hoav - sacombank.com.vn tin kinh te... · khi chính sách tài khóa không có sự hỗ trợ...
TRANSCRIPT
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định
quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài
chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức phi chính phủ có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/8/2017. Theo đó, tổng mức tiền gửi tiết kiệm tự
nguyện không vượt quá 30% tổng vốn được cấp của
chương trình, dự án tài chính vi mô; Vay tổ chức tín
dụng, tổ chức tài chính, tổ chức trong nước và nước
ngoài theo quy định của pháp luật. Mức cho vay tối đa
đối với một khách hàng tài chính vi mô không vượt quá
50 triệu đồng. Hoạt động cho vay của chương trình, dự
án tài chính vi mô được thực hiện cho vay đối với khách
hàng tài chính vi mô theo nguyên tắc: Tự chủ trong
hoạt động cho vay và chịu trách nhiệm về quyết định
cho vay của mình; Theo thỏa thuận giữa chương trình,
dự án tài chính vi mô và khách hàng tài chính vi mô,
bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật.
Tin nổi bật
Chính sách tiền tệ lại gánh cho tăng trưởng
Từ tháng 8, người gửi tiền sẽ được bảo hiểm tối đa
75 triệu đồng
Khách hàng tài chính vi mô không được vay quá 50
triệu đồng
Lãi suất huy động giảm
SSI Research: Tín hiệu dịch chuyển chính sách từ
kích thích tài khóa sang tiền tệ
Theo đuổi tăng trưởng ngắn hạn, Việt Nam “có thể
phải đánh đổi”
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 19/06)
HOSE 766,83 0,73%
HNX 99,41 1,12%
D,JONES CK Mỹ 21.528,99 0,68%
STOXX CK C,Âu 3.579,58 1,01%
CSI 300 CK TQ 3.553,67 0,99%
Vàng (cập nhật lúc 08h15 ngày 20/06)
SJC Ng,đ/L 36.300 0,17%
Quốc tế USD/Oz 1.244,20 0,64%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.422 0,02%
EUR/USD 1,1145 0,41%
Dầu
WTI USD/th 44,33 0,52%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Chính sách tiền tệ lại gánh cho tăng
trưởng
Khi chính sách tài khóa không có sự hỗ trợ tốt, áp lực tăng trưởng GDP sẽ đặt
nhiều gánh nặng hơn lên vai CSTT. Do vậy, sẽ không ngạc nhiên nếu tín dụng
của các NH tiếp tục tăng nhanh trong 2 quý cuối năm. 5 năm trở lại đây, hiếm
có năm nào mà tín dụng cho những tín hiệu khởi sắc rõ rệt ngay từ thời điểm
đầu năm như 2017. Theo số liệu mới nhất của NHNN, TTTD tính đến 25/5 đạt
mức 6,53% (0,77% sv cuối tháng 4 và cao hơn mức 5,22% của cùng kỳ 2016)…
Trong các cuộc họp từ cuối 2016, NHNN đã có chỉ đạo NHTM phải xem xét
đẩy mạnh vốn cho vay hỗ trợ nền KT trải đều ra các tháng, tránh tình trạng chỉ
tập trung dồn vốn cho các tháng cuối năm. Thêm vào đó, bản thân một số NH
sau khi đã tạm “yên tâm” với việc xử lý nợ xấu trong 2016 cũng tăng cường cho
vay trở lại nhằm tăng thị phần và tăng doanh thu, LN… Nếu tín dụng duy trì đà
tăng nhanh như hiện tại thì liệu mức trần tín dụng (18% cho 2017) có bị vượt qua
và nếu vượt qua thì NHNN sẽ xử lý như thế nào? Một là sẽ phải xem xét hãm
bớt đà tăng trưởng, siết lại hoạt động cho vay trong 3 quý còn lại để vẫn nằm
trong chỉ tiêu TTTD mà NHNN chấp thuận từ đầu năm (đặc biệt đối với nhóm NH
