trẻ
đúng đắn, là phù hợp với các chuẩn mực được xã hội quy định.
Thông qua phương pháp khen thưởng giúp con trẻ tự khẳng định hành
vi tốt của mình củng cố và phát triển được niềm tin về các chuẩn mực xã hội
có liên quan đến những hành vi tốt mà con trẻ đã thực hiện
Khen thưởng có tác dụng kích thích con trẻ tiếp tục duy trì và phát triển
những hành vi tích cực.
Để phương pháp khen thưởng có hiệu quả cha mẹ và những người lớn
tuổi trong gia đình cần quan tâm chú ý:
- Phải căn cứ vào hành vi thực tế của con trẻ để tiến hành khen thưởng.
- Khen thưởng phải khách quan công bằng
- Khen thưởng phải kịp thời đúng lúc, đúng chỗ
- Cần phải phối hợp giữa khen thường xuyên với khen quá trình, cần
kết hợp nhiều hình thức khen thưởng: Tỏ thái độ, dùng lời khen, tặng thưởng
bằng quà...
Khen thưởng có tác dụng làm tăng thêm sự khẳng định giá trị và ý
nghĩa của những hành vi tốt và luôn lôi cuốn các con trẻ khác trong gia đình
làm theo những hành vi tốt.
* Phương pháp Trách - Phạt:
Là phương pháp cha mẹ và những người lớn otuổi trong gia đình biểu
thị sự khẳng định, sự phản đối, sự phê phán những hành vi sai trái của con trẻ
so với các chuẩn mực xã hội và gia phong của gia đình.
Trách phạt có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giáo dục nó có tác
dụng tạo cơ hội buộc trẻ em mắc lỗi lầm trong ứng sử phải ngừng ngay những
hành vi sai trái một cách tự giác đồng thời kích thích họ nâng cao ý thức tự
kiềm chế để trong tương lai không mắc những hành vi tương tự.
Thông qua phương pháp trách phạt cha mẹ nhắc nhở con trẻ không vi
phạm các chuẩn mực xã hội, không rơi vào những hành vi sai trái như những
em đã bị trừng phạt.
44
Để trách phạt con trẻ có hiệu quả cha mẹ và những người lớn tuổi trong
gia đình cần chú ý:
+ Khi trách phạt cần căn cứ vào loại hành vi sai lệch, tính chất của hành
vi sai lệch để trách phạt con trẻ.
+ Trách phạt phải khách quan công bằng.
+ Trách phạt phải có tác dụng làm cho người bị phạt thấy rõ sai lầm của
mình và chấp nhận hình thức mức độ trách phạt từ đó họ có những ân hận về
lỗi lầm của mình và có quyết tâm sửa chữa sai lầm đó đẻ không tái phạm
trong những lần tiếp theo.
+ Trách phạt phải bảo đảm tôn trọng nhân cách của người bị phạt.
7. Phương pháp tổ chức trò chơi
Phương pháp tổ chức trò chơi là phương pháp cha mẹ sử dụng các trò
chơi để hướng dẫn con trẻ vui chơi. Thông qua các trò chơi đó nhằm mục
đích tạo cho trẻ có tâm lý thoải mái đồng thời giáo dục về mọi mặt.
Trò chơi để tổ chức giáo dục trẻ rất đa dạng và phong phú: Trò chơi
vận động, trò chơi học tập, trò chơi đóng vai theo chủ để...v...v.
Cha mẹ cần giành thời gian để hướng dẫn con trẻ chơi và cùng chơi với
trẻ tạo điều kiện cho trẻ về chỗ chơi và đồ chơi...
Tóm lại: Giáo dục gia đình là một quá trình có mục đích, có kế hoạch
của cha mẹ và những người thân trong gia đình tới mọi thành viên trong gia
đình nhằm giúp cho họ tự tổ chức, hệ điều khiển quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của mình, để hình thành và phát triển các năng lực người và
những phẩm chất tốt đẹp của con người theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục gia đình có những đặc điểm riêng, đó là một quá trình mang
tính lâu dài thế mạnh của nó là giáo dục bằng tình cảm, giáo dục gia đình diễn
ra với những tác động phức tạp từ nhiều phía, nó bao gồm những tác động tự
giác và cả những tác động tự phát, nó chịu sự chế ước của xã hội nói chung và
của cộng đồng, của giáo dục nhà trường...v...v...Nội dung giáo dục gia đình
mang tính toàn diện, nguyên tắc và phương pháp giáo dục gia đình rất đa
dạng phong phú.
45
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
Câu 1: Giáo dục gia đình có những đặc điẻm nào khác với giáo dục nhà
trường?
Câu 2: Hãy trình bày những nội dung giáo dục trong giáo dục gia đình?
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích những nguyên tắc giáo dục gia đình và
cho mỗi nguyên tắc một ví dụ minh hoạ.
Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày các phương pháp giáo dục gia đình?
Theo anh (chị) phương pháp nào là quan trọng và đặc trưng nhất?
Câu 5: Có nhà giáo dục học được khẳng định rằng: "Không có trẻ em
hư chỉ có người lớn đã thành công hay chưa thành công trong phương pháp
giáo dục mà thôi".
Câu 6: Liên hệ với lí luận và thực tiễn về giáo dục gia đình, anh chị hãy
bày tỏ quan điểm của mình trước vấn đề trên.
46
Chương III
KẾT HỢP CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VỚI
NHÀ TRƯỜNG VÀ GIÁO DỤC CỦA XÃ HỘI
Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
+ Sinh viên phải hiểu được cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn để lí giải
tại sao trong quá trình giáo dục con trẻ phải kết hợp các lực lượng giáo dục.
+ Nắm được những đặc trưng cơ bản của việc giáo dục gia đình và giáo
dục nhà trường xã hội.
+ Sinh viên phải nắm được các hình thức để kết hợp giáo dục gia đình,
giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội.
+ Sau khi học xong sinh viên bước đầu biết xây dựng một nội dung cho
hoạt động giáo dục nào đó cung với gia đình (hoặc một tổ chức nào đó trong
cộng đồng dân cư để giáo dục học sinh).
NỘI DUNG BÀI GIẢNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC KẾT HỢP CÁC LỰC LƯỢNG
GIÁO DỤC
1. Cơ sở lí luận của sự kết hợp các lực lượng giáo dục
- Khi bàn về bản chất của con người C.Mác đã viết: "Bản chất của con
người không phải là cái trìu tượng vốn có của mỗi các nhân riêng biệt, trong
tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội"
Với quan điểm khoa học này Mác đã cho chúng ta thấy rất rõ trong sự hình
thành phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người, con người luôn chịu
sự chi phối của nhiều nhân tố trong đó nhân tố môi trường xã hội là nhân tố
đóng vai trò quan trọng.
47
- Trong bài nói chuyện với cán bộ của ngành giáo dục (tháng 6 - 1957)
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: "Giáo dục nhà trường chỉ là một phần
còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và giáo dục trong gia đình; để giúp cho
việc giáo dục của nhà trường tốt hơn" Hay bác còn nói: "Giáo dục nhà trường
dù có tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục gia đình và giáo dục ngoài xã hội vẫn
không hoàn toàn".
- Đảng hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) lần thứ IV (1976) Đảng ta
luôn coi việc kết hợp giáo dục của nhà trường với giáo dục của gia đình và
giáo dục của xã hội là nguyên lí giáo dục.
Trong bộ luật về giáo dục được quốc hội thông qua tháng 12/1998 ở
điều 3 chương VII có ghi rõ: "... Học đi đôi với hành giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội".
Xét về mặt tâm lý nhân cách con người được hình thành và phát triển
trước những ảnh hưởng của môi trường sống trong đó đặc biệt quan trọng là
môi trường xã hội. Chính sự tham gia tích cực của con người vào các mối
quan hệ xã hội mà nhân cách của họ ngày càng được hình thành và phát triển.
Xét về mặt bản chất của quá trình giáo dục thì quá trình giáo dục là qua
trình tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt động, tổ chức các mối quan hệ nhiều
mặt và giao lưu cho đối tượng giáo dục nhằm chuyển hoá một cách tự giác
những yêu cầu về việc thực hiện các chuẩn mực xã hội thành nhu cầu thể hiện
hành vi và thói quen cho đối tượng giáo dục. Quá trình chuyển hoá đó diễn ra
dưới tác động giáo dục phức hợp từ nhiều phía. Những tác động đó là nhà
trường, gia đình và xã hội. Chính vì vậy cần phải có sự phối hợp thống nhất
giữa các lực lượng giáo dục trong quá trình giáo dục trẻ em.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tiễn môi trường (hoàn cảnh) gia đình và xã hội là những
nhân tố khách quan luôn ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình giáo
dục, quá trình hình thành và quá trình phát triển nhân cách của học sinh. Mặt
48
khác với nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện nay ở bậc phổ thông học sinh chỉ
học tập, sinh hoạt ở nhà trường với thời gian rất ngắn (khoảng 5h một ngày
khoảng trên dưới 140 ngày 1 năm) như vậy thời gian gần 2/3 khoảng thời gian
còn lại học sinh sống, sinh hoạt vui chơi lao động với gia đình và với cộng
đồng ngoài xã hội. Thời gian này học sinh chịu tác động của rất nhiều nhân tố
khác nhau, ảnh hưởng của các nhân tố ấy đến sự hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh theo nhiều chiều hướng rất khác nhau (có lúc thì tự giác,
nhiều lúc mang tính tự phát, ngẫu nhiên và vô thức...) và với các mức độ
mạnh yếu khác nhau, sự điều chỉnh và điều khiển của giáo dục nhà trường
cũng khó dễ khác nhau.
