hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh - hcma.vnhcma.vn/uploads/2018/8/8/luan an...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HOÀI NAM
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Hà Nội - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HOÀI NAM
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ PHÁT TRIỂN
MÃ SỐ : 62 31 01 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS BÙI VĂN HUYỀN
TS NGUYỄN NGỌC TOÀN
Hà Nội - 2018
LƠI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Hoài Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1
Chương 1: TÔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 13
1.1. Các nghiên cứu quốc tế về phát triển thị trường điện lực ................................ 13
1.2. Các nghiên cứu trong nước về xây dựng và phát triển thị trường điện lực .... 17
1.3. Kết luận rút ra từ những nghiên cứu về phát triển thị trường điện lực và
hướng nghiên cứu của luận án .......................................................................... 26
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC .......................................................... 30
2.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của thị trường điện lực ................................... 30
2.2. Khái niệm và nội dung phát triển thị trường điện lực ...................................... 48
2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường điện lực và bài học đối với Việt Nam...... 59
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
TẠI VIỆT NAM ...................................................................................... 77
3.1. Khái quát về ngành điện tại Việt Nam ....................................................... 77
3.2. Thực trạng phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam giai đoạn
2006 - 2015 ........................................................................................ 83
3.3. Đánh giá chung về thị trường điện lực tại Việt Nam ............................. 100
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
ĐIỆN LỰC TẠI VIỆT NAM ..................................................................... 118
4.1. Triển vọng phát triển thị trường điện lực Việt Nam ...................................... 118
4.2. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường điện
lực giai đoạn đến 2030 ..................................................................................... 128
4.3. Các giải pháp phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam ............................ 140
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN............................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 152
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................ 159
PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................................... 160
PHỤ LỤC 3 .......................................................................................................................... 172
PHỤ LỤC 4 ............................................................................................................ 174
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AEEGSI: Cơ quan điều tiết Khí, Điện và Nước Italia
ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á
BCT: Bộ Công Thương
BOT: Xây dựng - vận hành - chuyển giao
CĐTĐL: Cục Điều tiết điện lực
CSHT&NT: Cơ sở hạ tầng và nền tảng
DN: Doanh nghiệp
ESCO: Công ty dịch vụ năng lượng
EVN: Tập đoàn Điện lực Việt Nam
EVNGENCO: Tổng Công ty phát điện (thuộc EVN)
EVNPC: Công ty điện lực (thuộc EVN)
EU: Liên minh châu Âu
GIZ: Cơ quan Hợp tác phát triển Đức
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HĐMBĐ: Hợp đồng mua bán điện
KNK: Khí nhà kính
MVA Mega-volt ampere (đơn vị đo dung lượng máy biến áp)
NCS: Nghiên cứu sinh
NLTT: Năng lượng tái tạo
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức
PV Power: Tổng công ty điện lực dầu khí Việt Nam
TTĐ: Thị trường điện lực
Vinacomin Power: Tổng công ty điện lực Than - Khoáng sản Việt Nam
UNDP: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
World Bank: Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm của các cấp độ cạnh tranh thị trường điện lực .......................... 44
Bảng 2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường điện lực............................. 55
Bảng 3.1: Cơ cấu nhu cầu tiêu thụ điện theo các ngành, lĩnh vực ............................ 84
Bảng 3.2: Khối lượng đường dây và trạm biến áp các năm 2011-2016 .................. 92
Bảng 3.3: Tổng hợp các chính sách hỗ trợ phát triển nguồn điện NLTT tại Việt Nam ........ 104
Bảng 3.4: Tổng hợp đánh giá về thị trường điện lực tại Việt Nam giai đoạn
2006 - 2017 ............................................................................................. 107
Bảng 3.5. Thẩm quyền thực hiện các chức năng quản lý – điều tiết chủ yếu đối
với thị trường điện lực ............................................................................ 116
Bảng 4.1: Dự báo tăng trưởng GDP toàn quốc ....................................................... 118
Bảng 4.2: Kết quả dự báo nhu cầu điện đến năm 2030 .......................................... 127
Bảng 4.3: Kết quả tính toán cân bằng cung - cầu điện năng đến năm 2030 ........... 130
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 0.1. Các khối chức năng của phần mềm Corrective mô-đun 1 ........................ 11
Hình 2.1. Chuỗi sản xuất - cung ứng điện năng của ngành công nghiệp điện lực .... 30
Hình 2.2. Cung - cầu điện năng................................................................................. 35
Hình 2.3. Mô hình thị trường điện độc quyền ........................................................... 40
Hình 2.4. Mô hình thị trường cạnh tranh sản xuất điện ............................................ 41
Hình 2.5. Mô hình thị trường điện cạnh tranh bán buôn ........................................... 42
Hình 2.7. Cấu trúc TTĐ Italia ................................................................................... 61
Hình 2.8. Mô hình quản lý thị trường điện tại Italia ................................................. 62
Hình 2.9. Quá trình cải cách ngành điện và TTĐ của Trung Quốc .......................... 69
Hình 3.1: Tổ chức ngành điện Việt Nam sau cải cách và tổ chức lại EVN .............. 78
Hình 3.2: Tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và diễn biến nhu cầu điện Việt Nam ........ 80
Hình 3.3: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện Việt Nam ................. 82
Hình 3.5: Cơ cấu công suất nguồn điện tại Việt Nam năm 2016 ............................. 86
Hình 3.6: Thị phần của các doanh nghiệp tham gia sản xuất điện tại Việt Nam ...... 88
Hình 3.7: Sản lượng điện nhập khẩu của Việt Nam ................................................. 90
Hình 3.8: Các cấp độ xây dựng thị trường điện lực tại Việt Nam ............................ 94
Hình 3.9: Cấu trúc và cơ chế hoạt động thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam .......... 95
Hình 3.10: Các bên tham gia Thị trường bán buôn điện cạnh tranh ......................... 96
Hình 3.11: Diễn biến giá điện bán lẻ tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2017 .............. 98
Hình 3.12: Diễn biến sự tham gia của các nhà máy điện vào giao dịch tại thị
trường phát điện cạnh tranh ...................................................................... 99
Hình 3.13: Cơ cấu nguồn điện tham gia giao dịch trên thị trường điện Việt Nam .......... 100
Hình 3.14: So sánh tiêu thụ điện năng Việt Nam và quốc tế .................................. 101
Hình 3.15: Giá điện một số nước trong khu vực châu Á (2015-2017) ................... 111
Hình 4.1: Cơ cấu tiêu thụ điện của thị trường điện lực Việt Nam theo dự báo
đến 2030 ................................................................................................. 128
Hình 4.2: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện lực Việt Nam theo
Đề xuất mô hình 2 .................................................................................. 134
Hình 4.3: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện lực Việt Nam theo
Đề xuất mô hình 3. ................................................................................. 138
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế và nâng cao sự thịnh
vượng cho cuộc sống của con người cần đến dịch vụ điện năng được cung cấp một
cách hiệu quả và tin cậy. Điện năng là đầu vào cho phần lớn các hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Ngành điện cũng là ngành công nghiệp hạ tầng chủ chốt
của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới.
Trong quá khứ, ngành điện trên khắp các quốc gia đều vận hành theo mô
hình “độc quyền tự nhiên”. Với mô hình này, việc sản xuất điện năng trên quy mô
công nghiệp được thực hiện theo chuỗi cung ứng do các nhà cung cấp “độc quyền”
đảm nhiệm, có sự điều tiết của nhà nước đối với giá cả, điều kiện gia nhập thị
trường, quản lý đầu tư và kiểm soát chất lượng dịch vụ. Quá trình sản xuất - cung
ứng điện được tích hợp theo chiều dọc, tập trung vào một hoặc một số nhà cung cấp
độc quyền theo sự điều tiết của Nhà nước. Mô hình này cũng phù hợp khi năng lực
sản xuất điện (công suất phát) chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện. Nói cách
khác, khi sản xuất không đủ để đáp ứng nhu cầu, vấn đề ưu tiên của ngành công
nghiệp điện là gia tăng sản lượng và bảo đảm an ninh cung cấp điện.
Khi ngành điện bước vào giai đoạn có năng lực sản xuất cao hơn đáp ứng
được khả năng tiêu thụ của khách hàng, ưu tiên của ngành sẽ là sản xuất kinh tế và
hiệu quả hơn, đi đôi với mô hình kinh doanh, tổ chức thị trường tiên tiến hơn. Lúc
này nhu cầu của khách hàng là dịch vụ điện năng với giá thành hợp lý hơn, chất
lượng và độ tin cậy cao hơn và bước đầu hình thành cơ sở cho cạnh tranh. Từ đây
quá trình chọn lọc tự nhiên bắt đầu. Các nhà máy có công nghệ lạc hậu, sản xuất
kém hiệu quả sẽ dần bị thay thế bởi các nhà máy mới có công nghệ hiện đại và chi
phí thấp hơn. Những khu vực, hoạt động trong ngành công nghiệp điện lực vốn kém
hiệu quả sẽ dần chuyển đổi và hình thành các mô hình, cách thức vận hành tối ưu
hơn, ít chi phí hơn. Kết quả là các yếu tố sản xuất có hiệu quả kinh tế cao nhất được
tồn tại trong ngành. Quá trình chọn lọc này được diễn ra khi ngành điện có sự tự do
hóa và xây dựng thị trường điện lực (TTĐ) có cạnh tranh. Kinh nghiệm quốc tế từ cuối
thập niên 1980 cho đến đầu những năm 2000 cho thấy, nhiều quốc gia đã thành công
trong việc phát triển TTĐ theo hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh tranh, chuyển
2
đổi ngành công nghiệp điện năng lên một giai đoạn mới hiệu quả hơn, chất lượng cao
hơn và nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng.
Ở nước ta, ngành điện có lịch sử phát triển lâu dài và đã đóng góp nhiều
thành tựu đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ đã sớm có lộ trình hoàn
thiện tổ chức, tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh tranh TTĐ ở khâu sản xuất điện
(năm 2014), bán buôn điện (năm 2021) và bán lẻ điện (sau năm 2021) thông qua
Quyết định số 26/QĐ-TTg năm 2006. Đây là quyết định cho thấy sách lược dài hạn và
tầm nhìn phù hợp cho ngành công nghiệp điện năng. Các mục đích cơ bản được đặt ra
đối với việc phát triển TTĐ, định hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh tranh là:
Thứ nhất, từng bước phát triển TTĐ cạnh tranh một cách ổn định, xóa bỏ bao
cấp trong ngành điện, tăng quyền lựa chọn nhà cung cấp điện cho khách hàng sử
dụng điện;
Thứ hai, thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia hoạt động điện lực, giảm dần đầu tư của Nhà nước cho ngành điện;
Thứ ba, tăng cường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện,
giảm áp lực tăng giá điện; đảm bảo cung cấp điện ổn định, tin cậy và chất lượng
ngày càng cao; và đảm bảo phát triển ngành điện bền vững.
Cho đến nay, thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh (cấp độ 1) đã được vận
hành chính thức từ ngày 01 tháng 7 năm 2012, đánh dấu một bước phát triển mới của
ngành điện Việt Nam. Thị trường bán buôn điện cạnh tranh thuộc cấp độ 2 trong Lộ
trình hình thành và phát triển TTĐ tại Việt Nam, được thực hiện từ năm 2015 đến năm
2021 theo 02 giai đoạn trải qua giai đoạn vận hành thí điểm (đến 2019) và vận hành
hoàn chỉnh từ sau 2019.
Việc phát triển TTĐ nói chung đã thu được những kết quả khả quan như nâng
cao năng lực vận hành, độ tin cậy của hệ thống, cơ bản cung cấp đủ điện cho phát triển
kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, việc vận hành thị trường phát điện cạnh tranh đã tăng minh
bạch, công bằng trong việc huy động các nguồn điện. Các nhà máy phát điện tham gia
thị trường cũng bước đầu nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, TTĐ vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, Cơ chế giá điện chưa hợp lý, không phản ánh đúng bản chất giá cả
thị trường và quan hệ cung - cầu, chịu sự điều tiết mạnh mẽ của Nhà nước trong khi
tình trạng bao cấp trong ngành điện chưa được xóa bỏ hoàn toàn. Biểu giá điện hiện
3
được duy trì ở mức thấp trong khi chi phí sản xuất đang ngày một tăng cao. Không
chỉ các hộ tiêu thụ có thu nhập thấp mà các lĩnh vực công nghiệp tiêu thụ nhiều năng
lượng cũng đang được gián tiếp trợ giá thông qua giá điện thấp. Đây là gánh nặng
không chỉ đối với ngành điện mà còn đối với ngân sách quốc gia khi quan hệ kinh tế bị
bóp méo và nhà nước phải thực hiện việc trợ giá.
Thứ hai, TTĐ vẫn bị chi phối chủ yếu bởi các công ty trực thuộc hoặc có sở
hữu của Tập đoàn điện lực Việt Nam - vốn là công ty độc quyền trong ngành. Việc
thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là kinh tế
tư nhân tham gia hoạt động điện lực còn gặp nhiều khó khăn. Hệ quả là sản xuất và
cung ứng điện chưa đảm bảo ổn định, đặc biệt là trong các thời điểm mùa khô hàng
năm, xuất hiện tình trạng quá tải trên lưới điện truyền tải do mất cân đối về nguồn
điện giữa các vùng miền.
Thứ ba, Khách hàng sử dụng điện vẫn chưa có quyền lựa chọn nhà cung cấp
dịch vụ, và do đó chưa được đảm bảo đầy đủ về quyền lợi. Điều này tạo ra
nghịch lý trong quan hệ mua bán khi quan hệ khách hàng và nhà cung cấp dịch
vụ là không cân xứng một cách tương đối. Khi khách hàng không có sự lựa chọn
nào khác đồng nghĩa với việc nhà cung cấp dịch vụ có ít động lực để cải thiện hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cải thiện về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngành điện là chưa rõ ràng và chưa bền vững, gây áp lực tăng giá điện. Khi
đó quyền lợi của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng.
Xuất phát từ những hạn chế trong thực tế phát triển TTĐ tại Việt Nam
hiện nay, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề “Phát triển thị trường điện lực Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế
phát triển. Đây là nghiên cứu cần thiết để góp phần hình thành một số giải pháp
hoàn thiện và phát triển TTĐ, hướng đến một thị trường vận hành hiệu quả, cung
cấp điện năng tới khách hàng một cách an toàn, tin cậy và chất lượng dịch vụ cao
hơn, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm đề xuất những giải pháp để phát
triển TTĐ tại Việt Nam. Các giải pháp này được đề xuất dựa trên cơ sở phân tích và
4
xác định các đặc điểm, vai trò cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
TTĐ tại Việt Nam.
2.2.Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ như sau:
Nghiên cứu sinh (NCS) trước hết tiến hành hệ thống lại cơ sở lý luận và thực
tiễn về phát triển TTĐ. Phần này phân tích và nhận dạng các vấn đề căn bản của
TTĐ và các nội dung phát triển TTĐ, qua đó hình thành khung lý thuyết về phát
triển TTĐ.
Đồng thời, NCS khảo cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển TTĐ, trong đó
xem xét những thị trường đã phát triển thành công, cũng như thị trường hiện đang
trong quá trình phát triển hoặc có những đặc điểm tương đồng với Việt Nam. Các
khảo cứu kinh nghiệm quốc tế giúp chỉ ra những vấn đề các nước đi trước đã gặp
phải, những rủi ro tiềm tàng trong quá trình phát triển, cách thức xử lý và bài học
cho Việt Nam.
Trên cơ sở khung lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, NCS phân tích và đánh giá
thực trạng phát triển TTĐ tại Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế này.
Những nghiên cứu, phân tích và khảo cứu được thực hiện ở các nhiệm vụ trên là
cơ sở để NCS đề xuất phương hướng và giải pháp để phát triển TTĐ tại Việt Nam đến
năm 2030. Các giải pháp phát triển TTĐ tại Việt Nam được đưa ra xét đến các dự báo
liên quan tới tăng trưởng kinh tế, xu hướng phát triển TTĐ và hướng đến việc khắc
phục các nguyên nhân gây ra những hạn chế đối với sự phát triển TTĐ tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển TTĐ tại Việt Nam.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu tập trung vào TTĐ tại Việt Nam, trên phạm vi toàn quốc
trong đó bao gồm các yếu tố cơ bản nhất là cung, cầu, cơ chế cạnh tranh và cơ chế
giá, và các yếu tố trung gian kết nối cung - cầu. Trong khuôn khổ luận án này, phát
triển TTĐ được nghiên cứu trên các yếu tố “cung” như phát triển chuỗi sản xuất và
5
cung ứng điện năng, hạ tầng điện lực, yếu tố “cầu” như phát triển nhu cầu điện bền
vững, cơ chế cạnh tranh TTĐ và cơ chế giá điện, và các yếu tố trung gian kết nối
cung - cầu như xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch
cho TTĐ và các nhân tố ảnh hưởng.
Về mặt thời gian và không gian, NCS tiến hành nghiên cứu thực trạng phát
triển TTĐ tại Việt Nam kể từ thời điểm 2004 đến 2017. Đây là khoảng thời gian từ
khi Luật Điện lực được ban hành trong đó quy định về việc xây dựng và phát triển
TTĐ. Thời kỳ lựa chọn để đưa ra định hướng và các giải pháp phát triển TTĐ là
giai đoạn từ nay đến năm 2030.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.Cơ sơ ly luân
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về phát triển kinh tế bền vững.
4.2.Phương phap nghiên cưu
Để nghiên cứu luận án, nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản của kinh tế phát triển để nghiên cứu TTĐ trong sự vận động, phát triển và
liên hệ với các yếu tố ảnh hưởng; đề xuất giải pháp phát triển TTĐ tại Việt Nam
theo quan điểm lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, để thu thập được thông tin, tư liệu
nhằm đánh giá hiện trạng phát triển TTĐ Việt Nam, tập trung vào chuỗi sản xuất -
cung ứng điện năng, NCS đã tiến hành một cuộc điều tra khảo sát đối với các đơn
vị, doanh nghiệp (DN) đã, đang và sẽ tham gia đầu tư vào lĩnh vực sản xuất điện,
đơn vị cung cấp dịch vụ truyền tải, phân phối điện và các chuyên gia trong ngành
điện, hiện đang công tác tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hoặc đơn vị tư vấn có uy
tín trong ngành. Thông qua khảo sát, các khó khăn, rào cản đối với các DN khi tham
gia vào chuỗi cung ứng - sản xuất điện tại Việt Nam đã được nhận diện, từ khâu
chuẩn bị đầu tư, thi công, vận hành và giao dịch trên TTĐ. Nội dung khảo sát được
mô tả dưới đây, trong phần phương pháp nghiên cứu sử dụng trong Chương 3.
Luận án đồng sử dụng phương pháp quy hoạch tuyến tính để giải bài toán
cân bằng cung - cầu điện năng trong tương lai (Chương 4). Bên cạnh đó các phương
pháp như hệ thống hóa, thống kê, so sánh, các phương pháp tổng hợp, phân tích
6
định tính và phân tích định lượng cũng được ứng dụng để tìm ra những đặc trưng
và tính quy luật tác động đến đối tượng nghiên cứu.
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tại Chương 1
Trong Chương 1, chủ yếu sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích để
đánh giá về quan điểm của các học giả trong nước cũng như trên thế giới về phát
triển TTĐ. Qua đó, rút ra những vấn đề đã được nghiên cứu và các vấn đề cần
nghiên cứu bổ sung và nghiên cứu mới về phát triển TTĐ tại Việt Nam.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tại Chương 2
Chương 2, chủ yếu sử dụng phương pháp hệ thống và khái quát hóa để đưa
ra những khái niệm cốt lõi và luận giải những vấn đề cơ bản về phát triển TTĐ.
Luận án đồng thời sử dụng phương pháp nghiên cứu đánh giá thực tiễn và kinh
nghiệm quốc tế về phát triển TTĐ để rút ra bài học cho Việt Nam.
4.2.3. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tại Chương 3
Chương 3, chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh,
tổng hợp, biểu đồ kết hợp với điều tra xã hội học … để đánh giá hiện trạng phát
triển TTĐ tại Việt Nam. Điều tra được tiến hành như sau:
Điều tra được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2017. Hình thức điều tra
là lập biểu khảo sát trực tuyến, gửi tới email của người được hỏi. NCS đã gửi các
biểu khảo sát trực tiếp tới trên 60 DN trong lĩnh vực đầu tư sản xuất điện trong và
ngoài nước, gửi gián tiếp qua quản trị viên của một số mạng lưới chuyên gia trong
lĩnh vực liên quan, thu được 24 ý kiến phản hồi. NCS nhận định rằng số lượng khảo
sát thu thập được tuy không lớn nhưng cơ bản đáp ứng được tính đại diện của mẫu
khi so sánh tương đối với số lượng các nhà máy điện đang giao dịch trên TTĐ Việt
Nam - hiện tại là 67 nhà máy. Biểu khảo sát được chia làm 3 phần chính được thiết
kế với phần lớn câu hỏi có cấu trúc, sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của người
được hỏi về các vấn đề liên quan đến khó khăn (yếu tố nội tại) và rào cản (yếu tố
bên ngoài) tác động đến hoạt động của DN trong lĩnh vực đầu tư, quản lý vận hành
các nhà máy sản xuất điện, bao gồm điện năng lượng tái tạo (NLTT).
Các yếu tố này được cấu trúc thành các 3 chính gồm:
- Các rào cản, khó khăn về quản lý, kỹ thuật - công nghệ
7
- Các rào cản, khó khăn về kinh tế - tài chính; và
- Các rào cản, khó khăn về môi trường giao dịch trên thị trường điện
- Các thang đánh giá được chia làm 5 mức như sau đối với khó khăn/rào cản
mà DN có thể gặp phải:
- Mức 1 tương ứng với “không phải là khó khăn/rào cản” đối với DN
- Mức 5 tương ứng với “là khó khăn/rào cản đáng kể” đối với DN
Ngoài ra NCS đã thiết kế một số câu hỏi mở để có thể thu thập một số thông
tin liên quan đến cảm nhận và ý kiến của những người được hỏi về các yếu tố vĩ mô
như môi trường kinh doanh, khung chính sách, thể chế điều tiết TTĐ. Các câu trả
lời thu được đã mang lại nhiều thông tin hữu ích đối với NCS trong việc kiểm
chứng hoặc xem xét các nhận định hoặc đề xuất các giải pháp phát triển TTĐ trong
phạm vi luận án này.
Hầu hết người tham gia khảo sát là đại diện các doanh nghiệp đã, đang và sẽ
tham gia đầu tư vào lĩnh vực sản xuất điện. Một số là đại diện cho đơn vị cung cấp
dịch vụ truyền tải, phân phối điện. Có 6 người tham gia khảo sát là các chuyên gia
trong ngành điện, hiện đang công tác tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hoặc đơn vị tư
vấn có uy tín trong ngành. Trong số các đơn vị sản xuất điện tham gia khảo sát, có tới
9 đơn vị tham gia lĩnh vực điện mặt trời (37.5%), 5 đơn vị trong lĩnh vực đầu tư điện
gió (20.8%), 3 đơn vị đầu tư trên cả hai lĩnh vực điện gió và điện mặt trời, 3 đơn vị
quản lý vận hành nhà máy nhiệt điện than, 3 đơn vị sản xuất thủy điện. Còn lại là các
doanh nghiệp trong lĩnh vực điện sinh khối.
4.2.4. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tại Chương 4
Tại Chương 4, trước tiên, NCS sử dụng phương pháp khái quát hóa những
vấn đề đã nghiên cứu ở Chương 2, Chương 3, cùng với đánh giá hiện trạng phát
triển của TTĐ hiện nay để đề xuất định hướng, giải pháp phát triển TTĐ tại Việt
Nam trong thời kỳ tới.
Đối với nội dung quan trọng là định hướng phát triển TTĐ tại Việt Nam
trong thời kỳ tới, NCS sử dụng kết quả dự báo tăng trưởng của TTĐ Việt Nam đến
năm 2030 của Viện Khoa học năng lượng – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam và sử dụng phương pháp quy hoạch tuyến tính để xác định cơ cấu nguồn
8
cung điện tương ứng, đảm bảo cân bằng cung cầu với ràng buộc tổng chi phí đầu tư
toàn hệ thống thấp nhất.
Xác định quy mô và cơ cấu nguồn cung điện năng nói riêng và nguồn cung
năng lượng nói chung, về bản chất là giải bài toán cân bằng cung cầu năng lượng. Bài
toán này có thể được xét với các quy mô khác nhau như ở cấp địa phương, cấp vùng,
cấp quốc gia hay liên quốc gia. Trong khuôn khổ luận án này, NCS xem xét bài toán
cân bằng cung cầu điện năng ở quy mô quốc gia trên cơ sở phân các phụ tải và nguồn
cung điện năng thành các vùng nhỏ hơn tương ứng với các miền Bắc – Trung -
Nam. Đây là phương pháp phổ biến thường áp dụng đối với bài toán cân bằng cung
cầu điện năng tại Việt Nam. Cách tiếp cận này sẽ không chỉ giúp làm rõ về quy mô,
cơ cấu năng lượng mà còn cho phép thực hiện các phân tích, tối ưu về truyền tải
điện năng, tối ưu về chi phí sản xuất nội vùng và liên vùng địa lý. Phương pháp cân
bằng cung cầu theo vùng sẽ phân tích các đặc trưng cơ bản của cung cầu và truyền
tải điện năng, các mối quan hệ giữa các thành phần của hệ thống qua đó đề xuất giải
pháp mô hình hóa tổng quát một vùng, mô hình hóa các hệ thống con (nếu có) và hệ
hàm mục tiêu cùng các ràng buộc mô hình hóa và giải bài toán cân bằng cung cầu
bằng phương pháp quy hoạch tuyến tính. Về nguyên tắc, mỗi vùng sẽ được mô phỏng
bởi ba yếu tố chính bao gồm:
- Đầu vào là những nguồn điện năng sản xuất tại vùng, nhập khẩu và vận tải
nội địa vào cùng đó: điện năng sản xuất từ thủy điện và năng lượng tái tạo sản xuất
của vùng đó, các loại nhiên liệu cho nhiệt điện, vận tải từ vùng khác đến, nhập
khẩu; khâu biến đổi và vận tải nội vùng là các nhà máy nhiệt điện và vận tải điện
trong vùng đang xét;
- Biến đổi và truyền tải trong vùng diễn ra tại các nhà máy sản xuất điện và
vận tải nội vùng. Các nhà máy điện được chia thành nhiều loại: nhiệt, thủy điện và
nguồn năng lượng tái tạo, trong đó các nhà máy nhiệt điện được phân loại theo loại
nhiên liệu sử dụng trong quá trình chuyển đổi từ nhiên liệu năng lượng sang điện
năng: khí thiên nhiên, than và dầu. Nguồn năng lượng tái tạo được chia thành các
nhà máy điện mặt trời, điện gió và các nhà máy nhiệt điện sử dụng sinh khối.
- Đầu ra là điện năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của vùng, vận tải cho xuất
khẩu và tới vùng khác.
9
Sự liên kết các vùng bằng các đường vận tải (hệ thống truyền tải) liên vùng sẽ tạo
thành hệ thống điện tổng thể.
Về mặt toán học, mô hình tổng thể cân bằng cung – cầu điện năng được xây
dựng như sau:
1 1
0T H
t h
H k
t h
S AX y S= =
+ − − = (1)
0 X D (2)
0 t tY R (3)
0 h h
kS S (4)
1
Hh
h
S S=
(5)
Trong đó:
t − nhóm khách hàng tiêu thụ điện; h − tiềm năng huy động nguồn cung điện
năng; X − vector lời giải của khâu sản xuất, biến đổi, hoặc truyền tải điện; tY −
vector lời giải tiêu thụ điện năng của nhóm khách hàng t ; h
kS − vector lời giải
(nghiệm) có thành phần tương ứng với các giá trị của tiềm năng huy động nguồn
điện năng h vào đầu các năm; HS − the vector which components are energy
resource stock values at the begin of season / vector lời giải (nghiệm) với thành
phần tương ứng với các giá trị của tiềm năng huy động nguồn cung điện năng h vào
cuối các năm; A − ma trận các hệ số kinh tế - kỹ thuật liên quan tới khâu sản xuất,
biến đổi, hoặc truyền tải điện; D − vector thể hiện năng lực sản xuất và truyền tải;
tR − vector nhu cầu tiêu thụ điện năng của nhóm khách hàng t ; hS − vector với các
thành phần đại diện cho khả năng huy động nguồn cung điện năng , h S − vector
với các thành phần tương ứng với khả năng lưu trữ điện năng.
Hàm mục tiêu là:
1 1
( , ) ( , ) ( , ) minТ H
t t h h h
k
t h
C Х r g q S S= =
+ + − → (6)
Trong đó:
- Thành phần đầu tiên của hàm mục tiêu đại diện cho tổng chi phí hoạt động
của toàn hệ thống. C là vectơ chi phí của các cơ sở sản xuất và truyền tải điện.
10
- Thành phần thứ hai của hàm mục tiêu mô tả tổn thất tài chính do thiếu hụt
điện năng. Phần cuối có giá trị bằng hiệu của hai đại lượng ( t tR Y− ); tr là vector chi
phí của tình trạng thiếu hụt năng lượng. Trong thực tế, việc ước lượng chi phí thực
của các thiệt hại do thiết hụt điện năng thường có những khó khăn nhất dịnh do bản
chất các thiệt hại là rất đa dạng, khó xác định và lượng hóa. Một cách tiếp cận phổ
biến là thiết lập các mức độ ưu tiên khác nhau đối với các nhóm khách hàng khác
nhau khi xem xét cấp điện.
- Thành phần thứ ba của hàm mục tiêu mô tả các thiệt hại, tổn thất do thiếu
các phương án dự phòng nguồn phát. Các hệ số của vector hq đặc trưng cho loại hình
công nghệ và địa điểm, khu vực dự phòng.
Với mô hình toán học được xây dựng, việc tính toán và đưa ra lời giải cân bằng
cung - cầu điện năng cần thực hiện một số lượng phép tính rất lớn. Bên cạnh đó, phải
thực hiện nhiều phân tích đối với lời giải hoặc phải lựa chọn phương án tương ứng với
mỗi sự thay đổi của các thông số đầu vào, các ràng buộc của mô hình hoặc các yếu tố
khác. Công việc này cần đến sự hỗ trợ của máy tính mà ở đó, mô hình toán học nêu
trên được xây dựng, lập trình và phát triển dưới dạng một phần mềm. Trong khuôn khổ
luận án này, NCS được Viện Khoa học năng lượng - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam cho phép sử dụng và chia sẻ bản quyền phần mềm Corrective mô-đun
1. Corrective là phần mềm hỗ trợ nghiên cứu cho phép đánh giá tổ hợp các phương án
cân bằng cung cầu năng lượng khác nhau, ban đầu được Viện Các Hệ thống năng
lượng Melentiev - Liên bang Nga phát triển. Năm 2010, phần mềm đã được chuyển
giao cho Viện Khoa học năng lượng - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam kèm theo việc xây dựng một mô hình năng lượng riêng cho Việt Nam. Phần
mềm và mô hình này cho phép nhà nghiên cứu có thể thực hiện các phân tích về thị
trường điện lực, cân bằng cung - cầu điện năng trong trung và dài hạn, các nghiên
cứu liên quan về an ninh năng lượng và kinh tế - môi trường - năng lượng… Một
tính năng nổi bật của Corrective là có thể mô phỏng tổ hợp (combinatoral
modelling) để tạo ra nhiều phương án phát triển khác nhau cho hệ thống xem xét,
trong đó có phát triển nguồn cung điện năng.
Cốt lõi của mô-đun 1 của Corrective (Hình 0.1) là các tập lệnh được viết trên
ngôn ngữ lập trình thông dịch Lua [55]. Corrective tích hợp bộ giải quy hoạch tuyến
11
tính số nguyên hỗn hợp lp_solve [50] để thực hiện chức năng giải các bài toán, phép
tính của mô hình, đưa ra lời giải (nghiệm) cho nhà nghiên cứu. Phần mềm
Corrective sẽ vận hành cùng cơ sở dữ liệu chạy trên nền tảng Firebird [46] có chức
năng lưu trữ dữ liệu ban đầu cũng như các kết quả tính toán.
Hình 0.1. Các khối chức năng của phần mềm Corrective mô-đun 1
Nguồn: [2]
Thành phần cốt lõi của Corrective mô-đun 1 là bộ thiết lập mô hình
(model generator), thực hiện chức năng đọc dữ liệu ban đầu từ cơ sở dữ liệu
hoặc nguồn dữ liệu khác, tạo ra các bài toán dưới dạng các hệ phương trình
tuyến tính như đã mô tả bằng các phương trình (1) - (6). Bộ thiết lập mô hình
chứa các quy tắc chuyển đổi dữ liệu ban đầu thành các vector và ma trận của
mô hình cân bằng cung - cầu điện năng. Nhà nghiên cứu có thể thay đổi các
quy tắc có sẵn hoặc thêm quy tắc mới.
Sau khi thực hiện các công việc thiết lập mô hình và tính toán, kết quả sẽ được
thể hiện ở dạng Bảng cân bằng điện năng định dạng HTML, có thể trích xuất ra các
định dạng phổ biến khác. Phần mềm cũng hỗ trợ phân tích các điểm yếu của hệ
thống theo các vùng địa lý nhờ giao diện đồ họa. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận
án, NCS không sử dụng chức năng này do phạm vi nghiên cứu không xét đến các
vấn đề tương tự như trên. Các bước tính toán chủ yếu, yêu cầu dữ liệu đầu vào của
Corrective sẽ được mô tả trong Phụ lục 4 của luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
Đóng góp về mặt khoa học:
12
Trong hiểu biết của NCS, đây là luận án đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu phát
triển TTĐ dưới góc độ kinh tế phát triển. Bằng cách sử dụng những phương pháp
nghiên cứu của kinh tế phát triển, NCS đã làm rõ thêm cơ sở lý luận về phát triển
TTĐ tại Việt Nam định hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh tranh, từ khái
niệm, nội dung, đặc điểm, các điều kiện và nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu phản
ánh sự phát triển của TTĐ. Thông qua việc tính toán và xác định cân bằng cung cầu
điện năng dựa theo phương pháp quy hoạch tuyến tính, luận án đã nhận dạng được
vấn đề chủ yếu trong giai đoạn đến 2030 của phát triển TTĐ tại Việt Nam là là bảo
đảm đủ nguồn cung điện năng với cơ cấu hợp lý và lượng dự phòng nguồn cung
thích hợp. Đây là yếu tố tiên quyết, trọng yếu để bảo vệ hệ thống điện nói riêng và
nền kinh tế nói chung trước các nguy cơ có thể xảy ra trong quá trình tự do hóa
TTĐ như sự cố thiếu hụt nguồn cung trên quy mô lớn lũng đoạn thị trường, biến
động về nguồn cung hoặc giá năng lượng trên thị trường năng lượng quốc tế hoặc
các nguyên nhân địa chính trị khác….
Đóng góp về mặt thực tiễn:
Luận án đã chỉ ra sự cần thiết phải giảm dần sự điều tiết của Nhà nước đối với giá
điện để thị trường điện vận hành theo cơ chế thị trường, qua đó khuyến khích đầu tư
phát triển ngành điện đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động đầu tư tư
nhân vào phát triển nguồn cung điện năng, bao gồm điện NLTT. Luận án chỉ ra rằng để
phát triển TTĐ bền vững hơn, cần thực hiện tốt quản lý nhu cầu điện và duy trì mức
tăng trưởng phù hợp. Đây là biện pháp hiệu quả để giảm thiểu áp lực lên nguồn cung
điện năng đảm bảo cơ cấu tiêu thụ hợp lý góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
6. Kết cấu của luận án
Ngoai phân mơ đâu, kêt luân, danh mục các công trình khoa học đã được công
bố của tác giả liên quan đến luận án, phu luc va danh mục tai liêu tham khao, nôi
dung cua luận án bao gôm bốn chương, mười hai tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển thị trường điện lực
Chương 3: Thực trạng phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam
Chương 4: Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam
13
Chương 1
TÔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
Việc cung cấp nguồn điện năng một cách kinh tế và tin cậy là nền tảng
không thể thiếu để cung cấp nhiều dịch vụ quan trọng cho cuộc sống hiện đại. Điện
năng là đầu vào chủ yếu cho một loạt các hoạt động tiêu thụ trong hộ gia đình, vận
tải và sản xuất kinh doanh. Ngành điện cũng là ngành công nghiệp chủ chốt của hầu
hết các nền kinh tế trên thế giới. Các nghiên cứu về phát triển TTĐ của các học giả
nước ngoài đã được giới thiệu từ trên 30 năm qua, với đóng góp từ rất nhiều công
trình nghiên cứu hàn lâm cũng như các nghiên cứu đúc kết từ thực tiễn phát triển và
đảm bảo cân bằng cung - cầu điện năng, xây dựng và vận hành TTĐ ở các quốc gia
với nền thể chế khác nhau.
Về định hướng phát triển và đảm bảo cung cầu năng lượng nói chung và
điện năng nói riêng, nghiên cứu tổng quan cho thấy các học giả đồng thuận trên
các vấn đề lớn là: nhu cầu tiêu thụ điện cần được phát triển hợp lý trên cơ sở sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả, giảm dần sự phụ thuộc và tài nguyên hóa thạch và tăng
tỉ trọng của các nguồn NLTT. Theo nhận định của Holger Rogallviệc sản xuất và sử
dụng năng lượng tự thân đã chứa đựng những rủi ro và các vấn đề nghiêm trọng
khác gây hậu quả xấu cho xã hội và môi trường [20]. Do vậy, phát triển năng lượng
cần tuân theo những nguyên tắc của sự phát triển bền vững, theo đó giảm sự phụ
thuộc của hệ thống vào năng lượng nguyên tử và nhiên liệu hóa thạch, đồng thời
vẫn phải duy trì các dịch vụ năng lượng trong vai trò then chốt ở quá trình tái sắp
xếp xã hội công nghiệp. Một chính sách năng lượng được xem là bền vững nếu thỏa
mãn được ba nhóm yêu cầu chính [42; 49; 73]:
1) Khía cạnh sinh thái: ứng phó với tình trạng trái đất ấm dần lên, có xét đến
những giới hạn chịu đựng của thiên nhiên, giảm sự phụ thuộc vào những tài nguyên
năng lượng không tái tạo được, khai thác trong khả năng tái tạo của những nguồn
tài nguyên tái tạo, và giảm dần những mối nguy hiểm cho sức khỏe con người từ
bức xạ, ô nhiễm và chất thải;
2) Khía cạnh kinh tế: phát triển năng lượng phải tính đến các hiệu ứng với nền
kinh tế như chi phí, tạo việc làm, thỏa mãn đủ nhu cầu năng lượng với chi phí hợp
14
lý, mức độ tập trung hóa thấp, sự phụ thuộc vào nguyên liệu thô và yếu tố hiệu quả -
cạnh tranh trong sử dụng.
3) Khía cạnh văn hóa - xã hội: xem xét đến khả năng chịu đựng của xã hội, bảo
đảm khả năng cung cấp năng lượng trong dài hạn, góp phần tránh những xung đột
quốc tế và có độ an toàn cao [20].
Với nhận định rằng hai thách thức lớn nhất của chiến lược phát triển năng
lượng là giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và ứng phó với biến đổi khí
hậu, các tác giả Vaughn Nelson, Christian Ngô và Joseph Natowitz đã chỉ ra hai
chiến lược cốt lõi của một chính sách năng lượng bền vững đó là:
1) Xây dựng hệ thống tiêu dùng năng lượng thông minh, trong đó năng lượng
được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả. Với các nước phát triển và những nền kinh tế mới
nổi, có mức tăng tưởng cao, sẽ có nhiều cơ hội để tiết giảm mức độ, nhu cầu tiêu thụ
năng lượng để tiến sát tới nhu cầu thực về năng lượng cho kinh tế - xã hội [67; 70];
2) Tiến tới hệ thống ít sử dụng và giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa
thạch, đẩy mạnh sử dụng NLTT và thận trọng phát triển năng lượng nguyên tử. Đây
là các dạng năng lượng phi các-bon và không phát thải CO2 khi tiêu thụ năng
lượng. Mức đóng góp của các dạng nhiên liệu năng lượng phi các-bon hiện chiếm
khoảng 20% tổng tiêu thụ nhiên liệu sơ cấp trên toàn cầu [67; 70].
Báo cáo Đánh giá năng lượng toàn cầu - Hướng tới một tương lai bền vững,
do Học viện Quốc tế về Phân tích các hệ thống ứng dụng (IIASA) xuất bản năm
2012 đã nhận định rằng các nguồn NLTT có trữ lượng phong phú, sẵn có và chi phí
sản xuất ngày càng rẻ. Các TTĐ cần thay đổi cơ bản trong việc sử dụng nhiên liệu hóa
thạch để chuyển đổi hướng tới các hệ thống năng lượng sạch và ít phát thải khí nhà
kính (KNK) [12]. Các chuyên gia của IIASA nhận định rằng cần có cách tiếp cận tổng
thể trong phát triển bền vững các thị trường năng lượng, trong đó các chính sách năng
lượng cần kết hợp với các chính sách trong các ngành công nghiệp, xây dựng, đô thị
hóa, giao thông vận tải... Quan trọng hơn, cần có chính sách, quy định và các cơ chế
đầu tư ổn định thúc đẩy quá trình chuyển đổi nhanh các hệ thống năng lượng theo
hướng sử dụng năng lượng hiệu quả và đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng nói
chung và điện năng nói riêng [12].
Về xây dựng và vận hành TTĐ, trong giai đoạn những năm 1990 khi trào lưu
tự do hóa ngành điện và cải thiện cơ chế cạnh tranh trên TTĐ tại các quốc gia tiên
15
phong tại châu Âu và Bắc Mỹ, các nghiên cứu của P. Joskow, S. Littlechild, D.
Newberry, M. Pollitt và một số học giả khác đã mở đầu và đặt nền móng về lý thuyết
cho việc xây dựng thành công TTĐ. Đây cũng chính là những kinh nghiệm được đúc
rút từ chính quá trình xây dựng và phát triển TTĐ tại các quốc gia này. Các công trình
nghiên cứu đáng chú ý trong thời kỳ này là:
• Điều tiết các DN độc quyền đã tư nhân hóa tại Anh quốc, Beesley, M. and S.
Littlechild (1989)
• Các vấn đề về tự do hóa ngành điện, David M. Newbery (1996);
• Tư nhân hóa và tự do hóa các công ty truyền tải, David M. Newbery (1997);
• Thiết kế TTĐ cạnh tranh, Tập sách do Frederick S. Hillier biên tập (1998);
• Các bài học kinh nghiệm của quá trình tự do hóa TTĐ, P. Joskow (2006);
• Tái cơ cấu ngành điện: xét trên quan điểm quốc tế, do Fereidoon P. Sioshansi
và Wolfgang Pfaffenberger biên tập (2006);
Trước khi có làn sóng cải cách ngành điện trên khắp thế giới, mô hình sản
xuất - cung ứng điện năng truyền thống được xây dựng dựa vào các nhà cung cấp
“độc quyền” có sự điều tiết của nhà nước đối với giá cả, điều kiện gia nhập thị
trường, quản lý đầu tư, kiểm soát chất lượng dịch vụ và hành vi DN. Đây được xem
là mô hình “độc quyền tự nhiên”. Tuy nhiên các nghiên cứu của Joskow chỉ ra rằng,
cấu trúc ngành điện cần thay đổi theo hướng: thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực
phát điện, cải cách điều tiết khâu truyền tải và phân phối điện vốn tiếp tục được xem
là các thể chế/đối tượng/chủ thể “độc quyền tự nhiên” [59].
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra xu thế cải cách ngành điện trên thế giới nói
chung diễn ra tương tự như mô hình thành công của các ngành công nghiệp hạ tầng
mạng lưới khác như viễn thông và khí tự nhiên [59; 63; 68; 69]. Các khu vực có nhiều
tiềm năng để tạo ra cạnh tranh như phát điện được chia tách khỏi các chủ thể độc
quyền tự nhiên như là các đơn vị truyền tải và phân phối điện [52]. Theo đó, chi phí
gia nhập và rời khỏi thị trường đối với các khu vực cạnh tranh dần được phi điều
tiết và khách hàng có thêm cơ hội lựa chọn giữa các nhà cung cấp trong môi trường
cạnh tranh [45]. Các dịch vụ cung cấp bởi khu vực độc quyền tự nhiên đang được
tách khỏi khu vực dịch vụ cạnh tranh, có trách nhiệm bảo đảm sự tiếp cận hạ tầng
lưới điện công bằng cho các đơn vị phát điện và giá sử dụng hạ tầng lưới điện được
16
xác định bằng các cơ chế điều tiết mới có cách thức kiểm soát chi phí tốt hơn thay
vì quy trình điều tiết theo tỉ suất lợi nhuận [59].
Sự thay đổi sâu rộng nói trên nhìn chung đều hướng đến hai mục đích tăng
hiệu quả kinh tế và cung cấp nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng sử dụng điện
thông qua việc tạo ra mức độ cạnh tranh lớn hơn cho toàn ngành [64].
Các nghiên cứu cũng chỉ ra kết quả tích cực của việc cải cách ngành điện:
trong hơn 30 năm qua, phần lớn các nước phát triển đã tiến hành các chương trình
tư nhân hóa, tái cơ cấu và phi điều tiết các lĩnh vực mà trước đó là sân chơi của các
chủ thể độc quyền hoặc sở hữu nhà nước như hàng không, vận tải, viễn thông, khí
tự nhiên, bưu chính, tàu hỏa và một số lĩnh vực khác. Mặc dù kết quả đạt được có
khác nhau và không phải lúc nào cũng thành công nhưng xu thế chung là ủng hộ
cho các cải cách mang tính tự do hóa đối với các lĩnh vực độc quyền có điều tiết.
Mô hình cạnh tranh cho TTĐ từ cấp độ độc quyền có điều tiết cho tới cạnh
tranh hoàn toàn đã được Hunt và Shuttleworth đề xuất bao gồm bốn cấp độ [54]:
- Cấp độ 1: độc quyền ở đó đơn vị độc quyền kiểm soát toàn bộ chuỗi cung
ứng bao gồm sản xuất, truyền tải, phân phối điện;
- Cấp độ 2: cạnh tranh trong khâu sản xuất điện, thị trường mở cửa có thêm sự
tham gia của các đơn vị sản xuất điện độc lập
- Cấp độ 3: cạnh tranh bán buôn, khi các công ty phân phối điện được mua
điện trực tiếp từ các nhà sản xuất điện;
- Cấp độ 4: cạnh tranh bán lẻ, khi đó thị trường ở trạng thái cạnh tranh cao
nhất, khách hàng dược quyền lựa chọn nhà cung cấp điện ở cấp độ bán lẻ.
Về cơ chế giá điện, các nghiên cứu gần đây của EU, UNDP, World Bank,
GIZ đều có chung nhận định giá điện bán lẻ bình quân tại Việt Nam hiện nay ở mức
tương đối thấp và vẫn tồn tại trợ giá, đặc biệt cho nhiên liệu hóa thạch ở các hình
thức khác nhau [89; 52; 84; 85; 86]. Nhà nước có các can thiệp và điều chỉnh đối
với giá điện mà đôi khi làm cho thị trường không vận hành được theo các lộ
trình xây dựng và cải thiện mức độ cạnh tranh trong ngành điện. Các khuyến cáo
của các tổ chức quốc tế đều tập trung vào đề xuất các giải pháp gỡ bỏ các chính
sách trợ giá, mở cửa và hạ thấp rào cản tiếp cận TTĐ, tiến hành cải cách cơ chế
quản lý giá điện để thị trường vận hành hiệu quả hơn và thu hút được đầu tư vào
sản xuất - cung ứng điện.
17
Bên cạnh đó, xây dựng chính sách, cơ chế quản lý và điều tiết TTĐ cũng
là một nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu của nhiều
học giả. Đây là các nghiên cứu cung cấp những kiến giải sâu sắc và các ví dụ
sinh động từ thực tế quản lý và điều tiết thị trường tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Nền móng lý thuyết và các kinh nghiệm đúc rút từ thực tế được công bố
tại các nghiên cứu của các tác giả Cushman, Littlechild, North, Moen và
Hamrin, và Stern [47; 63; 65; 72; 77; 78].
Tác giả Cushman đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc đảm bảo tính
độc lập của các cơ quan điều tiết trong việc thực thi quyền hạn và chức năng của họ.
Ông lập luận rằng khi cơ quan điều tiết có sự độc lập thì họ có khả năng tốt hơn
trong việc thuê nhân sự có năng lực và trình độ vì họ ít bị ràng buộc hơn theo quy
định chung về lương bổng cho nhân sự khu vực hành chính công [47]. Các cơ quan
độc lập cũng được cho là có các định hướng hoạt động - công tác trong dài hạn tập
trung hơn và ít bị ảnh hưởng hơn bởi các mục tiêu ngắn hạn [58; 62]. Việc đánh giá
và đo lường sự độc lập của cơ quan điều tiết được Stern đề xuất năm 1997 như sau:
Khoảng cách giữa chính phủ và cơ quan điều tiết đo lường theo các yếu tố như việc
thành lập và giải tán các cơ quan điều tiết, ngân sách cho các cơ quan điều tiết, và
quan hệ giữa cơ quan điều tiết và chính phủ (ví dụ như một đơn vị riêng biệt với các
bộ, ngành khác, cơ quan độc lập với chính phủ) [51; 77].
B. Mountain và S. Littlechild cho rằng có thể xem xét mức độ độc lập của cơ
quan điều tiết điện lực thể hiện ở quy trình thành lập hoặc giải tán (hoặc cơ chế bảo
đảm nhiệm kỳ cho thành viên), nguồn ngân sách hoạt động của cơ quan điều tiết.
Đây được xem là các yếu tố chủ chốt trong việc đảm bảo sự vận hành có hiệu quả
của cơ quan điều tiết [66].
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
Là một quốc gia đang phát triển, có thể chế kinh tế, chính trị mang nhiều đặc
thù và là một trong những quốc gia trong nhóm thu nhập trung bình thấp có tăng
trưởng kinh tế ấn tượng nhất trong gần hai thập kỷ qua, Việt Nam có những bài
toán, vấn đề liên quan đến phát triển hạ tầng điện lực phức tạp và riêng biệt so với
nhiều quốc gia khác. Các nghiên cứu được thực hiện theo các cách tiếp cận truyền
thống về phát triển cung - cầu cho TTĐ thông qua quy hoạch phát triển điện lực, cơ
18
chế quản lý nhu cầu điện, cơ chế giá. Gần đây, các học giả đã xem xét sâu hơn về
các cơ chế, nền tảng cạnh tranh cho TTĐ thông qua các đề xuất hoặc nghiên cứu về
thiết kế các hình thái cạnh tranh cho khâu sản xuất điện (thị trường phát điện), khâu
bán buôn điện (thị trường bán buôn điện) và khâu phân phối, bán lẻ điện (thị trường
bán lẻ điện). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đã bàn luận về các định hướng, giải
pháp phát triển cung điện năng, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong đó có
các đánh giá về tiềm năng khai thác nguồn NLTT, cơ chế thúc đẩy đầu tư tư nhân
hay khả năng can thiệp của Nhà nước vào thị trường thông qua cơ chế giá mua hoặc
bao tiêu cho đầu ra của các nhà máy điện tái tạo. Các lý thuyết kinh điển hoặc kinh
nghiệm tại các nước phát triển về xây dựng và phát triển TTĐ đều được nghiên cứu
và áp dụng từng bước, một cách thận trọng, xem xét kỹ lưỡng tất cả các đặc điểm về
thể chế, trình độ phát triển, cách thức vận hành bộ máy quản lý và các thành viên
tham gia TTĐ tại Việt Nam. Đây cũng là xu hướng chung đối với các nghiên cứu
trong nước về xây dựng và phát triển TTĐ tại Việt Nam.
1.2.1. Nghiên cứu về phát triển và bảo đảm cân bằng cung-cầu điện năng
Về cơ sở khoa học đối với phát triển và bảo đảm cân bằng cung - cầu điện
năng trong đó định hướng chính sách phát triển nguồn điện năng trong nước, các
nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề về những yếu kém nội tại của hệ thống năng
lượng Việt Nam nói chung và ngành điện nói riêng, bao gồm các khâu từ khai thác,
sản xuất, biến đổi, truyền tải và sử dụng điện năng, định hướng và khung chính sách
phát triển nguồn điện năng theo hướng phát triển bền vững, trong vai trò là một
ngành chủ lực của hệ thống kết cấu hạ tầng. Trình độ phát triển của ngành vẫn còn
nhiều yếu kém, bất cập, đông thơi phai đôi măt vơi nhiêu thach thưc ca nội tại và
khách quan như: hiệu suất chung của ngành điện còn thấp; hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các cơ sở năng lượng chưa cao; cơ chế điều hành giá điện còn nhiều bất
cập; trạng thái an ninh năng lượng quốc gia chưa đảm bảo và cơ chế quản lý ngành
ở cấp quốc gia thiếu tính tổng thể [18].
Theo nghiên cứu của Viện Khoa học năng lượng - Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, dự kiến tổng nhu cầu tiêu thụ điện năng quốc gia sẽ đạt trên
500 triệu kWh vào năm 2030 tương đương với mức tăng trưởng 400% cho giai
đoạn 2010 – 2030 [16]. Đây là mức tăng trưởng rất cao, gây sức ép đầu tư xây dựng
19
các công trình nguồn điện năng, gia tăng các hậu quả tiêu cực tới môi trường do sản
xuất năng lượng và ảnh hưởng tới an ninh năng lượng quốc gia. Các tác giả Bùi Huy
Phùng, Ngô Tuấn Kiệt và Đoàn Văn Bình cũng nhận định sẽ có khả năng xảy ra mất
cân đối cung - cầu của nguồn năng lượng sơ cấp trong nước, dẫn đến việc phụ thuộc
nhiều hơn vào nguồn năng lượng nhập khẩu và ảnh hưởng đến cung cầu tiêu thụ điện
năng trên quy mô toàn quốc [16; 2]. Điều đó cũng cho thấy vấn đề năng lượng của Việt
Nam sẽ chuyển từ giới hạn trong phạm vi một quốc gia thành một phần của thị trường
quốc tế và chịu sự tác động nhiều hơn từ các tương tác mới này [1].
Nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Mạnh Cường đã
đánh giá hiện trạng của hạ tầng phục vụ sản xuất - cung ứng điện tại Việt Nam, chỉ
ra một số điểm yếu như : nhu cầu điện tăng nhanh; sử dụng điện còn lãng phí; các
nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt, trong khi nhập khẩu nhiên liệu gặp
nhiều khó khăn; lưới truyền tải điện dài, kém tin cậy cung cấp điện [33]. Theo các
tác giả, nhu cầu điện tại Việt Nam có thể có xu hướng tăng trưởng ở tốc độ thấp hơn
nhờ vào các hoạt động sử dụng điện hiệu quả, tiết kiệm, qua đó giảm bớt gánh nặng
đầu tư và tiêu tốn tài nguyên NL trong nước, giảm bớt nhập khẩu, giảm bớt sự phụ
thuộc bên ngoài. Về cơ cấu phát triển nguồn điện, nghiên cứu đề xuất khuyến khích
và có cơ chế hợp lý để tăng cường tỷ trọng nguồn NLTT, giảm bớt phát thải gây
hiệu ứng nhà kính, phù hợp với định hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững. Về lưới truyền tải, cần thiết quy hoạch cấu trúc lưới hợp lý, phù hợp với điều
kiện phân bố tài nguyên, phù hợp với bố trí các nguồn điện và trung tâm phụ tải,
giảm tổn thất, hạn chế truyền tải xa, giảm bớt dòng ngắn mạch. Đây là các giải pháp
để hướng tới mục tiêu giải quyết mối quan tâm hàng đầu của quốc gia trong ngành
công nghiệp điện lực là vấn đề an ninh trong cung cấp điện, an ninh năng lượng.
Trong nghiên cứu về tiềm năng kinh tế của NLTT để phát điện tại Việt
Nam, tác giả Nguyễn Thanh Nhân và Hà Dương Minh đã sử dụng Mô hình quy
hoạch tổng hợp tiếp cận từ dưới lên để đánh giá tiềm năng kinh tế của NLTT
phục vụ phát điện tập trung (nối lưới). Phân tích các kịch bản cho thấy việc sử
dụng các nguồn NLTT sẽ góp phần giảm tỉ trọng của nhiệt điện than trong hệ
thống điện từ 44% xuống còn 39%, giai đoạn 2010 - 2030. Hệ quả là phát thải
KNK của hệ thống điện sẽ giảm từ 4% đến 8%. Việc sử dụng NLTT cũng được
chứng minh là có thể giảm áp lực đầu tư của hệ thống điện đối với các nhà máy
20
sử dụng công nghệ nhiên liệu hóa thạch khoảng 4,400 MW. Đây là mức thay thế
có ý nghĩa trong việc đảm bảo nguồn than trong nước, giảm nhập khẩu than và
khí, nâng cao mức độ độc lập và an ninh năng lượng quốc gia [71].
Về phía quản lý nhu cầu và tăng trưởng tiêu dùng điện bền vững, nghiên cứu
của các tác giả Bui Huy Phung và Trân Viêt Ngai dựa trên những phân tích tương
quan giữa cơ cấu kinh tế và phát triển hạ tầng năng lượng đã nhận định răng: Việt
Nam cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có cường độ năng lượng thấp,
thực hiện giải pháp thay thế các thiết bị hiệu suất thấp, áp dụng công nghệ mới, sản
xuất các trang thiết bị hiệu suất cao, khuyến khích về thuế cho các DN tiết kiệm
năng lượng, miễn giảm thuế thu nhập từ các hoạt động tiết kiệm năng lượng, miễn
giảm thuế thu nhập hàng hóa và thiết bị tiết kiệm điện năng, trợ giá cho đầu tư các
dây chuyền sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng và các dự án tiết kiệm năng
lượng, ban hành tiêu chuẩn bắt buộc về tiêu thụ năng lượng cho thiết bị [17].
1.2.2. Nghiên cứu về cơ chế giá điện cho thị trường điện lực
Các nhà nghiên cứu tại Viện Năng lượng - Bộ Công Thương (BCT) đã thực
hiện một số nghiên cứu về cơ chế giá điện cho TTĐ, bao gồm các nghiên cứu về giá
bán lẻ và giá truyền tải. Tác giả Tiết Minh Tuyết đã nghiên cứu ảnh hưởng của cơ
chế điều chỉnh giá điện đến cơ cấu thành phần phụ tải trong dự báo nhu cầu điện.
Nghiên cứu đã chỉ ra cơ chế giá điện là giải pháp có tác dụng lớn nhất trong việc
điều hòa biểu đồ của hệ thống, cũng như giá phản ánh được giá trị sử dụng và các
yếu tố giá điện liên quan đến khách hàng tiêu thụ [35]. Việc thiết kế cơ chế giá phù
hợp sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho phía nhà cung cấp, khách hàng sử dụng điện
mà còn mang lại lợi ích kinh tế cho toàn xã hội. Trong nghiên cứu về phân tích
tương quan giá các dạng năng lượng Việt Nam, các tác giả Tiết Minh Tuyết và
Nguyễn Chí Phúc đã tiến hành phân tích sự tương quan giá các dạng năng lượng
chính của Việt nam bao gồm than, dầu, khí và điện, và xác định giá tương đối để
đưa ra cơ cấu giá các dạng năng lượng này theo hướng thị trường phù hợp [36].
Nghiên cứu đã chỉ ra được mức độ tương đối về giá các dạng năng lượng so sánh
tương quan với giá than cho sản xuất điện. Để giá các dạng năng lượng phản ánh
đúng theo thị trường, nhất là các dạng năng lượng có ảnh hưởng lớn từ thị trường
khu vực, thì cần phải xác định giá tương đối quy về năng lượng cơ sở tương đương
21
với thị trường khu vực. Từ đó có thể so sánh mức độ giữa giá các dạng năng lượng
chủ yếu so với giá than bình quân cho sản xuất điện là bao nhiêu sẽ hợp lý như: giá
dầu so với giá than; giá khí so với giá than và giá điện so với giá than.
Nhóm các tác giả Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Anh Dũng là một trong
những nhóm nghiên cứu đầu tiên xem xét vấn đề xác định giá truyền tải điện phục
vụ vận hành TTĐ tại Việt Nam [34]. Các tác giả này đã tập trung nghiên cứu giá
truyền tải hợp lý và các phương pháp hạn chế tắc nghẽn mạch trong điều kiện thị
trường và đề xuất phương pháp tính giá truyền tải và phương thức chống tắc
nghẽn áp dụng cho thị trường điện Việt Nam trong giai đoạn phát triển thị trường
bán buôn cạnh tranh cũng như các cấp độ phát triển cao hơn của thị trường.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích đánh giá các phương pháp tính phí truyền tải điện
đang áp dụng, tính toán minh họa theo phương pháp chi phí gia tăng bình quân
dài hạn “Long Run Average Incremental Cost -LRAIC” và trình bày kết quả tính
toán, phí truyền tải điện cho hệ thống điện trong giai đoạn 2010-2025. Phương
pháp nêu trên được khuyến nghị sử dụng để tính toán tham chiếu cho các dự báo
dài hạn bên cạnh phương pháp “tem thư” đang được áp dụng hiện nay.
1.2.3. Phát triển cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ thị trường điện lực và
tái cơ cấu ngành điện
Phát triển cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ thị trường điện lực và tái cơ
cấu ngành điện là các quá trình gắn bó mật thiết với xây dựng TTĐ. Khi khảo
cứu về ngành điện và TTĐ Việt Nam, NCS nhận thấy đã có một số nghiên cứu
tại Việt Nam xem xét vấn đề trên. Cải cách ngành điện tạo ra các điều kiện cần
thiết để xây dựng và vận hành TTĐ, trong khi việc phát triển thành công TTĐ sẽ
là động lực chính để cải cách ngành điện. Các nghiên cứu và các văn bản pháp
quy của Chính phủ đều nhìn nhận nội dung trọng tâm của tái cơ cấu ngành điện
là cấu trúc lại tổ chức và hoạt động của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) theo
định hướng nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải điện, quản lý khâu điều
độ và một số nhà máy điện lớn, có vai trò chiến lược. Các khu vực và bộ phận
khác của EVN được chia tách và từng bước cổ phần hóa, tạo sự cạnh tranh và
nâng cao minh bạch trong hoạt động của ngành điện [43; 82]. Dưới đây là một số
nghiên cứu nổi bật về vấn đề này.
22
Đề tài “Nghiên cứu về lộ trình hình thành và phát triển thị trường năng lượng
Việt Nam” [3] của Bộ Công nghiệp (nay là BCT) và Báo cáo “Nghiên cứu về lộ
trình cải cách ngành điện Việt Nam, dự án “TA 3763-VIE” do ADB tài trợ [40] đã
phân tích lộ trình thích hợp cho việc hình thành và phát triển TTĐ Việt Nam. Đây
chính là cơ sở để ban hành Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg về phê duyệt lộ trình,
các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ TTĐ tại Việt Nam. Theo đó, TTĐ
sẽ phát triển qua ba cấp độ: thị trường phát điện cạnh tranh, thị trường bán buôn
cạnh tranh và thị trường bán lẻ cạnh tranh.
Công tác chuẩn bị, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, xây dựng năng lực
và hạ tầng kỹ thuật phục vụ xây dựng và vận hành thị trường phát điện cạnh tranh
đã được nghiên cứu, đề xuất trong Báo cáo “Đề án thiết kế tổng thể thị trường phát
điện cạnh tranh và tái cơ cấu ngành điện cho phát triển TTĐ” của Cục Điều tiết điện
lực (CĐTĐL) thực hiện [7].
Trong quá trình tái cơ cấu ngành điện, việc cấu trúc lại Tập đoàn Điện lực
Việt Nam và các đơn vị thành viên, vấn đề xây dựng và hoàn thiện cơ cấu khâu
truyền tải đã được một số học giả và nghiên cứu sinh chú ý, nghiên cứu.
Luận án Tiến sỹ của tác giả Cao Đạt Khoa về mô hình tổ chức và cơ chế
quản lý khâu truyền tải điện ở Việt Nam đã đề cập đến các vấn đề quan trọng của tái
cấu trúc phục vụ phát triển ổn định ngành điện, thay đổi mô hình tổ chức và cơ chế
quản lý khâu truyền tải điện [15]. Luận án đã phân tích một số khía cạnh về thể chế
quản lý trong lĩnh vực truyền tải trong đó chỉ ra một số gợi ý về mô hình phù hợp
cho truyền tải điện Việt Nam trong bối cảnh xây dựng và phát triển TTĐ [15]. Định
hướng tổ chức và cải cách thể chế, cơ chế quản lý khâu truyền tải điện ở Việt Nam
được tác giả Cao Đạt Khoa đề xuất là:
• Phi tập trung hóa quản lý và giao quyền/phân cấp mạnh hơn cho các Công ty
truyền tải điện
• Thế chế hóa và gia tăng tính độc quyền của hoạt động truyền tải điện cho
đơn vị truyền tải duy nhất
• Gia tăng sự độc lập vận hành của đơn vị truyền tải , tách bạch chức năng
quản lý hành chính và quản lý phần vốn nhà nước tại Tổng công ty Truyền tải điện
Quốc gia của BCT, đảm bảo sự quản lý của BCT đối với Tổng công ty Truyền tải
điện Quốc gia là quản lý nhà nước, không phải quản lý kinh tế
23
Tuy nhiên Luận án nêu trên chưa đề cập chi tiết đến cách thức điều tiết các đơn
vị truyền tải trong TTĐ cạnh tranh, đặc biệt là khi thị trường chuyển lên cấp độ bán
buôn cạnh tranh, khi có sự cạnh tranh mua điện giữa các công ty điện lực, thay vì cơ
chế một đơn vị mua buôn duy nhất là EVN như hiện nay.
Nghiên cứu của Tổ chức phát triển Liên Hiệp Quốc năm 2012 cũng đánh giá
sơ bộ quá trình cải cách ngành điện song song với quá trình cấu trúc lại và sắp xếp
lại EVN. Tuy nhiên báo cáo nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ cập nhật tiến độ cải
cách, đưa ra một số nhận định chung về các nhiệm vụ cải cách như giá điện, sắp xếp
các công ty thuộc EVN, cải cách thể chế về cơ chế làm việc của CĐTĐL trực thuộc
BCT [43]. Báo cáo đồng thời cũng chỉ ra một số khó khăn của quá trình cải cách ngành
điện về mặt tổ chức, thu hút đầu tư từ tư nhân, phân tích các bên liên quan và đưa ra
một số khuyến nghị để đẩy nhanh quá trình cải cách. Tuy nhiên, các phân tích và
khuyến nghị của báo cáo chưa làm rõ nét vai trò quan trọng của cải cách thể chế quản
lý và điều tiết thị trường tại Việt Nam, do đó, không tập trung vào vấn đề nâng cao hiệu
quả quản lý, điều tiết của thể chế hiện tại.
1.2.4. Phát triển mô hình cạnh tranh của thị trường điện lực Việt Nam
Theo lộ trình phát triển, TTĐ Việt Nam sẽ trải qua các cấp độ tương ứng với
việc tự do hóa hoặc cải cách lần lượt ở các khâu sản xuất, truyền tải và phân phối
điện. Ở khâu tự do hóa sản xuất điện, BCT đã chủ trì nghiên cứu, thiết kế thị trường
phát điện cạnh tranh và ban hành các quy định về quản lý và điều tiết thị trường từ
năm 2009. Cho đến nay thị trường đã trải qua giai đoạn thực hiện thí điểm từ tháng
7 năm 2011 và vận hành chính thức từ tháng 7 năm 2012. Thị trường phát điện cạnh
tranh được phát triển nhằm đáp ứng được các mục tiêu cơ bản sau:
- Đảm bảo cung cấp điện ổn định, đảm bảo thu hút đủ vốn đầu tư vào ngành
điện nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của phụ tải, đồng thời hạn chế những xáo
trộn lớn về cấu trúc ngành ảnh hưởng đến việc vận hành của hệ thống điện.
- Thu hút đầu tư từ các nguồn lực mới, đặc biệt là các nhà đầu tư tư nhân và
nước ngoài.
- Tăng sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động và có giá điện hợp lý,
mức độ cạnh tranh trong TTĐ sẽ tăng lên dần dần để tạo ra những động lực mạnh
mẽ khuyến khích nâng cao hiệu quả.
24
Đối tượng tham gia thị trường là các các nhà máy điện có công suất đặt lớn hơn
30MW đấu nối trực tiếp vào lưới điện quốc gia bắt buộc phải tham gia cạnh tranh bán
điện (trừ các nhà máy được đầu tư theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao
(BOT), các nhà máy điện gió, địa nhiệt…). Từ năm 2015, các nhà máy thủy điện có
công suất đặt đến 30 MW, đấu nối lưới điện cấp điện áp từ 110 kV trở lên, đáp ứng đủ
các điều kiện về cơ sở hạ tầng được quyền lựa chọn tham gia TTĐ.
Đối với cấp độ thị trường bán buôn điện, bên cạnh các đề án nghiên cứu của
BCT, các nhà nghiên cứu và các luận án đã xem xét vấn đề xây dựng TTĐ từ quan
điểm tổng thể cho đến thiết kế chi tiết của thị trường.
Luận án của tác giả Nguyễn Thành Sơn “Xây dựng và phát triển thị trường
bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam” bảo vệ năm 2014 đã đánh giá thực trạng TTĐ
Việt Nam xét trên khía cạnh hoạt động của TTĐ theo lộ trình do Chính phủ phê
duyệt và các chức năng của thị trường được thực hiện ra sao trong việc cung cấp đủ
điện cho - phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó luận án phân tích và chỉ ra các tồn tại
của TTĐ trên các khía cạnh:
- Mối quan hệ của các chủ thể tham gia TTĐ chưa thực sự minh bạch;
- Lưới điện truyền tải phát triển chưa đồng bộ với nhu cầu phụ tải;
Một trong những nguyên nhân gây ra các hạn chế, tồn tại được chỉ ra là:
quản lý nhà nước với TTĐ còn nhiều bất cập về hình thái tổ chức và hoạt động của
EVN chứa đựng các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến động lực và hiệu quả hoạt động
kinh doanh (do sở hữu lớn, cấu trúc thị trường mất cân đối), không khuyến khích
cạnh tranh (là yếu tố sống còn liên quan trực tiếp đến sự vận hành của TTĐ) giữa
các công ty thuộc EVN và giữa EVN với các đơn vị sản xuất điện độc lập, các nhà
máy điện theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT). Tuy nhiên tác
giả chưa chỉ ra những nguyên nhân nội tại trực tiếp liên quan đến TTĐ mà ở đó, có
những yếu tố ảnh hưởng đến yêu cầu vận hành TTĐ một cách công bằng, minh
bạch, dựa trên thị trường và phục vụ lợi ích của người tiêu dùng thay vì duy trì các
ưu đãi và phục vụ lợi ích của các công ty điện lực.
Tác giả đề xuất mô hình và giải pháp phát triển thị trường bán buôn điện
cạnh tranh bao gồm các vấn đề: mở rộng quy mô thị trường thông qua đa dạng hóa
các chủ thể tham gia, huy động vốn đầu tư, bảo đảm chất lượng điện, giảm giá
25
thành sản xuất và kinh doanh. Mô hình đề xuất cho thị trường bán buôn điện cạnh
tranh là chào giá theo chi phí. Cơ chế hoạt động của thị trường bán buôn cạnh tranh
được đề xuất với hai thị trường thứ cấp là: thị trường HĐMBĐ song phương với
nhiều bên tham gia mua bán điện trên cơ sở tự nguyện và có tính đến ràng buộc của
hệ thống và TTĐ giao ngay của các bên tham gia mua bán điện trên thị trường cân
bằng điện năng dư.
Tác giả Nguyễn Thành Sơn cũng đề xuất một số giải pháp về cơ chế quản lý
và thể chế điều tiết TTĐ bao gồm các chính sách và cơ sở pháp lý của Nhà nước
nhằm thu hút đầu tư phát triển điện lực, chính sách về giá điện. Các đề xuất cũng đề
cập đến hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động thị trường bán buôn điện cạnh
tranh, về xây dựng cơ sở hạ tầng, vv. Tuy nhiên, các đề xuất về thể chế quản lý,
điều tiết thị trường không được nêu rõ ràng trong luận án và thể hiện mức độ cải
cách chưa cao [21].
Bên cạnh các nghiên cứu hàn lâm, BCT cũng chủ trì và mời các đơn vị tư
vấn có kinh nghiệm ở trong và ngoài nước xây dựng thiết kế chi tiết thị trường điện
bán buôn. Theo đó, đề án “Xây dựng thị trường bán buôn điện cạnh tranh” được
thực hiện và là cơ sở để BCT đã ban hành Quyết định số 6463/QĐ-BCT phê duyệt
Thiết kế tổng thể Thị trường bán buôn điện cạnh tranh năm 2014. Quyết định trên quy
định về tổng thể về các đơn vị tham gia thị trường bán buôn điện, định hướng các cơ
chế vận hành thị trường bán buôn điện. Thị trường bán buôn điện cạnh tranh sẽ trải qua
hai giai đoạn vận hành thí điểm và vận hành hoàn chỉnh, từ 2015 đến 2021.
Về mặt thiết kế mô hình cạnh tranh, đề án cho phép các Công ty điện lực
được phép tham gia mua buôn trên thị trường, thay vì chỉ có một người mua duy
nhất là Tổng Công ty mua bán điện, trực thuộc EVN như hiện nay. Thiết kế tổng thể
cũng đưa ra các cơ chế vận hành, giao dịch trong Thị trường bán buôn điện cạnh
tranh để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
Đối với cấp độ cao nhất của thị trường là thị trường bán lẻ điện cạnh tranh,
nghiên cứu đáng chú ý liên quan đến nội dung này là đề tài khoa học và công nghệ cấp
nhà nước thực hiện năm 2012 “Xây dựng và phát triển thị trường bán lẻ điện cạnh
tranh” đã phân tích và đề xuất mô hình thị trường điện bán lẻ cạnh tranh tại Việt Nam
do nhóm nghiên cứu của Đại học Điện lực - BCT chủ trì.
26
Nhóm tác giả cho rằng một mô hình cạnh tranh bán lẻ cơ bản có điểm đặc
trưng đó là nó cho phép tất cả các hộ tiêu thụ lựa chọn nguồn phát hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua việc lựa chọn người bán lẻ. Trong mô hình này khâu phát
điện đã được phi điều tiết với sự tự do gia nhập và rút lui khỏi ngành, và việc điều
tiết không đặt ra yêu cầu nào về công suất của các nguồn phát. Khâu bán lẻ cũng
được phi điều tiết trong đó các nhà bán lẻ cạnh tranh thực hiện những vai trò như
nhau giống như trong các thị trường khác. Các khách hàng tiêu thụ cuối cùng, sẽ
phải ký hợp đồng thuê dịch vụ đường dây với công ty đường dây phân phối độc
quyền trong khu vực của mình và ký hợp đồng mua điện năng với công ty bán lẻ
lựa chọn. HĐMBĐ giữa khách hàng tiêu thụ cuối cùng với các công ty bán lẻ có thể
được ký dưới dạng các hợp đồng sai khác trong đó kết hợp việc mua bán trên thị
trường giao ngay và việc mua bán trên thị trường dài hạn.
1.3. KẾT LUẬN RÚT RA TỪ NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Những vấn đề đã thống nhất
Các nghiên cứu, đề án phát triển TTĐ đã thống nhất trên một số điểm như sau:
Phát triển TTĐ cần giảm dần sự điều tiết của Nhà nước và tự do hóa một
số khu vực của ngành điện
Các nghiên cứu về phát triển TTĐ về cơ bản có quan điểm thống nhất về
định hướng và lộ trình giảm sự can thiệp của nhà nước vào thị trường và dần tự do
hóa ở một số khâu như sản xuất hoặc bán lẻ điện. Quá trình này có liên hệ chặt chẽ
với cải thiện cơ chế cạnh tranh. Khi tính cạnh tranh trên thị trường càng thấp, hay
tính độc quyền càng cao, thì vai trò của “bàn tay vô hình” càng giảm đi; lúc đó cần
phải tăng cường vai trò của “bàn tay hữu hình” hay sự can thiệp của nhà nước vào
thị trường. Ngược lại, khi tính cạnh tranh trên thị trường càng cao, vai trò của “bàn
tay vô hình” phát huy tác dụng, thì cần phải hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào
thị trường. Do vậy quá trình xây dựng TTĐ cạnh tranh tại nhiều quốc gia được xem
là quá trình phi điều tiết ngành điện.
Định hướng xây dựng thị trường điện lực tại Việt Nam vận hành hiệu quả
hơn trên nhiều mặt:
Thứ nhất, cơ chế định giá hiệu quả: giúp đạt được mục tiêu tối thiểu hóa chi
phí mua điện trên thị trường, đồng thời đưa ra tín hiệu giá đúng, phản ánh đúng chi phí
27
mua điện tại bất cứ địa điểm và trong các chu kỳ giao dịch. Cơ chế định giá thị trường
cần khuyến khích các đơn vị phát điện thực hiện các hành vi chào giá phát điện một
cách hiệu quả, khuyến khích các đơn vị phát điện hoạt động theo định hướng tối ưu chi
phí; và đưa ra tín hiệu giá hiệu quả cho khách hàng tham gia thị trường.
Thứ hai, khuyến khích đầu tư hiệu quả: một trong số các mục tiêu quan trọng
của TTĐ Việt Nam là thu hút đầu tư phát triển nguồn điện mới. Để đạt được mục
tiêu này, TTĐ cạnh tranh cần phải: i) Đưa ra được tín hiệu về giá, phản ánh đúng
nhu cầu hệ thống cho nhà đầu tư; ii) Đảm bảo tính minh bạch trong vận hành hệ
thống điện - TTĐ; iii) Khuyến khích nâng cao hiệu quả vận hành để khai thác tối ưu
các nguồn điện hiện có.
Thứ ba, vận hành hệ thống điện và TTĐ cần hiệu quả, minh bạch hơn: Một
khía cạnh quan trọng của tất cả các TTĐ là hiệu quả vận hành cũng như tính minh bạch
trong quá trình vận hành TTĐ và hệ thống điện. Một TTĐ có thể được thiết kế tốt,
nhưng thực tế hoạt động lại không đặt hiệu quả như dự kiến nếu như không đảm bảo
việc thực hiện nguyên tắc vận hành thị trường hiệu quả và minh bạch. Để đảm bảo
nguyên tắc trên, TTĐ Việt Nam cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Có cơ chế, công cụ định giá thị trường và điều độ, vận hành hệ thống điện
cũng như TTĐ hiệu quả;
- Khai thác và sử dụng các nguồn cung điện năng hiện có một cách hiệu quả;
- Vận hành hệ thống truyền tải và phân phối điện hiệu quả;
- Có các quy định về đảm bảo tính minh bạch để tạo niềm tin đối với nhà đầu
tư: công bố đầy đủ thông tin, đảm bảo tính độc lập của đơn vị vận hành hệ thống
điện và TTĐ; kiểm toán độc lập các công cụ tính toán; cơ chế giám sát thị trường…;
- Đảm bảo tính nhất quán, không chồng chéo giữa quy định vận hành thị
trường và các quy định có liên quan khác.
Thứ tư, nâng cao tính cạnh tranh trong ngành điện: để đảm bảo tính cạnh
tranh trong ngành điện, trước hết cần phải đảm bảo cấu trúc ngành điện phù hợp,
theo đó, cần hình thành nhiều đơn vị mua điện và nhiều đơn vị bán điện, các đơn
vị cung cấp dịch vụ (Đơn vị vận hành hệ thống điện và TTĐ, Đơn vị truyền tải
điện, Đơn vị phân phối điện….) cần độc lập với bên mua và bên bán.
28
1.3.2. Những vấn đề chưa thống nhất
Một số vấn đề chủ yếu chưa đạt được sự thống nhất giữa các nghiên cứu liên
quan về TTĐ và phát triển TTĐ là:
Thứ nhất, các nghiên cứu chưa xem xét đầy đủ bối cảnh, điều kiện cũng như
triển vọng xây dựng và phát triển TTĐ tại Việt Nam, trong đó đâu là yếu tố tiên
quyết và căn bản để hỗ trợ và quá trình chuyển đổi của thị trường.
Thứ hai, các nghiên cứu về phát triển TTĐ hiện tập trung phần lớn các nỗ lực
vào giải pháp cải thiện mức độ cạnh tranh, xây dựng lộ trình và thiết kế TTĐ và các
nền tảng phục vụ giao dịch trên TTĐ mà chưa xem xét sự phát triển của TTĐ gắn
với sự phát triển tổng thể của ngành điện, cụ thể là gắn với cung, cầu, bảo đảm cân
bằng cung cầu điện hay những nguy cơ có thể xảy ra đối với an ninh hệ thống điện,
an ninh kinh tế nếu xảy ra các sự cố gián đoạn cung cấp điện trên quy mô lớn khi
đẩy mạnh quá trình tự do hóa ngành điện. Điều này dẫn đến việc thiếu các nghiên
cứu đầy đủ về các cơ chế thu hút đầu tư phát triển chuỗi cung ứng điện năng, đặc
biệt là các cơ chế gỡ bỏ các rào cản về thể chế, chính sách và thị trường đối với các
DN tham gia đầu tư vào sản xuất điện;
Thứ ba, định hướng tổng quát và lộ trình tự do hóa một số khâu khu vực của
ngành điện, nâng cao hiệu lực quản lý và điều tiết thị trường, thể chế vận hành thị
trường phù hợp, cải thiện sự độc lập tương đối của các cơ quan điều tiết, quản lý thị
trường chưa được làm sáng tỏ.
1.3.3. Hướng nghiên cứu của luận án
Về cách tiếp cận: luận án nghiên cứu phát triển TTĐ tại Việt Nam dưới góc
nhìn kinh tế phát triển, trong đó xem xét sự phát triển của TTĐ không tách rời khỏi
sự phát triển tổng thể của ngành điện. Theo đó, luận án không chỉ nghiên cứu về
phát triển TTĐ như giải pháp về xây dựng lộ trình và thiết kế TTĐ và các nền tảng
phục vụ giao dịch trên TTĐ mà còn xét đến các nội dung, bộ phận thiết yếu nhất
của TTĐ như cung, cầu, yếu tố trung gian kết nối cung - cầu.
Về mặt lý luận: Luận án hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về TTĐ tại Việt Nam.
Cụ thể, luận án sẽ làm rõ: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của TTĐ; Nội dung, các
chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTĐ.
29
Về mặt thực tiễn: trước hết luận án khảo cứu kinh nghiệm phát triển TTĐ để từ
đó rút ra các bài học cho phát triển TTĐ tại Việt Nam. Trên cơ sở này luận án phân
tích, đánh giá thực trạng phát triển TTĐ tại Việt Nam trên cơ sở lý thuyết đã xây
dựng ở Chương 2. Các nội dung, bộ phận thiết yếu nhất của TTĐ là cung, cầu, hạ
tầng cho TTĐ bao gồm nền tảng và cơ chế phục vụ giao dịch TTĐ, cơ chế cạnh
tranh và cơ chế giá qua đó nhận dạng được các giải pháp thúc đẩy sự phát triển
chuỗi cung ứng điện năng tại Việt Nam. Luận án sẽ chỉ ra những ưu điểm, nhược
điểm của các khía cạnh, nội dung của phát triển TTĐ tại Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng TTĐ, luận án đề xuất khuyến nghị
để phát triển TTĐ tại Việt Nam trong thời kỳ tới. Các khuyến nghị này định hướng
vào minh bạch hóa thị trường, thu hút đầu tư phát triển nguồn điện và sắp tới là lưới
điện, nâng cao dịch vụ cung cấp đến người tiêu dùng.
30
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
2.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
2.1.1. Khái quát về ngành điện và thị trường điện lực
2.1.1.1.Khái quát chung
Chuỗi sản xuất cung ứng của ngành công nghiệp điện lực về cơ bản bao gồm
bốn khâu: Sản xuất, truyền tải, phân phối và bán lẻ điện. Trong khâu sản xuất, điện
năng được tạo ra nhờ các quá trình chuyển đổi năng lượng từ các nguồn thủy năng,
nhiệt năng, năng lượng gió, mặt trời hay địa nhiệt ... Việc sản xuất năng lượng sử
dụng đầu vào là các nguồn năng lượng sơ cấp như than, dầu, khí, gió, mặt trời,
nguồn nước… Sau khi được sản xuất tại các cơ sở phát điện, điện năng được ngay
lập tức đưa tới người sử dụng nhờ hệ thống mạng lưới truyền tải và hệ thống phân
phối (Hình 2.1).
Hình 2.2. Chuỗi sản xuất - cung ứng điện năng
của ngành công nghiệp điện lực
Nguồn: [61]
Điện năng được sản xuất ra khi có nhu cầu tiêu thụ, bắt nguồn từ việc đây là
mặt hàng không có tồn kho do khả năng lưu trữ điện năng ở các hệ thống lưu trữ
năng lượng là rất hạn chế và đắt đỏ. Do vậy, trong quá trình vận hành hệ thống điện
từ sản xuất tới tiêu dùng, có một yêu cầu bắt buộc là hai quá trình sản xuất và tiêu
31
thụ điện năng phải được diễn ra đồng thời, và về mặt kỹ thuật, phải luôn luôn cân
bằng. Đây cũng chính là đặc điểm và khác biệt căn bản của ngành công nghiệp điện
lực so với các lĩnh vực khác, quyết định đến mô hình kinh doanh và cách thức vận
hành của ngành điện trên toàn cầu. Trong ngắn hạn, khi có khả năng xảy ra mất cân
bằng cung cầu do nguồn cung hoặc cầu có khả năng biến động, hệ thống điện sẽ phải
thực hiện cơ chế đặc biệt được thiết lập để bảo đảm ngay lập tức nguồn sản xuất phải
được cân bằng với nhu cầu sử dụng. Khách hàng sử dụng điện là các cơ sở tiêu thụ
như xây dựng - công nghiệp, tiêu dùng, dân cư, giao thông vận tải và an ninh, quốc
phòng… Hệ thống truyền tải và phân phối điện bao gồm mạng lưới các đường dây và
trạm biến áp, gồm các chức năng:
- Khâu truyền tải điện: điện năng được vận chuyển thông qua hệ thống đường
dây một chiều hoặc xoay chiều cao áp, các máy biến áp tới các trạm phân phối điện.
Hệ thống này yêu cầu sự liên kết lưới và tích hợp các cơ sở phát điện vào mạng lưới
chung, quy trình lập kế hoạch huy động và điều độ để cân bằng cung cầu điện tức
thời, quản lý và khắc phục sự cố lưới điện và liên kết lưới.
- Khâu phân phối điện: bao gồm hệ thống mạng lưới trung áp (110, 35, 22, 10
kV) và các máy biến áp hạ áp. Các đơn vị phân phối điện tại Việt Nam cũng đồng
thời phụ trách việc bán lẻ điện tới khách hàng bao gồm thỏa thuận cấp điện, đo đếm,
tính toán chi phí sử dụng điện và các dịch vụ quản lý nhu cầu điện khác.
Mô hình vận hành truyền thống của ngành điện thường được tổ chức theo
hình thức “độc quyền tự nhiên”. Quá trình sản xuất và phân phối điện năng được
tích hợp và tập trung vào một hoặc một số nhà cung cấp “độc quyền” theo sự điều
tiết của nhà nước. Trong quá khứ, khi hệ thống điện còn hạn chế và khu vực tư nhân
hầu như không có khả năng tham gia lĩnh vực công nghiệp điện lực, mô hình độc
quyền tích hợp dọc có hiệu quả kinh tế, tập trung quá trình sản xuất điện năng vào một
số ít nhà cung cấp có năng lực. Các đơn vị này quản lý toàn bộ các khâu trong quá trình
sản xuất và đảm bảo an ninh cung cấp điện cho toàn bộ hệ thống. Mặt khác do các hạn
chế về kỹ thuật và công nghệ, cách thức giải quyết bài toán cân bằng cung cầu trong tất
cả các thời điểm vận hành của hệ thống đã càng củng cố cho sự tồn tại và vận hành của
mô hình tích hợp và tập trung cao trong sản xuất và phân phối điện năng.
32
Mô hình độc quyền tích hợp dọc cho thấy ưu điểm trong giai đoạn phát triển
sơ khai của ngành điện khi công suất phát điện chưa đủ để đáp ứng nhu cầu luôn
tăng trưởng ở mức cao, đặc biệt tại các nước công nghiệp hoặc đang tiến hành
công nghiệp hóa. Mặt khác, rào cản gia nhập thị trường với khu vực tư nhân là
tương đối cao do các hạn chế về năng lực kỹ thuật và công nghệ, trình độ tổ chức và
quản lý sản xuất, kinh doanh. Do đó, các chính phủ thường giữ luôn vai trò ban
hành chính sách và kiểm soát các nhà cung cấp dịch vụ ngành điện dưới dạng quản
lý trực tiếp về kinh tế và kinh doanh.
Khi sản xuất điện năng bước vào giai đoạn năng lực sản xuất cao hơn đáng
kể so với khả năng tiêu thụ của khách hàng, đồng nghĩa với việc TTĐ có công suất
dự phòng lớn, ngành điện đứng trước yêu cầu về một mô hình sản xuất và kinh
doanh tiên tiến hơn để đảm bảo hiệu quả kinh tế như một ngành kinh doanh thông
thường. Cụ thể hơn, nhu cầu sử dụng dịch vụ điện năng với giá thành rẻ hơn, chất
lượng cao hơn và độ tin cậy đảm bảo dần trở thành xu thế và do đó, là cơ sở để tạo ra
sự cạnh tranh ở giai đoạn sơ khai. Các nhà máy cũ, đã đi vào giai đoạn vận hành cuối
cùng, có chi phí vận hành cao, độ tin cậy thấp hơn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ
các nhà máy mới có công nghệ hiện đại hơn và chi phí thấp hơn. Đây là quá trình tự
nhiên để chọn lọc các yếu tố sản xuất có hiệu quả kinh tế cao nhất được tồn tại trong
ngành. Đến cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, một số quốc gia tiên phong tại
châu Âu như Anh quốc và tại Hoa Kỳ đã có những bước thử nghiệm tự do hóa ngành
điện và xây dựng TTĐ cạnh tranh, có sự đúc rút kinh nghiệm từ quá trình tự do hóa các
lĩnh vực đã từng là độc quyền trước đó như viễn thông, hạ tầng giao thông, khí đốt.
Cho đến giai đoạn cuối 1990, nhiều TTĐ đã được hình thành và xây dựng thành công,
chuyển đổi ngành công nghiệp điện năng lên một giai đoạn phát triển mới hiệu quả
hơn, chất lượng tốt hơn và nâng cao độ hài lòng của khách hàng.
Các mốc thời gian chính trong quá trình hình thành và phát triển của các
TTĐ trên thế giới:
- Năm 1978: Hoa Kỳ phê duyệt Luật về Các chính sách Điều tiết Công ty điện
lực. Luật này cho phép các nhà sản xuất thu hồi được các khoản đầu tư phát điện
qua giá bán điện hợp lý;
33
- Năm 1982: Chi-lê lần đầu tiên vận hành TTĐ giao ngay. Cơ chế định giá
theo điểm (nodal pricing) lần đầu được giới thiệu bởi Fred Schweppe (1982) và sau
đó được áp dụng tại nhiều TTĐ;
- Năm 1990: Tại nước Anh đã hình thành TTĐ chào giá tự do, sau đó đã trở
thành hình mẫu cho nhiều quốc gia khác xây dựng TTĐ;
- Năm 1994: TTĐ Nordic (Bắc Âu) bắt đầu vận hành và là thị trường giao
ngay quốc tế đầu tiên;
- Năm 1996: TTĐ giao ngay xuất hiện tại Australia và New Zealand,
California. Đây là thị trường định giá theo khu vực, là sự cải tiến của cơ chế định
giá theo điểm;
- Năm 2001: Tại nước Anh, tiến hành cải cách TTĐ, cho phép các bên giao
dịch song phương theo hợp đồng tự do.
2.1.1.2. Khái niệm thị trường điện lực
Theo Samuelson, có thể hiểu thị trường như một cơ chế trong đó người mua
và người bán có thể xác định giá cả và trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Thị trường tồn
tại với hầu hết mọi thứ, dưới một số hình thức khác nhau và mang đặc điểm đặc
dù là thị trường đưa người mua và người bán đến với nhau để xác định giá cả và
sản lượng. Từ đó, Samuelson định nghĩa: “thị trường là một cơ chế trong đó
người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng của
hàng hóa hay dịch vụ” [76]. Trong cuốn Kinh tế học, nhà kinh tế học Begg và
cộng sự cho rằng: “Thị trường là sự dàn xếp giữa người bán và người mua trong
trao đổi hàng hóa và dịch vụ” [44].
Đối với ngành điện, có thể nhận thấy điện năng không phải là một dạng
hàng hóa thông thường với đặc điểm cơ bản là quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn
ra đồng thời và trong ngắn hạn luôn luôn phải được cân bằng thông qua các biện
pháp kỹ thuật và công nghệ. Ngoài ra, hạ tầng điện là hạ tầng thiết yếu mang tính
xương sống, có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế - xã hội và rộng hơn nữa,
bảo đảm an toàn cung cấp điện là góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong trung
và dài hạn.
34
Trong vận hành hệ thống điện, cần có một cơ quan kiểm soát và đơn vị điều
hành hệ thống truyền tải, điều phối việc gửi các đơn vị phát điện để đáp ứng nhu
cầu dự kiến của hệ thống trên lưới truyền tải. Nếu điện năng sản xuất và nhu cầu
tiêu thụ không cân bằng, máy phát điện sẽ tăng tốc hoặc quay chậm lại làm cho tần
số hệ thống tăng hoặc giảm. Nếu tần số nằm ngoài phạm vi đã xác định trước, người
vận hành hệ thống sẽ phải thực hiện thao tác huy động thêm hoặc loại bỏ các tổ máy
phát điện hoặc phụ tải. Do dó, TTĐ là dạng thị trường có sự khác biệt mang tính
đặc thù so với thị trường cho các hàng hóa khác.
Từ đó, NCS đề xuất khái niệm TTĐ như sau:
“Thị trường điện lực là hệ thống cho phép nhà cung ứng điện năng và nhu
cầu sử dụng gặp nhau được xác định bằng giá mua điện trên thị trường nhằm thoả
mãn các lợi ích kinh tế của người mua và người bán”.
Trong TTĐ, cung là tổng năng lượng điện mà nhà sản xuất cung ứng cho thị
trường ứng với từng mức giá trong khi cầu là nhu cầu sử dụng điện ứng với từng
mức giá. Về mặt lý thuyết, TTĐ về cơ bản tuân theo quy luật của nền kinh tế thị
trường: đường cầu và cung cắt nhau ở điểm cân bằng thị trường mà tại đó xác định
được giá cả và số lượng. Giá cả có xu hướng thay đổi cho đến khi thị trường đạt
trạng thái cân bằng - khi lượng cung cân bằng với lượng cầu. Quá trình này diễn ra
liên tục, xác định các điểm cân bằng mới có ảnh hưởng đến sản lượng điện năng,
chi phí sử dụng để sản xuất điện cũng như nhu cầu tiêu dùng như: theo giờ, ngày,
tuần, tháng, năm hoặc theo mùa [21]. Tuy nhiên trong ngắn hạn, sự khác biệt giữa
cung và cầu điện không thể hiện bằng sản lượng điện do sản xuất thường tương
đương với nhu cầu. Sự khác biệt này về mặt tức thời được phản ánh qua các chỉ tiêu
kỹ thuật quan trọng nhất như điện áp và tần số [32].
Sản lượng điện và giá cả có thể biến động tăng, giảm đồng thời đường cầu,
cung điện năng luôn biến động tăng, giảm từ đó xác định điểm cân bằng mới trong
các thời kỳ có ảnh hưởng đến sản lượng điện năng, chi phí sử dụng để sản xuất điện
cũng như nhu cầu tiêu dùng theo các chu kỳ thời gian hoặc theo mùa.
35
Hình 2.3. Cung - cầu điện năng
Nguồn: NCS tổng hợp từ [34; 29; 56]
2.1.1.3. Cơ chế vận hành và cạnh tranh trong thị trường điện lực
Đối với các thị trường hàng hóa thông thường, cạnh tranh giúp điều chỉnh
trật tự thị trường, kích thích tính tích cực, tính đa dạng và nâng cao chất lượng hàng
hoá cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh
được phân thành hai loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị
trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản
phẩm bán ra không có nhiều khác biệt về quy cách, phẩm chất mẫu mã.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán
có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Ở đó, các DN phân phối hoặc sản xuất
có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị
trường. Đây là loại hình cạnh tranh phổ biến hiện nay và tùy từng biểu hiện của
hình thức cạnh tranh này mà cách thức tác động đến giá cả sẽ là khác nhau.
- Độc quyền: Trên thị trường chỉ có một hoặc một số ít người bán một sản
phẩm hoặc dịch vụ nào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ
do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu.
Đối với TTĐ, các hình thức cạnh tranh có những điểm khác biệt và được
Hunt và Shuttleworth bàn luận, đề xuất thành bốn cấp độ hay mô hình cạnh tranh
của TTĐ tương ứng với cấp độ độc quyền có điều tiết cho tới cạnh tranh hoàn toàn
36
[54]. Ở cấp độ cao nhất, các khâu sản xuất điện và bán lẻ điện sẽ hình thành cơ chế
cạnh tranh hoàn hảo trong khi khâu truyền tải sẽ do Nhà nước độc quyền.
Hình thức giao dịch buôn bán phổ biến nhất trong TTĐ là thực hiện thông
qua đơn vị trung gian mua bán điện. Đơn vị trung gian này có thông tin được cung
cấp về hành vi tiêu dùng sản phẩm điện năng dưới dạng các đồ thị phụ tải của khách
hàng mua điện. Đơn vị này đồng thời sẽ nhận các bản chào giá hoặc hồ sơ thầu của
các nhà cung ứng điện năng và thực hiện giao dịch đấu thầu. Khi hoạt động đấu
thầu hoàn tất, đơn vị trung gian sẽ lên kế hoạch cho các nhà cung ứng kết nối và
huy động sản lượng điện năng với các thông số kỹ thuật yêu cầu hoặc theo tiêu
chuẩn. Trong một số trường hợp, bên mua điện và bên bán điện có thể thực hiện các
giao dịch trực tiếp với nhau không qua đơn vị trung gian. Khi đó, giá giao dịch sẽ
bao gồm một khoản phí thanh toán cho đơn vị quản lý vận hành hạ tầng truyền tải,
phân phối điện.
Bên cạnh đó, đối với bên bán điện, họ sẽ có cần có thông tin dự báo nhu cầu
phụ tải để giảm thiểu rủi ro và thành công trên thị trường cạnh tranh. Các nhà máy
bán điện không thể khẳng định chắc chắn việc bán điện trong tương lai theo giá quy
định trong hợp đồng dài hạn sẽ có lãi bởi lẽ cung, cầu và giá điện trong quá khứ có
thể sẽ khác với sự trông đợi của họ tại thời điểm ký hợp đồng. Do đó các nhà máy
sản xuất điện cần phải áp dụng các biện pháp để nâng cao độ chính xác dự báo nhu
cầu phụ tải. Các tiên đoán mà nhà máy dựa vào để ra quyết định, phải được điều
chỉnh và cập nhật liên tục, hoặc sử dụng các công cụ toán học, phần mềm chuyên
sâu để phân tích và đưa ra kết quả dự báo chuẩn xác.
Theo Hunt, một thị trường cần có các nhân tố sau đây để trở thành thị trường
hiệu quả và cạnh tranh [54]:
- Có nhiều người mua và người bán - và không có bên nào có quyền lực chi
phối để tác động đến chức năng của thị trường;
- Người mua và người bán tham gia thương lượng giá;
- Thị trường vận hành linh hoạt và hiệu quả;
- Các bên được tiếp cận công bằng tới các cơ sở, hạ tầng thiết yếu;
- Kiểm soát trợ giá và môi trường kinh doanh để đảm bảo sự vận hành của
thị trường.
37
Thông thường, các thị trường hàng hóa tự tiến hóa mà không cần sự can
thiệp hay lập kế hoạch trước. Thị trường sẽ quyết định sản xuất cái gì, phân bổ các
nguồn lực ra sao, và phân phối sản phẩm đến cho ai. Thị trường sẽ dựa vào quyết
định của khách hàng trong việc mua cái gì, số lượng bao nhiêu và sản phẩm của nhà
sản xuất nào. Khi các nền tảng TTĐ được thiết kế và vận hành tốt, TTĐ sẽ phát
triển theo quy luật nêu trên.
2.1.2. Đặc điểm của thị trường điện lực
Do có sự tồn tại những sự khác biệt lớn giữa điện năng và các loại hàng hóa
thông thường, TTĐ mang những đặc điểm tương đối đặc trưng. Các khác biệt này là
yếu tố then chốt phải tính đến khi vận hành TTĐ cạnh tranh:
Thứ nhất, điện hầu như không thể lưu trữ được: Cho đến nay, các công nghệ
lưu trữ điện năng vẫn chưa cho phép tích trữ điện năng ở quy mô đủ lớn để có thể
có “tồn kho điện năng”. Do đó, TTĐ vẫn phải được xây dựng, phát triển và vận
hành dựa trên các nguyên tắc vật lý: khách hàng được cung cấp điện năng thông qua
hệ thống mạng lưới đường dây truyền tải và phân phối để kết nối với nhà máy sản
xuất một cách liên tục, tức thời và phải đảm bảo tin cậy. Nếu không duy trì được sự
cân bằng vật lý giữa cung và cầu điện, hệ thống điện sẽ chịu những hậu quả nghiêm
trọng và nặng nề. Do vậy, việc phát điện và tiêu thụ điện phải luôn luôn được cân
bằng để duy trì tần số, điện áp và độ ổn định của mạng lưới điện đồng thời tránh
được các sự cố mất điện đột ngột.
Thứ hai, do hầu như không thể lưu trữ, vận hành của TTĐ phải bám sát theo
thay đổi của nhu cầu điện trong năm, trong mùa, tháng, ngày hay thậm chí hàng giờ
để gửi tín hiệu huy động công suất phát và hình thành các giao dịch mua bán. Do
yêu cầu về cân bằng giữa cung và cầu điện, điện năng chỉ được sản xuất ra khi có
nhu cầu tiêu thụ. Để đảm bảo tính kinh tế, sẽ chỉ có một số nhà máy được huy động
để sản xuất điện. Khi nhu cầu điện giảm xuống mức thấp, chỉ các nhà máy có hiệu
quả cao nhất mới được huy động vào hệ thống. Do sản xuất thay đổi tăng hoặc giảm
theo nhu cầu, giá điện cũng thay đổi trong ngày và làm cho sự biến thiên về chi phí
sản xuất và giá bán điện không giống như các hàng hóa thông thường khác.
Thứ ba, truyền tải và phân phối điện bắt buộc phải thực hiện qua khâu trung
gian qua lưới điện truyền tải và phân phối: không giống như các hàng hóa truyền
thống, điện sản xuất từ nhà máy không thể đưa trực tiếp đến từng khách hàng cụ
38
thể. Khách hàng sử dụng điện chỉ đơn thuần tiếp cận và sử dụng điện năng được cấp
cho họ tại nơi họ được đấu nối vào mạng lưới điện. Điện năng do toàn bộ các nhà
máy sản xuất ra được tập hợp lại trên đường phân phối đến các tải tiêu thụ. Bên
cạnh đó, điện năng là hàng hóa đặc biệt khi di chuyển trên đường dây truyền tải với
tốc độ ánh sáng. Khác với thị trường hàng hóa thông thường, TTĐ phải thực hiện
các quyết định về cung - cầu trong thời gian rất ngắn. Hệ thống điện cần phải có
đơn vị điều độ thực hiện chức năng điều khiển và điều phối sản xuất và tiêu thụ và
bản thân TTĐ không thể tự thực hiện chức năng cân bằng cung cầu. Bên cạnh đó,
lợi ích vật chất tổng thể của xã hội không cho phép xây dựng nhiều hơn một mạng
lưới để nhiều đơn vị có thể cạnh tranh. Vì vậy lưới truyền tải và phân phối ở mọi
nơi trên thế giới đều mang tính độc quyền tự nhiên. Tính chất độc quyền nếu không
được điều tiết sẽ dẫn đến cửa quyền với nhiều hậu quả tiêu cực kèm theo.
Thứ tư, điện năng là sản phẩm thiết yếu phục vụ cho đời sống con người và phát
triển kinh tế - xã hội đồng thời hạ tầng điện là hạ tầng xương sống của nền kinh tế. Do
đó, việc vận hành TTĐ và mô hình hoạt động của ngành điện ngoài việc đảm bảo tính
kinh tế, hiệu quả còn phải duy trì các tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ nhằm mang lại sự an
toàn, tin cậy không chỉ cho khách hàng mà còn cho quốc gia, xã hội. Xét trên khía cạnh
này, vận hành và phát triển TTĐ không thể tách rời việc bảo đảm an ninh hệ thống điện
như một hạ tầng quan trọng của nền kinh tế và là một bộ phận của an ninh quốc gia.
Thứ năm, nhu cầu điện ít nhạy cảm với giá điện trong ngắn hạn: Điện là nhu
cầu thiết yếu đối với cuộc sống hiện đại và có xu hướng ít nhạy cảm với giá. Người
tiêu dùng ít có cơ hội điều chỉnh hành vi sử dụng điện của mình khi có biến động về
giá, đặc biệt là khi giá tăng do họ ít có khả năng sử dụng sản phẩm khác thay thế
cho điện. Tuy nhiên trong dài hạn, khách hàng có thể có nhiều lựa chọn hơn với sản
phẩm thay thế. Ví dụ, các khách hàng là hộ gia đình tại các quốc gia ôn đới có thể
tăng sử dụng dịch vụ cấp nhiệt thay vì dùng điện để sưởi ấm hoặc các khách hàng là
cơ sở sản xuất công nghiệp có thể chọn giải pháp giảm tiêu thụ điện năng trong dây
chuyền sản xuất hoặc sử dụng nhiên liệu thay thế để bù đắp cho nhu cầu điện bị
giảm sút trước tác động của giá điện tăng.
TTĐ, mặc dù là một thị trường cho sản phẩm phổ biến là điện năng nhưng có
những đặc điểm đặc thù về kỹ thuật, mà do đó, dẫn tới cơ chế xây dựng, hình thành,
quản lý và phát triển có sự khác biệt so với các thị trường khác.
39
Các đặc điểm nêu trên là những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận hành của TTĐ
cạnh tranh tại bất kỳ quốc gia nào. Nhu cầu điện thay đổi theo từng giờ hoặc từng
thời điểm, khác biệt qua từng ngày, từng tháng và từng năm. Mặt khác, điện năng là
sản phẩm không thể lưu kho, do đó, việc phát điện và tiêu thụ điện phải luôn luôn
được cân bằng để duy trì tần số, điện áp và độ ổn định của mạng lưới điện đồng thời
tránh được các sự cố mất điện đột ngột.
2.1.3. Cơ quan quản lý - điều tiết thị trường điện lực
Cơ quan quản lý - điều tiết thị trường điện lực về cơ bản bao gồm:
Thứ nhất, nhóm các cơ quan liên quan ban hành chính sách chung của ngành
năng lượng hoặc ngành điện. Cơ quan này có thể là Quốc hội, Chính phủ hoặc các bộ,
ngành chịu trách nhiệm trực tiếp tới quản lý năng lượng hoặc tài nguyên quốc gia.
Thứ hai, cơ quan điều tiết thị trường là cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp
trong việc đảm bảo thị trường vận hành theo chính sách và các quy định được ban
hành. Có hai mô hình tổ chức phổ biến đối với các cơ quan điều tiết trên thế giới: i)
mô hình cơ quan điều tiết độc lập và ít chịu ảnh hưởng bởi các ý chí hoặc quyết
định chính trị, đảm bảo thị trường vận hành cạnh tranh và theo các quy luật thị
trường; và ii) mô hình cơ quan điều tiết trực thuộc hệ thống hành pháp và ít nhiều
chịu các tác động của các quyết định hành chính hoặc các đường lối chính trị.
2.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường điện lực
Các chủ thể tham gia TTĐ bao gồm các bên như sau:
- Khách hàng mua điện: hiện được phân nhóm thành các hộ tiêu thụ thuộc các
khu vực như công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, tiêu dùng
- dân cư và một số hộ khác.