tốp đầu có quy mô cho vay lớn). Hai là các NH này có thể sẽ xin NHNN nới chỉ
tiêu TTTD lên một mức cao hơn… Tín dụng tăng thì LS cho vay có giảm được
không? Câu hỏi này không chỉ phụ thuộc vào lượng cung tiền của NHNN mà
còn liên quan đến một biến số khác. Đó là liệu tiến trình xử lý nợ xấu có được
thúc đẩy nhanh hơn nhằm giảm áp lực trích lập dự phòng để hạ chi phí vốn
hay không? Nhìn tổng thể, diễn biến KTVM đang có những điều kiện thuận lợi
để NHNN tiếp tục nới lỏng CSTT. NHNN đã liên tục kêu gọi NHTM phải giảm
mặt bằng LS cho vay để hỗ trợ DN nhưng thông điệp này khó được thực thi
trong Q.I do vướng rủi ro lạm phát… CPI 0,53% trong tháng vừa qua đã
khiến lạm phát (sv cùng kỳ 2016) giảm từ mức 4,3% vào thời điểm cuối tháng 4
xuống 3,19%. Theo đó, kỳ vọng về lạm phát được kéo xuống quanh mức 3,5%
cho cả năm 2017. Ngoài ra, diễn biến tỷ giá 5 tháng qua rất ổn định. Trong khi
tỷ giá trung tâm liên tục được điều chỉnh qua từng ngày và hiện đạt mức 1%
thì tỷ giá LNH và tỷ giá niêm yết tại NHTM có xu hướng 0,2% sv cuối năm
ngoái bất chấp thông tin về nhập siêu và lộ trình tăng LS USD của FED.. Khi
rủi ro về lạm phát và tỷ giá không còn quá lớn, NHNN có thể sẽ xem xét nới
trần TTTD cho toàn hệ thống trong 2017 thêm 1-2%, lên mức 19-20%. Tổng
phương tiện thanh toán M2 theo đó có thể sẽ ở mức 18-19%. Áp lực nới lỏng
tiền tệ nhằm hỗ trợ cho tăng trưởng càng lớn hơn nếu đặt trong bối cảnh Chính
phủ vẫn kiên định mục tiêu GDP đạt mức tăng 6,7% và chính sách tài khóa
đang có vướng mắc nhất định trong việc giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách.
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Khi chính sách tài khóa không có sự hỗ trợ tốt, tăng trưởng sẽ đặt nhiều gánh
nặng hơn lên vai CSTT. Do vậy, sẽ không ngạc nhiên nếu tín dụng của các NH
tiếp tục tăng nhanh trong 2 quý cuối năm. Vấn đề còn lại là ngoài tín dụng tăng
thì LS cho vay có giảm được không? Câu hỏi này không chỉ phụ thuộc vào
lượng cung tiền của NHNN mà còn liên quan đến một biến số khác. Đó là liệu
tiến trình xử lý nợ xấu có được thúc đẩy nhanh hơn nhằm giảm áp lực trích lập
dự phòng cho các NHTM để hạ chi phí vốn hay không?
Từ tháng 8, người gửi tiền sẽ được bảo
hiểm tối đa 75 triệu đồng
Thủ tướng vừa ký QĐ 21/2017/QĐ-TTg về hạn mức trả tiền bảo hiểm. Theo
đó, QĐ quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều
24 Luật BHTG. Đối tượng áp dụng gồm: người được BHTG; tổ chức tham gia
BHTG; tổ chức BHTG; cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt
động BHTG. Kể từ 5/8/2017 số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản
tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật BHTG (cả gốc và lãi) của 1 cá
nhân tại 1 tổ chức tham gia BHTG tối đa là 75 triệu đồng. Như vậy, mức BHTG
áp dụng từ tháng 8 sẽ 50% sv quy định hiện hành… Theo số liệu mới nhất,
hiện số dư tiền gửi của các tổ chức và cá nhân tại NH đạt >6 triệu tỷ đồng. Nhờ
nguồn vốn dồi dào này các NH có được #6 triệu tỷ đồng cho vay với nền KT.
