hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh khĂm phen …hcma.vn/uploads/2018/1/12/la _...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
KHĂM PHEN PHÊNG PHẮC ĐY
VIÖC LµM CHO ngêi LAO §éNG N¤NG TH¤N
ë TØNH HñA PH¡N N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
KHĂM PHEN PHÊNG PHẮC ĐY
VIÖC LµM CHO ngêi LAO §éNG N¤NG TH¤N
ë TØNH HñA PH¡N N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. MAI THẾ HỞN
2. PGS. TS. HOÀNG THỊ BÍCH LOAN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
KHĂM PHEN PHÊNG PHẮC ĐY
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến việc làm và giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn 7
1.2. Tổng quan kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến luận án và
những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 24
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 28
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc làm cho người lao động nông thôn 28
2.2. Yêu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm cho người lao động nông thôn 43
2.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn của một
số tỉnh ở Việt Nam và Lào 58
Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG
THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO GIAI ĐOẠN 2010-2016 76
3.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn tác động
đến việc làm cho người lao động nông thôn 76
3.2. Kết quả, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn 87
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN NƯỚC
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2025 117
4.1. Một số dự báo và quan điểm cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn 117
4.2. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 125
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐNDCM Lào : Đảng Nhân dân Cách mạng
GQVL : Giải quyết việc làm
HĐND : Hội đồng nhân dân
KT - XH : Kinh tế - xã hội
KTTT : Kinh tế thị trường
LĐNT : Lao động nông thôn
LLLĐ : Lực lượng lao động
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế theo ngành của tỉnh Hủa Phăn 78
Bảng 3.2: Năng suất lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh qua các năm 80
Bảng 3.3: Diện tích, dân số các đơn vị ở tỉnh Hủa Phăn năm 2016 83
Bảng 3.4: Quy mô dân số và lực lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn giai đoạn 2011- 2016 88
Bảng 3.5: Cơ cấu lực lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn theo
nhóm tuổi (2016) 89
Bảng 3.6: Nguồn lao động theo trình độ đào tạo giai đoạn 2010-2016
ở tỉnh Hủa Phăn 90
Bảng 3.7: Tình hình thiếu việc làm của lực lượng lao động giai đoạn
2012- 2016 ở tỉnh Hủa Phăn 92
Bảng 3.8: Số lao động được tạo việc làm theo ngành và tỷ lệ lao động
được tạo việc làm 94
Bảng 3.9: Bình quân thu nhập của lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn trong những năm gần đây 97
Bảng 3.10: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế giai đoạn 2005 -
2015 ở tỉnh Hủa Phăn 102
Bảng 3.11: Người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn tham gia xuất
khẩu lao động giai đoạn 2010-2016 104
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn
đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia bởi nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của một đất nước.
Vì vậy, việc làm cho người lao động luôn là một trong những vấn đề được tất
cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm vì đây không chỉ là vấn đề liên
quan đến thu nhập, ổn định cuộc sống cho cá nhân và gia đình người lao động
mà còn góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng
như mỗi địa phương.
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào), dân số sống ở
khu vực nông thôn chiếm tỉ lệ lớn, tình trạng thiếu việc làm đang là vấn đề hết
sức cấp bách hiện nay. Do đó, vấn đề giải quyết tình trạng đang là một trong
những vấn đề cấp bách của các địa phương. Để có thể cải thiện tình trạng thất
nghiệp ở khu vực nông thôn, nâng cao mức sống và thu nhập, rút ngắn dần
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị cần phải có những biện pháp tạo
việc làm, thu hút lao động nông nghiệp, giảm dần tình trạng thất nghiệp ở khu
vực này, nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là vấn đề được Đảng và
Nhà nước Lào hết sức quan tâm.
Ở CHDCND Lào, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn được xác định là một động lực to lớn thúc đẩy quá trình sản
xuất phát triển, đồng thời phát huy được thế mạnh của người trong lao động,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cũng như thu nhập của nhân dân các bộ
tộc Lào. Do đó, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước CHDCND Lào nói
chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn
trong việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn.
Nhờ đó, nông dân ngày càng có thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời
2
sống vất chất và tinh thần, đồng thời giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương một
cách vững chắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng NDCM Lào đã khẳng định:
Phát triển các chương trình đào tạo lao động có sự phong phú và
chất lượng, xây dựng chính sách thuận lợi để lao động có thể tham
gia vào thị trường lao động; đào tạo được lao động có ý thức dân
tộc, thành công dân tốt, tôn trọng quy định pháp luật, có tính kỷ
luật, đạo đức nghề nghiệp, chăm chỉ, cần cù, hăng hái trong việc
phát triển bản thân, có công ăn việc làm vững chắc, được quản lý và
bảo vệ quyền lợi theo pháp luật [136, tr.97].
Tỉnh Hủa Phăn là tỉnh miền núi phía Bắc CHDCND Lào, có điều kiện
phát triển kinh tế đa dạng với thế mạnh về nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ.
Thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác với giao lưu quốc tế của
Đảng và Nhà nước đã tạo ra cơ hội và điều kiện phát triển kinh tế những năm
qua. Đây là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp luôn được chú trọng và đạt hiệu quả
khá cao, bộ mặt nông thôn đã có sự đổi mới; nhiều ngành nghề truyền thống
được khôi phục, tạo việc làm tại chỗ, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở khu vực miền núi.
Những năm qua, việc làm cho người lao động nói chung và việc làm
cho người lao động ở nông thôn nói riêng của tỉnh đã được chú trọng. Vấn đề
đào tạo nghề người lao động nông thôn đã bước đầu được chú trọng, khiến
lực lượng lao động nông thôn ngày càng đóng góp đáng kể sự phát triển kinh
tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy
nhiên, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở
đây còn gặp phải một số khó khăn, bất cập. Người lao động nông thôn tuy trẻ
nhưng trình độ thấp, ít được đào tạo cơ bản. Số người đến tuổi lao động ngày
một tăng lên, số người thất nghiệp ở khu vực nông thôn di chuyển ra thành thị
3
tìm việc làm càng nhiều. Do thiếu việc làm thu nhập thấp, gây sức ép rất lớn
về nhu cầu giải quyết việc làm đối với chính quyền các cấp, các ngành…
Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Hủa Phăn là một yêu cầu cấp bách nhằm hiện thực hóa chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Tỉnh. Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Việc làm cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào” làm đề tài luận án tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị,
với mục đích bước đầu giải quyết một số vấn đề đặt ra từ thực trạng việc làm
cho người lao động nông thôn ở địa phương.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đính nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho
người lao động nông thôn; luận án phân tích, đánh giá thực trạng việc làm cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào giai đoạn 2010 - 2016; từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm
giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước
CHDCND Lào.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội
dung luận án; từ đó đưa ra các vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu và làm
sáng tỏ thêm;
Thứ hai, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm cho người lao
động nông thôn như khái niệm việc làm cho lao động ở nông thôn; yêu cầu
và những nhân tố tác động đến việc làm cho người lao động nông thôn; kinh
nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam và CHDCND Lào về giải quyết
việc làm cho người lao động nông thôn.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng việc làm cho người lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào giai đoạn 2010-2016 trên hai
4
phương diện ưu điểm và hạn chế; đồng thời chỉ ra những vấn đề đặt ra trong
việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn.
Thứ tư, đề xuÊt nh÷ng quan điểm c¬ b¶n vµ gi¶i ph¸p chñ yÕu nh»m
gi¶i quyÕt viÖc lµm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn trong những năm
tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là việc làm cho người lao động nông
thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Việc làm cho người lao động nông thôn. Cụ thể:
+ Người chưa có việc làm;
+ Người có việc làm song thu nhập thấp.
- Phạm vi về không gian: Việc làm cho người lao động trên địa bàn
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào.
- Phạm vi về thời gian: Đánh giá thực trạng chủ yếu từ năm 2010 đến
2016 và đề xuất giải pháp đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận và ph¬ng ph¸p nghiªn cøu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sánh của Đảng và Nhà nước
Lào về việc làm, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Đồng thời sử
dụng chọn lọc các kết quả nghiên cứu trong một số công trình của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị. Cụ thể luận án sử dụng:
5
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải, phân
tích các vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
- Luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học; phương pháp
phân tích, tổng hợp, lô gíc lịch sử, quy nạp, diễn giải và các phương pháp khác
như: thống kê, so sánh, phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc;
phương pháp định tính và định lượng… đồng thời sử dụng phương pháp tổng
kết thực tiễn để tìm ra những đặc trưng của vấn đề nghiên cứu và tính quy luật
của đối tượng nghiên cứu
Chương 1: Luận án tổng hợp và hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về
các vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án của các học giả nước ngoài và
trong nước. Luận án cũng đánh giá khái quát kết quả các công trình đã được
nghiên cứu; từ đó tìm ra các vấn đề có tính kế thừa bổ sung và hoàn thiện, đồng
thời cũng chỉ ra những vấn đề còn trống trong nghiên cứu về việc làm cho người
lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn.
Chương 2: Luận án sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để
rút ra những khái niệm cơ bản và luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về
giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn và các nhân tố ảnh hưởng đến
việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn; đồng thời luận
án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá thực tiễn các vấn đề giải
quyết việc làm của một số địa phương nước ngoài và trong nước, từ đó rút ra
bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hủa Phăn.
Chương 3: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích định tính và
định lượng; phương pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc; phương pháp
thống kê; phương pháp so sánh, tổng hợp theo lô gíc và sử dụng một số sơ đồ,
biểu đồ, đồ thị nhằm đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn thời gian qua.
Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp khái quát hóa
những vấn đề đã nghiên cứu ở chương 2 và chương 3 để rút ra phương hướng
6
và giải pháp có tính khả thi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn những năm tiếp theo.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án luận góp phần giải rõ thêm cơ sở lý luận về việc làm cho
người lao động nông thôn tại các nước đang phát triển.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm cho người lao động nông thôn ở
tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào từ năm 2010 - 2016, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của nó; cùng những vấn đề đặt ra về thực trạng việc làm
cho người lao động nông thôn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào đến 2025 và những
năm tiếp theo nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phÇn më ®Çu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án bao gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Việc làm cho người lao động nông thôn là một vấn đề luôn được quan
tâm vì đây không chỉ là vấn đề có liên quan đến cuộc sống của người lao
động, mà còn liên quan đến tất cả các quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Quá
trình đó diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với
con người, trong đó có liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp. Đây là
vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội nhưng ở mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau, giải quyết việc làm cho người lao động cũng có những đặc điểm
khác nhau.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về việc làm cho người lao động được
nhiều nhà khoa học, nhà quản lý cả trong và ngoài nước quan tâm. Trong
phạm vi của luận án, tác giả chỉ tập trung tổng quan một số công trình tiêu
biểu liên quan đến việc làm cho người lao động, trong đó việc làm cho người
lao động nông thôn.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý
luận về việc làm nói chung
Vì việc làm là vấn đề chung của tất các các quốc gia trên thế giới nên
có rất nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về vấn đề này.
Tiêu biểu là những công trình nghiên cứu như sau:
* Các cuốn sách:
Công trình nghiên cứu: “Rethinking Rural development” (Nhìn lại sự
phát triển nông thôn); Devclopment Policy Review [99]. Trong công trình
8
này, tác giả tập trung phân tích một số vấn đề chủ yếu trong phát triển nông
thôn đương đại như: phát triển nông thôn là động lực phát triển xã hội; đói
nghèo ở nông thôn là lực cản lớn cho chính sự phát triển nông thôn cũng như
trong phát triển xã hội; đầu tư công của Chính phủ vào nông thôn suy giảm là
một trong những nhân tố khiến cho nông thôn chậm phát triển và tăng sự
chênh lêch phát triển giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ngoài ra, công
trình còn đi sâu phân tích một số vấn đề trong phát triển nông thôn như sự
phát triển của trang trại nhỏ để giải quyết việc làm; vấn đề đói nghèo ở nông
thôn; sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng nông thôn mới để
giải quyết việc làm.
Công trình “Decent Work in Rural: akey path for povety Reduction”
(Việc làm thích hợp trong khu vực nông thôn: Chìa khóa cho sự giảm nghèo)
[84]. Nghiên cứu này đã chỉ ra: Hiện nay gần nửa dân số thế giới (khoảng 3,4
tỷ người) sống ở khu vực nông thôn và phần lớn trong số đó thuộc về các
nước đang phát triển. Cộng với tác động của biến đổi khí hậu, giá lương thực
tăng và các yếu tố khác đã tác động tiêu cực tới nông dân, khiến đời sống của
họ không ổn định, rủi ro cao và đói nghèo ở khu vực nông thôn trở nên phổ
biến. Do đó, xóa đói giảm nghèo nên đi cùng với tạo việc làm và phát triển
nông thôn. Công trình chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Những hướng cơ bản
giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn để xóa đói giảm nghèo; biến
đổi khí hậu có tác động như thế nào đến sự phát triển của nông thôn; những
giải pháp cụ thể khả thi trong tạo việc làm ở nông thôn.
Tác giả Jonna Estudillo và các cộng sự trong “Labor markets,
occupational choice, and rural poverty in four Asian countries” [97]. Bài viết
phân tích những cơ chế cơ bản trong thị trường lao động nông thôn dẫn đến tăng
thu nhập và xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn của Philippines, Việt
Nam, Bangladesh và Sri Lanka. Việc gia tăng thu nhập phi nông nghiệp, trong
đó tăng thu nhập từ việc làm chính thức, được xem là một động lực quan trọng
9
của tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo. Vì vậy, để giảm đói nghèo ở nông
thôn, Chính phủ cần phải có chính sách nhằm tạo ra nhiều việc làm chính thức,
vì vấn đề chất lượng công việc có tác động lớn trong việc cải thiện mức sống của
người lao động nông thôn.
Tác giả Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin trong cuốn sách “Lao động
việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới” [59]. Tác giả đã đưa
ra những nghiên cứu khái quát về tình hình lao động, việc làm và nguồn nhân
lực Việt Nam giai đoạn 1986-2000. Tác giả cho thấy, sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam có một ưu thế lớn là nguồn nhân lực dồi dào, khả năng mở rộng
việc làm trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường rất lớn,
song do chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đa số lào động chưa qua đào tạo
nghề nên khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển rất hạn chế. Cùng với sự yếu
kém về thiết bị máy móc, công nghệ sản xuất, chất lượng hàng hóa làm ra khó
cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước nên việc làm và thu nhập
của người lao động thấp, thiếu ổn định. Điều đó cho thấy, để phát triển nguồn
nhân lực, công tác đào tạo nghề cho người lao động cần phải xem là một
trong những ưu tiên hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
những năm tiếp theo.
Các tác giả Tuan Francis, Somwaru Agapi, Diao Xinshen trong cuốn
“Lao động nông thôn di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa
trên điều tra nông nghiệp Trung Quốc” [89]. Các tác giả cho rằng quá trình
công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc và sự gia tăng năng suất trong
nông nghiệp hàm ý rằng những lao động nông thôn sẽ được thu hút vào các
hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Kết quả là họ sẽ có nhiều cơ hội để tăng
thu nhập ở khu vực phi nông nghiệp. Công trình này tập trung nghiên cứu cấu
trúc lực lượng lao động nông thôn và những đặc điểm của lao động nông thôn
để đánh giá tiềm năng di cư lao động nông thôn vào các lĩnh vực phi nông
nghiệp. Công trình đã tập trung phân tích thị trường lao động nông thôn Trung
10
Quốc dựa trên điều tra dân số nông nghiệp Trung Quốc lần thứ nhất, với những
đặc điểm nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, tính liên kết giữa
các loại công việc, nơi làm việc và di cư lao động của lao động nông thôn. Dựa
trên sự phân bổ nhân khẩu học của lực lượng lao động nông thôn, các tác giả đã
tìm ra được mối liên hệ giữa lao động nông thôn với việc phân bổ các nguồn
lực khác, đặc biệt là quỹ đất ngày càng hạn chế, từ đó áp dụng kỹ thuật logict
polytomous tổng quát để phân tích các mô hình sử dụng lao động nông thôn và
dự báo quá trình di cư lao động nông thôn. Cuốn sách này cung cấp cho các
nhà nghiên cứu cơ cấu của lao động nông thôn có khả năng chuyển đổi theo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và cơ cấu lao động và việc làm ở nông thôn.
Tác giả Nguyễn Thị Thơm, “Thị trường lao động Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp” [75]. Cuốn sách nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản
về thị trường lao động, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về phát
triển thị trường lao động. Đồng thời cuốn sách giới thiệu cho người đọc một
bức tranh khái quát về thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, qua đó đề
xuất các quan điểm và giải pháp phát triển thị trường lao động ở Việt Nam
trong những năm tới. Tác giả cho rằng, thị trường lao động Việt Nam đang
đứng trước những vấn đề bất cập như: mất cân đối lớn giữa cung và cầu; mức
độ thị trường hóa các quan hệ lao động thấp; chính sách tiền lương, tiền công
còn nhiều bất cập; hệ thống công cụ của thị trường lao động chưa hoàn thiện;
vai trò quản lý Nhà nước đối với thị trường lao động chưa theo kịp yêu cầu
phát triển. Đây là những cản trở, làm chậm sự phát triển của thị trường lao
động ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoát, “Lao động, việc làm và phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn Việt Nam” [48]. Cuốn sách là tuyển tập các công trình
nghiên cứu đề cập đến nhiều vấn đề cấp thiết của việc sử dụng nguồn lao
động phát triển kinh tế -xã hội ở nông thôn Việt Nam trong các giai đoạn
11
phát triển. Ở mỗi vấn đề được giới thiệu trong cuốn sách, tác giả đã nêu vai
trò, ý nghĩa, thực trạng và phương hướng, biện pháp giải quyết các vấn đề
đặt ra. Đồng thời cuốn sách làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
sử dụng hợp lý nguồn lao động và phát triển kinh tế -xã hội ở nông thôn
Việt Nam.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý
luận về giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn
Ngoài những công trình nghiên cứu về việc làm nói chung, cũng có khá
nhiều những công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Tiêu biểu là những công trình
nghiên cứu như:
* Các cuốn sách
Các tác giả Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng với cuốn sách: “Giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị” [76]. Cuốn
sách đề cập về thực trạng và đưa ra những giải pháp về giải quyết việc làm
cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Hải Dương như: Giải
pháp về quy hoạch (phải gắn quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương, quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch đào tạo nghề; phải gắn quá
trình đô thị hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn…); giải pháp về mở rộng cầu lao động (mở
rộng cầu lao động thông qua đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; mở rộng cầu lao động thông qua phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng; mở rộng
cầu lao động thông qua sắp xếp lại và phát triển các ngành dịch vụ; mở rộng
cầu lao động thông qua đẩy mạnh xuất khẩu lao động và cho vay vốn giải
quyết việc làm); giải pháp về nâng cao chất lượng cung lao động (dạy nghề
cho lao động nông thôn; nâng cao thể lực cho người lao động; nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông thực hiện phân luồng học sinh ngay sau khi tốt
12
nghiệp trung học cơ sở); giải pháp về tổ chức thị trường sức lao động (hình
thành bộ máy tổ chức thị trường lao động của tỉnh và ban hành các qui chế
để bộ máy hoạt động hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống
dịch vụ việc làm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường sức lao động của tỉnh; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo
giải quyết việc làm và Ban Chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh); giải pháp về cơ
chế, chính sách đối với lao động nông nghiệp bị thu hồi đất.
Tác giả Tạ Thị Đoàn với cuốn sách: “Lao động việc làm của công nhân
trong các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Thực trạng và
những hàm ý chính sách” [33]. Tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận về
lao động việc làm của công nhân trong các khu công nghiệp; phân tích thực
trạng lao động, việc làm của công nhân trong khu công nghiệp và kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
tạo việc làm và nâng cao đời sống của công nhân trong các khu công nghiệp
và kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với cuốn sách: “Việc làm của nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng
đến năm 2010” [56]. Tác giả đã làm rõ thực trạng giải quyết việc làm cho
nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH). Tác giả đã chỉ ra những thành công, hạn chế trong vấn
đề giải quyết việc làm cho nông dân vùng đồng bằng Sông Hồng và từ đó đề
xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện giải quyết việc làm
cho nông dân hiệu quả.
Các tác giả Trần Đình Chín, Nguyễn Dũng Anh với cuốn sách “Việc
làm cho người lao động bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa ở vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ” [11]. Nhóm tác giả đã luận giải làm
rõ khái niệm về việc làm, việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Phân
tích thực trạng và đề xuất những tiền đề, điều kiện để người lao động bị thu
hồi đất có việc làm sau khi tái định cư ở nơi mới.
13
Tác giả Nguyễn Dũng Anh, “Việc làm cho người nông dân bị thu hồi
đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng” [1].
Tác giả đưa ra quan niệm về việc làm, các phương thức giải quyết việc làm
như: thông qua các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và
dạy nghề; thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm và cơ sở dạy nghề;
thông qua phát triển làng nghề truyền thống và các doanh nghiệp; thông qua
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội; thông qua thị trường sức lao động.
Tác giả Trần Thị Bích Hạnh, “Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở
các tình vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” [39]. Tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm sử dụng hiệu
quả nguồn lao động, xem đây là những vấn đề có tính chủ yếu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của khu vực. Tuy vậy, luận án mới chỉ tập
trung nghiên cứu, đưa ra các biện pháp, các cách thức dưới góc độ quản lý.
Luận án chưa đi sâu nghiên cứu về bản chất của tình hình lao động, việc làm
để từ đó có thể đề ra những giải pháp mang tính bền vững, lâu dài, để xử lý
các vấn đề lao động, việc làm khi có phát sinh. Bên cạnh đó, công trình trên
chưa phát hiện được những vấn đề có tính quy luật của sự vận động về việc
làm và chất lượng nguồn lao động, nên các giải pháp đưa ra mang đậm tính
kỹ thuật, thiếu một sự khái quát có tính nguyên lý, giúp cho chúng ta có thể
kế thừa nó trong việc nhận diện các hiện tượng nảy sinh về vấn đề việc làm,
lao động trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, tiến trình đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại
hoá và xây dựng nông thôn mới nói riêng.
Tác giả Phạm Đức Chính, “Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân
lực sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam” [13]. Với mục tiêu cải thiện việc sử
dụng nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng làm việc sau khi
xuất khẩu lao động ở nước ngoài trở về, công trình đã nghiên cứu cơ sở lý
luận về chính sách về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động, phân
14
tích thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách nói
trên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Luận án đã xác định những đặc
trưng, đặc điểm nổi bật của nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động với ưu thế
là sự thích ứng cao với nền kinh tế thị trường, làm rõ vai trò của nhà nước cùng
với những nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng và thực thi chính sách, hệ thống các
lĩnh vực liên quan đến điều kiện tái hòa nhập và lập nghiệp, tạo việc làm cho
người lao động sau khi trở về nước trên cơ sở các tiêu chí đánh giá phù hợp
trong điều kiện quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Phạm Mạnh Hà, “Giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn tỉnh Ninh Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [38].
Trong luận án, tác giả làm rõ thêm những căn cứ lý luận và thực tiễn dưới
góc độ Kinh tế học phát triển về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
nói chung, tỉnh Ninh Bình nói riêng trong quá trình CNH, HĐH. Phân tích,
đánh giá thực trạng dưới góc nhìn của Kinh tế học phát triển, làm rõ những
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong quá trình CNH, HĐH
thời gian qua, đề xuất phương hướng chủ yếu và những giải pháp cơ bản, sát
thực nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong
quá trình CNH, HĐH thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Thị Huệ, “Việc làm cho lao động nông nghiệp trong
quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội” [42]. Tác giả luận án hệ
thống lại lý luận về vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
xây dựng nông thôn mới. Tác giả đã phân tích thực trạng việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp ở Thủ đô Hà Nội gắn với thời kỳ
xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, tác giả đưa ra một cái nhìn tổng thể nhất
về thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp gắn
với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2008 -
2013. Luận án chỉ ra những tác động qua lại giữa quá trình xây dựng nông
15
thôn mới và vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp trong điều kiện đặc
thù của thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới và dự báo tình hình phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, luận án đã đưa ra
các phương hướng, giải pháp để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới ở thủ đô Hà Nội.
* Đề tài khoa học các cấp
Đề tài “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần” của
Nguyễn Hữu Dũng [20]. Đề tài đã nghiên cứu các nội dung sau: Xây dựng
luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách giải quyết việc làm của Việt
Nam trong điều kiện chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế và đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế; khuyến nghị một số chính sách quan trọng nhất trong lĩnh vực việc
làm; đề xuất mô hình tổng quát và hệ thống biện pháp nhằm đảm bảo thực
hiện chính sách quốc gia xúc tiến việc làm. Kết quả nghiên cứu của đề tài này
đã đóng góp một số luận cứ, cơ sở khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc
hình thành các chủ trương, chính sách về giải quyết vấn đề việc làm thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam.
Đề tài “Các giải pháp giải quyết việc làm cho ngư dân các tỉnh Duyên
Hải miền Trung” của Nguyễn Thế Tràm [85]. Đề tài đã đánh giá một cách
khái quát tình hình, lao động, việc làm vùng ngư dân. Trên cơ sở đó, nhóm
nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp có tính chất tình thế trong việc giải
quyết các vấn đề về lao động, việc làm cho ngư dân vùng Duyên hải miền
Trung, góp phần cùng khu vực xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội, song các
đánh giá và giải pháp do nhóm nghiên cứu đề xuất chỉ phản ánh có tính cục
bộ, riêng lẻ đối với lao động làm nghề biển, chứ không thể khái quát được
tình hình biến động việc làm của cả khu vực một cách hệ thống, căn bản. Hơn
16
nữa, việc đánh giá của đề tài chưa làm rõ được bản chất của tình trạng việc
làm, chưa nghiên cứu sự vận động của nó trong thực trạng kinh tế- xã hội của
khu vực.
Đề tài Khoa học cấp Nhà nước, “Thu nhập đời sống, việc làm của
người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia”
của Lê Du Phong [60]. Nhóm tác giả đã trình bày, phân tích một số vấn đề lý
luận và thực trạng về thu nhập, đời sống việc làm của người dân có đất bị thu
hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị cùng các công trình công
cộng, phục vụ lợi ích quốc kế dân sinh ở Việt Nam. Từ đó chỉ ra những kết
quả đạt được cùng những khó khăn, hạn chế. Từ đó, nhóm tác giả đã đề xuất
những quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm, đảm bảo
thu nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các khu
công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công
cộng, phúc vụ lợi ích quốc gia. Đặc biệt là những giải pháp chủ yếu sau: về cơ
chế; (chính sách tạo việc làm và đảm bảo thu nhập ổn định lâu dài cho người
dân có đất bị thu hồi; cơ chế, chính sách về đền bù và bồi thường thiệt hại; cơ
chế chính sách về công tác tái định cư; cơ chế chính sách liên quan đến nghĩa
vụ và trách nhiệm của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục
đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị; các chính sách xã hội trong công
tác thu hồi và giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người dân có đất bị
thu hồi); về tổ chức và quản lý (công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch sử dụng đất đai và quy hoạch về việc làm, tổ chức khu tái định cư;
tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thu
hồi đất, tạo việc làm và ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi; công tác
đào tạo và công tác cán bộ); về công tác chỉ đạo và thực hiện (đồng bộ và nhất
quán trong công tác chỉ đạo thực hiện các cơ chế, chính sách thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng một cách phù hợp với thực tế; cải tiến quy trình thực hiện, tổ
chức thực hiện).
17
Đề tài cấp Bộ: “Một số vấn đề phát triển xã hội nông thôn năm 2009
(Lao động và việc làm nông thôn)” do Bùi Quang Dũng làm chủ nhiệm
[23]. Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề trong quá trình phát triển
xã hội nông thôn năm 2009 như tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, đào
tạo nghề cho lao động, tình trạng di dân đô thị và nghèo đói của người lao
động ở nông thôn Việt Nam,... Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, tình trạng thất nghiệp mùa vụ ở
nông thôn là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự di dân như một chiến lược
kinh tế của người nông dân. Đô thị trở thành “cái túi” chứa lao động nông
thôn, với sức ép gia tăng ngày càng lớn về việc làm, y tế, giáo dục, ổn định
xã hội,... Người lao động di cư đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khi
mưu sinh ở thành thị dẫn đến hiện tượng dòng di cư “đảo chiều” về nông
thôn, gây nên tình trạng thiếu việc làm cho lao động nông thôn không di
cư. Phân tích các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản ở nông thôn, tác giả cũng chỉ ra những bất cập trong
xây dựng và thực hiện chính sách của Nhà nước.
Đề tài cấp bộ, “Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên
nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long” do Nguyễn Quốc Dũng chủ
nhiệm [24]. Đề tài luận giải những vấn đề lý luận về giải quyết việc làm
cho thanh niên như: các khái niệm về việc làm, tạo việc làm và giải quyết
việc làm. Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết
việc làm cho thanh niện nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
* Các bài báo khoa học
Các tác giả Võ Xuân Tiến, Đào Hữu Hòa, “Một số biện pháp nhằm
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm trên địa bàn
thành phố Đã Nẵng” [71]. Các tác giả nêu ra 7 giải pháp giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn ở thành phố Đà Nẵng là: Đẩy mạnh phát triển các khu
công nghiệp; chuyển dịch lao động trong ngành nông nghiệp; nâng cao chất
18
lượng lao động ngành thương mại, dịch vụ; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu;
tăng cường công tác đào tạo nghề; đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân; xuất
khẩu lao động. Các giả pháp đó cũng có ý nghĩa tham khảo với đề tài luận án.
Tác giả Đỗ Minh Cương, “Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay”
[18]. Tác giả đã nghiên cứu nội dung hoàn thiện chính sách giải phóng sức lao
động, đất đai, tài nguyên, tạo môi trường đầu tư lành mạnh của toàn xã hội để
phát triển việc làm gồm: Hoàn thiện chính sách kinh tế (chính sách khuyến
khích phát triển các loại hình kinh tế thu hút nhiều lao động; chính sách
khuyến khích đối với các dự án đầu tư thu hút nhiều lao động nhất là các dự
án chế biến nông lâm, hải sản, tiểu thủ công nghiệp, du lịch và dịch vụ, chính
sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn, khu chế xuất. Đổi mới
chính sách di dân và phát triển các vùng kinh tế khai thác tiềm năng các vùng
miền, xây dựng các chính sách huy động thanh niên tình nguyện đi xây dựng
các công trình trọng điểm, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều khó
khăn, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng có sử dụng nhiều lao động); hoàn
thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực (chính sách khuyến khích người
lao động học tập suốt đời và phát triển không hạn chế trong tương lai; chính
sách mở rộng và đa dạng hóa hoạt động dạy nghề, tạo điều kiện cho mọi
người dân được học nghề, dạy nghề, truyền nghề. Có chính sách tôn vinh
danh hiệu vinh dự nhà nước cho các nhân tài và nghệ nhân); Chính sách phát
triển thị trường sức lao động, tiếp tục hoàn thiện pháp luật và chính sách
nhằm mở rộng thị trường sức lao động đối với tất cả các thành phần kinh tế,
các vùng, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho người lao động. Đồng thời phải có
chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo nhiều việc làm, tạo
thuận lợi trong chuyển dịch lao động tìm việc làm trong và ngoài nước. Đổi
mới cơ chế hoạt động và tăng cường năng lực cho các trung tâm dịch vụ việc
làm, hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường sức lao động tạo điều kiện để
mọi người tiếp cận với các thông tin về lao động việc làm; chính sách xuất
19
khẩu lao động (đầu tư mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Thực hiện đa
dạng hóa thị trường, đa dạng hóa hình thức và ngành nghề đưa lao động đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài, xây dựng các doanh nghiệp chuyên doanh
xuất khẩu lao động chính sách đầu tư đào tạo nguồn lao động về tay nghề,
ngoại ngữ, kiến thức pháp luật…). Xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp
(khẩn trương xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ người mất
việc có điều kiện ổn định đời sống, hỗ trợ họ nhanh chóng có việc làm).
Tác giả Trần Văn Chử, “Các giải pháp tăng cường quản lý của nhà
nước đối với thị trường lao động ở Việt Nam” [15]. Bài viết đã đưa ra các giải
pháp sau: nhóm các giải pháp tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với
tạo cung về lao động; nhóm giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý của
nhà nước về mở rộng cầu về lao động, nhóm giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước về tổ chức và quản lý thị trường sức lao động), nhóm giải pháp về
tăng cường vai trò của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích người lao động.
Tác giả Lê Xuân Bá, “Phát triển việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn - thành thị” [2]. Bài viết phân tích vấn đề phát triển
việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn - thành thị ở cấp
độ địa phương. Tăng cường kinh tế và tăng cường việc làm không phải lúc nào
cùng chung một tốc độ, quan trọng hơn, việc làm và thu nhập từ việc làm đó
thường là mối quan tâm đầu tiên của người dân. Thách thức về việc làm nói
chung và chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn - thành thị nói riêng thường có
thể thấy rõ hơn ở cấp tỉnh, nơi gặp nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội và những thách thức của việc thúc
đẩy việc làm ở cấp tỉnh; hoạt động của thị trường sức lao động địa phương và
chuyển dịch cơ cấu việc làm giữa nông thôn và thành thị ở cấp tỉnh. Từ đó, tác
giả đã đưa ra các khuyến nghị về chính sách như: thúc đẩy các hoạt động phi
nông nghiệp; phát triển hạ tầng; phát triển doanh nghiệp trên cơ sở phát triển
sản xuất và tạo việc làm.
20
Tác giả Tăng Minh Lộc, “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông
thôn” [50]. Tác giả khẳng định, hiện nay nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
còn nhiều hạn chế. Trong quá trình tác động của CNH, HĐH trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, những hạn chế đó càng bộc lộ rõ hơn và chỉ rõ một
trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự phát triển. Từ đó tác giả đi sâu vào phân tích tìm ra nguyên
nhân và đưa ra một số các giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở
nông thôn.
Tác giả Hoàng Kim Ngọc, “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp
phần tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn” [57]. Tác giả
đã đi sâu phân tích và đánh giá vai trò, thực trạng phát triển của doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở nông thôn như: phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn
phù hợp với lợi thế và tiềm năng của từng vùng; kinh doanh nhỏ và vừa cần
được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành lựa chọn.
Trước hết, cần ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường các ngành công nghiệp
chế biến nông lâm - thủy sản sau thu hoạch, chế biến lương thực, thực
phẩm…; doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được khuyến khích phát triển trong
một số ngành mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia; phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mối liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa
với nhau, với doanh nghiệp lớn và với thành thị; nghiên cứu hình thành cụm
công nghiệp tập trung dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tác giả Vũ Thị Thanh Xuân, “Đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động
nông thôn” [92]. Tác giả trình bày làm rõ một số vấn đề hạn chế khó khăn đối
với lao động xuất khẩu từ khu vực nông thôn ở Việt Nam. Từ đó khẳng định
phải nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong tổ chức bồi dưỡng kiến
thức cho người lao động, đảm bảo nội dung và thời gian bồi dưỡng theo quy
định… Góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
21
Tác giả Hà Đức Minh, “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn một số
huyện của tỉnh Lào Cai” [53]. Tác giả đã làm rõ thực trạng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn ở một số huyện của tỉnh Lào Cai thời gian qua, để thấy
những kết quả đạt được và một số bất cập, hạn chế. Từ đó đề xuất 6 giải
pháp để công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở các huyện của Lào
Cai phát triển và phát huy hiệu quả.
Từ một số công trình nêu trên của các tác giả nước ngoài, có thể thấy,
vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, lao động nông nghiệp có mối quan
hệ hữu cơ với các yếu tố khối lượng đầu tư, khối lượng sản phẩm được tạo ra
và chất lượng của nguồn nhân lực. Các nhân tố có những quan hệ luôn luôn
biến động, và sự điều chỉnh của nó không dễ dàng. Các chính sách điều chỉnh
của Nhà nước chỉ có tác dụng khi có sự tác động đến tổng thể các yếu tố của
quá trình kinh tế - xã hội.
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về việc làm và giải quyết
việc làm ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Tác giả Bun Thi Khưa Mi Xay, “Phát triển thị trường nông thôn ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [6]. Luận án làm rõ phân tích khái niệm
thị trường, chức năng cơ bản của thị trường; đặc điểm và vai trò của thị
trường nông thôn đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn và đời sống
kinh tế - xã hội của cả nước nói chung; phân tích sự tác động của các nhân tố
hình thành và phát triển của thị trường nông thôn. Từ đó rút ra quá trình phát
triển kinh tế - xã hội có tính phổ biến trong sự hình thành, phát triển của thị
trường nông thôn; phân tích thực trạng thị trường nông thôn ở CHDCND Lào
trong những năm qua, chỉ rõ mặt ưu, mặt nhược và những mâu thuẫn cơ bản
cần giải quyết. Xuất phát từ tình hình cụ thể của thị trường nông thôn, luận án
nêu lên phương hướng và kiến nghị những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy sự
phát triển thị trường nông thôn trong những năm tới ở CHDCND Lào.
22
Tác giả Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, “Vai trò của chính sách xã hội
đối với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay” [91]. Trên cơ sở
phân tích khái quát một số khía cạnh lý luận về nhân tố con người và phát huy
nhân tố con người; đồng thời làm rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội
trong việc phát huy nhân tố con người, luận án đã phân tích rõ thực trạng và
những vấn đề đặt ra của chính sách xã hội của Lào trong việc phát huy nhân
tố con người ở Lào hiện nay. Từ đó, nêu ra phương hướng và các giải pháp
chủ yếu nhằm đổi mới chính sách xã hội để phát huy hiệu quả nhân tố con
người ở Lào trong những năm tiếp theo.
Tác giả Khăm Phả Phim Ma Sỏn, “Xây dựng đội ngũ công chức quản
lý Nhà nước về kinh tế ở Tỉnh BoLyKhămSay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào” [47]. Tác giả đã góp phần làm rõ khái niệm về cán bộ công chức quản lý
nhà nước về kinh tế, xây dựng các tiêu chí đánh giá đội ngũ công chức quản
lý nhà nước về kinh tế; tuyển dụng và sử dụng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
công chức quản lý nhà nước về kinh tế. Từ đó, tác giả đã phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế,
đánh giá thực trạng của đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế, đề
xuất phương hướng và giải pháp về xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà
nước về kinh tế.