- Các đơn vị phát điện: chịu trách nhiệm ở khâu sản xuất điện thông qua các
quá trình công nghệ chuyển đổi các dạng năng lượng sơ cấp thành điện năng. Điện
năng của các đơn vị này sẽ được chào bán trên thị trường thông qua các cơ chế chào
giá khác nhau tùy theo quy định và cấp độ thị trường
- Các đơn vị bán lẻ: chịu trách nhiệm ở khâu giao dịch bán hàng với khách
hàng cuối cùng;
- Các đơn vị cung cấp dịch vụ truyền tải, phân phối điện: đây là các đơn vị sở
hữu lưới điện ở cấp truyền tải hoặc phân phối. Chức năng chính của các đơn vị này
là đầu tư, quản lý và vận hành lưới điện trên cơ sở thu phí dịch vụ truyền tải, phân
40
phối điện. Các chi phí này được tính vào giá thành tiêu thụ điện của khách hàng
cuối cùng;
- Đơn vị điều hành hệ thống điện và đơn vị điều hành thị trường: có chức năng
quan trọng, đảm bảo việc duy trì sự cân bằng cung - cầu trong vận hành hệ thống
điện và vận hành TTĐ căn cứ theo hành vi chào giá của các đơn vị sản xuất điện,
năng lực truyền tải của lưới điện và nhu cầu khách hàng;
2.1.5.Các mô hình cạnh tranh và hình thức giao dịch thị trường điện lực
2.1.5.1. Các mô hình cạnh tranh của thị trường điện lực
Các tác giả Hunt và Shuttleworth đã đề xuất bốn cấp độ hay mô hình cạnh
tranh của TTĐ từ cấp độ độc quyền có điều tiết cho tới cạnh tranh hoàn toàn [54].
1) Mô hình 1: Độc quyền
Cấp độ độc quyền trong TTĐ được thể hiện ở nhánh (a) và (b) trong mô hình
nêu tại Hình 2.4, tại đó, đơn vị độc quyền kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng bao
gồm sản xuất, truyền tải, phân phối điện (nhánh (a)) hay có một đơn vị độc quyền
sở hữu khâu sản xuất và bán buôn, truyền tải điện (nhánh (b)). Khâu bán lẻ được
thực hiện bởi các công ty bán lẻ điện độc quyền ở cấp thấp hơn. Mô hình này cho
phép giao dịch giữa các công ty độc quyền ở các khu vực địa lý khác nhau, và cơ
bản diễn ra ở khâu bán buôn và truyền tải.
Hình 2.4. Mô hình thị trường điện độc quyền
Nguồn: [54]
41
2) Mô hình 2: Cạnh tranh sản xuất điện
Đây là mô hình có sự cạnh tranh trong khâu sản xuất điện (phát điện). Công
ty độc quyền không còn sở hữu toàn bộ khâu sản xuất điện. Thị trường có thêm sự
tham gia của các đơn vị sản xuất điện độc lập. Các đơn vị này bán điện của họ cho
công ty điện lực - lúc này đóng vai trò là bên mua điện. Ở Hình 3a. là mô hình đơn
giản của TTĐ cạnh tranh sản xuất điện khi vẫn có sự sở hữu và kiểm soát thị trường
của công ty điện lực mặc dù TTĐ đã có sự tham gia của các đơn vị sản xuất điện độc
lập. Ở Hình 2.4. thể hiện TTĐ ở một mức độ phức tạp hơn khi không còn công ty
kiểm soát phần sản xuất điện mà thay vào đó là đơn vị thực hiện chức năng mua toàn
bộ điện sản xuất từ các đơn vị sản xuất điện độc lập (mua buôn), phân phối tới các
công ty phân phối và bán tới các khách hàng của họ. Do thâu tóm được chức năng
mua buôn điện nên đơn vị mua điện sẽ chịu sự điều tiết về giá. Ưu điểm của mô hình
này là đã bước đầu tạo ra cạnh tranh ở khâu sản xuất điện mà chưa cần phải xây dựng
TTĐ cạnh tranh hoàn toàn ở quy mô phức tạp hơn và chi phí cao hơn.
Hình 2.5. Mô hình thị trường cạnh tranh sản xuất điện
Nguồn: [54]
42
3) Mô hình 3: Cạnh tranh bán buôn
Hình 2.6. Mô hình thị trường điện cạnh tranh bán buôn
Ghi chú: Genco: Công ty sản xuất điện
Nguồn: [54]
Tại cấp độ này, không có đơn vị nào đứng ra phụ trách khâu mua điện như ở
cấp độ 2. Thay vào đó, các công ty phân phối mua điện trực tiếp từ các nhà máy sản
xuất điện. Các giao dịch này được thực hiện trên cơ chế thị trường bán buôn điện.
Các khách hàng sử dụng điện lớn cũng có thể mua điện trực tiếp từ các đơn vị sản
xuất điện. Ở khâu bán buôn điện, chỉ có khâu truyền tải điện và vận hành thị trường
giao ngay là được điều tiết. Khâu bán lẻ điện vẫn tiếp tục được điều tiết do các đơn
vị phân phối điện vẫn kiểm soát cả khâu vận hành lưới phân phối điện và khâu mua
điện để bán lẻ cho khách hàng. Cấp độ này đã tạo thêm sự cạnh tranh cho các nhà
sản xuất điện do tại thị trường bán buôn điện, giá bán buôn được quyết định bởi
quan hệ giữa cung và cầu. Tuy nhiên, giá bán lẻ điện vẫn được điều tiết do khách
hàng nhỏ không có sự lựa chọn nào ngoài việc mua điện do đơn vị phân phối điện
hoạt động tại khu vực địa lý của họ. Vì khi đó, khách hàng không thể rời bỏ nhà
cung cấp nếu họ cho rằng giá điện quá cao. Cơ chế này có thể dẫn tới khả năng các
công ty phân phối điện phải chịu rủi ro khi giá bán buôn bị đẩy lên quá cao (đầu ra
là giá bán lẻ bị hạn chế, đầu vào là giá mua buôn dao động theo thị trường).
43
4) Mô hình 4: Cạnh tranh bán lẻ
Tại cấp độ này, TTĐ ở hình thái cạnh tranh cao nhất, cho phép mọi khách
hàng có quyền lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ điện năng cho họ. Trong khi phần
lớn khách hàng vừa và nhỏ lựa chọn mua điện từ các công ty bán lẻ điện, các
khách hàng lớn nhất sẽ lựa chọn mua điện trực tiếp từ nhà sản xuất để tối ưu chi
phí giao dịch. Đối với các công ty phân phối, chức năng bán lẻ của họ được tách biệt
khỏi chức năng quản lý mạng lưới điện. Về cơ bản, các công ty này không còn độc
quyền đối với việc cung cấp điện năng cho khách hàng tại khu vực lưới điện mà họ
quản lý. Các khâu duy nhất còn được điều tiết là cung cấp dịch vụ truyền tải, phân phối
điện và vận hành, bảo dưỡng lưới điện.
Giá điện bán lẻ không chịu sự điều tiết do các khách hàng đã có thể lựa chọn
nhà cung cấp dịch vụ khi được chào giá bán lẻ điện thấp hơn. Đây là mô hình cho
phép giá điện được hình thành dựa trên cơ chế thị trường.
Chi phí truyền tải và phân phối điện được tính và phản ánh vào giá điện bán
cho các khách hàng sử dụng. Các chi phí này được điều tiết do khâu truyền tải và
phân phối vẫn được độc quyền.
Hình 2.7. Mô hình thị trường cạnh tranh bán lẻ
Nguồn: [54]
44
Tại một số quốc gia, quá trình chuyển đổi sang TTĐ cạnh tranh cũng xảy
ra đồng thời với sự tái cơ cấu hoặc tư nhân hóa một phần hoặc toàn bộ ngành
điện. Quá trình tư nhân hóa thể hiện bằng việc nhà nước rút vốn khỏi các công ty
điện lực nhà nước và bán cho các đối tác tư nhân. Tuy nhiên, việc tư nhân hóa
không phải là điều kiện cần cho sự hình thành và phát triển của TTĐ cạnh tranh.
Thông thường, để xây dựng được TTĐ cạnh tranh ở cấp độ cao, các quốc gia
thường phát triển thiết kế thị trường theo lộ trình và trải qua nhiều giai đoạn từ mức
độ cạnh tranh ở mức thấp (cạnh tranh phát điện) cho đến cấp độ rất cao là cạnh
tranh bán lẻ [80].
Bảng 2.1. Đặc điểm của các cấp độ cạnh tranh thị trường điện lực
Mô tả/đặc điểm Cấp độ 1
Độc quyền
Cấp độ 2
Phát điện
cạnh tranh
Cấp độ 3
Bán buôn điện
cạnh tranh
Cấp độ 4
Bán lẻ điện
cạnh tranh
Độc quyền
tất cả các
khâu từ sản
xuất,
truyền tải,
phân phối
tới bán lẻ
điện
Tự do hóa khâu
phát điện, độc
quyền truyền tải,
phân phối và bán
lẻ điện
Tự do hóa phát
điện, các công
ty bán lẻ được
lựa chọn mua
buôn điện, độc
quyền phân
phối và bán lẻ
điện
Tự do hóa
phát điện và
bán lẻ điện.
Khách hàng
mua điện
được lựa
chọn nhà
cung cấp dịch
vụ bán lẻ
Cạnh tranh giữa
các đơn vị phát
điện
Không Có Có Có
Cạnh tranh giữa
các nhà cung cấp
dịch vụ
Không Không Không Có
Các đơn vị bán
buôn được lựa
chọn
Không Không Có Có
Các đơn vị bán lẻ
được lựa chọn
Không Không Không Có
Nguồn:[14; 79]
45
Hiện nay TTĐ Việt Nam đã chuyển đổi từ mô hình độc quyền sang mô hình
cạnh tranh phát điện và đã cơ bản hoàn thành cấp độ 2. Từ 2016, TTĐ đã vận hành
thí điểm ở cấp độ 3 - Bán buôn điện cạnh tranh với sự tham gia của các đơn vị được
phép mua buôn là các Tổng Công ty điện lực. Dự kiến thị trường bán buôn điện
cạnh tranh sẽ vận hành chính thức từ 2018.
2.1.5.2. Hình thức giao dịch trên thị trường điện lực
Trên TTĐ, người mua và người bán có một số hình thức thực hiện thỏa thuận
giao dịch hàng hóa dựa trên giá cả, số lượng và chất lượng, thời gian giao hàng và
cơ chế thực hiện thỏa thuận như sau:
1) Thị trường giao ngay
Ở thị trường giao ngay, người bán giao sản phẩm ngay lập tức và người mua
trả tiền tại thời điểm đó mà không có điều kiện gì đối với việc giao hàng. Thị trường
giao ngay có ưu điểm là tính tức thời khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, thị trường
giao ngay tiềm ẩn các rủi ro khi có sự biến động về cung cầu ngắn hạn mà các bên
không thể tổ chức thực hiện việc giao nhận hàng ngay lập tức. Do đó, thị trường giao
ngay hoạt động trên cơ chế “trước một ngày” (a day ahead) và việc giao hàng được lập
lịch thực hiện vào ngày hôm sau. Độ lệch phát sinh giữa hai khoảng thời gian sẽ được
đơn vị vận hành hệ thống kiểm soát bằng nhiều cách như cân bằng thị trường hoặc “thị
trường thời gian thực” (real time market). Công suất cân bằng có thể được huy động
ngay lập tức qua thị trường bằng chào giá hoặc huy động theo cơ chế trước một ngày.
Tại một số thị trường, dù không có cơ chế huy động ngay lập tức qua chào giá nhưng
các nhà sản xuất được khuyến khích tự nguyện cung cấp công suất cân bằng cho đơn vị
vận hành hệ thống.
2) Thị trường kỳ hạn
Đối với thị trường giao ngay, sẽ xảy ra trường hợp giá cả biến động. Do đó,
người bán và người mua thường sẽ thỏa thuận về giá cả, chất lượng và số lượng
hàng hóa từ trước thời điểm giao hàng và hàng hóa sẽ được giao tại một thời điểm
trong tương lai. Các hợp đồng loại này sẽ có cơ chế và thời hạn thanh toán hay điều
khoản phạt nếu việc giao hàng không được thực hiện hoặc bên mua không thanh
toán. Các hợp đồng dạng này là hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, thay vì chỉ duy trì
giao dịch với một đối tác, nhiều bên mua và bên bán sẽ xúc tiến phát triển thị trường
giao dịch hàng hóa trước khi giao hàng.
46
Giá cả trong các thị trường này sẽ được xác định bởi các lựa chọn của các
bên với điều kiện thông tin dồi dào hơn so với các hợp đồng chỉ có hai bên giao
dịch. Với thị trường kỳ hạn, thông thường sẽ sẽ hình thành các hợp đồng mẫu.
Trong ngành điện, các HĐMBĐ mẫu dài hạn là một ví dụ của các hợp đồng kỳ hạn
giữa bên bán (các nhà sản xuất điện) và bên mua (các công ty phân phối điện). Việc
giao dịch dựa trên các HĐMBĐ mẫu dài hạn là một yếu tố khuyến khích các bên
tham gia do đây là các thỏa thuận kéo dài qua nhiều năm, sản lượng giao dịch lớn.
3) Thị trường tương lai
Trong một khoảng thời gian, hợp đồng kỳ hạn mẫu có thể được giao dịch
trên thị trường thứ cấp. Thương nhân (những người không sản xuất hay tiêu thụ
hàng hoá) cũng có thể tham gia vào thị trường này. Các bên không muốn giao hàng
thực tế cũng có thể tham gia vào thị trường này bằng cách bán các hợp đồng kỳ hạn
của họ. Các thị trường mà hợp đồng không bao gồm hay không giao hàng thực tế
được gọi là thị trường tương lai. Thị trường này có thể sẽ xuất hiện các nhà đầu cơ.
Tuy nhiên, nhìn chung thị trường sẽ hưởng lợi từ sự có mặt của những nhà đầu cơ
khi họ sẽ giúp thị trường tăng dung lượng và tính thanh khoản.
4) Thị trường quyền chọn
Trong hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai, không có điều kiện ràng buộc
đối với việc giao hàng. Bất kỳ người bán nào không thực hiện được đầy đủ việc
giao hàng sẽ phải tìm kiếm hàng từ các nguồn khác như thị trường giao ngay.
Tương tự như vậy, người mua không thể mua toàn bộ lượng hàng cam kết phải bán
phần dư thừa trên thị trường giao ngay. Đây là điều kiện để hình thành các quyền
chọn. Trong loại hợp đồng này, giao hàng sẽ kèm theo điều kiện. Các quyền chọn
có hai loại: quyền chọn mua và quyền chọn bán. Quyền chọn mua cho phép người
sở hữu quyền mua một lượng hàng hóa nhất định ở mức giá thực hiện. Một quyền
chọn bán sẽ cho người sở hữu quyền bán hàng hóa nhất định với giá thực hiện.
5) Thị trường theo cơ chế hợp đồng bù trừ
Người mua và người bán cố gắng giảm thiểu rủi ro về giá thông qua cơ chế
hợp đồng bù trừ. Cơ chế này thường được áp dụng trong trường hợp giao dịch diễn
ra thông qua một thị trường tập trung và không tồn tại các hợp đồng song phương.
47
Trong hợp đồng bù trừ, các bên thoả thuận hoặc chấp thuận giá giao dịch và khối
lượng hàng hoá tương ứng. Cả người mua và người bán đều tham gia vào thị trường
tập trung. Chênh lệch giữa giá thực hiện và giá thanh toán bù trừ thị trường của thị
trường tập trung được giải quyết giữa các bên trong hợp đồng bù trừ.
- Nếu giá thỏa thuận trong hợp đồng bù trừ cao hơn giá thị trường, người mua
sẽ trả khoản chênh lệch cho người bán;
- Nếu giá thỏa thuận trong hợp đồng bù trừ thấp hơn giá thị trường, người bán
sẽ trả người mua khoản chênh lệch;
Trong ngành điện, thực tiễn áp dụng ở khu vực Nordpool (Bắc Âu), nơi vận
hành song song thị trường có hợp đồng bù trừ và TTĐ.
2.1.6.Vai trò của thị trường điện lực
TTĐ là cơ chế giúp người mua và người bán tương tác, thực hiện các giao
dịch, với các vai trò như sau:
Thứ nhất, TTĐ góp phần nâng cao hiệu quả của ngành công nghiệp điện lực
hướng đến việc giảm chi phí trong toàn bộ chuỗi cung ứng điện thông qua cạnh
tranh và các biện pháp điều tiết đối với dịch vụ truyền tải và phân phối. Với môi
trường cạnh tranh, các đơn vị phát điện sẽ phải nâng cao hiệu quả và năng suất, cắt
giảm chi phí để có lợi thế khi chào giá trên thị trường.
Thứ hai, TTĐ sẽ thúc đẩy phát triển dịch vụ khách hàng và bảo vệ quyền lợi
của khách hàng tốt hơn thông qua các cơ chế và thể chế điều tiết như cơ quan điều
tiết độc lập, thực hiện các chức năng giám sát, điều tiết cho TTĐ. Trong các TTĐ
phát triển, một trong số các chức năng chính của cơ quan điều tiết là bảo vệ lợi ích
của khách hàng bằng việc thiết lập và đảm bảo thực hiện đúng các tiêu chuẩn hoạt
động dịch vụ khách hàng và giải quyết các tranh chấp của khách hàng.
Thứ ba, TTĐ với cơ chế giao dịch công khai, minh bạch sẽ hỗ trợ cho sự
phát triển của ngành công nghiệp điện lực đúng với các quy luật kinh tế và thị
trường. Khi thị trường vận hành có hiệu quả, thể hiện ở các tín hiệu quan trọng như
giá điện, quy mô tăng trưởng …, sẽ thu hút được các khoản đầu tư mới vào ngành
điện, bảo đảm an ninh năng lượng, gia tăng sự cạnh tranh và vận hành hiệu quả của
toàn hệ thống.
48
2.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
2.2.1. Khái niệm về phát triển thị trường điện lực
Theo quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin, phát triển là
một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật [22].
TTĐ vận động và phát triển theo những quy luật khách quan như quy luật cung
- cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả… Bên cạnh đó, TTĐ có đặc điểm riêng để
tạo các điều kiện cần thiết để các giao dịch giữa người mua và người bán được thực
hiện đảm bảo cung - cầu được cân bằng ở mọi thời điểm về mặt kỹ thuật. Để đáp ứng
được các điều kiện như trên, hạ tầng kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho TTĐ cũng có
những cơ chế, tổ chức và đặc điểm riêng.
Theo NCS, Phát triển TTĐ là quá trình thay đổi của TTĐ và các yếu tố cấu
thành nên thị trường về chất và lượng theo hướng hoàn thiện hơn. Đây là quá
trình phát triển đồng bộ và bền vững các yếu tố cơ bản của thị trường bao gồm
cung, cầu, hạ tầng truyền tải và phân phối điện, các nền tảng và cơ chế phục vụ giao
dịch TTĐ, giá điện. Ở đây các yếu tố cơ bản nhất cấu thành TTĐ bao gồm: cung,
cầu và các yếu tố giúp kết nối cung - cầu đóng vai trò là nền tảng giao dịch.
Trong số các yếu tố cơ bản nêu trên, hạ tầng lưới điện truyền tải ở đa số các nước
trên thế giới đều do Nhà nước giữ độc quyền do đây là hạ tầng có chi phí đầu tư lớn, thực
thi các yêu cầu và chức năng bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
2.2.2. Những nội dung cơ bản của phát triển thị trường điện lực
Với khái niệm về TTĐ đã trình bày tại Mục 2.2.1, các nội dung cơ bản của
phát triển TTĐ sẽ bao gồm phát triển các yếu tố cấu thành TTĐ. Đối với các TTĐ
có nhu cầu điện thường tăng trưởng ở mức cao, trọng tâm của phát triển TTĐ sẽ là
phát triển nguồn cung điện năng, đảm bảo cân bằng cung cầu điện và cơ chế kết nối,
thực hiện các giao dịch trên TTĐ hiệu quả hơn và tin cậy hơn. Ở đây, cung điện
năng được xác định là chuỗi cung ứng sản phẩm điện năng bao gồm bốn khâu: sản
xuất - được thực hiện tại các nhà máy điện hoặc thông qua hoạt động xuất nhập
khẩu điện, truyền tải và phân phối qua hệ thống đường dây tương ứng, và bán lẻ.
Bên cạnh đó, với các đặc điểm của TTĐ cũng như sự đặc biệt của sản phẩm
điện năng như đã nêu tại Mục 2.1.3, phát triển TTĐ phải bao hàm phát triển các cơ
chế cạnh tranh, cơ chế giá và yếu tố nền tảng, bao gồm hệ thống các quy định và
49
quy tắc giao dịch, nền tảng kỹ thuật và công nghệ không thể thiếu khi vận hành
TTĐ. Trong phạm vi luận án này, được cụm thuật ngữ cơ sở hạ tầng và nền tảng
(CSHT&NT) phục vụ giao dịch TTĐ được sử dụng để chỉ hệ thống các quy định và
quy tắc giao dịch, các nền tảng kỹ thuật và công nghệ này.
2.2.2.1. Phát triển hợp lý nhu cầu điện năng
Trên thị trường, nhu cầu là mục đích và động lực của sản xuất. Căn cứ vào
nhu cầu, các nhà sản xuất lên kế hoạch cung ứng sản phẩm ra thị trường. Tuy nhiên
trong ngành công nghiệp điện lực, mức tiêu thụ điện năng càng lớn đòi hỏi năng lực
sản xuất, truyền tải và phân phối điện càng lớn, kéo theo nhu cầu về một lượng vốn
đầu tư đáng kể để xây dựng thêm các nhà máy điện và mở rộng thêm hạ tầng truyền
tải và phân phối điện [14]. Hơn nữa, việc mở rộng sản xuất không diễn ra ngay lập
tức hoặc có tồn kho để đáp ứng nhu cầu tăng thêm. Nó đòi hỏi một loạt các quá
trình lập kế hoạch có thể kéo dài từ vài năm cho tới hàng thập kỷ, không chỉ thực
hiện bởi các nhà sản xuất mà còn là các nhà quản lý dịch vụ truyền tải, các nhà vận
hành hệ thống để đảm bảo CSHT&NT phục vụ TTĐ được chuẩn bị đầy đủ cho sự
phát triển nhu cầu. Do vậy, không giống như đa số các sản phẩm khác, việc nhu cầu
điện tăng trưởng quá nhanh hoặc có khả năng vượt khỏi khả năng cung cấp sẽ có
những tác động tiêu cực đến an ninh cung cấp điện của toàn hệ thống điện.
Nhu cầu điện được được phát triển một cách hợp lý chủ yếu thể hiện ở hệ số
đàn hồi điện/GDP thấp - mang ý nghĩa tốc độ tăng trưởng không quá cao so với
tăng trưởng GDP. Thông thường, các nước trên thế giới có trình độ phát triển cao và
cơ cấu kinh tế hiện đại thường có hệ số đàn hồi điện/GDP ở ngưỡng 1 hoặc thấp hơn
- tức là tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện xấp xỉ bằng hoặc thấp hơn tăng trưởng GDP.
Ở các nước đang phát triển, chỉ số này thường cao hơn đáng kể, phổ biến ở mức trên
1.5 đến 2.5. Để phát triển nhu cầu điện hợp lý hơn, cần có cơ cấu kinh tế hợp lý trong
đó chú trọng các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao nhưng sử dụng năng lượng
hiệu quả, đồng thời giảm dần tỉ trọng của những ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, đặc
biệt là công nghiệp nặng hay công nghiệp chế tạo ở trình độ thô sơ, kém phát triển.
Tại nhiều quốc gia đang phát triển, TTĐ được hình thành và xây dựng
trong bối cảnh nhu cầu luôn tăng trưởng cao hoặc rất cao trong bối cảnh nguồn
cung không kịp phát triển tương xứng. Do đó, phát triển nhu cầu điện tại các
TTĐ này mang hàm ý sự tăng trưởng nhu cầu điện ổn định, dựa trên cơ cấu tiêu
50
thụ điện hợp lý, sử dụng điện năng tiết kiệm và hiệu quả, hài hòa với các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội và các kế hoạch phát triển nguồn điện.
2.2.2.2 .Phát triển nguồn cung điện năng và đảm bảo cân bằng cung cầu
Phát triển nguồn cung điện năng là sự gia tăng về sản lượng điện cung cấp
cho khách hàng và năng lực cung ứng điện, bao gồm điện sản xuất và các nguồn
điện có khả năng nhập khẩu từ nước ngoài đồng thời đảm bảo cơ cấu công nghệ và
cơ cấu sở hữu các nguồn điện hợp lý, tăng cường an ninh cung cấp điện quốc gia.
Đối với nguồn cung trên TTĐ, một đặc điểm cần tính đến là các công trình nguồn
và lưới điện thường có thời gian xây dựng kéo dài thậm chí tới 5-10 năm, huy động
lượng vốn đầu tư lớn, có thể lên tới hàng trăm triệu hoặc hàng tỉ USD. Do vậy, khâu
tổ chức sản xuất để gia tăng nguồn cung cho TTĐ cần đến các tổ chức, DN có năng
lực tốt, có tiềm lực tài chính lớn để có thể triển khai thành công. Trong giai đoạn còn
sơ khai của các TTĐ, Nhà nước thường nắm vai trò đầu tư và triển khai các công
trình, nhà máy sản xuất điện vì hầu như không có tổ chức tư nhân nào có đủ năng lực
để đảm đương phần việc này. Tuy nhiên, phát triển nguồn cung điện năng theo xu
hướng chung của quốc tế trong những năm gần đây cho thấy khu vực tư nhân đã có
đủ năng lực tham gia đầu tư triển khai và vận hành các công trình sản xuất điện. Bên
cạnh đó, ngoài các cơ sở sản xuất điện truyền thống sử dụng nhiên liệu hóa thạch, đã
có thêm nhiều nhà đầu tư sản xuất điện từ các nguồn điện NLTT, ít phát thải KNK và
giảm thiểu các tác động có hại tới môi trường.
Trong nội dung đảm bảo cân bằng cung - cầu trong TTĐ cạnh tranh, công tác
dự báo phụ tải và nhu cầu điện đóng vai trò rất quan trọng. Trong trung và dài hạn,
mục tiêu của phát triển nguồn cung điện năng là đáp ứng được nhu cầu theo dự báo
và đảm bảo cân bằng cung - cầu để cho hệ thống điện quốc gia và TTĐ có thể vận
hành một cách ổn định với cân bằng cung cầu luôn luôn được đảm bảo với độ tin
cậy cao. Nhu cầu tiêu thụ điện không những bao gồm thông tin về tổng nhu cầu huy
động mà còn là diễn biến của nhu cầu theo ngày, tuần, tháng và năm. Do nhu cầu điện
trong các khoảng thời gian trên là khác nhau và phản ánh đặc điểm của hộ tiêu thụ, khu
vực địa lý, mục đích sử dụng, khí hậu, thời tiết… Khi nắm bắt được đặc điểm của phụ
tải, thị trường sẽ vận hành để đáp ứng các nhu cầu này, huy động các tổ máy phát điện
vào lưới để cân bằng cung - cầu.
51
2.2.2.3. Phát triển hệ thống hạ tầng truyền tải, phân phối điện
Điện sản xuất tại các nhà máy điện và được vận tải đến với khách hàng qua
một hệ thống phức tạp, được gọi là lưới điện. Lưới điện là hạ tầng bao gồm các
trạm biến áp điện, máy biến áp và đường dây điện kết nối các nhà sản xuất điện
và người tiêu dùng. Các đường dây điện cao thế vận tải điện qua những khoảng
cách xa tới hàng trăm thậm chí hàng ngàn km, đến người tiêu dùng. Khi truyền
tải, cần đưa điện áp lên mức rất cao để việc truyền tải hiệu quả hơn và ít tốn kém
hơn trong khi điện áp thấp hơn an toàn hơn để sử dụng trong hộ gia đình và DN.
Trong hệ thống truyền tải cần có các máy biến áp tại các trạm biến áp tăng (tăng
áp) hoặc giảm điện áp (giảm áp) để điều chỉnh các giai đoạn khác nhau của hành
trình từ nhà máy điện trên đường dây dẫn đường dài đến các đường dây phân
phối điện đến hộ gia đình và DN. Trong ngành công nghiệp điện lực, công tác
đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng lưới điện có mối liên hệ chặt chẽ với xây
dựng và phát triển nguồn điện, đặc biệt về công suất sản xuất, truyền tải dự kiến
cung cấp tới khách hàng.
Hoạt động của hệ thống điện được quản lý bởi các đơn vị điều độ với chức
năng chính là đảm bảo cung cấp điện liên tục đáp ứng nhu cầu điện. Đơn vị điều độ
đảm bảo nhu cầu và cung cấp điện được cân bằng để duy trì hoạt động an toàn và
đáng tin cậy của hệ thống điện. Nếu nhu cầu và nguồn cung mất cân bằng, bao gồm
việc mất điện cục bộ hoặc mất điện quy mô lớn. Đơn vị điều độ thực hiện chức
năng duy trì điều kiện hoạt động thích hợp cho hệ thống điện bằng cách đảm bảo
cung cấp đủ điện để đáp ứng nhu cầu dự kiến, bao gồm quản lý việc huy động
nguồn điện từ vùng này sang vùng khác hoặc dừng cung cấp dịch vụ đối với một số
khách hàng khi hệ thống không có khả năng cung cấp đủ điện. Như vậy, phát triển
hạ tầng lưới điện tại Việt Nam là đảm bảo sự tăng trưởng và mở rộng về kết cấu,
quy mô của lưới điện với mục đích cuối cùng là đáp ứng nhu cầu về năng lực và
chất lượng vận tải điện năng trên hệ thống.
2.2.2.4. Cải thiện cơ chế cạnh tranh trên thị trường điện lực
Cải thiện cơ chế cạnh tranh hiệu quả là một bộ phận không thể thiếu của phát
triển TTĐ trong bối cảnh hiện nay. Trước đây khi chuỗi cung ứng của ngành điện
vận hành ở cấp độ thị trường độc quyền (hay hình thức thị trường độc quyền), khách
hàng không có lựa chọn nào khác ngoài việc mua điện từ công ty điện lực độc quyền tại
52
khu vực của họ. Một số công ty điện lực là các công ty độc quyền tích hợp dọc, thực hiện
toàn bộ việc sản xuất, truyền tải, phân phối điện đến khách hàng. Trong một số trường
hợp, các công ty điện lực có thể không tham gia khâu sản xuất hoặc truyền tải mà họ
mua điện từ các đơn vị sản xuất điện và tái phân phối cho khách hàng tại khu vực địa lý
mà họ độc quyền phụ trách.
Tuy nhiên, mô hình độc quyền của các công ty điện lực không khuyến khích
các đơn vị này hoạt động hiệu quả hơn và họ có xu hướng thực hiện các khoản đầu
tư không cần thiết. Mặt khác, các chi phí tốn kém liên quan tới sự vận hành không
hiệu quả của các công ty điện lực lại thường được phản ánh vào giá điện mà khách
hàng phải chi trả. Bên cạnh đó, tại một số quốc gia, các công ty điện lực có xu
hướng đặt giá bán điện cao hơn mức giá hợp lý mà tại đó họ có thể thu hồi các chi
phí vận hành hay chi phí đầu tư. Có nhiều lập luận cho rằng giá điện có thể thấp hơn
nữa và khi vận hành ngành điện theo cơ chế thị trường thay vì cơ chế độc quyền thì
sẽ có lợi hơn cho nền kinh tế. Đây là sự chuyển biến tương tự như đã xảy ra với
ngành hàng không, giao thông vận tải, viễn thông khi chuyển đổi sang vận hành
theo cơ chế thị trường, mặc dù trước đó đây được xem là các “mặt hàng” đặc biệt
khó có thể vận hành theo cơ chế thị trường.
Phát triển cơ chế cạnh tranh trên TTĐ là việc thực hiện các cải cách thông
qua thiết kế và triển khai vận hành TTĐ theo các mô hình TTĐ gồm bốn cấp bậc: từ
độc quyền (không có cạnh tranh) cho tới tự do hóa khâu phát điện (cạnh tranh phát
điện), tự do hóa khâu bán buôn điện (cạnh tranh việc mua buôn điện) và tự do hóa
khâu bán lẻ điện (cạnh tranh trong bán lẻ). Tuy nhiên, trong khi có nhiều quốc gia
đã tự do hóa hoàn toàn thị trường thông qua việc giới thiệu mô hình thị trường bán
lẻ thì có một số quốc gia vẫn vận hành TTĐ tương đối ổn định mà chỉ dừng lại ở
khâu tự do hóa sản xuất điện hoặc tự do hóa khâu bán buôn điện. Thực tế cho thấy,
các đặc điểm đặc thù của sản phẩm điện năng là có thể giải quyết được và khi có sự
cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả của ngành sẽ tăng lên và cuối cùng là khách
hàng sẽ là đối tượng được hưởng lợi. Bên cạnh đó, khi tham gia thị trường cạnh
tranh, các công ty sẽ có xu hướng lựa chọn đầu tư các công nghệ khác và do đó,
khách hàng sẽ ít có khả năng phải chịu các thiệt hại do đầu tư không hợp lý của các
công ty điện lực.
53
Để cải thiện cơ chế cạnh tranh, trước hết cần tạo môi trường để cạnh tranh có
thể hình thành và duy trì. Các DN độc quyền tích hợp dọc cần được chia tách thành
các khu vực riêng rẽ: sản xuất; truyền tải - phân phối và bán lẻ. Trong thực tế, sản
xuất và bán lẻ là các khu vực được tự do hóa mạnh mẽ nhất và được tự do hóa
hoàn toàn, DN có thể tham gia mà hầu như không có rào cản hành chính nào.
Khâu truyền tải và phân phối do chứa đựng sứ mệnh bảo đảm an ninh không chỉ
cho ngành điện và cho cả nền kinh tế nên sẽ do Nhà nước độc quyền quản lý và
khai thác. Bằng cách này, một mặt sẽ xóa bỏ quyền lực thị trường của DN độc
quyền tích hợp dọc, mặt khác sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của DN do cạnh tranh
đã được tạo lập và có nhiều nhà cung cấp tham gia thị trường. Khung pháp lý, chính
sách, thiết kế thị trường, cơ chế giao dịch, các dịch vụ phụ trợ, dịch vụ kiểm soát rủi
ro... theo đó cần được thiết lập để tạo sân chơi cho TTĐ cạnh tranh hơn.
Phát triển cơ chế cạnh tranh cũng cần đến các nhân tố như sự tiếp cận công
bằng của các bên với cơ sở hạ tầng thiết yếu, môi trường kinh doanh, sự tham gia
tích cực của người mua và người bán và hạn chế sự phát sinh của quyền lực chi
phối thị trường của một bên bất kỳ.
2.2.2.5.Cơ chế giá trên thị trường
Phát triển TTĐ cũng nhất thiết phải bao hàm nội dung về giá điện vì giá
chính là yếu tố chủ yếu thể hiện hiệu quả vận hành của thị trường và là động lực
thúc đẩy sự tham gia của các bên vào thị trường.
Phát triển cơ chế giá phù hợp cho TTĐ là quá trình mà ở đó từng bước hình
thành các cơ chế giá một mặt đảm bảo các nhà đầu tư thu được lợi nhuận hợp lý, bù
đắp chi phí dịch vụ truyền tải, phân phối và bán lẻ nhưng mặt khác phải đảm bảo
minh bạch và phục vụ lợi ích cho khách hàng tiêu thụ điện. Trong ngắn hạn, giá cả
phải đưa ra các tín hiệu để có thể điều động các nhà máy rẻ nhất mà không gây ra
tình trạng tắc nghẽn. Trong dài hạn, giá cả phải tạo ra đủ thu nhập cho những chủ sở
hữu các đường dây và khuyến khích các nhà máy có vị trí đặt hiệu quả [14].
Cơ cấu giá thành của sản phẩm điện năng thông thường về cơ bản bao gồm:
- Chi phí sản xuất điện - là chi phí sản xuất ra một kWh tại cơ sở phát điện;
- Chi phí truyền tải điện - là chi phí chi trả cho dịch vụ truyền tải trên lưới điện
truyền tải và bao gồm lợi nhuận hợp lý của nhà bán buôn điện tại lưới điện truyền tải;
54
- Chi phí phân phối điện - là chi phí chi trả cho dịch vụ do đơn vị quản lý
mạng lưới phân phối điện cung cấp;
- Chi phí bán lẻ điện - là chi phí chi trả cho dịch vụ bán lẻ tới khách hàng sử
dụng điện [21].
- Một số chi phí khác là dưới dạng phí trả cho các khâu trung gian, dịch vụ
điều độ hoặc dịch vụ dự phòng công suất của hệ thống;
Giá điện được hình thành dựa trên cơ cấu chi phí nêu trên, có bao gồm lợi
nhuận hợp lý của nhà sản xuất điện, đơn vị truyền tải, phân phối và bán lẻ điện.
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong biểu giá điện gồm có
mức giá cụ thể hoặc khung giá, trong đó khung giá được tính từ mức giá thấp nhất
(giá sàn) đến mức giá cao nhất (giá trần). Khung giá phát điện, bán buôn điện do cơ
quan điều tiết điện lực quyết định. Về khung giá hoặc mức giá bán lẻ điện cho
khách hàng sử dụng điện cuối cùng, nhiều nước do Chính phủ quyết định; tuy
nhiên, một số nước do Cơ quan điều tiết điện lực độc lập quyết định. Đối với những
nước đã chuyển sang thị trường bán lẻ điện như Úc, Anh, Nauy… thì giá bán lẻ
điện được xác định trên cơ sở giá bán điện cạnh tranh trên thị trường và do Cơ quan
điều tiết điện lực độc lập kiểm soát, quy định với mục tiêu chủ yếu là bảo đảm cho
các đơn vị điện lực có mức lợi nhuận hợp lý đồng thời bảo vệ quyền lợi của người
sử dụng điện [21].
2.2.2.6.Cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện lực
Cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện lực
(CSHT&NT) phục vụ giao dịch TTĐ nhìn chung bao gồm phương thức giao dịch
gồm các các quy định - quy tắc cho bên mua và bên bán và nền tảng thực hiện giao
dịch là các hệ thống kỹ thuật thông tin, điều khiển và hệ thống đo đếm. Các nền
tảng giao dịch được cấu trúc thành nhiều hệ thống bộ phận, mỗi hệ thống này gồm
các trang thiết bị phần cứng và phần mềm, được liên kết với nhau thông qua việc
kết nối trực tiếp hoặc qua các giao thức kết nối thông tin mềm, nhằm đảm bảo các
hoạt động vận hành, giao dịch trong thị trường phát điện cạnh tranh của các đơn vị
tham gia TTĐ. Trong tương lai gần, các hệ thống này sẽ cần được đầu tư và liên tục
cải thiện để đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin phục vụ công tác tự động hoá, điều độ
và điều khiển hệ thống điện cùng các yêu cầu vận hành ngày càng cao trong bối
cảnh TTĐ vận hành với đầy đủ chức năng của một TTĐ hoàn chỉnh.
55
Ngoài ra, cơ sở hạ tầng thông tin còn bao gồm Hệ thống phần mềm quản lý,
điều hành TTĐ như các hệ thống phần mềm, phần cứng hỗ trợ chào giá, hệ thống
phục vụ thanh toán, hệ thống quản lý thông tin điều độ các tổ máy/nhà máy, hệ
thống đọc và truyền số liệu đo đếm, hệ thống Hệ thống Thu thập dữ liệu và điều
khiển giám sát (SCADA).
2.2.3.Các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường điện lực
Đối chiếu với các mục tiêu phát triển TTĐ tại Việt Nam và các nội dung cơ
bản của phát triển TTĐ đã nêu tại Mục 2.2.2, NCS tổng hợp và đề xuất các tiêu chí
như sau để đánh giá sự phát triển của TTĐ:
Bảng 2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển thị trường điện lực
TT Tiêu chí Chỉ tiêu Đo lường Mô tả
1 Tăng trưởng
quy mô TTĐ
1.1.Tăng trưởng
nhu cầu điện
%, MW, GWh Tốc độ tăng trưởng thể hiện
qua tăng trưởng công suất
và điện năng tiêu thụ
1.2.Tăng trưởng
sản xuất điện
toàn hệ thống
%, MW, GWh Tốc độ tăng trưởng thể hiện
qua tăng trưởng công suất
và điện thương phẩm
1.3.Tăng trưởng
quy mô thị
trường phát điện
%, MW, GWh Tốc độ tăng trưởng thể hiện
qua tăng trưởng công suất
và điện thương phẩm của
các DN tham gia giao dịch
trên thị trường
1.4.Tăng trưởng
quy mô thị
trường bán buôn
điện cạnh tranh
%, MW, GWh Tốc độ tăng trưởng thể hiện
qua tăng trưởng công suất
và điện thương phẩm của
các DN tham gia giao dịch
ở thị trường bán buôn
2 Thu hút đầu
tư từ các
nguồn lực
mới vào TTĐ
2.1.Tăng trưởng
đầu tư vào hệ
thống lưới điện
truyền tải và lưới
điện phân phối
%, MVA, km Tốc độ tăng trưởng đầu tư
vào hạ tầng lưới điện thể
hiện qua tăng trưởng công
suất truyền tải, số km
đường dây
56
TT Tiêu chí Chỉ tiêu Đo lường Mô tả
2.2.Sự tham gia
của các nhà sản
xuất điện độc
lập, các nhà sản
xuất ngoài EVN
% (thị phần
của khu vực
tư nhân trên
TTĐ)
Thị phần của khu vực tư
nhân trên TTĐ gia tăng thể
hiện sự vận hành tốt hơn
của TTĐ
3 Cải thiện cơ
chế cạnh
tranh và tự
do hóa
3.1. Thực hiện
đúng lộ trình
xây dựng các
cấp độ TTĐ
Việc thực hiện lộ
trình xây dựng
các cấp độ TTĐ
được bảo đảm
Thực hiện đúng lộ trình xây
dựng các cấp độ TTĐ sẽ bảo
đảm tự do hóa khâu phát
điện, bán buôn điện và bán lẻ
điện, cải thiện cạnh tranh ở
các khâu trên.
3.2. Rào cản gia
nhập TTĐ
Các rào cản về
hành chính, thủ
tục gia nhập thị
trường từng bước
được gỡ bỏ
Các thủ tục và quy trình
được đơn giản hóa, gia tăng
tiếp cận cơ sở hạ tầng ngành
điện của các đơn vị tham gia
TTĐ
3.3. Tính minh
bạch của thị
trường
Lượng thông tin
được công khai,
chế độ báo cáo
minh bạch
Nhiều thông tin được công
khai và chế độ báo cáo minh
bạch hơn thể hiện sự vận
hành tốt hơn của TTĐ
4 Xanh hóa
TTĐ theo
hướng
khuyến
khích phát
triển NLTT
4.1. Điện NLTT
được huy động
và giao dịch trên
TTĐ
%, MW, GWh Tốc độ tăng trưởng điện
NLTT thể hiện qua tăng
trưởng công suất và điện
thương phẩm tham gia giao
dịch trên thị trường
Đối với TTĐ Việt Nam, NCS đề xuất bốn nhóm tiêu chí chính để đánh
giá sự phát triển, thể hiện qua chín chỉ tiêu cụ thể.
- Tăng trưởng quy mô TTĐ: đây là nội dung cơ bản, thể hiện cung và cầu có
tăng trưởng thể hiện ở bốn tiêu chí gồm:
1.1) tăng trưởng nhu cầu điện;
1.2) tăng trưởng sản xuất điện;
1.3) tăng trưởng quy mô thị trường phát điện cạnh tranh và
57
1.4) tăng trưởng quy mô thị trường bán buôn điện cạnh tranh.
Đối với tăng trưởng nhu cầu điện, chỉ tiêu này cần được xem xét và đối chiếu
với hệ số đàn hồi điện / GDP. Hệ số này nếu có xu hướng giảm dần sẽ là tín hiệu tốt
cho TTĐ;
- Thu hút đầu tư từ các nguồn lực mới vào TTĐ: bên cạnh các nhà đầu tư
truyền thống cần thu hút được những nguồn đầu tư khác, đặc biệt là các nhà đầu tư
tư nhân và nước ngoài. Đây là tiêu chí đánh giá thể hiện việc đa dạng hóa nguồn lực
đầu tư cho TTĐ và cũng thể hiện sức khỏe của TTĐ, cho thấy thị trường vận hành
tốt, không có sự lũng đoạn hoặc chi phối bởi số ít nhóm DN thống lĩnh hoặc chi
phối TTĐ. Tiêu chí này được xem xét trên hai chỉ tiêu:
2.1) Tăng trưởng đầu tư vào hệ thống lưới điện truyền tải và lưới điện phân
phối và
2.2) Sự tham gia của các nhà sản xuất điện độc lập, các nhà sản xuất ngoài EVN;
- Cải thiện cơ chế cạnh tranh và tự do hóa: là cơ sở để nâng cao hiệu quả
hoạt động và có giá điện hợp lý, mức độ cạnh tranh trong TTĐ sẽ tăng lên dần dần
để tạo ra những động lực mạnh mẽ khuyến khích nâng cao hiệu quả toàn ngành.
Thể hiện ở ba tiêu chí:
3.1) Thực hiện đúng lộ trình xây dựng các cấp độ TTĐ;
3.2) Rào cản gia nhập thị trường và;
3.3) Tính minh bạch của thị trường.
- Xanh hóa TTĐ theo hướng khuyến khích phát triển NLTT: thể hiện cơ cấu
sản xuất điện hiện đại, đảm bảo bền vững về môi trường, giảm phát thải KNK. Phát
triển điện NLTT cũng đồng nghĩa với việc gia tăng an ninh năng lượng cho quốc
gia, bảo vệ hệ thống trước những cú sốc giá nhiên liệu hoặc giá năng lượng trên thế
giới. Tiêu chí này thể hiện qua chỉ tiêu tăng trưởng công suất và điện thương phẩm
tham gia giao dịch trên thị trường.
2.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường điện lực
Các nhân tố ảnh hướng đến sự phát triển thị trường điện lực bao gồm các
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
2.2.4.1. Các nhân tố chủ quan
Đây là các nhân tố xuất phát hoặc liên quan trực tiếp tới sự phát triển và vận
động không ngừng của các chủ thể tham gia thị trường. Các nhân tố này bao gồm:
58
Thứ nhất là, mức độ tích cực của các nhà đầu tư, các DN tham gia chuỗi
cung ứng điện năng gồm các nhà máy điện, các công ty cung cấp dịch vụ truyền tải,
phân phối điện, các công ty điện lực phụ trách dịch vụ bán lẻ điện và khách hàng tiêu
thụ điện. Khi có sự tham gia tích cực của các DN, đơn vị từ nhiều thành phần, sẽ gia
tăng các lựa chọn cho khách hàng mua điện với quy mô thị trường mở rộng hơn, đi
kèm theo là sự đa dạng và sự gia tăng cạnh tranh của các nhà cung cấp trên TTĐ;
Thứ hai là, năng lực, trình độ và kinh nghiệm của các chủ thể tham gia TTĐ.
Đối với các các nhà đầu tư, các DN tham gia chuỗi cung ứng điện năng, năng lực,
trình độ và kinh nghiệm thể hiện ở khả năng huy động tài chính, huy động nguồn
lực triển khai thực hiện các dự án phát triển trong lĩnh vực điện năng, năng lực quản
lý đầu tư, quản lý thi công hay quản lý vận hành các công trình điện. Đối với các
đơn vị quản lý vận hành lưới điện hay hệ thống điện, trình độ và kinh nghiệm của
nhân lực, đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên cũng là những yếu tố quyết định, thiết yếu có
ảnh hưởng và tác động tới sự phát triển của TTĐ.
2.2.4.2. Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan là các nhân tố tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc
vào các chủ thể tham gia TTĐ:
Thứ nhất là, sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia: do điện năng là đầu
vào quan trọng ở hầu hết các hoạt động của nền kinh tế, và do đó, có sự liên hệ chặt
chẽ và tương quan giữa phát triển kinh tế - xã hội và TTĐ. Một yếu tố quan trọng
tác động lên phát triển của TTĐ là cơ cấu kinh tế quốc gia hay địa phương mà ở đó
các hộ tiêu thụ điện phục vụ cho mục đích sản xuất. Nếu cơ cấu kinh tế bị chi phối bởi
các hoạt động sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng hay công nghiệp chế
tạo, nhu cầu sử dụng điện cho các khu vực này cũng sẽ có tỉ trọng cao, chi phối tổng
thể nhu cầu điện toàn quốc hoặc địa phương. Tác động của các điều kiện kinh tế - xã
hội đối với phát triển TTĐ còn thể hiện ở mức độ sử dụng năng lượng của nền kinh tế
có hiệu quả hay không. Nếu nền kinh tế sử dụng năng lượng có hiệu quả, sẽ cần ít điện
năng hơn để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm và qua đó, tạo ra nhu cầu điện bền vững
hơn và ngược lại.
Thứ hai là, hệ thống pháp luật, chính sách đối với ngành công nghiệp điện
lực: thể hiện qua các đạo luật, chính sách được ban hành để điều chỉnh sự vận hành
và phát triển của ngành. Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật, chính sách quan trọng nhất
59
và có liên quan mật thiết tới TTĐ là Luật Điện lực, các Chiến lược phát triển năng
lượng như than, dầu, khí, NLTT, các Quy hoạch phát triển phân ngành năng lượng, các
quy định về lộ trình hình thành TTĐ các cấp độ, các chính sách về an ninh năng lượng.
Bên cạnh đó, các chính sách và định hướng, chủ trương của Nhà nước đối với liên kết
vận hành của ngành công nghiệp điện lực Việt Nam với các nước trong khu vực, bao
gồm các hoạt động xuất nhập khẩu điện và năng lượng cũng đóng vai trò quan trọng,
ảnh hưởng tới sự phát triển của TTĐ Việt Nam.
Thứ ba là, các nhân tố về kỹ thuật - công nghệ cũng có tác động nhất định
đến TTĐ và ngành công nghiệp điện lực. Trong kỷ nguyên của đột phá công
nghệ trên nhiều lĩnh vực, ngành điện sẽ chứng kiến sự ứng dụng của các kỹ thuật
- công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng điện năng tới
khách hàng nhờ các tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực phát điện, truyền tải điện,
vận hành lưới điện thông minh, quản lý nhu cầu trên nền tảng công nghệ thông tin
và truyền thông...
Thứ tư là, mô hình tổ chức quản lý, điều tiết thị trường điện: Khi phát triển
TTĐ, các nội dung liên quan tới mô hình tổ chức quản lý, điều tiết thị trường đóng vai
trò quan trọng thiết yếu. Các nội dung này có thể bao gồm hệ thống các văn bản pháp
lý quy định và điều chỉnh việc xây dựng và phát triển TTĐ; cấu trúc tổ chức các cơ
quan và các bên liên quan trong quản lý và điều tiết TTĐ.
Ngoài ra, một số yếu tố như điều kiện tự nhiên, khí hậu cũng ảnh hưởng tới
sự phát triển của TTĐ. Các khu vực có điều kiện thời tiết khắc nghiệt (quá nóng
hoặc quá lạnh) nhu cầu tiêu thụ điện năng sẽ có xu hướng cao hơn so với các khu
vực khác.
2.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC VÀ BÀI
HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trong phạm vi luận án, NCS đã tiến hành khảo cứu kinh nghiệm quốc tế về
phát triển TTĐ tại một số quốc gia hoặc khu vực, trong đó xem xét những thị
trường đã phát triển thành công trong nhóm các quốc gia công nghiệp phát triển
(OECD), cũng như thị trường hiện đang trong quá trình phát triển hoặc có một số
đặc điểm tương đồng với Việt Nam. NCS cũng xem xét và phân tích một số trường
hợp các thị trường không thành công khi cải thiện cơ chế cạnh tranh và tự do hóa thị
trường cũng được xem xét và bàn luận. Các khảo cứu kinh nghiệm quốc tế giúp chỉ
60
ra những vấn đề các nước đi trước đã gặp phải, những rủi ro tiềm tàng trong quá
trình phát triển, cách thức xử lý và bài học cho Việt Nam.
2.3.1.Kinh nghiệm phát triển thị trường điện lực của một số nước trên thế giới
2.3.1.1. Thị trường điện lực của Italia
Tổng tiêu thụ điện toàn quốc của Italia là 311.7 TWh vào năm 2016, trong đó
274.7 TWh (88.1%) được sản xuất trong nước còn lại là nhập khẩu [57]. Trong cơ cấu
nguồn sản xuất điện, các nhà máy điện dùng nhiên liệu hóa thạch hiện chiếm 67.7%
sản lượng trong khi thủy điện đạt mức 15.4%. Trong khi không vận hành nhà máy điện
hạt nhân nào, Italia có tỉ trọng điện NLTT tương đối cao, đạt 46,125 GWh, chiếm
16.8% năm 2016 [57]. Về phía cầu, Italia cấu trúc thị trường bán lẻ cạnh tranh thành
hai bộ phận: thị trường tự do chiếm khoảng 76% quy mô thị trường với sự tham gia và
cạnh tranh của 14 đơn vị bán lẻ. 24% còn lại là thị trường bán lẻ có điều tiết, do một
đơn vị được giao trách nhiệm cung cấp điện năng.
Ngành điện tại Italia được thiết lập từ cuối thế kỷ 19, với sự tham gia của các
công ty tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, Nhà nước đã quốc hữu hóa các
công ty trong ngành điện vào năm 1962, thành lập Enel - là công ty độc quyền tích
hợp dọc phụ trách toàn bộ việc sản xuất, truyền tải và phân phối điện địa phương
trong toàn quốc. Giai đoạn những năm 1980, Enel bị cổ phần hóa khi có sự thay đổi
về quan điểm của Chính phủ khi họ cho rằng mô hình độc quyền tích hợp dọc đã
không còn hiệu quả hay phù hợp với bối cảnh mới. Tiếp theo đó, ngành điện được
tái cơ cấu và tự do hóa, thúc đẩy sự tham gia của khối tư nhân, mở cửa thị trường
điện, chia tách Enel thành các công ty nhỏ hơn và phụ trách các khâu chuyên biệt
hơn trong chuỗi cung ứng điện năng. Khu vực bán buôn được tự do hóa năm 2004
với sự ra đời của Thị trường bán buôn điện. Năm 2007, TTĐ Italia được mở cửa
hoàn toàn, cho phép các bên tự do giao dịch và tiếp cận hạ tầng TTĐ. Chức năng tổ
chức thị trường điện được giao cho đơn vị thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà nước
(GME - Gestore dei Mercati Energetici S.p.A) đảm nhiệm. Các dịch vụ thuộc chức
năng tổ chức thị trường điện bao gồm Thị trường giao ngay (MPE) – bao gồm các
sản phẩm thị trường ngày trước (MGP), thị trường liên ngày (MI) và thị trường
hàng ngày (MPEG) - và thị trường tương lai (MTE).