Như vậy muốn giáo dục đạt hiệu quả không thể không khép kín thời
gian, không gian hoạt động của học sinh và tất yếu cần thống nhất chiều
hướng tác động của tất cả các lực lượng giáo dục, các nhân tố giáo dục để
chúng đều có những ảnh hưởng tích cực đến trẻ em.
Trong chiếc lược giáo dục của nước Mỹ do tổng thống Jooc Bush trình
bày ngày 18.4.1991 [Bút cha] có đoạn viết: "Chúng ta phải biến đất này thành
một quốc gia của những học sinh, sinh viên phải nhận thức được rằng: Học
tập là một quá trình suốt đời. Cuối cùng ngoài nhà trường ra chúng ta phải tạo
ra một cộng đồng mà ở đó việc học tập có thể diễn ra. Đó là chiến lược".
Ở nước ta chúng ta đang thực hiện hoá đường lối chủ trương của Đảng ta:
"Xã hội hoá giáo dục" thật hiện thực. Một chủ trương rất khoa học vì đó là một
trong những điều kiện cần và đủ để nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo nền
kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng một hệ
thống giáo dục Việt Nam dựa trên cơ sở triết lí giáo dục xã hội học tập.
II. SỰ KẾT HỢP GIỮA GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG VỚI GIÁO DỤC
GIA ĐÌNH
1. Vai trò của giáo dục nhà trường
Để quá trình giáo dục đạt đến mục đích đã được hoạch định, không còn
cách tiếp cận nào tốt hơn là quan điểm tiếp cận tổng hợp đối với quá trình sư
49
phạm tổng thể. Quan điểm này đòi hỏi phải kết hợp liên tục, kết hợp chặt chẽ
các lực lượng giáo dục với nhau: Giáo dục của nhà trường, giáo dục trong gia
đình với giáo dục ngoài xã hội. Vấn đề đặt ra là: Các lực lượng giáo dục trên
còn vị trí, vai trò (của tầng lực lượng) như thế nào trong tầng giai đoạn giáo
dục và trong tổ hợp các lực lượng giáo dục đó.
Giáo dục nhà trường được xem như là một định chế chuẩn mực trong
định chế xã hội nói chung, nó được tổ chức một cách có mục đích và khoa
học được tiến hành với những nội dung giáo dục toàn diện, được thực hiện
thông qua hoạt động và giao lưu giữa nhà sư phạm với học sinh theo những
chuẩn mực nhất định..v..v.. Vì vậy giáo dục nhà trường phải giữ vị trí trung
tâm trong tổ hợp giáo dục. Nói cách khác giáo dục nhà trường phải giữ vai
trò chủ đạo trong các lực lượng giáo dục nói chung. Trong liên kết giáo dục
“…nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và xã hội”
(Điều 81-Luật giáo dục). Nhà trường phải là nơi lập kế hoạch xây dựng nội
dung, xây dựng các hình thức tổ chức kết hợp các lực lượng giáo dục. Đồng
thời nhà trường phải là nơi có trách nhiệm giúp cho gia đình cho các tổ chức
xã hội nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm của họ trong công tác giáo dục
học sinh.
Cùng với giáo dục nhà trường thì giáo dục gia đình cùng chiếm một vị
trí cực kỳ quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con
người. Nó vừa là môi trường giáo dục đầu tiên đồng thời là môi trường giáo
dục suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Giáo
dục nhà trường chỉ phát huy vai tò chủ đạo của mình khi biết kết hợp một
cách chặt chẽ với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
2. Vai trò của giáo dục gia đình
Không phải ngẫu nhiên mà người ta thừa nhận: Người mẹ là “cô giáo”
đầu tiên của trẻ nhỏ và gia đình là môi trường xã hội thu nhỏ. Qua đó con trẻ
học hỏi được những bài học đầu tiên để “làm người”. Gia đình vừa là cơ quan
thu nhận thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Học sinh thường có
50
những dấu ấn rất sâu sắc trong việc định hướng các giá trị từ việc xử lý thông
tin trong gia đình của họ. Giáo dục gia đình có những sức mạnh to lớn mà
giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội không thể có được. Một sức mạnh đặc
trưng cơ bản được bắt nguồn từ quan hệ máu thịt, quan hệ huyết thống trong
một bầu không khí gia đình đầm ấm. Đó là sự kết hợp giữa quyền của người
cha với tình thương yêu chăm sóc tận tình của người mẹ đã tạo cho giáo dục
gia đình có một sức mạnh vô thần.
Những ảnh hưởng của gia đình đến quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của thế hẹe trẻ em dưdợc thể hiện qua nhiều yếu tố khác nhau, có
thể phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố sau:
- Tính di truyền: ảnh hưởng của yếu tố này là không thể hoặc rất khó
xoá nhoà vì thường là yếu tố ảnh hưởng trong suốt cả cuộc đời của một cá
nhân. Tuy nhiên những dữ kiện của di truyền cơ thể được giàu lên hoặc mai
một đi bởi môi trường gia đình. Thực tế đã cho thấy rằng: Một số học sinh có
thể có những tiềm năng trí tuệ rất tốt song những tiềm năng có thể bị tê liệt đi
chỉ vì môi trường gia đình luôn vùi dập nó như cha mẹ thiếu quan tâm, hoặc
quan tâm không đúng mức, những mối bất hoà trong gia đình thường xuyên
xảy ra.v.v…
Ngược lại một số học sinh có thể kém thông minh một chút song lại có
những kết quả tu dưỡng, học tập rất khả quan vì cha mẹ các em luôn luôn rèn
luyện cho học tính tự tin vào chính bản thân mình đồng thời tạo mọi điều kiện
tốt nhất để con trẻ có thể tự hoàn thiện nhân cách. Không phụ thuộc vào di
truyền nhưng các tập tính của cha mẹ của gia đình lại có những ảnh hưởng rất
sâu sắc trong phong cách học tập, trong cách ứng xử của học sinh trong các
mối quan hệ mà học sinh tham gia.
Ví dụ: Cha mẹ không quan tâm đến học tập, rèn luyện của con em họ thì
chính sự dửng dưng này đã ảnh hưởng không tốt tới con trẻ. Ngược lại chính
sự gương mẫu của cha mẹ lại giúp cho con trẻ biết vượt qua khỏi những hoàn
51
cảnh khó khăn trong cuộc sống đời thường biết tự khẳng định mình trong mọi
hoạt động.
Cha mẹ và tình thương yêu của họ đối với con cái chính là động lực thôi
thúc con trẻ tự hoàn thiện nhân cách.
Tình hình kinh tế, các quan niệm giá trị, phong tục, tập quán nhất là
phương pháp giáo dục của cha mẹ là những yếu tố có ảnh hướng sâu sắc đến
trẻ em. Trong thực tế con trẻ mới sinh ra không phải là đã hư mà do người lớn
đã thành công hay chưa thành công trong phương pháp giáo dục mà thôi.
Ảnh hưởng của gia đình đến quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của cá nhân trong mỗi giai đoạn, lứa tuổi khác nhau lại có những mức độ
khác nhau. Song trong toàn bộ cuộc đời của một con người, giai đoạn lứa tuổi
ấu thơ là giai đoạn mà gia đình để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong nhân
cách của con người. Gia đình hoà thuận, cha mẹ là những người gương mẫu,
mọi người trong gia đình có sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau sẽ như là một
động lực thôi thúc con trẻ hình thành và phát triển nhân cách của mình.
Ngược lại gia đình không hoà thuận, cha mẹ là những người không gương
mẫu sẽ là mầm mống cho những sai lầm sau này. Chính vì vậy khi nói về vai
trò và nhiệm vụ của gia đình đối với con em họ đã được Đảng và Nhà nước ta
quy định trong điều 19 luật hôn nhân gia đình “Cha mẹ có nghĩa vụ thương
yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập sự phát triển lành mạnh
của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về
mọi mặt và phối hợp chặt chẽ với nhà trường, các tổ chức xã hội trong việc
giáo dục con”.