Tác giả Nguyễn Đình Cử, “Những giải pháp góp phần thực hiện đột
phá: Phát triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và
bền vững ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [16]. Trong bài viết, tác
giả đã phân tích thực trạng chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực
nhằm chỉ ra vì sao cần phát triển nguồn tài nguyên con người lại được lựa
chọn là một trong những khâu đột phá ở nước CHDCND Lào. Qua đó, tác giả
đưa ra một số kết luận về nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực
chưa cao và cuối cùng đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện khâu đột
phá nói trên.
23
Tác giả A Nô Thây Chuon La Ma Ny, “Quản lý lao động nước ngoài ở
tỉnh Khăm Muộn” [104]. Tác giả nêu một số chính sách của Đảng và Nhà
nước về quản lý lao động nước ngoài, đồng thời tác giả đã nêu được thực
trạng công tác quản lý lao động nước ngoài trong thời gian qua, chỉ rõ về mặt
tích cực và tiêu cực trong công tác quản lý lao động nước ngoài, trên cơ sở đó
tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về quản lý lao động
nước ngoài ở tỉnh Khăm Muộn trong thời gian tới.
Tác giả Bua Hộng Khăm Hạ, “Một số trọng tâm phát triển tay nghề
của lao động ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [115]. Tác giả đã nêu một
số lý luận về phát triển tay nghề, nêu rõ thực trạng về phát triển tay nghề của
lao động trong thời gian qua, nêu được những thành tựu và hạn chế trong việc
phát triển tay nghề, trên cơ sở đó đã đề xuất một số định hướng và những giải
pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển tay nghề cho lao động ở CHDCND Lào.
Tác giả Sư Lao Sô Tu Ky, “Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã
hội ở Thủ đô Viêng Chăn” [69]. Tác giả đã góp phần làm rõ khái niệm nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế -xã hội; xây dựng các tiêu chí đánh giá và
các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội;
Luận giải rõ vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, từ đó
thấy được sự cần thiết khách quan của nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế -
xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực cho phát
triển KT-XH ở Thủ đô Viêng Chăn từ năm 2006 đến năm 2013. Đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát
triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn đến năm 2020.
Tác giả Dengyang Kong Chi, "Vấn đề phát huy nguồn lực thanh niên
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào hiện nay" [19]. Tác giả đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận về phát huy
nguồn lực thanh niên trong quá trình CNH, HĐH ở CHDCND Lào. Trên cơ sở
phân tích thực trạng phát huy nguồn lực thanh niên trong quá trình CNH, HĐH ở
24
CHDCND Lào, luận án chỉ ra được một số mâu thuẫn trong việc phát huy nguồn
lực thanh niên trong quá trình CNH, HĐH ở CHDCND Lào. Từ đó, đề xuất một
số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát huy nguồn lực thanh niên trong
quá trình CNH, HĐH ở CHDCND Lào đến năm 2025.
1.2. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá kết quả của các công trình khoa học đã nghiên cứu
Có thể nhận thấy, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về việc
làm cho người lao động dưới nhiều góc độ khác nhau; trong đó có nhiều công
trình khoa học đăng tải trên các báo, tạp chí nghiên cứu về vấn đề việc làm, giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn với những kết quả đáng trân trọng.
Các tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề như: khái niệm, đặc điểm,
vai trò của giải quyết việc làm cho người lao động; đánh giá thực trạng về giải
quyết việc làm cho người lao động ở Việt Nam trong phạm vi cả nước và một
số địa phương; nguyên nhân, phương hướng, các giải pháp khả thi về giải
quyết việc làm cho người lao động. Từ những phân tích số liệu về thị trường
sức lao động và các chính sách tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người
lao động nông thôn tại các quốc gia và Việt Nam, các tác giả đã đưa ra
những khuyến nghị chính sách trong việc hình thành một thị trường tín dụng
cho lao động nông nghiệp của Việt Nam; phát triển kinh tế - xã hội cho các
khu vực nông thôn để giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ; thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nông thôn như là những
động lực quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao đời sống cho người dân khu vực nông nghiệp, nông
thôn. Những kết quả đó có giá trị tham khảo nhất định nên tác giả luận án đã
kế thừa và phát triển có chọn lọc quan điểm về việc làm; giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn.
25
Ngoài những nghiên cứu về vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở
Việt Nam, những nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn của tình trạng
việc làm, thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ở CHDCND Lào cũng cung cấp những tiền đề khoa học quan trọng làm
cơ sở để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông
thôn ở Lào nói chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng.
Những công trình trên đã bàn đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm
dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế phát triển, khoa học quản lý kinh tế,
kinh tế chính trị… Song chưa có công trình nào đánh giá một cách đầy đủ thực
trạng việc làm cho người lao động nông thôn trong sự phát triển của nền kinh tế
thị trường ở tỉnh Hủa Phăn, CHDCND Lào. Do đó, tác giả luận án xác định đây
là một hướng nghiên cứu mới, gắn liền với thực tiễn phát triển của địa phương.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng
tỏ thêm
Có thể nhận thấy, tuy có khá nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài,
nhất là ở Việt Nam về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm nhưng ở Lào
còn khá ít. CHDCND Lào cũng là một nước nông nghiệp có điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều nét tương đồng với Việt Nam nhưng
những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn chưa nhiều. Đây là một khoảng trống về lý luận mà tác
giả luận án đã nhận thấy khi sưu tầm, tổng quan những công trình nghiên cứu
liên quan đến luận án.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả về vấn đề việc
làm và giải quyết việc làm cho cho người lao động nông thôn, xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn, luận án tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề như sau:
* Về lý luận:
Thứ nhất, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận về việc làm cho người lao động
nông thôn như: luận giải rõ về khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu và các
26
nhân tố ảnh hưởng đến việc làm cho người lao động nông thôn trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục làm rõ thêm vấn đề việc làm và thu nhập, xu hướng
vận động của việc làm ở nông thôn, đặc biệt là trong xu hướng phát triển
nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn của một số địa phương ở Việt Nam và Lào, từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm nhằm giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở
tỉnh Hủa Phăn dưới tác động của nền KTTT.
* Về thực tiễn:
Thứ nhất, phân tích thực trạng việc làm cho người lao động nông thôn
ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn
chế về thực trạng việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn,
nước CHDCND Lào thời gian qua, lý giải nguyên nhân của những ưu điểm và
hạn chế đó.
Thứ hai, đưa ra những quan điểm và giải pháp chủ yếu giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nhằm phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương đến năm 2025.
Tiểu kết chương 1
Vì việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan
trọng liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế -
xã hội của một quốc gia nên đã có nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này và
tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Trong giới hạn nghiên cứu của luận án,
tác giả đã chọn tổng quan những công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác
giả trong và ngoài nước, nhất là ở Việt Nam về vấn đề việc làm cho lao động
ở nông thôn.
27
Có thể nhận thấy, các tác giả đã bàn đến nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn trong vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở
Việt Nam và Lào trong thời gian qua như khái niệm việc làm cho lao động
nông thôn, vai trò của việc làm cho lao động nông thôn, thực trạng việc làm
của lao động nông thôn ở Việt Nam và Lào, những giải pháp giải quyết việc
cho lao động nông thôn hiện nay… Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quý báu
cho tác giả luận án khi triển khai các nội dung của đề tài.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước,
cùng với sự tìm tòi, trăn trở về vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở địa
phương, tác giả luận án tiếp tục làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và
thực tiễn như sau: phân tích vai trò của việc làm cho lao động nông thôn ở
một địa phương là tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; phân tích thực trạng
việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào; từ đó
đề xuất những quan điểm, giải pháp thúc đẩy vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào trong những năm
tiếp theo. Đây là ba vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ
thêm trong các chương, tiết của luận án.
Như vậy, luận án là sự kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả
trước đó, đồng thời là sự tìm tòi, nghiên cứu của tác giả luận án về một trong
những vấn đề rất quan trọng của địa phương là vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho người lao động nông thôn.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
2.1.1. Khái niệm việc làm, việc làm cho người lao động nông thôn
2.1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm là một trong những vấn đề KT-XH phức tạp. Hiện nay, trên
các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm việc làm và thị trường sức
lao động nhiều khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa
thêm hàng loạt chức năng không đúng với tính chất của nó, còn thị trường
sức lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và
khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn
toàn giống nhau. Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, lao động là
hoạt động bản chất của con người. Con người bằng hoạt động lao động của
mình đã làm biến đổi vật thể tự nhiên và tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của xã hội, của chính mình. Con người không chỉ sống trong môi trường tự
nhiên, mà còn sống trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong
mỗi con người luôn gắn bó khăng khít với nhau. Bản tính tự nhiên của con
người được chuyển vào bản tính xã hội của con người và được cải biến ở đó.
Do vậy, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người và như thế đến mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:
Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.
Khi nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác tiếp cận về
việc làm và cho rằng vấn đề việc làm có quan hệ chặt chẽ với lao động. Việc
làm là những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là những quan
hệ kinh tế và pháp lý để đưa người lao động vào hợp tác lao động cụ thể
trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động trước hết là một quá
29
trình, còn việc làm là tài sản của một chủ thể mà bằng cách nào đó được
đưa vào hay loại trừ ra từ quá trình đó. Về giác độ kinh tế, việc làm thể
hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố
con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn với
quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ cho người lao động, đồng thời
không đi ngược lại lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói cách
khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật
cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu
nhập cho các thành viên trong gia đình, và cho xã hội. Cho đến nay, đã có
khá nhiều các công trình nghiên cứu về việc làm. Tuy nhiên, vấn đề việc
làm là rất phức tạp, nên các quan niệm chưa thống nhất.
Theo các nhà kinh tế học Anh, “Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ
các hoạt động kinh tế của xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách
kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn
hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” [9, tr.7-8]. Theo quan
điểm này thì tất cả những hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt
có được pháp luật cho phép hay bị ngăn cấm đều được gọi là việc làm. Quan
điểm này mới chỉ đặt vấn đề kinh tế của vấn đề việc làm, trong khi đó, tính
pháp lý - một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định là việc làm chưa
được đề cấp đến.
Theo các nhà kinh tế học Liên Xô là Sônhin và Grincốp: “Việc làm là
khả năng tham gia của người lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong
khu vực xã hội hóa sản xuất trong học tập, trong các việc nội trợ, trong kinh tế
phụ của các nông trang viên” [13, tr.315]. Quan điểm này đã coi cả các công
việc như đang đi học, đang tham gia các lực lượng vũ trang, làm các công
việc nội trợ đều được coi là việc làm. Cũng như quan điểm của các nhà kinh
tế học Anh, quan điểm này chủ yếu tập trung tính hữu ích của việc làm nói
chung, coi các hoạt động hữu ích của con người là việc làm, song tính pháp lý
30
của việc làm lại không đề cấp đến. Trong khi đó, tính pháp lý là một tiêu chí
cơ bản để xác định có phải là việc làm của một quốc gia, một chế độ xã hội
hay không.
Theo Bộ luật Việc làm của cư dân Liên bang Nga, một hoạt động được
xem là việc làm như sau: “Việc làm là một hoạt động của công dân nhằm thỏa
mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không
bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm” [4]. Quan điểm này cho rằng, đối
với nước Nga hiện nay, quan điểm về vấn đề việc làm được rộng mở trên tất
cả các hoạt động của con người, song nó phải đảm bảo các tiêu chí cơ bản
sau: Hoạt động đó nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem
đến cho họ thu nhập; không bị luật pháp Liên bang Nga nghiêm cấm. Do đó,
những hoạt động trái với những quy định trên đều không được Nhà nước Nga
công nhận là việc làm. Với quan niệm như vậy, tất cả các hoạt động nhằm
mang lại lợi ích cho xã hội và cá nhân được Nhà nước khuyến khích, bảo vệ
đều được đem lại việc làm. Quan niệm này việc làm bao gồm cả công việc có
mang lại thu nhập hoặc không mang lại thu nhập, miễn hoạt động đó không bị
pháp luật ngăn cấm. Đây là một quan niệm rất phù hợp với điều kiện phát
triển của thế giới hiện nay trong đó có CHDCND Lào.
Theo quan niệm Tổ chức Lao động quốc tế, việc làm là một phạm trù
kinh tế, nó xác định hệ thống quan hệ giữa con người về việc đảm bảo cho họ
những chỗ làm việc và tham gia vào hoạt động sản xuất. Vì vậy, việc làm có
thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc
hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào
nỗ lực sản xuất. Khái niệm này đã được chính thức thông qua tại Hội nghị quốc
tế của Tổ chức Lao động quốc tế lần thứ 13 (1993) và đã được nhiều nước trên
thế giới áp dụng. Tuy nhiên, nếu xem tất cả các công việc được trả công (được
nhận thù lao) là việc làm thì sẽ dẫn đến sự thừa nhận các hoạt động bất hợp
pháp (như các hoạt động tội phạm buôn bán ma túy, khủng bố…) các hoạt
31
động vi phạm đạo đức xã hội (mại dâm) truyền thống dân tộc… cũng xem là
việc làm. Hơn nữa, mỗi một quốc gia có quan niệm khác nhau về việc làm phù
hợp với điều kiện của quốc gia. Có những hoạt động được quốc gia này xem là
việc làm nhưng lại vi phạm đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia khác, thì sẽ bị
xem là phạm pháp, và không coi đó là việc làm. Do vậy, khái niệm trên có tính
phù hợp cho từng điều kiện cụ thể của đất nước Lào.
Ở Việt Nam, khi thực hiện quá trình đổi mới phát triển đất nước,
nhận thức về vấn đề việc làm đã có nhiều thay đổi mang tính căn bản. Vấn
đề việc làm giờ đây là vấn đề của cả xã hội chứ không phải là vấn đề chỉ
riêng của Nhà nước.
Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, “Việc làm là hành vi của nhân
viên, có năng lực lao động, thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu
sản xuất, để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh” [64, tr.1073]. Với quan
niệm này, khái niệm việc làm nhằm chỉ một chỗ làm việc cụ thể nào đó của
quá trình lao động được diễn ra, nhằm phân biệt với tình trạng thất nghiệp,
không làm việc. Coi việc làm là quá trình hoạt động sản xuất của cải vật
chất, tinh thần cho xã hội. Trong điền kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt Nam hiện nay, để phát huy
các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam với quan niệm trên, có
rất nhiều hoạt động lao động của người lao động sẽ không được xem là
việc làm.
Theo tác giả Phạm Đức Chính:
Việc làm như là một phạm trù kinh tế, tồn tại ở tất cả mọi hình thái
xã hội, đó là một tập hợp những mối quan hệ kinh tế giữa con người
về việc đảm bảo chỗ làm việc và sự tham gia của họ vào hoạt động
kinh tế. Hay nói một cách khác việc làm cũng là một phạm trù của
32
thị trường nó xác định khi thuê một chỗ làm việc nhất định và
chuyển người thất nghiệp thành người lao động [12, tr.313-314].
Quan niệm này xem việc làm là một chỗ làm việc cụ thể trong nền kinh
tế, đó là những công việc mang lại thu nhập trực tiếp cho người lao động.
Nhưng nó khác với lao động, việc làm không thể tồn tại ở tất cả các mọi hình
thái kinh tế - xã hội, mà nó được xác định khi xã hội có nhà nước, tức là nó có
những chế định pháp lý nhất định. Vì nếu xem nó tồn tại ở mọi hình thái kinh
tế - xã hội tức đồng nghĩa việc làm với hoạt động mang lại cái lợi bất kể cái
lợi đó có được pháp luật cho phép hay không.
Theo Phạm Đức Thành và Mai Quốc Chính: “Việc làm là phạm trù chỉ
trạng thái kết hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu
sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó” [73, tr.262].
Như vậy, việc làm được cấu thành bởi ba yếu tố: sức lao động (v)
những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức
lao động (c); và môi trường kết hợp chúng.
Về các loại hình việc làm, ngoài việc phân chia theo lĩnh vực, ngành
nghề, trình độ, còn được phân chia theo một số đặc tính cần quan tâm khác
nữa. Nếu trình độ của (v) và trình độ sản xuất kinh doanh có thể khai thác
hiệu quả và triệt để tiềm năng của (c) thì chúng ta có “ việc làm hợp lý”, còn
nếu chỉ sử dụng hết thời gian lao động cần thiết thì chúng ta sẽ có “việc làm
đầy đủ” và ngược lại. Ngoài ra, nếu (v) cố định và (c) nhỏ thì việc kết hợp này
sẽ tạo nên “việc làm tạm thời”, nhưng nếu tốc độ của (c) tăng nhanh hơn tốc
độ tăng của (v) sẽ tạo được “việc làm ổn định”.
Luật Việc làm năm 2013 của Việt Nam quy định “Việc làm là hoạt
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [62, tr.8].
Từ các cách tiếp cận trên, tác giả luận án cho rằng: Việc làm là các hoạt
động không bị pháp luật cấm mà người lao động tiến hành để được nhận tiền
công, tiền lương hay thù lao lao động cho công việc đó, hoặc những công việc
33
tự làm mang lại lợi ích cho bản thân, tạo ra thu nhập cho gia đình, cho cộng
đồng, kể cả những công việc được trả công bằng hiện vật.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều
kiện như sau:
Một là, hoạt động đó phải tạo ra thu nhập cho người lao động và đem
lại lợi ích cho gia đình hay cộng đồng. Điều kiện này chỉ rõ tính mục đích của
việc làm.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị
pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm, quan niệm này có cách nhìn
về việc làm rộng rãi hơn và tạo khả năng hiện thực hơn về việc làm, cho đa số
người lao động. Trái với những quan niệm cũ cho rằng, chỉ khi nào chen chân
vào được các doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước mới coi là có việc làm.
Việc làm với tư cách là phạm trù của nền kinh tế thị trường hình thành
trong bối cảnh: Một bộ phận dân cư có sức lao động song không thể lao động
do thiếu các điều kiện cần thiết khác. Mục tiêu của việc làm là thu nhập.
2.1.1.2. Khái niệm việc làm, thu nhập cho người lao động nông thôn
Nông thôn theo nghĩa truyền thống, là một khái niệm chỉ một bộ phận
của đất nước dùng để phân biệt với khái niệm thành thị. Đó là một khu vực
rộng lớn mà đại bộ phận dân cư là những người nông dân, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học và Bách
khoa Việt Nam: Nông thôn là phần lãnh thổ của một nước hay một đơn vị
hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh
tế - xã hội, điều kiện sống khác biệt với đô thị và dân cư chủ yếu làm nghề
nông. “Nông thôn là danh từ chỉ khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề
nông” [101, tr.917].
34
Như vậy, có thể hiểu: Nông thôn là một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, thu nhập của dân cư từ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn.
Theo C.Mác, lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người
với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên,
con người phải sử dụng công cụ, thiết bị tác động nhằm biến đổi tự nhiên
thành những vật thể đáp ứng cho nhu cầu của mình. Trong mọi thời gian, mọi
trình độ sản xuất có hiện đại đến đâu thì lao động là một trong những yếu tố
hàng đầu không thể thiếu của loài người.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm biến
những vật tự nhiên thành các vật có ích. Đây là hoạt động cơ bản nhất, riêng
có của con người và xã hội loài người. Lao động không chỉ tạo ra của cải vật
chất để nuôi sống con người, mà còn cải tạo, hoàn thiện và phát triển ngay cả
bản thân con người. Trong quá trình lao động, con người tích lũy được kinh
nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức của mình, hoàn thiện cả thể lực và trí lực,
để lao động, con người phải có sức lao động.
Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định:
“Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm
việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý điều hành của
người sử dụng lao động” [63, tr.8].
Luật Lao động của nước CHDCND Lào (Điều2) quy định: “Lao động
là tất cả năng lực, cơ thể và trí tuệ của con người vận dụng vào làm việc để
tạo ra kết quả về kinh tế, văn hóa - xã hội” [136, tr.2]
Lao động nông thôn: “Là một bộ phận của nguồn lao động quốc gia,
bao gồm toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (lao động đang
làm việc trong nền kinh tế quốc dân) và lao động tiềm tàng (có khả năng tham
35
gia lao động nhưng chưa tham gia lao động) thuộc khu vực nông thôn (khu
vực địa lý bao trùm toàn bộ dân số nông thôn” [5].
Nguồn lao động nông thôn gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên
thuộc khu vực nông thôn đang làm việc trong các ngành, các lĩnh vực: nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dụng, dịch vụ và những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng vì những lý do
khác nhau hiện tại chưa tham gia hoạt động kinh tế. Những người trong độ
tuổi lao động nông thôn có khả năng lao động nhưng hiện tại chưa tham gia
lao động do các nguyên nhân như đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội
trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc, người thuộc tình trạng khác
(nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ Lao động…).
Theo tác giả luận án, lao động nông thôn được hiểu là những người
trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn và tham gia hoạt động trong hệ
thống các ngành kinh tế nông thôn; bao gồm lao động chuyên nông nghiệp,
lao động nông nghiệp kiêm các ngành nghề khác, lao động các ngành phi
nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp.
Lao động nông thôn bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15-60
tuổi, nữ từ 15- 55 tuổi) và những người trên dưới độ tuổi nói trên có thể tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ trong nông nghiệp. Tuy nhiên,
do đặc thù của lao động nông thôn là lao động có thể tham gia nhiều hoạt
động kinh tế khác nhau, có thể vừa thuộc ngành nông nghiệp, vừa thuộc
ngành công nghiệp hay dịch vụ. Do đó, căn cứ để xác định và xếp loại ngành
sản xuất cũng như việc làm của lao động nông nghiệp của luận án này là thời
gian lao động. Theo đó ngành sản xuất nào của lao động chiếm thời gian
nhiều hơn trong một năm thì sẽ là ngành sản xuất chính. Trường hợp thời gian
lao động tham gia bằng nhau trong một năm thì ngành sản xuất nào tạo ra thu
nhập cao hơn sẽ là ngành sản xuất chính.
36
Từ khái niệm trên có thể thấy đặc điểm chủ yếu của lao động nông thôn
là: Lao động nông thôn có tỷ lệ tăng tự nhiên về số lượng lớn; Chất lượng lao
động nông thôn còn thấp cả về thể lực, trí lực và tác phong, kỹ thuật lao động
chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh những
mặt tích cực của lao động nông thôn cần được phát huy khi chuyển sang các
lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp thì lao động nông thôn còn nhiều hạn chế
yếu kém bất cấp cụ thể là: Trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của lao
động nông thôn còn thấp kém, ít được đào tạo bài bản, có hệ thống số lao
động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo phân bố vào khu vực
nông thôn không hợp lý, nêu hiệu quả sử dụng thấp. Đây là yếu tố gây trở
ngại lớn cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ và tăng
năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Thể lực
của lao động nông thôn tuy bước đầu đã được cải thiện, nhưng còn thấp so
với yêu cầu tình trạng dinh dưỡng của người lớn. Tình trạng sức khỏe của
người lao động nông thôn đã phản ánh rõ nét mỗi liên hệ chặt chẽ giữa mức
thu nhập thấp, và năng suất lao động của người lao động nông thôn còn thấp
và đời sống còn khó khăn. Từ những luận giải trên cho thấy, lao động nông
thôn chủ yếu thuộc bộ phận dân số không có việc làm thường xuyên, hay còn
gọi là thiếu việc làm hoặc bán thất nghiệp.
Việc làm và thu nhập là hai khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau, hiểu
theo đúng nghĩa của nó tức là người lao động có việc làm mà pháp luật
không cấm thì ắt họ sẽ có thu nhập hợp pháp để nuôi sống bản thân và gia
đình. Vì thế, nói đến việc làm cũng là nói đến thu nhập. Có việc làm không
những người lao động có thu nhập cho bản thân và gia đình mà còn tạo ra
một lượng của cải vật chất cho xã hội. Việc làm tạo thu nhập, thu nhập được
sử dụng để tái đầu tư phát triển việc làm nhằm bảo đảm sự ổn định của
người thu nhập, mức sống của họ lâu dài và đây cũng chính là cơ sở tạo nên
sự ổn định của việc làm.
37
Việc làm cho người lao động nông thôn phải đi kèm với mức thu nhập
đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia đình hộ nông dân, đồng thời phải gắn
liền với các vấn đề kinh tế, vĩ mô cần giải quyết cho quá trình tăng trưởng,
theo xu hướng phát triển bền vững cho các địa phương ở CHDCND Lào.
Theo một nghĩa chung nhất, thu nhập được biểu thị bằng một lượng giá trị
hoặc hiện vật mà người lao động nhận được bằng hoạt động lao động của
mình. Trong nền kinh tế quốc dân, thu nhập là tổng giá trị sản lượng hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một đơn vị thời gian. Với người công
nhân, thu nhập của họ chính là tiền lương mà họ nhận được. Với người lao
động nông thôn, thu nhập được tạo ra chủ yếu từ kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, tiền công do làm thuê mà có. Trong giai đoạn hiện nay, thu nhập
của lao động nông thôn nước ta có hai biểu hiện rất rõ nét:
Thứ nhất, thu nhập của lao động nông thôn là rất thấp và có khoảng
cách khá xa so với thành thị. Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành
thị là do cơ hội việc làm ở thành thị lớn hơn, năng suất lao động hay hiệu quả
công việc ở thành thị cao hơn. Đây là lý do hình thành luồng di dân từ nông
thôn ra thành thị với mức độ ngày càng tăng. Điều đó tạo ra yêu cầu khách
quan là phải có giải pháp hợp lý nhằm tạo việc làm cho lao động nông thôn và
nâng cao hiệu quả của lao động nông thôn, hạn chế sự chênh lệch quá lớn về
thu nhập giữa nông thôn và thành thị từ đó khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực do sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị gây ra.
Thứ hai, thu nhập của lao động nông thôn không ổn định. Nền nông
nghiệp ở CHDCND Lào nói riêng và ở một số nước trong khu vực Đông Nam
Á nói chung cơ bản vẫn là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, trình độ canh tác
cũng như cơ sở vật chât kỹ thuật còn lạc hậu do đó chứa đựng những rủi ro
lớn. Những năm qua, các hiện tượng thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh…
làm cuộc sống của cư dân một số vùng nông thôn thêm khó khăn. Ngoài sự
rủi ro vì những yếu tố bất thường của tự nhiên, người nông dân cũng phải đối
38
mặt với những rủi ro về thị trường do giá cả nông sản không ổn định. Trong
nông thôn, thị trường lao động cũng thiếu tính ổn định do tính thời vụ của sản
xuất nông nghiệp. Trong kỳ thời vụ, nhu cầu thuê lao động tăng nhưng thuê
nhân công vừa khó vừa phải trả tiền công cao. Ngược lại, thời kỳ nhàn rỗi nhu
cầu thuê lao động thấp, người nông dân không có việc làm nên họ sẵn sàng
làm thuê với mức tiền công thấp. Thu nhập của lao động nông thôn không ổn
định thể hiện rõ ở những vùng sản xuất thuần nông.
Từ những phân tích trên, tác giả luận án cho rằng, việc làm cho người
lao động nông thôn là những hoạt động mà người lao động nông thôn có thể
tiếp cận và sử dụng chúng để mang lại thu nhập hợp pháp cho bản thân và
gia đình. Nó bao gồm việc làm thuần nông và việc làm phi nông nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm của việc làm cho người lao động nông thôn
Thứ nhất, việc làm cho người lao động nông thôn phần lớn gắn với sản
xuất nông nghiệp.
Chính điều kiện tự nhiên và môi trường sinh sống của người lao động
nông thôn đã ảnh hưởng đến việc làm của họ, thậm chí quyết định việc làm
của họ. Người lao động nông thôn, làm việc trong những ngành nông - lâm,
nghiệp; đây là những loại việc làm có thể khai thác tài nguyên thiên nhiên
chính nơi họ sinh sống. Việc làm của họ phần nhiều phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên và sức lao động của chính mình. Trong điều kiện nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, việc làm của họ càng mang tính thủ công, nặng nhọc, lại
thường chịu tác động bởi thiên tai, dịch bệnh, nên thu nhập thường thấp và
bấp bênh. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp lại mang tính mùa vụ rất cao, nên
vào mùa vụ thì công việc bận rộn nhưng hết mùa vụ thì lại thiếu việc làm.
Tình trạng thời gian nông nhàn cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông
nghiệp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng di chuyển lao động từ nơi này đến
nơi khác từ nông thôn ra thành thị, tạm thời hoặc lâu dài. Do đó, vấn đề thiếu
việc làm của lao động nông thôn thường xuyên diễn ra.
39
Đối tượng sản xuất của nông nghiệp, nông thôn chủ yếu là cây trồng
và vật nuôi. Các loại này phát triển theo qui luật sinh học nhất định. Chúng
nhạy cảm với môi trường, mọi sự thay đổi của điều kiện tự nhiên đều tác
động trực tiếp đến sự phát triển của nó, nên ảnh hưởng đến kết quả cuối
cùng của quá trình sản xuất. Vì vậy, hiệu quả sản xuất nông nghiệp nông
thôn phụ thuộc rất lớn vào việc lựa chọn những giống cây trồng, vật nuôi
có chất lượng cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, miền.
Thêm vào đó, sản xuất nông nghiệp nông thôn còn phụ thuộc rất lớn vào
tình hình thời tiết, khí hậu, thời tiết khí hậu xấu sẽ gây nên hiện tượng lũ
lụt, dịch bệnh ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất nông nghiệp như: mất
mùa; gia súc, gia cầm chết, vì thế thu nhập của người lao động nông nghiệp
thường thấp và rất bấp bênh, chính vì vậy mà họ muốn tìm việc làm ngoài
nông nghiệp.
Thứ hai, việc làm cho người lao động nông thôn thường là những việc
làm giản đơn, ít đòi hỏi tay nghề cao, mang tính thủ công, tốn nhiều sức lao
động. Người lao động nông thôn lớn lên đã theo cha mẹ ra đồng làm việc,
kiến thức nghề nông được tích lũy dần trong quá trình người lao động tham
gia sản xuất từ nhỏ với tư cách là người lao động phụ của gia đình. Vì vậy,
mà người lao động nông thôn ít quan tâm đến việc nâng cao trình độ học vấn,
học nghề để có thể tìm kiếm việc làm khác ngoài nông nghiệp. Do đó, người
lao động nông nông thôn phần lớn chưa qua đào tạo nghề, trình độ học vấn
thấp khó có thể tìm kiếm được việc làm ngoài nông nghiệp. Trình độ tay nghề
thấp, do đó năng suất lao động thấp, kéo theo là thu nhập của họ không cao.
Thứ ba, việc làm cho lao động nông thôn rất phong phú và đa dạng với
nhiều ngành nghề khác nhau.
Có thể phân việc làm cho lao động nông thôn thành các loại việc làm
thuần nông và việc làm phi nông nghiệp.
40
+ Việc làm thuần nông là hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng trọt
và chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay ở CHDCND Lào vẫn
coi trồng trọt và chăn nuôi là công việc chính. Thế mạnh của lĩnh vực này là
người lao động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha ta từ ngày xưa
để lại. Kiến thức nghề nông được tích lũy dần trong quá trình lao động tham
gia sản xuất với tư cách là người lao động phụ của gia đình.
+ Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm tất cả các
ngành nghề ngoài nông nghiệp, nông thôn. Cùng với sự hình thành và phát
triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN ở Lào các
loại ngành nghề nông thôn đã phát triển phong phú, đa dạng về việc làm.
Hiện nay đã có nhiều loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời và phát
triển. Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề truyền thống như: sản xuất
đồ gỗ, gốm sứ, dệt váy, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ… nhiều ngành nghề
chế biến nông - lâm, nghiệp hoạt động gia công cơ khí phục vụ sửa chữa đồ
gia dụng nông cụ, máy móc nông cụ, máy móc nông nghiệp. Đặc biệt, cùng
với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dịch vụ du lịch sinh thái ở nông thôn
đã phát triển tương đối mạnh. Tất cả những biến đổi đó đã tạo ra nhiều loại
hình, công việc làm phong phú, đa dạng ở nông thôn.
2.1.3. Vai trò của việc làm cho người lao động nông thôn
Nhìn chung ở các nước đang phát triển dân số sống ở khu vực nông
thôn chiếm tỷ lệ khá cao. Do đó việc làm cho người lao động nông thôn có
vai trò rất quan trọng thể hiện trên khía cạnh sau:
Một là, việc làm cho người lao động nông thôn góp phần tạo thu nhập,
xóa đói giảm nghèo.
Đảng và Nhà nước Lào luôn luôn quan tâm đến công cuộc xóa đói,
giảm nghèo và xác định đây là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nền kinh tế.
Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, góp phần phát triển đất
41
nước theo định hướng XHCN. Xóa đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản
lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Bởi vì sự nghiệp cách mạng
và công cuộc đổi mới luôn luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh
tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân. Thực hiện chính
sách xóa đói, giảm nghèo như thế nào để đáp ứng được mục tiêu chiến lược
như tiếp tục hướng dẫn giải quyết sự nghèo đói của nhân dân mà khởi
điểm, sự nghèo đói của bản thân mình cũng như của gia đình làm điểm
chính. Ngoài ra, đối với người lao động nông thôn khi có việc làm mới sẽ
có thu nhập, từ đó góp phần xóa đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
Góp phần thực hiện hiệu quả chương trình phát triển nông thôn, tạo điều
kiện cho người lao động tìm việc làm và có thu nhập chính đáng, cùng với
chủ trương khuyến khích làm giàu hợp pháp và đẩy mạnh cuộc vận động
xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn.
Hai là, việc làm cho người lao động nông thôn góp phần ổn định chính
trị - xã hội.
Bất kỳ quốc gia nào, dù là nước phát triển, đang phát triển hay kém
phát triển, thì sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đều phụ thuộc vào
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực cho phát triển như: nguồn lực lao
động, nhất là lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. khoa học công nghệ; vốn
và hiệu quả sử dụng vốn; tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố nguồn lực
mang tính chính trị, xã hội như: Thể chế chính trị; cơ chế chính sách, kinh
nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh. Trong quá trình đó, lao động - việc làm
của người lao động đóng vai trò then chốt. Nếu lao động - việc làm của người
lao động nông thôn bị hạn chế, tức là các nguồn lực khác chưa được khai thác
sử dụng ở mức tối ưu. Các yếu tố mang tính chính trị - xã hội, tuy không tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nhưng lại rất quan trọng, bởi vì các yếu tố
này có vai trò điều tiết, phối hợp để khai thác có hiệu quả nguồn lực cả trong
nước và ngoài nước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
42
Người lao động nông thôn có việc làm sẽ ổn định được cuộc sống của
họ và gia đình họ, tránh được các yếu tố rủi ro trong quá trình tìm kiếm việc
làm. Tạo việc làm cho lao động nông thôn sẽ giúp họ được tiếp cận với cơ hội
đào tạo, phát triển, nâng cao trình độ. Từ đó, trang bị cho lao động nông thôn
tự tin, vững vàng trong cuộc sống, giúp họ hiểu rõ hơn về quyền lợi và trách
nhiệm của mình trong xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho nông dân, giúp
nông dân có thu nhập, giảm tệ nạn xã hội, làm cho xã hội càng văn minh, phát
triển hơn.
Ba là, việc làm cho người lao động nông thôn góp phần ổn định cuộc
sống và phát triển kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Những vấn đề xã
hội căn bản như thất nghiệp, thiếu việc làm, đói nghèo, tệ nạn xã hội còn chưa
được giải quyết triệt để thì nhìn chung, người lao động nông thôn đang phải
chịu thiệt thòi và tiềm năng lớn đó chưa được khai thác một cách có hiệu quả.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo yếu tố cơ bản
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Khi đó sẽ xuất hiện những hoạt động
sản xuất mới, một số hoạt động sản xuất cũ sẽ được thay thế, thất nghiệp cơ
cấu phát sinh. Vì vậy, cần thiết phải tạo việc làm cho lao động nông thôn
nhằm giảm thất nghiệp cơ cấu. Trong quá trình CNH, HĐH các khu công
nghiệp lớn sẽ hình thành và phát triển, thu hút lao động có chất lượng cao.
Người lao động nông thôn muốn có việc làm ổn định cần phải đáp ứng đòi
hỏi về mặt trình độ của công nghệ mới. Đây chính là cơ hội mới để lao động
nông thôn tiếp cận với cơ hội đào tạo và phát triển. Đặc biệt là trong nền
KTTT định hướng XHCN, người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ
43
đâu, miễn là không vi phạm pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao
hơn cho bản thân.
Bốn là, việc làm cho người lao động nông thôn góp phần xây dựng
nông thôn mới.
Việc làm cho người lao động nông thôn chính là tạo động lực thúc đẩy
quá trình sản xuất, thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển. Việc làm tạo ra khả
năng to lớn trong việc sử dụng tiềm năng cho con người ở nông thôn. Chính
sách giải quyết việc làm đúng đắn và môi trường thuận lợi là nhân tố ảnh
hưởng rất lớn đến tiềm năng sáng tạo của con người thúc đẩy họ lao động hết
mình để cống hiến cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngược lại chính sách giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn có
hiệu quả sẽ trở thành một động lực to lớn đoàn kết được toàn dân, ổn định
vững chắc xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần của các tầng lớp
nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp có khả năng khắc phục từng bước nguy
cơ tụt hậu về kinh tế, giảm tệ nạn xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở
nông thôn để hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
2.2. YÊU CẦU VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
2.2.1. Những yêu cầu về việc làm cho người lao động nông thôn
Vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn là một nhiệm vụ chiến
lược trọng yếu luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Những năm
gần đây, Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đã hoạch định chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và ban hành, tổ chức triển khai thực hiện nhiều chính sách,
chương trình, giải pháp. Trong đó, cụ thể và thiết thực nhất là: Các chính sách
khuyến khích, tạo môi trường mới gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu
tư vào nông thôn, phát triển nông thôn, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ
tầng, triển khai thực hiện chương trình tăng cường công tác đào tạo nghề và
44
giới thiệu việc làm v.v... Do vậy, việc làm cho người lao động nông thôn cần
đảm bảo các yêu cầu sau:
2.2.1.1. Tăng lượng cầu lao động nông thôn
Lượng cầu về lao động nông thôn là số lượng lao động mà các tổ chức
kinh tế - xã hội có nhu cầu sử dụng và có khả năng chi trả tiền công, tiền
lương để được quyền sử dụng sức lao động đó trong thời gian nhất định.
Với người lao động nông thôn chủ yếu là nông dân làm nông nghiệp.