Khách hàng tài chính vi mô không
được vay quá 50 triệu đồng
Thủ tướng đã ký ban hành QĐ quy định về hoạt động của chương trình, dự án
tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - XH, tổ chức phi chính
phủ có hiệu lực thi hành từ 1/8/2017. Theo đó, Chương trình, dự án tài chính vi
mô được thực hiện huy động vốn dưới hình thức: Tiếp nhận vốn tài trợ, viện trợ
không hoàn lại, có hoàn lại của chính phủ, tổ chức, cá nhân trong và nước
ngoài; Nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc, tiền gửi tiết kiệm tự nguyện của khách
hàng tài chính vi mô. Tổng mức tiền gửi tiết kiệm tự nguyện không vượt quá
30% tổng vốn được cấp của chương trình, dự án tài chính vi mô; Vay TCTD, tổ
chức tài chính, tổ chức trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Mức cho vay tối đa đối với một khách hàng tài chính vi mô không vượt quá 50
triệu đồng Việt Nam. Hoạt động cho vay của chương trình, dự án tài chính vi
mô được thực hiện cho vay đối với khách hàng tài chính vi mô theo nguyên tắc:
Tự chủ trong hoạt động cho vay và chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của
mình; Theo thỏa thuận giữa chương trình, dự án tài chính vi mô và khách hàng
tài chính vi mô, bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật… Nội dung thỏa
thuận về cho vay giữa chương trình, dự án tài chính vi mô và khách hàng tài
chính vi mô phải được lập thành văn bản, trong đó tối thiểu có nội dung về
quyền, trách nhiệm bên cho vay và bên vay; mục đích sử dụng vốn vay; thời
hạn cho vay; mức cho vay; thời hạn hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay; LS cho vay
và hình thức bảo đảm tiền vay; LS cho vay phù hợp với quy định của pháp luật,
điều kiện cụ thể của chương trình, dự án tài chính vi mô, kế hoạch tài chính vi
mô, bù đắp đủ chi phí hoạt động, tăng trưởng và không vì mục tiêu LN.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tiếp tục chủ động trước biến động tỷ
giá USD/VND?
Ngày 16/6, tỷ giá USD/VND trên các thị trường gần như “thờ ơ” sau quyết định
tăng LS của FED. Lần thứ 3 trong vòng 6 tháng, FED 25 điểm LS. Đây cũng
là thời điểm nửa cuối tháng 6, thời điểm thường có biến động tỷ giá USD/VND
quen thuộc nhiều năm trước. Nhưng, trên các thị trường, tỷ giá USD/VND vẫn
rất ổn định. Trong ngày đầu tiên đón tác động từ quyết định của FED, giá USD
bán ra của các NH ổn định quanh 22.720 VND; trên thị trường tự do thậm chí
còn thấp hơn, ở gần 22.705 VND; trên thị trường LNH giá bán quanh 22.692
VND. Diễn biến trên cũng đáng chú ý, sau khi LS VND trên thị trường LNH liên
tiếp giảm mạnh trong tháng 5 và ổn định ở mức thấp từ đầu tháng 6, như LS
qua đêm chỉ quanh 2,1%/năm. Với sự ổn định trên, đã có một số nhận định,
hoạt động đầu cơ ngoại tệ đón quyết định tăng LS của FED vừa qua, tạm thời,
đã không thành công. Một mặt, đường đi và quyết định của FED đã được thị
trường dự tính trước và không gây nhiều bất ngờ. Yếu tố kỳ vọng cũng đã phản
ánh vào thị trường… Trong nước, NHNN đã chủ động trước đường đi đó. Tranh
thủ quãng thời gian ổn định, nhà điều hành đã chủ động tăng đều tỷ giá trung
tâm, hiện đã lên tới 22.417 VND sv mốc 22.159 VND cuối năm 2016. Việc chủ
động nâng tỷ giá trung tâm cũng nhằm giảm thiểu những cú sốc tiềm ẩn hoặc
những biểu hiện căng thẳng khi có biến động. Tỷ giá trung tâm lên cao, với
biên độ ±3%, vùng biến động “cho phép” được nâng lên cao hơn. Tất nhiên, đi
cùng, SGD NHNN duy trì thông điệp: sẵn sàng bán ra ngoại tệ với giá thấp hơn
mức trần biên độ. Đến nay, thông điệp này vẫn nguyên giá trị, dù đã thu hẹp
khoảng cách giá bán với trần từ thấp hơn 50 VND còn thấp hơn 20 VND. Và
như thể hiện kể từ khi ra đời, cơ chế tỷ giá trung tâm với rổ tham chiếu 8 đồng
tiền cũng là cơ chế giúp “pha loãng”, giảm chấn những tác động lớn từ bên
ngoài đối với tỷ giá, như quyết định FED tăng LS là một ví dụ. Dù thế nào, tỷ
giá USD/VND cũng phải dựa trên cân đối cung - cầu trên thị trường, trạng thái
ngoại tệ của hệ thống… Ở kênh giám sát chuyên trách của NHNN, cung - cầu
và trạng thái ngoại tệ vẫn ổn định và tốt; nguồn vốn đầu tư nước ngoài (với một
phần thu hút từ tỷ giá ổn định) vào và giải ngân cao hơn cùng kỳ 2016, cả ở nguồn
vốn gián tiếp trên TTCK; đáng chú ý, thay vì quan ngại giảm vì cơ chế LS USD
0%/năm, kiều hối vẫn ổn định và có xu hướng tăng lên. Điểm bất lợi đối với ổn
định tỷ giá là nhập siêu trong nửa đầu năm nay. Tuy nhiên, nhập siêu chủ yếu
từ NK nguyên vật liệu và thiết bị, trong khi XK đang cho đà tăng trưởng trở lại.