Tóm lại: Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo
dục suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Ảnh
hưởng của giáo dục gia đình đối với mỗi người được diễn ra qua nhiều nhân
tố khác nhau: Đó là thông qua yếu tố di tuyền, thông qua hoàn cảnh kinh tế,
hoàn cảnh xã hội của gia đình thông qua truyền thống của gia đình, qua bầu
52
không khí tâm lý trong gia đình, thông qua mối quan hệ của gia đình với môi
trường xung quanh.v.v…
Tuy nhiên do một số hạn chế về phía cha mẹ và những người lớn tuổi
nên giáo dục gia đình thường hay mắc một số sai lầm sau:
- Cha mẹ ít hoặc không quan tâm đến việc học hành của con trẻ họ
thường quan niệm việc dạy và giáo dục đạo đức là công việc của nhà trường.
- Những người lớn trong gia đình (ông bà, cha mẹ…) thường không
thống nhất với nhau về mục đích, yêu cầu, nhất là phương pháp giáo dục con
cháu họ.
- Nội dung giao tiếp giữa cha mẹ với con thường là nghèo nàn, cha mẹ
thường lạm dụng vì thế, lạm dụng uy quyền đối với con trẻ.
- Người lớn thường hay không thông cảm với yêu cầu vui chơi của trẻ
- Nhiều bậc cha mẹ còn đánh đập, chửi mắng con của họ.
- Sự đối xử thiếu lịch sự của người lớn đối với trẻ em làm cho trẻ thiếu
tự tin…
Những thiếu sót trên thường có ảnh hưởng không tốt đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của con trẻ, học sinh.
Để quá trình giáo dục gia đình diễn ra thuận lợi, gia đình cần có những
điều kiện cơ bản sau:
- Gia đình có đủ cha mẹ
- Gia đình yên lành (ít có nguy cơ bị tan vỡ, gia đình không yên lành là
gia đình còn nhiều yếu tố thường trực dẫn đến sự tan rã)
- Gia đình phải có bầu không khí tâm lý hoà thuận
- Gia đình có sự lao động chân chính và trung thực
- Mọi thành viên trong gia đình luôn tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ
lẫn nhau.
- Người lớn luôn có những phương pháp giáo dục đúng đắn và có những
đòi hỏi thống nhất đối với con trẻ (không trống đánh xuôi, kèn thổi ngược,
người mắng người bênh).
53
- Cha mẹ cần có những hiểu biết cần thiết và đặc điểm tâm lý lứa tuổi
của trẻ đồng thời phải biết giúp con trẻ thoả mãn các nhu cầu một cách
chính đáng.
- Gia đình phải biết xử lý đúng các nguồn thông tin để định hướng cho
việc hình thành ý thức, tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen phù hợp với
các chuẩn mực xã hội ở trẻ em.
3. Sự kết hợp giáo dục nhà trường đối với giáo dục gia đình trong quá
trình giáo dục trẻ em
Sự phối hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường và gia đình học sinh
được dựa trên nguyên tắc cộng đồng trách nhiệm để đạt được mục đích
chung. Phát triển và hoà thuận nhân cách của học sinh theo mục đích giáo dục
xã hội đặt ra.
Nhà trường được xem là nôi giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Nhà trường cần chủ động giúp đỡ
và hỗ trợ cụ thể cho các bậc phụ huynh trong bậc giáo dục trẻ em. Nội dung
giúp đỡ và hỗ trợ giữa các nhà sư phạm và các bậc phụ huynh là rất đa dạng
và phong phú.
Ví dụ:
- Chỉ ra những khả năng giáo dục đặc biệt của giáo dục gia đình
- Hướng dẫn mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục của bậc học mà
con em họ đang theo học
- Trao đổi những kiến thức về giáo dục: dạy học, tâm lý lứa tuổi, cách tổ
chức đời sống gia đình sao cho hợp lí…
Gia đình học sinh: cần chủ động với nhà trường về tình hình học tập, tu
dưỡng của con em mình
- Cần quan tâm đầy đủ, đúng mức đến sự phát triển nhiều mặt ở học sinh
(tu dưỡng đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất, lao động…)
- Người lớn trong gia đình phải là những tấm gương mẫu mực để con
em họ học tập và noi theo.
54
4. Các hình thức kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường
Để công tác kết hợp giáo dục diễn ra thường xuyên liên tục và có hiệu
quả cha mẹ cần chủ động kết hợp với nhà trường, với giáo viên chủ nhiệm để
giáo dục học sinh. Thông thường cha mẹ học sinh có thể sử dụng các hình
thức sau đây:
- Tham gia họp phụ huynh học sinh theo định kỳ (hay đột xuất).
- Thông qua sổ liên lạc gia đình và nhà trường.
- Thông qua thư hoặc điện thoại gia đình.
- Gặp trực tiếp GVCN hay GV bộ môn để trao đổi thông tin.
- Thông qua hội phụ huynh học sinh.
- Thông qua cộng đồng dân cư nơi học sinh cư trú.
(Sinh viên: cần xem lại nội dung và cách thức làm việc của giáo viên
chủ nhiệm lớp).
III. GIÁO DỤC XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA GIA ĐÌNH
VÀ XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH
1. Giáo dục của xã hội
Cụm từ “giáo dục của xã hội” đang xem xét và được hiểu là giáo dục
mang tính xã hội và hiểu theo nghĩa rộng hơn là: Nó là nền giáo dục được tổ
chức và tiến hành trong các cơ quan do nhà nước muốn hoặc do xã hội thiết
lập. Xã hội vì chịu trách nhiệm đào tạo những công dân tương lại của mình,
xã hội hoạch định các chương trình, quyết định giá và như vậy dù mục tiêu
cuối cùng, xác định các chuẩn mực đánh giá và như vậy dù muốn hay không:
giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội. Bởi vậy giáo dục gia đình luôn
phải cập nhật những yêu cầu, đòi hỏi do xã hội đề ra.
Giáo dục của xã hội rất giàu tiềm năng và được thể hiện ở nhiều lĩnh
vực. Ví dụ như: giáo dục truyền thống, sự định hướng các giá trị và những
chuẩn mực giá trị mà xã hội đã quy định… Tất cả các tiềm năng trong các
lĩnh vực giáo dục của xã hội đã truyền lại cho thế hệ trẻ những tập tính xã hội.
55
Và chính những tập tính này đã làm cho thế hệ trẻ trở thành những công dân
của đất nước.
Phạm vi của chương này chúng ta chỉ xem xét giáo dục của xã hội theo
nghĩa hẹp hơn đó là: Những hoạt động giáo dục do các đoàn thể của nhân dân
tham gia thực hiện, cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ quan chức năng đóng
tại cộng đồng nơi học sinh sinh sống và học tập. Huy động được các tiềm
năng giáo dục trên tham gia vào quá trình giáo dục được xem như là đã tiến
hành xã hội hoá giáo dục một trong những quan điểm lớn mà chúng ta đang
theo đuổi và đang thực hiện.
Công tác giáo dục của xã hội được thực hiện bằng các phương thức như:
- Sự nêu gương của người lớn, việc đỡ đầu của nhà trường (củng cố và
phát triển cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực).
- Việc thành lập và hoạt động của hội đồng giáo dục các cấp (đặc biệt là
hội đồng giáo dục cấp huyện).
- Sự tham gia tích cực của các đoàn thể ở địa phương đối với công tác
giáo dục trẻ em nơi cộng đồng dân cư.
- Đoàn thanh niên, đội thiếu niên, hội phụ nữ, CCB hội khuyến học ở địa
phương.v.v…
Mỗi một tổ chức, đoàn thể quần chúng đều có sức mạnh và thế mạnh
khác nhau trong công tác giáo dục trẻ em. Gia đình phải biết tận dụng những
kinh nghiệm quý báu đó của các tổ chức, đoàn thể quần chúng đó trong quá
trình giáo dục trẻ em.
2. Nội dung phối hợp giáo dục
a. Phối hợp với các tổ chức các lực lượng giáo dục của người lớn trong
xã hội để nắm tình hình học tập, tu dưỡng rèn luyện của con em.
b. Chủ động vạch kế hoạch và tổ chức thực hiện cùng các cơ sở sản
xuất, các đoàn thể xã hội. Các cơ quan văn hoá giáo dục ngoài trường với hội
phụ huynh học sinh để nắm bắt được nhà trường cái đúng, sai của con em để
bảo ban dạy dỗ uốn nắn.
56
c. Theo dõi quá trình học tập rèn luyện và tu dưỡng của học sinh ở địa
phương phân tích nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục.
d. Tham gia tích cực trong các buổi tổ chức phổ biến tri thức về KHGD.
e. Tích cực tham gia vào quỹ khuyến học ở địa phương.