Do diện tích đất nông nghiệp là hữu hạn, khả năng chia thêm đất nông nghiệp
cho người dân là không thể, nên chuyển đổi nghề cho họ là phương án phải
tính đến. Trong xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giảm tỷ trọng nông nghiệp,
tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ thì việc chuyển đổi nghề cho nông dân từ
lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là
phương án tối ưu. Để mở lượng cầu về lao động cần coi trọng việc các cơ sở
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tuyển dụng lao động tại chỗ, lao
động mất đất đã đào tạo nghề vào làm việc. Với khu vực kinh tế làng nghề,
kinh tế trang trại, dịch vụ cũng cần đẩy mạnh phát triển để thu hút thêm lao
động. Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nhóm doanh nghiệp nhỏ và
vừa trong các khu công nghiệp phải ưu tiên sử dụng người lao động nông
thôn để giải quyết việc làm cho họ tạo nên sự đồng thuận và ổn định xã hội.
2.2.1.2. Nâng cao chất lượng cung lao động nông thôn
Một tất yếu xảy ra là tại khu vực nông thôn khi tiến hành đô thị hóa,
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đặc biệt sau khi thu hồi đất sẽ tăng cung
về lao động nông thôn. Muốn đối tượng này có việc làm phải chuyển đổi
nghề, tìm việc làm mới. Để số lao động này có nghề, phải đa dạng các loại
hình và ngành nghề đào tạo phù hợp với trình độ chuyên môn, lứa tuổi, tập
quán. Do người lao động nông nông thôn bị thu hồi đất thuộc nhiều lứa tuổi
và trình độ khác nhau nên việc dạy nghề phù hợp với từng đối tượng phải
được coi trọng.
45
Chất lượng nguồn lao động nông thôn không chỉ ở trình độ học vấn, tay
nghề mà còn bao hàm cả tính kỷ luật, mức độ phù hợp của lao động với môi
trường mới. Do vậy, bên cạnh việc mở rộng quy mô và loại hình đào tạo, cần
nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo thì mới có thể cho ra một lực lượng lao
động nông thôn đáp ứng được với thị trường sức lao động.
Chất lượng lao động nông thôn còn phụ thuộc vào sức khỏe của người
lao động. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện ăn, ở, đi lại, rèn luyện
sức khỏe, y tế, hệ thống an sinh xã hội. Việc bố trí tái định cư cho người lao
động nông thôn, đảm bảo ổn định đời sống cho họ phải được coi trọng. Đây
không những là nhân tố quyết định đến chất lượng cung lao động nông thôn
mà còn thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN ở CHDCND Lào.
Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn cung lao động nông thôn nhằm tháo
gỡ khó khăn vương mắc về việc làm cho người lao động nông thôn không chỉ
đơn giản là cơ hội để họ tìm được việc làm có thu nhập mà còn là một áp lực
lớn đối với họ. Vì họ phần lớn đang gắn bó với ruộng, vườn, trình độ học vấn
thấp, lao động giản đơn nến khi Đảng và Nhà nước thu hồi đất, họ không dễ
dàng chuyển đổi sang nghề mới ngay được. Do đặc điểm của sản xuất công
nghiệp đòi hỏi người lao động nông thôn phải có tay nghề, chuyên môn, tính
kỷ luật nên người lao động nông thôn muốn được tham gia vào các ngành sản
xuất công nghiệp và dịch vụ cần phải được đào tạo bài bản. Tuy nhiên, lao
động nông thôn chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, dẫn đến một thực tế là chất
lượng thấp.
2.2.1.3. Mở rộng các hình thức giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn
Vì việc làm cho lao động nông thôn có vai trò rất quan trọng đối với
cuộc sống của bản thân người nông dân và góp phần đáng kể vào sự phát triển
KT-XH của địa phương nên mở rộng các hình thức giải quyết việc làm cho
lao động ở nông thôn là một yêu cầu cấp thiết. Nó dựa trên các hình thức cơ
bản như sau:
46
Một là, thông qua đào tạo nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm.
Thông qua hệ thống các cơ sở dạy nghề sẽ tạo điều kiện cho người lao
động nói chung và người lao động nông thôn nói riêng học nghề, nâng cao
trình độ tay nghề, tạo cơ hội tham gia vào thị trường sức lao động. Luật Lao
động là căn cứ pháp lý quan trọng cho việc phát triển hệ thống các cơ sở đào
tạo và các trung tâm giới thiệu việc làm.
Hai là, thông qua xuất khẩu lao động.
Để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập sâu
rộng, xuất khẩu lao động là một chủ trương có tính chiến lược, quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Xuất khẩu lao động có những tác động tích cực đối với
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động hợp lý, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động... Nhìn chung số người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài
phần lớn ở nông thôn, chính lực lượng này đã góp phần vào phát triển nông
thôn có hiệu quả. Tuy nhiên, lực lượng lao động nông thôn khi tham gia lao
động ở nước ngoài cũng còn những hạn chế, bất cấp như về trình độ, chế độ,
an toàn, về quyền lợi của người lao động... chưa được bảo đảm. Do vậy cần
quan tâm đến hiệu quả của xuất khẩu lao động đáp ứng yêu cầu mới đặt ra.
Ba là, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội nông dân, Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Công đoàn... là những tổ chức có vai trò tích
cực trong tạo việc làm. Các địa phương trong nước đã có sự phối hợp chặt chẽ
với các tổ chức chính trị - xã hội để có những kế hoạch cụ thể nhằm tư vấn
việc làm, giúp người lao động nông thôn có việc làm hoặc tự tạo việc làm.
Bốn là, thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia.
Chương trình mục tiêu quốc gia là do nhà nước ban hành nhằm hỗ
trợ người lao động tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Chương trình mục
47
tiêu quốc gia của nhà nước được xây dựng gắn với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của mỗi địa phương trong từng giai đoạn, phù
hợp với từng vùng, miền và nhóm đối tượng lao động cụ thể. Đặc biệt
trong chương trình mục tiêu quốc gia và phát triển nông thôn, các chương
trình của nhà nước có ý nghĩa quan trọng giúp người lao động tiếp cận
nguồn vốn vay ưu đãi, học nghề tiếp thu kiến thức chuyển đổi tay nghề...
tạo nhiều việc làm mới.
Năm là, thông qua sự phối hợp giữa nhà nước, người sử dụng lao động
và người lao động nông thôn
Thực tế cho thấy là ở bất cứ địa phương nào khi xây dựng phương án
giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn khi tiến hành đô thị hóa
cũng đều có quy định doanh nghiệp khi vào sản xuất ở các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp phải ưu tiên tuyển dụng lao động địa phương. Tuy nhiên có
rất ít lao động địa phương được tuyển dụng vào làm việc, do khi tuyển dụng
doanh nghiệp cần lao động đáp ứng được với dây chuyền sản xuất của họ,
điều này người dân địa phương khó có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu. Tình
trạng này khá phổ biến và nảy sinh nhiều phức tạp về mặt xã hội do người dân
trước khi thu hồi đất được hứa hẹn vào làm việc, nay không đáp ứng được yêu
cầu của nhà tuyển dụng.
Để thực hiện được việc này cần xây dựng cơ chế để ràng buộc các nhà
đầu tư thực hiện các cam kết của mình. Các doanh nghiệp lấy đất và có nhu
cầu tuyển dụng lao động phải công khai số lượng tuyển dụng lao động trong
dự án và theo tiến độ tuyển dụng trong từng thời kỳ về số lượng lao động, yêu
cầu về nghề nghiệp, tay nghề. Nhà nước và chính quyền địa phương cần có cơ
chế định hướng cho các tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động phải có cơ
chế ưu tiên tuyển dụng lao động bị thu hồi đất. Người dân mất đất cũng cần
sử dụng số tiền đền bù phù hợp để học nghề mới, phù hợp với nhu cầu tuyển
dụng. Cam kết của các doanh nghiệp trước khi nhận đất ở các khu công
48
nghiệp, cụm công nghiệp trong việc sử dụng lao động địa phương cũng cần
phải được giám sát chặt chẽ.
Về phía người sử dụng lao động: đó là toàn bộ các doanh nghiệp trong
và ngoài nước, với vài trò là tạo ra chỗ làm việc trong doanh nghiệp. Để tạo
được chỗ làm việc, người sử dụng lao động cần phải có những tiền đề: vốn,
công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý cũng như phải tìm được
thị trường (cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra). Trong đó, để tạo được
việc làm thì người sử dụng lao động còn phải đến thị trường để thuê lao động.
Chỉ khi nào người sử dụng lao động tìm được sức lao động phù hợp với nhu
cầu của mình cả về chất lượng và số lượng thì khi đó việc làm mới được hình
thành. Các doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, do đó họ hoàn toàn cần
tuyển những lao động phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Vì thế,
việc có các quy định trách nhiệm này như nhế nào cũng là vấn đề đang phải
bàn và nên chăng đối với người sử dụng lao động cần khuyến khích các yêu
cầu: hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi nghề nghiệp; hoạt động trong các
ngành thu hút được nhiều lao động; giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn tại chỗ…
Về phía người lao động: người lao động muốn có việc làm phải có sức
khỏe, có trình độ có những kỹ năng cần thiết đáp ứng được yêu cầu của công
việc. Chính vì vậy, người lao động muốn có việc làm, họ phải không ngừng
hoàn thiện bản thân trên các mặt như: có sức khỏe để đáp ứng yêu cầu của
công việc, hoàn thiện về kiến thức, về kỹ năng chuyên môn. Điều này cho
thấy để có được việc làm và duy trì việc làm, người lao động phải chủ động
nắm bắt những cơ hội về việc làm. Do đó người lao động phải chủ động quan
sát nhu cầu của thị trường sức lao động về những nghề nghiệp mà thị trường
đang có nhu cầu và tham gia vào quá tình đào tạo nghề nghiệp đó.
Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong giải quyết
việc làm.Vai trò của Nhà nước được thể hiện trong việc tạo môi trường thuận
49
lợi cho người lao động cũng như người sử dụng lao động phát huy được khả
năng của họ, đưa ra những chính sách liên quan tới người lao động, người sử
dụng lao động. Trong đó đối với người lao động, Nhà nước tạo điều kiện cho
họ được tiếp cận với hệ thống giáo dục, đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc
làm… và đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để phát triển thị trường sức lao động.
Còn đối với người sử dụng lao động, Nhà nước có sự hỗ trợ về mặt pháp lý để
họ được tự do, bình đẳng trong kinh doanh, hỗ trợ về vốn, thông tin đào tạo
nâng cao kiến thức quản lý của các doanh nghiệp… Nhà nước cần phải xây
dụng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp
để có cơ hội tìm được việc làm.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm cho người lao động
nông thôn
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc làm cho lao động nông thôn,
trong đó có những nhân tố cơ bản như sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng của đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đến việc làm cho người lao động nông thôn.
Đô thị hóa, CNH, HĐH là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu xã hội nông nghiệp - nông thôn - nông dân sang xã hội công nghiệp - đô
thị và thị dân. Do vậy, quá trình Đô thị hóa, CNH, HĐH gắn liền với việc tạo
thêm nhiều việc làm mới và giải quyết việc làm trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch. Đô thị hóa, CNH, HĐH còn làm thay đổi cơ cấu
việc làm theo hướng giảm việc làm nông nghiệp, tăng việc làm công nghiệp,
dịch vụ. Song quá trình Đô thị hóa, CNH, HĐH đã làm xuất hiện một bộ phận
không nhỏ những người lao động nông nghiệp, nông thôn rơi vào tình trạng
không có việc làm vì phần lớn người lao động nông thôn trình độ học vấn
thấp, không có tay nghề chuyên môn kỹ thuật, thiếu vốn để tự tổ chức sản
xuất tạo việc làm. Mặt khác, do tâm lý, cách làm và lối sống còn mang nặng
tính thụ động đã hạn chế khả năng tìm kiếm việc làm, khả năng tiếp cận các
50
dịch vụ việc làm, khả năng hòa nhập với cuộc sống đô thị, với những biến đổi
nhanh chóng của quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH…của người dân. Những lý
do trên đã cản trở nhóm dân cư này trong việc tìm kiếm cơ hội chuyển đổi
việc làm mới, biến họ trở thành những cư dân thất nghiệp trên chính quê
hương mình. Do đó, cần phải có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng và các
chính sách khác để cho người lao động nông thôn được giải quyết việc làm ở
lĩnh vực phi nông nghiệp.
Thứ hai, ảnh hưởng của quy mô và cơ cấu dân số đến việc làm cho
người lao động nông thôn.
Quá trình phát triển xã hội đều phụ thuộc vào sự vận hành có quy luật
của hệ thống dân số. Vì vậy, các nhà kinh tế đã chỉ ra: Đầu tư cho công cuộc
điều chỉnh hệ thống dân số một đồng thì xã hội có thể tiết kiệm được 40 đồng.
Vấn đề đặt ra ở đây là cần hướng tới việc bảo đảm tính cân bằng, ổn định bên
trong sự phát triển dân số. Tính ổn định đó phụ thuộc vào hàng loạt điều kiện
như: trình độ kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế, tính chất các quan hệ xã hội,
pháp luật, kỷ cương, chuẩn mực đạo đức, truyền thống, định hướng giá trị,
các yếu tố văn hóa, việc kết hợp tâm lý dân tộc và xu hướng thời đại.
Số lượng, tốc độ gia tăng dân số và cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn
tới nguồn lực lao động và vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Dân
số lao động và việc làm là những vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau, dân
số tăng ngày càng nhanh thì dân số trong độ tuổi lao động cũng tăng nhanh,
đồng thời nhu cầu việc làm ngày càng nhiều hơn. Dân số tăng nhanh dẫn tới
tăng chi tiêu ngân sách cho tiêu dùng, giảm chi cho đầu tư phát triển, nhất là
đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giảm xuống, dẫn đến chất lượng
nguồn lao động thấp, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn hơn. Mặt khác, dân
số gia tăng nhanh cũng dẫn đến sự phân bố dân cư bất hợp lý giữa các vùng,
khu vực kinh tế, không gắn kết được lao động với tài nguyên, đất đai với
51
thiết bị máy móc, khiến cho việc tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu
việc làm tăng.
Thứ ba, ảnh hưởng của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến việc làm cho người lao động nông thôn.
Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước có vai trò quyết định
đến sự biến động của lao động và giải quyết việc làm cho người lao động nói
chung và cho người lao nông thôn nói riêng. Các chính sách có thể tác động
theo hướng tích cực hoặc ngược lại. Khi có những chủ trương, chính sách
đúng, phù hợp thì nó sẽ huy động và thúc đẩy mạnh mẽ các nguồn lực của
toàn xã hội tham gia vào giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó,
người lao động nông thôn có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, tự tạo nhiều
việc làm để tăng thu nhập cho bản thân và gia đình. Như vậy, nó sẽ tác động
mạnh mẽ đến sự chuyển đổi cơ cấu việc làm trong lao động nông thôn. Trong
đó chính sách vĩ mô của Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn, nhất là chính sách kinh tế - xã hội, chính
sách tiền lương, chích sách đãi ngộ khác… Các chính sách này đã tạo ra môi
trường pháp lý để giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn. Suy
cho cùng, khi chính sách vĩ mô của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát
triểu KT-XH thì nó thúc đẩy cho công tác giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn.
Để giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn vấn đề quan trọng
hàng đầu là nhà nước phải tạo ra các điều kiện thuận lợi để người lao động có
thể tự tạo việc làm thông qua chính sách kinh tế - xã hội cụ thể. Các chính
sách tác động đến giải quyết việc làm có nhiều loại, có loại tác động trực tiếp,
có loại tác động gián tiếp như: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần;
chính sách khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu; chính sách tín dụng ưu
đãi để các doanh nghiệp đầu tư; chính sách khuyến khích thị trường lao động,
chính sách giáo dục đào tạo nghề cho lao động; chích sách khuyến khích đầu
52
tư trong nước và ngoài nước thông qua chính sách đất đai, thuế,… Các chính
sách này tạo thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ có quan hệ
tác động qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung lẫn cầu về
lao động, đồng thời làm cho cung và cầu về lao động xích lại gần nhau, phù
hợp với nhau, thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu lao động với cơ cấu
kinh tế.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn. Chiến
lược này thường được cụ thể hóa bằng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Nếu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có
tính khả thi, thì các dự án đầu tư cũng có điều kiện thực hiện thuận lợi và có
hiệu quả kinh tế cao. Do đó, mà việc giải quyết việc làm giữa các chủ thể
tham gia cũng trở nên thuận lợi và nhanh hơn. Quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương có tính khả thi nghĩa là quy hoạch này phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng; phù hợp với điều kiện tự nhiên -
kinh tế - xã hội của địa phương; có lộ trình và các nguồn lực hợp lý để thực
hiện. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội lại được cụ thể hóa bằng quy
hoạch sử dụng đất của địa phương.
Thứ tư, ảnh hưởng của giáo dục và đào tạo đến việc làm cho người lao
động nông thôn.
Giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lực lượng
lao động và cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ, ngành nghề và do
đó nó ảnh hưởng lớn đến giải quyết việc làm.
Giáo dục và đào tạo tốt sẽ tạo ra lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức, tác phong
tốt, có cơ cấu theo trình độ và ngành nghề phù hợp với nhu cầu lao động.
Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giải quyết việc làm (GQVL). Ngược
lại, khi giáo dục đào tạo không tốt, chất lượng giáo dục và đào tạo thấp, cơ
53
cấu lao động không hợp lý với yêu cầu của thị trường sức lao động, khi đó
cung lao động sẽ không đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động và
do đó gây cản trở cho GQVL.
Thực tế ở CHDCND Lào cho thấy điều này rất rõ. Do chương trình,
nội dung đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, nên học sinh,
sinh viên sau khi tốt nghiệp các trường kỹ thuật, các trường dạy nghề ở Lào
thường chưa làm được việc ngay, mà phải mất thêm một thời gian nữa để
đào tạo.
Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực vẫn nằm trong tình trạng bất cập so với
yêu cầu của thị trường sức lao động. Thị trường sức lao động đang cần có
công nhân lành nghề, nhưng đào tạo lại không đáp ứng kịp hoặc cung cấp lao
động không đúng ngành nghề... Điều này bộc lộ rõ nét nhất qua các hội chợ
việc làm những năm gần đây ở CHDCND Lào.
Thứ năm, ảnh hưởng của công tác y tế, chăm sóc sức khỏe đến việc làm
cho người lao động nông thôn.
Y tế, chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến chất lượng LLLĐ và do đó có
ảnh hưởng đến GQVL. Ngược lại, nếu y tế yếu kém, không chăm lo đến sức
khỏe cộng đồng, sức khỏe của người lao động thì sẽ làm cho tình trạng sức
khỏe, của LLLĐ kém, khả năng lao động yếu, thậm chí không lao động được.
Điều này gây cản trở cho GQVL. Vì thế, xây dựng một nền y tế phát triển,
bảo đảm chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng và người lao động là nhân tố ảnh
hưởng không kém phần quan trọng đến GQVL.
Đối với lao động ở nông thôn, do mạng lưới y tế ở khu vực này còn yếu
kém và bất cập, thêm vào đó là việc thu nhập của người dân thấp, nên việc
chăm lo sức khỏe cho LLLĐ ở nông thôn chưa được quan tâm đúng mức.
Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người lao động ở nông thôn
CHDCND Lào nói chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng, cũng như có thể ảnh
hưởng đến GQVL cho chính họ.
54
Thứ sáu, ảnh hưởng của thị trường sức lao động đến việc làm cho
người lao động nông thôn.
Thị trường sức lao động là một phạm trù KT-XH bao gồm một cơ chế
KT-XH riêng biệt thực hiện đồng bộ những quan hệ lao động xã hội xác định
và thúc đẩy việc xác lập và tuân theo cân bằng các quyền lợi giữa người lao
động, doanh nghiệp và nhà nước. Thị trường sức lao động là một bộ phận cấu
thành không thể tách rời của nền kinh tế thị trường. Thị trường sức lao động
khác biệt với thị trường hàng hóa ở chỗ, nó biểu hiện phần lớn những biểu
hiện KT-XH của cả xã hội và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
của nó. Thị trường sức lao động là lĩnh vực hình thành quan hệ cung cầu lao
động và nó chỉ được thực hiện trong điều kiện người lao động là người chủ
khả năng lao động của mình. Thông qua thị trường sức lao động, sức lao động
được bán, được mua trong một khoảng thời gian nhất định, nhờ vậy các công
ty, các doanh nghiệp có thể trang bị đồng bộ sức lao động cần thiết theo khối
lượng và chất lượng đòi hỏi.
Thị trường sức lao động còn giúp cho việc sắp xếp lại việc làm trong
việc cải cách cấu trúc nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường việc giải thể,
sát nhập, thay đổi mô hình hoạt động, hoán đổi ngành nghề sản xuất…của các
doanh nghiệp thường xuyên diễn ra, đã làm cho số người mất việc làm liên
tục xuất hiện, qua thị trường sức lao động, người lao động bị mất việc có thể
tìm kiếm được việc làm mới, và doanh nghiệp cũng có thể tuyển dụng lao
động phù hợp với yêu cầu hoạt động mới.
Thị trường sức lao động làm tăng tính cơ động, tính tích cực chuyển
động trong quá trình tìm kiếm việc làm của người lao động của các doanh
nghiệp cũng như của các doanh nghiệp kinh tế, làm cho tính thụ động, ỷ lại,
trông chờ vào sự giúp đỡ của nhà nước của người lao động dần dần thay đổi
theo hướng thị trường hóa. Ý thức về vấn đề tự tạo cho mình một năng lực lao
động cần thiết để tìm kiếm một chỗ làm việc có thu nhập ổn định của người
55
lao động sẽ nâng cao. Qua đó, chất lượng nguồn nhân lực xã hội sẽ được nâng
lên, tạo điều kiện cho các ngành nghề có kỹ thuật - công nghệ có giá trị sản
xuất gia tăng cao hình thành và phát triển nhanh chóng hơn.
Thị trường sức lao động là nơi diễn ra quan hệ mua và bán sức lao
động, nơi để người lao động tìm kiếm việc làm và để người sử dụng lao động
tìm được người làm những công việc phù hợp. Thị trường sức lao động là một
cơ chế quan trọng để khai thông quan hệ cung - cầu về lao động trong xã hội.
Tiền công là tín hiệu để người lao động lựa chọn việc cung ứng sức lao động,
lựa chọn làm việc cho một tổ chức cần thuê mướn lao động; đồng thời tiền
công cũng là tín hiệu để người mua sức lao động có quyết định đúng đắn thuê
số lượng bao nhiêu, ở thời điểm nào.
Do sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt được lưu thông trên thị
trường, nên cơ chế vận hành thị trường sức lao động trước hết chịu sự chi
phối của các quy luật khách quan, chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và
quan hệ cung cầu. Nhưng để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông
thôn, Nhà nước cần quan tâm tác động vào thị trường này, thúc đẩy quá trình
phát triển của nó.
Xuất khẩu lao động là một hình thức biểu hiện cụ thể của thị trường sức
lao động thể hiện quan hệ cung - cầu về sức lao động trên thị trường hàng hóa
sức lao động giữa các nước. Với quan niệm như trên, xuất khẩu lao động tạo
việc làm cho một bộ phận người lao động góp phần tích cực vào công tác giải
quyết việc làm cho xã hội, bồi dưỡng một đội ngũ lao động có tay nghề cao,
vững vùng đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, tạo thu nhập cho người
lao động và tăng thu cho ngân sách nhà nước và tăng cường mối quan hệ hợp
tác kinh tế, văn hóa, khoa học giữa CHDCND Lào với các nước trên thế giới,
sử dụng lao động theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng pháp luật và truyền
thống dân tộc của nhau. Do vậy, đối với lao động ở nông thôn, khi thị
trường sức lao động phát triển sẽ giúp họ có các thông tin về cầu lao động,
56
họ được tư vấn về học nghề, dạy nghề... và do đó, họ có cơ hội tìm kiếm
được việc làm, chuyển đổi được việc làm, nghề nghiệp đối với họ sẽ tốt hơn.
Đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, khi mà đất canh tác
của người nông dân bị Nhà nước thu hồi để phát triển đô thị, phát triển các
khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ... sự phát triển của thị trường sức lao
động càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc GQVL. Thực tế ở các địa
phương của Lào cho thấy, nơi nào thị trường sức lao động phát triển mạnh
thì nơi đó có khả năng GQVL sẽ tốt hơn, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi.
Thứ bảy, ảnh hưởng của sự phát triển của khoa học - công nghệ đến
việc làm cho lao động nông thôn.
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng như vũ bão đã
mang lại những thành tựu to lớn làm cho khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp như C.Mác đã từng khẳng định. Ngày nay, cuộc cách mạng
khoa học- công nghệ, đặc biệt là cách mạng thông tin đã đưa xã hội loại người
vào thời kỳ phát triển mới: hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin
làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển khoa học
- công nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình
nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức, đã làm cho hoạt động sản
xuất vật chất của xã hội loài người ngày càng thay đổi nhanh chóng. Từ chỗ
con người với lao động chân tay là chủ yếu, khoa học công nghệ càng phát
triển làm cho nhu cầu lao động ở nông thôn có trình độ cao ngày càng lớn, cơ
cấu việc làm trong quá trình phát triển khoa học công nghệ cũng có nhiều
thay đổi. Người lao động nông thôn để có một chỗ làm việc đáp ứng yêu cầu
sự tiến bộ của khoa học - công nghệ đòi hỏi phải không ngừng hoàn thiện về
trình độ nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, nhất là phải có trí thức về khoa
học - công nghệ. Nhưng người lao động nông thôn không có tay nghề không
thể tham gia thị trường sức lao động trình độ cao. Vì thế, khả năng tìm kiếm
một chỗ làm việc trong điều kiện mới sẽ rất khó khăn. Để có việc làm đáp
ứng nhu cầu này, buộc người lao động nông thôn phải tự hoàn thiện nghề
57
nghiệp của mình. Trình độ tiến bộ khoa học - công nghệ tạo cho quá trình
chuyển đổi cơ cấu việc làm diễn ra nhanh hơn, nhất là việc chuyển đổi từ
những việc làm có trình độ tay nghề thấp hơn sang trình độ việc làm có tay
nghề cao, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực cả về số lượng và
chất lượng cho quá trình CNH, HĐH.
Sự phát triển khoa học - công nghệ đã làm thay đổi nhanh chóng các
mặt đời sống xã hội, trong đó sự thay đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng,
ngành nghề của việc làm, giúp cho thu nhập của người lao động nông thôn
không ngừng gia tăng, góp phần ổn định cuộc sống và phát triển xã hội. Tiến
bộ khoa học - công nghệ, bên cạnh giúp nền sản xuất xã hội đẩy nhanh sản
xuất giá trị gia tăng cho nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện cho việc hình
thành thị trường lao động việc làm chất lượng cao.
Trình độ phát triển giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy và là điều
kiện cơ bản để đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo
dục và đào tạo nhằm vào định hướng phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội
một lực lượng lao động mới đủ về số lượng, và đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo
phát huy có hiệu quả các nguồn lực lao động trong việc thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tám, ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
đến việc làm cho người lao động nông thôn.
Quy mô tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu
của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn. Với quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng cùng với
việc thực hiện phân công lao động và hợp tác quốc tế tất yếu đặt ra yêu cầu
khách quan phải cấu trúc lại nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lý. Muốn tạo
được nhiều việc làm theo quan điểm mới đó, ở CHDCND Lào phải nắm bắt
được định hướng của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất
58
là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại nhằm làm tăng tỷ trọng của
sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế. Thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, gắn với sự đổi mới căn bản về công nghệ theo hướng công nghệ tiên
tiến, tạo nền tảng cho việc nâng cao năng suất lao động và đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế đạt hiệu quả cao.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề
GQVL. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là giảm việc làm
tại chỗ trong nông nghiệp, tăng việc làm tại chỗ trong công nghiệp và dịch
vụ, đặc biệt là tăng cường LLLĐ có chuyên môn kỹ thuật. Những người lao
động có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật thấp, không thích ứng được với cơ
cấu kinh tế mới sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp, còn lao động có tay nghề
cao, sẽ có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm hơn.
Do vậy, trong quá trình GQVL cho những người không có tay nghề,
một mặt phải thúc đẩy phát triển các ngành nghề, mặt khác chính quyền
và đoàn thể các cấp phải hỗ trợ họ về vốn, kỹ thuật để người lao động tự
tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp. Đặc biệt là hỗ trợ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để mọi người lao động, nhất là người lao động trong độ tuổi
thanh niên có thể tham gia chương trình đào tạo nghề. Nếu làm tốt điều
này sẽ góp phần nâng cao trình độ cho người lao động, thúc đẩy cơ cấu
lao động chuyển dịch thích ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH.
2.3. KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN CỦA MỘT SỐ TỈNH Ở VIỆT NAM VÀ LÀO
2.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam
2.3.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc có dân số khoảng 1,15 triệu
người, lực lượng lao động của tỉnh khá dồi dào và được bổ sung hằng năm
59
hàng trăm ngàn người. Tính đến cuối năm 2014, dân số trong độ tuổi lao
động của tỉnh là 690 nghìn người, chiếm khoảng 54% dân số [67]. Nhận
thức được tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm, hàng năm, Ủy
ban nhân dân (UBND) tỉnh đều ban hành kế hoạch triển khai thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh về chương trình việc làm, đồng
thời chỉ đạo các sở ngành và các địa phương tập trung lồng ghép các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm.
Mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế -xã hội, tạo mở việc làm
được huy động. Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh đầu tư và áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào tăng năng suất cây lương thực, thâm canh tăng vụ đối
với cây lương thực có hạt, phát triển vùng nguyên liệu chuyên canh gắn với
công nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm như cây chất bột lấy củ (sắn, dong,
giềng, khoai sọ, khoai lang); cây công nghiệp (mía, đậu tương); cây công
nghiệm lâu năm (chè, cà phê, cao su). Đặc biệt là vận động nhân dân mở rộng
diện tích canh tác ở những vùng đất có điều kiện phát triển trồng rau sạch và
trồng hoa có giá trị kinh tế để nâng cao thu nhập từ sản xuất trong nông
nghiệp và tạo thêm việc làm cho người lao động. Đồng thời đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi trâu, bò nhốt chuồng, duy trì chăn nuôi gia súc và gia cầm 5,3
triệu con. Đầu tư khai thác tiềm năng của các vùng ven Sông Đà để phát triển
nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là phát triển mô hình nuôi cá lồng, diện tích nuôi
trồng thủy sản tạo việc làm lâu dài cho người lao động.
Trong lĩnh vực công nghiệp, năm 2014 tỉnh đã hoàn thành phát triển 29
công trình thủy điện, thu hút được nhiều lao động chưa có việc làm trên địa
bàn. Cùng với đó, Nhà máy tinh bột sắn Mai Sơn đã đi vào hoạt động, đang
mở rộng diện tích, nâng công suất lên 100 tấn sản phẩm tinh bột sắn/ngày;
Công ty cổ phần giống bò sữa Mộc Châu phối hợp với các hộ dân phát triển
đàn bò hơn 12 nghìn con, đồng thời đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm, hoàn
60
thành và đưa vào sản xuất nhà máy chế biến thực ăn cho bò công nghệ TMR
với công suất 120 tấn/ngày để cung cấp thức ăn hàm lượng dinh dưỡng cao
cho đàn bò sữa. Qua đó tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng ngàn lao
động. Các cơ sở, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh cũng tích cực phát triển nghề
tiểu thủ công nghiệp như: Gò, hàn, sửa chữa ô tô, xe máy, sản xuất công cụ,
gạch ngói, nghề thủ công mây tre đan, sản xuất tại gia đình các mặt hàng dệt
thổ cẩm, may mặc góp phần tạo việc làm đề nâng cao thu nhập.
Vượt lên nhiều khó khăn, một số đơn vị, kinh doanh trong ngành xây
dựng vẫn duy trì hoạt động, tiếp tục thi công các công trình còn dở dang và
đầu tư xây dựng các công trình mới thu hút hàng nghìn lao động dôi dư không
có việc làm tại địa phương vào làm việc.
Bên cạnh đó, tỉnh đã tăng cường xúc tiến thương mại, khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia phát triển hoạt động thương mại nhằm ổn định và
tạo việc làm mới. Xây dựng và hình thành hệ thống dịch vụ phục vụ cho sản
xuất, cung ứng vật tư, hàng hóa, phát triển mạnh dịch vụ vận tải, đáp ứng nhu
cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa, đảm bảo cung ứng đủ các loại hàng hóa
thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Năm 2014, riêng lĩnh vực
thương mại và dịch tạo đã thêm việc làm cho 4.103 lao động của tỉnh. Trong
lĩnh vực du lịch tỉnh xúc tiến việc quảng bá, đa dạng hóa sản phẩm du lịch,
tạo ra các sản phẩm độc đáo, mang đậm nét văn hóa các dân tộc như phát
triển du lịch cộng đồng, du lịch nông hộ, du lịch trải nghiệm với hộ trồng chè,
chăn nuôi bò sữa... Khôi phục và khai thác các lễ hội văn hóa truyền thống,
thúc đẩy sản xuất và bán hàng lưu niệm phục vụ du lịch. Đầu tư xây dựng
nâng cao hệ thống kết cấu hạ tầng các khu, điểm du lịch có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo ra các tuyến du lịch mở rộng, hình thành các tour du lịch mới.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệm vụ quản lý và phục vụ du lịch
cộng đồng cho các hộ gia đình, qua đó tạo việc làm mới cho hàng trăm lao
động địa phương.
61
Năm 2014, tỉnh Sơn La đã giải ngân hơn 47,2 tỷ đồng vốn Chương
trình Quỹ quốc gia về việc làm với 472 dự án, tạo việc làm mới cho 2.745 lao
động Các hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh vay vốn đều sử dụng nguồn
vốn đúng mục đích, sản xuất ra các sản phẩm, hàng hóa có chất lượng, tạo ra
nhiều việc làm mới, góp phần đáng kể giảm tỷ lệ người thiếu việc làm, chất
lượng cuốc sống của các hộ vay vốn được nâng lên. Đồng thời, thời gian qua
đã đưa có 752 lao động của Sơn La đi làm việc tại các khu công nghiệp thuộc
tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Quảng Ninh, Bình Dương, Hà Nội, chủ yếu là lao
động phổ thông tìm việc trong các ngành may công nghiệp, giầy da, điện tử;
Hơn 80 người đi xuất khẩu lao động. Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh đã tổ
chức tư vấn và giới thiệu việc làm cho 5.050 lượt người và đã có 127 người
tìm được việc làm.
Từ việc triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nêu trên, “năm 2017 tỉnh
Sơn La đã tạo việc làm mới cho 21.806 lao động, đạt 111,9% kế hoạch đề ra.
Cơ cấu lao động trong các lĩnh vực Nông lâm, ngư nghiệp là 56,42%. Tăng
trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 6,02” [67].
Mặc dù vậy, do xuất phát điểm về kinh tế còn ở mức thấp, Sơn La vẫn
đang là một tỉnh nghèo, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế không nhiều, khả năng
đầu tư và thu hút đầu tư phát triển sản xuất còn hạn chế. Thêm vào đó, địa bàn
miền núi rộng lớn, kết cấu hạ tầng như: giao thông, thủy lợi, điện, thông tin
liên lạc... ở các vùng sâu vùng xa còn khó khăn làm ảnh hưởng lớn đến phát
triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đời sống cũng như khả năng tìm việc làm và
tự tạo việc làm của người lao động còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy,
công tác giải quyết việc làm cho người lao động có tính ổn định chưa cao, thu
nhập còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Số việc làm được
tạo ra từ các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển
dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực phi nông nghiệp. Số việc
62
làm trong năm chủ yếu được tạo ra từ các hộ gia đình, bản thân người lao
động, các hộ kinh doanh cá thể tự tạo việc làm.
Trong thời gian tới, tỉnh Sơn La tiếp tục thực hiện tốt các chính sách
của Đảng, Nhà nước và các chính sách đặc thù của tỉnh nhằm đẩy mạnh thu
hút đầu tư thu hút thêm nhiều doanh nghiệp vào các khu, cụm công nghiệp,
phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới. Cùng với sự nỗ lực của
các cấp, các ngành trong tỉnh. Các cấp các ngành Trung ương đã sớm ban
hành các văn bản hướng dẫn kịp thời các chính sách cho phù hợp với điều
kiện của từng địa phương như: hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại cho học viên và các
chính sách vay vốn tạo việc làm, chính sách hỗ trợ bao tiên sản phẩm đầu ra
cho sản phẩm nông nghiệp, đào tạo cán bộ xã, phường. Tăng cường bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm cho cán bộ làm công tác lao động việc làm cấp tỉnh... Mặt khác, nguồn
vốn vay Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, cho vay xuất khẩu lao động của
tỉnh. Hỗ trợ sản xuất cho người nghèo, vùng tái định cư thủy điện Sơn La và
thủy điện Hòa Bình và hỗ trợ kinh phí vốn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết
việc làm giai đoạn 2015 - 2020 mỗi năm trên 10 tỷ đồng để tỉnh có vốn cho
vay giải quyết việc làm.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ của Việt Nam, cách Thủ đô
Hà Nội 155 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km. Phía
Bắc giáp với ba tỉnh Sơn Là, Hòa Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp với
Nghệ An, Phía Tây giáp với Tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào). Phía
Đông là Vịnh Bắc Bộ. Hiện tại, Thanh Hóa có 27 huyện, trong đó có 11
huyện miền núi, với tổng diện tích tự nhiên 11.113,2 km2 và thềm lục địa là
18.760 km2 [66].
Năm 2017, dân số của tỉnh là 3.412.600 triệu người, lao động trong độ
tuổi có 2.217.182 người (chiếm 64,9% dân số), lao động nông thôn có
63
1.985.000 người (bằng 89,52% tổng số lao động). Lao động trong lĩnh vực
nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 55%. Tuy có số lượng lao động động lớn
nhưng chất lượng nguồn lực lao động nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hàng năm, toàn
tỉnh có trên 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm, chưa kể số lao
động của các năm trước chuyển sang, tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn Thanh
Hóa rất lớn. Năm 2017, Tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)
ước đạt 7,32%, trong đó: nông, lâm, thủy sản tăng 3,3%, công nghiệp - xây
dựng tăng 9,84%, dịch vụ tăng 8,14%, thuế sản phẩm giảm 9,41% [68].