Để hỗ trợ XK, ngoài những bước đi của tỷ giá trung tâm, nếu tỷ giá USD/VND
quá ổn định, VND lên giá sv nhiều đồng tiền khác, NHNN có thể sẽ tiếp tục có
bước đi chủ động. Từ đầu năm, nhà điều hành đã 2 lần chủ động nâng giá
mua vào USD… Ở hướng đó, có một nhiệm vụ mà nhà điều hành CSTT được
giao: trong điều kiện phù hợp, gia tăng dự trữ ngoại hối - nguồn lực quốc gia.
Sáng 19/6, tỷ giá USD/VND đã có bước tăng mới trên biểu niêm yết của các
NHTM, từ 22.720 VND lên 22.750-22.760 VND.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Lãi suất huy động giảm
Báo cáo thị trường tiền tệ hàng tuần vừa công bố của SSI cho thấy, LS LNH
gần như giữ nguyên trong tuần qua (tuần đến ngày 16/6). LS qua đêm giảm nhẹ
xuống 1,8% sau đó tăng trở lại ngang bằng mức LS cuối tuần trước là 2%.
Tương tự, các kỳ hạn khác không có nhiều biến động, LS 1 tuần và 1 tháng giữ
ở mức 2,28% và 3,3%/năm. Hoạt động thị trường mở cũng không có giao dịch
nào đáng kể. Để bù lại 50 tỷ đáo hạn trong tuần, NHNN đã bơm trở lại 50 tỷ, do
đó khối lượng OMO đang lưu thông vẫn giữ ở mức 50 tỷ. Hệ thống NH đang
duy trì được trạng thái thanh khoản cân bằng với LS ổn định ở mức thấp… Xu
hướng LS giảm cũng được thể hiện trên thị trường 1. LS ngắn hạn, LS các kỳ
hạn 6 tháng và 12 tháng tuần qua cũng giảm nhẹ xuống mức 5,8% và
6,8%/năm ở một số NH nhỏ. Những lo ngại LS tăng hồi đầu năm đã qua, thanh
khoản dồi dào giúp LS ổn định hơn và có xu thế giảm.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Ngân sách 2015 bội chi 6,28% GDP
Với 454 đại biểu có mặt thông qua (#92,46%), chiều 19/6, QH đã đồng ý quyết
toán tổng số thu cân đối NSNN là 1,29 triệu tỷ đồng, gồm cả số thu chuyển
nguồn 2014 chuyển sang 2015, thu kết dư ngân sách địa phương 2014, thu
huy động đầu tư của ngân sách... Tổng số chi cân đối NSNN >,5 triệu tỷ đồng,
gồm cả số chi chuyển nguồn từ 2015 sang 2016. Như vậy, số thâm hụt ngân
sách này là 263.135 tỷ đồng, bằng 6,28% GDP, vượt 7.135 tỷ đồng sv mức QH
thông qua là 256.000 tỷ đồng (5,71% GDP kế hoạch và bằng 6,1% GDP thực tế)…
Giải trình lo ngại của các ĐBQH về bội chi ngân sách tăng, ảnh hưởng nợ
công, UBTVQH đề nghị Chính phủ cần có giải pháp tính toán GDP sát thực tế
và trong điều hành cần bám sát dự toán, tăng thu, tiết kiệm chi, ưu tiên giảm
bội chi NSNN, bảo đảm mức bội chi trong phạm vi đã được QH quyết định (cả
số tuyệt đối và tỷ lệ % GDP), để không vượt trần nợ công, nhằm đảm bảo an ninh
tài chính quốc gia. Riêng với khoản chi chuyển nguồn 2015 khoảng 236.564 tỷ
đồng, chiếm 18,69% chi cân đối NSNN và tiếp tục tăng sv năm trước (1.058 tỷ
đồng), UBTVQH "phê bình" Chính phủ. Số tiền chi chuyển nguồn lớn, theo cơ
quan này, là sự lãng phí trong quản lý, sử dụng nguồn lực ngân sách.