Tóm lại: Kết hợp chặt chẽ các ảnh hưởng giáo dục cảu gia đình với giáo
dục nhà trường và giáo dục xã hội là thể hiện quán triệt đúng tinh thần chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước, là ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước và
nguyện vọng của nhân dân trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay. Vì vậy đòi
hỏi những người làm cha, mẹ hãy thực hiện đúng quyền và bổn phận của
mình trong quá trình giáo dục con trẻ.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Tại sao phải kết hợp các lực lượng giáo dục trong quá trình giáo dục
học sinh.
2. Nêu đầy đủ những hình thức kết hợp giữa giáo dục gia đình với giáo
dục nhà trường.
3. Trình bày những điều kiện kết hợp của xã hội mà cha mẹ có thể tận
dụng và huy động vào quá trình giáo dục con trẻ (học sinh)
4. Bác Hồ có nói: “Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng thiếu
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội cũng không hoàn toàn” Bằng lý luận giáo
đã học Anh(chị) hãy chứng minh ý kiến trên của Bác.
57
Chương IV
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH MỘT BỘ PHẬN ĐẶC BIỆT
CỦA GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Thời gian giảng dạy: Thời gian thảo luận:
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Tình hình chung trên thế giới
Giáo dục giới tính là một vấn đề được nhiều nước ở châu Âu tiến hành
rất sớm.
- Năm 1921 Thuỵ Điển đã nghiên cứu vấn đề giáo dục giới tính. Ngay từ
thời đó Thuỵ Điển đã coi tình dục là quyền tự do của con người. Là quyền
bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công dân đối với xã hội.
- Năm 1933 Thuỵ Điển thành lập “Hiệp hội quốc gia tình dục”. Mục tiêu
của hiệp hội này là:
+ Thông tin phổ biến kiến thức về giới tính nói chung và tình dục nói riêng.
+ Sản xuất và bán thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai.
Nhìn chung vấn đề giáo dục giới tính trong giai đoạn này gắn bó với
phong trào “Phấn đầu vì những cải cách tình dục”. Những người tham gia
phong trào này đã nêu lên hàng loạt những đòi hỏi tiến bộ như: Bình đẳng
nam nữ, giải phóng hôn nhân khỏi quyền lực nhà thờ, Tự do ly hôn, sử dụng
các biện pháp tránh thai, giáo dục tình dục trên cơ sở khoa học.
- Năm 1942 Bộ Giáo dục Thuỵ Điển quyết định đưa thí điểm giáo dục
tình dục vào trong nhà trường và đến năm 1956 thì dạy phổ cập từ tất cả các
loại trường từ tiểu học đến trung học.
- Sau Thuỵ Điển là các nước đông Âu như: Đức, Balan, Hunggari, Tiệp
Khắc và các nước Tây Âu, Bắc Âu khác. Hầu hết các nước này đều coi giáo
dục tình dục là một vấn đề lành mạnh, đem lại tự do cho con người vì thế mà
họ quan niệm rằng: Cần nói rõ cho mọi người hiểu biết những quy luật hoạt
58
động của tình dục, chương trình giáo dục giới tính của họ rất đa dạng, các
trường có thể chọn vấn đề phù hợp với đối tượng học mà giảng dạy và nhà
nước tận dụng các phương tiện truyền thông để tiến hành giáo dục giới tính.
- Sau đó ở nhiều nước châu Mỹ la tinh, vùng Caribê cũng quan tâm đến
việc giáo dục giới tính. Đối với các nước châu Á giáo dục giới tính vẫn còn là
lĩnh vực “cấm kỵ” xuất phát từ quan niệm phong kiến và tôn giáo trong khi đó
thì châu Á, châu Phi lại là những vùng dân số tăng nhanh nhất thế giới.
Từ những năm 1950 trở lại đây tốc độ gia tăng dân số trên thế giới ngày
càng nhanh chóng ở những quốc gia nghèo tức là “Ở những nước ít được
trang bị đáp ứng nhu cầu của những công dân mới ra đời và để đầu tư cho
tương lai” (Theo TS N.Sadik - Giám đốc chấp hành quỹ dân số Liên hiệp
quốc). Ông tổng giám đốc UNECSCO - Julia, Hixley đã nhắc nhở các quốc
gia rằng: “Dân số quá đông có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn minh
tương lại. Bằng cách này hay cách khác phải cân bằng dân số với các nguồn
tài nguyên hoặc là để cho nền văn minh tàn lụi đi”. Bởi vì dân số càng tăng thì
sô lượng người nghèo bị thiếu ăn, mù chữ đau ốm, bệnh tật không có phương
tiện chạy chữa càng tăng lên và chất lượng cuộc sống ngày càng giảm xuống.
Năm 1968 Đại hội LHQ bắt đầu có những hoạt động về giáo dục dân số
trong từng khu vực. Ngành khoa học về giáo dục ra đời và phát triển làm năng
sinh yêu cầu giáo dục giới tính trong giáo dục dân số.
- Năm 1973 - Hội nghị quốc tế về giáo dục trong các nước nói tiếng Pháp.
- Năm 1974 - Hội nghị quốc tế về tình dục ở Giơnevơ đã thảo luận đến
sự cần thiết phải đưa chương trình giáo dục giới tính và trong chương trình
giảng dạy ở các ngành giáo dục và y tế.
- 1977 - Có hội thảo quốc tế của các nước XHCN về kế hoạch hoá gia
đình, giáo dục giới tính, hôn nhân và gia đình ở Vacxava (Balan)
- Năm 1984 - Có hội nghị Quốc tế ở Mihico về kế hoạch hoá gia đình và
giáo dục giới tính.
59
- Từ năm 1984 - 1986, UNESCO đã làm sáng tỏ những yêu cầu về giáo
dục gia đình và giáo dục giới tính trong quá trình giáo dục ở các nước châu Á
Thái Bình Dương. Nội dung, phương pháp giáo dục giới tính ở các nước có
thể có những khía cạnh khác nhau vì mỗi nước có phong tục tập quán tôn giáo
riêng… Nhưng tất cả đều thống nhất ý kiến về tầm quan trọng và sự cần thiết
phải giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ giúp họ làm chủ quá trình sinh sản của
mình một cách khoa học và phù hợp với tiến bộ của xã hội.
2. Giáo dục giới tính ở Việt Nam
Việt Nam là 1 nước phương Đông trước đây chịu nhiều ảnh hưởng của
tư tưởng phong kiến vì thế mà vấn đề giáo dục giới tính với đúng nghĩa của
nó thì hầu như bị “né tránh”, “thả nổi” hoặc giả có nói thì cũng chỉ đề cập đến
khía cạnh đạo đức theo kiểu “giáo dục giới tính trong thời đại nàng Kiều”
Bước vào những năm 90 của thể kỷ XX với tầm nhìn thế giới Quỹ dân
số Liên hiệp quốc (UNFPA) đã dự báo sự bùng nổ dân số ở cuối thế kỳ 20 và
đầu thế kỷ 21 cùng những thảm hoạ có thể xảy ra cho tương lai của loài
người. Và kêu gọi các quốc gia hãy tham gia một cách tích cực hơn nữa, có
hiệu quả hơn nữa trong công tác giáo dục dân số cho phù hợp với hoàn cảnh
cụ thể của nước mình.
Đảng cộng sản Việt Nam đã coi vấn đề giáo dục dân số là công tác
thuộc chiến lược con người đã có hàng loạt chủ trương chính sách được đưa
ra nhằm thực hiện xã hội hoá giáo dục dân số một cách hữu hiệu. Trong đó
nhấn mạnh thực hiện khuyến nghị của Hội nghị tư vấn khu vực về giáo dục
dân số năm 1986 ở Băng Kốc gồm 4 điểm:
- Giáo dục đời sống gia đình.
- Giáo dục giới tính.
- Giáo dục tuổi già.
- Giáo dục về đô thị hoá.
Thực ra ngay từ ngày 24.12.1984 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm
Văn Đồng đã ký chỉ thị 176A - mà nội dung chỉ thịc có đoạn viết: “Bộ giáo
60
dục, bộ đại học và trung học chuyên nghiệp, tổng cục dạy nghề phối hợp với
các tổ chức liên quan xây dựng chương trình chính khoá và ngoại khoá nhằm
bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên những kiến thức khoa học về giới tính, về
hôn nhân và gia đình, về nuôi dạy con”.
- Sau đó năm 1985 Bộ THCN phối hợp với công đoàn ngành Đại học tổ
chức hội thảo về giáo dục giới tính cho sinh viên Đại học, tổ chức 2 lớp tập
huấn cho cán bộ đoàn, cán bộ tuyên huấn, cán bộ giáo vụ các trường ĐH và
THCN về vấn đề giáo dục giới tính.
- Cùng năm 1985 trung ương hội LHPN Việt Nam đã triển khai phong
trào giáo dục “3 triệu bà mẹ nuôi con khoẻ dạy con ngoan” trong đó có nội
dung giáo dục giới tính cho con trẻ ở tuổi dậy thì. Và lần đầu tiên ở nước ta
vấn đề giáo dục giới tính cho con ở lứa tuổi các bà mẹ có con ở tuổi dậy thì.