61
Hình 2.8. Cấu trúc TTĐ Italia
Nguồn: [48].
Theo kế hoạch năng lượng quốc gia, Italia dự định tăng sản xuất điện từ tất
cả các nguồn tái tạo lên 26% tổng sản lượng điện sản xuất vào năm 2020, chiếm
17% tổng lượng năng lượng tiêu thụ [63]. Năm 2014, 38.2% tiêu thụ điện năng
quốc gia là từ các nguồn tái tạo (năm 2005 là 15.4%), chiếm 16.2% tổng tiêu thụ
năng lượng của cả nước (5.3% năm 2005). Chỉ riêng sản xuất năng lượng mặt trời
chiếm gần 9% tổng tiêu thụ điện của cả nước trong năm 2014, làm cho Italia trở thành
nước có sự đóng góp lớn nhất từ năng lượng mặt trời trên thế giới [81]. Đây là kết quả
của các chính sách khuyến khích về kinh tế mạnh mẽ của Chính phủ đối với phát triển
NLTT. Ngoài ra, kể từ năm 2001, tất cả các nhà sản xuất và nhập khẩu điện ở Ý buộc
phải đảm bảo hạn ngạch sản xuất điện từ các nguồn tái tạo hoặc mua giấy chứng nhận
xanh từ một công ty khác có sản lượng dư thừa trong sản xuất NLTT.
Giá điện tại Italia tương đối đắt đỏ so với các nước khác tại EU, thể hiện
quan điểm của Chính phủ trong khuyến khích tiết kiệm và sử dụng điện có hiệu quả.
Mặt khác giá điện bán lẻ cao một phần bắt nguồn từ cơ cấu sản xuất điện tại quốc
gia này, với nguồn điện từ khí tự nhiên chiếm ưu thế và các khoản trợ cấp cho phát
triển NLTT.
Về tạo lập cơ chế giao dịch TTĐ, Italia thành lập Terna - Cơ quan vận hành
hệ thống truyền tải và điều độ hệ thống điện. Đây là đơn vị thuộc sở hữu 100% vốn
của Tập đoàn Enel, sở hữu, quản lý hơn 90% lưới điện truyền tải điện Quốc gia.
Terna điều độ, vận hành hệ thống điện theo điều hành của GRTN - Đơn vị vận hành
công cộng thuộc Bộ Tài chính (Mô hình vận hành hệ thống điện độc lập). Để vận hành
TTĐ, Cơ quan Vận hành thị trường điện GME được thành lập và thực hiện vận hành
62
TTĐ từ 1/4/2004. GME tổ chức và quản lý TTĐ IPEX theo tiêu chí trung lập, minh
bạch để đảm bảo khuyến khích cạnh tranh giữa các đơn vị phát điện và đảm bảo cung
cấp điện.
Italia xây dựng AU là đơn vị mua điện duy nhất trên thị trường điều tiết (chiếm
khoảng 24% tổng quy mô thị trường). AU có nhiệm vụ mua điện thông qua chào giá từ
thị trường bán buôn và phân phối điện cho thị trường điều tiết. Ngoài ra, từ 1/7/2007,
AU có trách nhiệm bán điện cho các khách hàng tự nguyện mua điện từ AU.
Chức năng quản lý nhà nước đối với TTĐ được chia thành hai khối chính:
khối ban hành chính sách và điều tiết gồm có Bộ Phát triển kinh tế (MSE) và Cơ
quan Điều tiết Khí, điện và nước (AEEGSI). Khối còn lại là các cơ quan, tổ chức
tham gia trực tiếp điều hành thị trường.
Hình 2.9. Mô hình quản lý thị trường điện tại Italia
Nguồn: [39]
Trong hệ thống nêu trên, AEEGSI - Cơ quan điều tiết Khí, Điện và Nước
Italia đóng vai trò là cơ quan điều tiết các dịch vụ thiết yếu có mức độ độc lập cao
đối với chính phủ trong các phán đoán và đánh giá của tổ chức này. Cơ quan
AEEGSI có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực điện lực như xây
dựng, ban hành các quy định về giá và phí; ban hành các quy định về vận hành hệ
thống điện; cấp giấy phép hoạt động điện lực; khuyến khích phát triển NLTT; giải
quyết tranh chấp...
63
2.3.1.2.Thị trường điện lực của Na-uy
Ngành điện ở Na Uy dựa chủ yếu vào thủy điện với tổng công suất thủy điện
tại Na-uy vào khoảng 31 GW vào năm 2016, sản xuất được lượng điện thương
phẩm tương đương 143 TWh, chiếm 96.3% tổng cung điện năng toàn quốc. Bên
cạnh đó, điện gió có tiềm năng tương đối tốt, với công suất lắp đặt là 838 MW năm
2015 dự kiến sẽ tăng lên đạt mức 1,000 MW năm 2020. Công nghiệp là khách hàng
tiêu thụ điện chủ yếu tại quốc gia này, chiếm khoảng 95% tổng sản lượng. Tiêu thụ
điện bình quân đầu người tại Na-uy ở mức 25MWh/người, luôn cao hơn trung bình
của khối EU từ hai đến ba lần. Các hộ gia đình sử dụng điện vào các mục đích sưởi
ấm và đun nước nóng. Chiến lược năng lượng dài hạn của Na-uy đến 2030 tập trung
giải quyết các vấn đề về an ninh cấp điện, nâng cao tỉ lệ nguồn điện từ NLTT trong
cơ cấu sản xuất điện nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Na-uy đẩy mạnh liên kết lưới điện quốc tế như một biện pháp để ổn định
nguồn cung cấp điện và ổn định giá điện. Về liên kết lưới điện ở khu vực, Na-uy có
kết nối tương đối tốt với các nước trong khu vực Bắc Âu. Na-uy và Thụy Điển đã
hợp tác xây dựng đường dây 420kW kết nối qua thành phố Nea của Na-uy và
Järpströmmen của Thụy Điển năm 2009. Trước đó, Na-uy cũng có liên kết lưới điện
với Đan Mạch, qua đường dây xây dựng năm 1977. Hiện nay công suất truyền tải qua
kết nối này đạt 1.700 MW, tăng gần gấp 2,5 lần so với thời điểm mới xây dựng. Bên
cạnh đó, Na-uy có hệ thống kết nối qua đường dây NorNed với Hà Lan công suất thiết
kế là 700 MW. Với các khu vực khác, Na-uy đã có kế hoạch kết nối với Đức và Vương
quốc Anh trong tương lai. Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng, do giá điện bán lẻ tại
các khu vực liên kết lưới điện ở mặt bằng cao hơn so với Na-uy, điều này có thể ảnh
hưởng và làm gia tăng giá điện áp dụng với khách hàng tại quốc gia này. Giá điện bán
lẻ bình quân cho các hộ gia đình tại Na-uy hiện ở mức 95 øre/kWh năm 2017 (tương
đương 2,652 VNĐ/kWh).
Trước giai đoạn cải cách ngành điện và phát triển TTĐ, phần lớn các đơn vị
điện lực tại Na-uy thuộc sở hữu nhà nước. Các cấp chính quyền từ trung ương tới
địa phương đều có những thẩm quyền ở mức độ khác nhau để can thiệp vào TTĐ
trong đó có giá bán điện. Công ty độc quyền và thống lĩnh thị trường là Statkraft với
trên 30% thị phần. Các địa phương ở cấp tỉnh và thấp hơn sở hữu các cơ sở và hạ
tầng điện với 55% thị phần. Còn lại 15% là sản lượng sản xuất bởi các công ty tư
nhân [65]. Tuy vậy ngay từ giai đoạn này, mặc dù phần lớn là sở hữu nhà nước
64
nhưng các chủ thể sở hữu trong ngành điện của Na-uy có số lượng rất lớn, tới hơn
200 đơn vị [65]. Động lực để cải cách ngành điện của Na-uy xuất phát từ thực tế là
sự hoạt động kém hiệu quả của các đơn vị phát điện mà đa phần có quy mô trung
bình và nhỏ. Mặt khác, các khách hàng tiêu thụ cuối cùng cũng nhận được các mức
giá không đồng đều giữa các vùng và không phản ánh sự hiệu quả về kinh tế trong
sản xuất kinh doanh [65].
Việc cải cách được quy định bằng việc ra đời Luật Năng lượng 1990 với mục
tiêu gia tăng tính cạnh tranh trong ngành điện, nâng cao hiệu quả khâu sản xuất,
truyền tải và phân phối điện năng, các nguồn điện có chi phí thấp hơn được ưu tiên
huy động và gia tăng lợi ích của khách hàng. Trách nhiệm của Nhà nước là bảo đảm
các công ty truyền tải, phân phối không lạm dụng quyền lực độc quyền của họ để
làm giảm hiệu quả kinh tế trong hoạt động hoặc chất lượng dịch vụ. Các quy định
và các thể chế liên quan cũng được ban hành trong Luật Năng lượng, trong đó quy
định về sự thành lập và chức năng, nhiệm vụ của Tổng Cục Tài nguyên nước và
Năng lượng (NVE). NVE được giao thẩm quyền giám sát hoạt động và điều tiết các
công ty lưới điện qua các công cụ phân tích hiệu quả về kinh tế và tài chính, có điều
chỉnh và xét đến yếu tố vùng miền và số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ truyền
tải và phân phối điện [65].
Trong quá trình cải cách công ty chi phối thị trường Statkraft được chia nhỏ
thành hai đơn vị riêng biệt: Statkraft SF phụ trách phát điện và Statnett SF, công ty
truyền tải. Các công ty khác cũng được yêu cầu tách bạch khâu phát điện, lưới điện
và kinh doanh điện, thực hiện hạch toán độc lập nhưng không tách thành các pháp
nhân riêng rẽ [45].
Một điểm đáng lưu ý là quá trình tự do hóa ngành điện ở Na-uy không đi
theo mô hình ở một số nước khác: hầu hết các công ty điện lực đều không thay đổi
sở hữu, vẫn thuộc kiểm soát của nhà nước ở các cấp chính quyền từ trung ương đến
địa phương. Tuy nhiên, Na-uy duy trì và khuyến khích sự phát triển của các công ty
này nhằm gia tăng cạnh tranh và bảo đảm rằng thị trường không bị chi phối hoặc
lũng đoạn bởi một số ít công ty nào. Hiện nay, chỉ riêng số lượng các công ty quản
lý vận hành lưới điện và tham gia thị trường bán lẻ điện ở nước này là trên 200 đơn
vị. Ở khâu bán buôn, các công ty của Na-uy tham gia Nord Pool, là thị trường bán
buôn không bắt buộc, chiếm khoảng 40% tổng giao dịch điện ở khu vực Bắc Âu.
Lượng giao dịch còn lại là các hợp đồng song phương do các đơn vị phát điện và
65
mua điện thỏa thuận với nhau. Khu vực bán lẻ chủ yếu vận hành phục vụ thị trường
trong nước tuân theo các quy định về bán lẻ quốc gia.
Trong quản lý và điều tiết TTĐ, Na-uy trao thẩm quyền và ban hành các quy
định đối với các cơ quan điều tiết chủ yếu là Bộ Dầu mỏ và Năng lượng (Ministry
of Petroleum and Energy - MPE), Cơ quan Quản lý cạnh tranh Na-uy (Norwegian
Competition Authority - NCA) và Tổng Cục Tài nguyên nước và Năng lượng
(Norwegian Water Resources and Energy Directorate - NVE).
2.3.1.3. Thị trường điện lực của Australia
Tổng sản lượng điện trên toàn Australia là 253.7 TWh trong năm 2016, trong đó
tua bin hơi đốt than chiếm tỉ trọng rất cao. Mạng lưới điện truyền tải điện áp cao từ
220 kV trở lên thực hiện nhiệm vụ kết nối người tiêu dùng và nhà sản xuất điện ở các
tiểu bang Queensland, New South Wales (NSW), Vùng Thủ đô Australia (ACT),
Victoria, Nam Australia, và (qua cáp Basslink dưới biển) Tasmania. Hệ thống điện
này hoạt động trong TTĐ của Australia (NEM) và là hệ thống mạng điện xoay chiều
dài nhất kết nối với nhau trên thế giới, kéo dài 4,500 km [75].
Hệ thống điện Australia có độ dự phòng công suất phát điện lớn (khoảng
25%), tốc độ tăng trưởng phụ tải thấp (khoảng 3% năm) và cơ cấu nguồn năng
lượng đa dạng. Cơ sở hạ tầng của hệ thống điện phát triển ở mức cao với hệ thống
SCADA và các hệ thống đo đếm tiên tiến đã tạo điều kiện thuân lợi để xây dựng thị
trường thời gian thực (5 phút), giúp phát triển thị trường nhanh chóng.
Từ năm 1998 đến nay Australia đã phát triển đến giai đoạn bán lẻ điện cạnh
tranh. Đến 2001, Chính phủ Australia đã ban hành các chính sách của chính phủ để
thúc đẩy phát điện từ NLTT. Tổng tiêu dùng nhu cầu điện tại Australia được dự báo
sẽ tăng trưởng chậm, đạt 222 TWh vào năm 2021/2022. Một yếu tố quan trọng khác
làm giảm tiêu thụ điện là việc giá điện bán lẻ liên tục được điều chỉnh tăng do phí
truyền tải gia tăng, tại một số bang thậm chí tăng tới hơn 50% (NSW và
Queensland). Phí truyền tải tăng bắt nguồn từ hoạt động đầu tư mạnh mẽ trong gần
một thập kỷ qua vào hạ tầng lưới điện để đáp ứng đỉnh cao nhu cầu mùa hè. Hiện
nay, giá điện bán lẻ bình quân áp dụng cho các hộ gia đình tại Australia là 28
AUDcent/kWh (tương đương 4,871 VNĐ/kWh). Mức giá điện bán lẻ cao hơn cũng
phản ánh chi phí cho các khoản trợ cấp cho NLTT tái tạo.
TTĐ quốc gia Australia (NEM) là thị trường thời gian thực vận hành theo
mô hình điều độ tập trung - chào giá tự do có kèm theo hợp đồng sai khác giữa các
66
công ty phát điện và khách hàng mua điện để quản lý rủi ro biến động giá. Các hợp
đồng song phương được thực hiện độc lập bởi hai bên mua và bán. Thị trường
Australia được chia theo vùng, bao gồm 6 vùng là các bang, vùng lãnh thổ cua nước
này: các tiểu bang Queensland, New South Wales, Lãnh thổ thủ đô, Victoria và
Nam Úc. Tasmania gia nhập NEM vào năm 2006.
Trước khi hình thành và vận hành thành công TTĐ như hiện nay, Australia
đã tiến hành quá trình tái cơ cấu ngành điện từ năm 1991, băng viêc chia tách các
khâu phát điện, truyền tải và phân phối. Khi chưa thực hiện quá trình tái cơ cấu, tài
sản các đơn vị trong ngành điện Australia đều thuộc sở hữu của nhà nước. Do
nguồn than dồi dào nên nhiệt điện than chiếm một tỷ lệ lớn trong khâu phát điện
tại Australia. Quá trình tái cơ cấu ở Úc được tiến hành đồng thời từ cấp bang và
cấp Quốc gia. Năm 1995 ngành điện Australia bắt đầu quá trình chuyển dịch
theo mô hình tập đoàn và tư nhân hóa. Các đơn vị truyền tải thuộc sở hữu nhà
nước được hợp nhất thành Công ty truyền tải quốc gia duy nhất cùng với việc
thành lập một Ủy ban quản lý lưới điện Quốc gia. Năm 1994, Ủy ban quản lý
lưới điện Quốc gia ban hành quy định “Tái cơ cấu ngành điện Australia” đặt ra
mục tiêu cho phát triển TTĐ Australia.
TTĐ quốc gia Australia (NEM) bắt đầu vận hành từ tháng 12 năm 1998 với các
mục tiêu: tạo sự cạnh tranh, cho phép các khách hàng lựa chọn nhà cung cấp, cho phép
tham gia nối lưới... Các đơn vị tham gia NEM gồm có Tổ chức Điều hành Thị trường
Năng lượng - AEMO (Australian Energy Market Operator) vận hành TTĐ NEM.
AEMO thành lập năm 2009 trên cơ sở sáp nhập một số cơ quan quản lý quy hoạch của
nhà nước và đơn vị vận hành thị trường khí và NEMMCO - Công ty Quản lý TTĐ
quốc gia (National Electricity Market Management Company) và 15 công ty phát điện,
5 công ty cung cấp dịch vụ lưới truyền tải; các các công ty cung cấp dịch vụ lưới phân
phối và các khách hàng mua điện trên thị trường: bao gồm các công ty bán lẻ điện và
các khách hàng sử dụng điện lớn.
Cơ chế quản lý - điều tiết TTĐ được điều chỉnh và cải tiến đầu những năm
2000 nhằm hình thành các cơ quan điều tiết cấp liên bang thay vì tiểu bang. Ở hệ
thống này, có ba cơ quan chính tham gia điều tiết kinh tế của mạng lưới điện tại
Australia là:
Hội đồng Thường trực về Năng lượng và Tài nguyên - SCER (Standing
Council of Energy and Resources): SCER có trách nhiệm tạo lập chương trình nghị
67
sự chiến lược quốc gia đối với lĩnh vực năng lượng và tài nguyên của Australia.
Thành viên của SCER là các bộ trưởng các ngành liên quan ở liên bang, tiểu bang
và New Zealand.
Ủy ban Thị trường Năng lượng Australia - AEMC (Australian Energy
Market Commission): AEMC được trao chức năng điều chỉnh các Quy định mà
không cần thông qua của Ủy ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng Australia - ACCC.
AEMC còn có trách nhiệm duy trì và phát triển các Quy định Điện lực quốc gia và
tham mưu cho các Bộ trưởng về phương thức tốt nhất để phát triển TTĐ [10]. Đây
cũng là cơ quan ban hành các quy định và phát triển TTĐ và khí.
Cơ quan Điều tiết Năng lượng Australia - AER (Australian Energy
Regulator): AER có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực thi sự tuân thủ
ở các TTĐ bán buôn và thị trường khí; điều tiết các mạng lưới điện và khí theo
nguyên tắc thiết lập giá tối đa mà các công ty lưới điện được hưởng, điều tiết các
TTĐ và khí bán lẻ theo Luật Bán lẻ năng lượng quốc gia.
2.3.1.4. Thị trường điện lực của Trung Quốc
TTĐ Trung Quốc có quy mô lớn nhất thế giới. Năm 2015, công suất lắp đặt
của nhà máy điện của Trung Quốc đạt 1.5 tỷ kW, với điện năng sản xuất đạt 5,618
nghìn tỷ kWh (chiếm 24% sản lượng điện toàn cầu). Một điểm đáng lưu ý là quy
mô TTĐ Trung Quốc đã liên tục tăng trưởng trong suốt 40 năm qua (kể từ năm
1968). Hạ tầng lưới điện Trung Quốc cũng có quy mô khổng lồ, với tổng chiều dài
đường dây truyền tải từ 220kV trở lên là 572,000 km tương ứng công suất truyền tải
đạt 3.03 tỷ kVA. Hiện nay toàn bộ các tỉnh của Trung Quốc đã kết nối lưới điện
quốc gia, nằm dưới sự quản lý của hai đơn vị nhà nước là Công ty lưới điện Nhà
nước và Công ty lưới điện Nam Trung Quốc.
Từ năm 1985, Trung Quốc đã bắt tay vào quá trình cải cách ngành điện trong
bối cảnh phải đối mặt với tình trạng thiếu điện trên toàn quốc. Cho đến trước khi cải
cách, TTĐ Trung Quốc không có sự tham gia của tư nhân vào sản xuất điện. Chính
quyền Trung Quốc thực hiện các cải cách về thu hút đầu tư, cải cách cơ chế giá điện
và xây dựng các cơ quan điện lực địa phương để cải thiện năng lực sản xuất điện
trên toàn quốc. Các nhà đầu tư vào sản xuất điện được bảo đảm đầu ra thông qua
các hợp đồng mua điện dài hạn với giá mua cố định, trong đó bảo đảm lợi nhuận
68
trung bình trên 15%/năm. Cho đến năm 1995, về cơ bản tình trạng thiếu điện tại
nước này đã chấm dứt.
Trong những năm 1997-1998 các chức năng và trách nhiệm của Nhà nước đã
được tách ra khỏi hoạt động kinh tế trực tiếp của các DN năng lượng. Một phần của
Bộ Điện lực đã được chuyển đổi thành Công ty Điện lực Trung Quốc (SPC) năm
1997 để tách DN ra khỏi chức năng quản lý nhà nước. Một số biện pháp khác cũng
được thực hiện để nâng cao khả năng kiểm soát và hiệu quả của ngành điện.
Ngành công nghiệp điện lực của Trung Quốc trải qua đợt cải cách thứ hai
trong năm 2002, khi Hội đồng Nhà nước phê duyệt “Đề án cải cách ngành điện”
trên định hướng tách biệt các khâu sản xuất điện và truyền tải, phân phối điện. SPC
- là đơn vị sở hữu khoảng một nửa tài sản khâu phát điện và hầu hết hạ tầng lưới
điện - được chia nhỏ thành nhiều công ty. Tuy nhiên tất cả các đơn vị này vẫn thuộc
sở hữu nhà nước. Trên cơ sở đó, năm công ty phát điện lớn được thành lập, sở hữu
các nhà máy điện trải khắp các khu vực trên cả nước và đảm bảo nguyên tắc không
đơn vị nào sở hữu quá 20% thị phần phát điện. Bên cạnh đó, sáu công ty lưới điện
vùng được cơ cấu lại thành hai đơn vị, đảm bảo vận hành cho lưới điện liên kết của
hầu khắp các vùng trên toàn quốc. Công ty lưới điện Nam Trung Quốc phụ trách
các tỉnh phía Nam và Đông Nam trong khi Tập đoàn lưới điện Nhà nước chịu trách
nhiệm đối với toàn bộ phần còn lại của lưới điện. Trong năm 2002, Ủy ban Điều tiết
điện lực Nhà nước được thành lập với chức năng giám sát và điều tiết sự vận hành
của TTĐ thông qua việc xây dựng các quy định, quy tắc cho thị trường. Giá mua
điện từ các nhà máy điện riêng lẻ được cố định theo các thỏa thuận dài hạn và chỉ
được xem xét điều chỉnh khi có đề nghị từ nhà máy. Các chính sách này phần nào
khuyến khích các nhà sản xuất điện giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Đối với giá
bán điện, thời kỳ này Trung Quốc áp dụng biểu giá khác nhau đối với từng nhóm
khách hàng gồm công nghiệp, thương mại và tiêu dùng - dân cư. Một điểm đáng lưu
ý là các công ty quản lý lưới điện được giao thực hiện chức năng điều độ hệ thống
điện và quy hoạch phát triển nguồn điện, tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
vào các dự án phát điện. Các nhà đầu tư trúng thầu không những được bảo đảm
bao tiêu đầu ra (điện năng sản xuất) ra mà còn được trả phí công suất như một cách
khuyến khích nâng cao độ tin cậy sản xuất điện của hệ thống. Về bản chất, các công
ty lưới điện cũng thực hiện chức năng người mua duy nhất trên thị trường.
69
Hình 2.10. Quá trình cải cách ngành điện và TTĐ của Trung Quốc
Nguồn: [74]
Giai đoạn gần đây, Trung Quốc bắt đầu nhận thấy các vấn đề mới nảy sinh
của ngành điện, thể hiện ở việc thiếu các cơ chế phù hợp cho TTĐ, các giao dịch thị
trường giữa các DN sản xuất điện và người sử dụng còn hạn chế. Giá điện vẫn bị
ảnh hưởng lớn bởi việc điều tiết của nhà nước, không phản ánh đầy đủ các thay đổi
về chi phí, cung - cầu thị trường và chi phí bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, công
tác quy hoạch phát triển không đồng bộ và có độ lệch/vênh giữa các quy hoạch.
Những khó khăn gặp phải trong việc phát triển và sử dụng năng lượng mới và
NLTT trong đó có sự phân biệt đối xử, tiếp cận hạ tầng điện vẫn tồn tại ở TTĐ
Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhìn nhận rằng ngành điện có vai trò
quan trọng trong việc giúp nước này chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp và
giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí. Tại Thâm Quyến, chính quyền đã tiến hành
thí điểm cải cách phí truyền tải và phân phối điện. Sau chương trình này, phí truyền
tải và phân phối giảm, kéo theo việc giảm giá bán điện tại tỉnh này [74].
Năm 2015, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hội
đồng Nhà nước ban hành Văn bản số 9 về Tăng cường hơn nữa Cải cách ngành điện
70
hay còn được gọi là Chính sách số 9. Đây là đợt cải cách toàn diện, làm nền tảng cho
việc thiết lập các thị trường bán buôn và bán lẻ cạnh tranh, chú trọng vào các khâu cơ
chế giá, phân phối và bán lẻ, kinh doanh điện, buôn bán điện, nguồn điện phân tán và
các khía cạnh khác. Các định hướng nổi bật của Chính sách số 9 như sau:
Thứ nhất, tách bạch phí truyền tải ra khỏi khâu bán lẻ, đưa ra nguyên tắc "chi
phí được chấp thuận cộng với lợi nhuận hợp lý" và xác định mức phí truyền tải dựa
trên cấp điện áp. Việc tách bạch chi phí sẽ khiến cho các đơn vị vận hành lưới điện
khó có thể thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giữa chi phí phát điện và giá điện bán lẻ.
Các công ty lưới điện sẽ thay đổi từ vai trò của đơn vị kinh doanh điện sang một
nhà cung cấp dịch vụ truyền tải điện, trong đó công ty lưới điện sẽ kiếm được lợi
nhuận thông qua một "mức phí" khi cung cấp dịch vụ. Cơ chế này làm cơ sở cho mô
hình kinh doanh điện linh hoạt, thúc đẩy sự tham gia đa dạng của nhiều thành phần
kinh tế vào thị trường điện và cải thiện khả năng huy động và sử dụng hiệu quả của
toàn bộ hệ thống điện.
Thứ hai, cải cách cơ chế giá và hình thành các cơ chế giao dịch thị trường.
Chính sách số 9 làm rõ rằng giá điện sản xuất và giá điện bán lẻ sẽ do thị trường quyết
định, trong khi phí truyền tải và giá điện phục vụ phúc lợi công cộng sẽ vẫn được điều
tiết. Các nhà sản xuất điện có thể đàm phán giá với các khách hàng lớn hoặc đơn vị bán
lẻ hoặc thông qua cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, việc trợ giá đối với các
khách hàng cũng sẽ được cải cách
Thứ ba, tạo lập cơ chế cạnh tranh phát điện và bán lẻ điện, đa dạng hóa các tổ
chức bán lẻ. Bên cạnh định hướng cơ chế giá do thị trường quy định, Chính sách số
9 hướng đến mức độ tự do hóa cao hơn khi khâu quy hoạch cung điện năng và khâu
bán lẻ sẽ dần được xác định bởi thị trường. Sự cạnh tranh ở khâu phát điện và bán lẻ
điện sẽ trở nên khốc liệt hơn. Trong hệ thống mới, các khu công nghiệp công nghệ
cao và các khu kinh tế, các nhà bán lẻ tư nhân, các công ty cung cấp dịch vụ năng
lượng, các công ty phát điện có đủ năng lực đều có thể tham gia và cạnh tranh trong
thị trường bán lẻ tương lai. Năm 2015, công ty bán lẻ tư nhân đầu tiên của Thâm
Quyến, Công ty TNHH Bán lẻ Điện Thâm Quyến Thẩm Quyến (Thâm Quyến
Dianneng Shoudian Co. Ltd.), chính thức nhận giấy phép kinh doanh và thương
mại. Đây cũng là công ty điện bán lẻ tư nhân đầu tiên của Trung Quốc.
Thứ tư, hình thành Thị trường dịch vụ phụ trợ mới. Từ trước cho đến nay tại
Trung Quốc không có thị trường các dịch vụ phụ trợ. Các nhà máy điện nối lưới
71
thực hiện các chức năng này của hệ thống điện. Chính sách số 9 thiết lập một cơ chế
“chia sẻ trách nhiệm” mới cho các dịch vụ phụ trợ, áp dụng nguyên tắc “những
người thực hiện là những người được hưởng lợi”. Người sử dụng, phù hợp với hợp
đồng của họ với các công ty phát điện hoặc lưới, có thể phải chịu trách nhiệm cho
một khoản phí dịch vụ phụ trợ bắt buộc, hoặc một số loại bồi thường kinh tế khác.
Các cơ chế liên quan cũng được cải tiến, bao gồm các cơ chế đền bù dịch chuyển đỉnh
đồ thị phụ tải, khuyến khích mua trực tiếp các dịch vụ phụ trợ năng lượng sạch và thúc
đẩy sự phát triển các dịch vụ phụ trợ điện.
Thứ năm, chú trọng hơn đến quản lý nhu cầu điện. Một trong những điểm nổi
bật của cải cách điện là cải cách đồng thời việc sản xuất và tiêu thụ điện. Chính sách số
9 nhấn mạnh đến việc quản lý nhu cầu cân bằng lưới điện, nhấn mạnh sự cần thiết phải
thiết lập cơ chế giá theo thời gian sử dụng, khuyến khích sự tham gia của các công ty
cung cấp dịch vụ điện tư nhân và thiết lập nền tảng giám sát sử dụng điện trực tuyến để
thúc đẩy các giải pháp, nền tảng quản lý nhu cầu.
Kết hợp với các chính sách hỗ trợ tiếp theo, đợt cải cách ngành điện lần này
có thể sẽ mang lại những tác động sâu sắc đến TTĐ và các ngành công nghiệp của
Trung Quốc.
2.3.1.5. Một số trường hợp chuyển đổi và cải cách thị trường điện lực
không thành công
Khi khảo cứu kinh nghiệm phát triển TTĐ, NCS nhận thấy các công trình
nghiên cứu của các học giả phương tây, đặc biệt là khu vực Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc
Âu và Italia thường mô tả việc cải cách ngành điện và chuyển đổi TTĐ theo hướng
tự do hóa là một quá trình tích cực một cách tổng thể, được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu
như dự trữ công suất (năng lực sản xuất) tốt hơn, hệ thống sản xuất hiệu quả hơn
(các nhà máy điện cũ, kém năng suất bị loại bỏ dần ra khỏi hệ thống, thu hút đầu tư
vào các nhà máy điện mới), điều tiết giá điện bán lẻ minh bạch và hiệu quả hơn (cơ
cấu giá điện được chia tách rõ ràng, ở nhiều nước chi phí sản xuất điện được kiểm
soát tốt, thể hiện qua xu hướng tăng chậm, giữ ổn định hoặc cá biệt một số nơi giảm
chi phí). Bên cạnh đó, các nghiên cứu dù là định tính hay định lượng đều đưa ra các
nhận định hoặc hàm ý về việc thúc đẩy sự chuyển dịch của mô hình cạnh tranh của
TTĐ đến mức độ 4 (cạnh tranh bán lẻ). Tuy nhiên thực tế vẫn chỉ ra có những thị
trường đã không thành công khi chuyển đổi từ mô hình có cấp độ cạnh tranh thấp
72
lên cấp độ cạnh tranh cao hơn. Các trường hợp thất bại xảy ra nhiều hơn ở các TTĐ
khi chuyển đổi lên mô hình cạnh tranh cao hơn (Mô hình 3 và 4 theo [54]). Hậu quả
của các chuyển dịch thất bại là: giá điện tăng, thậm chí nhảy vọt; thiếu hụt cung
điện, mất dự trữ công suất, sụt giảm đầu tư vào sản xuất điện, hệ thống điện suy
giảm độ tin cậy, chất lượng dịch vụ bị ảnh hưởng. Tại một số nước đã xảy ra hiện
tượng rã lưới - một tình trạng mất điện nghiêm trọng trên diện rộng, có thể kéo dài
từ vài ngày tới vài chục ngày, gây ra các thiệt hại kinh tế lớn, tới hàng tỷ USD.
Dưới đây sẽ tóm lược một số trường hợp điển hình do chuyển đổi không thành công
và Nhà nước phải tái thiết lập cơ chế điều tiết và kiểm soát TTĐ, bao gồm Brazil,
Argentina và tại khu vực Bắc Mỹ.
Tại Brazil, việc cải cách ngành điện ở Brazil bắt đầu vào năm 1996 với việc
tổ chức thị trường bán buôn và bán lẻ cạnh tranh. Chính phủ Brazil hy vọng sẽ bổ
sung vào ngân sách nhà nước nguồn lực từ việc tư nhân hóa các nhà máy điện và lôi
kéo sự tham gia của khối ngoài nhà nước (tư nhân) đầu tư phát triển ngành điện. Tại
thời điểm này, giá điện tại Brazil tương đối thấp do tỷ trọng thủy điện cao (khoảng
85%). Tuy nhiên, sau thị trường điện cạnh tranh ra đời, hoạt động xây dựng các nhà
máy điện mới đã dừng lại. Đầu tư tư nhân vào các nhà máy thủy điện mới không thể
hoàn vốn khi giá điện thấp. Mặt khác, việc đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện
mới có rủi ro lớn do vào những năm nhiều nước, các nhà máy này sẽ bị đẩy ra khỏi
đồ thị phụ tải và cũng sẽ không thể hoàn vốn. Khi mức tiêu thụ điện tăng cao, năm
2001 dung tích của các hồ chứa điều tiết nhiều năm đã sử dụng cạn và gặp chu kỳ ít
nước trên các lưu vực sông phía Đông Nam Brazil, đã làm thâm hụt điện năng trên
toàn quốc dẫn đến giá điện giao ngay đã tăng lên đến 25 cent/kWh.
Chính phủ đã phải kêu gọi tất cả hộ tiêu thụ điện cắt giảm 20% nhu cầu điện
năng, và yêu cầu này gần như đã được đáp ứng ngay lập tức. Cùng với việc thủy điện
trong năm kế tiếp đã có thể phát được nhiều hơn, TTĐ Brazil đã tạm thời vượt qua
khủng hoảng. Sau đó, TTĐ đã được cơ cấu lại theo hướng tăng cường điều tiết nhà
nước, tăng giao dịch điện năng theo hợp đồng dài hạn song phương. Tất cả những
thành viên tham gia thị trường (cả người bán và người mua) bị bắt buộc đảm bảo cung
cấp 100% lượng điện sản xuất hoặc tiêu thụ trong tương lai ngắn và dài bằng hợp đồng
dài hạn. Trong đó, các nhà sản xuất điện đang hoạt động và mới đưa vào định kỳ sẽ
tham gia chào giá nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất điện (bao gồm cả
những nhà sản xuất mới). Việc mua điện được thực hiện theo giá điện dài hạn được
73
chào của các nhà sản xuất trong các cuộc chào giá. Mức giá cho người tiêu dùng được
điều tiết trong khi các hộ tiêu thụ điện lớn vẫn được phép tự do mua điện với các nhà
sản xuất điện độc lập.
Tại Argentina, ngành điện được bắt đầu vào năm 1993 theo làn sóng cải
cách nền kinh tế đất nước. Các công ty độc quyền nhà nước đã bị tư nhân hoá hoặc
chuyển đổi sở hữu. Đầu tiên việc cải cách đã đạt được tác động tích cực đáng kể,
bất chấp sự gia tăng trong tiêu thụ điện năng với tốc độ trung bình hàng năm là
5,7%. Nguồn cung cho TTĐ Argentina tập trung cho phát triển tua bin khí (đến
1997) và sau đó các nhà máy điện tua bin khí chu trình hỗn hợp (thủy điện và điện
hạt nhân đã ngừng xây dựng). Thị trường điện Argentina được coi là thành công và
thậm chí là hình mẫu tại khu vực này. Tuy vậy, tình hình thay đổi đáng kể vào cuối
năm 2001 do khủng hoảng chính trị và kinh tế nghiêm trọng trong nước gây ra, đặc
biệt là sự mất giá tới ba lần của đồng tiền quốc gia (peso) so với đồng USD. Chính
phủ đã buộc phải áp dụng trở lại cơ chế điều tiết của Nhà nước đối với TTĐ, loại bỏ
thị trường điện cạnh tranh và bình ổn thị trường. Cùng thời gian đó, khu vực tư
nhân đã ngừng tham gia xây dựng các nhà máy điện mới và năm 2004 đã Chính phủ
thành lập một công ty nhà nước đặc biệt (ENARSA), chịu trách nhiệm cho sự phát
triển năng lượng của đất nước, trong đó có điện năng.
2.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Các trường hợp và kinh nghiệm tại một số quốc gia nêu trên cho thấy những
bài học kinh nghiệm hữu ích để phát triển TTĐ, không chỉ là những vấn đề cần giải
quyết xét trên góc nhìn từ phía nội tại của TTĐ mà còn bao gồm các nhân tố ảnh
hưởng như hệ thống chính sách quản lý, môi trường kinh doanh và đầu tư, cải thiện
mức độ cạnh tranh cho TTĐ:
Trước hết, việc phát triển TTĐ theo định hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế
cạnh tranh là định hướng tốt, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam. Tuy nhiên, nền tảng đầu tiên và thiết yếu để phát triển thành công TTĐ,
đặc biệt qua các thời điểm, giai đoạn chuyển đổi có tính bước ngoặt hoặc bản lề,
chính là có nguồn cung cấp điện ổn định, đa dạng, kinh tế và có dự phòng hợp lý.
Nói cách khác, nguồn cung ứng điện năng ổn định, bao gồm hạ tầng lưới điện được
đầu tư đồng bộ là một trong những điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển
một TTĐ bền vững hơn và hiệu quả hơn. Tại một số quốc gia châu Âu, bên cạnh
việc bố trí nguồn lực đầu tư cho mức công suất dự phòng hợp lý, việc tham gia kết
74
nối lưới điện để đa dạng hóa nguồn cung và tăng cường an ninh hệ thống điện thông
qua xuất nhập khẩu điện với các nước trong khu vực cũng là một yếu tố nền tảng
dẫn đến tự do hóa TTĐ thành công.
Thứ hai, cơ chế giá điện cần được xây dựng hợp lý trong đó hướng đến mục
tiêu khuyến khích hoạt động tiêu thụ điện tiết kiệm và hiệu quả, đồng thời đảm bảo
thu hút đầu tư, không chỉ từ các đơn vị thuộc sở hữu nhà nước mà còn từ khối tư
nhân đồng thời tạo nguồn lực bổ sung để phát triển các dạng nguồn điện thân thiện
hơn với môi trường như điện gió, điện mặt trời…
Thứ ba, xây dựng TTĐ phải đi đôi với quá trình cải tổ ngành điện theo định
hướng phi điều tiết các khu vực phát điện và bán lẻ điện, duy trì điều tiết về chức
năng và điều tiết về kinh tế đối với khâu dịch vụ lưới điện để đảm bảo các đơn vị
ngoài nhà nước có điều kiện tiếp cận lưới điện như một hạ tầng dùng chung, hướng
đến mục đích phục vụ lợi ích tốt hơn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, như một số
trường hợp cải cách không thành công đã nêu ở trên, cần có bàn tay của Chính phủ
và các chiến lược, phương án theo dõi, đánh giá và dự phòng cho các tình huống
hoặc các nguy cơ gây mất an toàn, an ninh hệ thống điện và TTĐ để kịp thời khắc
phục, xử lý. Phát triển TTĐ theo định hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh
tranh phải tính toán đầy đủ các yếu tố nội tại của mỗi quốc gia, của nền kinh tế, đặc
điểm của tiêu thụ điện năng để xây dựng lộ trình, bước đi phù hợp.
Thứ tư, bên cạnh môi trường chính sách quản lý TTĐ rõ ràng và có hệ thống,
cần thiết có các cơ chế và cấu trúc tốt để đảm bảo các chính sách, quy định của pháp
luật được thực hiện đúng và có hiệu lực cao. Do vậy, các nước đều có các giải pháp
xây dựng bộ máy quản lý và điều tiết có cấu trúc ổn định, được trao nhiều thẩm
quyền và cơ quan điều tiết có mức độ độc lập cao so với chính quyền.
Để xây dựng và phát triển thành công TTĐ, ngành điện cần có định hướng và
lộ trình bao gồm [60]:
• Tư nhân hóa các DN độc quyền sở hữu nhà nước để khuyến khích nâng cao
hiệu quả hoạt động và hạn chế ảnh hưởng của các quyết định chính trị tác động đến
thị trường thông qua các công ty sở hữu nhà nước;
• Cấu trúc lại và tách theo chiều/ngành dọc các khu vực có tiềm năng thúc đẩy
cạnh tranh ra khỏi các khu vực tiếp tục phải điều tiết. Ví dụ, khu vực sản xuất, bán
75
lẻ điện thường sẽ được xây dựng để tạo sự cạnh tranh trong khi khu vực hạ tầng
truyền tải, phân phối điện sẽ tiếp tục được điều tiết;
• Cấu trúc lại theo chiều ngang đối với khu vực phát điện để gia tăng số lượng đơn
vị phát điện cạnh tranh với nhau. Điều này sẽ giúp hạn chế sự thống lĩnh thị trường của
số ít các DN và tăng sự cạnh tranh của thị trường;
• Sáp nhập hoặc hợp nhất các đơn vị truyền tải và vận hành lưới điện để bảo
đảm/hoàn thiện phạm vi địa lý cần thiết của lưới điện và TTĐ, đồng thời xây dựng
đơn vị độc lập duy nhất chịu trách nhiệm quản lý vận hành lưới. Đơn vị này sẽ lập
lịch huy động nguồn điện để đáp ứng nhu cầu, bảo đảm các chỉ tiêu kỹ thuật của
lưới điện, tham gia định hướng đầu tư phát triển hạ tầng truyền tải điện để đáp ứng
các yêu cầu về độ tin cậy cung cấp dịch vụ điện năng và các chỉ tiêu kinh tế;
• Tạo lập thị trường năng lượng giao ngay và thực hiện cơ chế công suất dự trữ
phù hợp để cân bằng cung cầu, hỗ trợ cho việc trao đổi, giao dịch giữa các cơ sở
phát điện và giữa người bán và người mua;
• Áp dụng các quy chế điều tiết và cơ chế hỗ trợ để nâng cao việc tiếp cận hạ
tầng lưới điện cho các đơn vị tham gia mua bán điện trên thị trường bán buôn để hỗ
trợ cho khâu sản xuất và giao dịch hiệu quả trên thị trường;
• Minh bạch hóa và tách biệt các thành phần chi phí trong cơ cấu giá điện bán
lẻ trong đó làm rõ phần chi phí phải trả cho dịch vụ truyền tải và phân phối điện
năng - tiếp tục là đối tượng điều tiết của nhà nước;
• Xây dựng và cơ quan điều tiết thị trường độc lập có khả năng kiểm soát tốt các
thông tin về chi phí, chất lượng dịch vụ và hiệu quả vận hành của các DN lưới điện. Cơ
quan điều tiết có thẩm quyền điều tiết phí truyền tải/phân phối và các điều kiện, điều
khoản tiếp cận và sử dụng lưới điện cho các đơn vị sản xuất và mua bán điện. Đây là một
tiêu chí quan trọng cho việc cải cách thị trường thành công nhưng thường không được
đánh giá đúng mức tại nhiều quốc gia;
Tóm lại, lợi ích do cơ chế thị trường đem lại là rất to lớn. Cạnh tranh làm giảm
giá bán ở khâu phát điện, gia tăng hiệu quả cung cấp điện. Khi đó, các công ty điện
lực sẽ thực hiện các quyết định đầu tư được căn cứ trên lợi ích kinh tế, đồng thời
TTĐ thu hút thêm được nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài quốc doanh vào lĩnh
vực điện năng và khách hàng có triển vọng được hưởng giá điện hợp lý và minh
76
bạch hơn. Cuối cùng, TTĐ vận hành hiệu quả sẽ bảo đảm được đủ nguồn cung điện
năng cho phát triển kinh tế - xã hội.
Kết luận Chương 2
Trong phạm vi chương 2, có một số vấn đề đã được đề cập như sau:
- Cơ sở lý luận về phát triển TTĐ đã được hệ thống hóa và làm rõ, trong đó
trình bày khái niệm: “Thị trường điện là hệ thống cho phép nhà cung ứng điện năng
và nhu cầu sử dụng gặp nhau được xác định bằng giá mua điện trên thị trường nhằm
thoả mãn các lợi ích kinh tế của người mua và người bán”;
- TTĐ mang những đặc điểm tương đối đặc trưng về vận hành, truyền tải và
phân phối do điện năng là hàng hóa không thể lưu trữ được;
- TTĐ có thể áp dụng các cơ chế cạnh tranh theo cấp độ từ mô hình độc quyền
cho tới mô hình cạnh tranh bán lẻ;
- Những nội dung cơ bản của phát triển TTĐ là:
o Phát triển hợp lý nhu cầu điện năng
o Phát triển nguồn cung điện năng và đảm bảo cân bằng cung cầu
o Phát triển hệ thống hạ tầng truyền tải, phân phối điện
o Cơ chế giá trên thị trường
o Cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện lực.
o Một số tiêu chí đánh giá sự phát triển TTĐ được đề xuất bao gồm tăng
trưởng quy mô TTĐ, thu hút đầu tư từ các nguồn lực mới vào TTĐ, cải thiện cơ
chế cạnh tranh và tự do hóa và xanh hóa TTĐ theo hướng khuyến khích phát
triển NLTT
- Các nhân tố ảnh hướng đến sự phát triển thị trường điện lực bao gồm:
Các nhân tố chủ quan là: mức độ tích cực của các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp tham gia chuỗi cung ứng điện năng; và năng lực, trình độ và kinh nghiệm
của các chủ thể tham gia TTĐ. Các nhân tố khách quan là: sự phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia do có sự liên hệ chặt chẽ và tương quan giữa phát triển kinh tế - xã
hội và TTĐ; hệ thống pháp luật, chính sách đối với ngành công nghiệp điện lực; các
nhân tố về kỹ thuật - công nghệ; và hệ thống chính sách và mô hình tổ chức quản lý,
điều tiết thị trường điện.
77
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
TẠI VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH ĐIỆN TẠI VIỆT NAM
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành điện tại Việt Nam
Ngành điện Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển trải qua trên 60
năm, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nhà máy đèn Bờ Hồ và Nhà máy điện Yên
Phụ. Kể từ đây, ngành điện luôn duy trì được sự tăng trưởng ổn định, đóng góp vào
phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Sau giai đoạn 1975, Nhà nước quản lý trực tiếp
ngành điện, với ba công ty điện lực miền trực thuộc Bộ Năng lượng (cũ). Các công ty
điện lực chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền tải và phân phối trong phạm vi địa lý
được giao phụ trách. Tuy nhiên các công ty điện lực được sáp nhập vào một công ty
độc quyền duy nhất, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) trong năm 1995. Việc
sáp nhập này đã chính thức tách hoạt động quản lý nhà nước ra khỏi khâu sản xuất và
vận hành hệ thống điện. Bộ Năng lượng (sau đó được sáp nhập vào Bộ Công nghiệp,
sau này là BCT) là cơ quan chủ quản, ban hành các chính sách, quy định để thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với ngành điện.
Sau giai đoạn này, ngành điện tiến hành cải cách khi Luật Điện lực được ban
hành năm 2004 - trong vai trò là luật đầu tiên điều chỉnh lĩnh vực điện năng của
Việt Nam. Luật cung cấp cơ sở pháp lý chung cho quá trình cải cách và cấu trúc lại
ngành điện, tạo hành lang cho việc từng bước thành lập TTĐ cạnh tranh với mục
đích thu hút đầu tư tư nhân và giảm đầu tư nhà nước trong lĩnh vực năng lượng,
nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành điện và phát triển một TTĐ cạnh tranh, minh
bạch, công bằng và không phân biệt đối xử. Luật cũng quy định về các hoạt động
điện lực lập kế hoạch và đầu tư phát triển điện lực, sản xuất điện, truyền tải, phân
phối và bán lẻ điện, và các quy định của TTĐ.
Kể từ khi ban hành Luật, Chính phủ đã triển khai và ban hành các quy định,
hướng dẫn để tái cấu trúc ngành điện và xây dựng lộ trình cải cách. Trọng tâm của
cải cách được đặt vào hai nhiệm vụ: xây dựng TTĐ cạnh tranh theo ba cấp độ và tái
cơ cấu Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN).
78
Việc tái cơ cấu được thực hiện từ năm 2013, nhằm mục đích thực hiện Luật
Điện lực và đồng thời thực hiện cùng với sự ra đời của các cấp độ TTĐ. Tái cơ cấu là
bước đầu tiên để chuyển đổi TTĐ Việt Nam từ mô hình độc quyền tích hợp dọc sang
mô hình cạnh tranh, giúp tăng hiệu quả, minh bạch trong hoạt động sản xuất - kinh
doanh điện, bắt đầu bằng việc lựa chọn và cổ phần hóa một số đơn vị phát điện thuộc
EVN. Định hướng chung là EVN tiếp tục sở hữu 100% và giữ kiểm soát hoàn toàn với
các thủy điện lớn và cổ phần hóa các nhà máy còn lại. Trong các năm tiếp theo, một số
nhà máy thuộc diện cổ phần hóa đã lần lượt được chào bán và niêm yết như công ty đại
chúng. Tuy nhiên, đối với hầu hết các nhà máy cổ phần hóa, EVN vẫn giữ cổ phần chi
phối và cơ cấu công suất thuộc sở hữu của EVN cho đến 2017 vẫn chiếm trên 55%
tổng công suất thị trường [26].
Hiện nay, EVN đã được chia tách và không còn là DN tích hợp theo chiều
dọc, hoạt động chủ yếu như là một công ty đầu tư, không trực tiếp sản xuất hoặc cung
cấp dịch vụ mà chỉ nắm giữ cổ phần chi phối hoặc sở hữu tại các công ty khác trong
ngành điện. Các bộ phận kinh doanh chiến lược được chia tách thành các đơn vị phân
phối điện, hạch toán độc lập và các đơn vị phát điện và truyền tải điện. Công ty
Truyền tải điện quốc gia là một pháp nhân riêng biệt chịu trách nhiệm về các hoạt
động của lưới điện truyền tải, có tài khoản, chế độ quản lý và ban giám đốc hoạt động
riêng biệt. Chức năng phân phối và bán lẻ của EVN đã được chia tách và giao về các
công ty điện lực. Năm công ty (EVNPC) trong số này thực hiện chức năng công ty
điện lực có cổ đông thiểu số ngoài EVN nhưng EVN vẫn giữ cổ phần chi phối. Các
EVNPC có trách nhiệm quản lý tài sản lên đến cấp điện áp 110 kV, và mua điện từ
EVN với giá nội bộ của EVN và bán điện cho khách hàng nhượng quyền của họ ở
mức phí do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Hình 3.1: Tổ chức ngành điện Việt Nam sau cải cách và tổ chức lại EVN
Nguồn: [41]
79
3.1.2. Phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu điện
Là đầu vào không thể thiếu cho mọi quá trình sản xuất và tiêu dùng, sự phát
triển của TTĐ và nhu cầu điện năng có sự liên hệ tương quan với phát triển kinh tế -
xã hội. Từ sau Đổi mới vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu giai đoạn tăng
trưởng kinh tế ấn tượng trong gần hai thập kỷ, kéo theo nhu cầu tiêu thụ điện năng nói
riêng đạt mức kỷ lục, trung bình đạt trên 11%/năm. Mạng lưới điện liên tục được mở
rộng cung cấp dịch vụ cho hầu hết các khách hàng, không chỉ tại các đô thị và ở các khu
vực nông thôn (trên 98%) và vùng sâu, vùng xa.
Tiềm năng phát triển của TTĐ được thể hiện qua triển vọng tăng trưởng của nhu
cầu điện. Nhu cầu này có tương quan với các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội như nhân
khẩu học, kinh tế, công nghệ và mức độ sẵn có của các nguồn lực. Đây là các chỉ báo cơ
bản về mức độ tiêu thụ điện năng cũng như triển vọng của TTĐ. Các yếu tố sau đây có
liên hệ mật thiết với nhu cầu điện và thường được sử dụng để nhận biết nhu cầu và triển
vọng của TTĐ trong tương lai bao gồm: quy mô dân số và tốc độ đô thị hóa, tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế chính, sản
lượng của các phân ngành công nghiệp chính sử dụng nhiều điện năng lượng và giá năng
lượng (điện, than, dầu, khí).
Xem xét mối liên hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội đối với nhu cầu điện
năng tại Việt Nam (Hình 3.2), có thể nhận thấy nhu cầu điện cùng có xu hướng
tăng, thể hiện mối quan hệ đồng biến. Tuy nhiên theo kinh nghiệm quốc tế, nhu cầu
điện sẽ chững lại và ổn định ở một mức độ nhất định tùy thuộc vào tình trạng của
nền kinh tế, mức thu nhập và bối cảnh tại từng quốc gia. Nhìn chung khi các nền
kinh tế đạt mức thu nhập bình quân 10,000 USD/người, nhu cầu điện sẽ ổn định và
tại một số quốc gia, chỉ số này có xu hướng chững lại hoặc thậm chí giảm nhẹ [87].
Nghĩa là các nền kinh tế sẽ có xu hướng sử dụng điện ngày càng hiệu quả và tiếp
cận đến các hình thái sử dụng điện tối ưu khi trình độ phát triển đạt được ở mức độ
thu nhập đầu người trên mức trung bình. Theo thống kê của IEA, tiêu thụ điện năng
ở các nước OECD năm 2014 đã sụt giảm 0.4% so với năm 2007, trong khi kinh tế
tăng trưởng 6.3% trong cùng kỳ [87].
80
Hình 3.2: Tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và diễn biến
nhu cầu điện Việt Nam
Nguồn: [87]
Theo các dự báo của World Bank, Bloomberg và Pricewaterhouse Coopers,
Việt Nam có thể vươn lên thành nền kinh tế phát triển vào giai đoạn 2040 - 2050.