Để giảm sức ép lao động, việc làm và thất nghiệp, trong những năm
qua Thanh Hóa đã tập trung cao cho thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn; xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho công
nghiệp chế biến như: mía đường, vùng cây nguyên liệu sản xuất giầy; tập
trung bảo vệ, chăm sóc, trồng rừng; đầu tư đánh bắt xa bờ; đẩy mạnh nuôi
trồng thủy, hải sản, phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm; khôi phục làng nghề
truyền thống và phát triển ngành nghề mới, phát triển thương mại dịch vụ...
hàng năm đã tạo ra nhiều việc làm mới cho trên 10 vạn lao động. Thanh Hóa
là một trong những tỉnh của Việt Nam có nhiều kinh nghiệm về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn. Để có được những kết quả nói trên, tỉnh
Thanh Hóa đã tiến hành một số chủ trương và biện pháp như sau:
- Chương trình giải quyết việc làm được xác định là một chương trình
kinh tế - xã hội quan trọng được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm thực
hiện nghiêm túc, để tạo điều kiện, môi trường và các nguồn lực quan trọng
nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Quan niệm về việc làm đã được người lao động nông thôn được xác
định là những hoạt động tạo ra thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm. Họ đã
chủ động bỏ vốn ra để sản xuất, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác,
thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước.
64
- Các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến
binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội phụ nữ...
đã tích cực tham gia giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, hướng dẫn
nông dân và lao động nông thôn nói chung phát triển sản xuất kinh doanh để
tao việc làm.
- Cùng với Nhà nước, tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng được các văn bản
pháp quy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ lao động
trong cơ chế thị trường về thuê mướn lao động và sử dụng lao động.
- Thông qua giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, các chương
trình kinh tế - xã hội đã được thực hiện có hiệu quả thiết thực. Huy động được
các nguồn lực đa dạng, đầu tư cho phát triển kinh tế, tạo việc làm cho lao
động nông thôn
- Ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích những doanh nghiệp
trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những người có khả
năng để đầu tư mở các cơ sở dạy nghề, các trường đào tạo nghề cùng với Nhà
nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đáp ứng được
những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nhờ những chủ trương, chính sách nêu trên, vấn đề giải quyết việc
làm cho lao động nói chung và lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa trong
thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê của Sở
Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hóa, “số người được giải quyết việc làm
mới trong 6 tháng đầu năm 2017 khoảng 30,8 nghìn người, đạt 47% kế
hoạch năm, tăng 0,5% so với cùng kỳ; trong đó, lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài 4.560 người, đạt 45,6% kế hoạch năm, giảm 1,1% so với
cùng kỳ” [68].
2.3.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có diện tích tự nhiên là 16.478,29 km2 dân số
3.270.000 người. Trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 1.477.687
65
người. Đa số là lao động ở khu vực nông thôn với 1.335.743 người chiếm hơn
90% lực lượng lao động của tỉnh [66].
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Nghệ An luôn xác định
công tác giải quyết việc làm cho lao động nói chung và việc làm cho người
lao động ở nông thôn nói riêng là một trong những nội dung quan trọng góp
phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước và địa phương.
Để thực hiện mục tiêu đó, Sở Lao động Thương binh và Xã hội đã tham
mưu tập trung xây dựng các chương trình, đề án, chính sách và giải quyết việc
làm, được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt chỉ đạo đạt kết quả tốt từ 2010-
2015, Thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chuyển dịch cơ
cấu kinh tế lồng ghép các chương trình dự án đầu tư, phát triển các loại hình
doanh nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề
trang trại, các tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế. Trong 6
tháng đầu năm 2017, Tỉnh Nghệ An đã tạo việc làm cho trên 381 nghìn lao
động; trong đó tạo việc làm mới cho hơn 20 nghìn lao động và tỉ lệ sử dụng
thời gian lao động lên 77,71%, tăng 11,03% so với năm 2016” [66]. Để đạt
được kết quả đó, tỉnh Nghệ An đã thực hiện đồng bộ các chủ trương và biện
pháp như sau:
- Công tác giải quyết việc làm đã được toàn tỉnh xác định là một trong
những nội dung chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, được
các cấp các ngành quan tâm, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và đạt được sự
đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
- Nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ
quan đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về việc làm, về dạy nghề và xóa đói
giảm nghèo có nhiều chuyển biến sâu sắc phù hợp với cơ chế thị trường. Tỉnh
đã quán triệt và thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với giải
66
quyết việc làm, dạy nghề và xóa đói giảm nghèo trước yêu cầu hội nhập quốc
tế và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn các phong trào, xây dựng
phát triển các mô hình, cách làm hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm.
Kêu gọi các chủ doanh nghiệp từ trong và ngoài nước đến tỉnh Nghệ An đầu
tư đồng thời xúc tiến đẩy nhanh tiến độ dạy nghề và xuất khẩu lao động, nâng
cao chất lượng đội ngũ các bộ, công chức trong công tác giải quyết việc làm.
Trong những năm qua tỉnh Nghệ An đã thực hiện tốt công tác giải
quyết việc làm cho lao động nhất là cho người lao động nông thôn trong các
lĩnh vực sau:
Trong nông nghiệp, tỉnh đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng vất
nuôi, đầu tư thâm canh, phát triển các vùng chuyên canh nguyên vật liệu cho
công nghiệp chế biến như: dứa, sắn, mía, công nghiệp cây ăn quả… phát triển
các hình thức kinh tế trang trại, huy động đội thanh niên xung phong phát trển
kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình để thu hút lao động, tao nhiều việc làm.
Bên cạnh đó tỉnh đã đầu tư phát triển nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, và xuất
khẩu thủy hải sản, dịch vụ, du lịch phát triển vùng kinh tế ven biển giải quyết
nhiều việc làm cho người lao động ở khu vực này. Khuyến khích, thu hút đầu
tư tạo điều kiện thuận lợi về vốn, địa điểm, thủ tục đăng ký để thúc đẩy các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển có chính sách khuyến khích, ưu tiên thu
hút các doanh nghiệp lớn, có chất lượng cao đầu tư vào tỉnh Nghệ An. Trợ
giúp về nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm để mở rộng ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, phát triển làng nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Hiện nay
cả tỉnh có trên 160 làng nghề và 22 đơn vị được UBND tỉnh quyết định công
nhân làng nghề, tạo việc làm cho khoảng 15.000 lao động.
Công tác xuất khẩu lao động được triển khai có hiệu quả. Bên cạnh áp
dụng chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo ngoại ngữ, giáo dục, định hướng cho
67
vay vốn tín dụng, thực hiện các chính sách khuyển khích, thu hút các đơn vị
xuất khẩu lao động, tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thị, thành phố xây dựng được
nhiều mô hình liên kết xuất khẩu lao động có hiệu quả giữa chính quyền xã
phường, thị trấn với các doanh nghiệp và đơn vị cung ứng xuất khẩu lao động.
Thành quả do xuất khẩu lao động mang lại cho các gia đình lao động nông
thôn ở Nghệ An nói riêng cho toàn tỉnh nói chung là vô cùng to lớn góp phần
giải quyết việc làm và mang lại nguồn thu nhập từ ngoại tệ cho tỉnh.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động
nông nghiệp, nông thôn, miền núi. Hiện nay, đã có trên 16 trường, trên 34
trung tâm dạy nghề công lập và 14 cơ sở dạy nghề ngoài công lập với cơ cấu
ngành nghề đa dạng phong phú phù hợp với cơ chế thị trường. Tỉnh đã có
chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề tư nhân, ngoài công
lập, các doanh nghiệp và các làng nghề, đa dạng hóa phương thức đào tạo,
phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất trong từng khu vực kinh tế. Bên
cạnh việc tuyển sinh đào tạo tập trung dài hạn, ngắn hạn, truyền nghề tại các
làng nghề, hoạt động liên kết đào tạo nghề tại các cơ sở sản xuất, các vùng
dân tộc cũng được quan tâm mở rộng; Chất lượng dạy nghề của tỉnh đã phần
nào đáp ứng nhu cầu chuyển dịch kinh tế, phát triển công nghiệp và thị
trường lao động; Hơn 80% học sinh sau học nghề đều có việc làm và tự tạo
việc làm ổn định.
2.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào
2.3.2.1. Kinh của tỉnh Luông Pra Bang
Luông Pra Bang nằm ở miền Bắc của Lào. Có diện tích 16.875 km2,
cách thủ đô Viêng Chăn 360 km theo con đường Quốc lộ số 13 từ Bắc đến
Nam. Tỉnh Luông Pra Bang còn là cổng thành của 7 tỉnh miền Bắc như: Phía
Bắc giáp tỉnh Phông Xa Ly và tỉnh Sơn La, phía Tây giáp tỉnh Xiêng Khoảng
68
và tỉnh Hủa Phăn, phía Nam giáp tỉnh U Đôm Xay và tỉnh Xay Nha Bu Ly,
phía Đông giáp tỉnh Viêng Chăn. Luông Pra Bang là một trung tâm du lịch
lớn của nước CHDCND Lào, với những tiềm năng về tự nhiện, văn hóa, kinh
tế - xã hội. Đây là thành phố cố đô ngàn năm lịch sử lâu đời, là di sản văn hóa
thế giới được UNESCO công nhận ngày 02 tháng 2 năm 1995, tỉnh Luông Pra
Bang có đầy đủ điều kiện tốt để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Dân số của tỉnh 482.000 người, tổng nguồn lao động năm 2015
là 385.004 người. Song Luông Pra Bang đã giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn khoảng 12.000 người [146]. Đảng bộ và chính quyền biết
phát huy những mặt lợi thế du lịch, phát triển các ngành nghề truyền thống,
trồng trọt và chăn nuôi. Trong những năm qua đã có nhiều kết quả khá quan
trọng trong công tác giải quyết việc làm (2011-2016), tỉnh Luông Pra Bang đã
rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, chương trình giải quyết việc làm phải đặt dưới sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo điều hành của chính quyền, sự kiểm tra giám sát
của các chính quyền địa phương sự phối hợp đồng bộ và phân công trách
nghiệm cụ thể của các ban ngành, đoàn thể quần chúng. Đồng thời, phải có
những chính sách giải quyết việc làm riêng của tỉnh sao cho phù hợp với tình
hình thực tế ở địa phương.
Thứ hai, thường xuyên nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và
chính bản thân người lao động nông thôn về mục đích, ý nghĩa, tầm quan
trọng cũng như chủ trương, chính sách về giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn của tỉnh cũng như của cả nước, để chính bản thân người lao
động nông thôn tự tìm việc làm mới có thu nhập ổn định.
Thứ ba, cần tận dụng, khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương để
phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như: du lịch sinh thái, phát triển các
ngành nghề truyền thống, trồng trọt và chăn nuôi đặc sản, có giá trị kinh tế
69
cao, thu hút lao động ở nhiều trình độ để giải quyết phần lớn nhu cầu việc làm
cho lao động nông thôn của tỉnh.
Thứ tư, xã hội hóa công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề, liên
kết mạnh mẽ với các doanh nghiệp sử dụng lao động trong công tác đào tạo
nghề và giải quyết việc làm.
Thứ năm, xây dựng chính sách ưu tiên, khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; gắn kết
giữa giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động thanh niên ở
nông thôn qua các chương trình phát triển kinh - xã hội của địa phương.
2.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Xiêng Khoảng
Xiêng Khoảng là một tỉnh đồi núi, cách Thủ đô Viêng Chăn về hướng
Bắc khoảng 380 km; đồi núi chiếm 90%, cao nguyên chiếm 8% và đồng bằng
chiếm 2%, có diện tích 16.850 km2, phía Bắc giáp tỉnh Hủa Phăn, phía Đông
giáp nước CHXHCN Việt Nam, phía Tây giáp tỉnh Luông Pra Bang và phía
Nam giáp tỉnh Viêng Chăn. Tỉnh Xiêng Khoảng có 8 huyện, với 517 bản; dân
số 256.650 người. Xiêng Khoảng có nhiều tiềm năng sông ngòi khí hậu ôn
hòa ít bão, ít lũ lụt và có 2 mùa, mùa khô và mùa mưa, có nhiều đồng cỏ phù
hợp với chăn nuôi gia súc trâu bò, đất đai màu mỡ, là những nguồn lợi đặc
biệt cho phát triển nông nghiệp và thích hợp với nhiều loại cây trồng đặc sản
như ngô lạc sắn và trồng cỏ chăn nuôi gia súc. Có nhiều ngành nghề truyền
thống phát triển mạnh như: gạch, ngói, thêu đan, dệt chiếu… Xiêng Khoảng
có nhiều điểm tương đồng với Hủa Phăn trong phát triển kinh - xã hội và có
nhiều kinh nghiệm trong giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn
mà tỉnh Hủa Phăn có thể học tập.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn
2011-2016 là 9%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 7.473.419 kíp/
70
người/năm khoảng 934 USD. Điều này có được là do tỉnh đã có những biện
pháp ưu đãi đối với ngành tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống ở
nông thôn được phát triển như: ngành dệt vải may và lĩnh vực dệt vải bản xứ,
nghề thêu ren, nghề mây tre xuất khẩu, phát triển kinh tế trang trại có nhiều
mô hình cho thu nhập cao. Đây là cơ sở quan trọng giải quyết việc làm tại chỗ
và tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động lúc nông nhàn.
Giáo dục nghề nghiệp được tỉnh đặc biệt quan tâm, các cơ sở đào tạo
nghề trên địa bàn mỗi năm dạy nghề cho khoảng 579 người, chủ yếu là lao
động thanh niên. Góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt được
33%, phần lớn là lao động qua đào tạo nghề đã có việc làm. Năm năm qua,
tỉnh đã tạo việc làm mới cho khoảng 3.000 người, hiện có khoảng 600 người
thường xuyên làm việc ở nước ngoài [147].
Xiêng Khoảng là một trong những tỉnh sớm hình thành hệ thống
trường đào tạo nghề đến đại học. Sở lao động và Phúc lợi xã hội với 15
trung tâm đào tạo nghề; năng lực đào tạo là 3.000 người/năm. Trong đó,
đào tạo tổng hợp là 9 trung tâm; đào tạo ban đầu để chuẩn bị làm việc có
3 trung tâm. Tỉnh quản lý 2 trung tâm bồi dưỡng dạy nghề cho thanh niên,
phụ nữ theo từng nghề nghiệp. Đó là Trung tâm phát triển Tay nghề và
trường Cao đẳng Sư phạm đào tạo các ngành điều hành - kế toán cao cấp,
kinh doanh - kế toán, quản lý văn phòng, kỹ năng điện, hệ thống điện nhà,
điện máy lạnh, ngành nông lâm ngư, chế biến thức ăn, trang trí kiểu tóc
nữ - nam, ngành dệt, thẩm mỹ và công nghệ thông tin...
Giai đoạn 2011-2016, tỉnh Xiêng Khoảng phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, tiểu thủ công nghiệp, nghề nông thôn gắn với phát triển
nông thôn mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, dạy nghề,
giải quyết việc làm mới cho 3.000 lao động/năm, nâng tỷ lệ lao động qua
đào tạo lên 50%. Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo nghề gắn với thị
trường sức lao động. Thực hiện kiểm định chất lượng dạy nghề; đẩy mạnh
71
liên kết giữa Nhà nước, cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp với các trường đại
học có uy tín để dạy nghề kết hợp giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trẻ của địa phương.
2.3.2.3. Kinh nghiệm của tỉnh Sa Văn Na Khệt
Sa Văn Na Khệt là một tỉnh miền Trung của CHDCND Lào, có vị trí
quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội của Lào, nhất là về trao đổi hàng hóa,
dịch vụ, du lịch, quốc phòng, an ninh... cả trong và ngoài nước. Có biên giới
giáp với hai quốc gia có nền kinh tế phát triển hơn, phía Đông giáp với tỉnh
Quảng Trị (Việt Nam) (122 km), phía Tây giáp với tỉnh Mục Đa Hản (Thái
Lan), ranh giới tự nhiên là sông MêKông. Đây là tỉnh có lợi thế về vị trí địa
lý, đất đai nông nhiệp và giao thông, có đường quốc lộ số 13 chạy qua, cùng
tỉnh lộ số 9 là một hệ thống đường giao thông của tỉnh đã tạo điều kiện cho
tỉnh Sa Văn Na Khệt phát triển nhanh về kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh đạt được mức cao 12,4%/năm. Năm 2015-2016 giá trị tổng sản phẩm
nội bộ 14.364,60 kíp, trong đó GDP đầu người là 14.637.000 triệu
kíp/người/năm bằng 1.785/năm.
Sa Văn Na Khệt có 15 huyện, 1.015 bản,có 149.247 hộ gia đình, với
dân số 874.184 người, nữ 496.479 người. Mật độ dân số là 37 người/km2. Dân
số trong độ tuổi lao động từ 14-60 tuổi, có 477.851 người trong đó số dân lao
động sản xuất nông nghiệp có 415.731 người chiếm 87% dân số toàn tỉnh.
Lao động trong khu vực công nghiệp là 33.449 người chiếm 7% dân số toàn
tỉnh và lao động trong khu vực dịch vụ là 28.671 người chiếm 6% dân số
trong tỉnh [148].
Sa Văn Na Khệt thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động nói
chung và lao động ở nông thôn nói riêng là một nội dung quan trọng để góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, trong khi thực hiện đề án, vai trò của các cơ
sở tạo việc làm sau dạy nghề rất quan trọng, vì đó là đầu ra cho lao động nông
thôn sau dạy nghề, có việc làm mới có hiệu quả. Sa Văn Na Khệt là tỉnh có lợi
72
thế nông nghiệp nên việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn gặp thuận lợi.
Nghề nào có dự báo về nhu cấu việc làm thì các cơ sở mới được đào tạo,
không dự báo đầu ra nhất quyết không được đào tạo.
Ban Chỉ đạo Sa Văn Na Khệt thực hiện đề án của tỉnh luôn xác định đào
tạo phải gắn với giải quyết việc làm, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của từng vùng, từng huyện trong tỉnh. Xác định các ngành nông nghiệp,
công nghiệp, du lịch, thương mại là thế mạnh kinh tế của Sa Văn Na Khệt nên
lao động nông thôn được đào tạo các nghề liên quan đến các ngành này, nhờ đó
có thể giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động tong tỉnh.
Ban chỉ đạo tỉnh thực hiện đề án chương trình giải quyết việc làm có sự
phối hợp chặt chẽ với các địa phương, đoàn thể và cơ quan truyền thông nên
thông tin đến với lao động nông thôn một cách đầy đủ, chi tiết nhất về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn về từng địa phương, từ đó thông tin đến với
người dân nhanh và rộng rãi. Phòng Lao động và phúc lợi xã hội tỉnh đến
từng huyện của Sa Văn Na Khệt phối hợp với các đoàn thể, địa phương về tận
bản và cụm bản để chiêu sinh, phổ biến các chế độ, chính sách, thông tin
ngành nghề và cơ hội việc làm để người dân tự chọn nghề phù hợp với điều
kiện bản thân. Cách làm sát thực tế này của Sa Văn Na Khệt đã giúp tỉnh thực
hiện tốt và hiệu quả đề án tạo điều kiện cho nhiều lao động nông thôn có cơ
hội học nghề và có việc làm có thu nhập ổn định cho mình và gia đình.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hủa Phăn về giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn
Từ sự khảo cứu, phân tích kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn của một số tỉnh ở Việt Nam và Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào những năm qua, có thể rút ra một số bài học có ý nghĩa
tham khảo trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở
tỉnh Hủa Phăn như sau:
73
Thứ nhất, Nhà nước cần phải có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
những chính sách ở tầm vĩ mô để thực thi có hiệu lực, hiệu quả vai trò quản lý
nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn. Từ đó, đề ra những chính sách và giải pháp
đúng đắn, đồng bộ phân bố lại sản xuất để sử dụng người lao động vào các
hoạt động phi nông nghiệp nhằm bảo đảm những điều kiện và thực thi có hiệu
quả chính sách GQVL cho lao động nông thôn.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách toàn
diện phù hợp với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Đẩy mạnh thâm canh
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động làm cơ sở tạo tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát
triển đa dạng các ngành nghề sử dụng và thu hút được nhiều lao động, tạo
được sự phân công lao động mới, thu hút và sắp xếp việc làm tại chỗ cho lao
động nông thôn.
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội nông thôn để tạo việc làm,
khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống đẩy mạnh phát triển tiểu
thủ công nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân. Phát triển hệ thống dịch vụ
và chất lượng hoạt động của các trung tâm môi giới việc làm. Đẩy mạnh xã
hội hóa giải quyết việc làm, huy động tổng hợp các nguồn lực và sự tham gia
rộng rãi của các doanh nghiệp, các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội và toàn
thể nhân dân nhằm giải quyết tốt việc làm cho lao động ở nông thôn.
Thứ tư, đào tạo nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho lao động
nông thôn đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao động trong quá trình phát triển
nông nghiệp vững chắc và lấy phát triển công nghiệp làm cơ sở tạo tiền đề
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với những lao động trẻ có trình độ học
vấn được tuyển dụng vào các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, yêu cầu chất lượng
lao động cao cần đào tạo một cách bài bản. Chú trọng đầu tư, phát triển giáo
74
dục đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đối với lực
lượng lao động trẻ ở khu vực nông thôn, kết nối giữa các cấp đào tạo (trung
học - trung học nghề - cao đẳng - đại học - sau đại học). Đa dạng hoá các hình
thức đào tạo: tập trung, tại chức, trong nước, ngoài nước. Khuyến khích các
cá nhân và doanh nghiệp bỏ vốn đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt quan tâm
các cơ sở đào tạo nghề phục vụ chuyển đổi nghề cho người lao động. Bổ
sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với các cơ sở dạy nghề. Cần
tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, và
dạy nghề có trình độ chuyên môn cao được huy động từ nhiều nguồn khác
nhau. Đổi mới trang thiết bị dạy học, thí nghiệm, thực hành…, đổi mới nội
dung, chương trình phương pháp giáo dục, đào tạo, gắn nội dung đào tạo
trong nhà trường với hoạt động thực tiễn xã hội.
Thứ năm, đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát
triển kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động nông thôn.
Thứ sáu, sử dụng và quản lý tốt Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho
người lao động ở nông thôn. Xây dựng các đề án thành lập trung tâm giới
thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm… hỗ trợ thanh niên nông thôn trong
việc tìm kiếm, hỗ trợ, tư vấn pháp lý khi tham gia tìm việc làm trong các tổ
chức, doanh nghiệp, hoặc tham gia xuất khẩu lao động.
Tiểu kết chương 2
Việc làm nói chung và việc làm cho lao động ở nông thôn nói riêng là
một trong những vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia, trong đó có nước
CHDCND Lào. Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn không chỉ tạo
ra thu nhập cho người lao động mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
ổn định chính trị, tạo nền tảng cho việc xây dựng đời sống văn hóa cho người
75
lao động ở nông thôn. Đối với một nước thuần nông như nước CHDCND
Lào, hơn 80% lao động có thu nhập từ nông nghiệp nên việc làm chính là yếu
tố quan trọng nhất quyết định cuộc sống của họ và sự phát triển KT-XH của
đất nước.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc làm cho lao động ở nông thôn,
trong đó đáng kể là những yếu tố cơ bản như đặc điểm thị trường sức lao
động, quá trình CNH,HĐH và đô thị hóa, các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước, sự phát triển của giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ... Vì
vậy, để đảm bảo việc làm cho lao động ở nông thôn, cần tăng lượng cầu về
lao động, nâng cao chất lượng nguồn cung lao động, đa dạng hóa và mở rộng
các hình thức giải quyết việc làm cho lao động.
Là một nước có nhiều nét tương đồng về điều kiện địa lý tự nhiên, điều
kiện lịch sử, kinh tế - xã hội; kinh nghiệm của một số tỉnh giáp biên giới Việt
Lào như Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn La trong vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động ở nông thôn cũng có ý nghĩa tham khảo nhất định đối với nước
CHDCND Lào nói chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng. Đặc biệt, kinh nghiệm
của một số tỉnh ở Lào như Luông Pra Bang, Xiêng Khoảng, Sa Văn Na Khệt
có giá trị tham khảo đáng kể đối với tỉnh Hủa Phăn trong vấn đề giải quyết
việc làm cho lao động ở nông thôn hiện nay.
76
Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN NƯỚC
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2010-2016
3.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
HỦA PHĂN TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào
Thứ nhất, về vị trí địa lý.
Hủa Phăn là một tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân Lào: Phía Bắc, Đông Bắc và Đông Nam giáp tỉnh Sơn La, Thanh Hóa,
Nghệ An (Việt Nam) phía Tây Nam giáp với tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh
Luông Phạ Bang. có diện tích tự nhiên là: 16.500 km2, độ cao 960 m so với
mặt nước biển. Thị xã Sầm Nưa cách Thủ đô Viêng Chăn 600 Km theo Quốc
lộ 43 và Quốc lộ 13.
Tỉnh Hủa Phăn có nhiều sông, suối chảy từ phía Tây sang phía Đông và
đổ vào Việt Nam, nhưng có ba con sông lớn chảy sang Việt Nam: Sông Mã,
Sông Xăm và Sông Nơn, các con sông này là một điều kiện thuận lợi phục vụ
cho việc sản xuất và sinh hoạt của nhân dân các bộ tộc.
Tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Hủa Phăn khá đa dạng và phong phú,
là vùng đất có nhiều tiềm năng và thế mạnh vẫn chưa được khai thác để phát
triển kinh tế-xã hộ. Đất đai phì nhiêu với lớp mùn dầy thích hợp với cây nông
nghiệp, cây ăn trái. Đất rộng người còn ít, ở một số vùng dân còn sống lẻ tẻ,
rải rác nhất là các bà con dân tộc ở vùng sâu vùng xa.
Thứ hai, về địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng.
Hủa Phăn có địa hình xếp loại trung bình, có độ cao bình quân từ 300-
1.800 m so với mặt biển và đã hình thành hai vùng sinh thái.
Vùng núi: diện tích 14.850 km2 chiếm 90,% diện tích của tỉnh là
vùng núi có độ đốc cao, địa hình bị chia cắt nhiều độ cao thấp khác nhau
77
thành dòng chạy nước rất thuận lợi cho việc trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp và chăn nuôi gia súc. Những người dân sống trong vùng này chủ
yếu chỉ làm nương rẫy kiểu du canh du cư, đời sống của họ vẫn còn khó
khăn và nghèo đói.
Vùng đồng bằng: có diện tích 1.650 km2 chiếm 10% diện tích của tỉnh,
là vùng có địa hình tương đối bằng phẳng với cánh đồng khá rộng, đất đai
màu mỡ, rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước, chăn nuôi, trồng hoa màu, làm
một số nghề thủ công và dịch vụ. Người dân sống ở vùng này chủ yếu làm
nghề nông nghiệp, buôn bán, nghề thủ công và các dịch vụ khác. Nhìn chung
cuộc sống của họ tốt hơn cuộc sống của người dân sống trong vùng núi, họ có
điều kiện tốt hơn về sản xuất lưu thông và dịch vụ.
Hủa Phăn là tỉnh miền núi phía bắc cho nên có độ ẩm lớn, có nhiệt độ
đồng đều, nhận được nhiều ánh sáng mặt trời và ít bị ảnh hưởng từ thiên tai
như: hạn hán, lũ lụt, bão…nhiệt độ bình quân trong năm 210c, số lượng trời
nắng 9 tiếng đồng hồ/ngày, số lượng nước mưa bình quân 1,437.5 mm/năm.
Trong năm có hai mùa rõ rệt như: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10;
trong giai đoạn này có mưa nhiều hơn là từ tháng 8-9, làm cho các địa phương
bị lũ lụt. Mùa hè bắt đầu từ tháng 11- 4, đặc điểm của khí hậu trong mùa hè là
chia ra thành 2 giai đoạn như: từ tháng 11-3 nhiệt độ đã giảm xuống bình
quân khoảng 11,40 - 140c, từ tháng 4 - 5 khí hậu có nhiệt độ cao bình quân 28
- 30,700c trong mùa hè này một số địa phương thiếu nước uống, nước tiêu
dùng nặng nề. Ngoài ra, địa hình hiểm trở, nhiều vùng có gió mạnh. Đây là
khó khăn lớn cho phát triển kinh tế nông nghiệp.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào
Thứ nhất, đặc điểm kinh tế.
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế nông thôn ở nước CHDCND Lào nói
chung, ở tỉnh Hủa Phăn nói riêng có sự chuyển dịch tích cực, cơ cấu kinh tế của
78
tỉnh đang chuyển dịch theo hướng tăng quy mô của tất cả các ngành, tăng dần
tỷ trọng của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Năm 2011-2012 tỷ trọng nông nghiệp
chiếm 63,80%, công nghiệp chiếm 14,86%, dịch vụ chiếm 21,34%. năm 2013
lên 761 USD/người/năm vào năm 2014-2015 đạt được 2,074 tỷ kíp bình quân
đầu người từ 864 USD/người/năm.
Giai đoạn từ năm 2015-2016 kinh tế tỉnh Hủa Phăn tiếp tục tăng trưởng
với tốc độ 8,20%, trong đó công nghiệp-xây dựng tăng 3,85% chiếm 17,85%,
của GDP; dịch vụ tăng 11,05% chiếm 37,80% của GDP và ngành nông nghiệp
tăng 5,76% chiếm 44,36% của GDP, GDP bình quân đầu người theo thực tế từ
2015-2016 đạt được 2.206,75 tỷ kíp, bình quân đầu người đạt được 919,66
USD/năm. Như vậy qua phân tích sơ bộ cho thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Hủa Phăn
đã bước đầu phát huy thế mạnh của mình.
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế theo ngành của tỉnh Hủa Phăn
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Mục tiêu
(2011-2015) 2011-2012 2012-2013 2013-2014 2014-2015 2015-2016
Tổng 100 100 100 100 100 100
Nông - lâm nghiệp 56,54 63,80 63,66 54,76 54,07 44,36
Công nghiệp 18,31 14,86 14,22 25,66 19,42 17,85
Dịch vụ 25,15 21,34 22,12 19,58 26,50 37,80
Nguồn: [140]
Cơ cấu kinh tế theo ngành đã có sự thay đổi theo hướng phát triển nông
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và dịch vụ. Tuy nhiên, phát triển sản
xuất nông nghiệp phần lớn ở vùng núi còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung
tự cấp. Sự ưu đãi của thiên nhiên về đất đai và tài nguyên rừng đã tạo ra cách
thức sản xuất theo kiểu cũ theo kiểu quảng canh, đốt rừng, làm rẫy, chăn thả
tự nhiên, khai thác gỗ và lâm sản. Tuy nhiên, Hủa Phăn chưa có nhiều điều
79
kiện ứng dụng công nghệ vào trong sản xuất và chưa gắn với phát triển công
nghiệp chế biến, dịch vụ và xây dựng hạ tầng cơ sở. Vì vậy, năng suất lao
động thấp, còn nhiều sản phẩm hàng hóa chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường cả về số lượng cũng như chất lượng; chưa có khả năng thúc đẩy mạnh
sự phân công lao động xã hội phát triển, mà chỉ bó hẹp trong phạm vi nông
hộ, cụm bản, tự cung tự cấp. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ
yếu làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Những năm qua, kinh tế trang trại ở Hủa Phăn đã có bước phát triển
cả về chất lượng và quy mô, góp phần tăng đáng kể trong phát triển kinh tế
nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay loại hình trang trại đang gặp khó khăn cần
được tháo gỡ. Theo báo cáo tổng kết Sở Nông nghiệp và Lâm nghiệp của
tỉnh, đến nay toàn tỉnh có 28 trang trại quy mô nhỏ được cấp giấy chứng
nhận, tăng 10 trang trại so với 2011. Quy mô trang trại được mở rộng, diện
tích bình quân 2,93ha/ trang trại, tăng so với năm 2011 với các trang trại
hoạt động hiệu quả hơn.
Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được là do những năm qua, tỉnh
Hủa Phăn đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích tiếp tục đổi mới, phát
triển mô hình kinh tế hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức, Luật hợp tác xã
năm 2005 và điều kiện thực tiễn của tỉnh. Tỉnh đã hoàn thành việc sắp xếp,
đổi mới các doanh nghiệp trong nông, lâm nghiệp, đẩy mạnh tiến độ chuyển
đổi sở hữu đối với các nông, lâm trường, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
tập thể, các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ nông nghiệp phát triển. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển các trang trại cũng đang gặp khó khăn. Đó là
vấn đề ruộng đất, mở rộng quy mô canh tác. Hiện nay giá đất, nguyên vật liệu
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khá cao, nhiều nông dân không có vốn để đầu
tư. Thị trường tiêu thụ sản phẩm bấp bênh. Nhất là vào vụ thu hoạch, người
nông dân thường bị tư thương ép giá, có lúc giá bán không đủ chi phí sản xuất.
Tình hình dịch bệnh liên tiếp xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm, một số loại bệnh
80
chưa có vắc xin phòng trị đặc hiệu. Thiên tai ảnh hưởng đến cây trồng, vật
nuôi, thủy sản, ảnh hưởng đến tâm lý người dân. Tình trạng ô nhiễm môi
trường đất, nước, không khí ngày càng gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh dịch
bệnh và ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi dẫn
đến chất lượng sản phẩm chưa cao, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường
tiêu thụ. Sự liên kết giữa các trang trại rất lỏng lẻo, vẫn còn tư tưởng “mạnh ai
người đó làm”, nhiều sản phẩm làm ra bị tư thương ép giá. Vấn đề tiếp cận vốn
còn gặp nhiều khó khăn. Một số trang trại do thuê đất công điền, chưa được cấp
giấy chứng nhận trang trại nên không có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng.
Đa số các chủ trang trại và lao động làm thuê đều là nông dân, chưa qua các
lớp đào tạo dài hạn, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa đáp ứng được nhu cầu.
Cơ sở vật chất của các trang trại vẫn còn nghèo nàn, hạn chế đến việc áp dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Năng suất lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh Hủa Phăn được thể
hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.2: Năng suất lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh qua các năm
Năm TT Các ngành
2005 2010 2014
1 Ngành nông nghiệp 78,5% 70,0% 69%
2 Ngành công nghiệp 5,5% 7,3% 7,0%
3 Ngành dịch vụ 19,5% 22,7% 23,0%
Nguồn: [151, tr.54]
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương và chính sách
cho hộ sản xuất kinh doanh phát triển và góp phần đảm bảo an ninh lương
thực và tạo được việc làm cho người lao động bằng cách tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp và người muốn làm sản
xuất kinh doanh. Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến chính sách phát triển
81
nông nghiệp nhằm hiện đại hóa nông thôn. Trên thực tế, hộ sản xuất với kinh
tế tự chủ, được phép kinh doanh và tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đa dạng
các mặt hàng kinh doanh. Với sức lao động có sẵn trong mỗi gia đình hộ sản
xuất. Đến nay đã có sự thay đổi lớn trong phương thức sản xuất từ kiểu sản
xuất hộ gia đình đã chuyển sang tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại, công
nghiệp. Các kiểu tổ chức sản xuất này hỗ trợ nhau phát triển đã tạo sự đột phá
cho sản xuất nông nghiệp, làm cho sản xuất nông nghiệp đáp ứng nguồn cung
cấp thịt, cá và lương thực chiếm 27% cho người tiêu dùng thành thị cụ thể,
sản xuất kiểu trang trại có 28 trang trại chăn nuôi (trong đó nuôi đại gia súc
1.134 hộ, nuôi lợn 12.03 hộ, nuôi dê 283 hộ, nuôi gia cầm 443 hộ và nuôi cá
ao 294 hộ, ngoài chăn nuôi còn có 824 hộ chuyển sang làm nghề trồng rau
hoa quả và trồng cây công nghiệp). Đồng thời cũng đã xuất hiện các hộ buôn
bán vật nuôi ở nhiều huyện trong tỉnh. Hiện nay, có mô hình chuyên sản xuất
ngô, hộ nuôi lợn, hộ trồng cây công nghiệp, mô hình phát triển giống lúa loại
3, hộ chăn nuôi gia súc, hộ trồng khoai sắn, hộ trồng thực phẩm vi sinh, hộ sử
dụng nước để sản xuất, hộ quản lý và sử dụng lâm sản bền vững, hộ tín dụng
v.v… có tới 1.687 hộ đã trở thành những hộ tiên phong trong việc chuyển
nghề phá rừng làm rẫy sang sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề đói
nghèo [150].
Thứ hai, đặc điểm về kết cấu hạ tầng.
Những năm qua tỉnh đã tập trung xây dựng nâng cao các tuyến đường
giao thông của tỉnh. Tính đến nay toàn tỉnh có đường dài 4.244,71 km, trong
đó đường nhựa dài 513km, đường lấp bằng đá dài 1.571,97 km, đường lấp
bằng đất dài 2.007,49 km (trong đó đường đi được hai mùa dài 2084,97 km),
có 614 bản đã sử dụng những con đường này gồm 83,93% số bản toàn tỉnh,
trong đó (có 86 bản chỉ sử dụng được một mùa như mùa khô) và còn 76 bản
chưa có con đường giao thông chiếm 16%. Tuy vậy, kết cấu hạ tầng còn
thiếu, chỉ có Quốc lộ 13, Quốc lộ 6A và quốc lộ 6B đã đảm bảo đi được hai
82
mùa. Các tuyến đường còn lại phần lớn chỉ đi được trong mùa khô, còn mùa
mưa đi lại rất khó khăn. Còn nhiều nơi chưa thông tuyến tới các trọng điểm
phát triển, thiếu hệ thống nước sạch (còn 9,7%), thiếu đường điện ở một số
khu vực có điều kiện phát triển kinh tế như: huyện Sập Bau, huyện Xiêng
Khỏ, Huyện Ét, huyện Xảm Tở và huyện Viêng Xay.
Tính từ 2003 đến nay, tỉnh có một công trình thủy điện với công suất
1.500 kw đó là công trình ở thị xã Viêng Xay với công suất 1.500 kw.
Đồng thời, Nhà nước đã xây dựng đường dây tải điện từ tỉnh Xiêng
Khoảng và tỉnh Sơn La nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nối liền với công
trình thủy điện nhỏ và vừa (16MW và 231.6MW) (13 thủy điện), nếu thành
công sẽ tạo công ăn việc làm cho người dân không nhỏ và đang nối liền với
tất cả các huyện trong tỉnh, theo dự đoán đến 2017 mới hoàn thành. Hiện
nay đã có 429 bản đã sử dụng điện gồm 66,64 % của số hộ toàn tỉnh.