- Đến năm 1988 được sự tài trợ của quỹ dân số LHQ-UNEPA cùng với
sự giúp đỡ kỹ thuật của UNESCO khu vực - Bộ giáo dục đào tạo đã giao cho
Viện khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện đề án VIE/88/P09 về giáo dục
gia đình và giáo dục giới tính cho học sinh lớp 10 - 11- 12 mà trọng tâm là
giáo dục gia đình cho học sinh lớp 10-11, giáo dục giới tính cho học sinh lớp
9 và lớp 12. Chương trình của đề án tập trung vào 2 chủ điểm.
* Các chủ điểm về tâm lý - giáo dục gồm: gia đình - khái niệm vai trò và
các giai đoạn phát triển của gia đình, các mối quan hệ gia đình và cách ứng
xử, quản lý gia đình, trách nhiệm làm cha mẹ, bổn phận làm con v.v.. tình
yêu, tình bạn.
* Các chủ điểm về sinh học như là: giới tính về sự khác biệt nam, nữ;
những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì; Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh
sản nam và nữ các bệnh lây lan qua đường sinh dục, hậu quả có thai ở tuổi vị
thành niên.v.v...
Như vậy là lần đầu tiên (năm 1988) trong nhà trường phổ thông ở nước
ta học sinh được học một cách có hệ thống về "những điều bí ẩn, của chính
mình và của các mối quan hệ với người khác giới".
61
Tóm lại: Có thể nói rằng trong tình hình dân số phát triển nhanh như ở
nước ta giáo dục gia đình, giáo dục giới tính là cách tiếp cận vi mô để giải
quyết vấn đề dân số của quốc gia. Nó tác động vào khía cạnh cá nhân, hướng
vào thanh thiếu niên tuổi hôn nhân để giải quyết tận gốc vấn đề tăng dân số
của những năm cuối thế kỷ 20 và ổn định dân số vào những năm đầu TK 21.
II. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
1. Khái niệm giới và giới tính
Thuật ngữ Giới (Gender) mà ta quen dùng là một khái niệm xã hội
huyện hiện đại, một phạm trù triết học chỉ vai trò, trách nhiệm, hành vi, cách
sống mối quan hệ của nam hay giới nữ trong xã hội. Những yếu tốt do xã hội
tạo nên do xã hội quyết định chứ không phải do sự khác biệt về mặt sinh học
giữa nam và nữ. Và vì thế nội dung của khái niệm giới có thể thay đổi theo
từng thời đại, từng nền văn hoá.
Giới sinh học (sex) đã được quyết định ngay từ khi một con người ra
đời, thuộc về nam (male) hay nữ (female). Sự sắp xếp loài người thuộc 2 giới
nam, nữ thực hiện ở giai đoạn sau đẻ này thường chỉ căn cứ vào bộ phận sinh
dục ngoài và mới chỉ có ý nghĩa hành chính nhằm hoàn thành những thủ tục
khai sinh. Thủ tục đăng ký một con người bắt đầu ra nhập cộng đồng xã hội.
Muốn phân chia chính xác và đầy đủ 2 giới nam, nữ về mặt sinh học. Người
ta còn phải căn cứ vào nhiều tiêu chuẩn phức tạp hơn như: nhiễm sắc đồ, bộ
phận sinh dục ngoài và trong, tuyến sinh dục, tình trạng hoóc moon.v.v... Giới
sinh học là tổng thể những đặc tính hình thái và chức năng có sẵn ngay từ khi
mới sinh ra không thay đổi.
Thí dụ: Chỉ có phụ nữ (ở mọi thời đại và mọi nước) mới sinh đẻ và chỉ
có nam giới mới có tính trùng.
Những vấn đề về bản sắc giới (gendef identity) nữ tính (feminity)
nam tính (maseulinity) gọi chung là giới tính - vì chúng là một khu vực rất
phong phú trong khoa học về giới, và là đề tài lý thú của nhiều công trình
khoa học nghiên cứu. Không phải giới sinh học như thế nào thì sẽ phát
62
triển một giới tính tương tự. Sự hình thành giới tính còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nữa.
Giới tính là tổng thể những đặc điểm tâm lý, tính cách hành vi của từng
giới là toàn bộ những biểu hiện mà ta quan sát được (cách ứng xử, nói năng,
ăn mặc sở thích) nó chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của môi trường sống, hoàn
cảnh xã hội, nền văn hoá của môi trường sống, hoàn cảnh xã hội, nền văn
hoá của môi trường đó nó không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự
phát triển của xã hội. Mỗi thời đại, mỗi xã hội có những chuẩn mực riêng về
giới tính, đòi hỏi mỗi giới phải có những phẩm chất nhất định về hành vi ứng
xử, đạo đức.
2. Khái niệm giáo dục giới tính
Có nhiều định nghĩa về giáo dục giới tính
* Theo A.G Khơricôpva và D.B. Kôlêxôp:
Giáo dục giới tính là một quá trình hướng vào việc vạch ra những nét,
những phẩm chất những đặc trưng và những khuynh hướng phát triển của
nhân cách nhằm xác định thái độ xã hội cần thiết của con người đối với những
người thuộc giới khác.
Định nghĩa này cho thấy phạm vi của giáo dục giới tính không chỉ bó
hẹp ở việc giáo dục mối quan hệ giữa nam và nữ mà bao gồm cả việc giáo dục
những mới quan hệ nam nữ trong đời sống cũng như học tập, lao động, nghỉ
ngơi, giải trí... Giáo dục cho con người biết rèn luyện những phẩm chất giới
tính nhằm phát huy thế mạnh của giới tính.
* Theo bách khoa toàn thư y học phổ thông do Pêtrôpski chủ biên
"Giáo dục giới tính là hệ thống các biện pháp y khoa và sư phạm nhằm giáo
dục cho nhi đồng, thiếu niên và thanh niên có thái độ đúng đắn đối với các
vấn đề giới tính".
Định nghĩa này ngoài góc độ giáo dục còn đứng ở góc độ y học để xem
xét nội dung giáo dục giới tính, giúp thế hệ trẻ biết bảo vệ sức khoẻ của chính
mình và những người khác trong quan hệ nam nữ.
63
* Theo từ điển bách khoa về giáo dục:
"Giáo dục giới tính là giáo dục về chức năng làm một con người, có
giới tính điều quan trọng là đề cập vấn đề giới tính một cách công khai và đầy
đủ trong lớp học, từ nhà trẻ đến đại học giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và
tự do trong việc biểu lộ các cảm xúc liên quan đến đời sống giới tính".
Định nghĩa này nêu bật được bản chất của công tác giáo dục giới tính.
Đó là sự định hướng cho thế hệ trẻ cách sống đúng đắn của con người có giới
tính. Việc giúp cho thế hệ trẻ làm "một con người có giới tính" là điều hết sức
cần thiết trong cuộc sống. Nhiều người không nhận thức được việc thiếu "nữ
tính" của phụ nữ hoặc "nam tính" của đàn ông là một tai hại. Tại hại vì khi
mất đi "cái tôi" thì đồng thời hệ thống quan hệ với người khác giới cũng bị
phá vỡ "tính nữ" bị mất đi khi người con gái cố bắt chước để giống con trai
nên hành vi cử chỉ tác phong trở thành thô kệch hoặc ngang tàng đến mức lố
lăng. Họ đánh mất "nữ tính" khi họ coi sự e thẹn, dịu dàng, danh dự của người
con gái là những cái đã "cũ rích" cần phải được vứt bỏ. Làm như vậy thật ra
họ đã vứt bỏ mất những đặc trưng giới tính mang tính hấp dẫn nhất đối với
người khác giới, khiến thế giới cũng thiệt thòi vì mất đi vẻ đẹp dịu dành của
người phụ nữ.
Trong phạm vi gia đình thì sự đi lệch chuẩn mực trong lĩnh vực tự ý
thức về giới tính cũng chứa đầy những hậu quả tiêu cực làm mất đi sự hài hào
của đời sống gia đình. Tính nữ ở người vợ thể hiện sự dịu dành âu yếm, sự
tinh tế và lòng tin cậy, lòng vị tha thể hiện ở ý thức mong muốn làm vui lòng
người khác và biết cách mang lại nguồn vui cho người thân yêu trong gia
đình. Ý thức đó là nguồn cổ vũ giữ vững nghị lực của chồng.
* Nam tính ở người chồng đó là: tính công dân đi đôi với tính chất của
người cha xứng đáng: có đôi tay vững vàn để chèo chống con thuyền gia đình
vượt lên mọi sóng gió, thác ghềnh của cuộc đời. Tính độc lập tự chủ và ý thức
trách nhiệm đối với công việc trong gia đình và ngoài xã hội, lòng hào hiệp độ
lượng sự trung thực trong tình yêu và trong cuộc sống.