Đây được dự báo có thể sẽ là thời điểm giảm dần và tách rời mối liên hệ giữa nhu
cầu điện và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
3.1.3. Khung chính sách và cơ chế quản lý - điều tiết thị trường điện lực
Luật Điện lực ban hành năm 2004 đã quy định các nội dung liên quan đến định
hướng, nguyên tắc xây dựng TTĐ cạnh tranh tại Việt Nam, cụ thể như sau:
- Điều 4 Luật Điện lực (2004) đã quy định về việc xây dựng và phát triển
TTĐ theo nguyên tắc: i) Công khai, công bằng, cạnh tranh lành mạnh có sự điều
tiết của Nhà nước; ii) Thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, phân phối
điện, bán buôn điện, bán lẻ điện; và iii) Nhà nước độc quyền trong hoạt động
truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia, xây dựng và vận hành các nhà máy điện
lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Điều 17, Luật Điện lực đã quy định nguyên tắc hoạt động của TTĐ, bao
gồm: i) Bảo đảm công khai, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối
xử giữa các đối tượng tham gia TTĐ; ii) Tôn trọng quyền được tự chọn đối tác và
81
hình thức giao dịch của các đối tượng mua bán điện trên thị trường phù hợp với
cấp độ phát triển của TTĐ; và iii) Nhà nước điều tiết hoạt động của TTĐ nhằm
bảo đảm phát triển hệ thống điện bền vững, đáp ứng yêu cầu cung cấp điện an
toàn, ổn định, hiệu quả.
- Điều 18, Luật Điện lực quy định về việc hình thành và phát triển TTĐ qua ba
cấp độ, bao gồm: i) Thị trường phát điện cạnh tranh; ii) Thị trường bán buôn điện
cạnh tranh; và iii) Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh. Trong đó, lộ trình hình thành và
phát triển TTĐ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Căn cứ Điều 18, Luật Điện lực, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 26/2006/QĐ-TTg ngày 26 tháng 01 năm 2006, sau này được thay thế bởi
Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính
phủ, quy định lộ trình và các điều kiện hình thành TTĐ cạnh tranh tại Việt Nam.
3.1.3.1.Cấu trúc tổ chức quản lý và điều tiết thị trường điện lực
Cấu trúc tổ chức quản lý và điều tiết TTĐ được thiết lập thống nhất từ cấp
cao nhất là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ban ngành liên quan tới địa
phương và các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực điện lực. Trong đó, Thủ tướng
Chính phủ thay mặt Chính phủ thực hiện quyền chủ sở hữu vốn, tài sản của nhà
nước tại các DN điện lực của nhà nước, do các DN nhà nước trong và ngoài ngành
điện lực nắm giữ cổ phần chi phối. Thủ tướng Chính phủ cũng thay mặt Chính phủ
Ban hành các Nghị định, Quy định, Quy chế để quản lý các hoạt động điện lực, phê
duyệt Quy hoạch phát triển ngành điện lực, biểu giá điện bán lẻ và quyết định các
chính sách về giá điện theo thẩm quyền. BCT thực hiện chức năng quản lý nhà nước
liên quan đến TTĐ bao gồm:
- Tổ chức lập biểu giá điện bán lẻ và nghiên cứu đề xuất các cơ chế, chính sách
về giá điện trình Thủ tướng;
- Quyết định khung giá phát điện, bán buôn điện, giá truyền tải - phân phối
điện và phí các dịch vụ phụ;
- Trực tiếp theo dõi, quản lý hoạt động của Cơ quan điều tiết trung ương
(CĐTĐL), các hoạt động điện lực và sử dụng điện;
82
Hình 3.3: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện Việt Nam
Nguồn: NCS tổng hợp
CĐTĐL được thành lập trong vai trò một cơ quan trực thuộc BCT, có chức
năng điều tiết TTĐ hoạt động để hạn chế độc quyền tự nhiên, không biến độc quyền
nhà nước thành độc quyền DN, tác động vào các hoạt động điện lực và TTĐ nhằm
bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu
quả và bảo đảm tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Trong thể
chế quản lý và điều tiết thị trường, vai trò của cơ quan điều tiết trung ương là rất
quan trọng. CĐTĐL được hình thành trên mô hình cơ quan điều tiết trung ương,
thực hiện các chức năng quản lý nhà nước và điều tiết TTĐ. Các nhiệm vụ chủ yếu
của CĐTĐL bao gồm xây dựng và điều tiết TTĐ, tham mưu trong điều tiết giá điện
và giám sát cân bằng cung - cầu điện.
3.1.3.2. Cơ chế quản lý - điều tiết thị trường điện lực
Cơ chế quản lý - điều tiết TTĐ được thể hiện qua hệ thống các quy định ban
hành bởi các cơ quan quản lý nhà nước và thể chế quản lý, điều tiết vận hành thị
trường. Hệ thống các quy định đã được ban hành tương đối có hệ thống và chặt chẽ,
thống nhất từ Luật, Nghị định, Thông tư đến các Quyết định liên quan. CĐTĐL được
giao nhiều nhiệm vụ để thực hiện chức năng điều tiết TTĐ nhưng có thể thấy, CĐTĐL
hiện có thẩm quyền hoặc quyền hạn trực tiếp với các nhiệm vụ về điều tiết hoạt động
điện lực và TTĐ, bao gồm: ban hành các loại khung giá và phí của hoạt động điện lực;
83
phê duyệt HĐMBĐ song phương có thời hạn; kiểm tra, giám sát tình hình cung cấp
điện và điều hành hệ thống điện để đảm bảo cân bằng cung - cầu điện; điều tiết hoạt
động của TTĐ và một số nhiệm vụ khác.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - 2015
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng sản xuất và sử
dụng năng lượng nói chung và điện năng nói riêng cao nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Sự tăng trưởng này gắn liền với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
hơn hai thập kỷ qua. Về cơ bản chúng ta vẫn duy trì được cân bằng cung cầu năng
lượng và an ninh năng lượng với nguồn tài nguyên và dự trữ năng lượng tích cực, bao
gồm nguồn năng lượng hóa thạch, nguồn NLTT và thủy điện.
3.2.1. Nhu cầu điện năng
Tổng nhu cầu tiêu thụ điện tăng tại Việt Nam năm 2017 là 176.49 tỷ kWh, so
với mức 98.53 tỷ kWh năm 2011. Tốc độ tăng trưởng bình quân điện thương phẩm
giai đoạn 2011 – 2017 là 11.96%/năm, cao gấp 1.97 lần so với tăng trưởng GDP.
Mức tăng của tiêu thụ điện có sự tương quan chặt chẽ với tốc độ tăng trưởng GDP
trong cùng kỳ.
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm giai đoạn 2005-2017
Nguồn: [24, 26]
3.2.1.1. Các nhóm khách hàng chính
Ngành điện hiện đang đáp ứng nhu cầu tiêu dùng điện đối với năm nhóm
khách hàng chính: hộ tiêu dùng công nghiệp - xây dựng, hộ tiêu dùng nông nghiệp,
hộ tiêu dùng thương mại - dịch vụ, hộ tiêu thụ quản lý và tiêu dùng dân cư, còn lại
là nhóm các hoạt động khác.
84
Bảng 3.1: Cơ cấu nhu cầu tiêu thụ điện theo các ngành, lĩnh vực
STT Danh mục 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Tổng Điện thương phẩm
(GWh) 85,586 94,658 105,474 115,283 128,435 143,340 159,45
Cơ cấu Điện Tiêu thụ (%)
1 Nông nghiệp 1.1 1.1 1.2 1.3 1.5 1.7 2.3
2 Công nghiệp - xây dựng 51.9 52.9 52.4 52.7 53.9 53.4 53.5
3 Thương mại & K/sạn,
Nhà hàng 4.6 4.6 4.7 4.7 4.8 5.2 5.5
4 Quản lý & Tiêu dùng dân
cư 37.6 36.4 36.7 36.4 35.6 35.4 34.4
5 Các hoạt động khác 4.9 5.0 5.0 4.9 4.3 4.3 4.2
Nguồn: [24, 37].
Trong số các nhóm khách hàng, khu vực Công nghiệp - xây dựng và Quản lý &
Tiêu dùng - dân cư, lần lượt chiếm 53.5% và 34.4% tổng tiêu thụ điện toàn quốc
(2016). Đây cũng chính là các khu vực đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng nhu cầu
điện của Việt Nam. Giai đoạn 2006-2010, cơ cấu tiêu thụ điện theo xu hướng giảm dần
tỉ trọng điện dùng cho quản lý và tiêu dùng dân cư. Tuy nhiên trong suốt giai đoạn
2010-2016, tỷ trọng điện dùng cho công nghiệp-xây dựng hầu như giữ nguyên ở mức
53%, trong khi đó tỷ trọng điện tiêu thụ cho dân dụng giảm dần từ 37,6% năm 2010
xuống còn 34.4% năm 2015.
Đối với ngành công nghiệp - xây dựng: Tốc độ tăng bình quân điện tiêu thụ cho
ngành công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006-2010 là 15.8%/năm, tuy nhiên sang
giai đoạn 2011-2016 tốc độ tăng bình quân đã giảm mạnh chỉ còn khoảng 11.5%/năm
[80]. Nhóm khách hàng này chủ yếu là các phụ tải khu công nghiệp, khu chế xuất, các
nhà máy lớn, trong các hoạt động xây dựng, đặc trưng bởi quy mô tiêu thụ lớn và trong
dài hạn có xu hướng tăng trưởng cao hơn các khu vực khác
Đối với khu vực dân dụng: Trong giai đoạn 2006-2010, nhu cầu sử dụng điện cho
dân dụng tăng trưởng ở mức bình quân 10.1%/năm. Sang giai đoạn 2011-2016, tốc độ
tăng trưởng điện cho dân dụng giảm hơn so với giai đoạn trước, mức tăng trưởng bình
quân là 9.6%/năm. Đây cũng là loại hộ tiêu có tỷ trọng lớn trong cơ cấu tiêu thụ điện
của Hệ thống điện Việt Nam, chủ yếu cung cấp cho các hộ tiêu thụ điện gia đình, các
cơ quan hành chính, quản lý… [15]. Sử dụng điện trong các hộ tiêu dùng dân dụng có
xu hướng tăng lên do thu nhập và mức sống các hộ gia đình ngày càng tăng;
Tiêu thụ điện trong ngành nông nghiệp: Điện cho nông nghiệp là thành phần
có tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu tiêu thụ điện, chủ yếu cung cấp cho các trạm bơm điện
85
phục vụ tưới, tiêu, sản xuất nông, lâm nghiệp, sản xuất nhỏ ở nông thôn... Tỉ trọng
tiêu thụ điện ngành này dao động trong khoảng từ 1.1-1.7%. Nhìn chung, điện tiêu
thụ cho nông nghiệp có liên hệ chặt chẽ với điều kiện thời tiết và mùa vụ các ngành
nông, lâm nghiệp;
Tiêu thụ điện cho thương mại, khách sạn, nhà hàng, các hoạt động khác: Đây
là thành phần có tỉ trọng không lớn trong cơ cấu tiêu thụ điện, tỉ trọng này dao động
trong khoảng từ 8-10%. Nhóm khách hàng này có tốc độ tăng trưởng bình quân cao
trong giai đoạn 2006 - 2010 ở mức khoảng 12.5%/năm. Tuy nhiên trong giai đoạn
2011 - 2016, tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện năng của khu vực này giảm xuống
mức 11%/năm.
3.2.1.2. Cơ cấu tiêu thụ điện theo vùng địa lý
Số liệu thống kê nêu tại [26] cho thấy miền Nam và miền Bắc hiện đang là
khu vực tiêu thụ điện trọng điểm (chiếm 91.07% tổng nhu cầu). Trong số các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là các khách hàng
tiêu thụ điện lớn nhất của ngành điện. Sản lượng điện tiêu thụ tại TP Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh thậm chí còn cao hơn so với tiêu thụ điện của toàn bộ miền Trung
năm 2016.
3.2.1.3. Diễn biến của tiêu thụ điện theo các chu kỳ thời gian
Trong thực tế, lưu trữ điện năng của toàn bộ hệ thống điện là một việc gần như
không khả thi, các hệ thống điện được thiết kế để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện biến
thiên theo thời gian. Do đó đối với sản phẩm điện năng, việc nắm rõ được quy luật tiêu
thụ và sử dụng điện của khách hàng theo các chu kỳ thời gian là rất quan trọng. Các
chu kỳ thường được xem xét là ngày, tuần, tháng, mùa và năm. Tại Việt Nam, nhu cầu
tiêu thụ điện theo thời gian thường có một số đặc điểm như sau:
Đối với chu kỳ năm: giai đoạn đầu năm cho đến tháng 6 là mùa cao điểm tiêu
thụ điện do hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh đều đã đi vào vận hành ổn
định. Đây là thời điểm mùa khô, nóng ở khu vực miền Nam khiến tiêu thụ điện
tại khu vực dân cư tăng cao. Mặc khác, do là mùa khô nên khả năng sản xuất của
hệ thống thủy điện bị hạn chế, gây áp lực lớn lên nguồn cung điện toàn quốc.
Nhu cầu điện sẽ giảm dần cho đến cuối năm do bắt đầu bước vào mùa mưa, thời
tiết bớt khô hạn, các hồ thủy điện phía nam bắt đầu có nước về giúp giảm tải cho
toàn bộ hệ thống.
Đối với chu kỳ tuần: nhu cầu điện trong các ngày làm việc trong tuần sẽ cao hơn các
ngày nghỉ do phải đáp ứng nhu cầu điện cho các ngành sản xuất và các văn phòng.
86
Đối với chu kỳ ngày: trong ngày, nhu cầu điện có sự dao động lớn giữa các giờ và
có chênh lệch tương đối lớn giữa giờ cao điểm (đầu giờ sáng 8h-11h và tối vào 18 -
20h) và giờ thấp điểm, giữa ngày và đêm. Công suất tiêu thụ điện bình quân ban
đêm chỉ bằng 52 - 65% công suất tiêu thụ điện vào ban ngày. Diễn biến thay đổi
nhu cầu trong ngày diễn ra rất nhanh chóng và có thể gây khó khăn cho công tác
điều độ khi huy động đủ nguồn để đáp ứng phụ tải.
3.2.2. Sản xuất điện năng
Nguồn cung điện năng của Việt Nam trong giai đoạn từ 2005 trở lại đây được
duy trì mức tăng trưởng cao. Năm 2016, công suất cực đại đạt mức 31,731 MW; điện
sản xuất tăng 3.8 lần so với năm 2005 và tăng gấp hai lần so với năm 2010, đạt 176.99
tỷ kWh (2016). Tổng công suất đặt nguồn điện năm 2016 đạt 41,424 MW (tăng 1,8 lần
so với năm 2011) đứng thứ 2 trong các nước ASEAN (sau Indonesia). Xét theo 3 miền:
miền Trung có tốc độ tăng trưởng bình quân công suất cực đại cao nhất đạt
11.8%/năm, miền Bắc và miền Nam đạt 11.2% và 9.8%/năm.
Hình 3.5: Cơ cấu công suất nguồn điện tại Việt Nam năm 2016
Nguồn: [26]
Cơ cấu nguồn điện cũng có sự thay đổi đáng kể, theo đó, tỉ trọng nguồn thủy điện
có xu hướng giảm dần, trong khi nguồn nhiệt điện than, khí tăng dần và bước đầu có sự
tham gia của nguồn NLTT. Giai đoạn 2011-2016 tổng công suất đặt nguồn điện toàn
quốc tăng bình quân 12.8%/năm, cao hơn mức tăng trưởng phụ tải cực đại cùng giai
đoạn (9.6%/năm) [26]. Trong cùng kỳ, điện sản xuất tăng bình quân 9.8%/năm, thấp hơn
mức tăng trưởng điện thương phẩm (10.6%/năm). Nhìn chung hệ thống điện Việt Nam
được vận hành khá an toàn, tin cậy, đảm bảo cung cấp điện cho TTĐ. Hầu hết các nhà
Diesel + TĐN + Điện
87
máy đều mới được xây dựng và đi vào hoạt động với thời gian chưa lâu, do đó tình trạng
thiết bị vẫn còn khá tốt, các nhà máy làm việc ổn định.
3.2.2.1. Đặc điểm các nguồn phát điện của Việt Nam
Nguồn thủy điện: Thủy điện là một trong những nguồn điện truyền thống và
giữ vai trò cung cấp chính trong hệ thống điện Việt Nam. Tuy nhiên, trong những
năm tới, do nguồn thủy điện đã được khai thác gần hết, cùng với sự phát triển của
nhiệt điện than và nhiệt điện khí, tỷ trọng của thủy điện sẽ giảm dần trong cơ cấu
tổng nguồn điện sản xuất. Các nhà máy thủy điện có mức độ tự động hóa, thiết
bị, công nghệ không đồng đều. Có nhà máy đã tự động hóa cao như Vĩnh Sơn
(thiết bị của hãng Cogelec Pháp), cũng có nhà máy sử dụng hệ thống kích từ
thuộc loại hiện đại nhất thế giới như ở Hòa Bình, nhưng cũng có nhà máy còn
thiết bị của những năm 1960. Mức độ tự động hóa tại các nhà máy chưa cao nên
biên chế cán bộ công nhân còn khá lớn; trung bình 0.66 người/MW trong khi chỉ
số ở các nước phát triển là 0.1 [2].
Nguồn nhiệt điện than: Nhiệt điện than là nguồn điện truyền thống, với ưu
điểm là có công suất rất linh hoạt từ nhỏ nhất là khoảng 5 MW đến khoảng 1.500
MW hiện nay và có khả năng chuvển đổi sang nhiệt điện chạy dầu hoặc khí hoặc
chu trình hỗn hợp. Việt Nam hiện có 22 nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất
lắp đặt là 9.000 MW, tổng lượng điện năng sản xuất trung bình năm là 37 triệu
kWh. Trong đó một số nhà máy xây dựng từ lâu như: nhiệt điện Uông Bí (1963),
nhiệt điện Ninh Bình (1974), nhiệt điện Phả Lại 1 (1980) …chủ yếu là các nhà máy
nhiệt điện ngưng hơi, sử dụng lò hơi tuần hoàn tự nhiên, công suất thấp. Hiện nay,
các nhà máy này đều đã được lắp đặt các công nghệ mới để xử lý khói thải và đáp
ứng được các yêu cầu về đảm bảo cung cấp điện. Gần đây đã có thêm nhiều nhà
máy nhiệt điện than mới được đưa vào vận hành, đó là các nhà máy Nghi Sơn 1
(Thanh Hóa) với công suất lắp đặt là 600MW, Vũng Áng (600MW), Hải Phòng 2,
Mông Dương 2 (600MW), Vĩnh Tân 2 (1,200MW) và An Khánh 1 (115MW) cung
cấp thêm công suất phát điện cho hệ thống.
Nguồn nhiệt điện khí: Các nhà máy nhiệt điện khí có ưu điểm là thời gian xây
dựng nhanh, mức độ phức tạp trong việc vận hành và ô nhiễm môi trường đều thấp
hơn nhiệt điện chạy than. Các nhà máy điện hoạt động dạng tuabin khí chu trình
đơn và chu trình hỗn hợp. Hầu hết các nhà máy đều có thiết bị cồng nghệ tiên tiến,
hiệu suất khá cao. Các nhà máy đều sử dụng hệ thống điều khiển hiện đại chung cho
88
các hệ thống thiết bị chính. Công ty khí Việt Nam (PVGC), một thành viên của Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam chịu trách nhiệm về điều hành khí đốt tự nhiên và chịu
trách nhiệm phát triển hệ thống vận chuyển khí, trong vài trường hợp phối hợp với
các công ty nước ngoài, về thăm dò và khai thác khí. Công ty cũng phối hợp với
một số nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng các nhà máy nhiệt điện khí.
Nguồn nhiệt điện dầu: Các nhà máy nhiệt điện đốt dầu FO do EVN quản lý
gồm 3 nhà máy nhiệt điện chạy dầu là Công ty nhiệt điện Thủ Đức, Công ty nhiệt
điện Cần Thơ và nhà máy nhiệt điện Ô Môn. Các nhà máy nhiệt điện chạy dầu có
thành phần chi phí nhiên liệu chiếm tỷ trọng rất lớn từ 80% đến trên 90% trong cơ
cấu giá thành. Do vậy, nguồn nhiệt điện này bị hạn chế công suất để giảm giá thành
sản xuất điện, giảm chi phí mua điện của EVN. Các nhà máy nhiệt điện dầu chiếm
tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn điện của hệ thống điện Việt Nam.
3.2.2.2. Các đơn vị tham gia sản xuất điện
Lĩnh vực sản xuất điện tại Việt Nam hiện nay đang từng bước có sự tham gia của
các DN từ nhiều thành phần khác nhau. Thị trường sản xuất điện có thị phần của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các công ty thành viên hoặc công ty liên kết của
EVN; các đơn vị thuộc các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước, các công ty tư nhân và
nhà đầu tư nước ngoài. Thị phần sản xuất điện được trình bày trong Hình 3.6.
Hình 3.6: Thị phần của các doanh nghiệp tham gia sản xuất
điện tại Việt Nam
Nguồn: [26]
89
Chiếm tỉ trọng lớn nhất là nhóm các công ty thuộc EVN hoặc có liên quan
về sở hữu với EVN, bao gồm các EVN GENCO - là các công ty được thành lập từ
việc tái cơ cấu lại các nhà máy điện trực thuộc của EVN, 3 EVN GENCO được giao
trách nhiệm đảm nhận quản lý các nhà máy điện và phần vốn của EVN tại các Công ty
phát điện đang hoạt động. Sau khi thành lập các EVN GENCO, EVN chỉ còn quản lý
trực tiếp các nhà máy thủy điện chiến lược đa mục tiêu (là những thủy điện lớn, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng) như Hòa Bình, Sơn
La, Ialy, Trị An, Tuyên Quang.
Nhóm các nhà máy điện độc lập, trong đó có Tổng Công ty Điện lực dầu khí
(PV Power) và Tổng công ty Điện lực Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin
Power Holding Corporation) là hai nhà đầu tư điện độc lập lớn nhất tại Việt Nam. PV
Power hiện quản lý danh mục gồm 9 nhà máy điện đang vận hành sản xuất với tổng
công suất là 4,214.2 MW, hàng năm chiếm từ 13 - 15% tổng sản lượng điện quốc gia.
Vinacomin Power đang là nhà cung cấp điện thứ 3 sau nhóm EVN và PV Power, quản
lý và vận hành 5 nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất 1,545 MW.
Ngoài nhóm các DN nêu trên, TTĐ có sự tham gia của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Đây là nhóm có tốc độ tăng trưởng cao nhất và có sự thay đổi mạnh mẽ
nhất trong cơ cấu nguồn điện những năm gần đây. Năm 2011 thị phần của nhóm các
DN này chỉ chiếm 6.8% nhưng đến năm 2015 đã tăng lên chiếm khoảng 18% công
suất hệ thống. Một số nhà đầu tư nước ngoài tiêu biểu tại Việt Nam là AES
Corporation (Mỹ), Posco Energy (Hàn Quốc), China Investment Corporation
(Trung Quốc), Tata Power (Ấn Độ)...
3.2.2.3. Xuất nhập khẩu điện
Việt Nam hiện có kết nối lưới điện và thực hiện mua bán điện với Trung
Quốc, Lào và Campuchia. Hiện Việt Nam đang phải nhập khẩu 3.1% nhu cầu điện
từ Trung Quốc, Lào và sẽ tiếp tục nhập khẩu hơn 2% nhu cầu điện từ các nước này
những năm tới.
Hiện việc mua điện từ Trung Quốc đuợc thực hiện qua 2 cấp điện áp 220kV
với hướng Lào Cai và Hà Giang và qua cấp điện áp 110 kV với 3 hướng Lào Cai,
Hà Giang, Móng Cái. Các khu vực mua điện Trung Quốc đều vận hành độc lập với
nhau và độc lập với luới điện Việt Nam. Lào hiện chưa có kế hoạch phát triển lưới
điện truyền tải quốc gia nên việc nhập khẩu sẽ chủ yếu qua các dự án thuỷ điện
90
riêng rẽ. Tình hình nhập khẩu điện của Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2015 được
thể hiện trong biểu đồ sau:
Hình 3.7: Sản lượng điện nhập khẩu của Việt Nam
Nguồn:[27,37]
Trong thời gian qua, hệ thống điện Việt Nam có thêm nhiều nguồn điện mới ở
khu vực phía Bắc đi vào vận hành nên trong thời gian tới, hệ thống điện Việt Nam có
thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng điện trong nước. Do vậy, dự kiến trong thời gian
tới, lượng điện nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm mạnh.
Về xuất khẩu điện, tính đến 2015, Tổng Công ty Điện lực miền Trung
(EVNCPC) đã thực hiện bán điện qua 06 cửa khẩu cho hai nước bạn Lào và
Campuchia, bao gồm cửa khẩu Lao Bảo, La Lay (Quảng Trị), Đăk Ốc (Quảng Nam),
Bờ Y (Kon Tum), Lệ Thanh (Gia Lai) và cửa khẩu BuPrăng (Đăk Nông). Năm 2015,
sản lượng điện xuất khẩu sang Lào và Campuchia đạt 805 triệu kWh.
3.2.2.4. Phát triển nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo
Việt Nam có tiềm năng NLTT đa dạng, với các nguồn NLTT chính, có khả
năng khai thác có hiệu quả là mặt trời, gió và sinh khối. Khu vực ven biển miền
Trung và các tỉnh phía Nam được nhận định là có tiềm năng cao hơn với lợi thế về
điều kiện khí hậu, đặc điểm phát triển kinh tế xã hội.
Năng lượng mặt trời: Ở Việt Nam, bức xạ mặt trời trung bình 150 kcal/m2
chiếm khoảng 2,000 - 5,000 giờ trên năm, với ước tính tiềm năng lý thuyết khoảng
43.9 tỷ TOE [11; 23; 25]. Số ngày nắng trung bình trên các tỉnh của miền trung và
miền nam là khoảng 300 ngày/năm. Hiện nay đa phần điện mặt trời chỉ khai thác ở
quy mô nhỏ, được lắp đặt tại các khu vực vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Thời gian
gần đây với việc ban hành cơ chế giá mua điện cố định ở mức 9.35 Uscent/kWh của
91
Chính phủ, điện mặt trời được dự báo sẽ có mức tăng trưởng rất cao trong những
năm tới và có thể đạt mức trên 10% công suất toàn hệ thống vào năm 2030.
Năng lượng gió: Việt Nam được xác định là quốc gia có tiềm năng gió
lớn nhất so với các nước láng giềng trong khu vực như Lào, Campuchia và Thái
Lan [88]. Những khu vực hứa hẹn nhất cho phát triển điện gió chủ yếu nằm ở các
vùng ven biển và cao nguyên miền nam trung bộ và miền nam của Việt Nam.
Cũng theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ước lượng khoảng 8.6% tổng
diện tích lãnh thổ Việt Nam có tiềm năng gió với mức từ “cao” đến “rất cao”,
phù hợp cho việc triển khai tuabin gió cỡ lớn [88]. Việt Nam đã ban hành chính
sách giá mua điện gió cố định ở mức 7.5 Uscent/kWh. Cho đến nay, tổng công
suất lắp đặt của các trang trại gió phát điện quy mô lớn nối lưới đã đạt trên 100
MW, tập trung tại các tỉnh ven biển phía Nam như Bạc Liêu, Cà Mau, Bình
Thuận. Trong giai đoạn tới, dự báo tiềm năng gió tại Việt Nam sẽ tiếp tục được
khai thác và có mức tăng trưởng rất cao.
Năng lượng sinh khối
Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng
lượng sinh khối. Các loại sinh khối chính là: gỗ năng lượng, phế thải - phụ phẩm từ
cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Khả
năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lượng ở Việt Nam đạt
khoảng 100-150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác được
ngay về mặt kỹ thuật cho sản xuất điện hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng
lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) đó là: trấu ở đồng bằng sông Cửu Long, bã mía dư
thừa ở các nhà máy đường, rác thải sinh hoạt ở các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi từ
các trang trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác từ chế biến nông-lâm-hải
sản [10; 90]. Theo thống kê, hiện có khoảng 40 nhà máy đồng phát nhiệt điện với
tổng công suất 150MW tại Việt Nam.
3.2.3. Hạ tầng truyền tải và phân phối điện tại Việt Nam
Hệ thống truyền tải điện đóng vai trò quyết định trong việc đưa sản phẩm là
điện năng đến với các hộ tiêu thụ. Thiết kế và vận hành hệ thống hạ tầng truyền tải
và phân phối điện tại Việt Nam được cấu trúc thành các cấp điện áp 500kV, 220kV
và 110kV. Lưới truyền tải 500, 220kV do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia
92
quản lý, lưới điện phân phối từ 6kV đến 110kV thuộc quyền quản lý của các Tổng
Công ty điện lực miền. Có thể thấy sự phát triển của lưới truyền tải Việt Nam phát
triển tương đối ổn định qua các năm như sau:
Bảng 3.2: Khối lượng đường dây và trạm biến áp các năm 2011-2016
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Khối
lượng km MVA km MVA km MVA km MVA km MVA km MVA
500kV 4,132 13,950 4,670 16,050 4,887 19,350 6,611 21,900 7,183 22,950 7,346 26,100
220kV 10,387 25,839 11,449 27,901 12,166 31,202 12,941 35,041 15,079 35,851 16,589 45,540
110kV 14,402 30,284 15,057 32,676 15,602 35,653 16,685 39,374 18,681 42,332 18,511 49,556
Tổng 28,921 70,073 31,176 76,627 32,655 86,205 36,237 96,315 39,137 101,133 42,446 121,196
Nguồn: [26; 37; 83]
Lưới truyền tải 500kV
Lưới truyền tải 500kV là xương sống của hệ thống điện Việt Nam, có tổng
chiều dài 7,346km từ Bắc vào Nam. Hệ thống này đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong cân bằng năng lượng của toàn quốc và có ảnh hưởng lớn tới độ tin cậy
cung cấp điện của từng miền.
Khối lượng đường dây (ĐZ) 500kV tăng trưởng trung bình 14.2%/ năm trong
giai đoạn 2011-2016. Dung lượng máy biến áp (MBA) 500kV cũng tăng đáng kể từ
13,950 MVA năm 2011 đến 26,100 MVA năm 2016 (tăng trưởng giai đoạn 2011-2015
đạt 16.2%/năm). Trong khi đó khối lượng đường dây và dung lượng MBA 220-110kV
đạt tốc độ tăng trưởng thấp hơn, bình quân 6.4% và 11.5% cùng giai đoạn.
Nhìn chung lưới truyền tải 500 kV Bắc- Nam vận hành tương đối ổn định và
chủ yếu truyền tải công suất cao từ Bắc vào Nam đồng thời tổn thất trên đường dây
500 kV giảm dần qua các năm [13]. Nhiều công trình đường dây và trạm đã chính
thức đưa vào vận hành góp phần đáng kể trong việc đảm bảo cung cấp điện, cải
thiện chất lượng điện áp, giảm tổn thất, chống quá tải và nâng cao độ ổn định vận
hành của hệ thống.
93
Lưới truyền tải 220kV, 110kV
Lưới 220-110kV là xương sống cho hệ thống điện của từng miền, có nhiệm vụ
đảm bảo việc cung cấp điện an toàn và liên tục tới lưới điện của miền và khu vực.
Lưới truyền tải 220kV và 110kV trong thời gian qua cũng phát triển mạnh mẽ, từ
xấp xỉ 24,789km đường dây năm 2011 tăng lên gần 35,100km đường dây năm
2016. Dung lượng các trạm biến áp cũng tăng mạnh từ 56,123MVA năm 2011 tăng
lên 95,096MVA năm 2016.
Nhìn chung cơ sở hạ tầng lưới điện đã có mức phát triển tốt, nhằm đảm bảo
cung cấp điện ổn định do sự gia tăng nhu cầu của phụ tải trong thời gian qua, lưới
điện 220-110kV vận hành tương đối ổn định mặc dù một số chỉ tiêu kinh tế - kỹ
thuật chưa được đảm bảo một cách tối ưu như khả năng dự phòng (khu vực Miền
Bắc và miền Nam). Trong một số trường hợp sự cố nguồn, sự cố lưới và phụ tải cao
thực tế có dẫn đến tình trạng quá tải các đường dây 220kV liên kết.
Lưới điện phân phối trung và hạ áp
Trong hệ thống điện và vận hành TTĐ, lưới điện phân phối trung áp và hạ áp
đóng vai trò trực tiếp đưa điện năng đến hộ tiêu thụ cuối cùng. Hiện nay, lưới phân
phối trung áp khu vực các thành phố, thị xã, khu đô thị và khu công nghiệp được xây
dựng theo cấu trúc mạch vòng vận hành hở, các khu vực còn lại theo cấu trúc hình tia.
Về mặt kỹ thuật, cấu trúc mạch vòng vận hành hở đem lại khả năng phân phối điện an
toàn và tin cậy hơn so với cấu trúc hình tia. Xu hướng chính trong đầu tư, cải tạo và
nâng cấp lưới điện trung áp là chuyển về cấp điện áp 22kV trên cả ba miền.
Lưới điện hạ áp ở nước ta phần lớn được thiết kế với kết cấu 3 pha 4 dây hoặc
1 pha 2 dây, trung tính nối đất trực tiếp, cấp điện áp 220 (380)V với nhiều chủng
loại dây dẫn như: cáp ngầm (ruột đồng hoặc nhôm), cáp bọc, cáp vặn xoắn ABC,
dây trần và dây lưỡng kim. Trong đó, khu vực thành phố, thị xã chủ yếu sử dụng
cáp bọc, cáp vặn xoắn ABC và cáp ngầm. Các khu vực còn lại dùng các loại dây
như dây trần, dây lưỡng kim.
3.2.4. Cơ chế cạnh tranh trên thị trường điện lực
Từ giai đoạn đầu những năm 2000, cùng với việc thành lập và ra đời các đơn
vị phát điện ngoài EVN, ngành điện đã xuất hiện sự cạnh tranh nhất định trong phát
điện dù chưa hình thành nền tảng giao dịch TTĐ [82]. Ở giai đoạn này các nguồn
ngoài EVN chiếm khoảng 7.2% công suất hệ thống (452MW) và sản lượng điện
94
chiếm khoảng 9.2% tổng điện thương phẩm (2.51 TWh). Song song với việc cơ cấu
lại EVN, lộ trình xây dựng và phát triển TTĐ đã được Chính phủ ban hành tại
Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg ngày 26 tháng 01 năm 2006, trong đó đặt ra yêu
cầu quy định và vạch ra lộ trình ba cấp độ thị trường. Mỗi cấp độ được thực hiện
theo hai bước: thí điểm và vận hành chính thức.
Hình 3.8: Các cấp độ xây dựng thị trường điện lực tại Việt Nam
Nguồn: [8]
Để xây dựng và chuẩn bị cho các cấp độ, hai giai đoạn triển khai đã được
thiết kế với các mục tiêu và kế hoạch hành động cụ thể:
Cấp độ 1 - Thị trường phát điện cạnh tranh: Thành lập Nhà điều hành thị
trường và Đơn vị mua điện duy nhất thuộc EVN. Trên cơ sở đó, đã xây dựng và vận
hành Thị trường phát điện cạnh tranh, thực hiện cơ chế thị trường giao ngay để tất
cả các máy phát điện có thể tham gia.
Cấp độ 2 - Thị trường cạnh tranh bán buôn: Ở cấp độ này, sẽ mở rộng sự
tham gia của phía cầu trong TTĐ có tổ chức. Mô hình Đơn vị mua điện duy nhất
được thay thế bằng một thỏa thuận theo đó người tiêu dùng có thể đàm phán mua
hàng trực tiếp với đơn vị phát điện mà không phụ thuộc vào Đơn vị mua điện duy
nhất. Từ năm 2015 đến năm 2016 đã thực hiện thị trường bán buôn điện cạnh tranh
thí điểm; và từ năm 2017 đến năm 2021 sẽ thực hiện thị trường bán buôn điện cạnh
tranh hoàn chỉnh.
Cấp độ 3 (từ 2021-2023) - Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh: Ở cấp độ này,
hoạt động công ty phân phối điện sẽ được chia tách theo chức năng quản lý mạng và
bán lẻ. Người tiêu dùng dùng cuối cùng được phục vụ bởi các công ty phân phối có thể
sau đó tự do lựa chọn các nhà cung cấp của họ (các nhà bán lẻ). Từ sau năm 2023 sẽ
thực hiện thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh.
TT Phát điện cạnh tranh
(VCGM)
TT Bán buôn cạnh tranh
(VEWM)
TT cạnh tranh bán lẻ
2010 2014 2017 2021 2023
Thí điểm Chính
thức Thí điểm Chính
thức Thí điểm Chính
thức
95
Như vậy, TTĐ đã và đang chuyển đổi từ cấp độ thị trường độc quyền sang cấp
độ TTĐ cạnh tranh. Cho đến nay, TTĐ đã cơ bản có sự cạnh tranh ở khâu sản xuất
điện (cấp độ Thị trường phát điện cạnh tranh) và đang trải qua giai đoạn thí điểm
của Thị trường bán buôn cạnh tranh, cụ thể như sau:
Cấp độ thị trường điện lực cạnh tranh khâu sản xuất điện
Cạnh tranh hóa khâu sản xuất điện (phát điện) đã được chuẩn bị và thực hiện
từ năm 2009 và vận hành chính thức từ năm 2012 với tên gọi chính thức là Thị
trường phát điện cạnh tranh tại Việt Nam. Thị trường phát điện cạnh tranh tại Việt
Nam mở cửa thị trường sản xuất điện cho các nhà đầu tư ngoài EVN, đa dạng hóa
về mặt sở hữu khâu sản xuất điện. Đối tượng tham gia thị trường phát điện cạnh
tranh tại Việt Nam bao gồm tất cả các nhà máy điện có công suất đặt lớn hơn
30MW đấu nối trực tiếp vào lưới điện quốc gia (trừ các nhà máy được đầu tư theo
hình thức BOT, các nhà máy điện gió, địa nhiệt…). Từ năm 2015, các nhà máy thủy
điện có công suất đặt đến 30 MW, đấu nối lưới điện cấp điện áp từ 110 kV trở lên,
đáp ứng đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng được quyền lựa chọn tham gia TTĐ.
Các đơn vị cung cấp dịch vụ trong Thị trường phát điện cạnh tranh, bao gồm:
- Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia đảm nhận vai trò của Đơn vị vận
hành hệ thống điện và TTĐ và Đơn vị cung cấp dịch vụ thu nhập và quản lý số liệu
đo đếm điện năng;
- Tổng công ty truyền tải điện quốc gia đảm nhận vai trò đơn vị cung cấp dịch
vụ truyền tải điện.
SMOSMO
TNOTNO
SBSB
PCPC
Điều độĐiều độ
Điện năngĐiện năng Điện năngĐiện năng
Thanh toán
Đơn vị phát
điện
Đơn vị phát
điệnĐơn vị cung
cấp dịch vụ
Đơn vị cung
cấp dịch vụĐơn vị bán
buôn
Đơn vị bán
buônĐơn vị phân
phối
Đơn vị phân
phối
Hợp đồng & Thanh toán
Genco Genco
BOT
(SB chào
thay)
BOT
(SB chào
thay)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
Chào giáChào giá
MDMSPMDMSP
Bảng kê
thanh toán
Bảng kê
thanh toán
Số liệu đo đếm
Số liệu đo đếm
Số
liệu
đo
đếm
Bảng kê
thanh toán
Bảng kê
thanh toán
Số liệu đo đếmSố liệu đo đếm
SMOSMO
TNOTNO
SBSB
PCPC
Điều độĐiều độ
Điện năngĐiện năng Điện năngĐiện năng
Thanh toán
Đơn vị phát
điện
Đơn vị phát
điệnĐơn vị cung
cấp dịch vụ
Đơn vị cung
cấp dịch vụĐơn vị bán
buôn
Đơn vị bán
buônĐơn vị phân
phối
Đơn vị phân
phối
Hợp đồng & Thanh toán
Genco Genco
BOT
(SB chào
thay)
BOT
(SB chào
thay)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
Genco Genco
BOT
(SB chào
thay)
BOT
(SB chào
thay)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
SMHP(SMO công
bố sản
lượng)
Chào giáChào giá
MDMSPMDMSP
Bảng kê
thanh toán
Bảng kê
thanh toán
Số liệu đo đếm
Số liệu đo đếm
Số
liệu
đo
đếm
Số
liệu
đo
đếm
Bảng kê
thanh toán
Bảng kê
thanh toán
Số liệu đo đếmSố liệu đo đếm
Hình 3.9: Cấu trúc và cơ chế hoạt động thị trường phát điện
cạnh tranh Việt Nam
Nguồn: [8]
96
Thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam áp dụng mô hình TTĐ tập trung
toàn phần và chào giá dựa trên chi phí. Tuy nhiên trong thực tế, thị trường phát điện
cạnh tranh Việt Nam áp dụng kết hợp giữa mô hình chào giá theo chi phí biến đổi
và mô hình chào giá tự do. Toàn bộ điện năng phát của các nhà máy điện được chào
bán cho Đơn vị mua buôn duy nhất (Công ty Mua bán điện, thuộc EVN) trên thị
trường giao ngay.
Cấp độ thị trường bán buôn cạnh tranh
Thị trường bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam được thiết kế và vận hành thử
nghiệm từ năm 2016 và vận hành chính thức dự kiến vào cuối năm 2017, theo
Quyết định số 8266/QĐ-BCT năm 2015 của Bộ Công Thương phê duyệt Thiết kế
chi tiết Thị trường bán buôn điện cạnh tranh. Các thành viên tham gia Thị trường
bán buôn điện cạnh tranh được phân loại thành 03 nhóm chính gồm bên bán điện,
bên mua điện và các đơn vị cung cấp dịch vụ.
Bên bán điện bao gồm các đơn vị phát điện và các đơn vị chào giá thay cho
đơn vị phát điện. Bên mua điện bao gồm 05 Tổng công ty Điện lực, các khách hàng
sử dụng điện lớn đủ điều kiện và các đơn vị mua buôn điện mới. Tổng quan về các
nhóm đơn vị thành viên trong Thị trường bán buôn điện cạnh tranh được mô tả
trong Hình 3.10.
Hình 3.10: Các bên tham gia Thị trường bán buôn điện cạnh tranh
Nguồn: [8]
97
Điểm khác biệt của Thị trường bán buôn điện cạnh tranh so với thị trường
phát điện cạnh tranh là có sự cạnh tranh mua điện từ các nhà sản xuất điện của các
Tổng Công ty điện lực, thay vì chỉ có Đơn vị mua điện duy nhất như trong Thị
trường phát điện cạnh tranh. Năm (05) Tổng công ty Điện lực sẽ đóng vai trò là các
đơn vị mua buôn điện trong Thị trường bán buôn điện cạnh tranh [8]. Trong Thị
trường bán buôn điện cạnh tranh, bên cạnh các Tổng công ty Điện lực, các đơn vị
mua buôn điện mới đáp ứng các yêu cầu tài chính - kỹ thuật sẽ được xem xét cho
phép tham gia thị trường theo quy định. Các đơn vị mua buôn mới này có chức
năng cơ bản mua điện từ các đơn vị phát điện thông qua hợp đồng hoặc qua thị
trường giao ngay để bán điện cho các khách hàng lớn đủ điều kiện hoặc các Tổng
công ty Điện lực.
3.2.5. Cơ chế giá điện
Là một TTĐ đang trong quá trình phát triển và tiếp tục có những cải cách, giá
điện bán lẻ tại Việt Nam hiện đang được điều tiết bởi Chính phủ. Tập đoàn Điện lực
Việt Nam chỉ có thẩm quyền tăng hoặc giảm giá điện bán lẻ không quá 5% qua mỗi
đợt điều chỉnh. Giá bán lẻ điện của Việt Nam được chia theo các mục đích sử dụng
điện của khách hàng, cấp điện áp đấu nối và thời gian sử dụng điện tại các giờ cao thấp
và bình thường trong ngày, đối với khách hàng sử dụng điện sinh hoạt thì sẽ sử dụng
biểu giá điện bậc thang với 7 bậc.
Giá bán lẻ điện đối với các nhóm khách hàng cũng có sự bù chéo nhất định.
Khách hàng công nghiệp đấu nối tại cấp điện áp từ 6-22kV sẽ được áp dụng mức
giá tương ứng với giờ bình thường, cao điểm, thấp điểm là 88%, 161%, 55% và tỷ
lệ này cũng được giữ nguyên tại Quyết định số 28/QĐ-TTg ban hành ngày 7 tháng
4 năm 2014. Như vậy có thể thấy mức giá cho mục đích sử dụng điện công nghiệp
đang được trợ giá từ các mục đích khác khoảng 12%.
Về cơ cấu, giá điện bán lẻ của Việt Nam dựa trên việc tính toán các thành
phần giá/chi phí của các khâu trong dây truyền sản xuất kinh doanh điện bao gồm
các khâu Phát điện - Truyền tải điện - Phân phối điện-bán lẻ điện - Chi phí vận hành
hệ thống điện và điều hành giao dịch TTĐ, chi phí điều tiết quản lý ngành điện và
các khoản thuế, phí theo quy định.
Hiện tại Việt Nam đang vận hành thị trường phát điện cạnh tranh với sản
lượng chỉ chiếm trên 50% tổng công suất phát của toàn hệ thống. Khi thị trường
98
phát điện cạnh tranh vận hành với số lượng lớn các nhà máy điện tham gia thì giá
khâu phát sẽ hình thành dựa trên quan hệ cung cầu khách quan, chi phí khâu phát sẽ
được tối ưu thông qua hiệu quả của việc vận hành TTĐ. Giá khâu phát của Việt
Nam hiện nay chiếm khoảng 70% giá bán lẻ điện. Khâu phát sẽ phụ thuộc vào giá
nhiên liệu sơ cấp như than, khí và đối với Việt Nam cũng sẽ ảnh hưởng bởi sản
lượng các nguồn thủy điện trong năm vận hành. Việt Nam là nước có nguồn thủy
điện chiếm khoảng 1/3 sản lượng hệ thống điện và có chí phí rẻ hơn so với các
nguồn điện khác. Hiện tại các nguồn năng lượng sơ cấp như than và khí đã vận hành
theo cơ chế thị trường, về cơ bản đã bỏ các trợ giá đối với lĩnh vực sản xuất điện,
giá than và giá khí đã có mối liên hệ với các nguồn cung cấp than trên thế giới và
giá khí có hệ số ảnh hưởng với giá dầu MFO thế giới giao tại Singapore.
Theo số liệu thống kê từ 2006 đến 2017 thì Việt Nam đã có 15 lần điều chỉnh
giá điện để dần phản ánh đúng chi phí sản xuất điện.
Hình 3.11: Diễn biến giá điện bán lẻ tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2017
Nguồn: NCS tổng hợp
Thông tin chi tiết các lần điều chỉnh giá điện gần đây được thể hiện tại Phụ
lục 1 kèm theo Luận án.
3.2.6. Cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện lực
tại Việt Nam
Sau 11 năm kể từ khi lộ trình các điều kiện hình thành và phát triển các cấp
độ TTĐ tại Việt Nam được ban hành, CSHT&NT phục vụ giao dịch TTĐ tại Việt
Nam đã bước đầu được hình thành, tạo tiền đề và cơ sở để từng bước phát triển
TTĐ cạnh tranh một cách ổn định. Đối với Thị trường bán buôn điện cạnh tranh,
các quy định quan trọng đã được ban hành bao gồm:
99
- Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg (thay thế Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg
ngày 26 tháng 01 năm 2006) do Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về lộ
trình, các điều kiện và cơ cấu ngành điện để hình thành và phát triển các cấp độ
TTĐ tại Việt Nam. Theo Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg, Thị trường bán buôn
điện cạnh tranh thuộc cấp độ 2 trong Lộ trình hình thành và phát triển TTĐ cạnh
tranh tại Việt Nam, và được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2021 theo 02 giai
đoạn: thí điểm và hoàn chỉnh.
- Điều 9, Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg đã quy định các điều kiện về văn
bản pháp lý và cơ sở hạ tầng để hình thành thị trường bán buôn điện cạnh tranh,
Trong đó, một trong các văn bản pháp lý cần thiết là Đề án Thiết kế thị trường bán
buôn điện cạnh tranh được Bộ Công Thương phê duyệt (quy định tại điểm b Điều 9,
Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg).
CSHT&NT phục vụ giao dịch TTĐ đã được xây dựng và phát triển theo lộ
trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hiện nay, CSHT&NT phục vụ giao
dịch TTĐ ở Việt Nam đang ở cấp độ Thị trường phát điện cạnh tranh. Các
CSHT&NT này bao gồm hệ thống các quy định vận hành và giao dịch trên thị
trường dành cho các công ty sản xuất điện, hệ thống hạ tầng Công nghệ thông tin và
viễn thông, các cơ sở vật chất kỹ thuật khác.
Hình 3.12: Diễn biến sự tham gia của các nhà máy điện vào giao dịch tại
thị trường phát điện cạnh tranh
Nguồn: [9]
100
Tính đến hết tháng 6/2017 đã có 76 nhà máy điện có công suất từ 30MW
trở lên tham gia thị trường, với tổng công suất đặt 20,728MW, chiếm tới 49%
công suất nguồn của hệ thống điện tham gia thị trường, tăng 2.45 lần so với thời
điểm mới vận hành năm 2012 (chỉ có 31 nhà máy). Năng lực của các bên tham gia
đã có sự cải thiện tích cực trong cách thức, chiến lược chào giá, nâng cao khả năng
cạnh tranh góp phần dẫn đến giá TTĐ có xu hướng giảm. Các thành viên tham gia
TTĐ có sự đa dạng về công nghệ sản xuất; trong đó thủy điện chiếm tỷ lệ 38%
công suất, nhiệt điện than 35% công suất, nhiệt điện dầu 4%, Tuabin khí chiếm
17% và các loại khác chiếm 6% công suất.
Hình 3.13: Cơ cấu nguồn điện tham gia giao dịch trên thị trường điện Việt Nam
Nguồn: [9]
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC TẠI VIỆT NAM
3.3.1. Những kết quả đạt được
Một là, cân bằng cung - cầu điện đã cơ bản được đảm bảo
Mức tăng trưởng nhu cầu điện năng tại Việt Nam từ giai đoạn 2005 đến 2015
luôn duy trì ở mức cao mặc dù giai đoạn 2011 - 2015 mức tăng trưởng có sự điều
chỉnh giảm. Tuy nhiên xét trên khía cạnh bền vững, việc gia tăng nhu cầu điện trong
giai đoạn kéo dài sẽ gây áp lực lên quá trình đầu tư phát triển nguồn điện - là một
101
quá trình thâm dụng vốn đầu tư ở quy mô lớn, tiềm ẩn nhiều tác động tới môi
trường và an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt xét trong bối cảnh biến đổi khí hậu
và sự cạn kiệt các nguồn năng lượng truyền thống ở quy mô toàn cầu. Do vậy, một
mức tăng trưởng phù hợp của nhu cầu điện năng để đảm bảo có sự cung ứng kịp
thời của khâu sản xuất và hạ tầng điện lực sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững
hơn của TTĐ.
Hình 3.14: So sánh tiêu thụ điện năng Việt Nam và quốc tế
Nguồn: [4]
Về tăng trưởng nguồn cung, hệ thống điện đã ghi nhận mức phát triển cao để
đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Ngành điện đã duy trì mức tăng
trưởng bình quân 24.95%/năm cho giai đoạn 2005 - 2015, đạt mức tăng 3,1 lần, từ 45.6
tỷ kWh (2005) lên tới 159.4 tỷ kWh (2015). Để đạt mức tăng trưởng này, giai đoạn
2011- 2015 đã có hơn 18,500 MW tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện được
đưa vào vận hành trong đó các đơn vị thuộc EVN giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng
điện cho toàn ngành, đạt mức trên 11,000 MW, PV Power gần 2,300 MW, Vinacomin
Power gần 1,000 MW, các nhà máy điện độc lập khoảng 3,700 MW.
Xuất nhập khẩu điện của Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng, duy trì
nguồn cung bổ sung hợp lý cho hệ thống điện và đảm bảo an ninh năng lượng. Hiện
102
nay mức nhập khẩu điện từ Trung Quốc đã điều chỉnh giảm, ở mức 2,025 tỷ kWh
năm 2014. Hiện tại, Việt Nam đang nhập khẩu từ Lào bằng cấp điện áp 220kV từ
nhà máy thủy điện XêKaMan 3 – vận hành năm 2013 với tổng sản lượng khoảng
450 triệu kWh. Trong năm 2014, điện bán cho Campuchia có công suất cực đại
220MW và sản lượng trung bình là 73.75 triệu kWh/tháng, tổng bán điện cả năm
đạt 0.885 tỷ kWh, giảm 33.8% so với năm 2013 (1.337 tỷ kWh).
Hai là, hạ tầng lưới điện cơ bản đảm bảo được nhiệm vụ truyền tải và
phân phối điện
Hạ tầng lưới điện trong những năm gần đây được phát triển ổn định đảm bảo
độ tin cậy. Trong giai đoạn 2011-2015, một số công trình lưới điện trọng điểm cung
cấp điện cho miền Nam đã được vào vận hành nhằm nâng cao năng lực truyền tải, góp
phần đáng kể trong việc đảm bảo cung cấp điện cho phụ tải và cải thiện chất lượng điện
áp. Tiêu biểu là một số công trình đường dây 500kV Pleiku - Cầu Bông tăng cường
liên kết lưới truyền tải 500kV Trung - Nam, đảm bảo nhiệm vụ truyền tải điện, hỗ trợ
miền Nam trong mùa khô 2014-2015. Đường dây 500kV Phú Mỹ-Sông Mây-Tân Định
và TBA 500kV Sông Mây đã được phát triển theeo hướng khép vòng được hệ thống
các mạch 500kV xung quanh TP Hồ Chí Minh, tăng cường khả năng giải tỏa và hỗ trợ
công suất giữa cụm NĐ Phú Mỹ và các nguồn thủy điện Tây Nguyên. Ngoài ra, ngành
điện đã thực hiện thành công các dự án có tầm quan trọng cao như công trình nâng
công suất trạm 500kV Phú Lâm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của phụ tải,
nâng công suất tụ bù dọc trên ĐZ 500kV Đà Nẵng - Hà Tĩnh góp phần nâng cao năng
lực truyền tải lưới điện Bắc - Trung…
Ba là, bước đầu phát triển các nguồn năng lượng sạch trên quy mô lớn
Giai đoạn 2010-2015 bước đầu đã có sự tham gia của các nguồn năng lượng
sạch, NLTT đóng góp vào khâu sản xuất điện năng ở quy mô công nghiệp để nối
lưới điện quốc gia. Trước 2010 mới chỉ có khoảng 400MW điện tái tạo nối lưới
điện quốc gia, thì đến năm 2015, tổng công suất lắp đặt từ tất cả các nguồn NLTT
đã đạt gần 1,900MW, chiếm khoảng 5% tổng công suất đặt và khoảng 3.4% điện
sản xuất của cả hệ thống.