Các công trình thủy lợi đều mới được xây dựng, tuy chưa phát huy
được công suất thiết kế. Còn thiếu hệ thống kênh mương và công trình điều
tiết nội đồng, tổn thất nước trên kênh lớn và tổ chức quản lý thủy nông còn
chưa đạt yêu cầu. Hiện nay, trong tỉnh có 205 công trình thủy lợi hoạt động
ổn định và hơn 1.527 trạm thủy lợi của hộ gia đình. Các trạm bơm của cụm
hộ gia đình có khả năng cung cấp nước cho vụ mùa hơn 3,410.09 ha và vụ
chiếm hơn 1,574.26 ha và cây công nghiệp hơn 20,675 70 ha trong năm 2016.
Kết quả quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng cơ bản đã có bước phát
triển mới, tạo điều kiện thuận lợi trực tiếp và gián tiếp cho lưu thông và vận
chuyển hàng hóa. Hiện nay, toàn tỉnh cơ bản có đường giao thông đi lại tới
các bản đến 100%. Trong thời gian vừa qua (2011- 2016) tỉnh đầu tư với tổng
kinh phí 635,99 tỷ kíp tương đương trong đó vốn đầu tư trong nước 5.803,52
tỷ kíp, vốn đầu tư nước ngoài 31,49 tỷ kíp [141].
Với chủ trương hội nhập kinh tế thế giới của Đảng và nhà nước mở ra
nhiều triển vọng cho quá trình kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn thu hút vốn
83
đầu tư, công nghiệ mới, kinh nghiệm quản lý sản xuất dạy nghề, tạo việc làm
cho người lao động, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, đặc điểm về văn hóa, xã hội.
Tỉnh Hủa Phăn hiện có 10 huyện với quy mô diện tích, dân số, mật độ
dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các huyện có sự chênh lệch
nhau rất lớn.
Khu vực thành thị có khoảng 90.981 nghìn người, chiếm 30,85%
dân số của tỉnh. Khu vực nông thôn có khoảng 203.926 nghìn người,
chiếm 60,15% dân số của tỉnh. Mật độ dân số trung bình của Hủa Phăn
đạt 21 người/km2, tuy nhiên mật độ dân số phân bố không đều giữa các
vùng và ngay trên từng vùng. Huyện có mật độ dân số thấp nhất là huyện
Mường Són.
Bảng 3.3: Diện tích, dân số các đơn vị ở tỉnh Hủa Phăn năm 2016
Tên huyện Diện tích
(km2)
Dân số
(Người)
Mật độ dân số
(Người/km2)
Tổng số 17.504 296.851 21
1. Sầm Nưa 2.658 60.070 23
2. Xiêng Khọ 1.013 26.314 26
3. Viêng Thoong 4.146 12.673 7
4. Viêng Xay 1.616 31.996 20
5. Hủa Mừng 2.289 32.950 14
6. Săm Tớ 3.941 38.343 16
7. Sốp Bâu 1.057 26.079 25
8. Mường Ét 771 27.084 35
9. Mường Quăn 1.467 25.098 17
10. Mường Son 2.067 16.280 8
Nguồn: [142, tr.52].
84
Tỉnh Hủa Phăn gồm 3 dân tộc lớn (Lào Lúm 64%, Hơ Mông 23% và
Khạ Mụ 13%) cư trú rải rác trong 730 bản khác nhau; đa số là người dân sống
bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, phá rừng làm nương rẫy trồng lúa. Cơ sở sản
xuất phụ thuộc vào tự nhiên, người nông dân lao động rất cần mẫn, song trình
độ còn thấp kém.
Dân tộc Hơ Mông và Khạ Mụ phần lớn sông trên vùng núi theo các
buôn làng, mỗi buôn làng mang tính xã hội tương đối hoàn chỉnh, độc lập,
khép kín theo các khu vực sản xuất, trình độ dân trí thấp, phương thức canh
tác lạc hậu, đời sống còn nhiều khó khăn.
Dân tộc Lào Lúm cư trú chủ yếu ở vùng đồng bằng, đô thị và các trục
giao thông, phần lớn có trình độ dân trí cao, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ và sản xuất nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa. Bộ phận còn lại chủ yếu sản xuất nông nghiệp, trình độ dân trí thấp, sản
xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cấp đời sống còn khó khăn.
Văn hóa truyền thống tốt đẹp của các bộ tộc được giữ gìn, bảo tồn và phát
triển, các ban ngành quan tâm đến vấn đề phòng chống những văn hóa mê tín dị
đoan làm thiệt hại đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của các bộ tộc và văn hóa
cộng đồng. Thúc đẩy phong trào văn hóa văn nghệ, bảo tồn và phát triển văn hóa
truyền thống của các bộ tộc; trong 5 năm (2011- 2016) xây dựng bản văn hóa
được 282 bản, có 25,683 hộ gia đình.
Thứ tư, đặc điểm về y tế, giáo dục và đào tạo.
Hiện nay tỉnh Hủa Phăn có 10 bệnh viện, cấp tỉnh 01 cấp huyện 09, có
395 giường và có 68 trạm y tế cấp khu vực, có 121 giường. Được xây dựng
kiên cố, bác sĩ phục vụ tuyến cơ sở rất ít, đến nay mạng lưới y tế được mở
rộng đến tận khu vực cùm bản, 100% trạm y tế được ngói hóa và cơ bản có
728 bác sĩ phục vụ, cấp tỉnh có 227 bác sĩ, cấp huyện có 352 bác sĩ và cấp khu
vực 149 bác sĩ. Tính bình quân 01 bác sĩ/250 người dân. Công tác chăm sóc,
bảo vệ súc khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Các dịch bệnh từng bước được
85
đẩy lùi, các chương trình quốc gia về y tế được triển khai có hiểu quả. Tỷ lệ
dân số mặc bệnh được giảm xuống [154,tr.17]
Đại hội lần thứ IX của Đảng bộ tỉnh Hủa Phăn chỉ rõ: "Trước tiên phải
chú trọng phát triển giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để nâng cao
ý thức, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, nâng cao trình độ dân trí của
nhân dân, coi trọng cả ba mặt: mở rộng về số lượng, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả của giáo dục" [130, tr.109].
Những năm qua giáo dục ở tỉnh Hủa Phăn đã có những tiến bộ đáng kể;
thực hiện cải cách và phát triển mạng lưới giáo dục ở khắp tỉnh và địa phương
dựa trên 3 dự án của Bộ giáo dục - Thể thao Lào. Gần 100% số giáo viên tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đã qua đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc
gia; số trường học cũng đã tăng lên. Chất lượng học sinh các cấp học đã được
nâng lên đáng kể. Số học sinh khá, chăm ngoan, số học sinh đạt giải trong các
kỳ thi học sinh giỏi của tỉnh và cấp quốc gia và thi đỗ vào các trường đại học,
cao đẳng ngày càng tăng lên. Đến năm 2013, tỉnh đã hoàn thành việc xóa mù
chữ và phổ cập tiểu học cho nhân dân trong độ tuổi 15- 45, đã tổ chức học bổ
túc lớp trung học cấp I, cấp II cho nhân dân trong độ tuổi 15 - 35 Đặc biệt là
năm học 2013 - 2014, tỷ suất học sinh đến trường đạt 98,15%, thi các kỳ thi
đạt 99,60% học sinh tiểu học, 94,30% trung học cơ sở và 94,8% trung học
phổ thông.
Chính quyền tỉnh đã đầu tư tăng lớp học, trường học và tăng các đội
ngũ cán bộ giảng viên, huy động học sinh đi học. Sở Giáo dục và Thể thao
của tỉnh đã tổ chức đợt tập huấn cách thức giảng dạy cho giảng viên, gửi các
giảng viên đi học nâng cao trình độ ở trong nước và ngoài nước.
Công tác giáo dục - đào tạo là một vấn đề mà tỉnh chú trọng quan tâm
đặc biệt là trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn giáo viên
và củng cố, kiện toàn bộ máy sở giáo dục tỉnh, huyện và việc sắp xếp, bố trí
cán bộ các cấp. Đối với công tác giáo dục, đặc biệt là về phổ cập giáo dục,
86
xóa mù chữ cho nhân dân các bộ tộc được các cấp, các ngành quan tâm; đến
năm 2010 cơ bản đã công nhận việc xóa mù chữ cho người trong độ tuổi từ 15
- 40, với số lượng 12.728 người. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học được quan tâm đầu tư ở tất cả các cấp học, hệ thống trường,
lớp được đầu tư nâng cấp. Học sinh đã có chuyển biến về nhận thức, nề nếp
học tập khá hơn, tỷ lệ học sinh đến trường ngày càng tăng. Công tác quản lý
và hoạt động dạy - học có tiến bộ rõ rệt; đội ngũ giáo viên ngày càng được
chuẩn hóa, chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên.
Giai đoạn 2010 - 2014, việc đầu tư phát triển hệ thống giáo dục - đào
tạo có nhiều tiến bộ, hệ thống các trường, lớp và thiết bị dạy và học được
nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ngày càng nhiều như: hệ thống
trường mầm non năm 2010 có 56 trường tăng lên 31 trường so với năm 2006
với lượng học sinh tăng lên 42% so với học sinh năm 2006 là 1.340 người;
trường phổ thông cấp một năm 2006 có 691 trường với số học sinh theo học
56.488 và có giáo viên 1.629 người; năm 2010 có 770 trường với số lượng
học sinh 56.096 người có giáo viên giảng dạy 1.870 người. Năm 2012 có 764
trường với số học sinh theo học 52.875 người và có giáo viên 2.219 người.
Trường phổ thông cấp hai toàn tỉnh trong năm 2006 có 56 trường với 12.307
học sinh theo học, có giáo viên 383 người, năm 2010 có 79 trường với số
lượng học sinh theo học 20.648 người, giáo viên 878 người; năm 2014 có 87
trường với 26.017 học sinh theo học, giáo viên 1.516 người. Toàn tỉnh có số
trường phổ thông cấp ba: năm 2006 có 11 trường với số học sinh 6.308 người,
giáo viên 352 người, năm 2010 có 23 với số học sinh 8.509 người, giáo viên
439 người năm 2014 có 36 trường với số học sinh theo học 9.803 người, có
giáo viên 498 người.
Giai đoạn 2015 - 2016 toàn tỉnh có 1.123. Trong đó có trường mầm non
243 trường; Trường tiểu học 742 trường; Trường phổ thông 136 trường; trung
tâm dây nghề 3 trung tâm. Với học sịnh đến trường học 96.397 người; nữ
44.732 người [139, tr.4-5].
87
Toàn tỉnh hiện có 1 trường phổ thông trung học cơ sở dân tộc nội trú
được thành lập vào năm 1996. Hiện nay, trường phổ thông trung học cơ sở
dân tộc nội trú được cấp vốn hỗ trợ xây dựng nâng cấp từ tỉnh Sơn La nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, hiện nay trường có lớp 6 đến lớp 12 với số lượng
học sinh nội trú hàng năm 515 - 520 người và có 49 giáo viên.
3.2. KẾT QUẢ, HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN
3.2.1. Tình hình lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
3.2.1.1. Về quy mô lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
Lao động ở nước CHDCND Lào phần lớn ở nông thôn và làm nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là chính, hàng năm khu vực này tăng tự
nhiên thêm một lực lượng lao động trẻ. Số lao động tăng thêm này có sức
khỏe và trình độ văn hóa ngày càng cao có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp
thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất kinh doanh góp
phần phát triển kinh tế nông thôn.
Theo số liệu thống kê cho thấy năm 2000 dân số ở CHDCND Lào có
5.200.000 người, năm 2010 dân số là 6.256.196 người, đến năm 2015 có
6.492.009 người [126]. Trong đó phần lớn là sinh sống làm ăn ở nông thôn.
Điều này sẽ gây áp lực về việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn
CHDCND Lào hiện nay.
Ở tỉnh Hủa Phăn năm 2011, số lao động toàn tỉnh là 143.128 người,
đến 2015 số lao động tăng lên 186.659 người (tăng 43.531 người). Đây là một
lợi thế rất lớn về lao động trong tỉnh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời cũng là thách thức để giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
này. Như vậy, bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2015, số người bước vào
tuổi lao động của tỉnh Hủa Phăn là 8.760 người - 10.000 người. Dân số biến
động cơ học ảnh hưởng không lớn đến quy mô lao động, nhưng chủ yếu biến
động do tăng tự nhiên về dân số.
88
Bảng 3.4: Quy mô dân số và lực lượng lao động nông thôn
ở tỉnh Hủa Phăn giai đoạn 2011- 2016
Đơn vị: Người
Năm
Nội dung
2011-
2012
2012-
2013
2013-
2014
2014-
2015
2015-
2016
Dân số trung bình 290.241 291.473 294.907 297.179 296.851
Lực lượng lao động 143.128 152.359 169.210 176.668 186.659
% Lực lượng lao động 49,31 52,27 57,37 59,44 62,87
Lực lượng LĐ nông thôn 137.252 132.722 134.848 129.401 128.534
% LLLĐ nông thôn/tổng
số LL lao động 95,8 87,1 79,6 73,2 68,8
Nguồn: [125].
Bảng thống kê trên cho thấy, lực lượng lao động chiếm tỷ lệ cao tại
khu vực nông thôn, năm 2011-2012 là 137.252 người, chiếm 95,8%, đến
năm 2015-2016 tuy đã được chuyển đổi nhanh chóng nhưng lực lượng lao
động nông thôn vẫn còn 128.534 người, chiếm 68,8% lực lượng lao động
trong độ tuổi lao động của tỉnh.
3.2.1.2. Cơ cấu lực lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
Luật Lao động của CHDCND Lào (2015) quy định giới hạn độ tuổi lao
động với nam giới là 15- 60 tuổi tuổi, nữ là 15- 55-60 tuổi. Lực lượng lao động
nông thôn tỉnh Hủa Phăn năm 2014 có 129.401 người, chiếm 73,2% so với
tổng số lực lượng trong độ tuổi lao động. Lực lượng lao động ở tỉnh Hủa Phăn
nói chung, lực lượng lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn nói riêng phần lớn là
lao động trẻ năm 2014 số lao động có độ tuổi từ 15 đến 24 bổ sung vào lực
lượng lao động là 13,3%, số lao động có độ tuổi 25 đến 34 chiếm đến 29,8%.
Đây là thế mạnh của lực lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn; vì lực
lượng lao động này có nhiều ưu thế về sức khỏe, trình độ văn hóa, dễ dàng tiếp
thu những kiến thức và tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ trong sản
89
xuất hàng hóa và kinh doanh phát triển mạnh kinh tế ở khu vực nông thôn. Số
người lao động ở độ tuổi 35 đến 44 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 31,2%. Đây phần
lớn là lao động chính, trụ cột trong gia đình, họ có nghề nghiệp và cuộc sống
ổn định. Số lao động này chiếm tỷ lệ lớn là một thuận lợi cho công tác giải
quyết việc làm.
Bảng 3.5: Cơ cấu lực lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
theo nhóm tuổi (2016) Đơn vị: người
Đổ tuổi
Tổng số LĐ
15-24
Tuổi
25-34
Tuổi
35-44
Tuổi
45-54
Tuổi
55-59
Tuổi
Trên 60
Tuổi
176.668 25.399 52.804 55.206 23.418 10.903 8.938
% so với tổng số 14,3 29,8 31,2 13,2 6,1 5,0
Nguồn: [142].
Lực lượng lao động nông thôn chủ yếu của tỉnh là lực lượng tạo ra của
cải vật chất trong các ngành kinh tế của tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển
sản xuất nông nghiệp, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho
cộng đồng dân cư trong tỉnh.
Theo báo cáo của Ban tổng kết thực hiện phát triển tay nghề tìm việc
làm năm 2016 có khoảng 3.754.294 lao động, chiếm 55,67%, dân số cả nước.
Trong đó khu vực nông thôn 2.895.179 người, do đó lực lượng lao động nông
thôn chiếm 77,11% lực lượng lao động xã hội cả nước [111].
3.2.1.3. Chất lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
Trình độ dân trí của nhân dân nhìn chung còn thấp, phần lớn là lao
động phổ thông. Sự phân công và ngành nghề chưa cụ thể, phương thức sản
xuất còn lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của việc phát triển kinh
tế nông nghiệp.
90
Bảng 3.6: Nguồn lao động theo trình độ đào tạo giai đoạn 2010-2016
ở tỉnh Hủa Phăn
Đơn vị: Người
Tỷ trọng (%) Năm
Nội dung 2010-2011 2015-2016
2010-2011 2015-2016
Lực lượng lao động 143.128 184.659 100,00 100,00
1. Lao động chưa qua đào tạo 117.601 121.621 82,16 65,86
2. Lao động có chuyên môn
kỹ thuật 25.527 63.038 17,83 43,13
Trong đó:
- CNKT không có bằng 8.102 9.002 5,66 4,87
- CNKT có bằng 3.110 6.005 2,17 3,25
- Sơ cấp 3.107 12.015 2,17 6,50
- Trung cấp 5.106 16.004 4,2 8,66
- Cao đẳng, đại học trở lên 6.105 20.012 4,26 10,83
Nguồn: [145].
Từ số liệu ở trên cho thấy, lao động có sự chuyển dịch tích cực đã hình
thành bước đầu lao động có tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo làm việc ở một số
ngành kỹ thuật, dịch vụ như: điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất, lắp ráp
các sản phẩm ô tô, xe máy, điện, bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn…, đặc biệt là
bước đầu có thể đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
trên địa bản. Trong đó, đã có một bộ phận lao động được tiếp cận với trình độ
tiên tiến của khu vực, phản ánh đúng và từng bước đáp ứng định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Tuy đã có những chuyển biến tích cực ở chỗ số lượng lao động có
trình độ đại học và cao đẳng có tỷ lệ tăng lên, nhưng số lượng lao động có
91
chuyên môn sơ cấp và công nhân kỹ thuật có bằng lại giảm xuống, là một cơ
cấu bất hợp lý. Cơ cấu đào tạo người lao động của tỉnh đang trong tình trạng
thầy nhiều hơn thợ. Đây là hạn chế cần khắc phục trong tương lai cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu đào tạo, là một thách thức rất lớn đối với tỉnh
Hủa Phăn.
3.2.2. Thực trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và lao động có việc làm
3.2.2.1. Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm
Quy hoạch sử dụng đất theo hướng chuyển đổi mục đích sử dụng từ
phục vụ sản xuất nông nghiệp sang phục vụ sản xuất công nghiệp, thương
mại, dịch vụ và quy hoạch chỉnh trang đô thị trong quá trình đô thị hóa sẽ
làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động diện thu hồi đất
sản xuất (đất sản xuất nông nghiệp và mặt bằng sản xuất, kinh doanh các
ngành nghề phi nông nghiệp), mất việc làm hoặc buộc phải chuyển đổi việc
làm. Đối với nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu
thương mại, du lịch, các khu đô thị mới thì coi như mất tư liệu sản xuất,
không còn kế sinh nhai. Đại đa số họ có trình độ học vấn thấp, không có tay
nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách
làm, lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn, làng xã
truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập các mối quan hệ công
ăn, việc làm, khả năng tiếp cận các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với
cuộc sống đô thị, khả năng thích ứng kịp thời với sự biến đổi nhanh chóng
của quá trình đô thị hóa, khi mà bỗng chốc họ đã trở thành những cư dân đô
thị bất đắc dĩ sau những quyết định hành chính mở rộng ranh giới, không
gian đô thị. Những vấn đề trên đây đã cản trở nhóm dân cư này trong việc
tìm kiếm các cơ hội chuyển đổi việc làm mới, biến họ trở thành những người
thất nghiệp.
92
Bảng 3.7: Tình hình thiếu việc làm của lực lượng lao động
giai đoạn 2012- 2016 ở tỉnh Hủa Phăn
Đơn vị: Người
Tiêu chí 2012-2013 2013-2014 2014-2015 2015-2016
Dân số trung bình 291.473 294.907 297.179 296.851
Lực lượng lao động 152.359 169.210 176.668 186.659
Lực lượng lao động có việc làm 139.868 155.157 156.232 169.128
Lực lượng lao động thiếu việc làm 12,491 14,053 20.436 17.531
Tỷ lệ thất nghiệp % 8,21 8,30 11,56 9,39
Nguồn: [149]
Qua bảng 3.7, cho thấy tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2012-2013 là 8,21%,
tăng lên 11,56% giai đoạn 2014-2015 nhưng có xu hướng giảm mạnh vào
năm 2015-2016 là 9,39%.
Trong khi đó, khả năng giải quyết việc làm của tỉnh còn hạn chế. Số
người không có việc làm và thiếu việc làm ở cả thành thị và nông thôn năm
2015-2016 là 17.531 người [124]. Vì vậy, mất cân đối cung - cầu về lao
động, gây sức ép ngày càng nặng nề trong giải quyết việc làm của tỉnh.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di dân tự do, gây
xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu nguồn lao động
theo vùng trong tỉnh.
Lực lượng lao động chủ yếu ở nông thôn nhưng tỉ trọng nông nghiệp
trong GDP chiếm quá ít thì với tốc độ đô thị hóa như hiện nay giải quyết số lao
động ở nông thôn dư ra bằng cách chuyển sang làm dịch vụ ở các đô thị giữ
một vị trí quan trọng. Trong khi số lao động trẻ dư thừa ở các đô thị ngày càng
tăng thì số lao động nông thôn tràn ra các đô thị kiếm sống cũng rất đông, làm
cho cấu trúc hạ tầng xã hội không kịp đáp ứng, gây ra thất nghiệp và các tệ nạn
xã hội ngày càng phức tạp.
93
Nhà nước Lào đã tạo điều kiện ưu đãi, thu hút các dự án đầu tư
hướng về nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn. Có chính sách về việc thành lập các
doanh nghiệp ở nông thôn (tư nhân, liên doanh hợp tác, Nhà nước); Nhà
nước đã khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn và cơ sở vật chất - kỹ
thuật sản xuất vào nông thôn, nhằm thu hút được người lao động, nhân
lực nhàn rỗi ở nông thôn, tạo công ăn việc làm cho người lao động ở nông
thôn; đã huy động được nhiều nguồn vốn khác nhau kể cả đầu tư trực tiếp
của nước ngoài, hay cả vốn tích lũy của các gia đình ở nông thôn vào sản
xuất. Nhà nước đã ưu tiên bố trí các cơ sở sản xuất, các ngành công
nghiệp chế biến nông, lâm, ngư nghiệp và những ngành công nghiệp có
khả năng khai thác nguồn nguyên liệu cũng như sử dụng lao động tại chỗ
ở nông thôn.
3.2.2.2. Tình hình lao động có việc làm và thu nhập
Thứ nhất, tình hình lao động có việc làm
Trong thời gian qua, vấn đề việc làm ở tỉnh Hủa Phăn có nhiều chuyển biến
tích cực. Hủa Phăn là một tỉnh miền núi có diện tích tự nhiên lớn nhưng dân số lại
ít. Do đó, lực lượng lao động trong toàn tỉnh cũng ít hơn nhiều so với các tỉnh
khác của Lào. Giai đoạn 2010-2011, lực lượng lao động nông thôn là 137.252
người, chiếm 95,8% lực lượng lao động cả nước. Đến giai đoạn 2015-2016 là
128.534 người, chiếm 68,8% [125, tr.19]. Có thể nhận thấy, lực lượng lao động
nông thôn tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu lao động của tỉnh.
Lực lượng lao động ở tỉnh Hủa Phăn nói chung, lực lương người lao
động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn nói riêng phần lớn là lao động trẻ. Giai đoạn
2015-2016, tỷ lệ lao động có độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi bổ sung vào lực lượng
lao động chung của tỉnh là 13,3%, tỷ lệ lao động lao động có độ tuổi 25 đến 34
bổ sung vào lực lượng lao động 29,8% [146, tr.20]. Với nguồn lao động trẻ dồi
dào, tỉnh Hủa Phăn đang có lợi thế lớn để để mở rộng sản xuất, phát triển kinh
tế nông thôn. Nguồn lao động trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu
những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào sản xuất của tỉnh.
94
Bảng 3.8: Số lao động được tạo việc làm theo ngành và tỷ lệ lao động
được tạo việc làm
Đơn vị tính: người, %
Năm
Ngành 2013-204 2014-2015 2015-2016
I. Số lao động được tạo việc làm (lao động) 1.448 2.032 2.297
- Nông - lâm - ngư nghiệp 403 733 839
- Công nghiệp 175 277 288
- Dịch vụ 774 1.022 1.170
II. Phần trăm lao động được tạo việc làm (%) 100 100 100
- Nông - lâm - ngư nghiệp 27,8 36,07 36,81
- Công nghiệp 12,08 13,36 12,53
- Dịch vụ 32,73 50,29 50,93
Nguồn: [123], [124], [125]
Qua bảng 3.8 cho thấy, tỷ trọng lao động được tạo việc làm giữa các
năm có sự biến đổi tăng giảm giữa các ngành trong kinh nền kinh tế. Từ khi
có chính sách mở rộng sản xuất kinh doanh, chính sách hỗ trợ người dân vay
vốn ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và các chương trình
khuyến nông, khuyến ngư. Chính sách mở rộng các khu công nghiệp thu hút
các nhà đầu tư vào đầu tư, đã thu hút không ít số lao động vào làm việc.
Thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
những năm qua tỉnh Hủa Phăn đã khuyến khích, đầu tư trong và ngoài nước
tham gia đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nhằm động viên các thành phần
kinh tế, phát huy quan hệ, hợp tác về kinh tế với nước ngoài. Sử dụng nguồn
vốn, nguồn nhân lực, tri thức để phát triển sức sản xuất có hiệu quả, phục vụ
cho quá trình từng bước chuyển sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp
phần giải quyết đời sống của nhân dân, xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
95
Tỉnh Hủa Phăn tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhà nước trên địa
bàn hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, thời gian
qua các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt vai trò trong việc mất cân
bằng trong đầu tư vào ngành nông nghiệp, hay vấn đề tiêu chuẩn, chất lượng,
an toàn thực phẩm..
Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư có vốn nước ngoài,
trong thời gian qua phát triển tương đối mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn. Thông qua các mô hình kinh doanh như dịch vụ nông nghiệp, hỗ
trợ sản xuất bao tiêu sản phẩm, đầu tư chế biến, bảo quản sau thu hoạch, hình
thành các thị trường xuất khẩu ra nước ngoài góp phần đáng kể làm tăng giá
trị sản xuất nông nghiệp trong tỉnh. Đặc biệt tạo được sự liên kết trong nông
nghiệp giữa nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp.
Đi đôi với mặt tích cực trong việc quản lý đầu tư trong ngành nông
nghiệp và lâm nghiệp vẫn còn có những thách thức và bất cập nhất là việc phê
duyệt cho phép đầu tư liên quan đến tô nhượng, chưa tuân thủ luật pháp, khả
năng kiểm tra và xác định phân chia vùng đất nông nghiệp và lâm nghiệp còn
hạn chế, không có khả năng đáp ứng diện tích đất cho đầu tư của các nhà đầu
tư theo như yêu cầu.
Chính quyền cấp tỉnh và huyện đã phê duyệt đất đai cho nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài thuê hoặc tô nhượng đối với trồng cây công nghiệp
trong tỉnh như: Dự án trồng cây Cà phê của công ty Đức Cường nhà đầu tư
Việt Nam với diện tích 750 ha; dự án trồng Ngô của công ty Hưng Phát nhà
đầu tư Việt Nam với diện tích 30,046 ha; dự án trồng khoai sẵn 1 công ty với
một dự án của nhà đầu tư Trung Quốc có diện tích 437 ha…
Chất lượng nguồn lao động nhìn chung đã được cải thiện nhiều nhưng
cung về chất lượng không đáp ứng được cầu về cả hai mặt thể lực và trí lực
nguồn lao động. Đó là tình trạng thiếu hụt kỹ năng của người lao động nông
thôn. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo
96
dục chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất
phát từ nhu cầu thị trường sức lao động của tỉnh.
Đây là lực lượng lao động chủ yếu của tỉnh, lực lượng tạo ra của cải vật
chất trong các ngành kinh tế của tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển sản
xuất nông nghiệp bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho cộng
đồng dân cư trong tỉnh.
Thứ hai, tình hình thu nhập.
Trong thời gian qua, nhờ có chính sách đổi mới, đời sống của nhân dân
nói chung và người lao động nông thôn nói riêng đã thật sự có những tiến bộ
đáng kể, song còn thấp xa so với yêu cầu để phát triển, nhất là đối với người
lao động ở nông thôn. Nhìn chung thu nhập người lao động nông thôn ở tỉnh
Hủa Phăn còn thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thu nhập của người lao
động nông thôn thấp nhưng nguyên nhân đáng để nói là thu nhập chính từ
nghề nông ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn vấn còn chiếm tỉ trọng lớn, tình hình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất phát triển ngành nghề diễn ra quá chậm. Trên địa
bàn tỉnh Hủa Phăn nông thôn có tới 85% số hộ có thu nhập chính từ nông
nghiệp, còn tỉ lệ hộ có thu nhập từ ngành nghề chỉ đạt ở mức thấp 15%.
Thu nhập thấp của người lao động nông thôn không chỉ do có tỉ lệ hộ
thuần nông lớn mà còn do những nguyên nhân như năng suất lao động thấp,
tình trạng thiếu việc làm thường xuyên, do tính chất thời vụ của nông nghiệp,
do số người trong hộ nông thôn cao. Bên cảnh đó, thu nhập của người lao
động ở nông thôn có sự chênh lệch giữa các ngành và các vùng.
Theo Báo cáo của Tổng Cục thống kê Lào, hiện nay bình quân thu nhập
trên đầu người nói chung của Lào ở mức thấp nhất so với các nước trong khu
vực Đông Nam Á (đạt khoảng 1.803 USD/năm, tương đương với 39,9 triệu
đồng); trong đó, thu nhập bình quân trên đầu người của lao động nông thôn
chỉ đạt khoảng 1.124 USD/năm, tương đương với 24,728 triệu đồng/năm.
Đối với tỉnh Hủa Phăn, lao động nông thôn chiếm khoảng 80% tổng số
lao động, trong đó thu nhập của lao động nông thôn chủ yếu từ các hoạt động
sản xuất nông nghiệp.
97
Bảng 3.9: Bình quân thu nhập của lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
trong những năm gần đây
Đơn vị tính: triệu đồng/năm
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm
Thu nhập Tổng số
Tỉ lệ
(%) Tổng số
Tỉ lệ
(%) Tổng số
Tỉ lệ
(%)
Tổng số thu nhập
bình quân
22,519 100 24,423 100 24,728 100
Từ hoạt động nông
nghiệp
18,541 82,35 20,019 81,97 19,769 79,94
Từ hoạt động phi
nông nghiệp
3,978 17,65 4,404 18,03 4,959 20,06
Nguồn: [125, tr.26].
Qua bảng số liệu trên, có thể nhận thấy, đa số thu nhập của lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn dựa vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp
(chiếm khoảng 80%), thu nhập từ các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp chỉ
chiếm khoảng 20%. Trong những năm gần đây, tỉ lệ thu nhập của lao động
nông thôn ở hai khu vẹc này tuy có sự biến chuyển theo hướng tăng dần tỉ lệ
thu nhập của lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp, giảm dần tỉ lệ thu nhập từ
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhưng su hướng này biến đổi còn chậm. Điều
này phản ánh thực trạng là nền nông nghiệp của tỉnh Hủa Phăn còn chậm phát
triển, sản xuất hàng hóa, dịch vụ nông nghiệp chưa thực sự được đẩy mạnh
nên thu nhập của người lao động nông thôn còn thấp, dựa chủ yếu vào các
haotj động sản xuất nông nghiệp truyền thống.
3.2.3. Thực trạng các hình thức giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, các địa phương trên cả nước nói chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng đều
quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn bởi đây là
98
một trong những vấn đề quan trọng góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh Hủa Phăn.
3.2.3.1. Thực trạng giải quyết việc làm thông qua đào tạo nghề
Tỉnh đã chú trọng quan tâm đến việc đào tạo nghề cho thanh niên và
nhân dân các bộ tộc. Toàn tỉnh hiện có 1 trường bổ túc, có 3 trung tâm dạy
nghề và có 2 trường đại học, với số lượng học viên và giảng viên ngày càng
tăng lên. Đây là nơi tạo điều kiện cho thanh niên, cán bộ và nhân dân các bộ
tộc được tiếp cận kiến thức chuyên môn, nghề nghiệp, nâng cao trình độ tay
nghề để phục vụ vào việc sản xuất và đời sống hàng ngày.
Tạo việc làm cho 700 người, giới thiệu việc làm cho trên 800 người,
trong đó 400 người được giới thiệu làm việc ở trong nước, 380 người giới
thiệu đi nước ngoài. Giai đoạn 2015-2016 tỉnh đã chú trọng việc đào tạo
nghề, bồi dưỡng tập huấn nghề nghiệp cho 1.035 người, trong đó nữ 615
người, nâng tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề đạt gần 34%, sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn đạt 60% [144, tr.7]. Đi đôi với việc tạo điều
kiện cho người lao động có cơ hội học nghề và giải quyết việc làm, Tỉnh đã
tăng cường chỉ đạo và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong những năm qua, tỉnh Hủa Phăn đã triển khai thực hiện chương
trình quốc gia về giải quyết việc làm với mục tiêu nâng cao nhận thức, tay
nghề, tăng thêm cơ hội việc làm, từ đó tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu lao
động... Tỉnh đã triển khai có hiệu quả một số mô hình dạy nghề cho người lao
động nông thôn. Nhiều làng nghề truyền thống đã được khôi phục, phát triển,
hàng nghìn người được dạy nghề, giải quyết việc làm, góp phần quan trọng
trong việc giải quyết vấn đề việc làm và phát triển kinh tế nông thôn. Từ năm
2011 đến nay, thông qua đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tỉnh đã
hỗ trợ dạy nghề cho gần 8 nghìn lao động, trong đó có trên 2 nghìn người
thuộc hộ nghèo, 788 người thuộc hộ cận nghèo được dạy nghề, giới thiệu việc
99
làm. Các nghề được hỗ trợ đào tạo gồm: May công nghiệp, cơ khí, điện, điện
tử... Thu nhập bình quân của người lao động sau khi được tuyển dụng vào làm
việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp khoảng 1-1,5
triệu kíp/người/tháng.
Cùng với đó, nhiều hoạt động hỗ trợ nâng cao nhận thức, giáo dục pháp
luật; chính sách cho người nghèo cũng được triển khai, đặc biệt là chính sách
giải quyết việc làm... Tỉnh đã đầu tư vốn để mở các lớp dạy nghề cho người
nghèo, cho họ vay vốn để mở rộng sản xuất, trợ giúp người nghèo về kỹ thuật
sản xuất nông nghiệp, liên kết với các công ty nông sản để tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp của người nông dân. Tỉnh cũng đầu tư và áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào tăng năng suất cây lương thực, thâm canh tăng vụ đối
với cây lương thực có hạt. Phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh gắn
với công nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm như cây chất bột lấy củ như sắn,
đậu nành, cà phê, cao su. Tỉnh còn vận động nhân dân mở rộng diện tích canh
tác ở những vùng đất có điều kiện phát triển trồng rau sạch và cây ăn quả có
giá trị kinh tế. Nhờ đó, nông dân trong tỉnh càng có thêm nhiều cơ hội về việc
làm, bước đầu giải quyết khó khăn về đời sống vật chất, góp phần thay đổi tập
quán sản xuất lạc hậu đã có từ lâu đời.
3.2.3.2. Thực trạng giải quyết việc làm thông qua các chương trình
mục tiêu quốc gia
Chủ trương xóa đói giảm nghèo cho nhân dân nhất là cho nhân dân
vùng sâu vùng xa, vùng các bộ tộc thiểu số trong những năm qua đã được
cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương
quan tâm tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện khá tốt. Đặc biệt là việc
triển khai thực hiện theo nội dung Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
(ĐNDCM Lào) lần thứ VIII, IX và nội dung Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VII, VIII. Tổ chức thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng số 09/TƯ về
việc xây dựng bản và cụm bản phát triển; Chỉ thị số 13 của Thủ tướng
chính phủ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 09/TƯ. Văn kiện Đại hội
100
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐNDCM Lào đã đề ra bốn đột phá, trong
đó một đột phá là về việc xóa đói giảm nghèo.
Tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh nghèo nhất so với các tỉnh của đất nước
Lào. Tình hình đói nghèo nhất là các vùng sâu, vùng xa; trong thời gian qua
tỉnh, huyện, các cấp, các ngành đã kiên quyết tổ chức thực hiện theo mục tiêu
của Đảng và Nhà nước nhằm xóa đói giảm nghèo, để thực hiện mục tiêu thoát
khỏi nước kém phát triển đến năm 2020. Chương trình xóa đói, giảm nghèo
đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và
toàn thể nhân dân các bộ tộc.
Trong thời gian vừa qua, tỉnh Hủa Phăn đã tập trung vào việc xóa đói
giảm nghèo lồng ghép với việc phát triển nông thôn cũng như việc xây dựng
bản và cụm bản phát triển. Tập trung đầu tư kinh phí và bố trí cán bộ với các
công trình, dự án có liên quan đến việc xóa đói giảm nghèo như xây dựng bản
văn hóa, bản 3 sạch, bản phổ cập giáo dục cơ bản… năm 2010 cung cấp vốn
hỗ trợ về trồng trọt, chăn nuôi và đầu tư kinh doanh cho 49 bản, với tổng kinh
phí 3,79 tỷ kíp đến nay đã thu lãi suất được 430 triệu kíp.
Tỉnh quan tâm việc tổ chức triển khai, giáo dục tuyên truyền chủ trương,
đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các chương trình, dự án của tỉnh
cho nhân dân, cho cán bộ cơ sở, địa phương hiểu biết và chủ động tổ chức thực
hiện; lấy việc xây dựng cơ sở làm nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế, lấy việc
ổn định cư trú gắn liền với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa; thúc đẩy nhân dân
chuyển đổi sản xuất từ sản xuất nhỏ lẻ tẻ nhờ vào tự nhiên sang sản xuất hàng
hóa dựa vào điều kiện của tỉnh và địa phương.
Kết quả 5 năm thực hiện (2010-2015), có 100 dự án với tổng chi phí
103,74 tỷ kíp, trong đó vốn đầu tư trong nước 69,58 tỷ kíp, vốn đầu tư nước
ngoài 34,16 tỷ kíp: vốn trợ giúp từ tỉnh Sơn La và Công ty 705 của Việt Nam
có 4 dự án với vốn đầu tư 1,8 tỷ kíp; đầu tư vào việc ổn định cư trú và xây
dựng cơ sở có 4 dự án với vốn đầu tư 9,54 tỷ kíp; đầu tư vào việc xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn có 23 dự án với vốn đầu tư 11,44 tỷ kíp và đầu tư
101
vào 3 cụm phát triển có 69 dự án với vốn đầu tư 80,96 tỷ kíp (trong đó vốn
đầu tư trong nước 60% bằng 48,58 tỷ kíp, vốn đầu tư của Nhà nước Việt Nam
40% bằng 32,38 tỷ kíp). Nhờ sự quan tâm đầu tư rất lớn đó đã làm cho kết
cấu hạ tầng nông thôn vùng sâu, vùng khó khăn có sự thay đổi tích cực, đời
sống của nhân dân các bộ tộc ngày càng được cải thiện, tình hình chính trị ổn
định, xã hội ngày càng công bằng hơn.