64
Những "tính nam", "tính nữ" không thể hình thành một cách tự nhiên
mà con người phải trả qua một quá trình được giáo dục, được rèn luyện mới
có được. Ngay những chức năng giới tính mà thiên nhiên đã bẩm phú cho
người đàn ông và người đàn bà đó là chức năng truyền giống ở người đan
ông, chức năng sinh để ở người đàn bà cũng cần được giải thích làm sáng tỏ
cơ sở khoa học của sự hoạt động có quy luật của hành vi tình dục nhằm mang
lại sự "an toàn" và "tự do" cho con người. Con người chỉ cảm thấy "tự do" khi
đã nắm vững được cái "tất yếu" nắm vững những quy luật phát triển sinh lí,
tâm lí của con người mà thôi. Định nghĩa còn đề cập đến vai trò của các cơ
quan giáo dục của nhà trường là nơi có đủ điều kiện thuận lợi trong việc
truyền thụ cho thế hệ trẻ những kiến thức giới tính một cách hệ thống.
Ở đây cần phân biệt giáo dục giới tính và tình dục. Giáo dục về tình dục
nhằm giúp các em thanh, thiếu niên có được kiến thức khoa học về sinh lý
học, tình dục học và về sinh học... Về các vấn đề giới tính và đời sống tình
dục. Việc giáo dục về tình dục cho các em thiếu niên, thanh niên theo các nhà
khoa học chỉ nên bắt đầu từ năm lớp 10.
Tóm lại: Giáo dục giới tính là một bộ phận quan trọng của giáo dục
nhân cách phát triển câu đối, toàn diện. Giáo dục giới tính nhằm bồi dưỡng
cho thế hệ trẻ những hiểu biết giới tính cần thiết. Hình thành cho họ những
phẩm chất giới tính của mình, giới thiệu cho họ thái độ và kỹ năng giao tiếp
ứng xử lịch sự văn minh trong quan hệ với người khác giới ở mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, rèn luyện cho họ ý chí làm chủ bản năng, làm chủ quá
trình sinh sản nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của bản
thân, của gia đình và của cộng đồng xã hội.
3. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính
Giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây.
* Giúp thế hệ trẻ nắm vững hệ thống kiến thức sinh lý học và giải
phẫu cơ quan sinh dục, các giai đoạn phát triển sinh lý giới tính của con
người, tâm sinh lý của đời sống tình dục, sự thụ tinh và sự phát triển của
65
bào thai, có thai và sự sinh đẻ, vô sinh giới tính, vô sinh tình dục và các
biện pháp phòng tránh thai.
* Giáo dục ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng của con người, biết
quan tâm đến những đặc điểm giới tính của người khác giới trong quá trình
hoạt động chung.
* Giáo dục khả năng tự đánh giá hành vi của mình trong quan hệ với
người khác. Biết phân biệt tốt, xấu đúng sai trong phạm vi quan hệ khác giới.
* Giáo dục thái độ trách nhiệm đối với sức khoẻ của bản thân mình và
sức khoẻ của người khác, ý thức được những tai hại, nguy hiểm do quan hệ
tình dục ở tuổi vị thành viên.
* Giáo dục khát vọng có một gia đình hạt nhân hoà thuận, lành mạnh và
vững chắc đáp ứng được những yêu cầu của xuất hiện tiến bộ ngày nay: Có
một, hai con khoẻ mạnh và nuôi dạy con cho tốt.
* Giáo dục thái độ phê phán đối với những biểu hiện của thái độ vô
trách nhiệm, lừa đảo, lối sống phóng đãng coi khinh phụ nữ, tính "nhẹ dạ cả
nể" hoặc tự đánh mất phẩm giá của người phụ nữ trong quan hệ với người
khác giới.
III. NỘI DUNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở CÁC LỨA TUỔI
Có thể nói rằng những nhiệm vụ giáo dục giới tính được thực hiện
thông qua nội dung giáo dục giới tính. Nội dung này phải được phân chia phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của trẻ.
Theo tiến sĩ khoa học Khrếpcova và Côlêxôp thì sự lựa chọn nội dung
giáo dục giới tính phải dựa trên những căn cứ sau đây:
+ Theo trình độ phát triển chung của đối tượng giáo dục khả năng của
chúng đối với việc nhận thức thông tin phân tích thông tin ở những mức độ
cao thấp khác nhau.
+ Sự quan tâm có chủ định hoặc quan tâm do tình cờ ngẫu nhiên trong
việc chấp nhận những thông tin nhất định, những thông tin, biểu hiện bằng lời
hoặc những hình thức biểu hiện khác của thông tin.
66
+ Những đặc điểm hoạt động của đối tượng giáo dục cùng những đặc
điểm hành vi của chúng và những mối quan hệ qua lại giữa chúng với những
người cùng giới và những người khác giới.
+ Mức độ trưởng thành về thể chất và tinh thần của đối tượng. Những
đặc điểm biến đổi sinh lý cơ thể.
+ Quy luật chung của việc hình thành tập thể lớp và những đặc điểm cụ
thể của lớp học.
+ Những đặc điểm của mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong
gia đình, đối tượng giáo dục và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục trẻ.
- Ở đây một vấn đề được đặt ra là nội dung giáo dục giới tính nên bắt
đầu từ lứa tuổi nào? Cũng có rất nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau.
Ở các nước phương tây giáo dục giới tính được bắt đầu ngay từ trước
tuổi học (trước tuổi đến trường) bác sĩ Benjamin Spock (Mỹ) phân tích rằng:
"Khi một đứa con trai lên 3 thấy một đứa con gái ở truồng nó có thể
ngạc nhiên lạ lùng vì đứa con gái ấy không có "chim" như nó. Chuyện tương
tự cũng có thể xảy ra với đứa con gái lần đầu tiên trông thấy một đưa con trai
không giống nó. Thế rồi nó lo lắng "Cái gì đã xảy ra với nó" nó muốn biết tại
sao nó không giống nhau? Nó sẽ hỏi cha mẹ".
Và ông khuyên những người làm cha mẹ: "Bạn đừng nghĩ rằng những
câu hỏi về giới tính là một sự quan tâm không lành mạnh. Đối với trẻ câu hỏi
ấy cũng như mọi câu hỏi khác, không hề có ý nghĩa gì đặc biệt cả. Nếu người
lớn biết trẻ phải im lặng không được hỏi, hoặc mắng trẻ, hoặc đỏ mặt lên
không chịu trả lời đi ngược với sự quan tâm của trẻ. Thái độ ấy của người lớn
sẽ gây cho trẻ những ấn tượng xấu như phiêu lưu vào một nơi mạo hiểm, đó
chính là điều bạn nên tránh".
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cũng có những nhận xét rằng: Từ một tuổi
trở đi trẻ bắt đầu tập tiểu tiện, đại tiện có kỷ luật. Quá trình chủ động thường
khó và kéo dài hơn quá trình đại tiện vì bắp thịt vành khuyên quanh ống đái
khi điều khiển hơn trực tràng và hậu môn nên nhiều cháu lên 2 lên 3 vẫn còn
67
thỉnh thoảng "tè" ra quần rồi mới nói "con tè". Bộ phận tiểu tiện cũng là bộ
phận sinh dục sự quan tâm nhắc nhở bé ỉa, đái đúng chỗ của cha mẹ, cảm giác
khó chịu hoặc khoan khoái của cha mẹ, cảm giác khó chịu khoan khoái của
trẻ khi giải quyết nhu cầu ỉa, đái nảy sinh cùng một thời gian dài và tự nhiên
khiến trẻ trai nhận ra mình có "chim", trẻ gái cũng nhận ra mình chỉ có
"bướm" chứ không có chim như bạn. Từ đó trẻ sẽ thắc mắc "Tại sao người có
người không có"; tại sao phải đứng đái, tại sao phải ngồi đái.v.v... Thêm vào
đó một số người lớn lại hay doạ "cắt chim" hay "chim bay mất"... Tất cả
những hiện tượng trên đều tác động đến trẻ khiến trẻ quan tâm và nhận biết
giới tính của mình.
Như vậy là vào tuổi lên 3 khi trẻ tò mò muốn biết mọi cái xung quanh
mình thì sự khác biệt giới tính cũng nằm trong tầm mắt của trẻ khiến chúng
thắc mắc và tìm hiểu. Vì thế giáo dục giới tính có thể bắt đầu từ khi trẻ có ý
thức về bản thân mình, về "cái tôi" của mình, khi trẻ bắt đầu tự khẳng định
bản thân và cũng bắt đầu tự khẳng định giới tính công dân của mình.
Nhà giáo dục nổi tiếng thế giới Bà Cơrúpxkaia khuyên các bậc cha mẹ
rằng: "Điều quan trọng nhất là không coi đứa con như là một tài sản của riêng
mình muốn làm gì thì làm... cần phải học nhìn đứa con như một con người".