Tính đến 2017, đã có các công trình điện gió nối lưới đầu tiên hòa điện vào
lưới điện quốc gia gồm các dự án điện gió Bạc Liêu giai đoạn 1 và 2 (100 MW),
điện gió Bình Thuận (30MW) và Phú Quý (6MW), có khoảng trên 80 dự án điện
gió đã đăng ký với tổng công suất đăng ký gần 8,000 MW.
103
Bốn là, đã xây dựng CSHT&NT phục vụ giao dịch thị trường điện lực cấp
độ cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán buôn
Việc xây dựng CSHT&NT giao dịch TTĐ ở cấp độ thị trường phát điện cạnh
tranh đã tăng minh bạch, công bằng trong việc huy động các nguồn điện, thông qua
bản chào giá của nhà máy để đưa ra lịch huy động, các nhà máy có giá chào thấp sẽ
được huy động trước sau đó đến các nhà máy tiếp theo cho đến khi đáp ứng được
nhu cầu của phụ tải. Các thông tin về kế hoạch vận hành TTĐ theo năm, tháng hoặc
tuần, vận hành TTĐ thời gian thực, các can thiệp thị trường, tình hình vận hành hệ
thống điện đã được công bố đầy đủ cho các thành viên tham gia TTĐ trên trang
thông tin điện tử TTĐ. Điều này được đánh giá là góp phần giúp các đơn vị hiểu rõ
hơn nguyên tắc trong công tác vận hành, tối ưu toàn hệ thống.
Trong thời gian tới, ngành điện sẽ tiến hành thí điểm vận hành TTĐ ở cấp độ
Thị trường bán buôn điện cạnh tranh, mở ra nền tảng giao dịch mới cho phép sự tham
gia vào khâu mua buôn (wholesale) và phân phối điện cho các đơn vị khác - là các
Tổng Công ty điện lực lớn, thay vì chỉ có một đơn vị được mua buôn như hiện nay.
Năm là, một số cơ chế và chính sách phát triển nguồn điện sạch đã được
xây dựng và ban hành
Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng các cơ chế hỗ
trợ phát triển các nguồn điện sạch – các dự án NLTT. Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách và cơ chế hỗ trợ phát triển các dạng NLTT bao gồm:
- Sản xuất điện mặt trời: bên mua điện có nghĩa vụ phải mua toàn bộ điện năng
theo hợp đồng không đàm phán với giá bán điện cố định trong 20 năm, tương
đương 9.35 UScent/kWh [28]
- Sản xuất điện gió: bên mua điện có nghĩa vụ phải mua toàn bộ điện năng
theo hợp đồng không đàm phán với giá bán điện cố định trong 20 năm, tương
đương 7.8 UScent/kWh [29].
- Điện sinh khối: Bên mua điện có nghĩa vụ phải mua toàn bộ điện năng theo
hợp đồng không đàm phán với giá bán điện theo 2 loại sinh khối chính: đồng phát
nhiệt điện (giá cố định trong 20 năm) và chi phí tránh được theo giá điện than nhập
khẩu [30].
- Điện từ rác thải: hỗ trợ cho điện rác thải theo hai loại hình công nghệ là chôn
lấp thu hồi khí mê tan và thiêu đốt đảm bảo vệ sinh môi trường.
104
Ngoài ba loại điện NLTT như nêu trên, cơ chế hỗ trợ cho điện từ khí sinh
học, điện mặt trời và địa nhiệt cũng đang được xem xét và triển khai. Các thông tin
chính liên quan đến cơ chế hỗ trợ nguồn điện tái tạo được nêu ở bảng sau.
Bảng 3.3: Tổng hợp các chính sách hỗ trợ phát triển nguồn điện
NLTT tại Việt Nam
Loại NLTT Hiện trạng Mức độ hỗ trợ
Thủy điện
nhỏ
Áp dụng biểu giá chi phí
tránh được
Được ban hành hàng năm dựa vào chi
phí tránh được của hệ thống.
Điện gió Biểu giá cố định 20 năm 7.8 UScents/kWh.
Sinh khối Biểu giá cố định 20
năm và
Áp dụng cơ chế chi phí
tránh được từ điện than
nhập khẩu
+ Công nghệ đồng phát: 5.8
UScents/kWh.
+ Các loại sinh khối khác: dự kiến hành
biểu chi phí tránh được từ than nhập
khẩu
Rác thải Biểu giá cố định 20 năm + 10.05 UScents/kWh đối với công nghệ
thiêu đốt
+ 7.28 UScents/kWh đối với công nghệ
chôn lấp
Điện mặt
trời
Biểu giá cố định 20 năm 9.35 Uscent/kWh
Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho
dự án
Nguồn: NCS tổng hợp từ [28;29;30;31].
3.3.2. Những hạn chế cần khắc phục
Một là, tăng trưởng nhu cầu điện chưa bền vững
Tiêu thụ điện của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng ở mức cao trong gần 20
năm trở lại đây. Nhu cầu điện tăng trưởng mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế.
Trước hết tăng trưởng nhu cầu điện đồng nghĩa với việc mang lại cơ hội mở rộng
quy mô TTĐ, thúc đẩy quá trình sản xuất và cung ứng điện, tạo ra việc làm và giá
trị gia tăng cho nền kinh tế. Mặt khác, khi nhu cầu được đáp ứng, các ngành kinh tế
có đủ điều kiện để sản xuất và nâng cao năng suất lao động, người dân có điều kiện
nâng cao mức sống và sự tiện nghi trong sinh hoạt.
105
Tuy nhiên, nhu cầu điện tăng trưởng cao trong thời gian dài có những hệ lụy
nhất định, đáng kể nhất là tốc độ tiêu thụ điện năng gia tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế. Trong giai đoạn 5 năm từ 2011 đến 2015, hệ số đàn hồi điện
của Việt Nam ở mức cao, bình quân là 1.95 (tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện cao
gấp 1.95 lần tốc độ tăng trưởng GDP) trong khi trung bình ở các nước phát triển là
0.5 - 0.8 và ở các nước đang phát triển có điều kiện tương đồng nhất định với Việt
Nam là xấp xỉ 1.0. Điều này thể hiện hiệu quả sử dụng năng lượng điện của nền
kinh tế còn thấp, tiêu thụ điện của một số ngành, lĩnh vực ở mức cao nhưng giá trị
gia tăng lại ở mức thấp.
Phát triển TTĐ tại Việt Nam, do đó không nhất thiết đồng nghĩa với việc
khuyến khích tăng trưởng nhu cầu điện ở mức cao. Đây chính là điểm khác biệt và
là đặc thù của TTĐ Việt Nam. Yêu cầu này đặt ra các chiến lược quản lý và đáp
ứng nhu cầu điện phù hợp hơn để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ điện duy trì ở mức hợp
lý, khuyến khích một cơ cấu tiêu thụ ổn định, có hiệu quả cao hơn cho nền kinh tế
và cân đối được nguồn lực đầu tư cho sản xuất và cung ứng điện.
Hai là, sản xuất và cung ứng điện chưa đảm bảo ổn định và có dự phòng
hợp lý
Trong một số thời điểm (các năm 2011-2013), việc vận hành hệ thống điện,
cung ứng điện vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt vào thời điểm mùa khô hàng năm và
trong thời gian ngừng cấp khí khu vực miền Nam. Bên cạnh đó, hệ thống truyền tải
điện Bắc - Nam luôn trong tình trạng mang tải cao để cấp điện miền Nam. Hệ thống
điện vẫn còn xảy ra tình trạng đầy tải đường dây và trạm biến áp, đặc biệt tại các khu
vực có mật độ phụ tải điện cao như miền Bắc, miền Nam. Chất lượng cung cấp điện
khu vực nông thôn, nhất là các địa bàn mới tiếp nhận bán điện chưa được đảm bảo.
Về mặt sản xuất và cung ứng điện: nguồn sản xuất điện ngày càng phụ thuộc
hơn vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí). Đây là một kết quả tất yếu
của việc nhu cầu điện gia tăng trong khi tiềm năng thủy điện - vốn chiếm ưu thế
trong quá khứ - đã dần được khai thác hết. Các nguồn điện mới đưa vào hệ thống
điện và thị trường trong giai đoạn tới (2030) phần lớn sẽ là nhiệt điện than, vốn
được cho là sẽ tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và cán cân xuất nhập
khẩu năng lượng của quốc gia. Khi cơ cấu nguồn sản xuất điện gia tăng phụ thuộc
vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch và giảm dần tỉ trọng của thủy điện, chi phí sản
106
xuất trong dài hạn sẽ có xu hướng gia tăng, là yếu tố tiềm ẩn tác động đến khả năng
ứng phó của hệ thống trong trường hợp có biến động nguồn cung hoặc giá nhiên
liệu trên thị trường quốc tế. Trường hợp biến động lớn có thể uy hiếp an ninh hệ
thống điện và gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nếu các chiến lược ứng phó
không được chuẩn bị kỹ lưỡng và việc xây dựng và phát triển TTĐ không đạt được
các mục tiêu đề ra.
Ba là, sự tham gia của các doanh nghiệp vào thị trường phát điện còn hạn chế
Nhìn tổng thể, mặc dù thị trường phát điện đã có sự tham gia của các đơn vị
sản xuất ngoài EVN nhưng hiện trạng và xu thế trong thời gian tới cho thấy lĩnh vực
sản xuất điện vẫn sẽ do EVN đóng vai trò là nhà đầu tư và phát triển chủ lực. EVN
và các công ty thành viên hiện nắm giữ 61.2% tổng công suất phát điện toàn hệ
thống, tương đương với 23,580MW. Trong khi đó, các DN khác thuộc khu vực tư
nhân chỉ chiếm 22.7% tổng công suất (8,753MW), còn lại là các DN nhà nước
thuộc Tập đoàn dầu khí (11.5%) và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt
Nam. Lĩnh vực sản xuất điện năng với đặc trưng là có nhu cầu vốn đầu tư lớn, đòi
hỏi trình độ quản lý và công nghệ phức tạp chưa tạo được sức hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư và thu hút được các nguồn vốn cần thiết để phát triển.
Bốn là, các nguồn NLTT có tỉ trọng thấp và chưa phát triển đúng tiềm năng
Mặc dù đã có một số dự án điện gió đã đi vào vận hành như điện gió Bạc
Liêu, điện gió Tuy Phong (Bình Thuận), hầu hết các nguồn điện sạch đều đang chưa
được khai thác đúng tiềm năng. Trong những năm qua, đóng góp vào tăng trưởng của
nguồn điện sạch chủ yếu do có sự gia tăng mạnh mẽ của thủy điện nhỏ (có công suất
dưới 30MW). Công suất của thủy điện nhỏ đã tăng lên khoảng 1,800 MW vào năm
2015 so với 400MW năm 2009. Tỉ lệ lắp đặt của các nguồn điện từ NLTT (không bao
gồm thủy điện nhỏ) đóng góp cho hệ thống điện và TTĐ hiện chỉ ở mức dưới 1%. Để đạt
được mục tiêu như đã đặt ra trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia - tương đương
mức 21% (bao gồm thủy điện nhỏ) công suất lắp đặt của toàn hệ thống năm 2030, sẽ cần
đến rất nhiều nỗ lực của các bên liên quan và các chính sách hỗ trợ cần thiết.
Năm là, vận hành thị trường phát điện cạnh tranh còn bộc lộ một số hạn chế
Quá trình vận hành TTĐ cấp độ thị trường phát điện cạnh tranh đã bộc lộ
một số hạn chế. Trước hết, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ vận
hành TTĐ còn chưa hoàn thiện hoặc chậm ban hành như quy định về việc cung cấp
107
dịch vụ phụ trợ của thị trường, quy định đối với các nhà máy thủy điện đa mục tiêu.
Bên cạnh đó, công tác lập kế hoạch có sự chồng chéo, vẫn tồn tại việc thực hiện song
song 02 quy trình lập kế hoạch vận hành hệ thống điện riêng rẽ với lập kế hoạch vận
hành TTĐ. Ngoài ra, tính minh bạch của thị trường chưa được đảm bảo, trong đó Đơn
vị vận hành hệ thống điện và TTĐ chưa thực sự hoạt động độc lập với EVN.
Dưới đây là bảng tổng hợp đánh giá chung của NCS về TTĐ tại Việt Nam
Bảng 3.4: Tổng hợp đánh giá về thị trường điện lực tại Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2017
TT Tiêu chí Chỉ tiêu Đánh giá
1 Tăng trưởng
quy mô TTĐ
1.1. Tăng trưởng nhu
cầu điện
11.96%/năm, 176.49
GWh (2017)
[24]
Tốc độ tăng trưởng
cao, đôi khi vượt khả
năng đáp ứng của phía
cung, tốc độ tăng
trưởng cao gấp hai lần
tăng trưởng GDP, hệ
số đàn hồi điện còn
cao.
1.2. Tăng trưởng sản
xuất điện toàn hệ
thống
Tăng trưởng sản xuất
điện trên 10%/năm,
công suất lắp đặt đạt
41,424 MW (2016)
[38].
Tốc độ tăng trưởng
cao, tuy nhiên ngày
càng phụ thuộc vào
nhập khẩu than do
lượng nhà máy nhiệt
điện than gia tăng
1.3. Tăng trưởng quy
mô thị trường phát
điện
49% công suất
nguồn của hệ thống
tham gia thị trường
phát điện, đạt 20,728
MW [24]
Tăng 2.45 lần so với
năm 2012. Năng lực
của các bên tham gia
đã có sự cải thiện tích
cực trong cách thức,
chiến lược chào giá,
nâng cao khả năng
cạnh tranh góp phần
dẫn đến giá TTĐ có xu
hướng giảm. Các thành
viên tham gia TTĐ có
sự đa dạng về công
108
TT Tiêu chí Chỉ tiêu Đánh giá
nghệ sản xuất
1.4. Tăng trưởng
quy mô thị trường
bán buôn điện cạnh
tranh
Không có số liệu
do đang vận hành
thí điểm
2 Thu hút đầu
tư từ các
nguồn lực
mới vào
TTĐ
2.1. Tăng trưởng
đầu tư vào hệ thống
lưới điện truyền tải
và lưới điện phân
phối
Giá trị khối lượng
đầu tư toàn đạt
134,858 tỷ đồng
(2016), vượt kế
hoạch [24].
Tốc độ tăng trưởng
đầu tư vào hạ tầng
lưới điện được đảm
bảo
2.2. Sự tham gia của
các nhà sản xuất
điện độc lập, các
nhà sản xuất ngoài
EVN
Khu vực tư nhân
chỉ chiếm 22.7%
tổng công suất
(8,753MW) [26].
Tăng trưởng vốn
đầu tư của các nhà
sản xuất ngoài
EVN, các nhà sản
xuất điện độc lập,
các nhà máy điện
BOT: chưa có số
liệu
Thị phần phát điện
vẫn chủ yếu do các
công ty Nhà nước
hoặc có liên quan sở
hữu của Nhà nước
kiểm soát (EVN,
PVN và Vinacomin
chiếm xấp xỉ 80%)
3 Cải thiện cơ
chế cạnh
tranh và tự
do hóa
3.1. Thực hiện đúng
lộ trình xây dựng
các cấp độ TTĐ
Việc thực hiện lộ
trình xây dựng các
cấp độ TTĐ được
bảo đảm
Lộ trình xây dựng
các cấp độ TTĐ
được thực hiện đúng
tiến độ, đã tự do hóa
khâu phát điện, đang
thí điểm tự do hóa
khâu bán buôn điện.
3.2. Rào cản gia
nhập TTĐ
Các rào cản gia
nhập thị trường
từng bước được gỡ
Các DN tư nhân
được khuyến khích
đầu tư nguồn điện.
109
TT Tiêu chí Chỉ tiêu Đánh giá
bỏ; cho phép nhiều
đơn vị được mua
buôn trên TTĐ
Tuy nhiên, với thị
trường bán buôn, chỉ
các đơn vị thuộc
EVN được mua buôn
điện trên TTĐ. Chưa
có giao dịch mua
điện trực tiếp giữa
khách hàng lớn và
đơn vị sản xuất điện.
3.3. Tính minh bạch
của thị trường
Lượng thông tin
được công khai
nhiều hơn, chế độ
báo cáo minh bạch
hơn
Nhiều thông tin được
công khai trên
website của đơn vị
vận hành TTĐ và
điều độ hệ thống
điện.
4 Xanh hóa
TTĐ theo
hướng
khuyến khích
phát triển
NLTT
4.1. Công suất điện
NLTT được huy
động và giao dịch
trên TTĐ
Còn rất thấp, dưới
1% công suất phát
điện toàn hệ thống
[38].
Tăng trưởng công
suất chưa đáng kể và
chưa có điện thương
phẩm từ NLTT tham
gia giao dịch trên thị
trường
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế cần khắc phục
Những hạn chế nêu trên của TTĐ bắt nguồn từ những nguyên nhân sau đây:
Một là, Việt Nam tiến hành cải cách ngành điện theo hướng tự do hóa và
cải thiện cơ chế cạnh tranh của TTĐ khi cân bằng cung cầu điện năng chưa
được đảm bảo
Lộ trình cải cách và tự do hóa TTĐ bắt đầu vào năm 2006, trong bối cảnh là
nền kinh tế đang phát triển có cơ cấu kinh tế thâm dụng nhiều nguồn lực như vốn, lao
động, tài nguyên trong đó có tài nguyên năng lượng. Đây cũng là giai đoạn chuyển
dịch, đưa Việt Nam từ nước có mức thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp lên
110
mức trung bình thấp. Trong khi đó, nhu cầu điện năng luôn tăng trưởng cao và hầu
như vượt qua khả năng đáp ứng của nguồn cung, khiến cho dự phòng công suất phát
điện của hệ thống ở mức thấp, làm suy giảm độ tin cậy cung cấp điện và chất lượng
dịch vụ điện năng. Đây là điểm khác biệt cơ bản của Việt Nam khi so sánh với bối
cảnh và điều kiện tại nhiều quốc gia khác khi họ bắt tay vào cải cách ngành điện và
cải thiện cơ chế cạnh tranh của TTĐ. Hầu hết các nước chuyển đổi thành công đều có
công suất dự phòng cao với cơ cấu nguồn điện đa dạng, hoặc có liên kết lưới điện để
hỗ trợ tốt hơn cho xuất - nhập khẩu điện khi cần thiết. Đây là các phương án dự
phòng rất hữu hiệu, bảo đảm được an ninh năng lượng trung và dài hạn, cũng là hình
thức góp phần bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia khi hệ thống điện đứng trước những cú
sốc bên ngoài (giá năng lượng, khan hiếm nguồn cung) hoặc các vấn đề nội tại của
ngành công nghiệp điện lực. Do đó, trong các giai đoạn chuyển đổi hoặc nâng cấp mô
hình cạnh tranh, Nhà nước có đầy đủ nền tảng kinh tế - kỹ thuật và công cụ để bình
ổn hoặc thậm chí can thiệp trở lại để hỗ trợ TTĐ tránh khỏi nguy cơ đình trệ giao
dịch, đổ vỡ hoặc gây các thiệt hại nghiêm trọng như tại một số bang của Hoa Kỳ giai
đoạn đầu những năm 2000. Giai đoạn vừa qua và dự báo cho đến 2030, chúng ta vẫn
chưa hoàn toàn đáp ứng được các điều kiện đã nêu về dự phòng công suất phát điện,
liên kết lưới điện quốc tế hoặc xuất nhập khẩu để đảm bảo cung cấp điện an toàn, tin
cậy trong một số trường hợp có sự cố kỹ thuật hoặc các cú sốc bên ngoài như giá điện
tăng cao, thiếu hụt nguồn cung năng lượng sơ cấp… Do đó, ngoài việc tiếp tục thực
hiện lộ trình xây dựng và cải thiện cơ chế cạnh tranh của TTĐ, cần có các giải pháp
ứng phó với sự cố, rủi ro với TTĐ. Đây có thể là các biện pháp bình ổn hoặc can
thiệp, điển hình là tạm dừng tự do hóa và thiết lập hoặc khôi phục lại lại cơ chế điều
tiết của Nhà nước với các khu vực thiết yếu của TTĐ, trong đó bao gồm cả khu vực
sản xuất điện và bán buôn điện.
Hai là, cơ chế quản lý giá điện chưa hợp lý
Giá bán lẻ điện bình quân của Việt Nam hiện nay là 1,720.65 đồng/kWh,
tương đương với 7.56 US cent/kWh [5]. Giá điện của Việt Nam thấp hơn đáng kể nếu
so với Trung Quốc (10.04 UScent/kWh), Thái Lan (11.81 UScent/kWh), chỉ cao hơn
Indonesia (6.72 UScent/kWh) là quốc gia còn duy trì cơ chế bao cấp giá năng lượng.
111
Hình 3.15: Giá điện một số nước trong khu vực châu Á (2015-2017)
Nguồn: Tổng hợp từ [5, 56]
Giá điện thấp là nguyên nhân cơ bản khiến tăng trưởng nhu cầu điện ở mức
cao, không khuyến khích các hoạt động sử dụng điện năng tiết kiệm và hiệu quả.
Xét tổng thể trên quy mô của nền kinh tế, giá điện thấp là yếu tố quan trọng thúc
đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng, tiêu thụ nhiều điện năng nói
riêng và năng lượng nói chung như luyện kim và thép, sản xuất clinker và xi
măng, sản xuất giấy và bột giấy… Cơ cấu của các ngành công nghiệp nặng
chiếm ưu thế và chi phối xu hướng tăng trưởng. Một số quy hoạch ngành mới
được phê duyệt gần đây như Quy hoạch phát triển ngành thép, Quy hoạch phát
triển công nghiệp xi măng đều có định hướng mở rộng sản xuất về quy mô. Việc
mở rộng sản xuất các ngành này nhìn chung sẽ tiếp tục làm gia tăng nhu cầu điện
cho công nghiệp nặng và định hình một cơ cấu tiêu thụ không bền vững, gây áp
lực rất lớn lên đầu tư phát triển nguồn điện, vốn là khu vực kém hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư ngoài quốc doanh.
Với cơ chế giá điện thấp, khách hàng có ít động lực trong việc sử dụng điện
năng tiết kiệm và hiệu quả. Đánh giá của Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho thấy, giá
điện thấp là một trong những nguyên nhân chính xây dựng hàng loạt các nhà máy
công nghiệp sản xuất thép, xi măng,.. vượt cả mức chỉ tiêu kế hoạch ngành, gây khó
khăn thêm trong cung cấp điện và hưởng lợi từ chính sách giá điện. Ngoài ra, việc
chậm ban hành các quy định, hướng dẫn về định mức tiêu hao năng lượng, danh
112
mục và lộ trình phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ dẫn tới thiếu
các rào cản kỹ thuật để ngăn chặn, công nghệ, thiết bị lạc hậu tiêu tốn năng lượng
được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu vào Việt Nam. Thực tế ở Việt Nam vẫn
còn nhiều DN sử dụng dây chuyền, công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng,
điển hình là các nhà máy xi măng, nhà máy thép, vv…
Ba là, còn tồn tại nhiều khó khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào sản
xuất - cung ứng điện
Một trong những nguyên nhân lớn nhất đối với việc sản xuất và cung ứng
điện chưa đảm bảo ổn định là do các DN tham gia thị trường phát điện hiện gặp
nhiều khó khăn về năng lực quản lý, triển khai đầu tư, ngoại trừ một số DN lâu năm
trên thị trường do EVN sở hữu.
Các chủ đầu tư của các dự án sản xuất điện thường gặp vấn đề đối với huy
động và quản lý vốn, khó khăn trong tìm kiếm và xây dựng nguồn nhân lực có kinh
nghiệm và trình độ cao để đáp ứng yêu cầu và khối lượng công việc rất lớn của các
dự án đầu tư nguồn điện. Trong giai đoạn 2011-2015, EVN và các nhà đầu tư khác
đều gặp khó khăn lớn trong huy động các nguồn vốn, kể cả vốn trong nước và vốn
nước ngoài. Các thủ tục vay vốn đều kéo dài vì bản thân các ngân hàng cũng thiếu
vốn. Đối với các dự án vay vốn nước ngoài, kể cả vốn ODA, thủ tục còn phức tạp,
kéo dài hơn. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ
đến huy động nguồn vốn cho các dự án điện.
Một nguyên nhân nữa là các dự án đầu tư sản xuất điện gặp tình trạng đầu tư
dàn trải, chưa ưu tiên đúng mức những dự án trọng tâm dẫn đến các yếu tố bất lợi
trong quản lý triển khai các dự án kể cả phía chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các đơn
vị tư vấn và nhà thầu thi công dẫn tới việc chậm tiến độ. Theo đánh giá, trong giai
đoạn sắp tới, chỉ có các dự án do EVN triển khai có thể đáp ứng tiến độ, các chủ
đầu tư nguồn điện khác, đặc biệt là các nguồn điện từ các dự án BOT hầu hết đều
chậm tiến độ. Theo thống kê hiện đang có 24 dự án nguồn điện lớn do các Tập
đoàn, Tổng Công ty nhà nước quản lý và 19 dự án BOT đang được triển khai.
Việc thu hút sự tham gia đầu tư vào thị trường phát điện kém hiệu quả còn
xuất phát từ những khó khăn, rào cản đang tồn tại đối với DN. Kết quả khảo sát do
113
NCS thực hiện trong khuôn khổ luận án cho thấy có sự khác biệt giữa các DN trong
nhận thức về các rào cản và khó khăn đối với hoạt động và sự tham gia của họ trong
thị trường. Khác biệt này có liên quan tới nguồn gốc và thành phần kinh tế của DN,
phân khúc thị trường sản xuất điện mà họ tham gia, năng lực, trình độ và kinh
nghiệm tham gia thị trường.
Các DN đầu tư trong lĩnh vực sản xuất điện còn gặp phải những rào cản, khó
khăn như sau trong quá trình triển khai kinh doanh, đầu tư và gia nhập thị trường:
• Thu xếp nguồn nhiên liệu/nguyên liệu cho vận hành nhà máy điện: rào cản
này đặc biệt rõ ràng đối với các DN sản xuất nhiệt điện than, và nhiệt điện trấu
trong khi phần lớn các DN đầu tư vào điện gió hay điện mặt trời bày tỏ rằng họ
có nhiều thuận lợi khi thu xếp nguồn nhiên liệu/nguyên liệu cho vận hành nhà
máy điện;
• Các thủ tục đầu tư, cấp phép (VD: Giấy chứng nhận đầu tư, Bổ sung dự án
vào quy hoạch điện, Lập Dự án đầu tư, Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Giấy
phép xây dựng, Giấy phép hoạt động điện lực ...): đây là rào cản lớn đối với hầu hết
các DN trong ngành, không phân biệt là DN tư nhân, DN nhà nước, DN nước ngoài
hay DN thuộc hoặc có liên kết với EVN;
• Quá trình hoàn tất thi công, hòa lưới và quản lý vận hành: có sự phân hóa rõ
rệt về cảm nhận của các DN đối với rào cản này. Các DN đã tham gia đầu tư và vận
hành tại thị trường điện Việt Nam không coi đây là rào cản trong khi các DN mới
tham gia hoặc ngoài khối DN có liên kết với EVN đều bày tỏ đây là rào cản đáng kể
với hoạt động của họ.
• Tiếp cận và huy động vốn đầu tư cho phát triển dự án: ngoại trừ một số DN
tư nhân hoặc nước ngoài có tiềm lực, huy động vốn cho đầu tư phát triển dự án là
rào cản đáng kể với hầu hết các DN tham gia khảo sát. Ngay cả các DN được xem
là có quy mô lớn, có kinh nghiệm và năng lực tham gia thị trường nhiều năm cũng
nhận định rào cản đáng kể đối với họ là tiếp cận và huy động vốn phát triển dự án.
• Thực hiện đàm phán và ký kết thỏa thuận mua bán điện/ HĐMBĐ: ngoại trừ
hai DN trong khối có liên kết hoặc trực thuộc EVN, đa số DN tham gia khảo sát đều
đánh giá việc thực hiện đàm phán và ký kết HĐMBĐ là một rào cản lớn. Các DN,
114
đặc biệt là khối DN tư nhân gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng và duy trì đội
ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý vận hành nhà máy điện có trình độ và năng lực đáp
ứng yêu cầu. Với tốc độ tăng trưởng cao của chuỗi sản xuất và cung ứng điện trong
giai đoạn tới, xây dựng và duy trì đội ngũ nhân lực kỹ thuật đạt tiêu chuẩn được dự
báo sẽ vẫn là khó khăn lớn đối với các DN đầu tư vào lĩnh vực sản xuất điện;
Phần lớn các DN đều nhận định môi trường kinh doanh trong lĩnh vực phát
điện là chưa thuận lợi, chưa đảm bảo được sự minh bạch trong các công đoạn và
thủ tục đầu tư, cấp phép. Chỉ có một số ít DN cho rằng Quy trình, thủ tục thực
hiện các giao dịch trên thị trường điện là thuận lợi đối với DN (2/19 DN tham
gia). Có tới 18/20 ý kiến trả lời nhận định rằng chính sách hiện hành để quản lý -
điều tiết vận hành TTĐ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của TTĐ.
Khảo sát cũng cho thấy, các DN thuộc nhóm EVN – EVN GENCO chỉ gặp
khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Khối các DN này cũng cho thấy có kinh
nghiệm và năng lực tốt trong việc thực hiện các thủ tục liên quan đến hòa lưới,
quản lý vận hành, xây dựng nguồn nhân lực hay đàm phán và thực hiện các thỏa
thuận mua bán điện. Ngược lại, đây lại là những thách thức, khó khăn đối với
các DN thuộc khối tư nhân. Trong số các DN tư nhân tham gia đầu tư vào thị
trường sản xuất điện, các DN nước ngoài tỏ ra có năng lực tốt trong khả năng tài
chính, huy động vốn và quản lý dự án. Các DN tư nhân trong nước qua khảo sát
cho thấy họ vẫn gặp nhiều khó khăn để nâng cao năng lực và kinh nghiệm đối
với những vấn đề trên.
Đối với các nguồn điện NLTT, Việt Nam có nhiều lợi thế để khai thác tốt các
nguồn điện từ gió, mặt trời, đặc biệt là tại các khu vực Nam Trung Bộ và ven biển
phía Nam. Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng NLTT chưa phát
triển đúng tiềm năng như sau:
- Năng lực của các nhà phát triển dự án còn hạn chế: trong lĩnh vực điện gió,
ngoại trừ các công ty, tập đoàn lớn có kinh nghiệm trong việc phát triển thành
công các dự án phát điện bằng năng lượng gió hoặc NLTT trên thế giới hoặc tại
Việt Nam, hầu hết các nhà phát triển điện gió tại Việt Nam đều thiếu kinh
nghiệm trong mọi giai đoạn của dự án, từ việc lập dự án, lựa chọn nhà thầu, quản
lý thi công, vận hành.
115
- Hạn chế về năng lực kỹ thuật và khả năng quản lý của nhà phát triển dự án:
Ngoại trừ một số ít nhà phát triển dự án nước ngoài, năng lực kỹ thuật trong lĩnh
vực điện gió của các nhà phát triển dự án là tương đối hạn chế. Để giải quyết bài
toán này, một số nhà đầu tư đã có chương trình đào tạo và nâng cao năng lực đội
ngũ từng bước thông qua các buổi hội thảo và các khóa đào tạo ngắn/dài hạn. Một
số khóa đào tạo chi tiết được lồng ghép trong các hợp đồng xây dựng, cung cấp thiết
bị, v.v… của các nhà thầu. Tuy nhiên hiệu quả về dài hạn của các giải pháp này là
không rõ ràng và thiếu tính toàn diện.
- Các nhà đầu tư cũng gặp khó khăn trong việc huy động vốn cũng như sắp
xếp các khoản vay với ngân hàng. Các khảo sát cho thấy các nhà đầu tư, nhà phát
triển dự án gặp khó khăn trong việc chuẩn bị hồ sơ, giải thích và trình bày dòng tiền
của dự án để huy động vốn.
- Cơ chế giá mua đối với điện NLTT chưa phù hợp: đây đang là mối bận tâm
lớn nhất của các nhà đầu tư điện tái tạo nhỏ. Kể từ khi ban hành biểu giá điện hỗ trợ
cho dự án điện gió (6/2011) đến nay hầu như chưa cho dự án đầu tư thêm ngoài 2 dự án
hiện có. Các dự án hiện đã đi vào vận hành đều được thực hiện nhờ có các cơ chế đặc
thù, giao dịch và bán được điện vào lưới quốc gia với giá cao hơn giá mua 7,5
UScent/kWh do Chính phủ quy định. Đây là tín hiệu cho thấy các cơ chế giá hiện nay
chưa thể hiện hiệu lực thi hành trong thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực điện NLTT.
Bốn là, chính sách và cơ chế quản lý - điều tiết TTĐ chưa đảm bảo đầy đủ
hiệu lực
Cục ĐTĐL với vai trò là Cơ quan điều triết trung ương nhưng chỉ có một số
quyền hạn nhất định trong phạm vi hẹp. Điều này khiến cho hiệu lực thực thi các
quy định, chính sách quản lý - điều tiết TTĐ gặp khó khăn, ít có hiệu lực. Hiện nay,
CĐTĐL không có quyền hạn trực tiếp hoặc không có thẩm quyền đầy đủ đối với
biểu giá bán lẻ điện và ban hành các loại giá và phí trong hoạt động điện lực. Như
vậy, CĐTĐL hiện chỉ có thẩm quyền quyết định về việc quản lý nhà nước và ban
hành các quy định mang tính chuyên môn, quy chuẩn, kỹ thuật về vận hành, quản lý
TTĐ và các lĩnh vực liên quan như quản lý cung, cầu, theo dõi thực hiện các
HĐMBĐ song phương.
116
Bảng 3.5. Thẩm quyền thực hiện các chức năng quản lý – điều tiết chủ
yếu đối với thị trường điện lực
STT Các chức năng quản lý - điều tiết chủ
yếu đối với Thị trường điện
Thẩm quyền phê duyệt, ban hành
Thủ tướng
Chính phủ
Bộ Công
Thương Cục ĐTĐL
1 Quy định phương pháp lập, trình tự, thủ
tục ban hành giá bán lẻ điện
X
2 Biểu giá bán lẻ điện X
3 Quy định các hành vi vi phạm và hình
thức xử lý các hành vi vi phạm quy định
của pháp luật về hoạt động điện lực.
X
4 Đề án thiết kế TTĐ các cấp độ X
5 Các quy định về hoạt động của TTĐ X
6 Các quy định về phương pháp lập, trình tự,
thủ tục thẩm định và ban hành các loại giá
và phí trong hoạt động điện lực
X
7 Quy định về kiểm tra hoạt động điện lực
và sử dụng điện, giải quyết tranh chấp
HĐMBĐ
X
8 Thực hiện các nhiệm vụ về điều tiết hoạt
động điện lực và TTĐ
X
9 Ban hành theo thẩm quyền các văn bản
hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về
điều tiết điện lực; các văn bản cá biệt;
văn bản quy phạm nội bộ theo quy định
của pháp luật
X
Về mặt ngân sách hoạt động: chức năng cơ bản của Cục ĐTĐL trong triển
khai các hoạt động điều tiết điện lực, hiện chưa được thu phí theo các quy định hiện
hành. Mặt khác, khi CĐTĐL chưa thực hiện việc tổ chức lại thành cơ quan độc lập
hơn, tách khỏi BCT thì việc bảo đảm nguồn thu trong hoạt động điều tiết là khó thực
hiện. Điều này dẫn đến việc hạn chế cơ quan điều tiết hoạt động điện lực có vị trí, vai
trò độc lập hơn khi TTĐ phát triển đầy đủ hơn. Điều này cũng ảnh hướng đến việc tổ
chức thực hiện nhiệm vụ điều tiết hoạt động điện lực nhằm cung cấp điện an toàn, ổn
định, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và đảm bảo công bằng, minh bạch.
117
Kết luận Chương 3
Trong phạm vi chương 3, luận án đã đề cập một số vấn đề như sau:
Nội dung chính của chương là đánh giá thực trạng phát triển TTĐ tại Việt
Nam dựa trên các nội dung và tiêu chí đã được hệ thống hóa và hoàn thiện tại
chương 2. Chương này đã cung cấp thông tin tổng quát về quá trình hình thành và
phát triển của ngành điện tại Việt Nam cũng như những số liệu, thông tin cập nhật
góp phần phục vụ cho việc đánh giá đảm bảo toàn diện, khách quan và khoa học.
Các nội dung đánh giá được cấu trúc dựa trên các nội dung phát triển TTĐ,
bao gồm đánh giá diễn biến nhu cầu điện năng giai đoạn 2005 – 2017, hoạt động
sản xuất điện năng giai đoạn 2005 - 2017, hạ tầng truyền tải và phân phối điện, cơ
chế cạnh tranh trên TTĐ, cơ chế giá điện và CSHT& NT phục vụ giao dịch TTĐ.
Các kết quả đánh giá được chỉ ra trên khía cạnh những kết quả đạt được, những hạn
chế cần khắc phục và những nguyên nhân của hạn chế cần khắc phục. Những hạn
chế được nhận dạng là: tăng trưởng nhu cầu điện chưa bền vững; sản xuất và cung
ứng điện chưa đảm bảo ổn định và có dự phòng hợp lý; sự tham gia của các doanh
nghiệp vào thị trường phát điện còn hạn chế; các nguồn năng lượng tái tạo có tỉ
trọng thấp và chưa phát triển đúng tiềm năng; và vận hành Thị trường phát điện
cạnh tranh còn bộc lộ một số hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế được chỉ ra là: Dự phòng công suất phát
điện của hệ thống điện Việt Nam ở mức thấp, có nguy cơ làm suy giảm độ tin cậy
cung cấp điện và chất lượng dịch vụ điện năng; cơ chế quản lý giá điện chưa hợp lý;
còn tồn tại nhiều khó khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào sản xuất – cung ứng
điện; chính sách và cơ chế quản lý – điều tiết TTĐ chưa đảm bảo đầy đủ hiệu lực.
118
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
ĐIỆN LỰC TẠI VIỆT NAM
4.1.TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
4.1.1. Kịch bản tăng trưởng kinh tế
Điện năng được sử dụng để phục vụ sản xuất và đời sống của con người như
một trong những đầu vào quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội (KTXH). Như vậy
tiêu thụ điện năng và phát triển TTĐ luôn gắn liền với phát triển kinh tế xã hội. Khi
xem xét và đánh giá triển vọng phát triển TTĐ Việt Nam, cần thiết phải đặt trong
bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội theo các kịch bản, phương án đã được công bố
và có độ tin cậy cao, bao gồm các dự báo về tăng trưởng và quy mô dân số - yếu tố
có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển và quy mô TTĐ trong tương lai.
Các kịch bản phát triển kinh tế xã hội do nhóm chuyên gia kinh tế Bộ Kế
hoạch và Đầu tư dự báo giai đoạn đến 2030 bao gồm: kịch bản cơ sở, kịch bản cao
và kịch bản thấp [80].
Bảng 4.1: Dự báo tăng trưởng GDP toàn quốc
Kịch bản 2016-2025 2026-2035
Kịch bản Thấp (%) 6.5 6.0
Kịch bản Cơ sở (%) 7.0 7.0
Kịch bản Cao (%) 7.6 7.6
Nguồn: [27;37]
- Kịch bản thấp: dự báo tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ bình quân 6.5%/năm
trong giai đoạn 2016-2025; và đạt bình quân 6% trong giai đoạn 2026-2035. Thu
nhập bình quân đầu người đến năm 2035 sẽ đạt 10,500 USD gấp 8.3 lần năm 2010.
- Kịch bản cơ sở: dự báo tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ bình quân 7%/năm, thu
nhập bình quân đầu người đến năm 2035 đạt khoảng 12,000USD, gấp 9.5 lần năm 2010.
- Kịch bản cao: dự báo tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, bình quân 7.6%
cho cả giai đoạn 2016 - 2035.
Về tăng trưởng dân số, dự báo tăng trưởng dân số Việt Nam được đến năm 2030
dựa trên “Dự báo dân số Việt Nam đến năm 2030” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp
với Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2011, theo đó, tốc độ tăng dân số giai đoạn 2010 -
2020 được dự báo là 1.03%/năm và giai đoạn 2021 – 2030 là 0.71%/năm.
119
4.1.2. Một số xu hướng phát triển của thị trường điện lực Việt Nam
Nhìn chung, phát triển TTĐ tiếp tục có sự tương quan chặt chẽ với phát triển
kinh tế - xã hội cho đến giai đoạn 2030 - 2035, thời điểm trước khi Việt Nam trở
thành nước có thu nhập trung bình cao. Các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường có
mối quan hệ gắn liền với gia tăng tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là điện năng. Tăng
trưởng kinh tế càng nhanh đòi hỏi năng lượng sử dụng càng lớn. Ngược lại, khi tiêu
thụ năng lượng trong các thành phần kinh tế tăng lên cho thấy quy mô và tiềm lực của
nền kinh tế ngày càng phát triển, sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên, … làm cho giá
trị gia tăng của nền kinh tế tăng lên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, các chỉ
số phát triển xã hội và môi trường cũng có mối liên hệ nhất định tới nhu cầu năng
lượng. Sự nâng cao mức sống của người dân, sự phát triển dân số, lao động hay sự phát
thải KNK, … đều có sự liên quan đến tiêu thụ năng lượng [2].
Thứ nhất, nhu cầu điện khu vực thương mại, tiêu dùng - dân cư sẽ duy trì
mức tăng mạnh do tăng trưởng thu nhập hộ gia đình và đô thị hóa.
Trong giai đoạn tới, với kỳ vọng tăng trưởng GDP bình quân từ 6%/năm, dự
báo sẽ có thêm nhiều hộ gia đình được nâng cao thu nhập và tương ứng là gia tăng
chi tiêu cho nhu cầu điện năng. Một xu hướng chủ yếu nữa sẽ tác động đáng kể đến
nhu cầu điện khu vực tiêu dùng - dân cư là quá trình đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ.
Theo dự báo, đến thời điểm sau 2030, mức độ đô thị hóa ở các nước đang phát triển
sẽ đạt mức 60-65%, từ mức độ 30-35% vào giai đoạn 2015. Nhiều hộ gia đình có
mức thu nhập trung bình và nhiều người dân sinh sống tại các đô thị sẽ tạo ra sự
tăng trưởng lớn cho nhu cầu điện ở khu vực này. Sự tăng trưởng nhu cầu này có liên
hệ chặt chẽ với mục đích sử dụng điện để đáp ứng nhiều nhu cầu, tiện nghi bao gồm
các nhu cầu mới dành cho các dịch vụ tại gia đình như điều hòa không khí, các thiết bị
gia dụng hay nguồn điện năng gia tăng phục vụ cho các hoạt động sản xuất các sản
phẩm tiêu dùng. Theo xu hướng hiện đại, không chỉ có thu nhập cao hơn, các gia đình
trong tương lai cũng có xu hướng nhỏ hơn và ít thành viên hơn, đồng nghĩa với việc tạo
ra thêm nhiều nhu cầu điện năng để đáp ứng cho các gia đình này.
Trong khu vực thương mại - dịch vụ, với sự phát triển của các hoạt động bán
lẻ, dịch vụ y tế, giáo dục có chất lượng cao hơn khi thu nhập người dân tốt hơn, sẽ
là các khu vực tiêu thụ nhiều điện năng hơn. Khi sự thịnh vượng gia tăng cùng với
quá trình đô thị hoá, sẽ xuất hiện thêm nhiều các công trình, tòa nhà thương mại, và
120
tất cả các tòa nhà này sẽ yêu cầu năng lượng nói chung và điện năng nói riêng. Dự
báo của IEA cho thấy, nhu cầu năng lượng cho các hộ tiêu thụ thương mại dự kiến
sẽ tăng gấp đôi mức hiện nay tại các nước đang phát triển, trong đó tăng trưởng nhu
cầu điện năng là trên 150% [56].
Thứ hai, tăng trưởng nhu cầu điện lĩnh vực công nghiệp sẽ bền vững hơn nhờ
hiệu quả năng lượng được nâng cao trong các quá trình sản xuất và đổi mới công nghệ.
Xu hướng chung của các quá trình công nghiệp trong tương lai sẽ là sản xuất
nhiều hơn, năng suất cao hơn nhưng tiêu thụ ít tài nguyên hơn. Đây cũng sẽ là xu
hướng chủ đạo đối với tiêu thụ điện năng trong quá các trình công nghiệp, thể hiện
qua chỉ số cường độ năng lượng. Đây là chỉ số đo lường lượng năng lượng sử dụng
trên một đơn vị giá trị gia tăng trong nền kinh tế hoặc một lĩnh vực cụ thể.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp tiêu thụ nhiều điện
năng như ngành thép, Hiệp hội Thép Thế giới cho biết các hãng thép ngày nay có thể
sản xuất chỉ với 40% năng lượng tiêu thụ so với mức sản xuất của ngành này trong
những năm 1960 cho một tấn thép nguyên liệu. Theo báo cáo của Cơ quan năng lượng
quốc tế (IEA), cường độ năng lượng trong ngành xi măng sẽ giảm 0.5% mỗi năm
thông qua các giải pháp tối ưu hóa hoặc nâng cấp dây chuyền, quy trình sản xuất.
Thứ ba, TTĐ vận hành hiệu quả hơn với cơ chế cạnh tranh được cải thiện và
quá trình nới lỏng điều tiết của Nhà nước
Với lộ trình đã được ban hành và các nền tảng giao dịch được triển khai xây
dựng và hoàn thiện, giai đoạn sau 2020 đến 2030, Việt Nam sẽ cơ bản chuyển sang
cấp độ TTĐ cạnh tranh hoàn toàn, đồng nghĩa với việc tự do hóa ở khâu sản xuất,
bán buôn và bán lẻ điện. Cùng với sự tăng trưởng bền vững của nhu cầu và đáp ứng
của nguồn cung, sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và khâu sản xuất và cung
ứng điện, vận hành của TTĐ tự do sẽ có xu hướng tiệm cận mức độ hiệu quả, tại đó,
các tín hiệu thị trường mà cơ bản và quan trọng nhất là giá điện sẽ phản ánh đầy đủ cân
bằng cung cầu, chi phí sản xuất, cung ứng... Trong thị trường này, người tiêu dùng điện
sẽ có nhiều lựa chọn với dịch vụ điện năng được cung cấp với chất lượng cao hơn, tin
cậy hơn và minh bạch hơn. Sự vận hành hiệu quả hơn của TTĐ còn thể hiện ở khía
cạnh: sẽ có sự tham gia mạnh mẽ hơn và đa dạng hơn của các nhà đầu tư, nhà phát triển
sản xuất điện từ khu vực tư nhân và các DN ngoài EVN.
121
Dự báo trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 2016 - 2020 - 2030 cho
thấy thị phần thị trường sản xuất cung ứng điện của EVN sẽ có xu hướng giảm, từ
mức xấp xỉ 66% hiện nay xuống còn 49% năm 2020 và 30% năm 2030.
Thứ tư, gia tăng phát thải KNK do các hoạt động sản xuất và tiêu thụ điện
năng, đặc biệt là phát triển nhiệt điện than
Nhu cầu điện năng tại Việt Nam tiếp tục tăng trưởng song song với quá trình
gia tăng tỉ trọng của các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than, khí phục vụ cho sản
xuất điện sẽ làm tăng phát thải KNK – tác nhân của quá trình biến đổi khí hậu và
nóng lên toàn cầu. Theo dự báo, số lượng các nhà máy nhiệt điện than sẽ tăng lên
thành 52 nhà máy đạt 55GW công suất lắp đặt, chiếm 42,7% công suất của toàn bộ
nguồn cung điện năng cho thị trường.
Trong lĩnh vực năng lượng, kết quả kiểm kê KNK năm 2010 [57] cho thấy
hoạt động đốt nhiên liệu chiếm tới 88%, trong hoạt động đốt nhiêu liệu thì công
nghiệp năng lượng, mà chủ yếu là đốt than ở các nhà máy điện chiếm tới 27% (29
triệu tấn CO2tđ) và từ các hoạt động trong công nghiệp và xây dựng (29%) [19].
Theo ước tính phát thải KNK cho giai đoạn đến 2030 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, phát thải KNK của Việt Nam sẽ tăng lên mức 760 triệu tấn CO2tđ;
trong đó lĩnh vực năng lượng chiếm tỷ trọng lớn, tương ứng với 85% tổng phát thải
quốc gia [6]. Tuy nhiên, xu hướng chung của phát thải KNK tại Việt Nam dự kiến
sẽ có một số điểm tích cực. Cường độ phát thải KNK của Việt Nam giai đoạn từ 10
đến 15 năm tới sẽ đạt mức cao nhất và sau đó bắt đầu giảm dần. Dự báo này xuất
phát từ yếu tố đầu tư cho công nghệ phát thải thấp trên thế giới hiện nay và trong
tương lai gần. Trong công nghiệp, nhiều loại máy móc thiết bị sẽ chuyển đổi từ việc
sử dụng nhiên liệu than sang điện với năng suất cao hơn và ít phát thải hơn. Xu
hướng này được dự báo sẽ diễn ra trên diện rộng với nhiều loại hình công nghiệp,
đặc biệt là các lĩnh vực tiêu thụ nhiều năng lượng và công nghiệp nặng như sản xuất
sắt, thép, xi măng, nhôm và công nghệ chế tạo.
Thứ năm, nguồn điện NLTT sẽ có nhiều triển vọng và trở nên cạnh tranh hơn
so với nguồn điện truyền thống
Các nghiên cứu đã thực hiện cho thấy Việt Nam có tiềm năng NLTT đa
dạng, với các nguồn NLTT chính, có khả năng khai thác có hiệu quả là mặt trời, gió
122
và sinh khối, nhiên liệu sinh học, rác thải và địa nhiệt. Trong đó, khu vực phía Nam
được nhận định là có tiềm năng cao hơn với lợi thế về điều kiện khí hậu, đặc điểm
phát triển kinh tế xã hội.
Chiến lược phát triển NLTT Việt Nam (2015) đề ra mục tiêu đến năm 2030,
điện từ năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 25% điện năng sản xuất và cung ứng
cho toàn hệ thống. Các nhược điểm của điện NLTT như chi phí đầu tư ban đầu cao,
hệ số sử dụng thấp và độ ổn định cung cấp điện đang dần được khắc phục. Trong
những năm gần đây, giá thành sản xuất của một số công nghệ điện NLTT chủ yếu
như điện gió, điện mặt trời đã chứng kiến những mức giảm đáng kể nhờ sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật và quy mô đầu tư trên toàn cầu. Theo báo cáo của Cơ
quan Môi trường Liên Hiệp quốc (2016), chỉ riêng trong năm 2016, giá thành sản
xuất điện mặt trời và điện gió đã giảm lần lượt 17% và 18%.
Bên cạnh việc cung cấp một nguồn điện năng có tỉ trọng lớn cho thị trường,
gia tăng dự phòng công suất cho hệ thống, phát triển điện NLTT sẽ có triển vọng
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm và đặc biệt là giảm các tác động của
sản xuất điện năng tới môi trường như phát thải KNK, các chất ô nhiễm khác có
tiềm ẩn các nguy cơ ảnh hưởng tới hệ sinh thái và sức khỏe con người.
4.1.3. Phân tích, đánh giá triển vọng phát triển của thị trường điện lực
Việt Nam
4.1.3.1. Những điểm mạnh
Thứ nhất, hạ tầng cho phát triển TTĐ tại Việt Nam, đặc biệt là khâu sản xuất
và truyền tải điện trải qua quá trình đầu tư và hiện đại hóa liên tục trong các thập kỷ
qua đã cơ bản được xây dựng và vận hành tin cậy, ổn định. Đây là cơ sở và nền tảng
quan trọng, đóng vai trò như nền móng vững chắc của ngôi nhà để thực hiện các
định hướng và kế hoạch phát triển TTĐ.
Thứ hai, nguồn nhân lực ngành điện của Việt Nam trong những năm qua đã
được xây dựng năng lực và kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ và
quản lý ở tất cả các khâu sản xuất, truyền tải, quản lý vận hành các cơ sở hạ tầng
điện và vận hành TTĐ. Trong giai đoạn tới, đây sẽ là các nhân tố chủ chốt góp phần
thúc đây phát triển TTĐ tại Việt Nam.
123
Thứ ba, Việt Nam đã sớm vạch ra được lộ trình cải cách ngành điện và xây
dựng nền tảng giao dịch TTĐ qua các cấp độ Thị trường phát điện cạnh tranh, Thị
trường bán buôn điện cạnh tranh và TTĐ cạnh tranh bán lẻ, khởi đầu từ 2006 và dự
kiến đến 2022 sẽ vận hành chính thức. Cùng với lộ trình xây dựng nền tảng và cơ chế
giao dịch cho TTĐ, cấu trúc ngành điện cũng liên tục được điều chỉnh và đổi mới nhằm
đáp ứng các điều kiện của TTĐ hiện đại và vận hành theo thông lệ quốc tế. Các cải
cách đáng chú ý đối với ngành điện trong những năm gần đây phải kể đến là thành lập
cơ quan điều tiết trung ương, tái cơ cấu Tập đoàn điện lực Việt Nam trong đó dỡ bỏ
cấu trúc độc quyền tích hợp dọc từ khâu sản xuất đến phân phối bán lẻ. TTĐ đã vận
hành thí điểm ở cấp độ bán buôn cạnh tranh, cho phép nhiều đơn vị tham gia mua bán
điện, trong đó bao gồm các khách hàng sử dụng điện lớn được trực tiếp mua điện từ
các nhà sản xuất. Ngoài ra, cơ chế vận hành thị trường phát điện tạo cơ chế linh hoạt và
minh bạch hơn để hỗ trợ cho các hoạt động giao dịch, chào bán điện trên thị trường,
đảm bảo sự công bằng đối với các nhà đầu tư, sản xuất điện tham gia thị trường.
4.1.3.2. Những điểm yếu
Trước hết, nền tảng giao dịch và cơ chế vận hành TTĐ hiện mới ở giai đoạn
đầu của lộ trình cải cách. Sự cạnh tranh trên TTĐ mới chỉ được thực hiện một phần
khâu sản xuất điện, với 49% sản lượng điện năng lượng giao dịch trực tiếp trên thị
trường phát điện cạnh tranh tại Việt Nam. Trong số các DN tham gia giao dịch trên
thị trường phát điện cạnh tranh tại Việt Nam, thị phần của EVN và các DN Nhà
nước vẫn chiếm ưu thế lớn trong tổng công suất nguồn lắp đặt, thể hiện năng lực
sản xuất điện và cung ứng cho thị trường. Đối với thị trường bán buôn điện cạnh
tranh, cho đến tháng 9/2017, mới chỉ có các đơn vị thành viên của EVN là các Tổng
Công ty Điện lực lớn được mua điện. Theo thống kê, chưa có khách hàng nào có
giao dịch mua điện trực tiếp thành công với đơn vị sản xuất điện.
Thứ hai, cơ cấu tiêu thụ điện của Việt Nam chưa thực sự bền vững với thực
trạng các hộ tiêu thụ công nghiệp nặng chiếm tỉ lệ lớn, khiến cho nhu cầu tăng
trưởng liên tục ở mức cao. Trong bối cảnh các giải pháp sử dụng hiệu quả và tiết
kiệm năng lượng chưa phát huy được hết tiềm năng và đầu tư đổi mới công nghệ
trong khu vực công nghiệp còn hạn chế, các hộ tiêu thụ công nghiệp sẽ vẫn là nhân
tố chính ảnh hưởng tới tăng trưởng nhu cầu điện của Việt Nam. Đây sẽ là cơ cấu
tiêu thụ cần được cải thiện hoặc điều chỉnh để giảm áp lực đầu tư vào khâu sản xuất
124
và cung ứng điện, hạ tầng lưới điện, vốn là lĩnh vực thâm dụng lượng vốn rất lớn
lên tới hàng tỉ đô-la và quá trình đầu tư, xây dựng đòi hỏi quy hoạch và triển khai
thi công kéo dài qua nhiều năm.
Thứ ba, cơ chế công khai thông tin và minh bạch trong thu hút đầu tư vào
sản xuất điện chưa thực sự được đảm bảo. Để triển khai đầu tư vào các dự án điện,
các nhà đầu tư phải đáp ứng yêu cầu đầu tiên là dự án điện đề xuất phải có trong
Quy hoạch phát triển nguồn điện ở cấp quốc gia (Quy hoạch phát triển điện lực)
hoặc cấp địa phương (Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh/thành phố hoặc Quy hoạch
NLTT địa phương). Cơ chế hình thành, lựa chọn địa điểm và lên danh mục các dự
án kêu gọi đầu tư là chưa rõ ràng và căn cứ để hình thành các dự án trong danh mục
thuộc Quy hoạch phát triển nguồn điện thường không được thể hiện hoặc công khai
một cách đầy đủ. Đây không phải là thông lệ thường được áp dụng tại các thị
trường khác. Các nhà đầu tư có nhu cầu phát triển một dự án điện không thuộc danh
mục nêu trong Quy hoạch phát triển nguồn điện sẽ phải thực hiện thủ tục bổ sung
dự án vào Quy hoạch, bên cạnh các thủ tục đầu tư khác theo pháp luật hiện hành.
Thực tế cho thấy quy trình bổ sung dự án vào Quy hoạch là tương đối phức tạp và
kéo dài, qua nhiều khâu và thủ tục ở cấp địa phương và trung ương. Bên cạnh đó,
do sự minh bạch và công khai thông tin chưa được đảm bảo nên việc áp dụng các cơ
chế đấu thầu hoặc các cơ chế có tiềm năng giảm chi phí phát triển dự án có thể đã bị
bỏ qua hoặc được tiến hành không hoàn toàn tuân theo các quy định của Nhà nước
về đầu tư và hợp tác công tư trong phát triển nguồn điện.
Thứ tư, Việt Nam chưa xây dựng được nguồn nhân lực có năng lực và kinh
nghiệm trong phát triển và khai thác nguồn điện NLTT. Đánh giá của Tổ chức hợp
tác Phát triển Đức năm 2015 cho thấy hầu hết các bên liên quan đến quá trình phát
triển và vận hành các dự án điện NLTT tại Việt Nam đều cần xây dựng năng lực để
đáp ứng nhu cầu của thực tế. Đây là các năng lực đối với nhà quản lý và xây dựng
chính sách, nhà đầu tư trong quản lý và phát triển dự án, lực lượng kỹ sư và kỹ thuật
viên vận hành, bảo trì và bảo dưỡng các nhà máy điện NLTT.
4.1.3.3. Cơ hội phát triển
Trước hết, phát triển năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng luôn
nhận được sự quan tâm và ưu tiên của Đảng và Nhà nước ta. Chiến lược phát triển
năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 thể hiện
quan điểm: phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã
125
hội của đất nước và đảm bảo đi trước một bước; từng bước hình thành thị trường
năng lượng, đa dạng hóa sở hữu và phương thức kinh doanh hướng tới thỏa mãn tốt
nhất lợi ích người tiêu dùng [31];
Khung chính sách và pháp lý đối với sản xuất và cung ứng điện còn được thể
hiện một cách hệ thống, nhất quán ở Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 và
Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050,Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015.
Mặt khác, với các chính sách cải thiện môi trường đầu tư nói chung và ngành
điện nói riêng, đã có thêm nhà đầu tư quan tâm, tìm cơ hội đầu tư vào khâu sản xuất
điện tại Việt Nam, đặc biệt là các nguồn điện sạch, điện từ NLTT.
Nghị quyết số 11/NQ-TW, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa XII về Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã nêu rõ:
• Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế và;
• Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng
phát triển theo pháp luật.
Đây sẽ là nền tảng cơ bản về thể chế, tạo cơ hội cho các DN ở các thành
phần kinh tế cùng tham gia đầu tư, cạnh tranh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
trong đó có TTĐ tại Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam còn nhiều tiềm năng trong phát triển khâu sản xuất điện,
đặc biệt là các nguồn điện sạch và có thể tái tạo được bao gồm điện gió, điện mặt
trời và một số nguồn NLTT khác. Được đánh giá là quốc gia có tiềm năng NLTT
hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á cùng môi trường đầu tư đang có nhiều cải cách
và thuận lợi, khâu sản xuất điện NLTT hứa hẹn sẽ có nhiều dự án được phát triển
thành công với giá cạnh tranh trong thời gian tới để mang tới sự lựa chọn điện
năng với chi phí hợp lý và thân thiện hơn với môi trường.
Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế đồng thời năng lượng và
điện năng sẽ dần trở thành tài nguyên ngày càng khan hiếm, TTĐ Việt Nam sẽ đứng
126
trước cơ hội hội nhập với TTĐ khu vực, đặc biệt là các đối tác tiềm năng và có vị trí
địa lý thuận lợi để liên kết lưới điện vùng như Lào, Cam-pu-chia. Khi hạ tầng liên
kết lưới điện vùng được hình thành, sự liên kết vận hành thị trường giữa các nước
trong khu vực sẽ có cơ hội phát triển, đồng nghĩa với việc mở ra tiềm năng hội nhập
và thực hiện các giao dịch liên kết giữa TTĐ các nước, góp phần tối ưu hóa khả
năng cân đối cung – cầu cho bản thân TTĐ Việt Nam.
4.1.3.4. Những thách thức
Thứ nhất, ngành điện gặp nhiều thách thức trong việc đảm bảo an ninh cho
nguồn nhiên liệu phục vụ sản xuất điện. Trong quá khứ, thủy điện từng là công nghệ
chiếm ưu thế của hệ thống điện Việt Nam, thậm chí là có thị phần chiếm đa số của
khu vực sản xuất điện. Tuy nhiên gần đây khi nhu cầu điện tăng trưởng cao, tiềm
năng thủy điện đã được khai thác đạt ngưỡng thì xu thế chính trong thời gian tới sẽ
là sự chi phối của các nguồn nhiệt điện, trong đó nhiệt điện than chiếm tỉ trọng lớn
nhất. Đến 2020 thì lượng than nhập khẩu đã gấp 2.5 lần than trong nước có thể cung
ứng cho các nhà máy điện và tỉ lệ này thậm chí còn cao hơn rất nhiều, tới mức 85 triệu
tấn than nhập khẩu so với 20 triệu tấn than nội địa năm 2025. Như vậy kịch bản tương
đối rõ ràng là trong 15 năm tới, Việt Nam có thể sẽ phải nhập khẩu lượng than cao gấp
4 lần năng lực sản xuất trong nước, trong khi nước ta trước giai đoạn 2013-2014 về cơ
bản đều tự chủ đủ được nguồn than trong nước để cung cấp cho các nhà máy điện.
Thứ hai, khi nguồn nhiên liệu cung cấp cho các nhà máy điện có xu hướng
phụ thuộc vào nhập khẩu nhiều hơn, các biến động về giá năng lượng toàn cầu sẽ có
các tác động lớn, đồng thời hệ thống sản xuất và cung ứng điện trong nước sẽ trở
nên dễ bị tổn thương trước những cú sốc khi có biến động giá, nguồn cung nhiên
liệu quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần có các chiến lược tổng thể quốc gia
để tránh các thiệt hại nặng nề không chỉ về kinh tế mà còn trên khía cạnh an ninh
năng lượng trong bối cảnh nguồn cung nhiên liệu bị gia tăng sự phụ thuộc vào
nguồn nhập khẩu. Các chiến lược này không chỉ bao gồm các yếu tố kỹ thuật như
dự trữ nhiên liệu, chiến lược đàm phán và đảm bảo nguồn cung mà còn liên quan tới
quan hệ ngoại giao và bối cảnh địa chính trị quốc tế.
127
Thứ ba, thu hút vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực sản xuất và
hạ tầng điện đang đứng trước nhiều khó khăn. Trong giai đoạn 2011 – 2015, tổng nhu
cầu đầu tư cho các công trình điện là rất cao, xấp xỉ 6 tỉ USD/năm. Nhiều công trình hạ
tầng nguồn điện và lưới điện đã chậm tiến độ, trong đó việc thiếu vốn và chậm giải ngân
hoặc triển khai đầu tư đồng bộ là các nguyên nhân quan trọng. Trong giai đoạn đến năm
2030, nhu cầu này thậm chí còn cao hơn rất nhiều, khoảng 10 tỉ USD/năm. Trong những
năm gần đây, bản thân EVN và các đơn vị thành viên chỉ có thể huy động được xấp xỉ
3/4 nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho ngành điện. Như vậy, sẽ cần huy động nguồn vốn
rất lớn, từ 2 đến 5 tỉ USD/năm từ các khu vực tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài cho
phát triển sản xuất và hạ tầng lưới điện. Đây là con số tương đối thách thức xét đến thực
tế huy động vốn thời gian qua cho ngành điện như đã nêu ở trên.
4.1.4. Một số chỉ tiêu phát triển của thị trường điện lực Việt Nam
Chỉ tiêu nhu cầu điện là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tăng trưởng về quy mô
TTĐ Việt Nam. Chỉ tiêu này thể hiện quy mô tiêu thụ điện năng trong tương lai của
Việt Nam tại các ngành kinh tế và khu vực tiêu thụ chính. NCS kế thừa và sử dụng
kết quả nghiên cứu và dự báo của Viện Khoa học năng lượng về nhu cầu điện của
Việt Nam đến năm 2030 như sau:
Bảng 4.2: Kết quả dự báo nhu cầu điện đến năm 2030
Năm
Ngành công
nghiệp
(GWh)
Ngành nông
nghiệp
(GWh)
Thương
mại dịch
vụ (GWh)
Dân dụng
sinh hoạt
(GWh)
Giao
thông vận
tải (GWh)
Tổng nhu
cầu điện
(GWh)
2020 139.66 2.84 12.41 86.03 15.66 256.59
2025 216.74 3.63 18.85 118.85 22.79 380.86
2030 334.90 4.35 28.57 167.29 33.83 568.94
Nguồn: [2]
Đây là phương án phụ tải cơ sở được lựa chọn, dự báo theo tốc độ tăng
trưởng GDP phương án trung bình 7%/năm giai đoạn 2020-2030. Dự kiến tăng
trưởng tiêu thụ điện năng giai đoạn 2020-2030 là 9.69%/năm.
Về cơ cấu tiêu thụ điện, phân tích và dự báo cho thấy cầu trên TTĐ Việt Nam sẽ
có xu hướng tăng dần tỉ trọng điện tiêu thụ cho công nghiệp, dịch vụ thương mại.
128
Trong khi đó, tỉ trọng điện tiêu thụ trong dân dụng, sinh hoạt có khả năng cao sẽ thu
hẹp dần (Hình 25).
Hình 4.1: Cơ cấu tiêu thụ điện của thị trường điện lực Việt Nam
theo dự báo đến 2030
Nguồn: [2]
Với tốc độ tăng trưởng nhu cầu, đặc điểm cơ cấu tiêu thụ điện dự báo và giả
định tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2030 trung bình là 7%/năm, quan hệ giữa
tăng trưởng nhu cầu điện và tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua hệ số đàn hồi
tiêu thụ điện cho cả giai đoạn là 1.38, thấp hơn đáng kể so với mức 1.99 của giai
đoạn 2006 - 2015.
Nhìn chung hệ số đàn hồi tiêu thụ điện của Việt Nam được dự báo sẽ có xu
hướng giảm dần và đạt mức ổn định vào giai đoạn 2030 - 2035 khi thu nhập bình quân
đầu người của nước ta có thể đạt ngưỡng 4,000 USD (giá so sánh năm 2005). Diễn
biến này cũng theo xu hướng của một số nước lân cận ở các giai đoạn trước và có liên
quan mật thiết tới GDP bình quân đầu người. Tại thời điểm hệ số đàn hồi giảm về
ngưỡng xấp xỉ 1, thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan là 3,150 USD/người, và
của Malaysia là 5,600USD/người.
4.2. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG ĐIỆN LỰC GIAI ĐOẠN ĐẾN 2030
4.2.1.Quan điểm phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam
Căn cứ vào triển vọng phát triển TTĐ của Việt Nam trong bối cảnh trong
nước và quốc tế, đồng thời xem xét những xu hướng chủ đạo của ngành công
129
nghiệp điện lực và thị trường năng lượng quốc tế, quan điểm phát triển TTĐ Việt
Nam trong giai đoạn tới 2030 là:
• Phát triển TTĐ bền vững đáp ứng đủ nhu cầu điện cho các nhóm khách hàng,
trên cơ sở có công suất phát điện dự phòng hợp lý và bảo đảm an ninh năng lượng;
• Nhu cầu điện cần được quản lý và duy trì mức tăng trưởng bền vững để giảm
thiểu áp lực lên nguồn cung điện năng và đảm bảo cơ cấu tiêu thụ hợp lý góp phần
phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả, bền vững.
• Cân đối hài hòa giữa mục tiêu phát triển chuỗi sản xuất - cung ứng điện đáp
ứng nhu cầu thị trường và kiểm soát các tác động tới môi trường và các cam kết
quốc tế về giảm phát thải KNK.
• Đa dạng hóa nguồn cung điện năng cho thị trường, trong đó chú trọng phát
triển nguồn điện NLTT dựa trên tiềm năng thực tế của Việt Nam và xu hướng công
nghệ khai thác của thế giới
• Hạ tầng lưới điện cần được phát triển đồng bộ với nguồn điện để đảm bảo
vận hành an toàn, tin cậy, phục vụ tốt hơn cho vận hành thị trường điện.
• Giảm dần sự điều tiết của Nhà nước đối với giá điện để TTĐ vận hành theo
cơ chế thị trường, qua đó khuyến khích đầu tư phát triển ngành điện;
• Phát triển nền tảng và cơ chế giao dịch cho TTĐ cạnh tranh theo đúng lộ
trình nhằm đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện, phục vụ tối đa lợi
ích cho khách hàng tiêu thụ và sử dụng điện.
4.2.2. Mục tiêu phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam
4.2.2.1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển TTĐ bền vững đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội với
chất lượng và dịch vụ điện năng tốt hơn, tính minh bạch và cạnh tranh của thị trường
được đảm bảo, thúc đẩy quá trình sản xuất, cung ứng điện năng hiệu quả hơn, góp phần
đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát
triển kinh tế - xã hội bền vững;
4.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phát triển TTĐ cần đạt được các mục tiêu cụ thể như sau:
- Tiếp tục thực hiện lộ trình hình thành và phát triển các cấp độ TTĐ tại
Việt Nam;
130
- Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ điện trong nước với mức tăng trưởng GDP bình
quân dự báo đạt khoảng 7.0%/năm trong giai đoạn 2016 - 2030, trong đó tổng nhu cầu
dự kiến qua đến 2030 đạt khoảng 568.94 tỷ kWh [2].
- Về cơ cấu sản xuất điện năng trong nước đến năm 2030: Nhiệt điện chiếm
khoảng trên 70% cơ cấu điện năng của toàn quốc, trong đó nhiệt điện than có tỉ
trọng 52.67%. TTĐ sẽ ít phụ thuộc vào thủy điện khi tỉ trọng của điện năng sản xuất
từ nguồn này sẽ giảm từ 29.28% năm 2020 xuống còn 13.65% năm 2030. Trong khi
đó, nguồn điện sẽ chứng kiến sự gia tăng mạnh hơn của nguồn năng lượng tái tạo,
dự báo sẽ chiếm tỉ trọng 8.5% vào năm 2030, cao hơn mức 7.54% của điện hạt
nhân, chỉ thấp hơn nhiệt điện đốt khí (15.79%). Chi tiết kết quả tính toán cơ cấu
điện năng sản xuất giai đoạn 2020 - 2030 được thể hiện trong Hình 4.3.
Bảng 4.3: Kết quả tính toán cân bằng cung - cầu điện năng đến năm 2030
2020 2025 2030
Sản xuất điện (TWh) 256.59 380.86 568.94
Nhiệt điện 171.30 267.97 400.02
Đốt than 103.17 184.53 299.66
Đốt dầu 0.00 0.00 10.53
Đốt khí 68.12 83.45 89.84
Thuỷ điện 75.13 87.41 77.66
Hạt nhân 0 0 42.90
Năng lượng mới & tái tạo 10.16 25.52 48.36
Sản xuất điện (%) 100.00 100.00 100.00
Nhiệt điện 66.76 70.36 70.31
Đốt than 40.21 48.45 52.67
Đốt dầu 0.00 0.00 1.85
Đốt khí 26.55 21.91 15.79
Thuỷ điện 29.28 22.95 13.65
Hạt nhân 0 0 7.54
Năng lượng mới & tái tạo 3.96 6.70 .50
Nguồn: Tính toán của NCS sử dụng phần mềm Corrective mô-đun 1
- Xây dựng và phát triển hệ thống lưới điện vận hành linh hoạt, khả năng tự
động hóa cao từ khâu truyền tải đến khâu phân phối; thực hiện các giải pháp đồng
bộ để nâng cao năng suất và hiệu quả của ngành điện.
131
4.2.3. Phương hướng hoàn thiện khung chính sách và cơ chế quản lý -
điều tiết thị trường điện lực
Kinh nghiệm của một số nước đã thực hiện thành công thị trường ở cấp độ cao
cho thấy tự do hoá và thiết lập sự cạnh tranh trong kinh doanh điện đã mang lại lợi
ích lớn hơn cho khách hàng và đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong dài hạn,
chi phí sản xuất điện có xu hướng giảm hoặc duy trì ổn định ở cả khâu bán buôn và
bán lẻ. Điều này giúp tránh được các tổn thất kinh tế do việc tăng giá bán điện,
mang lại lợi ích cho các khách hàng và tạo môi trường cạnh tranh hiệu quả có lợi
cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên việc chuyển đổi một ngành kinh tế quan
trọng, là lĩnh vực hạ tầng thiết yếu cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững đòi hỏi
nhiều yếu tố và các nguyên tắc mang tính nền tảng để quá trình xây dựng và phát
triển TTĐ không đi chệch khỏi mục đích thiết lập cạnh tranh, gia tăng sự minh bạch
và mang lại nhiều lợi ích hơn cho người tiêu dùng.
Quá trình chuyển đổi đó yêu cầu nhiều điều kiện và cách thức triển khai trong đó
cơ chế quản lý và điều tiết TTĐ là nhân tố không thể thiếu, có ảnh hưởng lớn đến lộ
trình và đích đến của quá trình cải cách ngành điện và phát triển TTĐ. Theo đó, cần
xây dựng thể chế và cơ quan điều tiết thị trường độc lập có khả năng kiểm soát tốt các
thông tin về chi phí, chất lượng dịch vụ và hiệu quả vận hành của các DN lưới điện. Cơ
quan điều tiết có thẩm quyền điều tiết phí truyền tải/phân phối và các điều kiện, điều
khoản tiếp cận và sử dụng lưới điện cho các đơn vị sản xuất và mua bán điện.
Xét đến lịch sử phát triển, các đặc điểm của ngành điện, TTĐ Việt Nam, các
yêu cầu về hoàn thiện khung thể chế quản lý và điều tiết TTĐ trước hết phải đầy đủ
nội dung về hoàn thiện luật chơi - hay môi trường thể chế, và hoàn thiện cấu trúc
thể chế theo hướng hoàn thiện các chính sách, quy định của nhà nước đối với quản
lý ngành điện, tái cơ cấu ngành điện theo hướng đảm bảo an ninh năng lượng, phát
triển bền vững và phục vụ cho người tiêu dung. Bên cạnh đó, trong bối cảnh quá
trình tái cơ cấu ngành điện vẫn đang diễn ra theo lộ trình và TTĐ chưa phát triển
đến cấp độ cao nhất, yêu cầu đối với hoàn thiện khung thể chế quản lý và điều tiết
TTĐ ở nước ta cần đảm bảo các yếu tố sau đây:
- Quá trình hoàn thiện các chính sách, quy định của nhà nước đối với quản lý
ngành điện, tái cơ cấu ngành điện cần có đánh giá khách quan, trên cơ sở tôn trọng
và kế thừa các chính sách và quy định hiện có nhằm đẩy mạnh và tăng cường tính
khả thi, bền vững của môi trường thể chế;
132
- Việc hoàn thiện và kiện toàn hệ thống các cơ quan, tổ chức liên quan đến
xây dựng, thực thi chính sách năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng cần
tuân theo các định hướng chung của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính,
xây dựng Chính phủ kiến tạo và phục vụ. Cấu trúc thể chế phải được hoàn thiện
theo định hướng chung và không phá vỡ các cấu trúc hiện có.
Xây dựng TTĐ phải đi đôi với quá trình cải tổ ngành điện theo định hướng phi
điều tiết các khu vực phát điện và bán lẻ điện, duy trì điều tiết về chức năng và điều
tiết về kinh tế đối với khâu dịch vụ lưới điện để đảm bảo các đơn vị ngoài nhà nước
có điều kiện tiếp cận lưới điện như một hạ tầng dùng chung, hướng đến mục đích
phục vụ lợi ích tốt hơn cho người tiêu dùng.
Dưới đây sẽ đề xuất ba phương hướng dưới dạng các mô hình thể chế quản lý,
điều tiết TTĐ tại Việt Nam căn cứ trên các nguyên tắc, định hướng nêu trên và các
kinh nghiệm quốc tế đã được khảo sát, nghiên cứu:
Mô hình 1. Mô hình cơ quan điều tiết điện lực quốc gia được gia tăng
thẩm quyền
Trong mô hình này (sau đây gọi là Mô hình 1), đề xuất giữ nguyên cấu trúc thể
chế của bộ máy cơ quan quản lý, điều tiết TTĐ hiện tại, tuy nhiên, cơ quan điều tiết
trung ương được thiết kế theo hướng có gia tăng thẩm quyền, chủ động hơn trong
việc bảo đảm kinh phí hoạt động để bảo đảm có mức độ độc lập nhất định trong
công tác quản lý, điều tiết TTĐ.
Như vậy các đầu mối chính vẫn là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, BCT,
CĐTĐL giữ các vai trò quan trọng liên quan tới quản lý và điều tiết TTĐ. Đối với
đề xuất Mô hình 1, phần lớn các cơ quan, tổ chức vẫn duy trì các chức năng, nhiệm
vụ như hiện tại, được mô tả tóm lược như sau:
Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ thực hiện quyền chủ sở hữu vốn, tài
sản của nhà nước tại các DN điện lực của nhà nước; Ban hành các Nghị định, Quy
định, Quy chế để quản lý các hoạt động điện lực, phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành điện lực. Tuy nhiên, NCS đề xuất áp dụng cơ chế Chính phủ giao thẩm quyền
quyết định biểu giá điện bán lẻ và quyết định các chính sách về giá điện cho BCT,
thay vì trực tiếp quyết định như hiện này.
BCT thực hiện chức năng quản lý nhà nước, trong đó NCS đề xuất BCT thực
hiện các chức năng liên quan đến quản lý TTĐ bao gồm:
- Tổ chức lập, thẩm định quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
133
- Tổ chức nghiên cứu lập và ban hành biểu giá điện bán lẻ và các cơ chế, chính
sách về giá điện;
- Giao thẩm quyền Quyết định khung giá phát điện, bán buôn điện, giá truyền
tải - phân phối điện và phí các dịch vụ phụ cho CĐTĐL;
- Trực tiếp theo dõi, quản lý hoạt động của Cơ quan điều tiết trung ương
(CĐTĐL), các hoạt động điện lực và sử dụng điện;
CĐTĐL tiếp tục duy trì chức năng cơ bản là thực hiện vai trò của Nhà nước
điều tiết hoạt động để hạn chế độc quyền tự nhiên, không biến độc quyền nhà nước
thành độc quyền DN, tác động vào các hoạt động điện lực và TTĐ nhằm bảo đảm cung
cấp điện an toàn, ổn định, chất lượng, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và bảo đảm
tính công bằng, minh bạch, đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh các chức năng và
thẩm quyền như hiện tại, NCS đề xuất CĐTĐL có thêm các thẩm quyền sau:
- Có thẩm quyền Quyết định khung giá phát điện, bán buôn điện, giá truyền tải
- phân phối điện và phí các dịch vụ;
- Quy định về kiểm tra hoạt động điện lực và sử dụng điện, giải quyết tranh
chấp HĐMBĐ.
Ngoài ra cần thực hiện quy định cho phép CĐTĐL được thu phí điều tiết từ
các đơn vị tham gia thị trường để bảo đảm chức năng vận hành bình thường của cơ
quan điều tiết, mặt khác giảm gánh nặng về kinh phí hoạt động của cơ quan này đối
với ngân sách. Việc được chủ động thu phí điều tiết sẽ là cơ sở để CĐTĐL có kinh
phí hoạt động đảm bảo, có điều kiện nâng cao chất lượng nhân lực thông qua việc
đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ hiện có và có đủ kinh phí thuê ngoài các dịch
vụ kỹ thuật phức tạp liên quan đến giá, phí trong vận hành TTĐ.
Mô hình 1 có ưu điểm là không thay đổi quá nhiều cấu trúc hiện tại, không làm
xáo trộn tổ chức bộ máy quản lý và kế thừa được hệ thống đang vận hành. Tuy
nhiên, cơ quan điều tiết vẫn trực thuộc BCT và có thể bị ảnh hưởng bởi các quyết
định hành chính của BCT hoặc các quyết định chính trị khác đối với mọi mặt hoạt
động của CĐTĐL.
Mô hình 2. Mô hình cơ quan điều tiết điện lực quốc gia độc lập
Trong đề xuất mô hình này, NCS kiến nghị xây dựng một cơ quan điều tiết
điện lực cấp quốc gia độc lập, dựa trên việc tách CĐTĐL ra khỏi BCT và trở thành
một cơ quan chuyên trách, một đầu mối riêng thuộc Chính phủ. Đây là mô hình
134
được vận hành và mang lại hiệu quả cao tại nhiều nước như Na-uy, Australia. Theo
đó, thể chế này yêu cầu một cơ quan điều tiết trung ương có lực lượng cán bộ trình
độ cao với chuyên môn ở các lĩnh vực liên quan như kinh tế, kỹ thuật, có khả năng
thực hiện các kỹ thuật mô hình hóa và phân tích, điều tiết các công ty phát điện,
công ty lưới điện, điều tiết hệ thống, vận hành và quy hoạch lưới, thiết lập giá
truyền tải. Các chức năng quan trọng khác cũng được cơ quan điều tiết trung ương
đảm nhiệm là điều tiết và giám sát thị trường bán buôn, bán lẻ, sử dụng năng lượng
hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên năng lượng. Đối với mô hình 2, cơ quan điều tiết
trung ương sẽ được xây dựng dựa trên CĐTĐL hiện tại, hoạt động như một cơ quan
điều tiết độc lập cấp quốc gia đối với TTĐ tại Việt Nam.
Như vậy cấu trúc bộ máy quản lý, điều tiết theo Mô hình 2 sẽ có thay đổi so
với cấu trúc hiện tại (Hình 4.2).
Hình 4.2: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện lực Việt Nam
theo Đề xuất mô hình 2
Thủ trưởng của Cơ quan ĐTĐL quốc gia thực hiện chức năng của nhà điều tiết
như mô hình tại một số nước Tây và Bắc Âu. Nhà điều tiết không có lợi ích liên quan
tới sở hữu trong ngành điện, là một pháp nhân độc lập với ngân sách hoạt động phê
chuẩn bởi Quốc hội. Ngân sách để CĐTĐL thực hiện các chức năng của mình một
phần đến từ nguồn ngân sách và một phần từ thu phí của các công ty chịu sự điều tiết.
Đối với đề xuất mô hình 2, các chức năng, nhiệm vụ như hiện tại, được mô tả
tóm lược như sau:
135
Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ thực hiện quyền chủ sở hữu vốn,
tài sản của nhà nước tại các DN điện lực của nhà nước; Ban hành các nghị định, quy
định, quy chế để quản lý các hoạt động điện lực, phê duyệt Quy hoạch phát triển
ngành điện lực. Tuy nhiên, NCS đề xuất áp dụng cơ chế Chính phủ giao thẩm quyền
quyết định biểu giá điện bán lẻ và quyết định các chính sách về giá điện cho Cơ
quan Điều tiết điện lực quốc gia, thay vì trực tiếp quyết định như hiện nay.
BCT thực hiện chức năng quản lý nhà nước, trong đó NCS đề xuất BCT
chuyển giao các chức năng liên quan đến quản lý TTĐ sang Cơ quan Điều tiết điện
lực quốc gia bao gồm:
- Tổ chức nghiên cứu lập và ban hành biểu giá điện bán lẻ và các cơ chế, chính
sách về giá điện;
- Giao thẩm quyền Quyết định khung giá phát điện, bán buôn điện, giá truyền
tải - phân phối điện và phí các dịch vụ phụ cho CĐTĐL;
- Không còn chức năng theo dõi, quản lý hoạt động của cơ quan điều tiết
trung ương (CĐTĐL), các hoạt động điện lực và sử dụng điện;
Cơ quan Điều tiết điện lực quốc gia sẽ kế thừa chức năng cơ bản của CĐTĐL
hiện tại là thực hiện vai trò của Nhà nước điều tiết hoạt động để hạn chế độc quyền
tự nhiên, không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền DN, tác động vào các
hoạt động điện lực và TTĐ nhằm bảo đảm cung cấp điện an toàn, ổn định, chất
lượng, sử dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và bảo đảm tính công bằng, minh bạch,
đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh các chức năng và thẩm quyền như hiện tại,
NCS đề xuất cơ quan Điều tiết điện lực quốc gia cần có đầy đủ thẩm quyền trên các
điểm sau:
- Các quy định về hoạt động của TTĐ
- Quản lý giá dịch vụ truyền tải; phân phối
- Quản lý giá điện bán lẻ;
- Quyết định khung giá phát điện, bán buôn điện, giá truyền tải - phân phối
điện và phí các dịch vụ;
- Ban hành Đề án thiết kế TTĐ các cấp độ;
136
Cơ quan Điều tiết điện lực quốc gia cũng cần được thu phí điều tiết từ các đơn
vị tham gia thị trường để bảo đảm chức năng vận hành bình thường của cơ quan
điều tiết, mặt khác giảm gánh nặng về kinh phí hoạt động của cơ quan này đối với
ngân sách. Tương tự như ở Mô hình 1, việc được chủ động thu phí điều tiết sẽ là cơ
sở để Cơ quan Điều tiết điện lực quốc gia có kinh phí hoạt động đảm bảo, có điều
kiện nâng cao chất lượng nhân lực thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán
bộ hiện có và có đủ kinh phí thuê ngoài các dịch vụ kỹ thuật phức tạp liên quan đến
giá, phí trong vận hành TTĐ.
Mô hình 2 có ưu điểm là nâng cao tính độc lập và thẩm quyền của Cơ quan
Điều tiết điện lực quốc gia, theo kinh nghiệm quốc tế là sẽ gia tăng hiệu quả của thể
chế quản lý, điều tiết TTĐ. Tuy nhiên, có một số nhược điểm có thể nhận thấy ở mô
hình 2 là làm gia tăng số lượng cơ quan đầu mối quản lý hành chính, tiềm ần một số
khó khăn hoặc thậm chí chồng chéo trách nhiệm trong công tác phối hợp giữa Cơ quan
Điều tiết điện lực quốc gia và các cơ quan liên quan trong hệ thống hiện tại. Bên cạnh
đó, tính độc lập của Cơ quan Điều tiết điện lực quốc gia vẫn là tương đối vì đây vẫn là
cơ quan thuộc Chính phủ, vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi các quyết định hành chính hoặc
các chủ trương chính trị trong việc thực thi chức năng và quyền hạn của mình.
Mô hình 3. Mô hình quản lý, điều tiết thị trường điện có sự tham gia, giám
sát của Ủy ban cấp quốc gia
Qua khảo cứu kinh nghiệm và phân tích các mô hình thể chế, NCS nhận thấy
ngoài hai mô hình đã nêu, trên thế giới phổ biến một hình thức tổ chức khác (Mô hình
3) dưới dạng Ủy ban cấp quốc gia hoặc Ủy ban liên ngành để quản lý, điều tiết TTĐ có
sự tham gia của nhiều cơ quan, bộ ngành liên quan hơn và có sự chỉ đạo, điều hành trực
tiếp của cấp quản lý hành chính cao nhất là Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp lãnh đạo
cao nhất của cơ quan hành pháp.
Các ủy viên của Ủy ban tùy theo đặc thù của thể chế chính trị tại mỗi nước sẽ
có thành phần và vị trí, nhiệm vụ khác nhau. Đối với mô hình Ủy ban liên ngành, có
thể nhận thấy mô hình này tương đối phổ biến ở các nước Bắc Âu (Na-uy),
Australia, Thái Lan với thành phần của Ủy ban là các chính khách, bộ trưởng hoặc
đại diện trong lĩnh vực liên quan từ các tiểu bang.
137
Một mô hình khác tương đối phổ biển áp dụng ở Tây Âu là xây dựng một Ủy
ban độc lập và có tính chuyên môn cao, các thành viên Ủy ban phần lớn là các
chuyên gia có kinh nghiệm và am hiểu lĩnh vực điều tiết được giới thiệu và bổ
nhiệm theo một quy trình chặt chẽ, do Thủ tướng hoặc Tổng Thống giới thiệu và
có sự phê chuẩn của Quốc hội. Thông thường, nhiệm kỳ của các ủy viên này
không trùng với nhiệm kỳ của nội các để đảm bảo tính độc lập đối với hoạt động
và quyết định của Ủy ban điều tiết. Nhìn chung, Ủy ban điều tiết cấp quốc gia
tại các nước Tây Âu, Mỹ có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực
điện lực như: xây dựng, ban hành các quy định về giá và phí và ban hành các quy
định về vận hành hệ thống điện.
Nguyên tắc chung trong lựa chọn thành viên của Ủy ban điều tiết tại Tây Âu
và Mỹ là các ủy viên và phải được đảm bảo không có bất kỳ mối quan hệ công việc
trực tiếp hoặc gián tiếp với bất kỳ công ty hoạt động trong các lĩnh vực quy định
trong nhiệm kỳ của họ và có thể mở rộng quy định này ngay cả sau khi các ủy viên
đã kết thúc nhiệm kỳ.
Một đặc điểm phổ biển nữa của mô hình Ủy ban điều tiết quốc gia là Ủy ban
không chỉ tham gia xây dựng chính sách và chỉ đạo công tác điều tiết các thị trường
hoặc dịch vụ công khác như mô hình i) Ủy ban điều tiết thị trường năng lượng, bao
gồm khí, than, dầu, điện (Italia, Thái Lan, Australia, Na-uy) hoặc ii) Ủy ban điều tiết
các dịch vụ công như khí, điện, nước và/hoặc xử lý nước thải (Cộng hòa Ai-len).
Đối với thể chế quản lý, điều tiết TTĐ Việt Nam, Mô hình Ủy ban Điều tiết
cấp quốc gia (Mô hình 3) có thể được định hướng xây dựng thành một Ủy ban điều
tiết các dịch vụ công hoặc các sản phẩm thiết yếu như dầu, khí, điện thông qua một
lộ trình hợp lý và theo từng bước. Ở bước đầu tiên, sẽ điều tiết TTĐ, sau đó là các
thị trường dịch vụ năng lượng cơ bản và thiết yếu như dầu, khí, than. Tài nguyên
nước là tài nguyên cần bảo tồn và có chiến lược cung cấp và sử dụng hợp lý. Tuy
vậy, NCS nhận thấy vấn đề này cần tiếp tục xem xét, khảo sát ở trong phạm vi một
nghiên cứu khác.
Như vậy bộ máy quản lý, điều tiết TTĐ theo Mô hình 3 sẽ có nhiều thay đổi so
với mô hình hiện tại (Hình 4.3)
138
Hình 4.3: Cấu trúc bộ máy quản lý - điều tiết thị trường điện lực Việt Nam
theo Đề xuất mô hình 3.
Một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Điều tiết cấp quốc gia được
đề xuất là: xây dựng, ban hành các quy định về giá và phí của TTĐ, bao gồm phí
truyền tải và giá điện bán lẻ; ban hành các quy định về vận hành hệ thống điện; giải
quyết tranh chấp trong các giao dịch trên thị trường. Các chức năng sẽ được bổ sung,
mở rộng khi Ủy ban thực hiện chức năng điều tiết các thị trường năng lượng khác.
Đây sẽ là một Ủy ban liên ngành thuộc Chính phủ với ủy viên là lãnh đạo các
bộ, ngành liên quan và quan trọng như BCT, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài nguyên và Môi trường. Lãnh đạo Ủy ban là một Phó Thủ tướng (trong giai
đoạn điều tiết TTĐ) và có thể xem xét đề nghị Thủ tướng là lãnh đạo Ủy ban trong
giai đoạn thực hiện chức năng xây dựng chính sách và điều tiết các thị trường năng
lượng như dầu, khí, than, điện. CĐTĐL hiện nay sẽ chuyển thành cơ quan thường
trực tham mưu và thừa hành các chỉ đạo của Ủy ban Điều tiết quốc gia. Khi mở
rộng thẩm quyền điều tiết sang các thị trường năng lượng khác, cần tiếp tục cơ cấu
và điều chỉnh tổ chức của cơ quan thường trực để đảm bảo đầy đủ năng lực và điều
kiện hoạt động cho cơ quan này. Ủy ban hoạt động như một thể chế độc lập, có tư
cách pháp nhân riêng. Các quyết định do các ủy viên họp bàn và thống nhất qua các
chương trình nghị sự, có bảo đảm từ ngân sách và thông qua thu phí điều tiết.
139
4.2.4. Phương hướng phát triển thị trường điện lực tại Việt Nam trong
thời gian tới
Phương hướng tổng thể phát triển TTĐ tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ
là xây dựng thị trường có sản phẩm và dịch vụ điện năng chất lượng cao, lấy
khách hàng là trung tâm phục vụ dựa trên nền tảng chuỗi cung ứng sản xuất bền
vững, hiện đại và thị trường được vận hành minh bạch, cạnh tranh và hài hòa
lợi ích của các bên tham gia. Theo đó, các phương hướng cụ thể phát triển TTĐ
Việt Nam được đề xuất như sau:
• Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tăng tính cạnh tranh, thu hút đầu tư, đặc
biệt là đầu tư vào sản xuất điện và hạ tầng lưới điện thông qua việc đảm bảo sự
công bằng, bình đẳng, minh bạch trong các hoạt động giao dịch mua bán điện và
trong công tác vận hành TTĐ.
• Phát triển thị trường bán buôn điện cạnh tranh và tiếp tục xây dựng khung
pháp lý để hình thành thị trường bán lẻ cạnh tranh từ năm 2021 theo Lộ trình hình
thành và phát triển TTĐ cạnh tranh tại Việt Nam.
• Thực hiện các cải cách về giá điện theo hướng giảm dần sự can thiệp và điều
tiết của Nhà nước để đảm bảo minh bạch, giá điện phản ánh đúng chi phí và lợi nhuận
hợp lý trong các khâu sản xuất, truyền tải, phân phối và bán lẻ điện.
• Thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham
gia hoạt động trong lĩnh vực điện lực, đảm bảo các cơ chế tiếp cận thông tin về
quy hoạch, đầu tư, các thủ tục phê duyệt cấp phép được thực hiện công khai,
minh bạch, các nhà đầu tư, các DN được đối xử công bằng. Tiến hành thiết kế,
triển khai các cơ chế chính sách, tạo khung pháp lý minh bạch, cải cách thủ tục
hành chính của Nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ các khó khăn, rào
cản cho phát triển của DN.
• Xây dựng các đề án, chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, đặc biệt là nhân lực phục vụ vận hành nền tảng giao dịch TTĐ, nhân lực
kỹ thuật, công nghệ ở các công đoạn quan trọng trong thi công, vận hành và bảo
dưỡng các công trình điện lực, đặc biệt là các dự án điện NLTT.
140
4.3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC TẠI VIỆT NAM
4.3.1.Các giải pháp đảm bảo cân bằng cung - cầu điện năng
Để đảm bảo cân bằng cung - cầu điện năng, cần thực hiện song song các giải
pháp phát triển nhu cầu điện bền vững và phát triển nguồn cung điện năng thông
qua thu hút đầu tư phát triển sản xuất điện. Trong phần này, NCS sẽ tập trung trình
bày về Nhóm giải pháp phát triển nhu cầu điện bền vững. Đây là nhóm giải pháp
cần ưu tiên thực hiện để phát triển TTĐ tại Việt Nam. Nhóm giải pháp về phát triển
nguồn cung điện năng sẽ được lồng ghép và trình bày tại Mục 4.3.3. Giải pháp khó
khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào sản xuất – cung ứng điện.
Các phân tích tại Chương 2 và Chương 3 đã chỉ ra rằng nhu cầu tiêu thụ điện
năng cần được duy trì và quản lý để đảm bảo mức tăng trưởng phù hợp với khả
năng sản xuất và cung ứng trong nước, đồng thời tăng hiệu quả sử dụng năng lượng
trong nền kinh tế. Phát triển nhu cầu điện bền vững không đồng nghĩa với việc thực
hiện các biện pháp tiết giảm sử dụng điện năng vốn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến
năng suất lao động và năng lực sản xuất của nền kinh tế. Thay vào đó, Nhà nước
cần thực hiện hệ thống các quy định, chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ,
có hiệu suất sử dụng năng lượng cao. Bên cạnh đó, các hộ tiêu thụ, trong đó bao
gồm các cơ sở công nghiệp, thương mại được khuyến khích và hỗ trợ thực hiện các
biện pháp quản lý nhu cầu, triển khai các hệ thống quản lý năng lượng được tiêu chuẩn
hóa để có thể theo dõi, giám sát và liên tục cải thiện hiệu quả năng lượng tại cơ sở.
Giải pháp tổng thể này phù hợp với xu hướng chung của thế giới về phát triển năng
lượng bền vững: đáp ứng nhu cầu năng lượng của hiện tại mà không ảnh hưởng đến
khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ.
Các giải pháp chi tiết về phát triển nhu cầu điện bền vững được đề xuất như sau:
Thứ nhất, nâng cao khả năng thực thi của hệ thống quy định, chính sách hiện
hành về sử dụng điện năng tiết kiệm và hiệu quả, trong đó chú trọng vào tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến, thực hiện Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng nói chung và điện năng nói
riêng trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong các hộ gia đình. Thúc đẩy khả
năng thực chi của các chính sách nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng không chỉ
tiết kiệm năng lượng mà còn tạo ra nhiều lợi ích khác như tăng cường an ninh năng
141
lượng và cải thiện chất lượng không khí. Phân tích của IEA cho thấy các chính sách
để tăng hiệu quả năng lượng và ít sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong cung cấp năng
lượng sẽ là những động lực chính làm giảm phát thải các chất ô nhiễm không khí
chủ yếu trên toàn cầu từ nay đến năm 2040.
Thứ hai, Nhà nước tiếp tục bố trí nguồn lực để triển khai các chương trình thúc
đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên toàn quốc. Trong giai đoạn 2006
– 2015, Chính phủ đã thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, trong đó góp phần tiết kiệm từ 3-5% tổng
tiêu thụ năng lượng sơ cấp. Các chương trình với quy mô và tác động tương tự cần
tiếp tục được ưu tiên, duy trì và nhân rộng trong thời gian tới để đạt được các mục
tiêu tiết kiệm nhu cầu điện năng thương phẩm.
Thứ ba, Nhà nước thực hiện các biện pháp về thiết lập khuôn khổ pháp lý tạo
điều kiện cho sự phát triển của các hình thức cung cấp tài chính cho hoạt động tiết
kiệm và hiệu quả năng lượng, tiêu biểu là cơ cế để phát triển loại hình DN / công ty
dịch vụ năng lượng hiệu quả ESCO Tại các nước thực hiện thành công các chương
trình tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, công ty ESCO là loại hình tương đối phát
triển. Các công ty này cung cấp các khoản đầu tư ban đầu để các khách hàng của họ
là các hộ tiêu thụ nhiều năng lượng trong công nghiệp hoặc thương mại đầu tư đổi
mới công nghệ hoặc thực hiện các giải pháp sử dụng năng lượng hiệu quả. Công ty
ESCO sẽ có doanh thu từ chính năng lượng tiết kiệm được tại cơ sở của khách hàng.
Hình thức ESCO giúp cho các hộ tiêu thụ năng lượng lớn nhận được dịch vụ tiết
kiệm năng lượng có chất lượng, tránh được các khoản đầu tư ban đầu quá lớn hoặc
ngoài khả năng chi trả của họ, đồng thời thúc đẩy được tiết kiệm và hiệu quả năng
lượng mà đôi khi có thể lên tới 15-25% mức năng lượng tiêu thụ. Trên quy mô toàn
cầu, thị trường ESCO có giá trị lên tới 24 tỉ USD vào năm 2015, trong đó Trung
Quốc, Hoa Kỳ và châu Âu là các khu vực có sự phát triển các DN mạnh mẽ nhất.
Tại các thị trường đã phát triển, một số công ty ESCO đã bắt đầu cung cấp các dịch
vụ toàn diện hơn bao gồm các hoạt động quản lý tòa nhà, duy trì và quản lý cơ sở
nhằm thúc đẩy thay đổi hành vi và văn hoá sử dụng năng lượng tại cơ sở của khách
hàng. Tại Việt Nam, loại hình DN ESCO hiện mới chỉ xuất hiện và hoạt động với quy
mô nhỏ, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh chưa có đầy đủ khuôn
khổ pháp lý cho các hoạt động của họ. Do vậy, ESCO thường gặp một số khó khăn
trong mở rộng thị trường, tiếp cận khách hàng, tiếp cận tín dụng từ các ngân hàng và
142
quan trọng nhất là được pháp luật bảo vệ khi thực hiện và thu hồi các khoản đầu tư có
giá trị không nhỏ vào các cơ sở sử dụng năng lượng là khách hàng của họ.
Trong dài hạn, giải pháp bền vững hơn cả nhưng cũng khó thực hiện hơn là thay
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thúc đẩy các ngành có giá trị gia tăng cao, tiêu thụ ít tài
nguyên trong đó có năng lượng và điện năng. Như vậy một lựa chọn về định hướng cơ
cấu hợp lý có thể là giảm tỷ trọng các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng,
đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng như sắt - thép, xi măng, hóa chất...
4.3.2. Giải pháp về cơ chế quản lý giá điện
Giá điện bán lẻ thấp tại TTĐ Việt Nam là nguyên nhân cơ bản khiến tăng
trưởng nhu cầu điện ở mức cao, không khuyến khích các hoạt động sử dụng điện
năng tiết kiệm và hiệu quả. Mặc khác, giá điện bán lẻ thấp cũng hạn chế sự vận
hành bình thường cũng như các quan hệ kinh tế diễn ra trong TTĐ do không phản
ánh được đúng các chi phí sản xuất. Để thu hút đầu tư, đặc biệt là từ các nguồn lực
mới như đầu tư tư nhân cho các dự án điện, chính sách giá điện hợp lý sẽ trở nên rất
quan trọng xét trong bối cảnh vai trò ngày càng gia tăng của khu vực tư nhân đối
với nền kinh tế Việt Nam.
Trong thị trường cạnh tranh giá cả chính là tín hiệu mà qua đó thị trường điều
tiết hành vi của DN và người tiêu dùng đồng thời về phương diện phát triển cung,
giá điện là tín hiệu cho thị trường nhận thấy đầu tư vào lĩnh vực điện năng có mang
lại lợi nhuận kỳ vọng cho họ hay không. Một khi chính sách giá điện phù hợp, các
nhà đầu tư trong ngành điện bảo đảm có lãi hợp lý, các dự án điện sẽ đủ sức hấp
dẫn, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, khu vực nhà nước cũng như tư nhân, giải
quyết được nhu cầu vốn đầu tư cho nguồn cung điện năng một cách căn bản. Ngược
lại, nếu giá điện bị điều tiết quá chặt chẽ, sẽ gây tác động tiêu cực đến thị trường,
làm cho các tín hiệu điều chỉnh của thị trường bị sai lệch và dẫn đến hành vi của
DN và người tiêu dùng sẽ không đạt được tối ưu.
Cơ cấu của giá điện bán lẻ hiện nay chủ yếu bao gồm chi phí sản xuất điện, chi
phí truyền tải, chi phí phân phối và bán lẻ điện, các chi phí quản lý cho các công ty
điện lực và một số chi phí khác. Ngoại trừ chi phí sản xuất hiện cơ bản được thực
hiện trên cơ chế thị trường, được xác định trên giao dịch ở Thị trường phát điện
cạnh tranh hoặc qua các hợp đồng mua bán điện song phương, các chi phí khác bao
gồm phí truyền tải, chi phí phân phối và bán lẻ điện hiện vẫn nằm trong sự điều tiết
của Nhà nước. Khi TTĐ phát triển và tự do hóa, sự điều tiết trên cần được giảm dần
143
theo định hướng phản ánh đúng chi phí, có lộ trình tăng dần giá điện bán lẻ, đảm
bảo lợi nhuận hợp lý của các DN tham gia thị trường và lợi ích của khách hàng.
4.3.3. Giải pháp tháo gỡ khó khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào
sản xuất - cung ứng điện
Việc tháo gỡ những khó khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào sản xuất -
cung ứng điện sẽ giúp thu hút đầu tư từ các nguồn lực mới vào sản xuất điện và gia
tăng nguồn cung điện năng từ năng lượng tái tạo.
4.3.3.1.Tháo gỡ khó khăn, rào cản để thu hút đầu tư từ các nguồn lực mới
vào sản xuất điện
Các giải pháp tháo gỡ khó khăn, rào cản để thu hút đầu tư về nguyên tắc cần
đảm bảo tất cả các DN tham gia có cơ hội được tiếp cận cơ sở hạ tầng, thông tin và
được đối xử công bằng không thiên lệch trong các công đoạn của quá trình đầu tư
và vận hành các công trình điện, đặc biệt là trong các khâu cấp giấy phép, thỏa
thuận đấu nối, thỏa thuận mua bán điện, tiếp cận tài chính từ các tổ chức tín dụng và
giao dịch trên TTĐ.
Các dự án sản xuất điện được phê duyệt danh mục trong Quy hoạch phát triển
điện lực các cấp cần có cơ chế công khai thông tin cho các nhà đầu tư tiềm năng
được tiếp cận và bày tỏ quan tâm. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về lựa chọn nhà đầu
tư, đặc biệt là đầu tư theo hình thức hợp tác công tư đã được xây dựng. Do vậy, các
dự án nguồn điện nên được triển khai theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong hoặc
ngoài nước để có thể lựa chọn được các nhà đầu tư, các nhà phát triển dự án có
năng lực, kinh nghiệm và khả năng tài chính tốt vững vàng. Các dự án nguồn điện
là các dự án đòi hỏi lượng vốn đầu tư khổng lồ và đòi hỏi tiêu chuẩn cao về quản lý
đầu tư, quản lý thi công. Do vậy, khâu lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện tốt sẽ
đảm bảo giảm thiểu rủi ro chậm tiến độ hoặc thực hiện dự án đầu tư không hiệu quả
ở các giai đoạn sau. Với sự gia nhập và hoạt động của các đơn vị có năng lực về kỹ
thuật và tài chính trong ngành điện, thị trường sẽ được thúc đẩy và trở nên hiệu quả
hơn, giảm các chi phí không cần thiết hoặc không được kiểm soát tốt. Như vậy, các
DN sẽ vận hành hiệu quả hơn, ít nhất là về mặt chi phí và có cơ hội minh bạch hóa
hoặc giảm giá thành sản xuất điện, mang lại lợi ích lớn hơn cho người tiêu dùng.
Như vậy cần thiết phải xây dựng và triển khai các giải pháp để cải thiện môi
trường kinh doanh và đầu tư trong lĩnh vực phát điện tại Việt Nam theo đó bảo đảm
144
minh bạch trong thông tin và chính sách quy hoạch phát triển nguồn điện và thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu ngành điện và xây dựng TTĐ cạnh tranh. Các giải pháp trên
không thể tách rời khỏi cam kết bảo đảm sự công bằng đối với DN khi tiếp cận và
tham gia đầu tư trong lĩnh vực phát điện của Nhà nước. Đây cũng là biện pháp để làm
TTĐ trở nên lành mạnh hơn và thực sự được thúc đẩy hướng đến vận hành theo các
quy luật thị trường.
4.3.3.2.Tháo gỡ khó khăn, rào cản để gia tăng nguồn cung điện năng từ
năng lượng tái tạo
Với tiềm năng lớn và đa dạng về tài nguyên điện NLTT, Việt Nam có cơ hội
phát huy thế mạnh này để phát triển và thay thế một phần sản xuất điện từ các công
nghệ truyền thống, sử dụng nhiên liệu hóa thạch và nhiên liệu nhập khẩu từ nước
ngoài, tăng cường an ninh năng lượng. Dù không chiếm tỉ trọng cao trong tương lai
nhưng ít nhất các nguồn điện NLTT sẽ góp phần gia tăng tính chủ động của Việt
Nam trong cân đối nguồn cung điện, phần nào bảo vệ hệ thống trước những biến
động về cung nhiên liệu sơ cấp hoặc giá nhiên liệu trên thị trường quốc tế. Nhìn
chung, trong bối cảnh chi phí đầu tư và giá thành của các công nghệ NLTT còn cao
hơn các công nghệ truyền thông, các giải pháp thúc đẩy sản xuất điện từ NLTT cần
được định hướng và thực hiện theo cơ chế thị trường, hạn chế việc trợ giá cho
NLTT. Các giải pháp này phải đảm bảo về tổng thể khâu sản xuất và cung ứng điện
cho thị trường có chi phí hợp lý, không vì mục tiêu thực hiện các cam kết quốc tế về
cắt giảm phát thải KNK mà gây tác động lên chi phí sản xuất toàn hệ thống.
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao khả năng thực thi của các chính
sách hỗ trợ hiện hành cho điện NLTT, bao gồm Chiến lược phát triển NLTT của
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó các dự án điện NLTT
được ưu tiên huy động toàn bộ điện sản xuất vào hệ thống điện. Chi phí đấu nối và
các chi phí khác có liên quan phát sinh hợp lý của các đơn vị lưới điện (đơn vị truyền
tải điện và phân phối điện) do mua điện được sản xuất từ nguồn NLTT được tính trong
chi phí truyền tải, phân phối điện của đơn vị lưới điện. Các dự án NLTT cần được hỗ
trợ đầu tư, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập DN, khấu hao, thuê đất. Bên cạnh đó, phát
triển lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối theo quy hoạch phát triển điện lực cần
tính đến dự kiến phát triển các nguồn điện sử dụng nguồn NLTT và các liên kết giữa
các khu vực, đảm bảo an ninh cung cấp điện.
145
Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực điện lực có trách nhiệm đóng
góp vào việc phát triển ngành NLTT của đất nước. Đơn vị phát điện và đơn vị phân
phối điện cần đáp ứng các tiêu chuẩn tỷ lệ NLTT. Các đơn vị phát điện, các đơn vị
phân phối điện phải đảm bảo tỷ lệ tối thiểu điện sản xuất hoặc điện mua từ NLTT từ
10% năm 2030 và 20% vào năm 2050.
Một vấn đề cấp thiết là hình thành các giải pháp hỗ trợ và phát triển năng lực
sản xuất, năng lực kỹ thuật và công nghệ liên quan trong lĩnh vực điện NLTT để
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm và tạo ra giá trị thặng dư cho các
địa phương, khu vực có tiềm năng về NLTT.
Bên cạnh đó, cần thực hiện các giải pháp sau để tạo điều kiện thuận lợi hơn
nhưng ít tác động đến mục tiêu và định hướng tổng thể là sự vận hành cạnh tranh,
minh bạch và công bằng cho TTĐ:
Một là, tạo khuôn khổ pháp lý và thực hiện cơ chế đặc thù HĐMBĐ từ NLTT
trực tiếp. Thông thường, các DN sản xuất điện không bán điện trực tiếp cho người
sử dụng cuối cùng mà sẽ giao dịch với bên mua điện được thừa nhận theo quy định.
Cơ chế này về tổng thể giúp cho thị trường vận hành hiệu quả, giảm thiểu chi phí và
tận dụng tốt hạ tầng điện lực. Đối với điện NLTT, các quốc gia trên thế giới đã thực
hành cơ chế mua bán điện trực tiếp, theo đó, các nhà sản xuất điện NLTT sẽ được
cho phép giao dịch trực tiếp với khách hàng. Về bản chất vật lý, sản phẩm điện
năng này vẫn được truyền tải và phân phối qua hệ thống lưới điện và hạ tầng điện
như các giao dịch điện năng truyền thống. Tuy nhiên về mặt hình thức giao dịch,
việc trực tiếp mua bán giữa bên sản xuất và bên mua điện sẽ cắt giảm được khâu
trung gian, giảm chi phí giao dịch, tăng tính cạnh tranh của điện NLTT, sẽ thúc đẩy
sản xuất điện NLTT hơn.
Hai là, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư: cơ chế lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án
điện nói chung và điện NLTT nói riêng tại Việt Nam hiện nay chưa thực sự rõ ràng
và minh bạch. Bên cạnh đó, cơ chế đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi nên năng
lực của các nhà đầu tư cũng như hiệu quả triển khai chưa thực sự được đảm bảo.
Ngược lại, khi thực hiện đấu thầu, bao gồm đấu thầu ngược (reverse auction), các
nhà đầu tư được mời tham gia bỏ thầu để đầu tư tại các dự án NLTT nhưng theo cơ
chế, đơn vị nào bỏ giá đầu tư thấp hơn sẽ được lựa chọn. Như vậy, các dự án có xu
hướng và khả năng được thực hiện với chi phí thấp hơn và do đó, có tiềm năng
146
giảm giá thành, khuyến khích các đơn vị có năng lực mạnh tham gia và gia tăng lợi
ích cho khách hàng mua điện;
Ba là, cải thiện các thủ tục, quy trình đầu tư vào các dự án điện NLTT: kinh
nghiệm quốc tế cho thấy quá trình triển khai thi công và hoàn tất xây dựng công
trình điện NLTT như điện gió, điện mặt trời có thể đảm bảo tiến độ trong vòng từ
một đến dưới ba năm, chiếm chưa tới 1/2 tổng thời gian triển khai dự án, nếu các
điều kiện thi công cơ bản và năng lực quản lý thi công và xây dựng của nhà phát
triển dự án, nhà thầu được đảm bảo. Các DN đầu tư thường phải dành nhiều thời
gian và nguồn lực cho các công đoạn liên quan tới thủ tục hành chính và pháp lý
như cấp chứng nhận đầu tư, bổ sung dự án vào quy hoạch phát triển điện lực, giấy
phép xây dựng, giấy phép hoạt động điện lực, thỏa thuận kết nối vào lưới điện, đánh
giá tác động môi trường, thỏa thuận mua bán điện... Tại một số nước châu Âu, thủ
tục hành chính và pháp lý có thể tiêu tốn tới 50% chi phí phát triển dự án và lấy đi
của DN khoảng 70 tuần để thực hiện. Khi các quy trình và thủ tục này được cải
thiện theo hướng đơn giản hóa, tinh gọn hơn, các bên liên quan sẽ được hưởng lợi,
bao gồm trước tiên là các nhà đầu tư, TTĐ và khách hàng tiêu thụ điện.
4.3.4. Giải pháp hoàn thiện chính sách và thể chế quản lý - điều tiết thị
trường điện lực
Chính sách và thể chế quản lý - điều tiết TTĐ tại Việt Nam đã được hình thành và
xây dựng có tính hệ thống, các văn bản pháp lý nền tảng và quan trọng đã được ban
hành, tạo một môi trường thể chế định hướng cho sự phát triển ổn định và bền vững
của ngành điện. Bên cạnh đó, cấu trúc thể chế gồm hệ thống bộ máy quản lý ngành và
điều tiết thị trường đã góp phần thực thi có hiệu quả các chính sách, quy định ban hành.
Các văn bản pháp luật quan trọng đã được ban hành để xây dựng khung chính sách cho
xây dựng và phát triển TTĐ. Tuy nhiên như đã phân tích ở Chương 3, CĐTĐL không
có quyền hạn trực tiếp hoặc không có thẩm quyền đầy đủ quyết định các vấn đề được
xem là quan trọng trong vận hành TTĐ, hoặc có thẩm quyền nhưng không có đủ nguồn
lực để thực hiện dẫn đến việc i) hạn chế cơ quan điều tiết hoạt động điện lực có vị trí,
vai trò độc lập hơn khi TTĐ phát triển đầy đủ; và ii) ảnh hướng đến việc tổ chức thực
hiện nhiệm vụ điều tiết hoạt động điện lực nhằm cung cấp điện an toàn, ổn định, sử
dụng điện tiết kiệm, có hiệu quả và đảm bảo công bằng, minh bạch.
147
Trong phần 4.2.3 của luận án, NCS đã trình bày một số mô hình tổ chức bộ
máy quản lý, điều tiết TTĐ tại Việt Nam đã được đề xuất trên cơ sở nghiên cứu mô
hình quốc tế, phân tích và đánh giá sự phù hợp với bối cảnh, điều kiện của Việt
Nam. Các mô hình được đề xuất là:
Mô hình 1: Mô hình cơ quan điều tiết điện lực quốc gia được gia tăng thẩm
quyền, trong đó đề xuất giữ nguyên cấu trúc thể chế của bộ máy cơ quan quản lý,
điều tiết TTĐ hiện tại, tuy nhiên, cơ quan điều tiết trung ương được thiết kế theo
hướng có gia tăng thẩm quyền ở một số lĩnh vực nhất định, chủ động hơn trong
việc bảo đảm kinh phí hoạt động để bảo đảm có mức độ độc lập nhất định trong
công tác quản lý, điều tiết TTĐ. Các đầu mối chính vẫn là Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ, BCT và CĐTĐL giữ các vai trò quan trọng liên quan tới quản
lý và điều tiết TTĐ.
Mô hình 2: Mô hình xây dựng cơ quan điều tiết điện lực độc lập cấp quốc
gia, dựa trên việc tách CĐTĐL ra khỏi BCT và trở thành một cơ quan chuyên trách,
một đầu mối riêng thuộc Chính phủ. Theo đó, thể chế này yêu cầu một cơ quan điều
tiết trung ương có lực lượng cán bộ trình độ cao với chuyên môn ở các lĩnh vực liên
quan như kinh tế, kỹ thuật, có khả năng thực hiện các kỹ thuật mô hình hóa và phân
tích, điều tiết các công ty lưới điện, điều tiết hệ thống, vận hành và quy hoạch lưới,
thiết lập giá truyền tải hoặc giá bán lẻ tùy theo điều kiện phát triển của TTĐ. Các
chức năng quan trọng khác cũng được cơ quan điều tiết trung ương đảm nhiệm là
điều tiết và giám sát thị trường bán buôn, bán lẻ, sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết
kiệm tài nguyên năng lượng. Đối với mô hình này, cơ quan điều tiết trung ương sẽ
được xây dựng dựa trên CĐTĐL hiện tại, hoạt động như một cơ quan điều tiết độc
lập cấp quốc gia đối với TTĐ tại Việt Nam.
Mô hình 3: Mô hình quản lý, điều tiết TTĐ có sự tham gia, giám sát của ủy
ban cấp quốc gia dưới hình thức một Ủy ban điều tiết các dịch vụ công hoặc các sản
phẩm thiết yếu như dầu, khí, điện thông qua một lộ trình hợp lý và theo từng bước. Ở
bước đầu tiên, sẽ điều tiết TTĐ, sau đó là các thị trường dịch vụ năng lượng cơ bản và
thiết yếu như dầu, khí và than. Đề xuất xây dựng như một Ủy ban liên ngành thuộc
Chính phủ với ủy viên là lãnh đạo các bộ, ngành liên quan và do Thủ tướng hoặc Phó
Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, điều hành.
148
Với các đặc điểm về điều kiện, bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội cũng lộ
trình phát triển của TTĐ Việt Nam, NCS nhận thấy mô hình 1 phù hợp với giai đoạn
hiện nay cho đến 2023 – 2025 trong khi mô hình 2 và mô hình 3 là các mô hình tự do
hơn và hiện đại hơn, có khả năng phù hợp với TTĐ Việt Nam giai đoạn sau 2025 đến
những năm 2030, khi chúng ta đã bước vào cấp độ TTĐ cạnh tranh bán lẻ và TTĐ có
sự tham gia mạnh mẽ hơn của các DN từ các thành phần kinh tế khác nhau.
Kết luận Chương 4
Trong phạm vi chương 4, luận án đã đề ra phương hướng và các giải pháp
phát triển TTĐ tại Việt Nam. NCS đã dựa trên những phân tích, lập luận đã được
trình bày tại chương 3 để đề xuất các giải pháp phát triển TTĐ tại Việt Nam. Các
nguyên nhân của hạn chế được chỉ ra bao gồm nội dung về nguyên nhân của những
hạn chế đối với phát triển TTĐ Việt Nam: Dự phòng công suất phát điện của hệ
thống điện Việt Nam ở mức thấp, làm suy giảm độ tin cậy cung cấp điện và chất
lượng dịch vụ điện năng; cơ chế quản lý giá điện chưa hợp lý; còn tồn tại nhiều khó
khăn, rào cản trong quản lý và đầu tư vào sản xuất – cung ứng điện; chính sách và
cơ chế quản lý - điều tiết TTĐ chưa đảm bảo đầy đủ hiệu lực. Căn cứ vào các
nguyên nhân nêu trên, các giải pháp đã được phân tích, đề xuất để giải quyết từng
hạn chế. Các giải pháp đều được đề xuất dựa trên các phân tích đối với bối cảnh
phát triển kinh tế của quốc gia cũng như những diễn biến, triển vọng của thị trường
năng lượng quốc tế, các xu hướng sản xuất hay tiêu thụ năng lượng ở mọi nhóm
khách hàng, triển vọng phát triển của TTĐ Việt Nam trên cơ sở phân tích điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT).
Các giải pháp được đề xuất gắn bó mật thiết với các nội dung phát triển
TTĐ, nguyên nhân của các hạn chế đối với phát triển TTĐ, hướng đến phát triển
nhu cầu điện bền vững, đảm bảo nguồn cung điện năng thông qua thu hút đầu tư
phát triển sản xuất điện; gia tăng nguồn cung điện năng từ năng lượng tái tạo, tăng
cường xây dựng cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện lực,
tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng và nền tảng phục vụ giao dịch thị trường điện
lực; và hoàn thiện chính sách và thể chế quản lý - điều tiết thị trường điện lực.
149
KẾT LUẬN
Xây dựng và phát triển TTĐ theo định hướng tự do hóa, cải thiện cơ chế cạnh
tranh là con đường dài, tiềm ẩn một số nguy cơ nhưng có thể mang lại nhiều lợi ích
tích cực hơn cho nền kinh tế, ngành công nghiệp điện lực và đặc biệt là khách hàng
sử dụng điện. Nhu cầu điện tại Việt Nam dự kiến sẽ vẫn duy trì mức tăng trưởng
cao đến 2030. Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm vẫn là khắc phục tình trạng thiếu hụt
nguồn cung, đảm bảo công suất dự phòng hợp lý để bảo đảm chuyển đổi TTĐ sang
cơ chế tự do hóa một cách thành công. Khi dự trữ nguồn cung được đảm bảo, thị
trường sẽ vận hành theo các quy luật kinh tế, tránh khỏi các nguy cơ dẫn đến đổ vỡ
thị trường hoặc gây ra các sự cố có thiệt hại lớn với nền kinh tế. Với các phân tích
và khảo cứu đã thực hiện trong luận án, NCS nhận định rằng đối với trường hợp của
Việt Nam, tăng trưởng cung điện phải là nhiệm vụ trọng tâm đối với phát triển TTĐ
cho đến giai đoạn 2035 – 2040. Sau giai đoạn này, với dự báo thu nhập đạt ngưỡng
trung bình cao, nhu cầu điện sẽ ổn định và ít tăng trưởng đột biến góp phần giảm áp
lực đầu tư phát triển nguồn cung. Bên cạnh đó, các giải pháp đối với cơ chế cạnh
tranh, cơ chế giá, cơ chế giao dịch và tổ chức thị trường cũng cần được thực hiện
đồng bộ để mang lại hiệu quả thành công tốt hơn cho TTĐ. Một số kết luận chủ yếu
được rút ra sau:
1. Phát triển TTĐ tại Việt Nam theo hướng tự do hóa và cải thiện cơ chế cạnh
tranh là cần thiết để đảm bảo cung cấp điện ổn định, tin cậy và chất lượng cao hơn,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Phát triển TTĐ tại Việt Nam là quá trình thay đổi hoặc tăng trưởng của các
yếu tố cấu thành nên thị trường theo hướng hoàn thiện hơn. Đây là quá trình phát
triển đồng bộ và bền vững các yếu tố cơ bản của thị trường bao gồm cung, cầu, hạ
tầng truyền tải và phân phối điện, các nền tảng và cơ chế phục vụ giao dịch TTĐ và
cơ chế giá điện;
3. Phát triển TTĐ tại Việt Nam bao hàm các nội dung đảm bảo cân bằng cung –
cầu điện năng, phát triển hệ thống hạ tầng truyền tải, phân phối điện, cơ chế cạnh
tranh trên TTĐ, cơ chế giá trên TTĐ, mô hình tổ chức quản lý, điều tiết TTĐ,
CSHT&NT phục vụ giao dịch TTĐ;
4. Nhóm tiêu chí đánh giá phát triển TTĐ tại Việt Nam được xây dựng để đánh giá
các nội dung phát triển TTĐ nêu trên bám sát theo các mục tiêu xây dựng TTĐ là:
i. Đảm bảo cung cấp điện ổn định, đảm bảo thu hút đủ vốn đầu tư vào ngành điện;
ii. Thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài;
150
iii. Cải thiện cơ chế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTĐ và có
cơ chế giá điện hợp lý;
iv. Xanh hóa TTĐ theo hướng khuyến khích phát triển NLTT;
Các tiêu chí nêu trên đều được lượng hóa bằng các chỉ tiêu đánh giá có thể đo
lường được như tăng trưởng nhu cầu điện, tăng trưởng sản xuất điện trong nước,
tăng trưởng quy mô thị trường phát điện và quy mô thị trường bán buôn điện cạnh
tranh, sự tham gia của các nhà sản xuất điện độc lập vào TTĐ, công suất điện NLTT
được huy động và giao dịch trên TTĐ.
5. NCS đã chỉ ra những hạn chế cần khắc phục của TTĐ Việt Nam bao gồm: i)
tăng trưởng nhu cầu chưa bền vững, gây áp lực lên đầu tư và sản xuất điện năng; ii)
sản xuất và cung ứng điện chưa đảm bảo ổn định; iii) chưa thu hút được đầu tư của
tư nhân trong và ngoài nước vào lĩnh vực phát điện; iv) tỉ trọng của nguồn điện
NLTT còn thấp; v) đầu tư phát triển hạ tầng lưới điện chưa đảm bảo tiến độ; vi) tính
minh bạch của Thị trường phát điện cạnh tranh còn hạn chế.
6. Những nguyên nhân chủ yếu đối với các hạn chế nêu trên là: i) cơ cấu tiêu
thụ điện chưa hợp lý; ii) năng lực tài chính và kỹ thuật của các DN phát điện, đặc
biệt là các DN tư nhân còn yếu; iii) còn tồn tại nhiều rào cản và khó khăn đối với
DN tham gia lĩnh vực sản xuất điện; iv) các nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất
điện NLTT còn hạn chế về năng lực; v) chưa triển khai đồng bộ các dự án đầu tư
phát triển nguồn điện và lưới điện; vi) sự độc lập của cơ quan điều tiết TTĐ chưa
được đảm bảo.
7. Phát triển TTĐ cần thực hiện các giải pháp đồng bộ bao gồm: i) phát triển
nhu cầu điện bền vững hợp lý; ii) triển khai các cơ chế, chính sách thông qua giá
điện, môi trường kinh doanh, tăng cường sự minh bạch và công bằng đối với các nhà
đầu tư vào lĩnh vực điện lực từ mọi thành phần kinh tế; iii) thực hiện các cơ chế tiên
tiến về đấu thầu và cơ chế mua bán đặc thù (DPPA) để tạo môi trường đầu tư thuận lợi
cho điện NLTT; iv) thực hiện đúng tiến độ và lộ trình xây dựng TTĐ cấp độ bán buôn
cạnh tranh và bán lẻ cạnh tranh; v) từng bước nâng cao vị thế và vai trò của cơ quan
điều tiết trung ương tiến tới mô hình cơ quan điều tiết độc lập, có đủ năng lực và thẩm
quyền quản lý và điều tiết TTĐ;
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Edelev А. V., Tchemezov А. V.; Doan Van Binh; Nguyen Hoai Nam (2014),
“Software package Corrective to research long-term development of the
energy sector of Vietnam with regard to the requirements of energy
security and environmental constraints”, 16th Baikal International
Triannual School-Seminar Methods of Optimization and Their
Applications, Olkhon.
2. Edelev А.V., Tchemezov А.V, Pyatkova N.I., Nguyen Hoai Nam (2014),
“Сorrective software package to research long-term development of the
fuel and energy sector of Vietnam”, International journal “Programmnye
produkty i sistemy”, № 4 (108).
3. Doan Van Binh, Le Tat Tu, Nguyen Hoai Nam, Luu Le Quyen,
(2016), “Application of Expert Choice in selecting energy development
optimization scenario”, International Conference on Science and
Technology, 50th Anniversary of Electric Power University.
4. A. V. Edelev, I.A. Didorov, Doan Van Binh, Nguyen Hoai Nam (2016), “The
approach to find rational energy development ways in terms of energy
security requirements”, International Conference on Science and
Technology, 50th Anniversary of Electric Power University.
5. Van Binh Doan, Le Quyen Luu and Hoai Nam Nguyen (2017), “Support on
renewable energy and case of solar PV in Vietnam”, Asia-Pacific Tech
Monitor, Vol. 34 No. 1, Jan-Mar 2017.
6. Nguyễn Hoài Nam, Nghiêm Thị Ngoan, Nguyễn Cao Thành, Lưu Lệ Quyên
(2017), “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý và điều tiết thị trường điện
tại Việt Nam”, Tạp chí Công Thương, số 11 năm 2017, tr. 169-175.
7. Nguyễn Hoài Nam (2018), “Khó khăn và rào cản trong đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất điện năng tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển bền vững vùng, số 1 năm
2018, tr. 31-38.
8. Aleksey Edelev, Valeriy Zorkaltsev, Sergey Gorsky, Doan Van Binh, Nguyen
Hoai Nam (2018), “The Combinatorial Modelling Approach to Study
Sustainable Energy Development of Vietnam”, Conference proceedings of
the Third Russian Supercomputing Days, RuSCDays 2017, Moscow,
Russia, September 25–26, 2017, Communications in Computer and
Information Science book series. CCIS, volume 793 (Indexed by SCOPUS).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đoàn Văn Bình, Ngô Tuấn Kiệt và Bùi Huy Phùng (2010), "Hiện trạng và triển
vọng năng lượng Việt Nam đến năm 2030," Hội nghị khoa học kỷ niệm
35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội, p. 422.
2. Đoàn Văn Bình và cộng sự (2015), Nghiên cứu phương pháp tối ưu phát
triển hệ thống năng lượng quốc gia có xét đến yêu cầu đảm bảo anh
ninh năng lượng và phát triển bền vững, Viện Khoa học năng lượng -
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
3. Bộ Công nghiệp (2003), “Nghiên cứu về lộ trình hình thành và phát triển thị
trường năng lượng Việt Nam”, Báo cáo đề tài khoa học - công nghệ.
4. Bộ Công Thương (2017), “Thống kê năng lượng Việt Nam 2016”.
5. Bộ Công Thương (2017), Thông cáo báo chí của Bộ Công Thương về việc
Điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân năm 2017.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo cập nhật lần thứ nhất của Việt
Nam cho Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu.
7. Cục Điều tiết điện lực (2008), Đề án thiết kế tổng thể thị trường phát điện
cạnh tranh và tái cơ cấu ngành điện cho phát triển TTĐ, Hà Nội.
8. Cục Điều tiết điện lực (2015), Đề án Thiết kế chi tiết thị trường bán buôn
điện cạnh tranh Việt Nam, Hà Nội.
9. Cục Điều tiết điện lực (2017), Tổng kết vận hành Thị trường phát điện cạnh tranh
và Thị trường bán buôn điện cạnh tranh thí điểm giai đoạn 2016 - 2017.
10. Nguyễn Đức Cường (2012), Tổng quan về hiện trạng và xu hướng của thị
trường năng lượng tái tạo của Việt Nam.
11. Trịnh Quang Dũng (2012), “Bức xạ mặt trời và thực trạng ứng dụng ở Việt
Nam”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam..
12. GEA (2012), “Đánh giá năng lượng toàn cầu - Hướng tới một tương lai bền
vững (bản tiếng Việt)”, Học viện Quốc tế về Phân tích các hệ thống
ứng dụng, Laxenburg, Cộng hòa Áo.
153
13. Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia (2012), Báo cáo năm 2012, Truy cập
tại trang http://www.nldc.evn.vn/ [truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2018]
14. Đàm Xuân Hiệp (2012), Hình thành và phát triển thị trường điện lực tại Việt
Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
15. Cao Đạt Khoa (2010), Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý khâu truyền tải điện ở
Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
16. Ngô Tuấn Kiệt (2007), Nghiên cứu tổng quan và định hướng phát triển hệ
thống năng lượng Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, Hà Nội.
17. Trần Viết Ngãi (2013), “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 và những thách thức”, Diễn
đàn năng lượng và dầu khí - Đầu tư và phát triển bền vững, Hà Nội.
18. Bùi Huy Phùng (2012), “Quy hoạch năng lượng tổng thể - Cơ sở khoa học, pháp
lý cho quy hoạch các phân ngành năng lượng”, Năng lượng Việt Nam.
19. Bùi Huy Phùng (2016), “Năng lượng bền vững ở Việt Nam: Thách thức và
kiến nghị phát triển”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam.
20. Holger Rogall (2011), Kinh tế học bền vững - Lý thuyết kinh tế và thực tế của
phát triển bền vững, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ (Sách dịch).
21. Nguyễn Thành Sơn (2014), Xây dựng và phát triển thị trường bán buôn điện
cạnh tranh Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng, Đà Nẵng, 2014.
22. Nguyễn Ngọc Long và cộng sự (2006), Giáo trình triết học Mác Lê nin, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia.
23. Đặng Đình Thống và Lê Danh Liên (2005), Cơ sở Năng lượng mới và tái
tạo, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội,.
24. Trung Tâm Thông tin Điện lực (2018), Kết quả sản xuất - kinh doanh 2017.
25. Tô Quốc Trụ (2012), “Phản biện, kiến nghị giải pháp phát triển bền vững nguồn
năng lượng tái tạo Việt Nam”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam.
26. Tập đoàn điện lực Việt Nam Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia
(2015), Báo cáo vận hành hệ thống điện và thị trường điện Việt Nam
2015, Hà Nội.
154
27. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 về việc
Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn
2011 - 2020 có xét đến năm 2030, 2016.
28. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 về
cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam.
29. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29 tháng
06/2011 về cơ chế hỗ trợ các dự án điện gió nối lưới ở Việt Nam.
30. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24 tháng 03/2013
về cơ chế hỗ trợ các dự án điện sinh khối nối lưới ở Việt Nam.
31. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1835/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược
phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2050.
32. Nguyễn Anh Tuấn (2003), Hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh
của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh
tế quốc dân.
33. Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Mạnh Cường (2014), Quy hoạch hệ thống
điện Việt Nam - nhìn từ phía an ninh năng lượng Quốc gia, Báo cáo
đề tài khoa học, Viện Năng lượng.
34. Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Anh Dũng (2011), Nghiên cứu phương pháp xác
định giá truyền tải điện và các phương thức chống tắc nghẽn phù hợp
điều kiện thị trường điện ở Việt Nam, Báo cáo đề tài khoa học, Viện
Năng lượng
35. Tiết Minh Tuyết (2012), Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ chế điều chỉnh giá
điện đến cơ cấu thành phần phụ tải trong dự báo nhu cầu điện, Báo
cáo đề tài khoa học, Viện Năng lượng.
36. Tiết Minh Tuyết và Nguyễn Chí Phúc (2014), Nghiên cứu phân tích tương
quan giá các dạng năng lượng Việt Nam, Báo cáo đề tài khoa học,
Viện Năng lượng
37. Viện Năng lượng (2016), Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến 2030.
38. Viện Năng lượng (2017), Báo cáo viễn cảnh năng lượng Việt Nam 2017, Bộ
Công Thương - Đại sứ quán Đan Mạch.
155
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
39. A2ATrading (2014), Overview of the Italian Energy Market.
40. ADB (2004), Road Map for Power Sector Reform, Technical Assistance
41. ADB (2014), Assessing Power Sector Reform in Asia and the Pacific: Vietnam.
42. International Energy Agency (2013), Southeast Asia Energy Outlook,
International Energy Agency.
43. Energy Alliance (2012), “Case study: Power Sector Reform in Vietnam”, UNDP.
44. David Begg (2007), Stanley Fishcher, and Rudiger Dornbusch, Kinh tế học.
45. Torstein Bye and Einar Hope (2005), “Deregulation of electricity markets - The
Norwegian experience”, Statistics Norway, Research Department.
46. Helen Borrie (2013), The Firebird Book Second Edition, Volume 1: Firebird
Fundamentals, CreateSpace Independent Publishing Platform.
47. Robert Cushman (1941), The Independent Regulatory Commissions, New
York: Oxford University Press.
48. Deloitte (2016), Energy energy market reform - Country profile: Italy.
49. UNDESA Division for Sustainable Development (2012), "A guidebook to
the Green Economy ", United Nations, Geneva.
50. Source Forge (2013), Mixed Integer Linear Programming (MILP) Solver
lp_solve.
51. Fabrizio Gilardi and Martino Maggetti (2010), "The independence of
regulatory authorities," in Handbook of Regulation, D. Levi-Faur, Ed.,
ed Cheltenham: Edward Elgar.
52. GIZ (2015), "Overview of the Vietnamese Power Market - A Rewable
Energy Perspective" .
53. R. Haas and H. Auer (2006), "The prerequisites for effective competition in
restructured wholesale electricity markets," Energy, vol. 31, pp. 857-
864, 5//.
54. Sally Hunt and Graham Shuttleworth (1996), Competition and Choice in
Electricity, Chichester, United Kingdom: John Wiley and Sons Ltd.
156
55. Ierusalimschy, R.; Figueiredo, L.; Celes, W. (1996), Lua - An Extensible
Extension Language. Soft-ware: Practice and Experience, v. 26, n.6,
p.635-652.
56. International Energy Agency (2016), “World Energy Outlook 2016”.
57. International Energy Agency (2017), "Monthly Electricity Statistic”.
58. Louis L. Jaffe (1964), “James Landis and the Administrative Process”,
Harvard Law Review, vol. 78, pp. 319-328.
59. Paul L. Joskow (1997), Restructuring, Competition and Regulatory Reform
in the U.S Electricity Sector, Journal of Economics Perspectives, vol.
11, pp. 119-138.
60. Paul L. Joskow (2008), Lessons Learned From Electricity Market
Liberization, The Energy Journal, pp. 9-42.
61. Daniels Kirschen and Goran Strbac (2004), Fundamentals of Power System
Economics, Wiley.
62. James Landis (1938), The Administrative Process, New Haven: Yale
University Press.
63. Stephen Littlechild (1983), Regulation of British Telecommunications
Profitability, Department of Industry, London.
64. Iain MacGill and Stephen Healy (2013), "Chapter 20 - Is Electricity Industry
Reform the Right Answer to the Wrong Question? Lessons from
Australian Restructuring and Climate Policy A2 - Sioshansi, Fereidoon P,"
in Evolution of Global Electricity Markets, ed Boston: Academic Press,
2013, pp. 615-644.
65. Jan Moen and Jan Hamrin (1996), Regulation and competition without privatization:
Norway's experience, The Electricity Journal, vol. 9, pp. 37-45, 3//.
66. Bruce Mountain and Stephen Littlechild (2010), Comparing electricity
distribution network revenues and costs in New South Wales, Great
Britain and Victoria, Energy Policy, vol. 38, pp. 5770-5782, 10// 2010.
67. Vaughn Nelson (2009), Wind energy : renewable energy and the
environment.
157
68. David M. Newbery (1997), Privatisation and liberalisation of network
utilities, European Economic Review, vol. 41, pp. 357-383, 4// 1997.
69. David M. Newbery (2002), Problems of liberalising the electricity industry,
European Economic Review, vol. 46, pp. 919-927, 5// 2002.
70. Christian Ngô and Joseph B. Natowitz (2009), Our energy future : resources,
alternatives, and the environment.
71. Nhan T. Nguyen and Minh Ha-Duong (2009) Economic potential of
renewable energy in Vietnam's power sector, Energy Policy, vol. 37,
pp. 1601-1613, 5// 2009.
72. Douglass C. North (1990), Institutions, Institutional Change and Economic
Performance, Cambridge: Cambridge University Press.
73. OECD (2011), Towards Green Growth, OECD, Paris.
74. Michael G. Pollitt (2017), Chung-Han Yang, and Hao Chen, "Reforming the
Chinese Electricity Supply Sector: Lessons from International
Experience," University of Cambridge - Energy Policy Research Group.
75. Australian Energy Regulator (2012), State of the Energy Market.
76. Paul Samuelson and William D Nordhaus (2009), Economics, McGraw-Hill
Education, 19th edition.
77. Jon Stern (1997), "What Makes an Independent Regulator Independent?,"
Business Strategy Review, vol. 8, pp. 67-74.
78. Jon Stern and Stuart Holder (1999), Regulatory governance: criteria for
assessing the performance of regulatory systems: An application to
infrastructure industries in the developing countries of Asia, Utilities
Policy, vol. 8, pp. 33-50, 3//.
79. Steven Stoft (2002), Power System Economics: Designing Markets for
Electricity, Wiley-IEEE Press.
80. Dalia Streimikiene and Indre Siksnelyte (2016), Sustainability assessment of
electricity market models in selected developed world countries,
Renewable and Sustainable Energy Reviews, vol. 57, pp. 72-82, 5//.
81. Terna (2014), General Data.
158
82. Nguyen Anh Tuan (2012), A Case Study on Power Sector Restructuring in
Vietnam, presented at the Pacific Energy Summit.
83. Nguyen Anh Tuan (2017), National assessment of development potential of
grid-connected solar photovoltaic projects in Vietnam until 2020 with
a vision to 2030, Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit
(GIZ) - Ministry of Industry and Trade.
84. UNDP (2012), Fossil Fuel Fiscal Policies and Greenhouse Gas Emissions in
Vietnam.
85. UNDP (2013), A Marginal Abatement Cost Curve Analysis for the Energy
Sector in Vietnam.
86. UNDP (2014), Green Growth and Fossil Fuel Fiscal Policies in Vietnam.
87. Aisma Vītiņa, Nina Dupont, and Mikael Togeby (2017), Renewable Energy
Scenarios for Vietnam, Danish Energy Agency.
88. World Bank (2000), “Wind Energy Resource Atlas of Southeast Asia”.
89. World Bank (2016), A financial recovery plan for Vietnam Electricity (EVN:
with implications for Vietnam’s power sector, The World Bank.
90. Dagmar Zwebe (2012), Biomass Business Opportunities Viet Nam, SNV
Netherlands Development Organisation Vietnam.
159
PHỤ LỤC 1
Diễn biến điều chỉnh giá điện tại Việt Nam từ 2010 - 2017
T
T
Quyết định/Văn
bản của Thủ
tường Chính
phủ
Quyết
định/Thông tư
của Bộ Công
Thương
Thời
điểm
hiệu lực
Giá bán
điện
bình
quân
(đ/kWh)
Lần sau so
lần trước
đ/kW
h %
1
TB số 50/TB-
VPCP ngày
12/02/2010 của
VPCP
TT số
08/2010/TT-BCT
ngày 24/2/2010
Từ ngày
01/3/2010 1.058,00 109,5
11,54
%
2
QĐ số 269/QĐ-
TTg ngày
23/02/2011 của
Thủ tướng CP
TT số số
05/2011/TT-BCT
ngày 25/2/2011
Từ ngày
01/3/2011 1.242,00 184,0
17,39
%
3
QĐ số
24/2011/QĐ-TTg
ngày 15/4/2011
của TTg về điều
chỉnh giá bán điện
theo cơ chế thị
trường
TT số
42/2011/TT-BCT
ngày 19/12/2011
Từ ngày
20/12/201
1 1.304,00 62,0 4,99%
4 TT số
17/2012/TT-BCT
ngày 29/6/2012
Từ ngày
01/7/2012 1.369,00 65,0 4,98%
5 TT số
38/2012/TT-BCT
ngày 20/12/2012
Từ ngày
22/12/201
2 1.437,00 68,0 4,97%
6 TT số
19/2013/TT-BCT
ngày 31/7/2013
Từ ngày
01/8/2013 1.508,85 71,85 5,00%
7
QĐ số
69/2013/QĐ-TTg
ngày 19/11/2013
của Thủ tướng CP
quy định về cơ
chế điều chỉnh
mức giá bán lẻ
điện bình quân
QĐ 4887/QĐ-BCT
ngày 30/5/2014
Từ ngày
01/6/2014
Không điều chỉnh giá bán
lẻ điện, chỉ thay đổi cơ
cấu biểu giá
8 QĐ số 2256/QĐ-
BCT ngày
12/3/2015
Từ ngày
16/3/2015 1.622,01 113,16 7,50%
9 QĐ số 4495/QĐ-
BCT ngày
30/11/2017
Từ ngày
1/12/2017 1.720,65 98,64 6.08%
160
PHỤ LỤC 2
Thiết kế và thực hiện khảo sát về các khó khăn và rào cản đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất điện tại Việt Nam
Khảo sát được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2017. Hình thức khảo sát
là lập biểu khảo sát trực tuyến, gửi tới email của người được hỏi.
- Số lượng mẫu thu được phản hồi: 24
- Số lượng mẫu hoàn thành tất cả các câu hỏi: 20
- Số lượng mẫu không hoàn thành tất cả các câu hỏi: 4
Thống kê về đơn vị công tác của người được hỏi cho ở bảng sau:
Đơn vị công tác Số lượng
Đơn vị phát điện BOT hoặc các nhà sản xuất điện độc lập 13
Nhà nghiên cứu, chuyên gia 6
Đơn vị phát điện trực thuộc hoặc liên kết với EVN 2
Đơn vị truyền tải/phân phối bán lẻ điện 2
Đơn vị cung cấp dịch vụ cho nhà máy điện 1
Biểu khảo sát được chia làm 3 phần chính được thiết kế với phần lớn câu hỏi
có cấu trúc, sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của người được hỏi về các vấn đề
liên quan đến khó khăn (yếu tố nội tại) và rào cản (yếu tố bên ngoài) tác động đến
hoạt động của DN trong lĩnh vực đầu tư, quản lý vận hành các nhà máy sản xuất
điện, bao gồm điện NLTT.
Các yếu tố này được cấu trúc thành các 3 chính gồm:
- Các rào cản, khó khăn về quản lý, kỹ thuật – công nghệ
- Các rào cản, khó khăn về kinh tế - tài chính; và
- Các rào cản, khó khăn về môi trường giao dịch trên thị trường điện
Các thang đánh giá được chia làm 5 mức như sau:
- Khó khăn:
161
o Mức 1 tương ứng với “không phải là khó khăn” đối với DN
o Mức 5 tương ứng với “là khó khăn đáng kể” đối với DN
- Rào cản:
o Mức 1 tương ứng với “không phải là rào cản” đối với DN
o Mức 5 tương ứng với “là rào cản đáng kể” đối với DN
Ngoài ra NCS đã thiết kế một số câu hỏi mở để có thể thu thập một số thông
tin liên quan đến cảm nhận và ý kiến của những người được hỏi về các yếu tố vĩ mô
như môi trường kinh doanh, khung chính sách, thể chế điều tiết TTĐ, …, Các câu
trả lời thu được đã rất hữu ích đối với NCS trong việc kiểm chứng hoặc xem xét các
nhận định hoặc đề xuất các giải pháp phát triển thị trường điện lực trong phạm vi
luận án này.
Hầu hết người tham gia khảo sát là đại diện các DN đã, đang và sẽ tham gia
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất điện. Một số là đại diện cho đơn vị cung cấp dịch vụ
truyền tải, phân phối điện. Có 6 người tham gia khảo sát là các chuyên gia trong
ngành điện, hiện đang công tác tại các cơ sở nghiên cứu, đào tạo hoặc đơn vị tư vấn
có uy tín trong ngành. Trong số các đơn vị sản xuất điện tham gia khảo sát, có tới 9
đơn vị tham gia lĩnh vực điện mặt trời (37.5%), 5 đơn vị trong lĩnh vực đầu tư điện
gió (20.8%), 3 đơn vị đầu tư trên cả hai lĩnh vực điện gió và điện mặt trời, 3 đơn vị
quản lý vận hành nhà máy nhiệt điện than, 3 đơn vị sản xuất thủy điện. Còn lại là
các DN trong lĩnh vực điện sinh khối.
Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác biệt giữa các DN trong nhận thức về
các rào cản và khó khăn đối với hoạt động và sự tham gia của họ trong thị trường.
Khác biệt này có liên quan tới nguồn gốc và thành phần kinh tế của DN, phân khúc
thị trường sản xuất điện mà họ tham gia, năng lực, trình độ và kinh nghiệm tham gia
thị trường.
Kết quả chi tiết của khảo sát được tổng hợp như sau;
Phần 1. Các rào cản, khó khăn về quản lý, kỹ thuật - công nghệ
Thu xếp nguồn nhiên liệu/nguyên liệu cho vận hành nhà máy điện
- 9/19 DN gặp khó khăn với việc Thu xếp nguồn nhiên liệu/nguyên liệu cho vận
hành nhà máy điện. Các DN BOT/các nhà sản xuất điện độc lập gặp khó khăn ở
khâu này nhiều hơn, và là các đơn vị đầu tư trong lĩnh vực nhiệt điện than
162
- Rất ít DN có được thuận lợi trong khâu Thu xếp nguồn nhiên liệu/nguyên liệu
cho vận hành nhà máy điện ngoại trừ các DN đầu tư lĩnh vực điện mặt trời, thủy
điện, điện gió;
Các thủ tục đầu tư, cấp phép (Giấy chứng nhận đầu tư, Bổ sung dự án vào quy
hoạch điện, Lập Dự án đầu tư, Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Giấy phép
xây dựng, Giấy phép hoạt động điện lực ...)
- Đa số DN đánh giá đây là rào cản rất lớn; ngay cả đối với các DN phát điện
thuộc EVN GENCO;
- Gặp khó khăn nhất trong khâu này là các DN khối tư nhân trong và ngoài nước;
Quá trình tổ chức đấu thầu, mua sắm thiết bị - công nghệ và/hoặc lựa chọn nhà
thầu, quản lý và giám sát thi công
- Đa phần DN không gặp nhiều khó khăn với khâu này
- 4 DN cho biết gặp khó khăn đáng kể với khâu này là các DN mới tham gia đầu tư
hoặc đã đầu tư trong lĩnh vực sản xuất điện, trong tương lai chuyển đổi sang lĩnh
vực điện NLTT;
- 5 DN cho thấy họ tự tin với năng lực của mình trong khâu này là: EVN GENCO
và các DN có kinh nghiệm đầu tư và triển khai dự án thủy điện;
Quá trình hoàn tất thi công, hòa lưới và quản lý vận hành
- Đây là quá trình gây nhiều khó khăn với DN
- 6 DN ít gặp khó khăn ở khâu này là DN thuộc khối EVN GENCO, DN đã tham
gia và có kinh nghiệm trong ngành điện;
- 13 DN gặp khó khăn là các DN tư nhân, phần lớn là DN đầu tư vào điện NLTT;
Thu hút và duy trì nguồn nhân lực có kỹ năng và kinh nghiệm phục vụ
phát triển và vận hành nhà máy điện
Các DN nhìn chung ít gặp khó khăn trong công tác nhân lực ngoại trừ một số đơn
vị mới tham gia hoặc chuyển đổi sang đầu tư điện NLTT.
Phần 2. Các rào cản, khó khăn về kinh tế - tài chính
Tiếp cận và huy động vốn đầu tư cho phát triển dự án
- Có tới 14 DN gặp rào cản đáng kể đối với khâu này
- Không có đơn vị nào cho rằng họ có thể huy động vốn một cách rất thuận lợi;
- Chỉ có nhà đầu tư nước ngoài và một số ít nhà đầu tư tư nhân trong nước (3 đơn
vị) cho biết họ có tiềm lực tốt trong thu xếp tài chính và vốn cho phát triển dự án;
163
Thực hiện đàm phán và ký kết thỏa thuận mua bán điện/HĐMBĐ
Hầu hết DN đánh giá đây là rào cản đáng kể (13/20 DN) ngoại trừ một số
DN khối EVN GENCO.
Khung giá bán điện hiện nay
Nhìn chung không có sự đồng nhất về ý kiến của DN đối với khung giá bán
điện hiện náy. Một số DN cho rằng giá hiện nay phù hợp nhưng có tới 15/20 DN
cho rằng giá hiện nay chưa phù hợp.
Về môi trường kinh doanh và đầu tư trong lĩnh vực phát điện tại Việt Nam
(cơ chế khuyến khích, hướng dẫn đầu tư, quy định)
Nhìn chung môi trường kinh doanh và đầu tư trong lĩnh vực phát điện tại
Việt Nam được DN đánh giá là chưa thuận lợi (ý kiến của 9/20 DN)
172
PHỤ LỤC 3
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ thị trường phát điện cạnh tranh
Để phục vụ vận hành thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh từ tháng 7/2012,
BCT đã ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho thị trường.
Đối với Thông tư quy định vận hành Thị trường phát điện cạnh tranh, BCT đã
ban hành từ năm 2010 và cập nhật, điều chỉnh để xử lý các vấn đề còn tồn tại trong
công tác vận hành Thị trường phát điện cạnh tranh, cụ thể như sau:
– Thông tư số 18/2010/TT-BCT quy định vận hành thị trường phát điện cạnh
tranh;
– Thông tư số 45/2011/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
18/2010/TT-BCT ngày 10 tháng 05 năm 2010.
– Thông tư 03/2013/TT-BCT quy định vận hành thị trường phát điện cạnh
tranh, thay thế Thông tư 18/2010/TT-BCT và Thông tư 45/2011/TT-BCT
– Thông tư 30/2014/TT-BCT quy định vận hành thị trường phát điện cạnh
tranh, thay thế Thông tư số 03/2013/TT-BCT.
– Thông tư số 27/2009/TT-BCT của Bộ Công Thương ban hành quy định đo
đếm điện năng trong thị trường phát điện cạnh tranh;
– Thông tư số 41/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định phương pháp
xác định giá phát điện; trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành khung giá phát điện và
phê duyệt HĐMBĐ. Từ năm 2015, Thông tư 41/2010/TT-BCT được thay thế bởi
Thông tư số 56/2014/TT-BCT ngày 19 tháng 12 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Công
Thương quy định phương pháp xây dựng giá phát điện, trình tự kiểm tra HĐMBĐ;
và Thông tư số 57/2014/TT-BCT ngày 19 tháng 12 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương quy định trình tự xây dựng, ban hành khung giá phát điện;
– Thông tư số 12/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương Quy định hệ thống điện
truyền tải;
– Thông tư số 13/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định phương pháp
lập, trình tự, thủ tục xây dựng chi phí vận hành hệ thống điện và thị trường điện;
– Thông tư số 14/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định phương pháp
lập, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành và quản lý giá truyền tải điên và Thông tư
số 03/2012/TT-BCT của Bộ trưởng Bộ Công Thương Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Thông tư số 14/2010/TT-BCT;
173
– Thông tư số 40/2010/TT-BCT của Bộ Công Thương Quy định về trình tự,
thủ tục giải quyết tranh chấp trên thị trường điện lực;
– Thông tư số 18/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương Quy định Giám sát thị
trường phát điện cạnh tranh;
– Thông tư số 40/2014/TT-BCT của Bộ Công Thương Quy định quy trình điều
độ hệ thống điện quốc gia;
– Thông tư 18/2012/TT-BCT quy định giám sát thị trường phát điện
cạnh tranh.
174
PHỤ LỤC 4
Các bước tính toán chủ yếu, yêu cầu dữ liệu đầu vào của Corrective
I. Xem xét khả năng thay thế lẫn nhau giữa các loại nhiên liệu cho sản
xuất điện
Để phục vụ cho mô hình Corrective, NCS đã xem xét và phân tích các nguồn
năng lượng có khả năng thay thế NLNL hóa thạch trong tương lai. Có nhiều loại
năng lượng có thể thay thế năng lượng hoá thạch truyền thống trong phát điện như
năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng biển, năng lượng sinh khối, năng
lượng khí sinh học, năng lượng hạt nhân, địa nhiệt và năng lượng hydro. Vấn đề
thay thế năng lượng hoá thạch cho phát điện cần thiết nghiên cứu triển khai với mọi
quy mô khai thác từ quy mô hộ gia đình, xí nghiệp, cộng đồng dân cư nhỏ đến phát
điện nối lưới với quy mô vừa và lớn. Điện mặt trời, điện gió là các lựa chọn hàng
đầu thay thế năng lượng phát điện quy mô vừa trong khi điện hạt nhân vẫn có thể là
một lựa chọn cho tương lai sau 2030 để đảm bảo an ninh về nguồn cung điện năng
cho TTĐ.
II. Chuẩn bị dữ liệu về chi phí sản xuất, xuất nhập khẩu, biến đổi và vận tải
nhiên liệu cho sản xuất điện
NCS đã thu thập và chuẩn bị các dữ liệu về các thành phần chi phí sản xuất,
biến đổi và vận chuyển (chi phí tính toán) nhiên liệu cho sản xuất điện là các dữ liệu
quan trọng để giải bài toán cân bằng cung cầu điện năng cho Việt Nam. Bài toán
cân bằng cung - cầu điện năng Việt Nam được tính toán theo các vùng nên các
thành phần chi phí được xem xét riêng cho mỗi loại cơ sở sản xuất điện, trên cơ sở
đó tính toán các hệ số hàm mục tiêu chung đại diện cho các vùng.
Thành phần chi phí tính toán cần thiết trong hàm mục tiêu cần xác định cho
tất cả các loại nhiên liệu sử dụng cho sản xuất điện theo chuỗi cung ứng năng lượng
từ nơi sản xuất đến đầu vào hộ tiêu thụ. Các loại nhiên liệu, năng lượng cần xác
định chi phí gồm: Than bao gồm: Antraxit, than nâu, than bùn; điện: Thuỷ điện,
nhiệt điện, điện nguyên tử, điện từ năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, biomass, địa
nhiệt...); dầu và các sản phẩm dầu mỏ, khí tự nhiên và xác sản phẩm từ khí.
175
Các thành phần cần thiết của chi phí tính toán đối với các loại nhiên liệu kể
trên tính đến hộ tiêu thụ gồm:
– Chi phí sản xuất và biến đổi năng lượng
– Chi phí vận tải năng lượng
– Giá xuất nhập khẩu năng lượng
– Các loại thuế và phí.
Các thành phần chi phí nêu trên được quy về một đơn vị thống nhất với
điện năng là USD/GWh. Các giá trị thành phần chi phí được tính tại thời điểm
nghiên cứu (năm tính toán), các thành phần chi phí bỏ ra trong quá khứ sẽ được tính
quy dẫn về thời điểm tính toán.
III. Bộ dữ liệu đầu vào
Bộ dữ liệu đầu vào phục vụ tính toán cân bằng cung – cầu điện năng gồm dữ liệu
TTĐ giai đoạn nghiên cứu của luận án và có xét đến giai đoạn 2016-2030, trong đó chú
trọng đến ba mốc chính là 2020, 2025 và 2030. Với mỗi năm, các thông số được cấu trúc
theo ba vùng Bắc - Trung - Nam. Các thông số nguồn, vận tải, nhu cầu tiêu thụ được đưa
ra theo vùng tương ứng. Về phía sản xuất, các loại nhiên liệu cung ứng cho sản xuất điện
được xét là:
- Than: Antraxit, than nâu
- Khí tự nhiên
- Dầu và các sản phẩm dầu
- Năng lượng tái tạo: Gió, mặt trời, biomass
Cấu trúc dữ liệu ba mốc thời gian nêu trên là giống nhau, tuy nhiên quy mô dữ
liệu là khác nhau do chúng mô tả các thời điểm khác nhau của TTĐ bao gồm:
(1) Dữ liệu nguồn cung nhiên liệu cho sản xuất điện:
+ Khả năng sản xuất, xuất nhập khẩu các loại nhiên liệu
+ Chi phí sản xuất, xuất nhập khẩu các loại nhiên liệu
(2) Dữ liệu vận tải nhiên liệu và dữ liệu đường dây truyền tải điện: Đối với
nhiên liệu đầu vào cho sản xuất điện có 5 loại hình vận tải là đường sắt, đường bộ,
đường thủy, đường ống; đối với điện năng, hình thức vận tải là hệ thống đường dây
tải điện.
+ Khả năng vận tải
+ Chi phí vận tải
176
(3) Dữ liệu nhu cầu tiêu thụ năng lượng: nhu cầu này bao gồm nhu cầu điện
năng ở các hộ tiêu thụ cuối cùng và nhu cầu nhiên liệu tại các nhà máy sản xuất
điện theo ba vùng.
Nguồn dữ liệu
Để xây dựng bộ dữ liệu, NCS đã kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu, dữ liệu tính
toán của Viện Khoa học năng lượng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam. Ngoài ra, NCS còn tham khảo nhiều tài liệu liên quan gồm: các quy hoạch
phát triển KTXH các vùng kinh tế, các tỉnh thành; các quy hoạch ngành, lĩnh vực
liên quan; các văn bản pháp quy liên quan đến khai thác, chế biến, vận tải, tiêu thụ,
xuất nhập khẩu,... năng lượng; số liệu từ Tổng cục thống kê, Cổng thông tin điện tử
các bộ ngành liên quan, ... Một số tài liệu tham khảo chủ yếu có thể kể đến là:
- Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét đến 2030
- Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 2011-2020, có xét đến 2030
- Quy hoạch hệ thống sản xuất và phân phối khí dầu mỏ hóa lỏng giai đoạn
đến năm 2020, có xét đến năm 2030
- Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng
đến 2025
- Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn đến 2015
định hướng đến 2025
- Quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và
tầm nhìn đến 2030
- Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030
- Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030
- Các quy định về cước phí vận tải hàng hóa, thuế tài nguyên, phí môi trường,
thuế xuất nhập khẩu, ...