SSI Research: Tín hiệu dịch chuyển
chính sách từ kích thích tài khóa sang
tiền tệ
Theo báo cáo vĩ mô vừa được SSI Research công bố, chỉ số SX công nghiệp
tháng 5 báo trước tình hình SX Q.II sẽ không có nhiều cải thiện. "Mặc dù khai
khoáng là ngành kéo lùi tăng trưởng chung nhưng nếu chỉ tập trung vào việc
tăng khai thác dầu khí, chúng ta sẽ không thấy và giải quyết được vấn đề căn
bản đang tồn tại trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo". Trong đó, ngành
SX kim loại và SX xe có động cơ là 2 ngành vốn có tăng trưởng cao, thúc đẩy
tăng trưởng chung nhưng đang có dấu hiệu chậm lại rõ rệt. SX kim loại, ngành
có tăng trưởng rất cao và đóng góp chính cho đà tăng của toàn ngành công
nghiệp đã giảm tốc mạnh từ +42,9% xuống +7,6%. Tháng 5, chỉ số tồn kho
ngành SX kim loại tăng lên +82,4% (cùng kỳ 5,4%). "Tồn kho cao chắc chắn
sẽ làm tăng trưởng của ngành giảm sút, kéo giảm chỉ số công nghiệp nói
chung trong những tháng tới". SX xe có động cơ giảm từ +7,5% xuống +1% với
chỉ số tồn kho tháng 4 lên tới +158,9%. Chỉ số tồn kho của ngành SX xe có
động có xu hướng tăng trong khi chỉ số SX giảm cho thấy 2 vấn đề là sức cầu
tiêu thụ sản phẩm và sức ép cạnh tranh của hàng NK… Mục tiêu tăng trưởng
6,7% cho cả năm 2017 vẫn được Chính phủ quyết tâm thực hiện, tuy nhiên
tăng trưởng cao trong thời gian ngắn luôn đi kèm với rủi ro. "Chúng tôi nhận
thấy tín hiệu dịch chuyển thúc đẩy KT từ chính sách từ tài khóa sang CSTT.
Dù đây là giải pháp ít gây áp lực thâm hụt ngân sách và tăng hiệu quả đầu tư
Kinh tế Việt Nam
Chỉ số công nghiệp & tồn kho SX kim loại
Tăng trưởng các ngành công nghiệp CBCT 5 tháng
Chỉ số công nghiệp & tồn kho SX xe có động cơ
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
do nguồn vốn hướng đến khối tư nhân nhiều hơn, rủi ro lạm phát sẽ cao hơn
trong dài hạn cũng như có thể xuất hiện bong bóng tài sản"… Trong ngắn hạn,
lạm phát và thanh khoản trên thị trường tiền tệ đều đang tạo thuận lợi cho nới
lỏng chính sách. Lạm phát tháng 5 là một số âm, đây là lần đầu tiên trong 20
tháng lạm phát giảm. LS LNH kỳ hạn qua đêm nhanh chóng hạ nhiệt từ 4,53%
xuống 1,8%. Cầu trái phiếu sơ cấp cải thiện nhanh, đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn
với tỷ lệ đăng ký dự thầu kỳ hạn 5 năm đã tăng từ mức BQ 252% trong tháng 4
lên 381% trong tháng 5. Nới lỏng tiền tệ, tín dụng có thể đi vào BĐS và thúc
đẩy trở lại các ngành SX VLXD, trong đó có ngành SX kim loại. Tuy nhiên đây
là một lựa chọn đầy rủi ro. Ngược lại nếu giải ngân vốn ngân sách và hướng
đầu tư tới các dự án hạ tầng sẽ vừa tăng nhu cầu VLXD, vừa tạo ra sức lan tỏa
cao. Mâu thuẫn ở nút thắt ngân sách “có tiền mà không tiêu hết” trong khi nhu
cầu đầu tư hạ tầng vô cùng lớn là điểm mấu chốt cần tập trung giải quyết để có
tăng trưởng bền vững, tất nhiên với điều kiện phải kiểm soát tốt hiệu quả đầu
tư. Trong cán cân cung cầu của 2017, những giải pháp thúc đẩy sức cung, đặc
biệt từ phía DN trong nước nên được chú trọng để tạo tăng trưởng. Cung SX
phụ thuộc lớn vào khối FDI có thể giải quyết nhu cầu tăng trưởng trước mắt
nhưng lại tiềm ẩn rủi ro khó lường (sự cố Galaxy Note 7) cũng như rủi ro môi
trường và XH. "Gần đây chúng tôi nhận thấy có những thay đổi đáng ghi nhận
như chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa đối với ô tô hay thu hồi dự án FDI
giao lại cho DN trong nước như trường hợp dự án thép Dung Quất"… 2017 vẫn
nên là năm củng cố nền tảng thông qua cải cách thể chế, tạo nội lực vững
chắc để có tăng trưởng cao hơn cho các năm tiếp theo. Tạo tăng trưởng nhanh
bằng thúc đẩy sức cầu thông qua CSTT không giải quyết được cơ bản các nút
thắt của nền KT, không những thế lại tiềm ẩn rủi ro cho dài hạn.