Vấn đề là ở chỗ lựa chọn nội dung và phương pháp thích hợp ở lứa tuổi này,
và các lứa tuổi tiếp theo.
1. Giáo dục giới tính cho trẻ em trước tuổi học
* Hình thành cho trẻ những thái độ tự nhiên đối với những dấu hiệu đặc
trưng cho giới tính ở bề ngoài cơ thể.
Ví dụ: Thấy bé trai nghịch "chim" của nó thì cha mẹ và người lớn nên
thông cảm rằng đó chỉ là hành động tò mò khám phá những bộ phận trong cơ
thể trẻ thái độ đó không mang một ý nghĩa gì đặc biệt ⇒ không phải là xấu
cần trừng phạt. Theo bác sĩ Bejamin Spock: "Đừng bao giờ gây cho trẻ ấn
tượng là bé đã có hành vi xấu, hay cơ quan sinh dục của bé là xấu mà khi thấy
trẻ nghịch cha mẹ hoặc người lớn cứ thản nhiên bảo trẻ: "Tay nghịch bẩn rồi
68
lại sờ vào chim làm cho chim cũng bẩn nó có thể bị ngứa hoặc bị sưng lên
làm cho đau bây giờ" như vậy sẽ hình thành cho trẻ thái độ tự nhiên đối với
những dấu hiệu đặc trưng riêng bề ngoài của giới tính".
* Quan tâm giáo dục những đặc tưng "tính nữ, tính nam" cho trẻ thông
qua việc đứa trẻ vào nề nếp sinh hoạt gia đình.
Qua quan hệ của cha mẹ đối với nhau, qua quan hệ bạn bè đặc biệt là
thông qua trò chơi. Ví dụ: Qua trò chơi bà mẹ giúp cho con về tình mẫu tử
như dạy em trở thành bạn tốt của búp bê, dạy em biết giữ gìn váy áo của búp
bê sạch sẽ, không đánh đập làm búp bê bị thương tích, tỏ thái độ âu yếm với
búp bê như chính bản thân cô bé đang hưởng sự âu yếm của cha mẹ vậy.
* Rèn luyện cho trẻ thói quen giữ gìn cơ quan sinh dục: Việc chăm sóc
trẻ cần tuân thủ những yêu cầu vệ sinh, tránh mặc cho trẻ quần áo cứng quá
chật, loại trừ các tác động kích thích đến cơ quan sinh dục.
* Dạy cho trẻ cách ứng xử đối với bạn trai, bạn gái trong quan hệ bạn bè.
2. Giáo dục giới tính ở lứa tuổi nhi đồng (7 đến 10 tuổi)
Đặc điểm của trẻ em ở lứa tuổi này là chưa có khả năng tập trung chú ý
lâu vào một đối tượng nào đó, dễ mệt mỏi. Nhưng các em, đặc biệt là các em
gái lại dễ dàng tiếp thu các tác động giáo dục của thày, cô giáo. Thày cô giáo
có uy tín rất lớn đối với các em. Đây là lúc trẻ biểu lộ trong quan hệ bạn bè
những thói quen mang từ gia đình nhà trường. Các cô bé thường chơi thành
nhóm với nhau và tỏ ra không thích chơi với các bạn trai. Vì thế các nhà giáo
dục cần tổ chức những trò chơi chung giữa các em trai và gái tạo điều kiện
cho tình bạn khác giới nảy nở tự nhiên trong các em, làm cho các em biết giúp
đỡ lẫn nhau, biết nhường nhịn, đối sử rất đẹp với nhau.
* Hướng dẫn cho trẻ em nhận thức được sự khác nhau ở hình thể bên
ngoài của nam và nữ để từ đó khái quát cho trẻ thấy:
- Con trai sẽ trở thành đàn ông, người cha.
- Con gái sẽ trở thành đàn bà, người mẹ.
- Mỗi em trai hay gái đều tự hào về giới mình.
69
- Sự phân công nhiệm vụ trong gia đình giữa cha và mẹ có tính đến
năng khiéu cá nhân và khả năng ưu thế hơn để hoàn thành công việc được
phân công một cách tốt đẹp. Đồng thời cũng cần nhấn mạnh rằng cha và mẹ
luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi lúc.
* Tiếp tục giáo dục tình cảm gia đình: tình yêu cha, mẹ, yêu ông bà chú
bác anh chị em ruột thịt. Giúp đỡ mẹ, săn sóc em bé mới sinh, hình thành lòng
nhân ái, sự quan tâm đến người khác và biết tự kìm chế những ước muốn của
mình để làm vui lòng cha mẹ.
* Giáo dục về nếp sinh hoạt tốt, ngăn nắp, cẩn thận...
3. Giáo dục giới tính ở tuổi thiếu niên (từ tuổi 11 đến 14)
Đặc điểm của lứa tuổi nảy là quá trình giáo dục đã bắt đầu ảnh hưởng
đáng kể đến trạng thái tâm lý, và tình hình sức khoẻ của thiếu niên, ảnh hưởng
đến thái độ của các em đối với nhau. Sự phát dục của các em gái thường sớm
hơn các em trai từ 1 năm rưỡi đến 2 năm rưỡi cho nên trong giai đoạn đầu
tuổi thiếu niên các thầy cô giáo ở mỗi lớp thường có 2 nhóm trẻ khác nhau về
tuổi dạy thì, về sự trưởng thành thể chất nhưng lại được thống nhất của nhiệm
vụ chung là dạy học. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự xa lánh
tạm thời giữa các em trai và các em gái ở đầu tuổi thiếu niên. Để khắc phục
tình trạng này các thày cô giáo nên tổ chức các hoạt động tập thể chung của
lớp, của tập thể đội thiếu niên thông qua những hoạt động này mà hình thành
ở các em nhu cầu hoạt động chung hình thành những phẩm chất đặc trưng của
mỗi giới và thấy rõ sự cần thiết phải có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với
người khác giới.
Mặt khác cũng cần thấy rằng sự phát dục ở mỗi thiếu niên thiếu nữ có
thể hiện ra ở những mức độ phát triển khác nhau do đó mà nàh giáo dục (các
thày cô giáo) phải tiến hành công tác giáo dục giới tính theo từng nhóm và
trong từng trường hợp cần thiết thì tiếp xúc cá nhân với những tác động
chuyên biệt phù hợp với tình huống và giới tính. Để ngăn ngừa những hiện
tượng tiêu cực (lo âu, sợ hãi trước những biến đổi của cơ thể, tò mò, tìm hiểu
70
quan hệ nam nữ...) có thể xảy ra ở lứa tuổi này nên nội dung giáo dục giới
tính bao gồm:
- Giới tính và sự khác biệt tâm, sinh lí giới tính. Vai trò của giới tính
trong gia đình và xã hội.
- Những giai đoạn phát triển quan trọng của cơ thể con người, nhưng
biến đổi tâm sinh lí ở tuổi dậy thì - hiện tượng và nguyên nhân.
- Kinh nguyệt và vệ sinh kinh nguyệt.
- Tuổi trưởng thành về mặt sinh học.
- Tuổi trưởng thành về mặt xã hội.
- Sự khác nhau về độ tuổi trưởng thành giữa nam và nữ.
- Trách nhiệm của thanh niên đối với gia đình và xã hội.
Vào cuối tuổi thiếu niên, giai đoạn kết thúc thpì kỳ phát dục nên trong
cơ thể của trẻ đã có một số lượng đáng kể hoóc môn sinh dục hoạt động. Thúc
đẩy các em bắt đầu quan tâm đến người khác giới. Trong thời điểm này mọi
thông tin có liên quan đến tính dục trở nên hấp dẫn đối với các em. Những
thông tin này "không thoảng qua" mà được tiếp nhận một cách có ý thức dần
dần tạo nên những ý niệm đầu tiên về hoạt động tình dục ở các em. Trẻ bắt
đầu nhận định, nhận xét về những đặc trưng giới tính ở người khác giới đồng
thời ở các em có sự mở rộng giao tiếp ra khỏi phạm vi gia đình và nhà trường
phát triển các hứng thú của mình theo nhiều hướng điều đó đòi hỏi sự quan
tâm đúng mức của cha mẹ đối với con trẻ. Bởi vì biết lợi điển hình nhất đối
với lứa tuổi còn non nớt về kinh nghiệm sống này là sự tình cờ gặp những
người xấu rồi tiến đến thường xuyên quan hệ giao tiếp với nhóm người xấu bị
họ lôi cuốn vào những hoạt động tình dục khi đang ở tuổi vị thành niên, đồng
thời lại hấp thụ lối sống đồi truỵ, những thói quen xấu: Nghiện rượu, thuốc lá,
ma tuý và những hành vi xấu khác.
Thực tế cho thấy phải có sự quan tâm đặc biệt đến lứa tuổi dạy thì.