Qua việc đầu tư, giải quyết vấn đề đói nghèo cho nhân dân các bộ tộc
trong thời gian qua đã có bước chuyển tích cực tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể
năm 2005 tỷ lệ hộ đói nghèo 53,23% đến năm 2010 còn 20.625 hộ gia đình
bằng 49,94%, năm 2015 toàn có 4 huyện nghèo, 354 bản nghèo chiếm
49,30% (719 bản), hộ nghèo chiếm 22,16% (13,201 hộ) [151].
Trong việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, khôi phục ngành nghề truyền
thống, với ngành nghề truyền thống lâu đời như: nghề dệt, may thêu, hàng thủ
công mỹ nghệ như may, cây tre, lá của nhân dân các bộ tộc đến nay vẫn được
duy trì và phát triển. Để khôi phục, xây dựng và phát triển làng nghề truyền
thống tại các địa phương và khuyến khích đầu tư phát triển. Tỉnh tập trung
vào việc thực hiện phát triển nghề dệt váy bản xứ với việc hỗ trợ vốn, cho vay
vốn lãi suất thấp; đào tạo nghề dệt váy bản xứ cho lao động nữ có thu nhập
9,378 tỷ kíp/năm. Từ sự quan tâm từ phía Đảng và Nhà nước, các ban ngành
cùng với sự quyết tâm của nhân dân, các hộ gia đình các ngành nghề truyền
thống đã được khôi phục. Đến nay, nhiều hộ gia đình có thu nhập từ việc dệt,
may khá nhiều, có nhiều hộ gia đình đã trở thành gia đình phát triển kiểu mẫu
của làng, huyện đặc biệt là huyện Săm Tảy sản phẩm dệt váy bản xứ có vai
trò nổi tiếng trên thị trường trong nước và nước ngoài.
- Về cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế:
Lực lượng lao động của Hủa Phăn hiện nay chiếm khoảng 79,10% dân số
của tỉnh, trong đó lao động trong nông nghiệp chiếm 69%, ngành công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp chiếm 7,0%, ngành dịch vụ chiếm 23,0%. Đây là lực lượng
102
lao động chủ yếu của tỉnh, lực lượng tạo ra của cải vật chất trong các ngành kinh
tế của tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển sản xuất nông nghiệp bảo vệ an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho cộng đồng dân cư trong tỉnh.
Bảng 3.10: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế giai đoạn 2005 - 2015
ở tỉnh Hủa Phăn
Đơn vị: %
Năm TT Danh mục
2005 2010 2015
1 Ngành Nông-lâm nghiệp 78,5% 70,0% 69%
2 Ngành Công nghiệp 5,5% 7,0% 7,3%
3 Ngành Dịch vụ 19,5% 22,7% 23,0%
Nguồn: [143]
Tỉnh Hủa Phăn cũng đã thực hiện thu hút các nguồn vốn đầu tư trên địa
bàn cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong những năm qua tỉnh đã tổ chức
huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn. Cùng với nguồn vốn hỗ trợ từ
Ngân sách Trung ương; vốn ngân sách tỉnh chi đầu tư phát triển; vốn vay ưu
đãi kiên cố hóa kênh mương và đường giao thông vùng sâu, vùng khó khăn,
vốn trái phiếu Chính phủ; vốn đầu tư của khu vực dân cư và doanh nghiệp;
đóng góp của các tổ chức kinh tế; các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn tín dụng đầu tư, huy động vốn đóng
góp của nhân dân. Mặc dù Nhà nước có nhiều quan tâm và rất nỗ lực tạo nguồn
vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nhưng vẫn còn chưa đáp ứng
nhu cầu thực tế vốn sản xuất của bà con nông dân, đặc biệt những nơi có phong
trào làm kinh tế trang trại phát triển mạnh như Viêng Xay, Hua Mường, Ét.
Tỉnh đã quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ rừng, chính
quyền các cấp, các cơ quan thừa thành pháp luật; phân cấp mạnh cho chính
quyền cấp huyện và cấp cụm trong quản lý, bảo vệ và quản lý nhà nước về
rừng. Chuyển khai thực hiện thí điểm chính sách trợ cấp lương thực cho đồng
103
bào dân tộc thiểu số tự nguyện chuyển đổi từ canh tác nương rẫy trên đất lâm
nghiệp sang trồng rừng trong thời gian chưa có thu nhập từ rừng. Khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư bảo vệ, phát triển, khai thác và chế biến
lâm sản.
Thực hiện việc giảm thuế đất nông nghiệp cho nông dân là một chủ
trương được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo điều kiện cho nông dân tranh thủ
tích lũy nguồn vốn đầu tư, mở rộng sản xuất nông nghiệp. Chính sách giảm
thuế cho các doanh nghiệp nước ngoài tạo sự thu hút, đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp tại tỉnh đã tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống của
nhân dân.
Như vậy, trong những năm qua, cùng với quá trình hiện đại hóa đất nước,
tỉnh Hủa Phăn đã có nhiều cơ chế, chính sách phù hợp để tạo việc làm cho lao
động nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm vẫn còn nhiều bất cập
khiến tình hình thất nghiệp của lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn vẫn là một
trong những vấn đề nan giải.
Theo chủ trương hiện đại hóa của tỉnh, việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất từ phục vụ sản xuất nông nghiệp sang phục vụ sản xuất công
nghiệp, thương mại, dịch vụ và quy hoạch chỉnh trang đô thị trong quá
trình đô thị hóa đã làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao
động trong diện thu hồi đất sản xuất mất việc làm hoặc buộc phải chuyển
đổi việc làm. Nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp,
khu thương mại, du lịch, các khu đô thị mới bị mất tư liệu sản xuất, không
còn kế sinh nhai. Hơn nữa, do ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp nên
phần lớn người lao động ở nông thôn đều có tâm lý sản xuất nhỏ, ít có khả
năng thiết lập các mối quan hệ công ăn, việc làm, ít có khả năng tiếp cận
các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập để thích nghi với cuộc sống đô thị
nhìn chung còn nhiều hạn chế. Những vấn đề đó đã cản trở nhóm dân cư
này trong việc tiếp cận các cơ hội chuyển đổi việc làm mới, biến họ trở
thành những người thất nghiệp.
104
3.2.3.3. Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn
thông qua xuất khẩu lao động
Công tác xuất khẩu lao động bước đầu được đẩy mạnh, thị trường xuất
khẩu lao động được mở rộng hơn, chú trọng nhiều hơn đến những thị trường
ổn định, có thu nhập khá cao. Tổ chức kinh tế tham gia tuyển dụng lao động
đi xuất khẩu cũng được mở rộng hơn, nhiều đơn vị có năng lực đã tạo thuận
lợi trong quá trình giáo dục định hướng cũng như bảo lãnh hợp đồng cho
người lao động nông thôn đi xuất khẩu lao động.
Có thể nói công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Hủa Phăn đã đạt được
những kết quả khích lệ. Từ năm 2010 đến 2015 đã có 1.707 lao động được
xuất khẩu đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó có 1.086 lao động
nông thôn.
Bảng 3.11: Người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn tham gia
xuất khẩu lao động giai đoạn 2010-2016
Đơn vị: Người
TT Năm
Chỉ tiêu
2010-
2011
2011-
2012
2012-
2013
2013-
2014
2014-
2015
2015-
2016 Tổng
1 Số LĐ TT XKLĐ (người) 189 309 220 259 350 380 1.707
2 Số LĐNT XKLĐ (người) 109 180 136 169 234 258 1.086
3 Tỷ lệ LĐNTXKLĐ / tổng số % 57,6 58,5 61,8 65,2 66,8 67,8 63,6
Nguồn: [149]
Kết quả như trên là do Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động và trung tâm
giới thiệu việc làm đã chỉ đạo các huyện, thị tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp, tổ chức làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, đưa thông tin
đến với người dân và thực hiện quy trình tuyển chọn, giáo dục định hướng
cho người lao động ở nông thôn có nhu cầu và điều kiện tham gia xuất khẩu
lao động. Mặt khác, các ngành, các địa phương nơi có nhiều lao động nông
thôn đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài đã có sự chủ động, phối hợp với
105
đơn vị tuyển dụng lao động làm công tác giáo dục định hướng, vận động
người lao động ở nông thôn tham gia xuất khẩu lao động.
3.2.4. Đánh giá chung việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh
Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
3.2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Thứ nhất, về những kết quả đạt được.
Vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn được triển khai bước
đầu đã có chuyển biến tích cực. Trong giai đoạn 2010- 2016, mặc dù nền kinh
tế có nhiều biến động ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội của
nước CHDCND Lào nói chung và tỉnh Hủa Phăn nói riêng. Song Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân tỉnh Hủa Phăn đã nỗ lực vượt qua thách thức, tận
dụng thời cơ và đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội, trong đó có những thành tựu đáng khích lệ về việc làm cho người
lao động ở nông thôn với kết quả cụ thể như sau:
Một là, công tác đào tạo nghề và mở rộng các hình thức sản xuất kinh
doanh được quan tâm và triển khai thực hiện khá hiệu quả. Đã phát triển và đa
dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm mới cho lao
động nông thôn ở tỉnh như: thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển kinh tế hộ gia
đình, phát triển các làng nghề truyền thống. Các hình thức đào tạo nghề đã
được đổi mới, hệ thống trường nghề được củng cố, nâng cấp, đổi mới nội
dung và chương trình giảng dạy, do vậy chất lượng nguồn lao động đã được
nâng cao.
Hai là, đa dạng hóa các ngành nghề nông thôn đây là tiền đề tích cực
để tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn. Phát huy tối đa
các điều kiện, thế mạnh cũng như tiềm năng để phát triển kinh tế nhất là kinh
tế thương mại - dịch vụ. Thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài
nước, phát triển sản xuất, kinh tế tư nhân được đẩy mạnh, nghề truyền thống
được khôi phục phát triển.
106
Ba là, công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
được đặt dưới sự quan tâm, chỉ đạo, lãnh đạo của đảng, chính quyền và các
tổ chức chính trị xã hội. Cụ thể, Ban thường vụ Tỉnh ủy đã có nghị quyết
chuyên đề về chương trình giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn ở tỉnh Hủa Phăn giai đoạn 2010-2016. Hội đồng nhân dân khóa VII kỳ
họp chuyên đề đã thảo luận và ban hành nghị quyết công tác đào tạo nghề và
giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Tỉnh ủy đã ban
hành chương trình đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn; đồng thời, thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh do đồng chí Phó chủ
tịch tỉnh làm trưởng ban, một số ngành và tổ chức đoàn thể tham gia làm
thành viên. Qua đó các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh đã có kế hoạch để
thực hiện chương trình giải quyết việc làm cho từng đối tượng như: Hội phụ
nữ giải quyết việc làm cho hội viên thông qua việc giúp nhau vay vốn, hỗ trợ
giống để phát triển sản xuất, đặc biệt là ngành thủ công nghiệp dệt váy lụa.
Đoàn thanh niên tập huấn chuyển giao khoa học công nghệ, thành lập các
nhóm, tổ sản xuất kinh doanh… góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới cho
người lao động ở nông thôn.
Bốn là, thành lập được các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm dạy
nghề của tỉnh. Với nhiều mô hình đào tạo nghề, đồng thời chương trình đào
tạo gắn nhu cầu xã hội, gắn với bố trí và sử dụng lao động. Do đó đầu ra của
chương trình đào tạo đều có địa chỉ làm việc cho người lao động ở nông thôn
và đem lại hiệu quả cao trong mỗi mô hình đào tạo.
Thứ hai, về nguyên nhân của những kết quả đạt được.
Nguyên nhân chủ yếu của thành công nêu trên là do sự đúng đắn trong
đường lối lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp và các tổ chức kinh tế - xã
hội. Coi người lao động là trung tâm của sự phát triển bền vững.
Từ nhiều năm nay, vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn
tỉnh Hủa Phăn đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh, Đoàn Thanh niên, Hội
Liên hiệp Phụ nữ hết sức quan tâm và được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình
107
thức, bằng nhiều chính sách cụ thể như: hình thành và cho vay vốn tạo việc
làm từ quỹ quốc gia và giải quyết việc làm. Thực hiện các chương trình mục
tiêu chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chương trình xóa
đói giảm nghèo; mở các trung tâm đào tạo và giải quyết việc làm; hợp tác lao
động quốc tế. Lao động nông thôn đã tích cực tham gia các hoạt động dạy
nghề và tạo việc làm cho người lao động, nhiều mô hình hoạt động có hiệu
quả như: tư vấn, hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm, câu lạc bộ nghề
nghiệp, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội... Thông qua đó,
người lao động ở nông thôn đã phát huy vai trò và thế mạnh của mình trong
hướng nghiệp, tư vấn, dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho người
lao động góp phần xây dựng đất nước.
Nhận thức về việc làm, giải quyết việc làm của chính quyền tỉnh Hủa
Phăn, của người sử dụng lao động và người lao động đã có sự thay đổi căn
bản. Người sử dụng lao động được khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh,
dịch vụ tăng thêm việc làm. Người lao động tự chủ trong việc tự tạo việc làm
cho mình và cho người khác. Tỉnh Hủa Phăn đã cụ thể hóa các chủ trương,
chính sách của Nhà nước tạo môi trường và cơ hội thuận lợi để mỗi người dân
ở nông thôn có thể tự tạo việc làm cho mình và góp phần giải quyết việc làm
cho xã hội. Thông qua các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư trong nước,
thu hút nước ngoài để phát triển sản xuất tạo việc làm cho người lao động;
thực hiện chính sách hỗ trợ dưới nhiều hình thức như: cho vay vốn đào tạo
nghề để người lao động ở nông thôn có thể tìm kiếm việc làm phù hợp.
Trong thời gian qua, tỉnh Hủa Phăn đã vận dụng một cách linh hoạt,
hiệu quả các chủ trương chính sách trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
kết hợp với chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên,
số lao động trong ngành nông nghiệp giảm dần. Tỷ lệ lao động nông nghiệp
được chuyển dịch sang các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên rõ rệt.
108
3.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, những hạn chế
Cùng với những thành quả đạt được thì việc làm và giải quyết việc
làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn còn những hạn chế, bất
cập như:
Số lượng lao động ở nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn đã có việc làm còn thấp
so với nhu cầu việc làm của lao động ở nông thôn. Tình trạng thất nghiệp ở khu
vực nông thôn tuy không lớn, nhưng tình trạng dư thừa lao động lại khá cao.
Cơ cấu lao động ở nông thôn của tỉnh còn mất cân đối, thiếu lao động kỹ
thuật, lao động đã qua đào tạo. Điều đó gây nên tình trạng vừa thừa lao động phổ
thông lại vừa thiếu lao động có tay nghề và chuyên môn kỹ thuật. Số người
không có việc làm ở tỉnh Hủa Phăn hầu hết là lao động phổ thông, năm 2015 số
người thiếu việc làm 1.162 người không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, do đó
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế hiện nay của tỉnh.
Cầu lao động phổ thông, lao động trong các làng nghề trên địa bàn khá
phong phú, với số lượng lớn, song tâm lý kén chọn việc làm và thu nhập của
lao động nông thôn còn thấp. Cầu lao động kỹ thuật ở một số nhóm ngành và
cấp độ đào tạo có xu hướng chững lại và tăng chậm trong khi cung lao động
có chuyên môn kỹ thuật của nhóm ngành này vẫn tăng lớn (nhất là nhóm lao
động có trình độ đại học, cao đẳng các ngành kinh tế, luật...) nên có một bộ
phận cung lao động có trình độ cao phải chấp nhận làm những vị trí công việc
có yêu cầu trình độ thấp hơn, gây lãng phí và bất hợp lý trong sử dụng nguồn
nhân lực.
Các trường dạy nghề chưa thực sự được đầu tư đúng mức về chương
trình, mục tiêu đào tạo, cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề. Do
vậy, chất lượng đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng được thị trường sức lao động.
Công tác đào tạo, dạy nghề chưa thật sự gắn với nhu cầu sử dụng do thiếu
thông tin thị trường sức lao động, chưa dạy những nghề mà thị trường đang
cần, cho nên thừa cả những lao động ngay sau khi đã được đào tạo.
109
Các trung tâm dịch vụ và giới thiệu việc làm chưa phát triển; các hình
thức tư vấn và giới thiệu việc làm chưa được mở rộng. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ các bộ, nhân viên các trung tâm chưa đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của thị trường sức lao động. Hoạt động
xuất khẩu lao động còn quá ít so với tiềm năng của tỉnh.
Chất lượng lao động ở nông thôn của tỉnh Hủa Phăn còn nhiều bất cập.
Lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Chưa được đào tạo đủ
trình độ quy định, năng lực thích ứng với việc làm trong nền kinh tế chuyển
đổi còn yếu. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thấp, cơ cấu
bậc đào tạo mất cân đối với nhu cầu sử dụng. Trình độ dân trí của người lao
động ở nông thôn phần lớn còn thấp. Vì thế lao động phần lớn là lao động phổ
thông. Sự phân công và ngành nghề chưa cụ thể, phương thức sản xuất còn
lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của việc phát triển kinh tế nông
nghiệp. Chất lượng cung lao động nông nghiệp còn thấp: Cung lao động nông
nghiệp tuy dồi dào song tỷ trọng lao động nông nghiệp qua đào tạo còn thấp,
thị trường lao động hiện nay đang cần nhiều lao động trình độ kỹ thuật cao, cán
bộ quản lý và chuyên gia giỏi; mạng lưới cơ sở đào tạo nghề chưa đủ mạnh, cơ
sở vật chất ở các cơ sở đào tạo nghề còn nghèo nàn (trang thiết bị, cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên và nội dung đào tạo chậm đổi mới...), chưa đáp ứng yêu
cầu dạy và học nghề có chất lượng cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp sử
dụng và cho người học nghề đi tìm việc làm.
Đặc trưng của lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn hiện
nay biểu hiện ở một số đặc điểm sau: Đội ngũ lao động nông nghiệp, nông
thôn khá lớn, tăng nhanh, khả năng thu hút lao động rất hạn chế nên lao động
dư thừa lớn; Hệ số sử dụng thời gian lao động thấp; Giá trị lao động và thu
nhập thấp. Nhìn chung, giá trị lao động bình quân hàng năm của lao động
nông thôn còn rất thấp, thu nhập của những người lao động nông thôn trở nên
quá ít ỏi, phần lớn không có tích lũy; Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình
trạng tỷ lệ nghèo còn cao ở khu vực nông thôn hiện nay.
110
Hiện nay, khi sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp vẫn là ngành kinh tế
chủ đạo thì việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, đồng thời mở
rộng phát triển các ngành nghề khác ở cả thành thị và nông thôn là vấn đề chủ
yếu nhằm tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho xã hội.
Thứ hai, về nguyên nhân của những hạn chế.
Sở dĩ vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn còn tồn tại một số hạn chế là vì những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, do điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn còn nhiều hạn
chế nên trình độ dân trí, trình độ chuyên môn nghề nghiệp của người lao động
nông thôn của tỉnh còn khá thấp so với các địa phương khác. Hiện nay, phần
lớn lao động nông thôn của tỉnh chưa được đào tạo về nghề nghiệp, chủ yếu
lao động theo thói quen, theo những tập quán sản xuất cũ trước đây. Do đó,
khi tỉnh chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo cách tăng dần các ngành
công nghiệp và dịch vụ, lao động nông nghiệp của tỉnh phần lớn chưa đáp ứng
được yêu cầu của nền sản xuất mới. Theo Thống kê của tỉnh, có 62,4% lao
động nông thôn của tỉnh thường xuyên rơi vào tình trạng thất nghiệp, trong đó
lao động trong độ tuổi 19 đến 35 tuổi chiếm 42,8% [123, tr.27]. Tình trạng
thất nghiệp của người lao động nông thôn của tỉnh Hủa Phăn tất yếu dẫn đến
đói nghèo, chậm phát triển và những vấn đề xã hội khác. Trong thời gian qua,
tỉnh Hủa Phăn chưa được khai thác, phát huy mạnh mẽ các nhân tố tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Hủa Phăn có lợi thế ảnh hưởng tích cực đến
việc làm để tạo ra tăng trưởng việc làm cao và ổn định cho người lao động
nông nông thôn. Mâu thuẫn giữa dư cung lao động với cầu lao động ở tỉnh
Hủa Phăn diễn ra gay gắt, gây áp lực lớn đến giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn.
Hai là, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong nhân
dân về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong dạy nghề, học
nghề việc làm chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của công tác dạy nghề và giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn, vẫn còn tồn tại tâm lý chỉ muốn lựa
111
chọn cấp học ở trình độ cao, kén chọn việc làm không muốn làm việc khó
khăn, nặng nhọc, thu nhập thấp, không muốn làm việc ở ngành nông nghiệp.
Đội ngũ cán bộ viên chức và lao động của hệ thống giới thiệu việc làm còn
thiếu, yếu về chuyên môn nên việc tư vấn việc làm, học nghề, giới thiệu việc
làm cho người lao động nông nghiệp và kết nối cung- cầu lao động trên thị
trường lao động nông nghiệp còn hạn chế, kết quả chưa cao.
Ba là, nền nông nghiệp ở tỉnh Hủa Phăn vẫn là một nền nông nghiệp
thuần nông, nhiều nơi còn độc canh cây lúa, kinh tế dịch vụ chưa phát triển,
những ngành nghề truyền thống chưa được quan tâm khôi phục và phát triển.
Chất lượng lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn còn thấp, gây trở ngại đối với
giải quyết việc làm cho người lao động. Còn một bộ phận không nhỏ lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ sự bố trí, sắp xếp
việc làm ở khu vực kinh tế nhà nước không chủ động tích cực tự tạo và tìm việc
làm ở khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Bốn là, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ
gây áp lực rất lớn cho giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động
nông thôn mất đất sản xuất nhưng chưa đủ điều kiện để chuyển sang ngành
nghề khác. Tỉnh còn thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư
trong nước và ngoài nước, huy động mọi nguồn lực, phát triển các thị trường
(nhất là thị trường sức lao động) để tăng trưởng kinh tế và tạo mở việc làm.
3.2.5. Một số vấn đề đặt ra về thực trạng việc làm cho người lao
động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Từ thực trạng việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước
CHDCND Lào trong thời gian qua, có thể nhận thấy một số vấn đề cơ bản
như sau:
3.2.5.1. Mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu
giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn
Trước yêu cầu phát triển của tình hình mới, trong những năm qua kinh
tế tỉnh Hủa Phăn đã có bước phát triển đáng ghi nhân như tốc độ tăng trưởng
112
kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tuy nhiên, việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chậm, chưa phát triển
được vùng sản xuất hàng hóa tập trung, năng suất trong sản xuất nông nghiệp
thấp và còn chịu ảnh hưởng của thời tiết, dịch bệnh. Nguyên nhân chính là
trình độ của người lao động ở nông thôn còn thấp. Do vậy, các tiền đề để đẩy
mạnh nông nghiệp chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH gặp nhiều khó khăn.
Cụ thể, việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học - công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp còn chậm, mới chỉ dừng lại ở một số mô hình chưa
nhân ra diện rộng. Chăn nuôi gia súc, gia cầm còn nhỏ lẻ, chưa hình thành
được những khu chăn nuôi tập trung xa dân cư để phát triển chăn nuôi bền
vững. Kinh tế trang trại còn nhỏ bé, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX chưa
mạnh. Theo đó, việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH là
vấn đề hết sức khó khăn, song lại vô cùng quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế. Mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, trong khi đó nhu
cầu giải quyết việc làm cho lao động ngày một tăng cao dẫn đến lao động ở
nông thôn còn thiếu việc làm nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống kinh tế - xã hội cũng như sự phát triển của địa phương. Đây cũng là một
trong những sức ép rất lớn của tỉnh Hủa Phăn trong vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động ở nông thôn những năm tiếp theo.
3.2.5.2. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu
ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn có vai trò to lớn đối với sự
phát triển chung của khu vực này. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là
tiền đề quan trọng để phá vỡ những quan hệ kinh tế - xã hội chật hẹp trong
các bản và cụm bản phát triển tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa cụm bản
này với cụm bản khác, giữa nông thôn với thành thị. Đặc biệt, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn là điều kiện
để phát triển sản xuất hàng hóa, lưu thông trao đổi sản phẩm nông nghiệp, mở
113
rộng thị trường nông thôn, biến những vùng sản xuất nhỏ hẹp, tự cấp tự túc
thành vùng sản xuất hàng hóa, những trung tâm kinh tế, những cụm ngành
nghề, hình thành những thị trấn, thị tứ, tạo ra những điểm thu hút đầu tư cho
phát triển sản xuất, tạo mở việc làm cho người lao động ở nông thôn. Mặt
khác, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn là điều kiện để đẩy mạnh
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn
như thực hiện cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa, ứng dụng công nghệ
sinh học trong sản xuất. Ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ cao
trong sản xuất nông nghiệp nông thôn; một mặt giải phóng sức sản xuất lao
động cơ bắp cho người lao động, nâng cao năng suất hiệu quả sản xuất kinh
doanh, nâng cao khả năng chinh phuc của con người đối với tự nhiên, mặt
khác tạo điều kiện để người lao động ở nông thôn tiếp cận với văn minh nhân
loại. Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra
những sản phẩm mới, làm cho sản xuất nông nghiệp đạt năng suất cao hơn,
chất lượng tốt hơn, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh ứng
dụng khoa học - công nghệ đặc biệt là công nghệ cao vào phát triển nông
nghiệp hiện nay là yêu cầu tất yếu.
Hủa Phăn là một tỉnh kinh tế chủ yếu là thuần nông, kết cấu hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập. Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng
cơ bản ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn còn hạn chế, chủ yếu dựa
vào các nguồn vốn hỗ trợ phát triển và từ ngân sách trung ương. Nguồn vốn
của những chương trình cơ bản của tỉnh Hủa Phăn phần lớn là dựa vào ngân
sách trung ương. Nguồn vốn cho xây dựng cơ bản trong nông nghiệp nông
thôn của tỉnh còn hạn chế, dẫn đến các công trình kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh còn thiếu. Bên cạnh đó, việc thực hiện các chương
trình, dự án còn thiếu đồng bộ; công tác kiểm tra giám sát có nơi thực hiện
chưa tốt dẫn đến hiệu quả một số công trình chưa cao. Công tác quản lý, vận
hành công trình sau đầu tư còn hạn chế đặc biệt thiếu nguồn kinh phí thực
114
hiện công tác duy trì, bảo dưỡng công trình. Nhiều công trình xây dựng cơ
bản của khu vực nông nghiệp nông thôn chưa thực sự đạt chất lượng và hiệu
quả tốt, hạn chế đến việc thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa, ứng dụng khoa
học vào sản xuất nông nghiệp nông thôn.
Hơn nữa, do hạn chế về vốn và trình độ kỹ thuật, ngành nông nghiệp
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn chưa có điều kiện tiếp thu những thành tựu khoa
học tiên tiến ứng dụng vào sản xuất, phần lớn lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn là lao động thủ công, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm truyền thống, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, chính vì vậy năng suất
lao động thấp, dẫn tới thu nhập thấp, ảnh hưởng tới thu nhập của hơn 85% lực
lượng lao động toàn tỉnh, nhất là lao động ở khu vực nông thôn, gây ra tình
trạng thiếu việc làm. Thực tế đòi hỏi tỉnh Hủa Phăn phải đẩy mạnh ứng dụng
khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất lao
động, tạo nhiều việc làm và ổn định việc làm cho lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, góp phần giải phóng lao động nông nghiệp, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng
hiện đại.
3.2.5.3. Các thành phần kinh tế chưa phát huy hết tiềm năng và chưa
đóng góp tích cực trong tạo việc làm cho người lao động nông thôn
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần và đẩy mạnh CNH, HĐH, tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đa dạng để các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, các tổ chức xã hội
và toàn dân chủ động tạo thêm việc làm mới ở nông thôn. Qua đó, giải quyết
được một bước yêu cầu về việc làm và đời sống của người lao động ở nông
thôn, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do dân số tăng
nhanh cùng với quá trình đô thị hóa, nên hàng năm có thêm nhiều người đến
tuổi lao động cần việc làm Đồng thời, một số không nhỏ lao động dôi thừa do
sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy trong khu vực nhà nước, bộ đội xuất
115
ngũ, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, nông dân bị
thu hồi đất, lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về... đang có nhu cầu bố trí
việc làm, dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức bách hơn.
Hơn nữa sự phối kết hợp với trách nhiệm tiếp nhận lao động, đặc biệt là
của các doanh nghiệp trong thu hút lao động tại địa phương, nơi doanh nghiệp
sử dụng đất thu hồi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
muốn làm ăn có lãi, cần kết hợp nhiều yếu tố, trong đó chất lượng lao động có
vai trò quan trọng. Trong khi đó đa số người nông dân, nhất là người nông
dân bị thu hồi đất chưa thể đáp ứng được ngay yêu cầu đó, mà phải được
chuẩn bị chu đáo trong một thời gian nhất định. Điều này đặt ra vấn đề cần
phải quy định trách nhiệm của doanh nghiệp về đào tạo nghề cho nông dân
trước một bước. Tuy nhiên cả hai điều này tỉnh Hủa Phăn đã làm, nhưng chưa
hiệu quả. Mặc dù đã có cam kết giữa chính quyền và doanh nghiệp về tiếp
nhận lao động, hỗ trợ nghề và đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhưng
với nhiều lý do khác nhau, các cam kết này không được thực hiện một cách
triệt để và hiệu quả.
Các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh đã có đóng góp quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong đó có công tác giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, sự đóng góp của các
thành phần kinh tế trong giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
chưa đồng đều và chưa phát huy hết tiềm năng. Ví như, nếu so với thành phần
kinh tế nhà nước thì thành phần kinh tế ngoài nhà nước chiếm ưu thế hơn
trong giải quyết việc làm. Song khu vực này lại ít được đầu tư, hỗ trợ của Nhà
nước và đang gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, trình độ công nghệ hạn chế,
khả năng tiếp cận thị trường còn yếu và khó khăn trong hội nhập. Vì vậy, mà
tỉnh cần phải quan tâm có cơ chế chính sách hợp lý, tạo điều kiện để thành
phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển, hoạt động có hiệu quả tương xứng với
tiềm năng và lợi thế của tỉnh.
116
Tiểu kết chương 3
Hủa Phăn là một tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc nước CHDCND Lào,
với khoảng 90% diện tích là đồi núi, 10% diện tích đồng bằng. Do vậy, sự
phát triển KT-XH của Hủa Phăn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp với
khoảng gần 80% lao động tập trung ở nông thôn, trong đó cũng có khoảng
80% thu nhập của lao động nông thôn bắt nguồn từ các hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Điều này phản ánh tình trạng nông nghiệp chậm phát triển, chủ
yếu mang tính manh mún, lạc hậu của tỉnh Hủa Phăn.
Trong những năm qua, tỉnh Hủa Phăn cũng đã tích cực giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn thông qua các hình thức cơ bản như: đào tạo nghề
cho người lao động, thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, khôi phục các ngành nghề truyền thông và xuất khẩu lao
động... Nhờ đó, tỉ lệ lao động nông thôn có việc làm từng bước tăng lên, thu
nhập của lao động nông thôn cũng bước đầu chuyên dịch theo hướng hợp lý:
tăng dần tỉ lệ thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp, giảm dần tỉ lệ thu
nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch đó
còn chậm, nhìn chung chưa đáp ứng được những yêu cầu về giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Do kinh tế của
tỉnh Hủa Phăn còn chậm phát triển, sản xuất hàng hóa chưa được đẩy mạnh,
hầu như chưa ứng dụng nhiều công nghệ cao vào sản xuất việc làm cho sản
xuất nông nghiệp nên việc làm cho lao động nông thôn vẫn là một vấn đề cấp
bách ở tỉnh Hủa Phăn hiện nay. Do đó, để thúc đẩy vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn, từng bước tăng thu nhập, cải thiên đời sống cho
người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn trong thời gian tới, cần có những
quan điểm và giải pháp cụ thể, thiết thực.
117
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2025
4.1. MỘT SỐ DỰ BÁO VÀ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN
4.1.1. Một số dự báo về xu hướng phát triển kinh tế - xã hội và nhu
cầu việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
4.1.1.1. Dự báo phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn
Tỉnh Hủa Phăn đã tiếp tục thúc đẩy ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn, thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Phấn đấu đến năm
2025 các mục tiêu cụ thể sau:
Phấn đấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 4.297,56 tỷ kíp, tỷ lệ tăng
bình quân 10%/năm, trong đó ngành nông nghiệp tăng15%, công nghiệp tăng
11,47% và dịch vụ tăng 12,06% so với năm 2014. Như vậy tỷ trọng nông
nghiệp trong tổng GDP của tỉnh đã giảm từ 63,18% hiện nay xuống còn
56,54% vào năm 2025. Để cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa như: ngành nông nghiệp chiếm 28%, ngành công
nghiệp chiếm 32% và ngành dịch vụ chiếm 40%. Phấn đấu tổng sản phẩm
trong tỉnh bình quân đạt 12,80 triệu kíp/người/ năm hoặc bằng 1.625 USD
[130, tr.82].
Sản phẩm chăn nuôi như: trâu, bò, lợn và gia cầm… Bố trí quy hoạch
nông nghiệp tỉnh hướng tới việc tăng giá trị sản xuất nông nghiệp từ 6,9 triệu
kíp/ha/năm năm 2015 lên 8,7 triệu kíp/ha/năm năm 2025. Trong đó tỷ lệ
lương thực, thực phẩm tăng 64,13% năm 2015 lên 71,66% năm 2025. Đây là
tiềm năng lớn về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản. Tính toán
118
sơ bộ cho chúng ta thấy rằng giá trị sản phẩm nông nghiệp sau khi chế biến có
thể tăng gấp 2,1 - 2,5 lần so với giá trị sản phẩm thô. Nếu tăng cường đầu tư
cho công nghiệp chế biến thì giá trị sản phẩm nông nghiệp sẽ có thể tăng gấp
3- 3,4 lần so với hiện nay.
Đến năm 2025, toàn tỉnh phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới
10% (theo chuẩn hiện hành) tỷ lệ người lao động qua đào tạo nghề đạt 40%;
10 huyện có trung tâm dạy nghề được đầu tư xây dựng cơ bản và trang thiết bị
hoạt động 13 số bản đạt tiêu chuẩn phát triển nông thôn và xóa đói giảm
nghèo quốc gia cũng như của tỉnh Hủa Phăn.
Khách du lịch trọng nước và khách quốc tế đến năm 2025 phấn đấu đạt
515.515 lượt khác [130].
Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Ứng dụng tốt khoa học công nghệ vào sản xuất, cải thiện một bước
trình độ công nghệ trong nền kinh tế. Chủ động trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại.
Tận dụng lợi thế vị trí, tài nguyên, nguồn nhân lực, cơ cấu sản xuất
các khu vực kinh tế, đồng thời tranh thủ các tác động tích cực từ bên ngoài
nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tiếp cận mặt bằng trung của vùng
và cả nước.
Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế (giáo thông, điện, nước, bưu
chính viễn thông) và kết cấu hạ tầng xã hội (nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa)
với phát triển kinh tế, đây là một trong những động lực chính để phát triển.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng
phát triển. Tiếp tục thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, khai thác, sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn.
Phát triển văn hóa - xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế. Nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực. Không ngừng cải
thiện đời sống nhân dân về mọi mặt, tạo thêm nhiều việc làm mới, giảm dần
119
các tệ nạn xã hội. Phát triển và từng bước hoàn thiện dần kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội.
4.1.1.2. Dự báo nhu cầu việc làm cho người lao động nông thôn ở
tỉnh Hủa Phăn
Dự báo nhu cầu việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn đến năm 2025 như sau: Dự kiến giai đoạn từ nay đến năm 2025, tỉnh
Hủa Phăn sẽ xây dựng thêm nhiều khu, cụm công nghiệp mới được xây dựng
theo quy hoạch hiện đại. Kết hợp việc đẩy mạnh CNH, HĐH với phát triển
các vùng nông thôn, phát triển các vùng đồi núi của tỉnh nhằm giảm sự chênh
lệch khoảng cách giầu - nghèo giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
Như vậy, theo quy hoạch không gian thành thị từ nay đến năm 2025,
tổng diện tích đất thuộc diện thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng lên 8-9
ngàn ha, trong đó có trên 80% là đất nông nghiệp. Theo đó, đất phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, có nhiều hộ nông dân bị thu hồi
đất canh tác, ảnh hưởng đến việc làm của những đối tượng này vẫn còn tiếp
diễn ra trong nhiều năm sau đó. Sức ép phải giải quyết việc làm cho lao động
ở nông thôn sẽ gia tăng.
Trên cơ sở khảo sát sơ bộ về lao động, việc làm của các hộ nông dân bị
thu hồi đất nông nghiệp ở các vùng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp từ nay
đến năm 2025, Sở Lao động và Phúc lợi xã hội dự báo sẽ ảnh hưởng đến việc
làm 1.000 lao động nông nghiệp mỗi năm, trong đó có khoảng 600-700 lao
động nông nghiệp mất việc làm do mất đất sản xuất. Mặt khác, mỗi năm có
khoảng 1.000 - 2.000 thanh niên bước vào độ tuổi lao động, trong đó có
khoảng 74,7% là lao động nông nghiệp. Do đó mỗi năm đòi hỏi tỉnh Hủa
Phăn phải giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 - 5.000 lao động [144].
Trong khi đó mỗi năm tỉnh chỉ mới giải quyết được 3.186 người. Như vậy,
vấn đề giải quyết việc làm, thu nhập đời sống của người lao động ở nông thôn
tỉnh Hủa Phăn vẫn còn là một vấn đề trọng yếu và rất khó khăn. Nếu không có
120
những giải pháp đồng bộ mang tính khả thi để giải quyết thì nhiều vấn đề kinh
tế - xã hội phức tạp sẽ nảy sinh, đe dọa tới sự phát triển bền vững.
Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa
Phăn đến năm 2025 là: Trong giai đoạn từ nay đến 2025, tỉnh Hủa Phăn phấn
đấu giải quyết việc làm mới cho 6.000 đến 6.500 lao động tăng tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động nông thôn lên 80% vào năm 2025.
Nâng tỷ lệ lao động được đào tạo từ 20% năm 2010 lên 50% năm 2020
và 70% vào năm 2025. Tuy nhiên, để người nông dân nhận thức được tầm
quan trọng của việc học nghề, giúp họ kịp thời thích ứng với yêu cầu mới
trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của tỉnh Hủa Phăn
nói riêng. Vì công tác đào tạo nghề mới chỉ thu hút được số ít lao động trẻ ở
nông thôn tham gia và tỷ lệ này còn thấp hơn ở nhóm lao động đã có tuổi
(trên 35 tuổi).
Chăm lo cải thiện điều kiện việc làm, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao
động, phòng chống tai nạn về bệnh nghề nghiệp cho lao động. Tổ chức quản lý
chặt chẽ các hoạt động xuất khẩu và bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, các chính sách ưu đãi với lao
động ở nông thôn, tạo điều kiện để người dân ở nông thôn có thể tiếp cận dễ
dàng các nguồn lực. Nâng cao tỷ lệ lao động phi nông nghiệp lên 60% vào
năm 2025.
Thúc đẩy phát triển những lĩnh vực sản xuất của tỉnh còn nhiều tiềm
năng lợi thế như: phát triển dịch vụ, du lịch tâm linh, chú trọng phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cơ sở sản xuất kinh doanh để thu hút được ngày
càng nhiều lao động nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là coi trọng phát triển
ngành nghề truyền thống tiểu thủ công nghiệp.
Theo báo cáo kết quả điều tra dân số và cư trú cả nước lần thứ IV cho
thấy cả nước có khoảng 3,9 triệu lao động nông thôn. Nhưng trên thực tế,
người lao động nông thôn chỉ sử dụng khoảng 70% thời gian làm việc; 30%
121
thời gian còn lại (tương đương với lao động) nhàn rỗi. Theo dự báo, đến năm
2020, số lao động ở khu vực nông thôn tăng thêm 2,14 triệu người, cùng với
khoảng 760.474 người mất việc do đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích
trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cộng với số lao
động quy đổi do chưa sử dụng hết thời gian lao động, cả nước có tới 1,5 triệu
người cần việc làm [106, tr.20].
4.1.2. Một số quan điểm cơ bản giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
Giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn là
mục tiêu hàng đầu trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia lần thứ VIII đã chỉ rõ:
Phát triển lực lượng lao động cả về lượng và chất ngang tầm với
chất lượng quốc tế, đào tạo lực lượng lao động trên nhiều lĩnh vực
và nhiều trình độ phù hợp và gắn với cơ cấu kinh tế, tập trung vào
lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhằm cung cấp theo
yêu cầu phát triển đất nước và có năng lực cạnh tranh với khu vực
đặc biệt là các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), đào tạo lực lượng lao động có tinh thần tự giác dân tộc,
là công dân tốt, tôn trọng thực hiện nghiêm pháp luật, có kỷ luật kỷ
cương cao và có trách nghiệm công việc, có tinh thần hào hứng với
việc phát triển bản thân và tở thành lực lượng lao động mạnh khỏe,
có công ăn việc làm ổn định và trong môi trường tốt, có thu nhập
chính đáng phù hợp có sự đảm bảo quản lý, bảo vệ lợi ích chính
đáng đúng pháp luật và nghĩa vụ lao động [110, tr.16].
Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào,
pháp luật, chích sách của Nhà nước và các Nghị quyết của cấp ủy, chính
quyền tỉnh Hủa Phăn về lĩnh vực này, tác giả luận án cho rằng để giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn đạt hiệu quả cao, cần
phải quán triệt những quan điểm sau:
122
Một là, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng và sự nỗ lực
cao của mỗi người lao động.
Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn phải tạo được sự
nhận thức và hành động thống nhất, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của cộng đồng và sự nỗ lực cao của mỗi người lao động. Đặc biệt là trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong việc giải quyết việc làm,
trong đó đặc biệt là cấp huyện. Bởi vì huyện là cấp trực tiếp, có trách nhiệm
lãnh đạo, quản lý cấp bản và cụm bản một cách toàn diện, sâu sắc trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, phải chịu trách nhiệm trước tỉnh về
những yếu kém và thiếu sót về tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, ở các huyện còn phải cụ thể hóa
phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, kế hoạch của Trung ương và của tỉnh
thông qua việc xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát với đặc điểm, tình
hình, điều kiện thực tế của huyện và tập trung chỉ đạo các ngành và các xã
trong phát triển kinh tế - xã hội, sát với thực tế của địa phương. Song các
chính sách của tỉnh, Trung ương về giải quyết việc làm sẽ không đạt hiệu quả
cao, nếu bản thân người lao động không nỗ lực tìm kiếm việc làm để trước hết
tự cứu lấy mình và gia đình.
Hai là, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn phải đặt
trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu hàng đầu trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh đến năm 2025. Đồng thời có cơ
chế khuyến khích thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc mọi thành
phần kinh tế trên địa bàn đầu tư khai thác tiềm năng, lợi thế, tạo ra nhiều
việc làm phi nông nghiệp và đa dạng hóa phương thức giải quyết việc làm
phù hợp cho người lao động ở nông thôn. Xây dựng chương trình phát triển
các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các công ty cổ phần; công ty TNHH.
123
Có cơ chế chính sách hợp lý thu hút vốn đầu tư từ các dự án để tạo việc làm
cho người lao động. Đẩy mạnh cải cách hành chính, áp dụng có hiệu quả
luật doanh nghiệp vào cuộc sống. Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà
nước, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh khu vực kinh tế
tư nhân. Có chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, cải thiện
đời sống cho người lao động.
Ba là, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
phải trên cơ sở phát huy những tiềm năng, lợi thế của tỉnh và các địa phương.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; chủ động, tích
cực thực hiện liên doanh, liên kết kinh tế giữa các địa phương với các công ty
nước ngoài, nhất là tiềm năng, lợi thế về lao động và du lịch sinh thái, dụ lịch
tâm linh. Chú trọng thu hút đầu tư đối với các lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
trong đó đặc biệt chú ý đến lĩnh vực du lịch làng nghề. Khai thác tối đa tiềm
năng về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm, cũng như sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các chương trình, dự án có mục tiêu.
Chính quyền các địa phương cần có kế hoạch, chiến lược phát triển hướng
vào sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động, đồng thời tạo ra những điều kiện
cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp để người lao động tham gia
vào các hoạt động kinh tế.
Bốn là, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn phải đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.
Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn phải đảm bảo sự
kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn phải gắn chặt và thông qua các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, để tạo ra môi trường, nguồn lực cần
124
thiết mở rộng quy mô việc làm và các điều kiện liên quan đến ổn định việc
làm. Mục tiêu của giải quyết việc làm là để giải quyết các vấn đề xã hội có
thể nảy sinh. Do vậy, Giai quyết việc làm là gắn với việc hình thành và thực
hiện các chương trình giải quyết về Giai quyết việc làm. Nếu người dân
không tìm được việc làm mới, thu nhập giảm sút kéo theo sự suy giảm tăng
trưởng ở khu vực nông thôn. Từ đó kéo theo quá trình phân hóa giàu nghèo
diễn ra với tốc độ nhanh. Sự bất bình đẳng về thu nhập cũng diễn ra gay gắt.
Cho nên, Giai quyết việc làm cho lao động nông thôn được xem là một trong
những nội dung trong việc thực hiện công bằng xã hội ở nông thôn.
Năm là, giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho người lao động.
Chú trọng sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và giải quyết việc làm
cho người lao động; kết hợp giáo dục - đào tạo, dạy nghề tại chỗ với tăng
cường liên kết, đưa đi đào tạo bồi dưỡng, dạy nghề ở các trường trong tỉnh,
trong khu vực và trong nước. Đào tạo nguồn nhân lực đi đôi với cơ cấu lại lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Phải luôn xem công tác đào tạo
nghề là nhân tố quyết định đến quá trình chuyển đổi nghề. Trong điều kiện
hiện nay, không được đào tạo nghề thì người lao động không có việc làm ổn
định và không có một trình độ tay nghề tốt thì không thể có việc làm với thu
nhập cao. Tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
chuyển dịch đồng bộ về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, trình độ kỹ
thuật, thành phần kinh tế... vừa bảo đảm sự phát triển hiện đại, tiên tiến, vừa
khai thác triệt để thế mạnh sẵn có của mỗi địa phương. Từng bước điều
chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực
có hiệu quả kinh tế và có khả năng thu hút nhiều lao động. Giải quyết tốt
mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nhằm tạo ra
cơ cấu lao động ngày càng phù hợp với cơ cấu kinh tế, đồng thời tạo ra được
nhiều việc làm mới để thu hút lao động, hạn chế thất nghiệp.
125
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở TỈNH HỦA PHĂN NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn
trong những năm tới là một nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách. Nhưng cũng rất
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và bước đi thích hợp trên địa
bàn tỉnh. Trong quá trình giải quyết việc làm, phải tạo được sự kết hợp giữa
phát huy được tính chủ động tích cực, sáng tạo của mỗi người dân, từng gia
đình, từng doanh nghiệp với tác động hỗ trợ của cộng đồng và sự điều tiết, trợ
giúp của Nhà nước các cấp, mới đạt được mục tiêu. Có nhiều cách tiếp cận,
phân tích luận giải về các giải pháp tạo lập và giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án
này, dựa trên cơ sở những căn cứ lý luận, phân tích đánh giá thực trạng và
những quan điểm, định hướng đã trình bày ở trên, tác giả luận án đề xuất các
giải pháp như sau:
4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực quản
lý của Nhà nước về giải quyết việc làm
Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quyết định
tới việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn. Thực tế trong
nhiều năm qua cho thấy tỉnh đã quan tâm, có chủ trương, chính sách đúng
thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo thực hiện tốt các chỉ thị, chính sách của Đảng
và Chính phủ thì vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn có hiệu quả.
Ngược lại, nơi nào không quan tâm, thiếu những giải pháp tổ chức thực
hiện thì bộc lộ nhiều sai lầm, thiếu sót. Để khắc phục những hạn chế trong
công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý của Nhà nước về giải quyết
việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn cần thực hiện tốt
một số giải pháp sau:
126
Đối với các cấp ủy Đảng:
Thứ nhất, cần phải xây dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, đặc biệt là chiến lược về giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn là việc làm một cách đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn của
địa phương. Vấn đề này phải được thực hiện rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng
bộ các cấp, xin ý kiến đóng góp của nhân dân trong tỉnh, chương trình nghị sự
của Đại hội phải trở thành nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp của tỉnh
trong nhiệm kỳ tới.
Thứ hai, phải biến Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp, đặc biệt là
Nghị quyết về giải quyết việc làm trở thành hiện thực của cuộc sống bằng
cách: Tuyên truyền sâu rộng, làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các
cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và trong toàn thể nhân dân về chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm ở địa phương.
Thứ ba, đưa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của đảng bộ, chi bộ; là một
trong những nội dung quan trọng để xem xét, đánh giá việc hoàn thành nhiệm
vụ của chi bộ, đảng bộ trong mỗi kỳ sinh hoạt đảng; là tiêu chí trọng yếu (cơ
bản) để phân loại đảng viên hoàn thành nhiệm vụ và xếp loại chi bộ; Đảng bộ
(trong sạch vững mạnh và các danh hiệu khác...) sau mỗi năm sinh hoạt.
Đối với chính quyền:
Thứ nhất, Ủy ban nhân dân tỉnh Hủa Phăn phải nhanh chóng xây dựng
được “chiến lược” giải quyết việc làm từ nay đến năm 2025, chấm dứt cung
cách xây dựng chính sách việc làm ngắn hạn kiểu “ăn đong, chấp vá” như thời
gian vừa qua.
Thứ hai, chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ chức giải quyết việc làm ở
các cấp: huyện, bản. Bố trí cán bộ chuyên trách có năng lực và phẩm chất tốt
ở những “mắt khâu” then chốt, xóa bỏ các tổ chức trung gian, hình thành hệ
thống tổ chức chỉ đạo chương trình tạo việc làm theo hình thức trực tuyến:
127
“từ Trung ương, tỉnh xuống huyện, xuống bản” và “tỉnh xuống cơ sở” (cơ
quan, trường - lớp dạy nghề và các tổ chức xã hội... có liên quan đến vấn đề
giải quyết việc làm).
Thứ ba, chấn chỉnh nhiệm vụ, nội dung chương trình, cơ cấu ngành
nghề đào tạo của các trường dạy nghề, các trung tâm và cơ sở dạy nghề trên
địa bàn, nhằm đảm bảo nguồn nhân lực sau khi được đào tạo đáp ứng được
nhu cầu của thị trường sức lao động cả về chất lượng và cơ cấu nghề nghiệp.
Thứ tư, có chính sách ưu tiên thu hút những ngành nghề có khả năng
giải quyết việc làm cho số đông lao động phổ thông. Đồng thời chú trọng phát
triển song song ngành nghề ở cả hai lĩnh vực: truyền thống (doanh nghiệp vừa
và nhỏ) lẫn hiện đại (doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến) cả ở nông thôn và
thành thị để thu hút lao động trẻ ở nông thôn.
Thứ năm, tăng cường quản lý nhà nước bằng chính sách, pháp luật đối
với mọi hoạt động liên quan đến các vấn đề tạo việc làm. Đảm bảo mọi hoạt
động như: tư vấn, hỗ trợ, đào tạo, sản xuất kinh doanh tạo việc làm... được tự
do, thông thoáng trong khuôn khổ pháp luật quy định. Xử lý nghiêm minh
theo luật định đối với bất kỳ tổ chức và cá nhân nào có hành vi vi phạm đến
chính sách lao động và việc làm.
4.2.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn
Hệ thống chích sách việc làm cho người lao động ở nông thôn là một
bộ phận hữu cơ của chích sách KT-XH. Nó không thể được thực hiện một
cách tách rời khỏi chích sách cơ cấu và đầu tư, chính sách thu nhập, chính
sách cán bộ và các chính sách trong lĩnh vực quan hệ lao động. Đồng thời
chính sách việc làm phải có những ảnh hưởng tích cực đến con đường phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và xây dựng kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đảm bảo vững chắc mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Lâu nay sự điều tiết của
128
Nhà nước về việc làm cho người lao động ở nông thôn trên thực tế chưa được
như mong muốn. Một số chương trình hỗ trợ người lao động ở nông thôn phát
triển việc làm mới chỉ tác dụng đến việc kích thích các tiềm năng tạo việc làm
chưa có cơ hội vươn lên, chứ chưa phải là sự điều tiết việc làm cho người lao
động. Cần xem chính sách việc làm cho người lao động là một chính sách xã
hội quan trọng nhất, phải được tập trung vào việc tiến hành những biện
pháp có thể tạo ra những điều kiện để sử dụng đầy đủ nhất tiềm năng hoạt
động lao động và hoạt động sản xuất kinh doanh của dân cư. Chống lại sự
giảm sút về mức sống của một bộ phận dân cư thiếu may mắn, khuyến
khích hoạt động sản xuất cá nhân trong môi trường cạnh tranh trên thị
trường. Những yêu cầu cấp thiết nhất của chính sách việc làm là: thúc đẩy
phát triển doanh nghiệp nhỏ tạo môi trường cạnh tranh công bằng giữa các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế..., chống độc quyền, để mở rộng sản
xuất kinh doanh, thu hút nhiều lao động nông nghiệp nông thôn đến làm
việc. Nâng cao sự thành thạo trình độ nghề nghiệp, tạo ra động lực cạnh
tranh giữa người lao động với nhau. Những yêu cầu này được đan xen cùng
các chính sách phát triển khác sẽ tạo ra những động thái mới cho nền kinh
tế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn. Hoàn thiện hệ thống chính sách việc làm cho lao động ở
nông thôn là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện thị trường sức lao động ở
khu vực cũng như cả nước trong quá trình hình thành. Nó cho phép sự can
thiệp có định hướng của Nhà nước vào các vấn đề việc làm, thu nhập và cơ
cấu lại lao động xã hội một cách tối ưu, giúp cho nền kinh tế phát triển cân
đối, ổn định.
Các hệ thống chính sách tạo việc làm cho lao động thời gian qua tuy đã
giúp cho một bộ phận lớn cho người lao động khu vực nông nghiệp và lao
động ở nông thôn có việc làm ổn định. Song tính ổn định và hiệu quả chưa đạt
được như mong muốn. Người lao động, vẫn còn thiếu việc làm, có việc làm
129
không đầy đủ, thời gian sử dụng lao động thấp, đời sống chưa được cải thiện.
Điều này đang đặt ra cho nhà nước cần phải có sự điều chỉnh và hoàn thiện
cho phù hợp, nhằm giúp cho người lao động ở nông thôn có thêm nhiều cơ
hội để tiếp cận với việc làm và có việc làm.
Lao động và việc làm thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì
vậy, muốn cho các hoạt động giải quyết việc làm đạt hiệu quả cần phải phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tham gia tích cực của
các tổ chức trong hệ thống chính trị. Điều này có ý nghĩa quyết định với việc
tạo mở việc làm mới cho người lao động. Thực tế trong những năm qua tỉnh
Hủa Phăn, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã thường xuyên quan tâm
đến công tác giải quyết việc làm và các hoạt động xóa đói giảm nghèo. Tuy
vậy, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng quản lý của các cấp chính quyền và
sự quan tâm của các đoàn thể đối với giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Để khắc phục thực trạng đó ở tỉnh
Hủa Phăn, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tỉnh cần có những chính sách tích cực, hợp lý để thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển nhằm tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho lao động
nông thôn của tỉnh. Đó là những chính sách tận dụng thế mạnh của vùng như
phát triển kinh tế nông nghiệp, dịch vụ, du lịch để giải quyết nguồn lao động
tại chỗ. Tỉnh cũng cần có những chính sách thu hút các nhà đầu tư trong nước
và nước ngoài để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhằm tạo nên
những bước đột phá trong vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ hai, tỉnh cần kết hợp hài hòa giữa việc thu hồi đất nông nghiệp của
nông dân với việc chuyển đổi mô hình sản xuất, phát triển sản xuất hàng hóa,
dựa vào thế mạnh của từng vùng để phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy
mô lớn. Kết hợp hài hòa giữa việc hiện đại hóa sản xuất với phát triển theo
hướng bền vững nhằm tạo cơ hội để lao động nông thôn của tỉnh vừa phát
triển được các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp cận được nền sản xuất hiện
130
đại. Đó là cách giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn tại chỗ của
tỉnh Hủa Phăn trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, tỉnh cần tích cực triển khai các chính sách giải quyết việc làm
và hỗ trợ việc làm cho lao động nông nghiệp. Chính sách đào taọ nghề cho lao
động nông nghiệp cần được triển khai một cách rộng rãi, có hiệu quả bằng
cách đào tạo những nghề phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh. Hỗ
trợ học phí cho lao động hộ nghèo, kết hợp với các nhà sản xuất, các doanh
nghiệp để giải quyết việc làm cho người lao động sau khi học nghề. Hỗ trợ
nông dân xây dựng những mô hình sản xuất thí điểm dựa theo lợi thế của
từng vùng; có chính sách phù hợp để nông dân tiếp cận với các dịch vụ về
vốn, khoa học - kỹ thuật, thị trường… Đó là những cách thức cần thiết để
lao động nông thôn từng bước thay đổi tập quán, cách thức sản xuất cũ,
trang bị cho mình những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để ngày càng có
nhiều việc làm mới.
Thứ tư, các cấp ủy đảng và chính quyền cần biến chủ trương của đại
hội thành hành động bằng cách cụ thể hóa những chủ trương đó thành chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của địa phương. Đặc biệt là
các chương trình phát triển, tiểu thủ công nghiệp, chương trình phát triển
nông thôn và xóa đói giảm nghèo... để giải quyết việc làm cho người lao động
nông thôn một cách bền vững, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Biến
nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và nghị quyết về giải quyết việc làm trở
thành hiện thực.
Thứ năm, làm tốt công tác tuyên truyền về chương trình phát triển kinh
tế xã hội và công tác giải quyết việc làm nhằm tạo được chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và trong
toàn thể nhân dân về chủ trương đường lối phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc
làm, khuyến khích, động viên các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mỗi
gia đình và mỗi người lao động tự tạo việc làm cho mình và cho xã hội.
131
Thứ sáu, các cấp ủy đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cụ thể hóa
đường lối chủ trương của Đảng thành những chính sách, giải pháp cụ thể để
giải quyết việc làm cho người lao động, gắn giải quyết việc làm với đẩy mạnh
phát triển sản xuất kinh doanh, trên cơ sở khai thác tiềm năng, thế mạnh của
địa phương. Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức chính trị, xã
hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên...) và các tổ chức xã hội khác
chủ động tích cực vận động hội viên, đoàn viên của tổ chức mình đoàn kết
giúp đỡ nhau phát triển sản xuất, tạo việc làm.
Thứ bảy, đưa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của đảng bộ, chi bộ, là nội dung quan trọng
để xem xét, đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của các cấp ủy đảng.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo dựng một quy mô
việc làm ngày càng lớn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho người lao động có
thể tự tạo và tìm kiếm việc làm. Đặc biệt đối với người lao động ở nông thôn
đã có nhiều chính sách hỗ trợ người nông dân về vốn, kỹ thuật, phương pháp
và cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh để họ có thể mạnh dạn bỏ vốn
đầu tư vào sản xuất. Các quỹ hỗ trợ người nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ
người dân ở nông thôn vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh và các chương trình khuyến nông, khuyến ngư... đã giúp cho hàng
nghìn người lao động ở nông thôn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có
việc làm ổn định. Riêng ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào việc thực hiện các chính sách đã mang lại niềm vui về sự ổn
định việc làm cho nhiều người lao động. Song nếu nhìn một cách tổng thể thì
giải quyết việc làm hiện còn gặp nhiều trở ngại, chưa phát huy hiệu quả tính
ưu việt của các chính sách. Do vậy, trong thời gian tới cần chú trọng giải
quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào
mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
132
hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu
vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề
cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn,
kể cả đi lao động ở nước ngoài.
4.2.3. Phát triển thị trường sức lao động cho lao động nông thôn
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến toàn bộ quan hệ về lao động
diễn ra trong nền kinh tế. Thị trường sức lao động được hình thành từ cung,
cầu lao động và giá cả sức lao động hay mức tiền công. Các quan hệ giữa mua
và bán diễn ra trên thị trường sức lao động, chỉ có dựa trên quan hệ đó mới
hình thành nên thị trường sức lao động.
Cũng như trên địa bàn cả nước, ở tỉnh Hủa Phăn, thị trường sức lao
động đang trong quá trình hình thành và phát triển cùng với quá trình hình
thành chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa và xây dựng kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Trước yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc phát triển thị trường sức lao động là
nhiệm vụ quan trọng, tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc sử dụng hiệu quả
và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Đây cũng là một thách thức lớn, có
ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
mở rộng giao lưu, hội nhập kinh tế trong nước, khu vực quốc tế. Phát triển thị
trường sức lao động phải là một trong những mục tiêu hàng đầu cần tổ chức
thực hiện một cách khẩn trương và có hiệu quả.
Để phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Hủa Phăn trước hết cần
quan tâm đến giảm cung lao động đi đôi với việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực lao động. Chất lượng nguồn nhân lực lao động là nội dung rất rộng,
bao gồm trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, những
thay đổi về kỹ thuật - công nghệ, kỷ luật làm việc, tình trạng sức khỏe... Các
biện pháp cần áp dụng để giảm cung lao động mang tính dài hạn, phải thực
133
hiện lâu dài và đồng bộ. Cùng với những biện pháp giảm cung lao động, vấn
đề tăng cầu lao động là mục tiêu rất quan trọng trọng phát triển thị trường sức
lao động nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn.
Những biện pháp thực hiện đối với giảm cung và tăng cầu về lao động
luôn gắn liền với các chính sách kinh tế - xã hội, nên phải thực hiện đồng bộ
với các chính sách xã hội. Từ những nhận thức trên về thị trường sức lao
động, để đẩy mạnh phát triển thị trường sức lao động, đáp ứng được yêu cầu
chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa hiện đại và xây dựng kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN trong quá trình hội nhập quốc tế cần
thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, cần coi trọng công tác quản lý nhà nước về lao động, bao
gồm hoạt động quản lý trong lĩnh vực chính sách về lao động: Xây dựng
chính sách, quy hoạch, kế hoạch về phát triển nguồn nhân lực lao động,
phân bố và sử dụng lao động trong tỉnh, đào tạo nghề, di dân, đưa người đi
làm việc ở nước ngoài.
Thứ hai, xây dựng hệ thống thông tin, thống kê thị trường tại các cơ
sở thuộc Trung tâm dịch vụ việc làm: Thông tin về thị trường việc làm,
những lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn có khả năng thu hút được lao động
mới; thông tin về chất lượng nguồn lực lao động phù hợp với yêu cầu của
thị trường lao động như về tay nghề, khả năng ngành nghề...; Thông tin về
dịch vụ việc làm qua thực hiện thủ tục ký kết hợp đồng lao động; Thông tin
về giá cả và điều kiện lao động; Thông tin về các cơ sở dạy nghề và giới
thiệu việc làm... Phối hợp chặt chẽ với hệ thống trung tâm dạy nghề và dịch
vụ trong nước về việc làm trong việc thu nhập và cung cấp thông tin giúp cho
người lao động về định hướng nghề nghiệp, về thủ tục, về cách thức tự tìm
việc, chọn nghề thích hợp với điều kiện của người lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức thông tin về lao động và việc làm.
Ngoài các hình thức phổ biến hiện nay đang áp dụng là thông tin trên các
134
phương tiện thông tin đại chúng (Báo, đài phát thanh, đài truyền hình) thông
báo tại địa phương, các trung tâm dịch vụ việc làm về “người tìm việc” và
“việc tìm người”, cần mở nhiều hội chợ việc làm tại các địa phương, các khu
công nghiệp, các trường đào tạo; giao lưu giữa các cơ sở đào tạo và nơi có
nhu cầu lao động, tạo cầu nối cung - cầu về lao động - việc làm.
Thứ tư, định kỳ điều tra lao động, việc làm, thất nghiệp, phân tích và
công bố rộng rãi những mánh khóe lừa gạt người lao động của các cá nhân, tổ
chức đối với người lao động khi xin việc làm nói chung, nhất là xin đi xuất
khẩu lao động. Xây dựng chương trình hậu xuất khẩu như nhận vào làm việc
ở các doanh nghiệp tại địa phương, hay tạo điều kiện cho người lao động trở
về đầu tư sản xuất, kinh doanh. Bởi vì, việc xuất khẩu lao động chỉ có thời
hạn, chính vì thế để tận dụng nguồn vốn, tay nghề của người lao động từ nước
ngoài trở về, đồng thời cũng ổn định thị trường lao động ở địa phương.
4.2.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa và dịch vụ nông nghiệp
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các
ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng cũng như lực lượng lao động
trong các ngành lâm, nông, ngư nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Hủa Phăn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa gắn
với phát triển nông nghiệp chế biến như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Hủa Phăn lần thứ IX, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (2016-2020),
Đã xác định rõ:
Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất
hàng hóa, hình thành các vùng nguyên liệu gắn cơ sở chế biến với
thị trường tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo an ninh lương thực. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu vật
nuôi, cây trồng... [141, tr.100].
135
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hủa Phăn đến năm
2025, tỉnh cần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
theo định hướng tập trung các nguồn lực với chính sách phù hợp, phát huy
được nội lực trong dân để đầu tư xây dựng kinh tế - xã hội một cách toàn
diện, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thúc
đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển có hiệu quả, bền vững; gắn tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, đảm bảo
các Bản trong tỉnh sớm thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.
Tập trung vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, nông
thôn, ưu tiên vốn cho các công trình thủy lợi, nước sạch, vệ sinh môi trường
phòng chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai. Hình thành các vùng sản xuất tập
trung, chú trọng đầu tư phát triển chăn nuôi theo mô hình công nghiệp tập
trung, bảo đảm vệ sinh cho người và gia súc. Chú trọng sản xuất cây đặc sản,
cây có giá trị cao, hình thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp sạch, đẩy
mạnh hợp tác, liên kết chuỗi vùng sản xuất rau an toàn. Với việc chuyển dịch
này sẽ giúp cho người lao động ở nông thôn có thêm việc làm.
Quan tâm phát triển lực lượng sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực, đấu
tranh xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu, khai thác tiềm năng về tài nguyên đất
đai, lao động, nguồn vốn trong dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
huy lợi thế của từng vùng kinh tế gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy
mô với chất lượng và hiệu quả cao.
Đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc
biệt là ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp. Thực hiện sản
xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Ứng dụng mô
hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được xem là bước ngoặt quan trọng
để hàng nông sản của tỉnh tiếp cận nhanh với thị trường trong xu thế mở cửa
hội nhập với khu vực và thế giới. Khu nông nghiệp công nghệ cao đóng vai
trò như một khu công nghiệp, được tổ chức quản lý hiện đại, bảo đảm môi
trường và sản xuất ra loại sản phẩm sạch, an toàn.
136
Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào bảo
quản và chế biến sau thu hoạch. Trong khâu bảo quản, chế biến nông sản là
hai khâu quan trọng nhất có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao giá trị nông
sản, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản. Giảm tổn thất sau thu
hoạch cả về số lượng và chất lượng. Góp phần bảo quản, nâng cao giá trị dinh
dưỡng của nông sản, chăm sóc sức khỏe cho mọi người, góp phần ổn định
phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân.
Xây dựng cụm bản nhỏ trở thành bản có quy mô lớn ở nông thôn, từng
bước phát triển toàn diện gắn với giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, ổn
định xã hội, phát triển kinh tế. Tập trung đầu tư hỗ trợ cụ thể bằng cơ chế,
chính sách, tiếp tục đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, xây
dựng bản mới từng bước phát triển toàn diện bền vững theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nông thôn, nâng cao dần dần đời sống vật
chất và văn hóa của các dân tộc.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở khai
thác lợi thế của từng khu vực trong tỉnh. Việc làm cho người lao động ở
nông thôn chỉ có thể giải quyết một cách căn bản, nếu gắn với quá trình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất các ngành nông nghiệp phải dựa trên điều kiện
tự nhiên, xã hội, lợi thế của từng vùng, từng khu vực nông thôn. Qua đó
xác định cơ cấu cây trồng vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho
người sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp phải gắn chặt với
quy hoạch của tỉnh. Trên cơ sở đó hình thành các vùng sản xuất tập trung
chuyên canh nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng nhu cầu
nguyên liệu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Để góp phần quan trọng vào xu thế hội nhập quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoàn thành mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Hủa Phăn thời gian tới, cần phát huy mặt tích cực,
137
hạn chế tác động tiêu cực do quá trình đô thị hóa gây ra đối với việc làm của
nông dân. Tỉnh cần tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng, thu hút các dự án và lấp đầy các dự án đã đầu tư để thu hút
LLLĐ vào làm việc. Ưu tiên việc đấu thầu kinh doanh dịch vụ tại các đô thị,
khu công nghiệp xây dựng trên diện tích đất nông nghiệp cho người dân có
đất bị thu hồi tham gia kinh doanh. Có cơ chế, chính sách về đầu tư, xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn tại các khu vực thu hồi đất, để tạo điều kiện
kinh doanh dịch vụ phục vụ khu đô thị, giải quyết việc làm tại chỗ cho người
nông dân.
4.2.5. Đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh
Để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, trong thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục thực hiện đường lối phát triển
kinh tế hàng hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như:
phát triển và đa dạng hóa các hình thức kinh doanh để tạo nhiều việc làm, thu
hút được nhiều lao động là hướng đi quan trọng để tăng cầu về lao động, phát
triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm cho người lao động. Muốn
vậy cần quan tâm tới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng đa dạng hóa việc
làm và từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động ở quy mô hộ gia đình là khả
năng lớn nhất thu hút lao động nông thôn hiện nay. Hộ nông dân vẫn là hộ
kinh tế tự chủ, đồng thời thực hiện chính sách tích tụ ruộng đất, vận động
nông dân liên kết sản xuất để tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung và là
cơ sở để phát triển kinh tế hợp tác xã, nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã
kiểu mới trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng
hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN kinh tế hộ
phát triển hết sức linh hoạt thích ứng nhanh góp phần phát triển sản xuất,
tạo mở nhiều việc làm phù hợp với nhiều lứa tuổi, mọi trình độ của người
lao động.
138
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình. Để phát triển kinh tế
hộ gia đình cần thực hiện: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền dưới nhiều hình
thức để các hộ gia đình lựa chọn ngành sản xuất và chuyển đổi ngành nghề
cho phù hợp. Phải có chính sách khuyến khích các hộ gia đình vay vốn và
phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tổ chức sản xuất kinh doanh. Tổ
chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ
sinh học cho các hộ gia đình để sản xuất các mặt hàng nông lâm nghiệp gắn
với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.
Thứ ba, phát triển kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là một hình thức
tổ chức sản xuất cao hơn kinh tế hộ nông dân và cũng là tất yếu phát triển của
quá trình chuyển nền sản xuất tự cấp, tự túc manh mún phân tán, quy mô nhỏ,
lạc hậu, lên nền sản xuất hàng hóa tập trung lớn, kỹ thuật hiện đại, phù hợp
với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước Lào.
Để kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, thực sự đóng vai trò quan trọng
trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, cần phải thực
hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ tư, phân vùng quy hoạch gắn với chính sách sử dụng và quản lý
đất đai, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển sản xuất kinh doanh có
hiệu quả, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Cần tăng cường đầu tư vốn,
khoa học kỹ thuật, mở rộng và phát triển sản xuất thâm canh, có chính sách
cho vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển kinh tế trang trại. Tạo điều kiện hỗ
trợ về giá, giống, vật tư, kỹ thuật, thuốc thú y, tập huấn chuyển giao khoa
học - kỹ thuật, thông tin thị trường thông qua các chương trình khuyến nông
- khuyến ngư. Hỗ trợ các chủ trang trại tìm kiếm thị trường, mở rộng và ổn
định thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Hình thành quỹ trợ giá hỗ trợ
người sản xuất lúc khó khăn, tổ chức cung cấp thông tin giá cả, dự báo biến
động giá cả vật tư, nông sản phẩm trên thị trường thường xuyên cho chủ
trang trại để điều hành sản xuất có hiệu quả. Xây dựng kết cấu hạ tầng phục
139
vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là hệ thống đường giao thông,
điện thủy lợi...
Thứ năm, xây dựng kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã.
Kinh tế tập thể có vai trò và ý nghĩa to lớn trong xã hội, có khả năng tổ
chức nhiều công ăn, việc làm cho lao động tại địa phương nói chung và lao
động nông thôn nói riêng. Tuy nhiên để biến nó thành những mô hình hoạt
động có hiệu quả khẳng định vai trò thực sự to lớn của nền kinh tế tập thể
trong vấn đề giải quyết việc làm mang tính khả thi cao, cần phải có một số
giải pháp phù hợp với tình hình thực tế ở nông thôn, đó là:
Thứ sáu, mở rộng thị trường sức lao động. Các cấp ủy chính quyền ở
các huyện, Ban chỉ đạo và quản trị các hợp tác xã cần phải chủ động đề ra các
phương án đào tạo nghề và tổ chức sản xuất cho phù hợp với tình hình và khả
năng thực tế ở nông thôn. Chủ động tìm kiếm các đối tác liên doanh, liên kết
phát triển thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Đối với hợp tác xã kinh doanh, hợp
tác xã vận tải, hợp tác xã xây dựng, hợp tác xã thương mại... nhiều cơ sở có
khả năng đầu tư sản xuất, thu hút thêm lao động, các cơ sở này tổ chức đào
tạo nghề theo phương pháp truyền nghề vừa tiết kiệm được chi phí, vừa tạo
việc làm và thu nhập cho lao động trong thời gian ngắn. Đào tạo nâng cao
trình độ quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của
các hợp tác xã. Tạo điều kiện cho hợp tác xã vay vốn từ các nguồn vốn đầu
phát triển dự án theo quy định của nhà nước, được vay vốn từ các tổ chức tín
dụng để đầu tư, nâng cấp mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh. Tiến hành tổ
chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm và mở rộng hợp tác xã điều hành
đồng thời có kế hoạch tổ chức, sắp xếp lại một số hợp tác xã theo hướng hiện
đại và chuyên nghiệp.
Thứ bảy, ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân được xác
định là một bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế đất nước. Tại Hội nghị
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc
140
lần X đã đề ra chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân với nhiều nội
dung mới, có tác dụng mở đường, khuyến khích thành phần kinh tế này phát
triển. Trong những năm qua thành phần kinh tế tư nhân ở tỉnh Hủa Phăn, đặc
biệt là các doanh nghiệp tư nhân đang đóng góp đáng kể cho công tác giải
quyết việc làm.
Khi Luật Doanh nghiệp được thi hành, cùng với sự ưu tiên thông
thoáng về cơ chế chính sách của tỉnh đã thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
nhanh cả về số lượng và quy mô kinh doanh. Kinh tế tư nhân đã đóng góp
đáng kể vào nguồn thu ngân sách. Khai thác được tiềm năng, thế mạnh của
địa phương về vốn, lao động, tay nghề, nhất là: huyện Xăm Nưa, Viêng Xay,
Xăm Tảy, có nhiều làng nghề truyền thống hộ gia đình dệt vải, dệt váy, thúc
đẩy sản xuất phát triển, giải quyết việc làm cho hàng trăm người lao động, cải
thiện đời sống nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Để khai thác tốt hơn tiềm năng kinh tế tư nhân tạo nhiều việc làm cho
người lao động ở nông thôn cần tập trung vào các nội dung sau:
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, làm thay đổi cách nhìn,
quan niệm của toàn xã hội về kinh tế tư nhân, tôn vinh các doanh nghiệp kinh
doanh giỏi, đúng pháp luật, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi giúp kinh tế tư
nhân phát triển.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, uốn nắn, xử lý các sai
phạm để các doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Tiến hành cải cách nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, minh
bạch, có tính cạnh tranh cao, phát huy mạnh mẽ tiềm lực kinh tế trong dân, thu
hút doanh nghiệp từ ngoài tỉnh và nước ngoài, tăng nhanh hơn nữa số lượng quy
mô doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp, huy động
nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng hỗ trợ doanh nghiệp một cách thiết thực.