Theo đuổi tăng trưởng ngắn hạn, Việt
Nam “có thể phải đánh đổi”
Viện Nghiên cứu KT và chính sách (VEPR) vừa công bố báo cáo KT thường
niên 2017. Trong đó, báo cáo nhận định: “Nguồn vốn dành cho đầu tư phát
triển buộc phải sử dụng các nguồn vốn vay, dẫn tới tình trạng nợ công gia tăng
nhanh trong những năm gần đây. Tình trạng mất cân đối ngân sách kéo dài và
nợ công tăng liên tục tạo ra nhiều hệ quả cho nền KT. Có thể kể đến những lo
ngại về tương lai của nền KT, với những bất định về rủi ro vĩ mô do một gánh
nặng nợ quá lớn mang lại, khiến LS tăng cao hoặc nguy cơ sụp đổ đồng tiền,
đều tác động tiêu cực tới những quyết định đầu tư dài hạn trong nền KT”… Báo
cáo nhấn mạnh, ngay từ đầu năm 2017, Chính phủ đã đặt quyết tâm rất cao
trong việc đạt mục tiêu tăng trưởng do QH đề ra là 6,7%, cho dù có nhiều cảnh
báo mục tiêu này là kém khả thi. Các biện pháp nêu ra để đạt mục tiêu tăng
trưởng mang tính kế hoạch hóa cao, chi tiết đến từng bộ ngành. Đặc biệt,
ngành dầu khí được chỉ thị tăng cường sản lượng khai thác để tăng mức đóng
góp vào GDP. Trong bối cảnh đó, VEPR đã dự báo 2 kịch bản cho KT VN
Tăng trưởng tín dụng 6 năm gần đây
Lãi suất trúng thầu trái phiếu giảm mạnh
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
2017. Cụ thể: (i) Kịch bản thứ nhất là tăng trưởng theo trạng thái gần với tình
trạng “tự nhiên” của nền KT. Trong kịch bản này, tăng trưởng KT cả năm 2017
dự báo đạt mức 6,37%. Mức tăng này phản ánh xu thế lớn của nền KT là vẫn
đang trong hướng hồi phục, nhưng chậm chạp; (ii) Kịch bản thứ hai, giả định
mức tăng trưởng đạt chỉ tiêu 6,7%, muốn vậy, Chính phủ phải bảo đảm cam
kết đốc thúc sát sao các ngành, các lĩnh vực đạt mức tăng sản lượng theo kế
hoạch chi tiết đã đề ra. Đặc biệt, ngành dầu khí được coi như một phương tiện
để bù đắp các thiếu hụt về chỉ tiêu tăng trưởng GDP… Điều đáng chú ý là,
“Việc Chính phủ phải dựa vào các đối tượng KT để đạt chỉ tiêu tăng trưởng, có
thể khiến Chính phủ phải thỏa hiệp với những điều kiện cải cách cứng rắn, qua
đó trì hoãn những điều chỉnh mà một chính phủ kiến tạo cần thúc đẩy. Phương
thức giao chỉ tiêu mà không tạo ra những cơ chế khuyến khích hay tạo động
lực mới, sẽ không mang lại kết quả bền vững”. Như vậy, hoặc là Chính phủ sẽ
luôn phải duy trì chế độ kế hoạch hóa (với hiệu quả giảm dần), hoặc nền KT sẽ
trở lại qu đạo tăng trưởng thấp khi Chính phủ từ bỏ phương thức quản lý này.