4. Giáo dục giới tính ở lứa tuổi thanh niên
Đặc điểm của lứa tuổi này là đã có sự phát triển tương đối hoàn chỉnh
về nhân cách, về ý thức công dân, quan điểm sống và xu hướng đạo đức...
71
Trước mắt nhà giáo dục (cha mẹ...) bây giờ không phải là những học sinh mà
là một "thế giới người lớn" họ đòi hỏi sự tôn trọng, quan hệ bình đẳng và tin
cậy lẫn nhau đối với nhà giáo dục. Riêng nữ thanh niên nông thôn thì một số
không ít thường bỏ học sớm lấy chồng thậm chí tảo hôn. Vì thế nội dung giáo
dục giới tính ở lứa tuổi này cần:
- Ôn lại và nâng cao những kiến thức về giải phẫu sinh lý và chức năng
của cơ quan sinh dục Nam Nữ.
- Nhấn mạnh tính đạo đức trong quan hệ tình dục Nam Nữ.
- Tình bạn khác giới. Tình yêu và sự lựa chọn bạn đời. Tiêu chuẩn lựa
chọn, nguyên nhân phải lựa chọn. Hậu quả của việc lựa chọn không đúng.
- Tình yêu và trách nhiệm. Vấn đề tình dục trong tình yêu.
- Vai trò của hôn nhân trong cuộc sống con người.
- Thụ thai và sự phát triển của thai. Những yếu tố có ảnh hưởng đến sự
phát triển của bào thai (rượu, thuốc lá, ma tuý, tia phóng xạ, vi trùng gây
bệnh, hoá chất độc hại, kể cả những loại thuốc chữa bệnh và những phụ nữ có
thai không được phép dùng).
- Tội phạm tình dục và việc phòng ngừa tội phạm tình dục, sự quyến rũ,
sự mua chuộc, sự cưỡng bức tình dục đối với trẻ vị thành niên đĩ điếm và lối
sống phóng đãng hạ thấp nhân phẩm.
- Các biện pháp ngừa thai, nguy hiểm có thể xảy ra đối với những
người nạo hút phá thai trong lần đầu mang thai, phá thai lén lút và sự nguy
hiểm của nó.
- Các bệnh lây lan theo đường tình dục: Bệnh lậu, giang mai, AIDS.
Triệu chứng bệnh, nguyên nhân gây bệnh, hậu quả, cách phòng tránh, nhiệm
vụ tợ báo với cơ quan y tế để chữa bệnh.
- Cách tự phát hiện và đề phòng ung thư vú, dạ con ở bạn gái.
- Vấn đề của những cặp vợ chồng trẻ, khó khăn và những mâu thuẫn
của cặp vợ chồng trẻ. Nguyên nhân nảy sinh và cách giải quyết. Những kiến
thức cơ bản trong quan hệ tình dục của các cặp vợ chồng trẻ.
72
- Lợi ích của việc kế hoạch hoá gia đình tuổi thuận lợi cho sinh con lần
đầu và lần cuối.
- Văn hoá ứng sử trong quan hệ nam nữ.
Tóm lại: Có thể nói cuộc sống giới tính là "Lĩnh vực tế nhị nhất, dịu dàng
nhất, đáng tự hào nhất và dễ bị tổn thương nhất, kín đáo nhất, cở mở nhất và
cũng dễ sơ hở nhất của tự do con người". Vì thế lựa chọn và sử dụng nội dung
giáo dục giới tính cho phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đời sống là
thuộc nghệ thuật sư phạm của người làm công tác giáo dục giới tính.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục - đào tạo, Giáo trình CNXH khoa học, Nxb CTQG - H. 2006.
2. Bộ Giáo dục - đào tạo, Giáo trình giáo dục dân số sức khoẻ sinh
sản, H. 2009.
3. Nguyễn Khắc Chương, Giải pháp tình huống trong giáo dục gia
đình, Nxb Sự thật, H.1991.
4. Lê Tiến Hùng, Dạy con nên người, Nxb Đại học Quốc gia, H. 1991.
5. Nguyễn Văn Lê - Nguyễn Thị Đoan, Giáo dục giới tính, Nxb Đại
học quốc gia, H.1997.
6. UBTN và NĐ-TW, Khoa học giáo dục con em trong gia đình, Nxb
Phụ nữ, H. 1991.
7. Lê Ngọc Văn, Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb
Giáo dục, H.1996.
8. Nguyễn Đình Xuân, Giáo dục đời sống gia đình, Nxb Đại học quốc
gia, H. 1997.
74
MỤC LỤC Chương I: GIA ĐÌNH - TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI ............................................... 1
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH ............................................................ 1
1. Khái niệm Gia đình ................................................................................ 1
2. Vị trí gia đình trong xã hội ..................................................................... 5
II. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH .............................................. 7
1. Chức năng tái sản xuất ra con người ...................................................... 7
2. Chức năng nuôi dưỡng giáo dục con trẻ ................................................ 8
3. Chức năng kinh tế ................................................................................. 10
4. Chức năng tổ chức đời sống vật chất và văn hoá gia đình ................... 11
III. CÁC MỐI QUAN HỆ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG GIA ĐÌNH ............. 12
1. Quan hệ vợ chồng ................................................................................. 12
2. Quan hệ cha mẹ và con cái ................................................................... 14
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 17
Chương 2: GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ................................................................ 18
I. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ........................................................... 19
1. Định nghĩa ............................................................................................ 19
2. Các khâu trong giáo dục gia đình ......................................................... 19
3. Đặc điểm của giáo dục gia đình ........................................................... 21
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ............................................................ 23
1. Giáo dục đạo đức .................................................................................. 23
2. Giáo dục trí tuệ ..................................................................................... 25
3. Giáo dục lao động ................................................................................ 26
4. Các mặt giáo dục khác ......................................................................... 27
III. NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH ......................... 30
1. Đảm bảo tính mục đích trong giáo dục gia đình .................................. 30
2. Cha mẹ và người lớn phải gương mẫu trước con trẻ ........................... 31
3. Bảo đảm giáo dục gắn với đời sống, với lao động ............................... 31
4. Tôn trọng nhân cách trẻ em, đảm bảo đúng quyền, bổn phận của trẻ em... 33
75
5. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội ...... 35
6. Nguyên tắc bảo đảm tính cá biệt .......................................................... 36
7. Giáo dục gia đình phải lấy tình thương yêu làm nền móng ................. 36
8. Giáo dục gia đình phải bảo đảm thường xuyên liên tục ...................... 37
IV. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ....................... 37
1. Phương pháp thuyết phục ..................................................................... 38
2. Phương pháp giáo dục bằng nêu gương ............................................... 38
3. Phương pháp giao việc ......................................................................... 39
4. Phương pháp tập luyện ......................................................................... 40
5. Phương pháp rèn luyện ......................................................................... 41
6. Phương pháp Thưởng - Phạt ................................................................ 42
7. Phương pháp tổ chức trò chơi .............................................................. 44
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 45
Chương III: KẾT HỢP CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH VỚI
NHÀ TRƯỜNG VÀ GIÁO DỤC CỦA XÃ HỘI ............................................. 46
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC KẾT HỢP CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC ....... 46
1. Cơ sở lí luận của sự kết hợp các lực lượng giáo dục ........................... 46
2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 47
II. SỰ KẾT HỢP GIỮA GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG VỚI GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ... 48
1. Vai trò của giáo dục nhà trường ........................................................... 48
2. Vai trò của giáo dục gia đình ............................................................... 49
3. Sự kết hợp giáo dục nhà trường đối với giáo dục gia đình trong quá
trình giáo dục trẻ em ................................................................................. 53
4. Các hình thức kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường .............. 54 III. GIÁO DỤC XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC PHỐI HỢP GIỮA GIA ĐÌNH VÀ XÃ
HỘI TRONG VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH ................................................... 54
1. Giáo dục của xã hội .............................................................................. 54
2. Nội dung phối hợp giáo dục ................................................................. 55
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 56
76
Chương IV: GIÁO DỤC GIỚI TÍNH MỘT BỘ PHẬN ĐẶC BIỆT CỦA GIÁO
DỤC GIA ĐÌNH ................................................................................................ 57
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH ................................. 57
1. Tình hình chung trên thế giới ............................................................... 57
2. Giáo dục giới tính ở Việt Nam ............................................................. 59
II. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH ......................................................... 61
1. Khái niệm giới và giới tính .................................................................. 61
2. Khái niệm giáo dục giới tính ................................................................ 62
3. Nhiệm vụ của giáo dục giới tính .......................................................... 64
III. NỘI DUNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở CÁC LỨA TUỔI ........................... 65
1. Giáo dục giới tính cho trẻ em trước tuổi học ....................................... 67
2. Giáo dục giới tính ở lứa tuổi nhi đồng (7 đến 10 tuổi) ........................ 68
3. Giáo dục giới tính ở tuổi thiếu niên (từ tuổi 11 đến 14) ...................... 69
4. Giáo dục giới tính ở lứa tuổi thanh niên .............................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73