141
Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý Nhà nước, hoàn thiện cơ chế,
chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp. Tiếp tục cải cách thủ tục hành
chính áp dụng mô hình một cửa liên thông của tỉnh, các xã phường và các cơ
quan liên quan, xóa bỏ phiền hà, minh bạch hóa các quyết định về chính sách,
trợ giúp thông tin đối với doanh nghiệp, công khai quy hoạch phát triển, xây
dựng tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp tiếp cận thông tin từ các cơ
quan của tỉnh.
Cần huy động mọi nguồn lực đặc biệt về vốn, đào tạo chuyên môn kỹ
thuật và nâng cao trình độ văn hóa cho các đối tượng lao động làm việc trong
khu vực. Hỗ trợ đào tạo về khởi nghiệp doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp,
pháp luật kinh doanh, văn hóa kinh doanh, xuất nhập khẩu. Tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp có mặt bằng sạch sẽ để nhanh chóng đi vào
sản xuất kinh doanh, khắc phục tình trạng trì trệ trong giải phóng mặt bằng,
gây lãng phí và giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các quỹ
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường khả năng tiếp cận với các nguồn tín
dụng cho các doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với
các nguồn vốn tại các ngân hàng thương mại, tín dụng ưu đãi, tổ chức tín
dụng quốc tế…
Bồi dưỡng kiến thức, năng lực tổ chức quản lý và phát triển doanh
nghiệp cho chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và những người có nguyện vọng
thành lập doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu đào tạo cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, bảo vệ môi trường và đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và đầu tư, phổ biến thông tin kỹ
thuật, công nghiệp tới các doanh nghiệp và nâng cao năng lực của các doanh
nghiệp trong việc xác định, lựa chọn và thích ứng với công nghệ.
142
Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia liên kết ngành ở mọi cấp và
hỗ trợ phát triển hiệp hội doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp
trong hội nhập và cạnh tranh.
Thực hiện trợ giúp có trọng điểm về tăng cường khả năng cạnh tranh
của một số ngành mà tỉnh có lợi thế so với các địa phương khác. Đặc biệt ưu
tiên khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển công nghiệp,
thủ công nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy hải sản, hàng xuất khẩu, các ngành
nghề truyền thống, thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm cho người lao
động ở nông thôn trong quá trình đô thị hóa.
4.2.6. Đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động nông thôn
Trước hết cần đẩy mạnh giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn bằng nhiều hình thức, và biện pháp thông qua các chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội. Cũng như các chương trình quốc gia xúc
tiến việc làm, và các trung tâm đào tạo nghề, giới thiệu việc làm. Mỗi trung
tâm phấn đấu trở thành một mắt xích quan trọng trong thị trường sức lao
động (thu nhập, phân tích, xử lý thông tin lao động chính xác, kịp thời). Gắn
các trung tâm đó với các doanh nghiệp dưới dạng ký kết hợp đồng về số
lượng và chất lượng lao động. Khuyến khích mọi người đầu tư mở mang
ngành nghề, tạo thêm việc làm cho người lao động. Giải quyết việc làm tại
chỗ, theo các ngành nghề, theo các thành phần kinh tế phù hợp với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời chú ý đến đặc điểm, hoàn cảnh của
từng khu vực địa lý, các địa bàn sản xuất khác nhau.
Thứ nhất, đổi mới căn bản, toàn diện lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói
chung, đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn nói riêng. Để nâng cao
chất lượng nguồn lực lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn trước hết, phải đổi
mới căn bản lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề từ nội dung đến phương
pháp và cách thức tổ chức thực hiện nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, mặt bằng
dân trí, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người tiếp cận giáo dục, đào tạo để
143
không ngừng phát triển năng lực cá nhân và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Do vậy phải ưu tiên và đầu tư thích đáng cho công tác giáo dục, đào tạo,
dậy nghề. Đó là con đường cơ bản để nâng cao trình độ dân trí cho nguồn
nhân lực nói chung, nguồn lao động nông thôn nói riêng. Những hoạt động ưu
tiên nhằm thực hiện mục tiêu trên là:
Tiếp tục thực hiện đồng bộ các chương trình, chính sách của Đảng và
nhà nước trong đào tạo nghề trong đó có nội dung, phương thức, phương pháp
giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; bổ sung ngân
sách để hỗ trợ xây dựng trường đào tạo nghề và mua sắm thiết bị, dụng cụ
phục vụ dạng dạy; thực hiện tốt chương trình đưa tin học vào nhà trường đào
tạo nghề.
Đa dạng hóa loại hình đào tạo, chú trọng đào tạo nghề và đào tạo lại,
bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động hiện có để đáp ứng yêu cầu
trình độ công nghệ mới.
Tăng cường xây dựng và hoàn thiện đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý
giáo dục tại các cơ sở dạy nghề để đáp ứng nhu cầu học nghề của người dân.
Đồng thời không ngừng nâng cao trình độ tay nghề giảng dạy của đội ngũ giáo
viên, cập nhật kiến thức và công nghệ mới cho đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực nông thôn, nhằm trang bị cho
nông dân có các kiến thức cơ bản và kỹ năng về những ngành, nghề ở nông
thôn, đẩy mạnh mở các lớp khuyến nông, khuyến công, khuyến thương nhằm
tạo điều kiện cho nông dân đa dạng hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo
thêm nhiều việc làm để tăng thu nhập.
Củng cố và nâng cao hiệu quả đào tạo tại các trường cao đẳng, trung
cấp và dạy nghề trên địa bàn tỉnh, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị
cho các trung tâm dậy nghề trọng điểm cấp huyện, thành thị.
Hỗ trợ phát triển hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nông thôn phục vụ
cho xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm và tăng thu ngoài tệ cho đất nước.
144
Tuyên truyền phổ cập kiến thức về phát triển bền vững nhằm nâng cao
dân trí và tuyên truyền nhận thức cho mọi người dân. Trên cơ sở đó huy động
toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững.
Thứ hai, đào tạo nghề phải xuất phát từ nhu cầu của người học và nhu
cầu phát triển của xã hội. Từ thực trạng công tác dạy nghề ở tỉnh Hủa Phăn
trong những năm qua và nhu cầu học nghề của người lao động. Để đạt được
mục tiêu về cơ cấu trình độ lao động thông qua đào tạo cho người lao động ở
tỉnh Hủa Phăn cần có những biện pháp cụ thể dạy nghề cho người lao động ở
nông thôn như sau:
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò của đào tạo
nghề nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, xác định giải quyết việc làm là trách
nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp, của toàn xã hội và mỗi người dân. Nâng
cao nhận thức của xã hội và người lao động nhằm tạo sự đồng thuận trong xã
hội về vai trò, vị trí của đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
Thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
trong đào tạo nghề, trong đó đặc biệt ưu tiên cho lao động nông thôn được
tham gia học nghề. Thực hiện chính sách ưu tiên, chính sách hỗ trợ kinh phí
day nghề ngắn hạn cho các đối tượng gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ,
thanh niên nông thôn...
+ Xây dựng phát triển các trường trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh
đáp ứng nhu cầu học nghề của người dân nông thôn, nhu cầu lao động công
nhân kỹ thuật của các thành phần kinh tế đảm bảo yêu cầu đào tạo cân đối về
ngành nghề, trình độ. Đầu tư xây dựng phòng học, trang thiết bị học tập phù
hợp và đạt tiêu chuẩn ngành nghề đào tạo đối với các trường trung học và
trung tâm dạy nghề.
Gắn dạy nghề với nhu cầu thị trường lao động, thúc đẩy việc liên kết,
hợp đồng giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho người học
145
tiếp cận nhanh với công nghệ sản xuất tiên tiến, thuần thục các kỹ năng nghề
khi còn học tại trường. Liên kết tạo mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với cơ
sở dạy nghề kết hợp giới thiệu lao động đã qua đào tạo, nhằm đẩy mạnh hoạt
động giới thiệu việc làm tạo điều kiện để người lao động sau đào tạo tìm được
việc làm trong nước và ngoài nước, hướng mạnh xuất khẩu lao động có trình
độ tay nghề, trình độ cao.
4.2.7. Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn thông qua
các trung tâm giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động và các chương
trình mục tiêu quốc gia
Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn cần
được thực hiện thông qua các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, thông qua các trung tâm dịch vụ việc làm. Trung tâm dịch
vụ việc làm là nơi tư vấn cho người lao động về chính sách lao động và
việc làm cho người lao động và người sử dụng lao động. Tăng cường hoạt
động của các trung tâm dịch vụ việc làm, mở rộng các giao dịch việc làm là
cơ hội để người lao động tìm được việc làm và mang lại cơ hội việc làm
cho người lao động.
Trong những năm qua hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm ở trong
nước cũng như ở tỉnh Hủa Phăn phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu trong
giải quyết việc làm, kinh phí của các trung tâm còn hạn hẹp… Để đẩy mạnh
phát triển hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm, cần thực hiện một số nội
dung sau:
Nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm dịch vụ việc làm, xây
dựng cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động dịch vụ việc làm, nâng cấp trang thiết bị dạy nghề, bổ túc nghề cho
người lao động, nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ làm công
tác dịch vụ việc làm.
146
Quy hoạch mạng lưới dịch vụ việc làm phù hợp với cơ chế thị trường.
Củng cố các trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm đã có trên địa bàn tỉnh,
đồng thời xây dựng mới và khuyến khích các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội
và các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ
việc làm.
Thực hiện quản lý nhà nước đối với hệ thống các trung tâm dịch vụ
việc làm theo quy định của pháp luật, mặt khác bổ sung các quy định mới về
thành lập và hoạt động của các chi nhánh, quy định hoạt động tài chính, tăng
thêm nguồn kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao trình độ
chuyên môn cho cán bộ nhân viên.
Tuyên truyền giáo dục và nâng cao nhận thức cho người lao động để
người lao động hiểu và coi các trung tâm dịch vụ việc làm là nơi đáng tin cậy
của họ trong việc lựa chọn việc làm và học nghề, có chính sách hỗ trợ đối với
những người thất nghiệp, người thiếu việc làm trong giải quyết việc làm đối
với các thành phần “yếu thế” trong xã hội.
Thứ hai, thông qua việc thành lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
Trong những năm qua, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm ở tỉnh Hủa Phăn đã phát
huy được vai trò tích cực trong việc thực hiện lồng ghép các chương tình kinh
tế -xã hội của địa phương như: xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống của
đồng bào sinh sống trên địa bàn tỉnh, các chương trình tổ, nhóm giúp nhau
làm kinh tế trong các hội, công đoàn, phụ nữ, thanh niên, hội nông dân thực
hiện các dự án, phát triển các dự án cây, con, ngành nghề, tạo vùng nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến theo vùng lãnh thổ.
Để phát huy hiệu quả nguồn vốn thông các quỹ, cần thực hiện một số
nội dung sau:
Tranh thủ tối đa các nguồn vốn hỗ trợ của ngân hàng cấp trên, đồng
thời chủ động khai thác những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, lãi suất thấp cho
các địa phương, các chương tình tài trợ trong nước, có chính sách ưu đãi,
147
nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, vốn lồng
ghép, vốn nhân dân đóng góp giành cho chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo
việc làm để đảm bảo nguồn vốn vây.
Quan tâm đầu tư, nâng cấp chợ nông thôn, hỗ trợ xây dựng các trung
tâm thương mại cấp huyện, để thu hút nguồn hàng phục vụ nhu cầu nhân dân
nông thôn. Các cơ quan chuyên môn hướng dẫn, vận động, tuyên truyền và hỗ
trợ thành lập, phát triển các hợp tác xã dịch vụ vận tải, xây dựng, tín dụng...
để vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu của nhân dân nông thôn vừa tăng dần tỷ
trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế và thu hút chuyển dịch lực lượng lao động.
Tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và
các cơ sở dịch vụ về thông tin, văn hóa, y tế, giáo dục; tăng trưởng dịch vụ
khu vực nông thôn hàng năm đạt 10% trở lên.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả phối hợp giữa các ngân hàng
chính sách xã hội, với lãnh đạo chính quyền địa phương, ngành lao động
thương binh xã hội, các tổ chức chính trị xã hội tham gia hợp đồng ủy thác,
các đơn vị tham gia cho vay vốn, các trung tâm đào tạo, các dịch vụ xuất khẩu
lao động.
Hoàn thiện cơ chế chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế địa
phương, tạo ra sự thông thoáng trong việc triển khai thực hiện ở các cấp, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, công khai hóa và thực hiện đúng vai trò của cơ
quan quản lý nhà nước trong quan hệ với các chủ thể kinh tế.
Phối hợp lồng ghép các chương trình, hướng dẫn cách làm ăn để nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn; thực hiện tốt công tác thông tin hai chiều, duy trì
lịch trực, báo cáo để kịp thời sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.
Làm tốt công tác thẩm định kế hoạch dự án, lựa chọn dự án có tính khả
thi cho vay vốn ưu đãi, đảm bảo các hộ nghèo, khó khăn được vay vốn. Đặc
biệt ưu tiên cho vay vốn ưu đãi để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông
thôn hoạt động trên các lĩnh vực thủ công nghiệp, khai thác vật liệu xây dựng,
148
chế biến nông sản dịch vụ, phát triển trang trại, chế biến thức ăn gia súc phục
vụ các trang trại chăn nuôi tập trung, tạo nhiều việc làm cho người lao động ở
nông thôn.
Tiểu kết chương 4
Để giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn, nước CHDCND Lào trong thời gian tới, cần chú ý đến những quan
điểm cơ bản như sau: giải quyết việc làm cho lao động nông thôn của tỉnh là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của chính bản thân người lao động;
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn phải đặt trong kế hoạch tổng thể
phát triển KT-XH của tỉnh, trên cơ sở phát huy những tiềm năng, thế mạnh
của tỉnh, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững; giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề.
Từ những quan điểm cơ bản trên, để giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn cần chú ý đến những giải pháp chủ yếu sau: tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về
giải quyết việc làm; hoàn thiện hệ thống chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động nông thôn; phát triển thị trường sức lao động ở nông thôn;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa nông nghiệp; đa dạng hóa các hình thức sản
xuất kinh doanh; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đây là
những giải chủ yếu góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào trong những năm
tiếp theo.
149
KẾT LUẬN
Việc làm cho người lao động nông thôn là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của toàn hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và của mọi người
lao động. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách giải pháp để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Các chương trình, dự
án giải quyết việc làm và sự cố gắng của người lao động. Nhờ đó đã giải
quyết việc làm cho hàng nghìn người lao động ở nông thôn, cơ cấu lao động
đã từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ thật nghiệp và thiếu việc
làm của người lao động ở nông thôn đã giảm dần, tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn tăng lên. Tuy vậy, tốc độ tăng dân số ở các vùng nông thôn
trong những năm qua khá cao, nên hàng năm số người bước vào độ tuổi lao
động khá lớn, số lao động cần được giải quyết việc làm tăng cao, nên còn một
bộ phận không nhỏ chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm, đời sống gặp nhiều
khó khăn. Việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn đang là
đòi hỏi bức thiết đối với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói chung,
tỉnh Hủa Phăn nói riêng.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của vấn đề việc làm và giải quyết việc làm
cho người lao động nông thôn và ảnh hưởng của nó đối với việc cải thiện,
nâng cao đời sống nhân dân. Trong những năm qua, Tỉnh ủy và chính quyền
các cấp đã có nhiều chủ trương, chính sách để giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn 5 năm qua cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Hủa Phăn đã tạo ra nhiều việc làm mới gắn với đào tạo nghề nâng cao
chất lượng nguồn lực lao động, nên đã giải quyết được việc làm cho hàng
nghìn lao động ở nông thôn.
Tuy vậy, vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Hủa
Phăn vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như:
150
- Số người đến tuổi lao động ngày một tăng, số người thất nghiệp ở khu
vực nông thôn di chuyển ra thành thị tìm việc làm và số người thiếu việc làm
ở khu vực nông thôn còn nhiều, gây sức ép rất lớn về nhu cầu giải quyết việc
làm đối với chính quyền các cấp.
- Trình độ tay nghề của người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn còn
thấp, hoạt động dạy nghề còn nhiều hạn chế, yếu kém, nên chất lượng nguồn
lực lao động chưa đáp ứng được đòi hỏi của người sử dụng lao động theo yêu
cầu, nên gặp khó khăn trong tìm việc làm.
- Về cơ chế, chính sách giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn còn thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh. Vì vậy, sức ép về lao động và giải
quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hủa Phăn vẫn còn là vấn
đề bức xúc, khó giải quyết một cách nhanh chóng.
Để giảm được sức ép về lao động và giải quyết việc làm cho người lao
động nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn cần phát huy tiềm năng và thế mạnh của toàn
tỉnh, thực hiện đồng bộ bảy giải pháp mà luận án đã đề xuất đó là: Hoàn thiện
hệ thống chính sách giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn; Phát
triển thị trường sức lao động; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đa dạng hóa các hình thức sản xuất
kinh doanh; Đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn; Giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn thông qua các trung tâm giới
thiệu việc làm, và các chương trình mục tiêu quốc gia; Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và năng lực quản lý của Nhà nước.
Những giải pháp trên đây vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt vừa có
ảnh hưởng lâu dài trong giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn,
góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước Lào thoát
khỏi tình trạng kém phát triển và tiếp tục kiên trì tiến lên con đường chủ
nghĩa xã hội.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Khăm Phen Phêng Phắc Đy (2016), "Giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào",
Tạp chí Kinh tế và quản lý, (20), tr.57-61.
2. Khăm Phen Phêng Phắc Đy (2016), "Vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn ở Lào hiện nay (qua thực tế tỉnh Hủa Phăn)", tại
trang lyluanchinhtri.vn, ngày 28/11.
3. Khăm Phen Phêng Phắc Đy (2016), "Phát triển lao động tay nghề và việc
làm ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Lý luận Chính trị
và Hành chính, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, (4),
tr.42-46.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Dũng Anh (2016), Việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất
trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng,
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
2. Lê Xuân Bá (2008), "Phát triển việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn - thành thị", Tạp chí Lao động và xã hội, (326)
tr.9-12.
3. Phùng Ngọc Bảo (2008), "Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho đất nước", Tạp chí Cộng sản, (9).
4. Bộ luật việc làm Liên bang Nga, Mátxcơva, 1998.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Đề án dạy nghề cho lao
động nông thôn giai đoạn -2020, Hà Nội.
6. Bun Thi Khưa Mi Xay (1999), Phát triển thị trường nông thôn ở Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. Ngô Đức Cát (2004), "Thực trạng đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó
tới lao động nông nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (82).
9. Ngô Thế Chi, Nguyễn Van Dần (2003), Phân giải pháp và tài chính giải
quyết việc làm trong điều kiện hội nhập kinh tế, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
10. Nguyễn Hoàng Chi (2008), "Giải quyết việc làm, một trong những
chương trình góp phần hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Quảng Ngãi", tại trang: http://www.quangngai.gov.vn,
[truy cập ngày 06/11/2014].
153
11. Trần Đình Chín, Nguyễn Dũng Anh (2014), Việc làm cho người lao động
bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, công nghiệp hóa ở
vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
12. Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động - cơ sở lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Đức Chính (2010), Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực
sau xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý Hành
chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Chỉnh (Chủ nhiệm) (1997), Một số giải pháp cơ bản để
phát triển và sử dụng nguồn nhân lực khoa học ở các tỉnh miền
Trung trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đề tài cấp bộ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. Trần Văn Chử (2006), "Các giải pháp tăng cường quản lý của nhà nước
đối với thị trường lao động ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và Xã
hội, (283).
16. Nguyễn Đình Cử (2011), "Những giải pháp góp phần thực hiện đột phá: Phát
triển tài nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền
vững ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Việt - Lào, Mã số ĐKXB:706-2001/CXB/ĐHKTQD, Hà Nội.
17. Nguyễn Sinh Cúc (2000), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông
thôn thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lao động và Xã hội, (188),
tr.21-24.
18. Đỗ Minh Cương (2003), "Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay”,
Tạp chí Nông thôn mới, (91).
19. Dengyang Kong Chi (2016), Vấn đề phát huy nguồn lực thanh niên trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
154
20. Nguyễn Hữu Dũng (Chủ nhiệm) (1995), Luận cứ khoa học cho việc xây
dựng chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam khi chuyển sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đề tài cấp Nhà nước KX
04.04, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
21. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết
việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Hữu Dũng (2008), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao
động việc làm", Tạp chí Cộng sản, số 5 (149).
23. Bùi Quang Dũng (Chủ nhiệm) (2010), Một số vấn đề phát triển xã hội
nông thôn năm 2009 (Lao động và việc làm nông thôn), Đề tài cấp
Bộ do Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
24. Nguyễn Quốc Dũng (Chủ nhiệm) (2012), Đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho thanh niên nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, Đề tài cấp bộ do Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
25. Nguyễn Mậu Dựng (Chủ nhiệm) (1999), Cơ cấu, chất lượng và xu hướng
biến động đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật ở vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Khóa VII, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các bản, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong thời kỳ từ
năm cách mạng hiện nay, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
32. Đỗ Công Định (2005), "Nguồn nhân lực Việt Nam: Thực trạng và giải
pháp", Tạp chí Cộng sản, (10).
33. Tạ thị Đoàn (2011), Lao động việc làm của công nhân trong các khu
công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Thực trạng và những
hàm ý chính sáng, Nxb Lao động Hà Nội.
34. Tạ Thị Đoàn (2011), Lao động việc làm của công nhân trong các khu
công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Thực trạng và những
hàm ý chính sách, Nxb Lao động Hà Nội.
35. Nguyễn Đại Đồng (2005), “Giải quyết việc làm cho lao động khu vực
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp", Tạp chí Lao động
và xã hội, (265).
36. E.F.Schumacher (1994), Những nguồn lực, Nxb Lao động, Hà Nội.
37. Ngô Anh Hà (2004), "Nông dân các vùng quy hoạch đô thị và khu công
nghiệp làm gì khi hết đất canh tác", Tạp chí Nông thôn mới, (127).
38. Phạm Mạnh Hà (2012), Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh
Ninh Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án
tiến sĩ Kinh tế phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
39. Trần Thị Bích Hạnh (2004), Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các
tỉnh vùng Trọng điểm kinh tế Trung Bộ trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
156
40. Trần Thị Bích Hạnh (2009), Phát triển hệ thống dạy nghề ở tỉnh Quảng
Nam - Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện
Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng.
41. Hoàng Ngọc Hòa (Chủ nhiệm) (2009), Một số vấn đề kinh tế - xã hội
nảy sinh từ việc thu hồi đất của nông dân vùng đồng bằng sông
Hồng trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, Đề tài tổng
kết thực tiễn, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Huệ (2014), Việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội, Luận án tiến sĩ
Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
43. Vũ Thành Hưởng (2005), "Một số vấn đề bức xúc trong việc gắn đào tạo
với sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta", Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, (98).
44. Nguyễn Hải Hữu, Nguyễn Đình Cử và Sommad Phonesena (2011),
Chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng cho
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại Lào, Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc tế phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam và Lào, giai đoạn
2001 - 2020, tập II, Nxb Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
45. John Maynard Keynes (1994), Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền
tệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Đoàn Văn Khải (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
47. Khăm Phả Phim Ma Sỏn (2010), Xây dựng đội ngũ công chức quản lý
Nhà nước về kinh tế ở Tỉnh BoLyKhămSay Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
157
48. Nguyễn Xuân Khoát (2007), Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn Việt Nam, Nxb Đại học Huế.
49. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo - Kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.
50. Tăng Minh Lộc (2008), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông
thôn", tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày
15/10/2014].
51. Nguyễn Đình Luận (2000), "Lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam
thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, (5), tr.596-598.
52. C Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
53. Hà Đức Mạnh (2016), "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn một số
huyện của tỉnh Lào Cai", Tạp chí Kinh tế và quản lý, (18), tr.37.
54. Phạm Thành Nghị (Chủ nhiệm), Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng
cao hiểu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đề tài KX.05.11, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
55. Trần Minh Ngọc (2007), Sử dụng nguồn nhân lực nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện
Kinh tế học, Hà Nội.
56. Trần Thị Minh Ngọc (2011), Việc làm của nông dân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm
2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hoàng Kim Ngọc (2009), “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần
tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn”, (209)
tr.26-30.
58. Hoàng Thị Thanh Nhàn (1997), Công nghiệp hóa hướng ngoại “sự thần
kỳ” của các NIE Châu Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
59. Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin (2001), Lao động việc làm và nguồn
nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới mới, Hà Nội.
60. Lê Du Phong (Chủ nhiệm) (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của
người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ
lợi ích quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Minh Phong, Phạm Thị Minh Uyên (2009), "Đào tạo nghề và
việc làm cho nông dân - Vấn đề bức xúc của hậu giải phóng mặt
bằng", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 13 (453).
62. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Việc
làm, Hà Nội.
63. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Lao
động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ biên) (1998), Đại từ điển kinh tế thị
trường, Viện Nghiên cứu và phát triển kiến thức bách khoa xuất
bản, Hà Nội.
65. Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Nghệ An (2015), Báo cáo tổng
kết công tác xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm 2010 - 2015,
Nghệ An.
66. Sở Lao động Thương Binh và xã hội tỉnh Nghệ An (2015), Báo cáo tổng
kết giai đoạn 2011 - 2015, Nghệ An.
67. Sở Lao động Thương Binh và xã hội tỉnh Sơn La (2015), Báo cáo tổng
kết giai đoạn 2011 - 2015, Sơn La.
68. Sở Lao động Thương Binh và xã hội tỉnh Thanh Hóa (2015), Báo cáo
tổng kết giai đoạn 2011 - 2015, Thanh Hóa.
69. Sư Lao Sô Tu Ky (SUELAO SOTOUKY) (2014), Nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng Chăn. Luận án tiến sĩ
Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
159
70. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hóa ở NIEs Đông Á và
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
71. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Nguyễn Khắc Thanh (2007), "Một số vấn đề trong tư duy, nhận thức về
phát triển thị trường sức lao động", Tạp chí Cộng sản, số 23 (143)
73. Phạm Đức Thành, Mai Đức Chính (1998), Giáo trình Kinh tế lao động,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa,
hiện đại hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
75. Nguyễn Thị Thơm (2006), Thị trường lao động Việt Nam - Thực trạng
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (Đồng chủ biên) (2010), Giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Vũ Duy Thông (2009), "Lao động và việc làm", Báo Đà Nẵng, ngày
15/2/2009.
78. Trương Tâm Thư (2008), "Cần đội ngũ công nhân chuyên nghiệp", Báo
Lao động, ngày 10/7/2008.
79. Đào Mạnh Thủy (2005), "Dạy nghề cho lao động nông thôn- thực trạng
và vấn đề đặt ra", Tạp chí Lao động và xã hội, (274).
80. Phạm Thị Thủy (2010), "Giải quyết việc làm, thu nhập cho người dân bị
thu hồi đất: Kinh nghiệm của một số nền kinh tế châu Á", Tạp chí
Kinh tế và Chính trị thế giới, (171).
81. Võ Xuân Tiến, Đào Hữu Hòa (2003), "Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lào động, giải quyết việc làm trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng", Tạp chí Kinh tế và phát triển, số (71) tr.22-25.
160
82. Nguyễn Tiệp (2008), "Việc làm cho người lao động trong quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất", Tạp chí Cộng sản, số 7 (151).
83. Phạm Quang Tín (2007), "Thực trạng việc làm của người lao động trong
các hộ dân diện thu hồi đất tỉnh Quảng Nam", Tạp chí Khoa học
Công nghệ, (19).
84. Tổ chức Lao động quốc tế (2008), Decent Work in Rural: akey path for
povety R eduction (Việc làm thích hợp trong khu vực nông thôn:
Chìa khóa cho sự giảm nghèo).
85. Nguyễn Thế Tràm (Chủ nhiệm) (2006), Các giải pháp giải quyết việc
làm cho ngư dân các tỉnh Duyên hải miền Trung, Đề tài cấp Bộ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Nguyễn Văn Trung (Chủ biên) (1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở
nông thôn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
87. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (1999), Thị trường
lao động trong kinh tế thị trường, Viện Thông tin Khoa học xã
hội, Hà Nội.
88. Từ điển tiếng Việt (2008), Nxb Đà Nẵng.
89. Tuan Francis, Somwaru Agapi, Diao Xinshen (...), Lao động nông thôn
di cư, đặc điểm và mô hình việc làm - Nghiên cứu dựa trên điều tra
nông nghiệp Trung Quốc.
90. Bùi Anh Tuấn (2000), Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
91. Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông (2005), Vai trò của chính sách xã hội đối
với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
92. Vũ Thị Thanh Xuân (2016), "Đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động nông
thôn", Tạp chí Kinh tế và quản lý, (18).
161
Tài liệu tiếng Anh
93. Agricultural Policy Reform and Structural Adjustment in Korea and
Japan, Hanho Kim, Yong-Kee Lee. International Agricultural Trade
Research Consortium, "Adjusting to Domestic and International
Agricultural Policy Reform in Industrial Countries" Philadelphia,
PA, June 6-7, 2004.
94. Ashley, C & Maxwell, S. (2001), Rethinking Rural Development,
Development Policy Review, 19 (4): 737-448, Theme Issue:
Rethinking Rural Development, Blackwell Publishers.
95. Bernstein, H (1977), Notes on capital and peasantry, Rural Development:
Theories of peasant economy and agrarian change, Edited by John
Harriss, Hutchinson University Library for Africa, Hutchinson & Co.
(Publishers) Ltd.
96. Corbridge, S. Urban bias, rural bias and industrialization, Rural
Development: Theories of peasant economy and agrarian change,
Edited by John Harriss, Hutchinson University Library for Africa,
Hutchinson & Co. (Publishers) Ltd.
97. Jonna Estudillo và các cộng sự (2013), "Labor markets, occupational
choice, and rural poverty in four Asian countries", Tạp chí Kinh tế
Philippines, (6).
98. Nguyễn Ngọc Quế & Francesso Goletti (2001), “Explaning Agriculture
Growth”.
99. Rethinking Rural development”(Nhìn lại sự phát triển nông thôn)
Devclopment Policy Review, số 19 (4) Năm 2011
100. Rural industrialization in Korea: Experiences por Rural development in
VietNam; Internationl conference.
101. Rural non-farm livelihoods in transition economies: Emerging issues and
policies, Junior Davis, Economist NRI, UK. Journal of Agricultural
and Development Economics, Agricultural and Development
Economics Division (ESA) FAO Vol. 3, No. 2, 2006, pp. 180-224.
162
102. Wiggens, S & Proctors, S. (2001), How Special Are Rural Areas? The
Economic Implications of Location for Rural Development,
Development Policy Review, 19 (4): 737-448, Theme Issue: Rethinking
Rural Development, Blackwell Publishers.
103. World Bank (2002), Do Rural Infrastructure Investment Benefit the
Poor? Evaluating Linkages: A Global View, A Focus on Vietnam.
Tài liệu tiếng Lào
104. A Nô Thay Chuon La Ma Ny (2013), “Quản lý lao động nước ngoài ở
tỉnh Khăm Muộn”, Tạp chí Lý luận Chính trị - Hành chính số
9/2014, tr.54-60.
105. A Xang lao ly (2013), Bài phát biểu trong Đại hội toàn quốc về lao động
và phúc lợi.
106. Báo cáo kết quả điều tra dân số và cư trú cả nước lần thứ IV năm 2015.
107. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2013), Tổng kết giữa nhiệm kỳ và việc thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ VII (2011-2015).
108. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2015), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia lần thứ VIII (2016-2020).
109. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2013), Tổng kết thực hiện việc tập huấn
tay nghề Lào - Hàn Quốc (2013-2014) và kế hoạch (2014-2015).
110. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), Bản tổng kết thực hiện việc
phát triển tay nghề và tìm việc làm 5 năm lần thứ III từ 2010-
2015 và kế hoạch 5 năm lần thứ IV (2015-2020), Nxb Vụ Phát
triển - tìm việc làm.
111. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), Kế hoạch phát triển lao động và
tìm việc làm (2016-2020) của vụ phát triển tay nghề và tìm việc làm.
112. Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2002), Thông tư 2471/BLĐ,
ngày 29/7/2002 về việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 68/TTCP, của
Thủ tướng Chính phủ về việc xuất khẩu lao động Lào ra làm việc ở
nước ngoài.
163
113. Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2010), Quyết định số 043/BLĐ,
ngày 10/12/2010, Về việc tổ chức và quản lý kinh doanh dịch vụ
kiếm việc làm.
114. Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), Thông tư số 808/BLĐ,
ngày 09/02/2015, Về việc chỉnh lại tiền lương bấc thấp nhất của
người lao động tại CHNCDN Lào.
115. Bua Hộng Khăm Hạ (2014), “Một số trọng tâm phát triển tay nghề của
lao động ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Tạp chí Lý luận
Chính trị - Hành chính số 5/2014, tr.15-20.
116. Cayxỏn Phômvihản (1985), Tuyển tập, tập I, Nxb quốc gia Lào.
117. Cayxỏn Phômvihản (1987), Tuyển tập, tập II, Nxb quốc gia Lào.
118. Cayxỏn Phômvihản (2005), Tuyển tập, tập III, Nxb quốc gia Lào.
119. Cayxỏn Phômvihản (2005), Tuyển tập, tập IV, Nxb quốc gia Lào.
120. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2010-2011), Niên giám thống kê, Hủa Phăn.
121. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2011-2012), Niên giám thống kê, Hủa Phăn.
122. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2012-2013), Niên giám thống kê, Hủa Phăn.
123. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2013-2014), Niên giám thống kê, Hủa Phăn.
124. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2014-2015), Báo cáo tổng kết thực hiện việc
phát triển tay nghề và tìm việc làm và kế hoạch, Hủa Phăn.
125. Cục Thống kê tỉnh Hủa Phăn (2015-2016), Niên giám thống kê, Hủa Phăn.
126. Cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào (2015-2016), Báo cáo thống
kê Lào năm 2015.
127. Đảng bộ Bộ Lao động và Phúc lợi (2012), Tài liệu Đại hội lần thứ IV.
128. Đảng bộ tỉnh Hủa Phăn (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
VII, Nxb quốc gia Lào Viêng Chăn.
129. Đảng bộ tỉnh Hủa Phăn (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
VIII, Nxb quốc gia Lào Viêng Chăn.
130. Đảng bộ tỉnh Hủa Phăn (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
XI, Nxb quốc gia Lào Viêng Chăn.
164
131. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), ''Văn kiện đại biểu toàn quốc lần
thứ VI", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
132. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), "Văn kiện đại biểu toàn quốc lần
thứ VI", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
133. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), "Văn kiện đại biểu toàn quốc
lần thứ VII", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
134. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), "Văn kiện đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
135. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), "Văn kiện đại biểu toàn quốc lần
thứ IX", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
136. Đảng Nhân dân Cách Mạng Lào (2016), " Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần X", Nxb Tạp chí A Lun Mai, Lào.
137. Quốc hội (2013), Luật Lao động sửa đổi bổ sung, Viêng Chăn.
138. Quốc hội (2015), Luật Lao động sửa đổi bổ sung, Viêng Chăn.
139. Sở Giáo dục và Thể thao tỉnh Hủa Phăn (2014), Tổng kết việc tổ chức
thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục tỉnh trong thời kỳ 2009- 2014
và kế hoạch phát triển giáo dục trong thời kỳ từ năm 5 năm (2015-
2019), Hủa Phăn.
140. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hủa Phăn (2010), Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội trong 5 năm lần thứ VII (2011 - 2015), Hủa Phăn.
141. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hủa Phăn (2015), Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội trong 5 năm lần thứ VIII (2016 - 2020), Hủa Phăn.
142. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hủa Phăn (2015), Báo cáo kết quả điều tra
dân số và cư trú cả nước lần thứ IV, Hủa Phăn.
143. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội tỉnh Hủa Phăn (2010), Báo cáo tổng kết
việc tổ chức thực hiện công tác lao động 5 năm lần thứ VI (2006-
2010 và phương hướng 5 năm 2011-2015) Hảu Phăn.
144. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội tỉnh Hủa Phăn (2016), Kế hoạch phát
triển sức lao động và tìm việc làm (2016-2025), Hủa Phăn.
165
145. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội tỉnh Hủa Phăn (2015-2016), Tổng kết
việc tổ chức thực hiện công tác đào tạo lao động giai đoạn 2011-
2016, Hủa Phăn.
146. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội Tỉnh Luông Pra Bang (2015), Tổng kết
việc tổ chức thực hiện công tác lao động và thương binh xã hội
trong 5 năm lần thứ VII (2011- 2015) và phương hướng 5 năm lần
thứ VIII (2016 - 2020), Luông Pra Bang
147. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội Tỉnh Xiêng Khoảng (2015), Tổng kết
việc tổ chức thực hiện công tác lao động và thương binh xã hội
trong 5 năm lần thứ VII (2011- 2015) và phương hướng 5 năm lần
thứ VIII (2016 - 2020), Xiêng Khoảng
148. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội Tỉnh Sa Văn Na Khệt (2015), Tổng kết
việc tổ chức thực hiện công tác lao động về việc đào tạo và phát
triển tay nghề (2010-2015), Sa Văn Na Khệt.
149. Sở Lao động và Phúc lợi xã hội tỉnh Hủa Phăn (2015), Báo cáo Tổng kết
công tác tạo việc làm cho lao động giai đoạn 2011-2016, Hủa Phăn.
150. Sở Nông lâm và Lâm nghiệp tỉnh Hủa Phăn, (2014), Tổng kết triển khai
tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển nông công tác nông, lâm
nghiệp 5 năm từ năm 2010-2014 và phương hướng kế hoạch phát
triển 5 năm 2015-2020, Hủa Phăn.
151. Sở Phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo tỉnh Hủa Phăn (2014),
Báo cáo về kết quả thực hiện giảm nghèo 5 năm từ 2010-2014 và
phương hướng kế hoạch phát triển 5 năm 2015-2020, Hủa Phăn.
152. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chỉ thị số 036/CP, ngày 22/1/2010 về việc
đào tạo về phát triển tay nghề.
153. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị số 201/CP ngày 25/4/2012 về tiêu
chuẩn nghèo và tiêu chuẩn phát triển giai đoạn 2012-2015.
154. Sở Y tế tỉnh Hủa Phăn (2014), Tổng kết 5 năm từ năm (2010-2014) và
phương hướng kế hoạch phát triển 5 năm 2015-2020, Hủa Phăn.