Việc theo đuổi tốc độ tăng trưởng cao trong ngắn hạn có thể phải đánh đổi
bằng cơ hội phục hồi tăng trưởng bền vững trong trung hạn… Về lạm phát, báo
cáo hạ dự báo tốc độ lạm phát chung cho cả năm 2017, xuống mức thấp hơn
3,5%. Lý do điều chỉnh chủ yếu đến từ cuộc khủng hoảng thừa thịt lợn diễn ra
trong nửa đầu năm, góp phần khiến thực phẩm giảm mạnh. Cụ thể hơn, trong
kịch bản 1, khi tăng trưởng không bị gò ép nhiều, lạm phát cả năm có thể chỉ ở
mức 2,35%. Đối với kịch bản 2, khi Chính phủ sử dụng nhiều biện pháp để kích
thích KT, mở rộng sản lượng, lạm phát có thể cao hơn một chút, nhưng cũng
chỉ dừng ở mức 3,2%. Điều này cho thấy trong 2017, Chính phủ có nhiều
không gian hơn để điều hành CSTT và các chính sách liên quan như điều
chỉnh giá các DV công thiết yếu, cũng như nới rộng CSTT và TTTD nhằm kích
thích KT. Do vậy, Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường KD, cởi trói cho
DN, XD một nhà nước kiến tạo thực sự. Đây là thời điểm ViệVN cần xem xét lại
các nguồn lực cho tăng trưởng vì bối cảnh hội nhập đang thay đổi. Các tư duy
ngắn hạn, mang tính đối phó với sự suy giảm tăng trưởng như nỗ lực tăng
thêm vốn, đẩy nhanh giải ngân các công trình công, hoặc tăng sản lượng khai
thác dầu thô... có thể không mang lại kết quả mong muốn.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
M - FED đã sẵn sàng xem xét nâng
mục tiêu lạm phát?
Trong nhận định ngày 14/6, chủ tịch FED, bà Yellen đã gọi cuộc tranh luận v/v
nâng các mục tiêu lạm phát toàn cầu đang nổ ra là một trong những câu hỏi
quan trọng nhất mà CSTT đang đối mặt, khi lãnh đạo của các NHTW hiện phải
vất vả tìm giải pháp cho một lối mòn KT, trong đó tăng trưởng thấp, LS thấp và
giá cả yếu và tăng lương đang củng cố sức mạnh cho nhau. Mục đích sẽ là
một sự thay đổi tâm lý của DN và các hộ gia đình, đồng thời thuyết phục họ
rằng giá cả sẽ tăng đủ nhanh trong tương lai và họ sẽ giàu có hơn khi vay
mượn và tiêu xài nhiều hơn trong thời đại ngày nay.. Với LS được kỳ vọng vẫn
duy trì ở mức thấp lịch sử, bà và những người đồng cấp hiện lo lắng rằng ngay
cả một cuộc suy thoái nhỏ cũng sẽ buộc họ phải giảm LS về mức 0 và triển
khai những công cụ thời khủng hoảng, như chương trình mua tài sản - một điều
mà họ có thể tránh được nếu LS cao hơn. Trong suốt đợt hồi phục 8 năm qua,
FED đã liên tục giảm ước tính của họ về tiềm năng KT M , về LS cần có để đạt
được điều đó và nhìn chung đã không đưa lạm phát về được trở lại mức 2%.
Bà cho rằng: “Chúng tôi đã học được nhiều điều”. Một bài học đã được rút ra là
LS sẽ bị kẹt ở các mức thấp lịch sử trừ khi có điều gì đó thay đổi. Nâng mục
tiêu lạm phát với hy vọng điều đó có thể là chất xúc tác cho sự thay đổi hay
không là một trong những quyết định quan trọng nhất của chúng tôi… Những
người đứng đầu các NHTW ở châu Âu, Nhật, Anh và những nơi khác cũng đã
bắt đầu thảo luận chi tiết về phương án này… Tỷ lệ thất nghiệp hiện thấp nhất
trong 15 năm qua với 4,3%, nhưng tăng trưởng tiền lương ở mức thấp và gần
đây, lạm phát đã trượt xa hơn khỏi mục tiêu của FED
Trung Quốc - Nỗi lo lắng đã trở lại?
CNBC cho rằng, mặc dù đang phải vật lộn với rất nhiều mối lo ngại về ông
D.Trump và tình trạng hỗn loạn ở Washington, các cuộc bầu cử ở châu Âu và
sự bất ổn từ CSTT của FED cũng như quyết định rời khỏi EU của Anh, nhưng
mới đây NĐT toàn cầu lại tỏ ra lo ngại về một vấn đề cũ là TQ… Nền KT TQ đã
chi phối diễn biến trên thị trường toàn cầu vì trước đó nước này chính là động
lực tăng trưởng chính của nền KT toàn cầu, và NĐT có thể sớm gặp nguy cơ là
cổ phiếu TQ sẽ biến động mạnh trong thời gian tới… NĐT đã nhận được khá
nhiều động lực để tham gia vào TTCK TQ. Tháng 3, Goldman Sachs khuyến
nghị NĐT gia tăng tỷ trọng cổ phiếu TQ với lý do TQ có tăng trưởng KT ngày
càng được cải thiện, các chính sách ổn định và các yếu tố tích cực khác. Tuy
nhiên, một số NĐT đã bắt đầu lo lắng trở lại. Kết quả của cuộc thăm dò từ
Bank of America-Merrill Lynch cho thấy trong tháng 5, các nhà quản lý qu đã
đề cập đến TQ là nguồn rủi ro tiềm ẩn lớn nhất cho thị trường toàn cầu lần đầu
tiên kể từ 1/2016. Moody’s cũng hạ bậc xếp hạng tín dụng TQ trong tháng
trước, đánh dấu lần hạ bậc tín nhiệm đầu tiên của TQ trong 28 năm.
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Nợ là lý do chính gây ra những mối lo ngại này. Để thúc đẩy nền KT, TQ đã sử
dụng biện pháp đẩy mạnh tín dụng, qua đó làm tăng thêm lượng nợ chồng chất
của nước này. Nợ của TQ đã chạm mức 257% GDP vào cuối năm 2016, cao
hơn sv M và cao hơn đáng kể sv mức 184% GDP của các nền KT mới nổi.
Tuy nhiên, các chuyên gia KT lo ngại nhất là tốc độ TTTD của TQ. Vào cuối
năm 2007, lượng nợ TQ chỉ ở mức 152% GDP nước này. Trong báo cáo tháng
6/2017, Capital Economics lên tiếng cảnh báo rằng lượng nợ ở TQ tăng nhanh
hơn hầu hết quốc gia chủ chốt trên thế giới và điều này đã góp phần củng cố
quan điểm cho rằng TQ chính là rủi ro lớn nhất mà các quốc gia châu Á mới
nổi đang phải đối mặt. Những tháng gần đây, Chính phủ TQ đã cố gắng đảo
ngược xu hướng này, cụ thể là ra sức làm chậm lại tốc độ TTTD. Tuy nhiên,
điều này cũng gây ra sự hỗn loạn trên các thị trường tài chính ở TQ. Các nhà
hoạch định chính sách TQ cũng tỏ ra lo lắng nhiều hơn. Vào cuối tháng 5,
Chính phủ TQ cho biết sẽ tăng cường kiểm soát đồng CNY, ngoảnh mặt với
cam kết cho phép các nguồn lực thị trường đóng vai trò xác định giá trị của
CNY… Không phải tất cả những người theo dõi TQ đều tỏ ra quá lo lắng. Các
nhà phân tích TQ vẫn tin rằng các chính trị gia sẽ giữ CNY và TTCK hoạt động
đúng định hướng trong vài tháng tới. Để tránh bất kỳ sự bất ngờ nào, các nhà
hoạch định chính sách có khả năng làm bất kỳ thứ gì có thể để tránh sự thay
đổi quá mạnh đến giá trị tài sản trước khi bước vào cuộc họp quan trọng.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số http://www.hsx.vn/
http://hnx.vn/web/guest/home
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/
http://www.bloomberg.com/markets/commodities/futures/
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tài chính - NH http://cafef.vn/tiep-tuc-chu-dong-truoc-bien-dong-ty-gia-usd-vnd-2017061913371789.chn
http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/khach-hang-tai-chinh-vi-mo-khong-duoc-vay-qua-50-trieu-dong-
191334.html
http://www.thesaigontimes.vn/161393/Chinh-sach-tien-te-lai-ganh-cho-tang-truong.html
http://cafef.vn/lai-suat-huy-dong-giam-20170619213547343.chn
http://cafef.vn/tu-thang-8-nguoi-gui-tien-se-duoc-bao-hiem-toi-da-75-trieu-dong-20170619173342859.chn
Tin KT vĩ mô http://vietstock.vn/2017/06/theo-duoi-tang-truong-ngan-han-viet-nam-co-the-phai-danh-doi-768-542182.htm
http://ndh.vn/ngan-sach-2015-boi-chi-6-28-gdp-20170619035821680p145c151.news
http://ndh.vn/ssi-research-tin-hieu-dich-chuyen-chinh-sach-tu-kich-thich-tai-khoa-sang-tien-te-
2017061909480778p145c152.news
Tin KT Quốc tế http://vietstock.vn/2017/06/noi-lo-lang-ve-trung-quoc-da-tro-lai-772-542087.htm
http://antt.vn/fed-da-san-sang-xem-xet-nang-muc-tieu-lam-phat-0129654.html
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
BĐS BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NHNN NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NSNN NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NK NK
Dự án DA SX KD SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký KD ĐKKD TCTD TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu DN TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN TTCK TTCK
KT vĩ mô KTVM VN VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
KV KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang M FED XK XK
Qu Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
KV sử dụng đồng euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO