hÀnh hƯƠng trÊn...một “thai nhi” trú ngụ trong lòng mẹ; còn dải gaza - phần...
TRANSCRIPT
1
HÀNH HƯƠNG TRÊN
QUÊ HƯƠNG CHÚA GIÊSU
Lưu hành nội bộ
2
3
MỤC LỤC
LỜI NGỎ
BẢN ĐỒ ISRAEL & PALESTIN
SƠ LƯỢC ĐỊA DƯ ISRAEL & PALESTIN
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT ISRAEL & PALESTIN
KHỞI HÀNH TỪ SÀIGÒN & MELBOURNE
1. ĐẶT CHÂN ĐẾN ĐẤT THÁNH
2. NHÀ THỜ THÁNH PHÊRÔ - CẢNG JAFFA
3. PHẾ TÍCH THÀNH CỔ CÊSARÊ DUYÊN HẢI
4. ĂN TRƯA TRÊN NÚI CARMEL
5. RẶNG NÚI CARMEL
6. TU VIỆN CÁT MINH SAO BIỂN (STELLA MARIS)
7. THÀNH PHỐ CẢNG HAIFA
8. LÀNG CANA MIỀN GALILÊ
9. NÚI TABOR - CHÚA HIỂN DUNG
10. SƠ LƯỢC VỀ NAZARET
11. TIỂU VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG TRUYỀN TIN
12. NHÀ THỜ THÁNH GIA
13. HỘI ĐƯỜNG NAZARÉT
14. NHÀ THỜ GIẾNG ĐỨC MẸ
15. BIỂN HỒ GALILÊ
16. TRẢI NGHIỆM SÓNG NƯỚC GALILÊ
17. CAPHARNAUM - THÀNH CỦA CHÚA GIÊSU
18. NHÀ THỜ TỐI THƯỢNG QUYỀN THÁNH PHÊRÔ
19. NHÀ THỜ TÁM MỐI PHÚC Ở TABGHA
20. NHÀ THỜ PHÉP LẠ HÓA BÁNH Ở TABGHA
4
21. THÀNH PHỐ TIBERIAS: MÓN CÁ NƯỚNG THÁNH PHÊRÔ
22. ĐƯỜNG TỪ THUNG LŨNG SÔNG GIOĐAN - GIÊRICÔ - BÊLEM
23. VÙNG NÚI GIUĐÊA & LÀNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ
24. NHÀ THỜ ĐỨC MẸ THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABET Ở EIN KAREM
25. NHÀ THỜ THÁNH GIOAN TẨY GIẢ Ở EIN KAREM
26. CÁNH ĐỒNG CHIÊN BÊLEM & NHÀ NGUYỆN MỤC ĐỒNG
27. THÀNH CỔ BÊLEM & QUẢNG TRƯỜNG MÁNG CỎ
28. HANG SỮA
29. QUẦN THỂ NHÀ THỜ GIÁNG SINH
30. NHÀ THỜ THÁNH CATARINA TỬ ĐẠO
31. HANG THÁNH GIÊRÔNIMÔ
32. NHÀ THỜ GIÁNG SINH
33. HANG GIÁNG SINH
34. VÙNG HOANG MẠC GIUĐÊA
35. QASR EL YAHUD - ĐỊA ĐIỂM RỬA TỘI Ở SÔNG GIOĐAN
36. NÚI CÁM DỖ
37. MẠCH NƯỚC TIÊN TRI ÊLISA
38. THÀNH GIÊRICÔ & CÂY SUNG GIAKÊU
39. QUMRAN & CÁC CUỘN BẢN THẢO BIỂN CHẾT
40. BIỂN CHẾT ĐANG CHẾT!
41. ĐƯỜNG TỪ GIÊRICÔ LÊN GIÊRUSALEM
42. LÀNG BÊTANIA MIỀN GIUĐÊA
43. NHÀ NGUYỆN THĂNG THIÊN Ở NÚI CÂY DẦU
44. NHÀ THỜ KINH LẠY CHA
45. NHÀ THỜ BÉTPHAGÊ
46. NHÀ NGUYỆN “CHÚA KHÓC”
47. NHÀ THỜ CHÚA HẤP HỐI - VƯỜN GIẾTSÊMANI
5
48. THÀNH CỔ GIÊRUSALEM
49. BỨC TƯỜNG THAN KHÓC (PHÍA TÂY)
50. PHÒNG TIỆC LY & HẦM MỘ VUA ĐAVÍT
51. NHÀ THỜ ĐỨC BÀ NGỦ (DORMITION)
52. NHÀ THỜ PHÊRÔ CHỐI CHÚA / NHÀ THỜ GÀ GÁY
53. NABLUS: THÀNH SIKHEM CỦA CÁC TỔ PHỤ
54. NÚI GARIZIM & NGƯỜI SAMARI
55. GIẾNG CỔ GIACÓP
56. HANG MỘ THỦ CẤP GIOAN TẨY GIẢ Ở SEBASTIA
57. CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
58. NÚI CALVARIÔ & ĐỈNH GOLGÔTHA NGÀY NAY
59. QUẦN THỂ NHÀ THỜ MỘ THÁNH
60. NHÀ NGUYỆN “QUÂN DỮ LỘT ÁO CHÚA GIÊSU”
61. NÚI GOLGÔTHA
62. NHÀ NGUYỆN CHÚA CHỊU ĐÓNG ĐINH
63. NHÀ NGUYỆN CHÚA TẮT HƠI TRÊN ĐỈNH GOLGÔTHA
64. PHIẾN ĐÁ KHÂM LIỆM
65. SẢNH TRÒN & VÒM MỘ THÁNH
66. BÊN TRONG KHÁM THỜ - MỘ THÁNH
67. NHÀ NGUYỆN A-ĐAM
68. ĐẠI THÁNH ĐƯỜNG PHỤC SINH
69. NHÀ NGUYỆN KÍNH THÁNH NỮ HÊLÊNA
70. THÁNH LỄ TẠ ƠN - NHÀ NGUYỆN “HIỆN RA”
71. CHIA TAY ĐẤT THÁNH
6
7
LỜI NGỎ
Cùng các thành viên rất thân mến của Đoàn hành hương Việt-
Úc từ ngày 3 đến 12.5.2018 tại Đất Thánh do Cha Hoàng Văn Quảng
SJ tổ chức, cũng như quý độc giả đang cầm trên tay tập sách này,
Tập ký sự Hành Hương Trên Quê Hương Chúa Giêsu này ghi lại
những diễn giải, kèm theo một ít hình ảnh minh họa, liên quan đến
hơn 50 điểm hành hương đoàn đã thăm viếng. Xin gửi đến 51 thành
viên thân mến của đoàn như một hồi ức ghi nhớ lại những ngày
hồng ân cùng nhau tìm về cội nguồn đức tin trên Đất Thánh.
Với các độc giả khác, tập sách cũng được dành cho quý vị, hy
vọng cung cấp một cái nhìn thoáng qua về quê hương của Chúa.
Đặc biệt, với bạn đọc có dự tính đi hành hương Đất Thánh, hy vọng
tập sách có thể trở thành một cẩm nang bỏ túi, cùng đồng hành
với quý vị tới từng địa điểm, bổ sung cho những thông tin về các
nơi quý vị sẽ viếng thăm.
Để có cái nhìn tổng hợp về các nơi chốn, cũng như giúp hiểu
xuyên suốt hơn những diễn giải về từng địa điểm, tập sách mở đầu
với phần Sơ lược Địa dư, Sơ lược Lịch sử Đất Thánh, và bản đồ định
vị các địa danh thăm viếng. Nếu độc giả có thời gian đọc trước các
phần Sơ lược này ắt sẽ rất ích lợi.
Ước mong những thông tin - và nhất là những trải nghiệm
trực tiếp nếu được cơ hội - về quê hương của Chúa và về các nơi
chốn từng diễn ra các sự kiện của Mầu nhiệm cứu độ, sẽ giúp mỗi
chúng ta hiểu biết thêm về Thánh Kinh, lớn lên hơn trong đức tin
và lòng mến Chúa, cũng như khao khát sống mạnh mẽ hơn đức tin
và ơn gọi của mỗi người.
Thân mến,
Người hành hương
8
9
BẢN ĐỒ ĐỊA DƯ ISRAEL & PALESTIN
10
11
BẢN ĐỒ CÁC ĐỊA DANH HÀNH HƯƠNG
12
13
SƠ LƯỢC ĐỊA DƯ ISRAEL & PALESTIN
TỔNG QUAN ĐỊA DƯ
Israel & Palestin là hai quốc gia Trung Đông gắn chặt với
nhau về nhiều mặt. Do cùng nằm ở vị trí địa-chính-trị xung yếu -
ngay điểm giao nhau giữa 3 châu lục Á, Âu và Phi - nên hai mảnh
đất này luôn là miếng mồi tranh giành giữa các đế quốc cổ đại từ
nghìn năm trước, mãi cho đến ngày nay.
Về phương diện lãnh thổ, cho đến trước 1948, cả hai vùng
chỉ là một thực thể duy nhất với tên gọi là Palestina. Ngay cả sau
khi phân chia, “Vùng Bờ Tây Sông Giođan” (West Bank) của
Palestin như hiện nay vẫn nằm lọt thỏm trong lãnh thổ Israel như
một “thai nhi” trú ngụ trong lòng mẹ; còn Dải Gaza - phần lãnh
thổ Palestin bị chia cắt khỏi Vùng Bờ Tây - thì liền mạch với Ven
biển Địa Trung Hải của Israel. Về tôn giáo, các địa điểm thánh của
Kitô-giáo phân bố trên cả hai vùng lãnh thổ, khiến khách hành
hương phải đồng thời đặt chân đến cả Israel lẫn Palestin thì mới
viếng thăm trọn vẹn. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần lịch sử, tại
sao có sự phân chia và đan xen lãnh thổ như thế.
Với các quốc gia lân cận, Israel & Palestin có chung biên giới
phía Bắc với Liban, phía Đông-Bắc với Syria, phía Đông với Jordan
(Gióc-đa-ni), phía Tây-Nam với Ai-Cập. Biên cương tự nhiên Phía
Tây của Israel & Gaza là Bờ biển Địa Trung Hải dài 273 km, mở ra
với Châu Âu và Bắc Phi; Phía Đông ngăn cách với Syria bởi Biển
Hồ Nước ngọt Galilê và với Jordan bởi Sông Giođan và Biển Chết.
Riêng Phía Nam Israel là Sa mạc Nê-ghép (Negev) rộng lớn có
hình phễu dài và hẹp, với mũi cực nam (nhọn như Mũi Cà-mau)
thông ra Biển Đỏ (Hồng Hải), mở đường cho Israel tiến ra Biển
Ả-Rập và Ấn-Độ-Dương bao la.
Về hình thể địa lý, Israel & Palestin khá nhỏ bé, và có hình
dáng dài và hẹp. Chiều dài từ Bắc chí Nam chỉ 470 km (so với VN:
14
1.650 km), chiều rộng nhất từ Gaza đến Biển Chết chỉ 114 km (so
với VN: 600 km ở Bắc Bộ), và chỗ hẹp nhất là Mũi Cực Nam trên
bờ Biển Đỏ chỉ có 15 km (so với VN: 50 km ở Quảng Bình).
Diện tích của Israel hiện tại là 20,770 km2 (so với VN: 331.698 km2) nhưng quá nửa là hoang mạc (12,000 km2), cộng với hai
“lãnh thổ chiếm đóng” mà Israel không có chủ quyền thực:
Cao Nguyên Gôlan phía Đông-Bắc (1.150 km2): Vốn thuộc về
Syria, nhưng Israel đã chiếm giữ sau cuộc chiến tranh 6 ngày
năm 1967 do Liên quân Ai-Cập, Syria và Jordan gây chiến.
“Vùng Bờ Tây” (5.879 km2) và “Đông Giêrusalem” (70 km2): Đây
là lãnh thổ được chia cho Palestin năm 1948, nhưng đã bị
Jordan chiếm đóng (với danh nghĩa bảo hộ). Sau cuộc chiến
6 ngày năm 1967, Israel đã sát nhập Đông Giêrusalem và
chiếm đóng Bờ Tây cho đến nay. Kể từ đó, Israel tự tiện xây
dựng nhiều khu định cư Do thái (371,000 người: năm 2015)
trái với luật quốc tế, vì thế các vụ xung đột xảy ra như cơm
bữa giữa cư dân Palestin với binh sĩ Israel.
Riêng Dải Gaza ở Tây-Nam của Palestin (770 km2) bị Ai Cập chi
phối sau Hiệp ước Phân chia lãnh thổ 1948, rồi chiếm hẳn năm
1959. Đến 2007, Tổ chức khủng bố Hồi giáo Hamas lên nắm
quyền, Gaza đã bị Israel cô lập hoàn toàn với Vùng Bờ Tây và
thế giới cả về đường bộ, đường biển và trên không.
Về địa hình, điểm cao nhất của Israel & Palestin là Núi Meron
(1.208 m) ở cực Bắc Galilê, giáp Cao nguyên Gôlan; còn điểm thấp
nhất là “rãnh đứt gãy địa chất” (rift) của vỏ Trái đất, kéo dài từ
Biển Hồ Galilê (-209 m thấp hơn mực nước biển), dọc theo Sông
Giođan (-210m) xuống đến Nam Biển Chết (-418m). Hiện tại, mỗi
năm mực nước Biển Chết giảm 1 m. Nếu Jordan không cộng tác
vào dự án của Israel đào kênh dẫn nước từ Biển Đỏ vào giải cứu,
Biển Chết có thể sẽ chỉ còn là một vũng lầy trong 30 năm nữa.
15
DÂN SỐ - VĂN HÓA - XÃ HỘI
Năm 2017, riêng lãnh thổ Israel có 8,850,000 dân bao gồm
cả người Palestin sống trên đất Israel và có quốc tịch Israel. Vùng
Bờ Tây có 2,800,000 người Palestin bản địa và 371,000 dân định
cư Do thái; Đông Giêrusalem có 320,300 cư dân Ả-rập và 212,000
Do thái. Riêng Dải Gaza có khoảng 1,900,000 người Palestin.
Tổng cộng cả 2 lãnh thổ có 14,453,300 dân (2017). Từ sau 1948,
dòng kiều dân Do thái hồi hương vẫn tiếp tục đổ về Israel. Họ
luôn được Nhà Nước Do thái đón nhận, miễn là chứng minh
được gốc gác Do thái của mình.
Về ngôn ngữ và tôn giáo, lãnh thổ Israel sử dụng 3 ngôn ngữ
là tiếng Ả-rập, Do thái và tiếng Anh; Do thái giáo là tôn giáo chính,
rồi đến Hồi giáo và Kitô giáo; các tôn giáo còn lại chiếm chưa tới
5% dân số. Lãnh thổ Palestin chỉ dùng tiếng Ả-rập và Tiếng Anh;
đại đa số dân cư theo Hồi Giáo, trừ một thiểu số rất ít người
Palestin theo Kitô-giáo (Vùng Nazarét và Bêlem).
Các thành phố lớn của Israel tính theo thứ tự gồm:
Giêrusalem ở phía Nam, Tel Aviv-Yafo và Netanya ở Duyên Hải
Miền Trung, Thành phố cảng Haifa ở phía Bắc. Trong đó, Tel Aviv-
Yafo nắm vai trò quan trọng nhất về kinh tế.
Các thành phố lớn của Vùng Bờ Tây gồm: Nablus,
Bethlehem, Thủ đô hành chánh Ramallah, Hebron, Giêricô. Còn
phía Dải Gaza thì có ba thành phố chính: Gaza City (831,000 dân)
và Khan Yunis (179,000 dân), Rafa (153,000 dân).
Ngày nghỉ cuối tuần (weekend) khác biệt tùy theo mỗi tôn giáo:
Thứ 6 (Hồi giáo), Chủ nhật (Kitô-giáo), Thứ 7 (ngày Sabat của Do
thái giáo). Riêng ngày Sabat, hầu hết các hoạt động công cộng,
văn phòng, siêu thị trên lãnh thổ Israel đóng cửa từ chiều thứ 6
hết hết chiều thứ 7, ngoại trừ các khu Ả-rập vẫn hoạt động bình
thường.
16
17
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
VÙNG ĐẤT ISRAEL & PALESTIN
A. VÙNG ĐẤT CANAAN CỔ ĐẠI
Niên đại của các nền văn minh cổ đại thường được tính toán
dựa trên chất liệu công cụ sản xuất và chiến đấu của mỗi thời:
thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng và thời kỳ đồ sắt.
Vào Thời đồ đồng (2.600 - 1.100 tcn đối với Tây Á), Vùng đất
Israel & Palestin đã được ngụ cư bởi những “thành bang” hay
“chính quyền thị quốc” (city-states) của người Canaan, chịu ảnh
hưởng của các nền văn minh cổ đại xung quanh là Ai-Cập, Lưỡng-
hà-địa (Iran, Irắc), Syria, Phênixia, Đảo Creta (Hy Lạp). Trong số
các thành bang Canaan, cổ xưa nhất vẫn là Giêricô, được ghi
nhận tồn tại từ 9,000 năm trước Công nguyên (tcn) dưới tên gọi
Tel es-Sultan, cổ xưa vào bậc nhất của lịch sử nhân loại.
Khoảng năm 1900 tcn, một bộ tộc du mục từ thành Ur (đọc
là “Ua”) xứ Can-đê thuộc Irắc ngày nay, đã du cư đến Vùng đất
Canaan cổ đại, do một tộc trưởng có tên là Abraham dẫn đầu.
B. CÁC ĐỊA DANH TỪ THỜI CỰU ƯỚC
Khi đến thăm các di tích ở Đất Thánh, ta thường thấy các
tòa nhà hiện nay nằm trên nhiều tầng tàn tích khảo cổ, và được
nghe thuyết minh là đã có từ thời Cựu ước, từ thời Chúa Giêsu,
thời Đế quốc Byzantine, Thời Thập Tự Chinh, hay từ Thời Đế quốc
Ottoman, v.v. Vì vậy một cái nhìn sơ lược về các thời kỳ lịch sử
của Israel từ cổ đại sẽ giúp hiểu hơn lai lịch cũng như các giai
đoạn xây dựng của các nhà thờ hay di tích thăm viếng.
1. Tổ phụ Abraham (Sáng thế, chương 12-23)
Từ thành Ur xứ Can-đê (Irắc), Tổ phụ Abraham nghe theo
tiếng gọi của Thiên Chúa đã rời bỏ quê cha đất tổ cùng với cháu
18
trai tên là Lót (Sách Sáng thế 12,1-5), du hành ngược lên phía Tây
Bắc, lưu trú một thời gian ở Kharan (Thổ Nhĩ Kỳ), rồi qua Đamát
(Syria: St 15,2) trước khi đến lập cư chính thức ở Đất Thiên Chúa
hứa là Canaan (St 12,6). Những địa danh mà Abraham từng đi
qua tại Canaan hãy còn tồn tại đến ngày nay gồm:
Sikhem (Sechem): Nay là Tp Nablus thuộc Samaria (St 12,6)
Ai-Cập: Để mua lúa cứu đói (St 12,10-20).
Bết-ên (Bethel) và Ai: Từ Ai-Cập, ông ngược về Nêghép, và
xây 2 bàn thờ tại Bết-ên (St 12,8) và Ai (St 13,3). Về sau, khi
Giôsuê đưa dân vượt Sông Giođan chinh phục Đất Hứa,
quân của ông đã vất vả giao chiến để chiếm Thành Ai này (Gs
7-8). Ngày nay 2 địa danh này vẫn còn tồn tại gần Samaria.
Thung lũng Sông Giođan (Jordan Valley): Là dải đất trù phú
trải dọc theo Sông Giođan. Abraham từng đặt chân đến
vùng thung lũng màu mỡ này, nhưng vì Lót “xí” vùng ấy nên
Abraham đã đi Hebron (St 13,11-12). Về sau Abraham đã giúp
liên minh 4 vua Canaan ở Thung lũng Sông Giođan đánh bại
các vua từ phía Đông Giođan qua xâm chiếm (St 14).
Salem (Giêrusalem về sau): Khi giao chiến trở về, Abraham
được Vua Salem là Melkisêđê dâng bánh và rượu, và Vua
Sôđôm cũng ra chúc mừng chiến thắng (St 14,17-24).
Khéprôn (Hebron): Abraham lập cư ở cụm sồi Mamrê (St
13,18). Tại đấy, Abraham đã dựng một bàn thờ kính Chúa.
Sau đó ông còn lưu lại Hebron lâu dài (Sáng thế 15-18).
Sa mạc Nê-ghép (Negev): Abraham cũng có thời gian cư ngụ
tại Gơ-ra, trong sa mạc Nê-ghép (St 20,1). Về sau, Isaác con
ông cũng quay về Gơ-ra khi xảy ra nạn đói kém (St 26,1).
Bơ-e-Se-va (Beersheba): Ở phía Nam Canaan. Ngoài Hebron,
đây là nơi Abraham lưu trú lâu dài. Tại Bơ-e-Se-va, bà Sara
đã sanh Isaác khi Abraham 100 tuổi (St 21,1-32), và Sara đã
19
đuổi người nữ tỳ Haga cùng con trai Ismael (do Abraham)
vào rừng vắng. Người Ả-rập Hồi giáo về sau đã nhận mình
thuộc dòng dõi Ismael, nên họ cũng xem Abraham là Tổ phụ
và đón nhận tôn giáo độc thần của Abraham (nhưng gọi
Thiên Chúa là Allah).
Núi Mô-ri-gia (Moriah): Lúc Abraham ở Bơ-e-Se-va, Thiên
Chúa truyền cho ông đem Isaác đi sát tế ở Núi Mô-ri-gia (St
22) được xác định là Giêrusalem (2Sbn 3,1). Về sau, Vua
Salômon đã cho xây Đền Thờ trên tảng đá lớn ở Giêrusalem,
được cho là nơi Abraham đã sát tế con. Tảng đá này (18m x
13m) hiện vẫn còn trong Đền “Vòm Đá Tảng” (Dome of the
Rock) do người Hồi giáo xây năm 691 trên nền Đền thờ của
Do thái giáo đã bị quân Rôma san phẳng năm 135 CN. Riêng
người Samari ở Miền Trung, dựa vào Truyền thống tôn giáo
riêng của họ, lại khẳng định Abraham đã sát tế con trên núi
Garizim. Vì thế họ có Đền thờ riêng cho dân tộc mình trên
một phiến đá ở Núi Garizim (Ga 4,20).
Abraham qua đời năm 175 tuổi, và được chôn cất tại Hebron
(St 25,7-11), trên cánh đồng ông đã mua của ông Ép-rôn để chôn
táng bà Sara và cả gia tộc về sau (St 23,1-21).
2. Tổ phụ Giacóp (Sáng thế, chương 25-50)
Ông Isaác có 2 con trai là Esau và Giacóp. Giacóp đã lập mưu
cướp quyền trưởng nam của anh (St 27), sau đó phải trốn
khỏi Bơ-e-Se-va để về lại Kharan lập nghiệp và kiếm vợ (St
27,1-10). Trên đường chạy trốn, cậu được Chúa báo mộng tại
Bết-ên sẽ phù hộ cậu, vì thế cậu đã lập bàn thờ kính Chúa tại
đó (St 28,18-19 và 35,1), nơi Abraham đã từng lập bàn thờ
(St 13,4). Thời gian sau, Giacóp đưa gia đình trở về lại Đất
Canaan, và lập cư ở Sikhem (St 33-34).
Câu chuyện 12 người con của Giacóp rất ly kỳ (St 34-50), và
kết thúc bằng việc đại gia đình Giacóp di cư sang Ai-Cập trốn
20
đói (St 46) và Giacóp qua đời trên đất khách (St 50). Theo
Sách Xuất hành, dân Israel ngụ cư ở Ai Cập 430 năm, rồi
được Môsê lãnh đạo trở về lại Đất hứa ở Canaan (12,30-42).
Sau 40 năm sa mạc (Tv 95,10), Môsê không vào được Đất
Hứa, nhưng yên nghỉ trong Xứ Mô-áp bên kia Sông Giođan.
Từ đỉnh Núi Nơ-vô, đối diện Giêricô, Thiên Chúa đã chỉ cho
ông thấy toàn bộ Đất Hứa bên trong Sông Giođan (Đnl 34).
Rồi Chúa đã chọn Giôsuê, trợ lý của Môsê, thay ông đưa dân
vượt Sông Giođan tiến vào Đất Hứa (Sách Giôsuê 1,1).
3. Ông Giôsuê đưa dân vào Đất Hứa (Sách Giôsuê)
Chương 2: Thuật lại việc Giôsuê sai người vượt Sông Giođan
qua do thám thành Giêricô trước khi đổ bộ vào Đất Hứa.
Chương 3-12: Kể việc dân vượt Sông Giođan vào chiếm Đất
Hứa, hoặc liên minh với các Vua địa phương.
Chương 13-21: Giôsuê chia đất cho 12 chi tộc Israel ở cả hai
bên bờ hữu ngạn (nước Jorđan và Syria ngày nay) và tả ngạn
(nước Israel & Palestin ngày nay) Sông Giođan.
4. Thời quân chủ (từ 1020 tcn đến lưu đày 587 tcn)
Trong giai đoạn Vương quốc thống nhất dưới triều Vua
Saun, Đavít và Salômon (1020-933 tcn), lãnh thổ Israel rộng
lớn nhất trong lịch sử. Ngay khi lên ngôi, Vua Đavít đã đánh
chiếm thành Giêrusalem trên Núi Sion của người Jebusites,
rồi dời đô và Đền Thờ lên Núi ấy (2Sm 5-6). Tiếp đến, Vua
Salômon cho xây dựng Đền Thờ thứ I tráng lệ trên Núi Sion
năm 957 tcn, từ đấy Núi mang tên “Núi Đền” (Temple
Mount). Ngày nay, trên Núi Đền Giêrusalem lại là ngôi Đền
Hồi giáo “Vòm Đá Tảng” (mái màu vàng kim) và Giáo đường
Al-Aqsa (mái vòm màu đen), được xây năm 691 CN.
Khi Salômon qua đời (931 tcn), Vương quốc bị chia đôi: Israel
phía Bắc lấy Samaria làm thủ đô (1V 16,24); Giuđa phía Nam
21
giữ Giêrusalem là thủ đô. Năm 721 tcn, Vương quốc Israel
thất thủ; Đế quốc Assyria bắt dân chúng đi lưu đày và đưa
dân ngoại đến đồng hóa các thành Samaria (2V 17,24). Từ đó
người Do thái không còn nhận người Samari là cùng một
dân tộc. Năm 587 tcn, đến lượt Vương quốc Giuđa bị Đế
quốc Babylon xâm chiếm, phá hủy Đền Thờ của Salômon và
đưa dân đi lưu đày.
5. Thời lưu đày trở về (từ 538 tcn cho đến Chúa Giêsu)
Sau 50 năm lưu đày, Vua Ba Tư cho Do thái hồi hương (538
tcn). Ông Giơrúpbaven lãnh đạo dân tái thiết và cung hiến
Đền thờ năm 515 tcn (Khắc-gai 2,23; Dacaria 4,8-10). Đền Thờ
thứ II này được Hêrôđê Cả trùng tu lộng lẫy năm 20 tcn.
Năm 197 tcn, nhà Sêlêucia thuộc dòng dõi Hy Lạp chiếm
Palestin và cấm đạo gắt gao. Họ tế các thần Hy lạp trong
Đền Thờ. Anh em nhà Maccabê đã nổi lên khởi nghĩa (166-
134 tcn), tái chiếm và thanh tẩy Đền Thờ (1 Mc 4,36-61).
Nhưng sau cùng, cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan năm 134 tcn.
Năm 63 tcn, Đế quốc Rôma chiếm Palestin. Hêrôđê Cả được
đặt làm vua bù nhìn cai quản Galilê năm 37 tcn.
C. CÁC ĐỊA DANH TỪ THỜI TÂN ƯỚC
1. Các địa danh liên quan đến Chúa Giêsu (Năm 1 - 30 CN)
Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, Miền Giuđêa, đi tị nạn ở Ai-Cập,
rồi trở về sống ở làng Nazarét, Miền Galilê.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Ngài đến lãnh Phép Rửa của Gioan
Tẩy giả ở Sông Giođan, rồi vào Hoang mạc Giêricô gần đó để chịu
cám dỗ. Sau đó Chúa rao giảng trong 3 năm chủ yếu ở Miền
Galilê, quanh Biển Hồ. Tuy nhiên, Phúc âm Gioan lại kể rằng Chúa
Giêsu nhiều lần lên Giêrusalem trong các dịp đại lễ: Lễ Lều, Lễ
Cung Hiến Đền Thờ, và nhất là trong các dịp lễ Vượt Qua.
22
Trong dịp Lễ Vượt qua lần cuối tại Giêrusalem, Chúa Giêsu
đã chịu chết và phục sinh. Các nơi chốn về cuộc khổ nạn của Chúa
tại Giêrusalem hãy còn rất sống động: Nhà thờ Rước lá ở
Betphagê; Lầu Tiệc Ly, Núi Cây Dầu, Vườn Giếtsêmani, Dinh
Caipha nơi Phêrô chối Thầy, các chặng đàng thánh giá, Núi
Calvariô, Mộ Thánh, làng Emmau, và cuối cùng là vị trí Chúa về
Trời trên Núi Cây Dầu.
2. Các địa danh liên quan đến các tông đồ (Từ 30-70 CN)
Các địa danh quê quán của các vị. Ví dụ: Bethsaiđa là quê của
Anrê & Phêrô, Philipphê (Ga 1,44)…
Giêrusalem là cứ điểm truyền giáo đầu tiên, hãy còn ghi dấu
hoạt động của các tông đồ Phêrô, Gioan, và Phaolô (Cv 1-13).
Cảng Cêsarê duyên hải (Ceasarea Maritima), nơi Tông đồ
Philipphê và Phêrô từng giảng đạo (Cv 8,40; Cv 10), cũng là
nơi Phaolô bị giải đi Rôma chịu xét xử (Cv 23,23-35).
Phêrô đã làm nhiều phép lạ ở Yafo (Jaffa) và Lốt (Lydda) gần
Tel Aviv khiến nhiều người trở lại đạo (Cv 9,32-43).
3. Đền Thờ thứ II bị bình địa - VQ Giuđa bị xóa sổ (Từ 70-135 CN)
Cuộc khởi nghĩa Do thái lần 1 ở Giuđêa (66-73 CN) bị thất bại,
quân Rôma đã triệt hạ Đền Thờ Thứ 2 năm 70 CN, xóa sổ
nền nơi Phụng tự Do thái giáo. Trung tâm Do thái giáo di tản
về Vùng Ghennêsarét và Thành Tiberias ở Galilê.
Sau đó quân Rôma bao vây cứ điểm cuối cùng của quân khởi
nghĩa Zelotes ở Pháo đài Massada trên một đỉnh núi đá ở
Vùng sa mạc Tây-Nam Biển Chết. Kiệt quệ vì không được
ứng cứu và tiếp tế lương thực từ bên ngoài, sau 3 tháng bị
bao vây, 960 binh sĩ và gia đình đã rút thăm giết chết lẫn
nhau để khỏi chết đói hoặc rơi vào tay giặc, vì Do thái giáo
cấm tự sát. Cuộc Khởi nghĩa Do thái lần 1 tiêu tan năm 73,
23
nhưng tiếng vang ái quốc của Pháo đài Masada mãi là biểu
tượng anh dũng của dân tộc Do thái cho đến ngày nay.
Cuộc khởi nghĩa Do thái lần 2 (132-136 CN) cũng thất bại, kết
quả là 580,000 người Do thái bị giết; san phẳng 50 thành
phố có tường thành phòng thủ và 985 làng mạc; nhiều
người khác chết vì đói và bệnh tật. Đền Thờ Thứ II hoàn toàn
bình địa năm 135 CN, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào,
chỉ sót lại mỗi Bức Tường Phía Tây (West Wall) của Đền Thờ
thứ II, nằm kề sát vị trí Đền Thờ đã bị phá hủy.
Hầu xóa bỏ vĩnh viễn dấu vết Giêrusalem, Hoàng đế Rôma
Hadrian (117-138 CN) cho xây dựng trên nền của Giêrusalem
thành phố mới có tên Aelia Capitolina, và cấm tuyệt đối
người Do thái đặt chân vào Thành này, trừ một lần duy nhất
mỗi năm vào ngày Đại Chay Tisha B'Av, họ được phép vào
sát chân Bờ Tường Phía Tây để than khóc các biến cố đau
thương của lịch sử dân tộc, nhất là biến cố hai Đền Thờ Thứ
I và Thứ II bị phá hủy. Vì thế Bờ Tường Phía Tây còn được
gọi là Bức tường than khóc (Wailing Wall).
Chưa hết, để tận diệt Do thái giáo, Hoàng đế còn cấm lưu
hành Sách Luật Torah; cấm dùng Lịch Do thái; hành quyết
các học giả Do thái giáo; dựng tượng Thần Jupiter và tượng
của ông trên vị trí Đền Thờ đã bị san phẳng; xóa bỏ “Tỉnh
Giuđêa thuộc Rôma”, sát nhập với Syria thành một Tỉnh
mới: “Tỉnh Syria-Palestina thuộc Rôma”. Kể từ đó, danh
xưng Giuđa và Israel hoàn toàn biến mất, bị thay thế bằng
tên gọi “Palestina” mãi cho đến khi phục quốc năm 1948.
Sau cuộc bình địa toàn diện năm 135, người Do thái hoàn
toàn vong quốc. Từ một dân tộc đông đúc bên Bờ Địa Trung
Hải, họ trở thành những nhóm thiểu số ly hương khắp thế
giới để trốn tránh sự bách hại tàn khốc gần 3 thế kỷ của các
đời Hoàng đế La Mã. Cư dân Ả-rập từ các nơi đến chiếm cứ
24
Miền đất của cha ông họ, chỉ còn lại một thiểu số ít ỏi các tín
hữu gốc Palestin ở lại âm thầm coi sóc các nơi thánh và duy
trì đức tin Kitô-giáo trên quê hương của Chúa.
D. MƯỜI TÁM THẾ KỶ VONG QUỐC TỪ NĂM 135 ĐẾN 1947
1. Giai đoạn Đế quốc Byzantine (Năm 330-637)
Đế quốc Byzantine (330-1453) do Hoàng đế Constantinô của
La Mã khai sáng, lấy thủ đô là Constantinopolis (Istanbul). Lãnh
thổ của Đế quốc này vốn là phần phía Đông của Đế quốc La Mã
rộng lớn, nên còn được gọi là “Đế quốc Đông La Mã”.
Năm 306, Constantinô Iên ngôi Hoàng đế La Mã. Năm 330,
Ông dời đô sang Byzance (Istanbul), cho xây thủ đô mới và đặt
tên Constantinopolis - Thành của Constanstinô. Việc dời đô này
được xem là khởi điểm hình thành đế quốc Byzantine. Khi
Constantinô qua đời năm 337, Đế quốc La Mã thống nhất của ông
bị các con chia đôi thành Đế quốc Đông và Tây La Mã. Năm 476,
Đế quốc Tây La Mã sụp đổ trước các bộ tộc man di phía Bắc (Đức,
Slave…), Đế quốc Byzantine phía Đông vẫn phát triển, trở thành
một cường quốc có vai trò quan trọng ở châu Âu, và là một trong
những trung tâm điểm của Kitô-giáo thời bấy giờ.
Thế nhưng kể từ khi bị mất thành Ctesiphon vào tay Hồi giáo
năm 634, Đế quốc Kitô-giáo Byzantine bắt đầu đi xuống, và đến
năm 1453 thì hoàn toàn tan rã trước cuộc xâm lăng của Sultan
Mehmed II, Đế quốc Hồi giáo Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ.
Là vị hoàng đế La Mã đầu tiên cải đạo sang Kitô-giáo và rất
mộ đạo, Constantinô đã ra Chiếu chỉ Milanô năm 313 chấm dứt
việc bách hại Kitô-giáo và cho phát triển đạo trên toàn đế quốc.
Chính Vua đã cho xây một nhà thờ trên Phần Mộ thánh Phêrô ở
Rôma, sau trở thành Đền thánh Phêrô.
Năm 326, chính Thái Hậu Hêlêna, Mẹ của Vua, đã thân hành
đến Giêrusalem chỉ đạo việc tìm kiếm lại các địa điểm quan trọng
25
của cuộc đời Chúa Cứu Thế: nơi Chúa sinh ra, chịu đóng đinh,
sống lại và lên trời. Chính Thái hậu cũng tài trợ xây dựng các nhà
thờ Kitô-giáo nguy nga đầu tiên ở Đất Thánh hãy còn lưu vết đến
bây giờ như: Nhà Thờ Giáng sinh, Nhà Thờ Mộ Chúa… Thái hậu
Hêlêna qua đời năm 360 và được tôn phong hiển thánh cả trong
lịch phụng vụ Byzantine lẫn Rôma: Thánh Nữ Hêlêna.
Ghi chú: Liên quan đến các nhà thờ thời Byzantine, có một thủ
bản rất quý bằng tiếng Latinh tựa đề “Itinerarium Egeriae” (Các
chuyến hành trình của Egeria), được viết khoảng năm 380 bởi
một phụ nữ từng hành hương đến Đất Thánh. Bà Egeria đã ghi
chép rất tỉ mỉ chi tiết của các địa điểm hành hương. Các chi tiết
này rất quý giá, vì chúng cung cấp các chứng cứ đầu tiên giúp
những người về sau xác định vị trí của các địa danh liên quan cuộc
đời Chúa Giêsu: từ địa điểm Truyền tin, hang Bêlem, các nơi chốn
Chúa Giêsu từng rao giảng, nơi Chúa chịu khổ nạn và lên trời…
2. Giai đoạn Hồi giáo cai trị Đất Thánh lần 1 (Từ 637-1099)
Hồi giáo du nhập vào Vùng Palestine đầu thế kỷ VII, sau khi
người Hồi giáo đánh bại lực lượng của Ba Tư và của đế quốc
Byzantine, chinh phạt một vùng đất rộng lớn ở Ba Tư và Lưỡng
Hà Địa (Iran, Irắc), Ai Cập, Bắc Phi, Nam Tây Ban Nha.
Năm 637, sau 4 tháng bị vây hãm, Giêrusalem đã đầu hàng
Hồi giáo. Lấy cớ cần có nơi cầu nguyện, Hồi giáo đã tịch thu nhiều
nhà thờ Kitô-giáo tại Thánh địa và biến thành các giáo đường của
họ cho tới nay (như Nhà nguyện Chúa lên trời ở Núi Cây Dầu).
Một cách mau chóng, Hồi giáo đã biến Giêrusalem thành
mảnh đất thánh thiêng thứ ba của họ sau Thánh địa Mecca và
Medina ở Ả-rập Saudi. Mặc dù Kinh Koran không xác định, nhưng
Truyền thống Hồi giáo tin rằng Giáo chủ Mahomet đã lên Trời từ
Tảng Đá nơi Abraham sát tế Isaac ở Núi Đền Giêrusalem và lưu
truyền rằng: Vào một đêm khoảng năm 621, Vị Tiên tri Mahomet
đã được “con ngựa bay thần bí” của ngài đưa từ Mecca đến Núi
26
Đền Giêrusalem. Tại đây, ngài đã lên trời để đàm đạo với Đức
Allah. Vì thế Hồi giáo đã xây Đền “Vòm Đá Tảng” và Giáo đường
Al-Aqsa tại Núi Đền Giêrusalem năm 691 và cả hai ngôi đền hãy
còn tồn tại cho đến ngày nay.
3. Giai đoạn Thập Tự Chinh (9 đợt) và “Vương Quốc Kitô-giáo Giêrusalem” (Năm 1099-1187)
Trước nguy cơ bành trướng của người Hồi giáo đã chiếm
lĩnh toàn bộ Vùng Trung Đông, Bắc Phi, Nam Tây Ban Nha, Đảo
Sicile của Ý và đang tiến vào Miền Nam Nước Pháp, đồng thời để
đáp lại lời cầu viện của Hoàng đế Byzantine, ĐGH Urbanô II (1088-
1099) đã kêu gọi các hiệp sĩ và vua chúa Âu Châu tổ chức Đạo
binh Thánh giá và tiến hành Thập Tự Chinh với ba mục tiêu: giành
lại Đất Thánh từ Đế quốc Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ; bảo vệ các Kitô-
hữu Âu Châu hành hương đến Đất Thánh và chấm dứt sự sách
nhiễu của người Hồi giáo đối với họ; ngăn chặn từ xa làn sóng
Hồi giáo xâm lăng Âu Châu Kitô-giáo.
Tổng cộng, Âu Châu đã tiến hành 9 đợt Thập Tự chinh không
liên tục từ năm 1095-1272. Ngay trong đợt ra quân đầu tiên (1095-
99), các Thập Tự quân đã chiếm lại được Giêrusalem, thiết lập
nên “Vương quốc Kitô-giáo Giêrusalem” tồn tại được gần 90
năm. Các Thập tự quân đã cải biến Đền Hồi giáo “Vòm Đá Tảng”
thành “Đền thờ của Chúa” (Templum Domini) và biến Thánh
đường Hồi giáo Al-Aqsa của họ thành “Đền Salômon” (Templum
Salomonis). Ngoài ra, Thập tự quân cũng lần lượt tái chiếm nhiều
địa điểm thánh khác trên toàn cõi Đất Thánh, cho phục hồi hay
xây mới nhiều nhà thờ tại các địa điểm tôn giáo có ý nghĩa.
Thời kỳ Thập Tự Chinh là giai đoạn quan trọng thứ hai - sau
thời kỳ đế quốc Byzantine - trong việc mở mang và xây dựng các
nhà thờ và địa điểm hành hương ở Đất Thánh. Không ít thành
phố và nhà thờ do Thập tự quân xây dựng trong giai đoạn này
hãy còn lưu lại dấu vết cho đến nay, ít là những phế tích.
27
4. Giai đoạn Hồi giáo cai trị Đất Thánh lần 2 (Từ 1187-1516)
Năm 1187, Thập tự quân đã thua trận đấu quyết tử ở Hattin.
Sau trận ấy, quân Hồi giáo tái chiếm lại Giêrusalem và nhiều
thành phố khác do Thập tự quân chiếm giữ. Sau cuộc chiến dai
dẳng bất phân thắng bại ở Yafo (Jaffa), Thập tự quân và Hồi giáo
đã ký Thỏa ước ở Ramla năm 1192, chấp nhận quyền kiểm soát
Giêrusalem của Hồi giáo. Bù lại, phía Hồi giáo phải cam kết sẽ mở
cửa cho người Kitô-hữu tự do đến hành hương Đất Thánh. Cuối
cùng, phía Thập Tự quân chỉ còn trấn giữ vùng các thành phố ven
biển Địa Trung Hải, trải dài từ Tyro (Liban ngày nay) xuống tới
Yafo. Thế là người Hồi giáo lại quay lại kiểm soát toàn bộ phần
còn lại của Đất Thánh, nhưng lần này, họ tỏ ra ôn hòa hơn về
chính sách tôn giáo.
5. Giai đoạn Đế quốc Ottoman cai trị Đất Thánh (Từ 1516-1917)
Năm 1453 Đế quốc Hồi giáo Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ xóa sổ
hoàn toàn Đế quốc Kitô-giáo Byzantine. Nhưng phải đến năm
1516, tân Đế quốc mới chinh phạt toàn bộ Tỉnh Syria-Palestina.
Vốn thuộc dòng Hồi giáo Sunni chiếm đa số và cực đoan, Đế
quốc Ottoman đã áp đặt một chính sách tôn giáo toàn trị và khắc
nghiệt, đặt Hồi giáo làm tôn giáo thống lĩnh, chiếm đoạt hầu hết
các nơi thánh của Kitô-giáo ở Đất Thánh; thậm chí năm 1860, họ
còn cho xây dựng Giáo đường Hồi giáo Omar ngay tại Thành cổ
Bêlem vốn là khu vực thuần túy Kitô giáo từ thời Byzantine. Đế
quốc Ottoman đã cai trị Palestin trong 4 thế kỷ tiếp theo, cho
đến khi họ thất trận trong Thế Chiến Thứ I năm 1917.
E. PHÂN CHIA LÃNH THỔ ISRAEL & PALESTIN THẾ KỶ XX
1. Thời kỳ Ủy trị của Anh (British Mandate: Từ 1917-1948)
Thế chiến I kết thúc (1917), quân đội Anh vào tiếp quản Vùng
Palestin từ tay Đế quốc Ottoman thất trận, chấm dứt sự thống
trị hàng chục thế kỷ của các thể chế Hồi giáo tại vùng đất này.
28
Năm 1922, Hội Quốc Liên (tên cũ của Liên Hiệp Quốc) chính thức
trao cho Vương quốc Anh quyền ủy trị (mandate) trên toàn bộ
vùng Palestin. Trước đó, trong Tuyên cáo Balfour (Nam Phi) năm
1917, Anh đã bày tỏ thái độ hậu thuẫn cho việc thiết lập một nhà
nước Do thái tại vùng đất ủy trị này.
Trước đó, để đối phó với làn sóng thù địch bài Do thái dâng
cao cuối thế kỷ XIX ở Âu Châu, một Trào lưu Dân tộc chủ nghĩa
Do thái (Zionism) bùng lên mạnh mẽ trong các cộng đồng Do thái
vong quốc ở Trung và Đông Âu: Vận động tái lập quốc gia cho
dân tộc Do thái trên phần đất lịch sử của cha ông ở Palestine đã
bị “đánh cắp”. Với sự làm ngơ của Chính quyền ủy trị Anh, nhiều
nhóm Do thái đã lặng lẽ về lại Palestine, xúc tiến mua lại từng tấc
đất từ các cá nhân người Ả-rập, âm thầm gầy dựng lại tổ quốc
cho dân tộc mình. Trước tình hình đó, nhiều đợt nổi dậy của
người Palestin đã nổ ra từ năm 1936-1939 chống lại chế độ ủy trị
của Anh và việc hồi hương của người Do thái.
2. Tái lập Nhà Nước Do thái năm 1948
Thảm họa diệt chủng 6 triệu người Do thái ở Âu Châu dưới
bàn tay Đức Quốc Xã trong Thế Chiến II càng tạo thêm lòng cảm
thương sâu sắc và gây nên một làn sóng áp lực chính trị mạnh
mẽ trên dư luận quốc tế: Đã đến lúc quốc tế phải can thiệp, phải
trao cho người Do thái lưu lạc cơ hội tạo lập một “đất sống” trên
chính vùng đất đã bị đánh cắp của cha ông họ.
Năm 1947, Anh tuyên bố chấm dứt Chính sách Ủy trị, và đề
xuất với Liên Hiệp Quốc Kế hoạch Phân chia lãnh thổ Vùng ủy trị
Palestin cho người Do thái và Ả-rập. Với 2/3 phiếu thuận trên
tổng số 56 nước thành viên, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã phê
chuẩn kế hoạch phân chia lãnh thổ do Anh đề xuất.
Tân quốc gia Palestin với 735,000 dân (99% Ả-rập và 1% Do
thái) sẽ được phân chia 43% lãnh thổ, chủ yếu là đất tốt.
29
Tân quốc gia Israel với 905,000 dân (45% Ả-rập và 55% Do thái)
sẽ được phân chia 56% lãnh thổ, nhưng phần lớn là đất khô
cằn của Sa mạc Nê-ghép ở Phía Nam.
Riêng Giêrusalem, chiếm 1% lãnh thổ với 205,000 dân (51% Ả-
rập và 49% Do thái), được trao Quy chế quốc tế đặc biệt trong
10 năm. Cuối thời hạn ấy, chính cư dân Giêrusalem sẽ trưng
cầu dân ý về tương lai chính trị của Thành phố này.
Chế độ Ủy trị vừa kết thúc ngày 14.5.1948, Irael liền tuyên bố
thành lập Nhà Nước Do thái trên phần đất được phân chia. Phản
đối Hiệp định Phân chia, và với sự hậu thuẫn của Ai Cập, Jordan,
Syria, Liban, Irắc, phía Palestine đã tấn công Nhà Nước Do thái.
Nhưng chỉ 1 năm sau (1949) khối Ả-rập thất trận, buộc phải ký
hiệp định đình chiến và thừa nhận Nhà Nước Israel.
Kết quả cuộc chiến, Israel nắm thêm nhiều phần lãnh thổ
vốn được phân chia cho Palestin; Jordan chiếm Vùng Bờ Tây và
Đông Giêrusalem rồi sát nhập vào lãnh thổ của mình, trong đó
có Bức tường than khóc. Tại Dải Gaza, Ai Cập dựng lên Chính phủ
Toàn Palestin, nhưng đến năm 1959 thì giải thể và chiếm luôn
Gaza. Trong cuộc chiến, 700,000 người Palestin đã rời phần đất
Israel chiếm đóng đến tị nạn ở Vùng Bờ Tây, Dải Gaza, và tại các
quốc gia Ả-rập lân cận: Syria, Liban, Jordan cho đến nay (70 năm).
Người Do thái ở các nước Ả-rập cũng phải tháo chạy về quốc gia
Israel mới thành lập để không bị trả thù.
Trong 19 năm chiếm đóng Giêrusalem từ 1948-1967, Jordan
cấm cửa người Do thái, không cho đến Bức Tường than khóc để
cầu nguyện, khiến gây thêm mối căng thẳng về mặt tôn giáo.
Năm 1967, Liên minh Ai-Cập, Jordan và Syria cấu kết với
nhau một lần nữa để tiêu diệt Nhà nước Do thái. Thế nhưng chỉ
sau 6 ngày, Israel đã hoàn toàn chiến thắng Liên quân ba nước
Ả-rập và kết thúc cuộc chiến.
30
3. Từ sau cuộc Chiến tranh 6 ngày (Từ 1967-nay)
Trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Israel đã chiếm lại Đông
Giêrusalem và Vùng Bờ Tây của Palestin từ tay Jordan, và chiếm
lại Dải Gaza từ tay Ai-Cập. Đi xa hơn, Israel giữ luôn Cao nguyên
Golan của Syria tháo chạy, và chiếm toàn bộ bán đảo Sinai rộng
lớn của Ai cập bỏ lại (Israel chỉ trả lại bán đảo này cho Ai Cập sau
Hiệp ước hòa bình năm 1989).
Để bảo vệ lãnh thổ trước sự thù địch luôn bao quanh của
các nước Ả-rập, Israel tiếp tục chiếm đóng Cao nguyên Golan,
Vùng Bờ Tây, Đông Giêrusalem và Dải Gaza để làm vùng đệm
quân sự. Nhưng Israel lại vi phạm luật quốc tế khi tiến hành xây
dựng nhiều khu định cư cho người Do thái trên Vùng chiếm đóng
Bờ Tây. Từ đó liên tục xảy các vụ bạo loạn (intifada) của người
Palestin chống quân đội Israel và gây nhiều đổ máu.
Năm 1993, Palestin và Israel ký Hiệp định Hòa bình Oslo, Irael
trả lại quyền điều hành dân sự Vùng Bờ Tây và Dải Gaza cho “Nhà
chức trách Palestin” (Palestinian Authority), nhưng vẫn giữ lại
quyền kiểm soát quân sự và biên giới Vùng Bờ Tây, hoặc phối
hợp với Nhà chức trách Palestin. Để cách ly hoàn toàn lãnh thổ
Israel với Vùng Bờ Tây, Israel đã cho xây dựng bức tường thành
với tổng chiều dài 708km, cao 8m. Công dân Israel được tự do
qua lại các chốt kiểm soát của Israel để qua Bờ Tây, nhưng người
Palestin Bờ Tây phải có Giấy thông hành (chỉ được Israel cấp rất
hạn chế) thì mới được qua lãnh thổ Israel. Người Palestin cũng
không được phép dùng các sân bay của Israel để ra nước ngoài,
mà phải đi qua các ngả sân bay của Jordan hay Ai-Cập!
Năm 2005, Israel rút quân hoàn toàn khỏi Gaza, trả quyền
kiểm soát quân sự cho Nhà chức trách Palestin. Ngay lập tức,
Nhóm kháng chiến Hồi giáo khủng bố Hamas thắng cử lên cầm
quyền ở Gaza (2007), và tiến hành bắn phá vào lãnh thổ Israel.
Israel trả đũa bằng cách phong tỏa toàn bộ biên giới đường bộ,
31
đường biển và đường không để cô lập Hamas, và trả đũa quân
sự rất mạnh mẽ mỗi khi bị bắn phá. Cuộc sống ở Gaza dưới chính
thể Hamas cơ cực không thể tả nổi. Ai Cập cũng phải đóng cửa
biên giới với Gaza vì sợ làn sóng người tị nạn Palestin tràn qua.
Cuộc sống ở Gaza vốn đã cơ cực do bị Israel cô lập, nay lại càng
thêm bế tắc dưới chính thể Hamas đã kéo dài hơn 20 năm qua,
và cũng chưa thấy được tia sáng nào ở cuối đường hầm!
Đáng tiếc cho Palestin và các đồng minh Ả-rập không lường
hết được tinh thần quật khởi, niềm khao khát quê hương từ
ngàn năm và tiềm năng quân sự của Israel! Để rồi chính người
dân Palestin vô tội phải gánh chịu sự bế tắc cùng cực hiện nay.
Hơn nữa, chính sách thù địch và bao vây tiêu diệt của khối Ả-rập
đã buộc Israel phải chọn con đường hiếu chiến để có hòa bình.
Nhưng cũng đáng tiếc cho chủ nghĩa Dân tộc Do thái cực
đoan Zionism của Israel, chỉ bo bo quyền lợi quốc gia dân tộc của
mình, mà đẩy hàng triệu dân Palestin yếu thế vô tội vào thân
phận vong quốc tủi nhục của dân tộc Do thái chỉ mới đây! Israel
đã vội quên nỗi bất hạnh tha phương của mình, và quên cả Lời
Chúa răn bảo: Các ngươi phải yêu họ như chính mình, vì các ngươi
đã từng là ngoại kiều trên đất Ai-cập! (Lv 19,34)
Mắt đền mắt, răng đền răng! Chính sách trả đũa mà cả người
Hồi giáo cực đoan lẫn Do thái quá khích theo đuổi như hiện nay
sẽ chẳng bao giờ mang lại hòa bình và công bằng cho Vùng đất
quê hương của Chúa. Chỉ khi người ta thực hành theo con đường
Tin Mừng - sống tinh thần yêu thương hòa giải, yêu đồng loại như
chính mình, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ làm hại mình - thì những
hận thù, chia rẽ, tranh chấp, áp bức, bạo tàn…mới được giải
quyết tận căn, không chỉ trên quê hương của Chúa, mà trên bất
kỳ vùng đất nào trên thế giới, cũng như trong bất kỳ cộng đồng
xã hội, sắc tộc hay địa phương nào.
Ước gì được như vậy!
32
VÀI NIÊN BIỂU LỊCH SỬ ISRAEL & PALESTIN
A. Thời kỳ các tổ phụ và các thẩm phán (chỉ ước chừng)
1900 tcn: Abraham được Chúa kêu gọi; Thời các tổ phụ.
1700 tcn: Gia đình Giacóp sang Ai Cập, ngụ cư 430 năm.
1250 tcn: Môsê lãnh đạo cuộc xuất hành Ai Cập.
1210 tcn: Giôsuê đưa Israel tiến vào Đất Hứa ở Canaan.
Chia đất cho các chi tộc ở cả Hữu và Tả ngạn Sông Giođan.
Kế tiếp là thời kỳ lãnh đạo do các thẩm phán (Sách Thủ lãnh).
B. Thời kỳ quân chủ Israel
1020 tcn: Vua Saun lên ngôi, mở đầu thời kỳ quân chủ.
1010 tcn: Đavít thống nhất đất nước; lập đô Giêrusalem.
970 tcn: Salômon nối ngôi; xây dựng Đền Thờ thứ I.
931 tcn: Vua Salômon chết; đất nước bị chia đôi: Vương quốc
Giuđa phía Nam; Vương quốc Israel phía Bắc.
721 tcn: Thủ đô Samari của Israel thất thủ trước Assyria.
C. Thời kỳ lưu đày và hồi hương
587 tcn: Giêrusalem thất thủ trước đế quốc Babylon. Các trí
thức và thợ lành nghề đi lưu đày để làm việc ở Babylon.
538 tcn: Hoàng đế Ba-Tư Kyrô ra sắc chỉ cho hồi hương.
531 tcn: Ông Dơ-rúp-ba-ven dẫn đầu đợt hồi hương đầu tiên
và lãnh đạo xây Đền Thờ thứ II, cung hiến năm 515 tcn.
330 tcn: Đế quốc Hy Lạp hất cẳng Ba Tư; cho Palestin được
hưởng quyền tự trị như các chư hầu khác.
197 tcn: Nhà Sêlêucia thuộc dòng tộc Hy Lạp đang cai trị tại
Ai Cập tiến lên chiếm Palestin và cấm đạo Do thái gắt gao.
166-134 tcn: Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Macabê.
63 tcn: Tướng Pompei của Rôma chiếm Palestin.
37 tcn: Hêrôđê được Rôma đặt làm vua Miền Galilê.
33
D. Thời kỳ Tân ước cho đến khi Đền thờ bị phá hủy (1-135 CN)
6-4 tcn: Chúa Giêsu sinh ra (ước chừng).
27-28: Chúa chịu phép rửa; kêu gọi các đồ đệ đầu tiên.
30: Khổ nạn, phục sinh; biến cố Hiện xuống.
36: Thánh Phaolô trở lại.
50: Công đồng thứ I tại Giêrusalem: về việc cắt bì hay không.
51-63: Ba chuyến hành trình truyền giáo của thánh Phaolô.
70: Khởi nghĩa Do thái lần 1 thất bại: Đền thờ bị tàn phá.
135: Khởi nghĩa 2 thất bại: Đền thờ bình địa, Do thái xóa sổ.
E. Thời kỳ vong quốc từ 135 đến 1917
313: Chiếu chỉ Milanô chấm dứt bách hại; Kitô-giáo lớn mạnh.
326: Hêlêna xây dựng các Di tích Chúa Giêsu ở Thánh Địa.
330: Dời đô Constantinopolis. Khởi đầu Đế quốc Byzantine.
337: Constantinô qua đời. Đế quốc La-Mã chia đôi.
{380: Tác phẩm có giá trị “Hành hương Đất Thánh” của Eregia}
476: Đế quốc Tây La Mã tan rã trước các bộ tộc Đức, Slave.
634: Hồi giáo chiếm Ctesiphon; Byzantine bắt đầu suy yếu.
637-1099: Giai đoạn Hồi giáo cai trị Đất Thánh lần 1.
1099-1187: Giai đoạn “VQ Giêrusalem” Thập Tự Chinh (9 đợt).
1187: Hồi giáo nắm lại Giêrusalem, vẫn cho KTH hành hương.
1453: Đế quốc Byzantine tan rã trước Đế quốc Ottoman.
1516-1917: Đế quốc Ottoman cai trị Đất Thánh.
F. Israel và Palestin trong thế kỷ XX
1917-1948: Thời kỳ Ủy trị Anh. Ủng hộ lập Nhà nước Do thái.
1948: Phân chia Nhà Nước Do thái / Palestin. Nổ ra nội chiến:
Người Palestin rơi vào hoàn cảnh ly tán của Israel trước đây.
1967: Israel thắng cuộc chiến 6 ngày của Ai Cập, Jordan, Syria.
1967 đến nay: Israel chiếm đóng Cao nguyên Golan của Syria,
Vùng Bờ Tây của Palestin, và tiếp tục phong tỏa Dải Gaza.
34
CƠ QUAN COI SÓC ĐẤT THÁNH
Khi viếng thăm Đất Thánh, chúng ta sẽ thấy các địa điểm
hành hương và nơi thánh được quản lý bởi rất nhiều Giáo hội
Kitô, nhưng nhiều nhất vẫn là các Giáo hội Chính Thống Đông
Phương. Riêng các cơ sở thuộc Công giáo thì hầu hết đều do “Cơ
quan coi sóc Đất thánh” (Custodia Terrae Sanctae) của các Cha
Dòng Phanxicô đảm trách. Ví dụ, Nhà Thờ Núi Tabor, Khu di tích
Capharnaum, một phần Nhà Thờ Giáng sinh ở Bêlem và một
phần Nhà Thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem…
Thật ra, từ năm 1217, Thánh Phanxicô đã lập Tỉnh Dòng Đất
Thánh với sứ mạng “giữ gìn ơn ích của các nơi thánh”. Năm 1342,
ĐGH Clêmentê VI chính thức ủy thác cho Dòng Phanxicô nhân
danh Tòa Thánh coi sóc những Nơi Thánh thuộc Công giáo. Với
lối sống hiền hòa theo tinh thần Kinh Hòa Bình của Thánh Tổ phụ,
các cha Phanxicô đã được các nhà chức trách đạo-đời ở Đất
Thánh, Kitô giáo lẫn Hồi giáo, chấp nhận và cho phép hiện diện
trong suốt nhiều thế kỷ.
Hiện nay, Cơ quan Coi sóc Đất Thánh quản lý 74 nơi thánh của
Công giáo ở Israel, Syria và Jordan, chỉ đứng sau Tòa Thượng Phụ
Chính Thống Hy Lạp ở Giêrusalem. Lý do vì rất nhiều Vua chúa và
các nhà quý tộc Âu Châu thời Trung Cổ đã bỏ tiền chuộc lại những
địa điểm di tích thánh tại Đất Thánh, rồi ủy thác cho các Cha
Phanxicô trông coi. Thế nhưng công việc của các cha không hề
dễ dàng, vì vừa phải lo phụng tự tại các nơi thánh, vừa phải học
hỏi về khảo cổ, văn hóa, cổ ngữ, sinh ngữ để có thể nghiên cứu
và thuyết giảng cho khách hành hương. Không ít vị đã phải hy
sinh mạng sống ở Đất Thánh đầy dẫy tranh chấp, xung đột và
bách hại trong suốt dòng lịch sử. Cầu nguyện cho các cha thuộc
Cơ quan coi sóc Đất Thánh đủ sức chu toàn trách vụ bảo tồn các
nơi chốn đức tin cội nguồn của Giáo Hội.
35
KHỞI HÀNH TỪ SÀIGÒN & MELBOURNE
Đoàn hành hương chúng tôi gồm 43 người từ Tân Sơn Nhất,
và 8 người từ Melbourne (Úc) cùng khởi hành chiều 3.5.2018. Dự
kiến hai nhóm sẽ gặp nhau ở Phi trường Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, rồi
cùng đáp chung chuyến bay Istanbul - Tel Aviv.
Chuyến bay của Hàng không Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish Airlines) cất
cánh rất đúng giờ từ Tân Sơn Nhất (18g30), nhưng không bay
thẳng Istanbul mà còn ghé Hà Nội để trả và đón khách. Thế là
thay vì chỉ có 10 giờ bay, chúng tôi sẽ tiêu tốn thêm 2 giờ bay đến
Hà Nội, 2 giờ chờ trên máy bay, tổng cộng sẽ là 14 giờ.
Nhóm từ Sàigòn đến Istanbul lúc 4g sáng ngày 4.5.2018 theo
giờ địa phương. Trời bên ngoài hãy còn tối và mưa lạnh (14oC).
Phi trường Istanbul lớn hơn Tân Sơn Nhất nhiều lần, vì là tụ điểm
trung chuyển (hub) cho các chuyến bay trục Âu-Á. Turkish
Airlines kiêu hãnh quảng cáo về mình: We fly to more countries
than any other Airline! (Chúng tôi bay đến nhiều quốc gia hơn bất
kỳ hãng hàng không nào khác!)
Rời máy bay để quá cảnh ở phi trường Istanbul, chúng tôi
chờ đợi rất lâu mới qua được cổng kiểm soát an ninh của Thổ.
Sau đó liền vội vã tìm Gate ra máy bay cho chặng bay tới, vì chỉ
có 2 giờ quá cảnh ở Istanbul. Tại cửa Phòng chờ của Gate số 218
đi Tel Aviv, chúng tôi lại phải qua kiểm tra an ninh Passport và
hành lý nghiêm ngặt do chính Tổ an ninh Israel hải ngoại đảm
nhiệm. Không thể không căng thẳng trước thái độ và cách làm
việc rất “nhà binh” của họ. Từng hành khách được gọi vào: nam
gặp nhân viên an ninh nam; nữ gặp nhân viên an ninh nữ. Không
một thiết bị điện tử hay vật dụng lạ nào không được khám xét
nghiêm ngặt. Việc kiểm tra tiêu tốn rất nhiều thời giờ. Một thành
viên trong đoàn chúng tôi đã “giấu thành công” một cái quẹt gaz
trót lọt qua hai cổng an ninh Tân Sơn Nhất và Thổ Nhĩ Kỳ, nay lại
trở thành rắc rối với An ninh Israel. Họ có thể từ chối cho hành
36
khách lên máy bay và nhập cảnh, với lý do đơn giản là đương sự
không tôn trọng Luật hàng không quốc tế và không biết giữ an
toàn chung cho cả chuyến bay. Một bài học cho các đoàn sau!
Một thành viên nữ khác trong đoàn đánh rơi chiếc đồng hồ
đeo tay ở trạm an ninh. Chị đã có ý định bỏ chiếc đồng hồ vì ngại
giáp mặt nhân viên an ninh một lần nữa. Thế nhưng họ đã thông
báo cho đoàn nói với chủ nhân đến nhận. Nữ hành khách ấy lại
phải qua một cuộc thẩm vấn chi tiết khác về các đặc điểm nhận
diện chiếc đồng hồ trước khi nhận lại được tài sản. Thế mới biết
đừng đùa với… Israel. Nhưng có lẽ vì phải thường xuyên đương
đầu với sự thù địch của khối Ả-rập Goliad xung quanh, nên Israel
Đavít luôn đặt an ninh quốc gia lên trên hết. Thông cảm!
Đúng 6g20 ra máy bay, đoàn Melbourne vẫn chưa có mặt ở
Gate 218. Chắc chắn các bạn ấy đã trễ chuyến bay ở các chặng
bay trước. Chúng tôi không thể chờ, nhưng Cha trưởng đoàn đã
có phương án: khi đến Tel Aviv cha sẽ một mình ở lại phi trường
chờ đoàn Úc và để cả đoàn “vào Tour” ngay, vì ngay khi rời Phi
trường, đã bắt đầu các địa điểm tham quan trên đường cho đến
khi về đến khách sạn ở thành phố Nazarét vào chiều tối. Cha và
nhóm Úc đến sau sẽ gặp lại đoàn tại khách sạn ở Nazarét.
Một cảnh tượng lạ mắt lúc ngồi chờ ở Gate lên máy bay
khiến nhiều người trong đoàn trố mắt nhìn và không khỏi thắc
mắc. Một nhóm trên 10 quý ông Do thái trùm khăn trên vai, trán
đeo một hộp vuông màu đen giống chiếc đèn pin thợ mỏ, cánh
tay trái cuốn một dây da nhỏ màu đen từ bắp tay xuống ngón
tay, và có “đèn pin vuông” khác ở bắp tay. Họ chăm chú đọc kinh
lớn tiếng từ một sách kinh dầy cộm, gật gù về phía trước, nhún
gối lên xuống, rồi lại lắc lư qua lại trong lúc cầu kinh. Hình như
họ can đảm và sốt sắng hành đạo hơn cả người Công giáo. Khi
đặt chân đến Đất Thánh những ngày tới, hy vọng chúng tôi sẽ có
cơ hội tìm hiểu về lối cầu nguyện kỳ khôi của người Do thái.
37
Phải mất 2 giờ bay từ Istanbul đi Tel Aviv. Video hành trình
cho biết máy bay sẽ bay trên Địa Trung Hải, xuôi xuống phía Nam
theo hướng Tây Bắc-Đông Nam để đến Tel Aviv. Mọi người đều
tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi sau chuyến bay dài 14 tiếng từ Việt
Nam, và nhất là sau khi đã vượt qua được cửa ải an ninh đầy căng
thẳng của Israel.
BUỔI CHIỀU THỨ NHẤT (4.5.2018)
VEN BỜ ĐỊA TRUNG HẢI
Nhà thờ Thánh Phêrô, Cảng Jaffa.
Phế tích Cảng “Cêsarê Duyên Hải” (Ceasarea Maritima).
Tu Viện Cát Minh Sao Biển ở Núi Carmel (Tp Haifa).
1. ĐẶT CHÂN ĐẾN ĐẤT THÁNH
Hạ cánh xuống Phi trường Ben Gurion Thành phố Tel Aviv-
Yafo ven Bờ Địa Trung Hải lúc 8g50 sáng, đoàn chúng tôi tập
trung tại một hành lang Phi Trường khi vừa ra khỏi máy bay, để
đọc kinh cám ơn Chúa đã cho chuyến bay đến nơi bình an.
Thủ tục di trú khá nhanh chóng, vì mọi khó khăn đã trải qua
ở cổng an ninh hải ngoại của Israel tại Phi trường Istanbul. Khách
du lịch hay hành hương đến Israel không được cấp Visa cá nhân,
nhưng được cấp Visa điện tử theo danh sách đoàn từ trước. Vì
thế nhân viên di trú chỉ đối chiếu Passport cá nhân với tên mỗi
người trong danh sách Visa đoàn; sau đó cấp cho mỗi người một
“vé điện tử qua cửa” để nhập cảnh giống như vé điện tử đi xe
điện ngầm ở các thành phố lớn.
Đúng 11g, đoàn ra khỏi phi trường. Anh Fares, Hướng dẫn
viên người Palestine Công giáo, đã chờ sẵn chúng tôi ở sảnh ra.
Anh sẽ tháp tùng đoàn chúng tôi trong suốt chuyến hành hương
này. Anh cho biết đoàn Úc sẽ tới vào lúc 16g30 vì trễ chuyến ở
Singapore, và Công ty du lịch Holy Family (Thánh Gia) từ Nazarét
38
của anh đã bố trí một xe khác đón đoàn Úc và đưa họ về thẳng
khách sạn ở Nazarét, chừng 110km về phía Bắc tính từ Phi
Trường. Vì thế đoàn từ Sàigòn cứ an tâm tham quan 3 địa điểm
trên hành trình từ Tel Aviv ngược lên phía Bắc, dọc theo bờ biển
Địa Trung Hải phía Tây để về Nazarét (tham chiếu bản đồ).
2. NHÀ THỜ THÁNH PHÊRÔ - CẢNG JAFFA
Bờ biển phía Tây của Israel trải dài 273 km dọc theo Địa
Trung Hải, từ Dải Gaza ở phía Nam cho đến biên giới với Liban ở
phía Bắc. Jaffa (hay Yafo) là cảng biển lâu đời nhất trên Bờ Địa
Trung Hải này. Từ năm 2000 tcn, nơi đây đã là cảng giao thương
sầm uất của các tàu buôn Ai Cập, Babylon và Phênixi. Trong lịch
sử, các Đế quốc Ai Cập, La Mã, quân Thập Tự Chinh từng chiếm
đóng Jaffa làm quân cảng. Năm 1950, Jaffa sát nhập với Thủ đô
Tel Aviv, làm nên Thành phố Tel Aviv-Yafo hiện nay.
Có ít nhất hai nhân vật Kinh Thánh từng đặt chân đến Jaffa.
Đầu tiên là Tiên tri Giôna trong Cựu ước (chương 1-2). Ông được
Chúa sai đến tố cáo tội ác của Thành Ninivê ở Phía Đông, nhưng
do sợ hãi người Ninivê nên ông đã trốn về Phía Tây, đến Yafo này
đáp tàu đi Tarsis để trốn sứ mạng Chúa trao. Thế nhưng Chúa đã
gây ra bão lớn trên Địa Trung Hải. Các thủy thủ trên tàu rút thăm
để xem ai là kẻ phạm tội khiến “thần linh” tức giận nên cho sóng
to gió lớn. Giôna đã nhận lỗi và xin họ ném ông xuống biển để
sóng yên biển lặng và tàu được an toàn. Một con cá lớn đã đến
nuốt Giôna vào bụng, rồi chở ông về lại điểm xuất phát, “mửa”
ông lên bãi biển để ông trở về thi hành sứ mạng.
Nhân vật thứ hai là Phêrô. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại
ngài đã lưu lại khá lâu với giáo đoàn Yafo, tại nhà ông Simon thợ
thuộc da. Tại Yafo, ngài đã chữa cho bà Tabitha tức Sơn Dương
đã chết được sống lại, và chữa lành một người đã liệt 8 năm ở
thành Lốt (Lydda) gần đó (Cv 9,22-43). Tại Jaffa, Chúa mặc khải
cho Phêrô thị kiến: ông thấy 1 tấm vải to từ trời xuống chứa đầy
39
súc vật ô uế và bảo ông ăn. Ý Chúa nói: đừng xem dân ngoại là ô
uế mà phải rửa tội cho họ. Phêrô vâng lời và rửa tội cho gia đình
Sĩ quan Rôma Cornêliô (Cv 10).
Nhà thờ kính Thánh Phêrô ở Jaffa được xây vào năm 1884
trên vị trí của Cổ Thành Jaffa của Thập tự quân thế kỷ XII và trùng
tu năm 1903. Vì thế gần nhà thờ còn nhiều phế tích tường thành
phòng ngự, và cả di tích trụ Hải đăng rất cổ phía bờ biển.
Ngày nay, Phố Cổ Jaffa là một khu du lịch sầm uất và thơ
mộng, với thời tiết rực nắng của Ven Địa Trung Hải. Trong quần
thể di tích ấy, Nhà Thờ Thánh Phêrô là một điểm nhấn quan
trọng. Tại Jaffa, đoàn hành hương đã dâng Thánh Lễ đầu tiên
trên Đất Thánh trong Nhà nguyện Tu viện Dòng Phanxicô dính
liền với Nhà Thờ, vì có quá nhiều du khách thăm Nhà Thờ.
40
3. PHẾ TÍCH THÀNH CỔ CÊSARÊ DUYÊN HẢI
Từ Jaffa dọc theo Bờ Biển Địa Trung Hải lên phía Bắc chừng
60km, sẽ gặp khu phế tích của Thành phố cổ đại hùng vĩ “Cêsarê
Duyên Hải” (Ceasarea Maritima). Thành phố này khác với “Cêrarê
Philipphê” ở Galilê, dưới chân Núi Hermon, cách Biển Hồ Galilê
40km về Phía Bắc, nơi Thánh Phêrô từng tuyên xưng đức tin:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16,13-20).
Còn Cêsarê Duyên Hải do Hêrôđê Cả xây từ năm 22 đến năm
10 tcn. Vua đặt tên Thành phố là “Cêsarê Duyên Hải” để vinh
danh Hoàng đế La Mã Cêsarê Augustô. Thời ấy, Cêsarê Duyên Hải
là một thành phố rộng lớn và xa hoa. Ngày nay hãy còn các phế
tích của cung điện hoành tráng của Hêrôđê, phế tích của một
trường đua ngựa (hippodrome) và của một Hí trường lộ thiên
rộng lớn, tất cả đều nằm sát bờ biển.
Dưới thời Rôma, Cêsarê Duyên Hải được chọn làm Thủ Phủ
của Tỉnh Giuđêa thuộc Rôma, rồi của Tỉnh Syria-Palestina. Vào thời
Thập Tự Chinh, Đạo binh Thánh giá đã xây một tường thành bao
quanh, biến Cêsarê trở nên một pháo đài chiến đấu. Ngày nay,
khu phế tích Cổ Thành Cêsarê Duyên Hải trở nên một Công Viên
Quốc gia rộng lớn, dành cho những người yêu thích lịch sử và
khảo cổ đến tham quan và nghiên cứu.
Tuy nhiên phế tích đặc biệt nhất tại Cêsarê Duyên Hải phải
kể đến máng dẫn nước (aquaduct) hùng vĩ dài trên 20km, dẫn
nước ngọt từ các suối trên núi về cung ứng cho thành phố biển.
Không có nước ngọt, không có thành phố! Điều đáng nói hơn là
41
máng nước được xây dựng theo kỹ thuật xây cầu đường hoàng
gia (royal road) tiên tiến bằng đá ong đỏ của Rôma thời đó. Chính
nhờ hệ thống đường hoàng gia mà Rôma đã có thể chuyển quân
rất nhanh chóng; và nhờ phát minh máng dẫn nước mà Rôma đã
có thể dựng doanh trại ở bất cứ nơi nào. Đây là hai yếu tố giúp
quân viễn chinh La Mã trở nên bách chiến bách thắng. Ngày nay,
ở Âu Châu hãy còn rất nhiều hệ thống đường và máng dẫn nước
này, thậm chí còn hùng vĩ hơn.
Do không có nhiều thời gian, đoàn chúng tôi chỉ ghé thăm
phế tích của máng dẫn nước tọa lạc trên bãi biển. Sau đó chúng
tôi bắt đầu đi về phía rặng núi Carmel để đến Thành phố Cảng
Haifa nằm ở mút cùng của dãy núi ấy về phía Bắc. Đoạn đường
ven biển từ Jaffa đi Haifa chỉ chừng 45km, thế nhưng do đoàn
chúng tôi chọn đi đường vòng trên Núi Carmel đến Haifa nên
quãng đường sẽ xa hơn gấp đôi (chừng 90km).
4. ĂN TRƯA TRÊN NÚI CARMEL
Dọc đường trên sườn núi, chúng tôi ghé ăn trưa tại một nhà
hàng Palestine dân. Đó cũng là bữa ăn đầu tiên của đoàn ở Đất
Thánh. Món khai vị thông thường ở Israel là “bánh mì kẹp salad
trộn” với từ 3 món salad trở lên. Các loại rau củ quả, bắp cải được
thái hạt lựu, trộn dầu giấm, sau đó kẹp vào giữa bánh mì Ả-rập
42
(lớn bằng chiếc bánh tráng cỡ trung, nhưng rỗng ruột như
“bánh tiêu”) rồi tưới đẫm các loại sốt béo ngậy có vị khác nhau
làm từ sữa chua. Cái ngon của món này nằm ở chỗ các hương vị
đối kháng hòa quyện (kiểu gỏi cá VN ngon nhờ sự hòa quyện của
riềng, gừng, ớt, lá đinh lăng đắng, lá xoài chua, nước chấm có
mắm tôm…) Do lần đầu dùng món này, ăn rời từng thứ một, nên
chúng tôi chỉ thấy hương vị…kỳ kỳ. Sau này học lóm cách ăn của
các thực khách địa phương thì mới biết.
Món chính tiếp theo gồm cơm trắng chiên đẫm dầu Ô-liu
theo kiểu Trung Đông, dùng chung với thịt gà xiên nướng ướp
gia vị Ả-rập hơi nồng, cùng với nhiều loại rau trộn dầu giấm và
các loại hạt đậu và hạt bắp vàng hầm để trộn chung vào cơm.
Riêng Ô-liu muối thì tràn ngập (có quả màu xanh và màu tím
thẫm). Tráng miệng thường là các loại bánh nho nhỏ rất ngọt và
béo do dùng nhiều đường, đậu phộng, dầu mè.
Sau bữa cơm, chúng tôi tiếp tục hành trình ngang qua một
vài trị trấn nhỏ trên rặng Carmel để đến Tu viện Sao ở mút cùng
rặng núi, ngay trên đầu của thành phố Cảng Haifa.
5. RẶNG NÚI CARMEL
Carmel là một rặng núi lớn và xanh tươi ở Tây bắc Israel,
được UNESCO chọn làm khu bảo tồn sinh quyển của thế giới.
Chữ “Carmel” trong tiếng Do thái có nghĩa là “tươi, trong lành”
hay còn có nghĩa là “vườn nho”.
Rặng núi này có chiều dài khoảng 39km, chiều rộng từ 6.5 -
8km. Thảm thực vật trên núi chủ yếu là các cây Ô-liu, sồi, thông,
bách, và thời xa xưa còn có cả những vườn nho trồng trên núi.
Các cuộc khai quật trên núi này đã tìm thấy dấu vết của những lò
ép nho và những chai rượu nho cổ. Do vị trí hiểm trở và nhiều
hang hốc, Núi Carmel trước đây thường là nơi lẩn trốn của bọn
tội phạm, hay nơi tu trì của các vị ẩn tu.
43
Đỉnh cao nhất của Rặng Carmel có tên theo tiếng Ả-rập là
“Muhraka”, có nghĩa là “nơi thiêu đốt/ nơi hiến tế”, do người
Canaan cổ xưa dâng cúng lễ toàn thiêu cho thần linh. Truyền
thống đức tin địa phương tin rằng, cũng chính trên đỉnh núi ấy
đã diễn ra cuộc thách đấu nổi tiếng giữa Tiên tri Êlia (thế kỷ IX
tcn) với các tư tế Thần Baal để xem: Vị thần nào cho lửa từ trời
xuống thiêu đốt lễ vật sẽ là Đức Chúa thật (1V 18,20-40). Do thua
cuộc, 450 tư tế của Baal đã phải chết, nhưng sau đó Êlia phải đi
lánh nạn đến Núi Khôrép vì bị Hoàng hậu Idơven tìm giết.
Trên đường trốn chạy, Êlia đã trú trong một hang động và
Thiên Chúa đã hiện đến và cho Êlia gặp gỡ với Người để thêm
sức mạnh cho ông (1V 19,9-10). Truyền thống địa phương tin rằng
hang động ấy hiện nằm bên dưới hầm Nhà thờ của Tu viện Cát
Minh Sao Biển ở Haifa, trên đỉnh của bờ vực ở mút cùng Rặng
Carmel, như một bao lơn hùng vĩ nhìn xuống toàn cảnh biển và
Thành phố Cảng Haifa bên dưới. Có lẽ Êlia đã ra đứng ở một mỏm
đá nào đó trên bờ vực này để chờ diện kiến Nhan Thánh Chúa
sắp đi qua (1V 19,11-18). Vào cuối đời, Êlia không phải chết, nhưng
đã được Chúa cất về trời từ Sông Giođan gần Giêricô, trước sự
chứng kiến của người đồ đệ là Tiên tri Êlisa (2V 2,1-18).
6. TU VIỆN CÁT MINH SAO BIỂN (STELLA MARIS)
Vào thời kỳ Thập Tự quân chiếm đóng Cảng Haifa vào thế kỷ
XII, nhiều vị ẩn sĩ đã tìm đến các hang hốc trên Núi Carmel để
sống ẩn tu, né tránh trần thế theo mẫu gương các Tiên tri Cựu
ước: Amos (9,3), Êlia (1V 19,1-10) và Êlisa (2V 2,24-25). Từ đó đã
44
hình thành nên Truyền thống đan tu Cát-Minh trên Núi Carmel
này. Hiện nay, trên sườn núi phía trên Haifa có hai tu viện Cát-
Minh Nam và Nữ rất lớn: đó là Tu viện Cát-Minh Nam “Sao Biển”
và Đan viện Cát Minh Nữ “Đức Bà Núi Carmel”.
Tu viện Cát-Minh “Sao Biển” mà chúng tôi đến thăm được
xây vào thế kỷ XIX, khi quân đội Napoleon chiếm đóng Haifa. Tu
viện này nổi tiếng vì chiếc hang, được cho là chỗ trú chân của
Êlia, hiện nằm dưới Bàn thờ chính của Nhà nguyện Tu Viện. Hang
này thấp nhưng khá rộng và phẳng; cuối hang có bàn thờ và
tượng Êlia màu đen cao chừng 80cm. Phía mặt tiền Nhà nguyện,
nhìn ra biển, hãy còn tấm bia ghi nhớ hình “kim tự tháp mini” ghi
dấu biến cố chiếm đóng của Napoleon tại Haifa.
45
7. THÀNH PHỐ CẢNG HAIFA
Rời Tu viện, xe lượn nhanh theo các đường dốc gấp khúc
lao xuống Cảng Haifa hiện đại trải dài bên dưới, nằm ôm bờ vịnh
trong xanh tuyệt đẹp. Từ trên cao có thể nhìn thấy một cầu cảng
dài vươn ra trên vịnh Haifa theo hình vòng cung, với hàng trăm
tàu lớn neo đậu quanh cảng.
Được biết Haifa là thành phố lớn nhất miền Bắc Israel với
265,000 dân. Đây là thành phố Do thái, chỉ có 10% là người Ả Rập
theo Kitô-giáo. Trong số 90% dân số người Do thái, 1/4 trở về từ
Liên bang Xô Viết sau 1986. Haifa cũng nổi tiếng là một thành
phố kỹ nghệ quan trọng: lọc dầu, luyện kim, dệt, hóa chất, điện
tử. Đại học Haifa trên núi Carmel là Đại học đứng hàng thứ 4 và
là cơ sở nghiên cứu đứng thứ 6 ở Israel.
Vừa xuống đến chân núi, xe chúng tôi băng qua “Vườn
treo” hết sức rực rỡ của Đền Báb của Tôn giáo Bahá’i trải rộng
trên sườn đồi cao. Đền chính tọa lạc ở lưng chừng đồi, với một
“tấm thảm hoa” khổng lồ trải dài từ đỉnh núi xuống sau lưng
Đền, rồi từ chính diện của Đền “chạy” dài xuống cổng ở chân núi.
Vườn hoa này đã được UNESCO xếp hạng Di sản thế giới. Tiếc là
đoàn chúng tôi không có thời gian để ghé lại tham quan. Chỉ kịp
ngoái nhìn và chụp vội một tấm hình, để rồi sẽ về “tham quan”
thêm trên… internet!
46
Chia tay Thành phố Haifa, xe thẳng tiến về Nazarét, qua
đoạn đường chừng 45km. Đoàn sẽ nghỉ 2 đêm tại Khách sạn
Rimonim Nazarét (có nghĩa “Trái lựu” Nazarét) nằm cách Trung
Tâm Nazarét chừng 8 phút đi bộ. Có lẽ đây là khách sạn lớn nhất
Nazarét, nhưng tiện nghi chỉ thuộc hạng 2 sao. Tuy nhiên, thói
quen của các khách sạn ở đây là có món Nước uống chào đón
khách mới tới - “Welcoming Drink”, thường là nước trái cây ép
mát lạnh làm cho viễn khách từ phương xa… tỉnh cả người. Hơn
nữa, các món Buffet ở khách sạn rất phong phú và đa dạng, khiến
bà con chúng ta chưa phải dùng đến mì ly “cứu đói” mang the0
từ Việt Nam.
47
NGÀY THỨ HAI (5.5.2018)
NAZARÉT - QUÊ NHÀ CỦA CHÚA GIÊSU
Hành trình Ngày thứ Hai:
Buổi sáng: Thăm Làng Cana Miền Galilê và Núi Tabor.
Buổi chiều: Tour đi bộ Làng Nazarét của Chúa Giêsu.
Buổi tối: Rước kiệu nến Mân Côi ở Nhà Thờ Truyền Tin.
8. LÀNG CANA MIỀN GALILÊ
Dù nghỉ đêm ngay tại Nazarét, sáng nay đoàn sẽ đi thăm nơi
xa trước (Làng Cana và Núi Tabor), rồi sẽ dành trọn buổi chiều đi
bộ khám phá Làng Nazarét của Thánh Gia xưa kia.
Cana! Một số cặp vợ chồng trong đoàn sốt sắng hẳn lên! Có
một “Cô Dâu U50” năm nay mừng 25 Năm nên diện soirée màu
hồng rất tha thướt để đi Tái Tuyên Hứa (không phải “tái hôn”!)
tại nơi Chúa đã hóa nước thành rượu. Đoàn từ VN có 4 cặp; đoàn
từ Úc có 3 cặp. Một số cặp bị “lẻ đôi” thì tiếc hùi hụi!
Tên đầy đủ trong Phúc âm Gioan (2,1-11) là “Làng Cana Miền
Galilê”, để phân biệt với “Cana ở Liban”, cách Nazarét chỉ 70 km.
Nhưng ngay Miền Galilê cũng có tới 4 địa điểm cùng tên Cana, 2
trong số đó nay chỉ còn lại tàn tích. Tuy nhiên, Làng Kafr Kanna
mà chúng tôi sắp đến lại được các Kitô-hữu ở Nazarét từ thế kỷ
48
VIII nhìn nhận đúng là Làng Cana xưa, bởi lẽ làng này rất gần
Nazarét (7 km), lại là quê của Batôlômêô Tông đồ (Ga 21,2).
Hơn nữa, tại một di chỉ trong làng, các nhà khảo cổ xưa đã
khai quật được vết tích của một ngôi nhà lớn có niên đại rất cổ,
có thể là “1 phòng tiệc cưới” xưa. Năm 1879, các Cha Phanxicô
đã mua lại địa điểm ấy; đến năm 1906 thì xây dựng “Nhà Thờ Tiệc
cưới” (Wedding Church) ngay trên nền móng của di chỉ “Phòng
tiệc cưới” xưa, nơi có lẽ Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu
cho đôi tân hôn. Trước cổng “Nhà Thờ Tiệc cưới”, Giáo hội Chính
Thống cũng cho xây Nhà thờ Thánh George của họ.
49
Gần đây hơn, người ta đã đào được dưới tầng hầm Nhà Thờ
Tiệc cưới một chum lớn bằng đá giống như Phúc âm Gioan mô
tả, ẩn sau bức tường rất dầy của phế tích “Phòng tiệc cưới”. Điều
ấy càng làm tăng tính khả tín của Nhà Thờ Tiệc Cưới Kafr Kanna.
Làng Kafr Kanna ngày nay là một thị trấn nhỏ với 21,000 dân
là người Palestin, trong số đó chỉ có 30% là Kitô-hữu. Trước khi
đến nhà thờ, đoàn chúng tôi được đưa đến một tiệm chuyên bán
rượu Cana và đồ lưu niệm rất lớn của một người Palestin Công
giáo. Sau đó đoàn đến tham quan và được dâng lễ lúc 9g ngay
tại nhà thờ. Các cặp hôn nhân ắt đã được ‘thỏa chí toại lòng”.
Điều bất ngờ là có một cặp vợ chồng người Ý đã thành hôn tại
50
nhà thờ này 25 năm trước (1993). Họ vui mừng vì được dự Thánh
Lễ với Đoàn VN và cùng tham dự nghi thức Tái tuyên hứa hôn
nhân với 7 cặp của đoàn VN.
9. NÚI TABOR - CHÚA HIỂN DUNG
Núi Tabor cách Nazarét 18 km về hướng Đông. Rời Kafr
Kanna, chúng tôi thẳng tiến Núi Tabor. Vùng này khá xanh tươi
vì hãy còn ở trên cao nguyên. Thấp hơn một chút về phía Nam là
Thung lũng Jezreel màu mỡ, nằm vắt ngang Nam Galilê theo
hướng Đông-Tây. Từ xa, Núi Tabor đã hiện lên như một cái
chén/bát úp: chỉ một ngọn núi đơn độc đội lên trên nền trời.
51
Núi Tabor, có độ cao 575m. Dưới chân núi có 2 làng của
người Palestin và một Làng Do thái có tên là Kfar Tavor. Xe Bus
52 chỗ của đoàn chỉ lên đến bãi đậu cách đỉnh núi 7 km vì đoạn
đường cuối cùng này rất hẹp và gấp khúc nguy hiểm, và chuyển
qua xe giống loại Fort Transit ở VN.
Địa danh này từng được Sách Giôsuê 19,22 nhắc đến như cột
mốc chia đất cho chi tộc Zebulun, Issachar và Naphtali. Sách Thủ
Lãnh 4,6 cũng nói về chiến thắng của 10,000 quân của ông Barắc
với người Canaan từ Núi này. Tiếp theo trong lịch sử, Núi thường
là cứ điểm cho các cuộc kháng chiến Do thái chống ngoại bang.
Tuy nhiên, sức hút lớn nhất của ngọn núi linh thiêng này là
do biến cố Biến hình của Chúa Giêsu để bày tỏ Thiên tính của
Người cho ba đồ đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê (Lc 9,28-36; 2P 1,16-
18). Chính vì thế, từ thời Byzantine (thế kỷ IV-V) đã có một nhà
thờ được xây dựng ngay trên đỉnh núi để kính nhớ sự kiện Chúa
Biến Hình. Đến thế kỷ XII, các Thập Tự quân cho xây một nhà thờ
khác trên phế tích của Nhà thờ thứ nhất. Nhưng rồi Nhà thờ thứ
2 cũng bị phá hủy vào thời kỳ cai trị của Hồi giáo.
Năm 1835, các Cha Phanxicô đã thiết lập một Tu viện trên
đỉnh núi. Từ 1919-1924, Kiến trúc sư tài ba người Ý Antonio
Barluzzi đã giúp các cha xây dựng Nhà thờ Chúa Biến hình như
52
hiện nay, một công trình hoàn toàn bằng đá trắng rất uy nghi,
nổi bật trên nền trời. Tuy đồ sộ, nhưng kiến trúc của Nhà thờ vẫn
mang nét giản dị và khổ hạnh. Trong hai tháp chuông ở hai bên
cửa vào nhà thờ có hai bàn thờ dâng kính Môsê và Êlia là hai vị
lãnh đạo và Tiên tri Cựu ước đã đến đàm đạo với Chúa trong cuộc
Hiển Dung của Người.
Bên ngoài Nhà thờ phía bên phải, có một cầu thang dẫn lên
sân thượng lửng khá rộng sát tường nhà thở. Từ đó ta có thể
ngắm bao cảnh hùng vĩ của đồng bằng bên dưới cũng như nhiều
phế tích còn sót lại từ hai nhà thờ cổ thời Byzantine và Thập Tự
53
Chinh trong khuôn viên nhà thờ hiện tại, bao gồm những cột
móng và bờ tường bằng đá khối màu trắng, to lớn và vững chãi
như tường thành của các pháo đài. Điều đó chứng tỏ các nhà thờ
tiền nhiệm hùng vĩ hơn công trình hiện tại rất nhiều.
Từ Nhà Thờ nhìn ngược ra phía cổng, sẽ trông thấy Tháp
của Nhà Thờ Chính Thống dâng kính Tiên tri Êlia dưới sườn đồi
bên phải. Còn bên trái Cổng là tu viện uy nghi bằng đá trắng của
các Cha Phanxicô, và Bia ghi nhớ Vị Kiến Trúc Sư tài danh Antonio
Baluzzi (1884-1960) đã cộng tác với Cơ quan coi sóc Đất Thánh
thiết kế và xây dựng nhiều Nhà Thờ để đời trên Đất Thánh vào
nửa đầu của thế kỷ XX gồm:
- Nhà thờ Đức Mẹ Thăm Viếng bà Êlisabét ở En Karem
- Nhà Nguyện Mục đồng ở Cánh đồng Chiên tại Bêlem
- Nhà thờ Bát Phúc tại Biển Hồ Galilê
- Nhà thờ Chúa Chiên Lành tại Giêricô
- Nhà thờ Ladarô tại Bêtania
- Vương cung thánh đường Chúa Hiển Dung Núi Tabor
- Vương cung thánh đường Giếtsêmani tại Núi Cây Dầu
- Nhà Nguyện Canvariô của Công giáo, nằm trong lòng Nhà
thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem.
Chỉ sau khi viếng thăm và cầu nguyện ở nơi đây, chúng tôi
mới hiểu được phần nào tại sao Phêrô đã xin Chúa cho dựng lều
ở lại nơi này. Nhưng rồi cũng như Phêrô, đoàn chúng tôi cũng
phải xuống Núi trực chỉ Nazarét. Trên đường về, chúng tôi nhìn
thấy Làng Naim xa xa, tựa lưng vào một ngọn đồi. Đây là nơi
Chúa đã cho con trai đã chết của một bà góa được sống lại (Lc
7,11-17). Hiện tại đây là làng của cư dân gốc Palestin, cách Nazarét
19 km lái xe.
Về đến Downtown nhỏ nhắn của Nazarét, đoàn ăn trưa tại
một Nhà hàng là một ngôi nhà cổ, nhìn lên sườn đồi của Làng
Nazarét mà Gia đình Thánh Gia cách đây 2000 năm.
54
10. SƠ LƯỢC VỀ NAZARÉT
Nazarét ngày nay được gọi là “thủ đô Ả rập của Israel”, vì
76,000 công dân Do thái ở thành phố này đều là gốc Ả-rập, trong
đó 31% là Kitô-hữu. Người Do thái thì sinh sống ở thành phố bên
cạnh có tên Nazaret-Thượng (Upper Nazarét). Các thành phố Do
thái thì hiện đại ngăn nắp như Âu-Mỹ, khác với khu vực người
Palestin nghèo hơn, bình dị hơn, nhưng cũng thân thiện hơn.
Xe vừa đến Trung tâm Nazarét, đã trông thấy Làng của Chúa
Giêsu - ngày nay chi chít nhà cửa - dàn trải trên một sườn đồi khá
cao và rộng. Tất cả những địa điểm thánh mà chúng tôi sẽ có
Tour đi bộ chiều nay để thăm viếng đều lọt thỏm vào trong các
khối nhà trên sườn đồi ấy.
Theo Phúc âm Luca, Làng Nazarét là nơi Thiên thần Gabriel
truyền tin cho Đức Maria; nơi sinh sống của gia đình Thánh gia;
nơi Chúa Giêsu đã sống trọn tuổi thơ, thời niên thiếu, cũng như
các năm tháng ẩn dật cho đến khi 30 tuổi.
Đến Nazarét, được đi bộ trong các con phố nhỏ ngoằn
nghèo trên sườn đồi, được viếng thăm những địa điểm thánh
nơi đã từng diễn ra các sự kiện cứu độ cao trọng cách đây 2000
năm, khách hành hương sẽ được hiểu cách cụ thể và cặn kẽ hơn,
55
được cảm nhận cách sinh động hơn các trình thuật Kinh Thánh
mà trước đây có thể họ đã đọc đến thuộc nằm lòng. Hơn hết, họ
trải nghiệm những rung động thiêng liêng mà chỉ có bầu khí linh
thánh của các nơi chốn ấy mang lại: Nhà Thờ Truyền Tin, Căn hộ
và xưởng mộc của gia đình Thánh Giuse, Hội đường Do thái ở
Nazarét và Nhà Thờ Giếng Đức Mẹ.
11. TIỂU VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG TRUYỀN TIN
Tiểu Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin được xây dựng
bên trên di chỉ khảo cổ ngôi nhà của gia đình Đức Mẹ, vị trí - mà
56
theo truyền thống Công giáo Rôma - thiên sứ Gabriel đã truyền
tin cho Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,26-38). Công trình này cũng nằm
trên phế tích của một nhà thờ cổ từ thời Byzantine và một nhà
thờ cổ khác từ thời Thập tự chinh.
Vương Cung Thánh Đường hiện nay là nhà thờ Kitô-giáo lớn
nhất ở Trung Đông theo lối kiến trúc hiện đại, được hoàn tất năm
1969. Khối kiến trúc khổng lồ bao gồm 2 nhà nguyện: Tầng Hầm
và Tầng 2 chồng lên nhau. Mặt ngoài của Nhà Thờ được xây hoàn
toàn bằng đá vôi trắng, thứ đá tự nhiên được sử dụng rộng rãi
trên khắp Do thái và Palestin, khiến đâu đâu mọi nhà cửa, dinh
thự đều mang một màu trắng chủ đạo.
Bên phải cổng vào của Vương Cung Thánh Đường, sát với
bờ tường bao quanh khuôn viên Nhà thờ, là một hành lang chạy
dài có mái che. Bên trên các bức tường có gắn rất nhiều Hình
Đức Mẹ trong trang phục văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau
trên thế giới, trong đó có Ảnh Đức Mẹ Việt Nam được dâng cúng
vào năm 1964.
Trên đỉnh của Tầng 2 Nhà Thờ, ngay ở trên gian Cung Thánh,
thay vì một mái vòm bầu tròn (coupole) truyền thống của Kitô-
giáo, lại là một tháp màu xám nhọn hoắc như đầu một cây bút
chì đâm lên bầu trời xanh không mấy thẩm mỹ, lại hơi có nét của
57
một tháp giáo đường Hồi giáo (minaret). Thế nhưng mặt trong
của tháp lại giống như một hoa huệ tinh khiết đang hé nở và rực
rỡ ánh sáng tự nhiên, biểu trưng cho Đức Maria thanh khiết vẹn
tuyền; rồi phủ bên trên gian Cung Thánh Nhà Thờ Tầng 2, như
diễn tả lại sự kiện “quyền năng của Đấng Tối Cao rợp bóng trên
Đức Mẹ” sau lời thưa “Xin vâng”. Hơn nữa, hình thù của chiếc
tháp nhọn Ả-rập cũng nói lên một nỗ lực hội nhập văn hóa - một
nét của việc “Nhập Thể” - của công trình Kitô-giáo này vào trong
thế giới kiến trúc Ả-rập ở Vùng Palestin.
58
Tuy nhiên, linh thánh nhất vẫn là Tầng Nhà Thờ Hầm, nơi
chứa di chỉ khảo cổ của Hang Truyền tin bên cánh trái nhà thờ,
được cho là phế tích của ngôi nhà Đức Mẹ đã sống thời thơ ấu.
Nhà Thờ Hầm có 3 bàn thờ: Bàn thờ ở gian cung thánh
chính; bàn thờ đối diện với Hang Truyền Tin; riêng bàn thờ thứ
ba trong Hang Truyền Tin gây nhiều xúc động thiêng liêng cho
khách hành hương nhất, do có ghi hàng chữ Latinh phía trước:
Chính tại nơi đây, Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm! (Verbum Caro
hic Factum Est). Chúng tôi đang đứng trước nơi chốn Con Thiên
Chúa đi vào trần gian! Thật là một hạnh phúc thánh thiêng!
59
Cụm từ linh thánh “Chính tại nơi đây”, khách hành hương
sẽ còn gặp thấy ở địa điểm khác, nơi họ sẽ được đắm mình trong
chính khung cảnh linh thánh đã diễn ra mỗi mầu nhiệm:
- Chính tại nơi đây, Vị Tiền Hô của Chúa đã chào đời (Nhà thờ
Thánh Gioan Tẩy giả ở Ein Karem).
- Chính nơi tảng đá này, Bà Êlisabét đã giấu Gioan (để trốn
Hêrôđê giết hại: Nhà Thờ Đức Mẹ Thăm Viếng ở Ein Karem).
- Chính tại nơi đây, Chúa Giêsu Kitô đã được hạ sinh bởi Đức
Trinh Nữ Maria (Hang Giáng Sinh tại Nhà Thờ Bê-lem).
- Chính tại nơi đây, Người hằng vâng phục các Đấng (Nhà Thờ
Thánh Gia ở Nazarét).
Trước khi vào Nhà Thờ, đoàn chúng tôi dự định sẽ cùng
nhau đọc Kinh Truyền Tin bằng tiếng Việt trước Hang truyền Tin.
Nhưng khi vào trong, không còn ai dám mở miệng phá vỡ bầu
khí thinh lặng cực thánh của khách hành hương nhiều quốc tịch
đang thầm thĩ cầu nguyện trước Hang, hay đang ngồi la liệt khắp
các góc trong lòng Nhà Thờ suy gẫm và chiêm nghiệm, mặt
hướng về Hang Truyền Tin. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn, là
mỗi chúng tôi đều đọc thầm Kinh Truyền Tin, có thể là lần duy
nhất trong đời, chính tại NƠI NGÔI LỜI ĐÃ THÀNH XÁC PHÀM!
60
12. NHÀ THỜ THÁNH GIA
NHÀ & XƯỞNG THỢ CỦA THÁNH GIUSE
Nhà Thờ Thánh Giuse - còn gọi là Nhà Thờ Thánh Gia - nằm
cách Tiểu Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin chỉ 5 phút đi bộ,
có hình dáng và kích thước khá khiêm tốn, như ẩn nấp dưới bóng
của Tiểu Vương Cung Thánh đường. Ngôi nhà thờ hiện tại được
xây dựng từ năm 1914 bởi các Cha Phanxicô, trên nền cũ của một
Nhà thờ cổ từ thời Thập Tự Chinh.
Nhà thờ Thánh Gia cũng gồm hai tầng, và tầng hầm chắc
chắc quan trọng hơn, vì chứa đựng di chỉ khảo cổ được truyền
thống cho là vị trí của xưởng thợ và ngôi nhà của Thánh Giuse,
được đục âm vào hang đá như lối xây nhà thời ấy.
Tầng trên của Nhà Thờ không mấy đặc sắc, ngoại trừ 3 bức
bích họa (tranh tường) trên gian cung thánh, về 3 bước ngoặt
61
của Thánh Gia: bên trái là cảnh Thiên thần báo mộng cho Giuse;
giữa gian Cung Thánh là hình của Hai Đấng và Con trẻ Giêsu
đứng; còn bên cánh phải là cảnh Giuse hấp hối được Đức Mẹ và
Chúa Giêsu trưởng thành đứng bên cạnh chăm sóc.
Ở tầng dưới Nhà Thờ có ngôi nhà của Thánh Giuse và
xưởng thợ. Hầm đá của ngôi nhà cũng đã được biến thành một
nhà nguyện nhỏ.
62
Phía trước bàn thờ có 1 chiếc đĩa tròn bằng đá cẩm thạch
trắng, trên đó có khắc dòng chữ: Hic erat subditus illis - Chính tại
nơi đây, Người hằng vâng phục các Đấng.
Còn hang đá, nơi được cho là xưởng mộc xưa kia của Thánh
Giuse, nay được khảm sát tường một bức bích họa về sinh hoạt
của Thánh Gia Thất.
63
13. HỘI ĐƯỜNG NAZARÉT
Với Do thái giáo, chỉ Đền Thờ Giêrusalem mới là nơi thờ
phượng, nhưng mấy ai có điều kiện đến đó hành hương! Vì thế
chính Hội đường ở mỗi làng mới là nơi gìn giữ đức tin, nơi mà
mọi trẻ em đều đến để học chữ, học Kinh Thánh, học Thánh Vịnh;
nơi mà mọi độ tuổi đều phải đến nghe công bố và giảng giải Kinh
Thánh vào ngày Sabat, rồi cùng thảo luận để về sống Luật Chúa.
Từ “ngôi nhà Thánh Gia”, chúng tôi đi bộ theo đường dốc,
các bậc thang, băng qua các con hẻm và phố chợ Ả-rập để đến
Hội Đường Nazarét ở trên cao. Đây là nơi Chúa Giêsu từng đến
rao giảng và bị người đồng hương từ khước (Lc 4,16-30).
64
Tại Hội đường, chúng tôi cùng nghe công bố lại đoạn Phúc
âm ấy. Mọi người đều xúc động vì đang có mặt trong khung cảnh
của đoạn Phúc âm. Câu nói của Chúa Giêsu năm xưa: "Hôm nay
đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (c.21), đang trở
thành hiện thực với chúng tôi lúc này. Hôm nay, chính chúng tôi
cũng được diễm phúc đi trên những con dốc Chúa Giêsu từng đi
từ nhà đến Hội đường; được ở trong chính Hội đường đã hun
đúc đức tin của Chúa trong suốt tuổi ấu thơ; được nghe lại câu
chuyện của Thánh Luca ngay tại nơi sự kiện đã diễn ra!
14. NHÀ THỜ GIẾNG ĐỨC MẸ
Tên chính thức của “Nhà Thờ Giếng Đức Mẹ” (Mary’s Well)
là “Nhà Thờ Truyền Tin” hay “Nhà Thờ Gabriel”, thuộc Giáo Hội
Chính Thống Hy Lạp. Nhà thờ được xây trên một mạch nước mà
cho đến gần đây vẫn là nguồn cung cấp nước duy nhất cho Làng
Nazarét từ mấy ngàn năm trước. Vì thế ắt hẳn Đức Maria ngày
xưa cũng thường đến mạch nước này để kín nước.
Theo Chính Thống giáo, mạch nước này mới thực là địa điểm
Thiên Thần Truyền Tin cho Đức Mẹ, dựa vào lời chứng của cuốn
65
Tiền Tin Mừng của Thánh Giacôbê (Protoevangelium Jacobi): Đoạn
Cô cầm lấy vò nước và đi ra kín nước, thì kìa có một tiếng nói cất
lên: “Chào Maria, đầy ơn phước, Cô được chúc phúc giữa những
người nữ!” Cũng dựa vào lời chứng ấy mà một thánh đường đầu
tiên đã được xây dựng tại vị trí này từ thời Byzantine.
Ngày nay, mạch nước trong Nhà thờ ẩn mình trong một
hầm có mái vòm bằng đá. Nước từ mạch vẫn chảy đến một giếng
cách đó chừng 140m, gọi là “Giếng Đức Mẹ”. Và hình ảnh của
“Giếng ấy đã trở thành Logo của Thành phố Nazarét.
Từ Nhà Thờ Giếng Đức Mẹ về đến Khách Sạn Rimonim rất
gần: chỉ mất 10 phút đi bộ. Được biết tối ngày 5.5 là Thứ Bảy đầu
tháng, nên vào 20h sẽ có Rước kiệu nến Đức Mẹ từ cổng sau của
Nhà Thờ Tầng 2 phía trên đồi, rước vòng xuống phía cổng trước
của tầng dưới rồi tiến vào kết thúc ở Nhà Thờ Hầm. Thời gian
kiệu chừng 1 giờ. Nhiều thành viên của đoàn - nhất là các phụ nữ
- tuy rất mệt vì đã đi bộ suốt cả ngày nhưng vẫn sốt sắng không
muốn bỏ lỡ cơ hội có một không hai trong đời này. Nuối tiếc duy
nhất của các bà là vì không biết trước, nên đã không đăng ký để
có được một ngắm Mân Côi bằng tiếng Việt. Bù lại, vì biết VN ở
xa xôi, Ban Tổ chức đã vui vẻ tặng luôn nến kiệu mà không thu
lại như đối với những người khác.
66
NGÀY THỨ BA (6.5.2018)
CỤM HÀNH HƯƠNG PHÍA BẮC BIỂN HỒ GALILÊ
Hành trình Ngày thứ Ba:
Buổi sáng:
- Đi thuyền trên Biển Hồ Galilê.
- Thăm Capharnaum: Thành của Chúa Giêsu
- Thăm Nhà Thờ Tối Thượng quyền Thánh Phêrô ở Tabgha.
- Thăm và dâng lễ tại Nhà Thờ Tám Mối Phúc Thật.
- Thăm Nhà Thờ Hóa Bánh ra nhiều ở Tabgha.
Buổi chiều:
- Thành phố Tiberias: Món cá nướngcủa Thánh Phêrô.
- Chia tay Galilê (Bắc), đi dọc theo Thung lũng Sông Giođan
và Giêricô (Trung) để về Bêlem, Miền Giuđêa (Nam).
15. BIỂN HỒ GALILÊ
Từ sáng sớm, bà con trong đoàn đã tranh thủ đưa hành lý
xuống sảnh dưới để trả phòng khách sạn. Hành trình hôm nay sẽ
khá dài: thăm các di tích của Chúa Giêsu ở Mạn Tây cực Bắc Biển
Hồ Galilê, rồi xuôi xuống Bêlem ở Galilê phía Nam.
Rời Nazarét, xe đi về hướng Đông trực chỉ Biển Hồ Galilê,
cách đường chim bay chừng 30 km. Đi đường bộ ắt sẽ dài hơn.
Galilê dù sao vẫn là Vùng đồi núi và trung du, do vậy khí hậu
tương đối mát mẻ, và đặc biệt khá xanh tươi nhờ được tưới tắm
bởi Hồ Nước ngọt khổng lồ Galilê. Vườn tược hai bên đường khá
trù phú với chuối, xoài, Ô-liu. Ở Israel chủ yếu là nông nghiệp
sạch (organic), do vậy mọi thứ rau cỏ, kể cả cây ăn trái, đều được
trồng trong “nhà kính” che phủ bằng plastic để tránh sâu bọ.
Địa danh đầu tiên mà xe chúng tôi đi qua ven Biển Hồ là
Làng Magdala - quê của Maria Magdala hay Mađalêna - được
nhận biết nhờ các bảng hiệu siêu thị và Hotel ở ven đường.
67
Biển Hồ có 3 tên gọi:
- Biển Hồ Galilê: Đặt theo tên Miền Galilê.
- Biển hồ Kinneret hay Ghennêsarét (Ds 34,11; Lc 5,1): Theo tên
làng Kinneret trù phú ở mạn Tây Biển Hồ gần Capharnaum.
- Biển Hồ Tiberias: Theo tên thành phố Tiberias do Hêrôđê
Antipas xây năm 20 CN, cũng ở Ven Bờ Tây Biển Hồ.
Về địa hình, Biển Hồ Galilê có chu vi khoảng 53 km, chỗ đáy
sâu nhất là 43 m, chiều dài khoảng 21 km, chiều rộng 13 km, với
diện tích tổng cộng 166 km². Biển hồ Galilê nằm trên “rãnh đứt
gãy địa chất” của trái đất chạy dọc theo Sông Giođan (Jordan
rift) nên mặt Hồ nằm ở độ sâu -209 mét dưới mực nước biển.
Do vậy khí nóng từ sa mạc có thể tụ về nhanh chóng, tạo thành
những cơn lốc xoáy bất ngờ trên Hồ. Đã có lần các tông đồ sợ
hết hồn vì cơn cuồng phong này (Mc 4,37).
Biển Hồ may mắn có nguồn cấp nước dồi dào từ các Núi
tuyết phía Bắc ở Liban, và từ các mạch nước ngầm quanh Hồ.
Cực Nam của Hồ đổ nước vào Sông Giođan, từ đó chảy tiếp vào
Biển Chết. Đó là nói theo lý thuyết, vì trong thực tế, hầu hết
nước Biển Hồ ngày nay bị giữ lại cho nông nghiệp Galilê do tình
trạng thiếu nước vì hoang mạc hóa, chỉ có một lượng nước nhỏ
chảy vào Sông Giođan. Đến lượt cư dân ở Thung lũng Giođan lại
chặn giữ lượng nước cho nông nghiệp của mình, thành ra lượng
68
nước chảy vào Biển Chết gần như bằng zero. Với lượng nước
biển bị bốc hơi rất lớn do khí hậu sa mạc, gần đây mỗi năm mực
nước Biển Chết tụt xuống hơn 1 mét, khiến Biển Chết chỉ còn 4-
5 điểm du lịch có thể tắm được. Nếu Israel và Jordan không nhất
trí được với nhau thực hiện dự án đào kênh dẫn nước biển từ
Hồng Hải từ phía Nam lên tiếp cứu Biển Chết, thì trong 30 năm
tới, Biển Chết có thể “chết thật”.
Trở lại chủ đề hành hương, phần lớn hoạt động của Chúa
Giêsu trong 3 năm công khai diễn ra trên vùng Biển Hồ, nơi có
nhiều làng sinh sống bằng chài lưới, hoặc giao thương thuyền
bè. Các địa danh quanh Biển Hồ ghi dấu hoạt động rao giảng của
Chúa: Ghennêsarét nơi Chúa gọi 4 tông đồ đầu tiên; Thành
Capharnaum; Núi Tám Mối Phúc; Kursi, nơi Chúa trừ quỷ và cho
phép nó nhập vào đàn heo; Bethsaida nơi Chúa chữa người mù
(Mc 8,22-26); Tabgha nơi Chúa hóa bánh nuôi 5,000 người ( Mc
6,30-44) và hiện ra sau Phục sinh với các môn đệ (Ga 21,1-23).
Lộ trình thăm Biển Hồ hôm nay gồm: Thành Capharnaum
xưa gần cực Bắc Biển Hồ, và cụm 3 di tích quan trọng trong cự
ly 5 km xung quanh Capharnaum. Các điểm hành hương này
từng rất sầm uất vào thời Byzantine, sau đó bị tàn phá nặng nề
trong các giai đoạn Hồi giáo, cho đến 2 thế kỷ gần đây mới được
Khảo cổ học giúp khai quật và tái tạo lại.
69
16. TRẢI NGHIỆM SÓNG NƯỚC GALILÊ
Bến tàu du lịch Biển Hồ Galilê nằm ở làng Ginosar, tên gọi
khác của Ghennêsarét. Trên đường ra Cầu tàu, phải đi bộ ngang
Bảo tàng địa phương “Con người Galilê”, trong đó có trưng bày
xác của một con tàu từ thế kỷ I đã mục rữa, được trục vớt ở
lòng Hồ Galilê năm 1986.
Vừa xuống thuyền ai ai cũng cảm thấy háo hức vì sắp trải
nghiệm sóng nước Galilê và chắc sẽ biết thêm các chi tiết Thánh
Kinh liên quan đến Biển Hồ đây! Sự phấn khởi càng gia tăng khi
nghe hai bài thánh ca VN vang lên trên sóng nước Galilê.
Thế nhưng thuyền chỉ ra xa bờ một chút thì thả trôi bồng
bềnh để cho khách tự do ngắm cảnh. Sau đó Hướng dẫn viên
chỉ giới thiệu qua loa về địa lý của Hồ và vài địa danh bao quanh;
rồi đến mục biểu diễn thả lưới bắt cá; định tổ chức nhảy múa
70
giao lưu theo văn hóa Palestin; bán đồ lưu niệm là dây đeo làm
từ vỏ ốc của Hồ Galilê... Chương trình không thích hợp với bầu
khí hành hương, nên không được sự hưởng ứng của đoàn!
Thêm vào đó thời tiết trở nên xấu đột ngột, khung cảnh
trên hồ bỗng nên mù mịt, không còn hấp dẫn để ngắm hay chụp
hình. Vì thế đoàn chỉ tổ chức một vài tiết mục sinh hoạt vui nhộn
rồi quay vào bờ chỉ sau 40 phút ra khơi. Lúc rời thuyền, chủ
thuyền không quên đặt một chiếc tàu nhỏ để… xin tiền “típ”.
17. CAPHARNAUM - THÀNH CỦA CHÚA GIÊSU
Kafar Nahum nằm ở phía Tây của cực Bắc Biển Hồ, có nghĩa
“Làng của Nahum”. Từng là thị trấn năng động nhộn nhịp bậc
nhất Vùng Biển Hồ vào đầu Công nguyên, nhưng không rõ vì sao
thành lại rơi vào hoang phế đến độ mất cả dấu vết. Năm 1838,
một học giả tìm lại được dấu tích của Capharnaum đã phải thốt
lên: “Toàn bộ chỉ còn lại đống hoang tàn và đổ nát!”
Vào thời Chúa Giêsu, Capharnaum là một cảng cá sầm uất,
đồng thời là “Cửa ngõ biên cương” (frontier post) bên Bờ Biển
Hồ Phía Bắc (giống Giêricô là Cửa ngõ biên cương ở Tây ngạn
Sông Giođan). Nơi đây, các thương nhân Âu, Á, Phi tấp nập qua
lại giao thương buôn bán, nên cũng là địa điểm Vua quan thu
thuế dân bản xứ lẫn thương nhân nước ngoài. Có một lần Phêrô
71
hỏi Chúa Giêsu khi ở Capharnaum về việc nộp thuế (thân), Chúa
đã nói ông ra bờ Hồ ngay đó thả câu, rồi mổ bụng con cá đầu tiên
lấy đồng tiền đóng thuế cho cả 2 người (Mt 17,24-27).
Đến đây chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu không chọn
khởi nghiệp ở Nazarét, mà lại chọn đóng đô ở Capharnaum suốt
3 năm: đơn giản vì những lời Ngài rao giảng ở Capharnaum sẽ
được các thương nhân về nói lại ở quê quán họ. Quả là rất chiến
lược! Chính vì thế Capharnaum đã trở thành “quê hương thứ
hai” của Chúa Giêsu sau Nazarét, và Cổng dẫn vào thành ngày
nay có ghi biển hiệu: “Capharnaum - Thành của Chúa Giêsu”.
Đến hành hương Capharnaum ngày nay, chỉ còn lại… hoang
tàn và đổ nát! Các tàn tích lộ thiên bằng đá basan đen nằm ngổn
ngang đầy dẫy cho thấy tầm vóc xưa của thị trấn Capharnaum
quy mô đến thế nào.
Ngày nay, khu phế tích Capharnaum nằm sát bên cực Bắc
Biển Hồ, do Cơ quan coi sóc Đất Thánh của Dòng Phanxicô cai
quản. Trên toàn bộ khu phế tích, chỉ có hai tòa nhà đương đại
mọc lên: đó là Tu viện Phanxicô và Nhà nguyện “Chúa hứa ban
Bánh Hằng Sống”; cả hai đều được xây bằng đá basan đen, cho
đồng bộ với kiến trúc của Thành này từ thời Chúa Giêsu. Nhà
nguyện Bánh Hằng Sống có kiến trúc hiện đại, dáng tròn và dẹp
như chiếc “dĩa bay” khổng lồ đặt trên các trụ đá đen; bên dưới
sàn nhà thờ là di chỉ khảo cổ ngôi nhà của Mẹ vợ Phêrô.
72
Phế tích duy nhất được tái dựng lại ở đây là Hội đường
Capharnaum bằng đá vôi trắng, khác với toàn bộ quần thể phế
tích bằng đá den. Một tấm bảng ghi rõ “Hội đường này được xây
vào thế kỷ IV, trên nền HỘI ĐƯỜNG CỦA CHÚA GIÊSU. Thánh Luca
còn nói rõ, Hội đường nguyên thủy thời Chúa Giêsu do một Viên
bách quản Rôma xây tặng cho dân thành này (Lc 7,1-10).
Dừng chân trong Hội đường Capharnaum, khách hành
hương có thể hồi tưởng lại một vài việc làm nổi bật của Chúa
Giêsu tại “Thành của Người”:
Chính tại Hội đường này, Chúa đã giảng dạy như Đấng có uy
quyền và chữa một người bị quỷ ám váo 1 ngày sabát (Mc 1,21-
28), và đã từng ban lời hứa về Bánh hằng sống (Ga 6,22-59).
73
Ngài đã từng chữa cho con gái đã chết của ông Gia-ia trưởng
hội đường được sống lại (Mc 5,34-43), đã chữa Mẹ vợ Phêrô
khỏi sốt, từ đó khiến cả thành đưa các bệnh nhân các loại
tuôn đến với Ngài xin cứu chữa (Mc 1, 29-34).
Ngài đã từng quở trách Capharnaum, Khôrazin, Bétsaiđa (quê
của Phêrô, Anrê, Philipphê: Ga 1,43), ba thành phố “tam giác
rao giảng trọng điểm” của Chúa vì 3 thành này đã được chứng
kiến nhiều phép lạ của Chúa nhưng đã từ chối tin vào Ngài
(Mt 11,20-24).
Mạn Đông Biển Hồ bên kia Capharnaum là hoang địa. Chúa
Giêsu thường chỉ thị các tông đồ đi thuyền qua Bờ Đông bên ấy
để nghỉ ngơi thanh tĩnh, cuối một ngày giảng dạy tất bật.
74
18. NHÀ THỜ TỐI THƯỢNG QUYỀN THÁNH PHÊRÔ
Ở TABGHA
Tabgha là tên của khu vực ở mạn Tây Biển Hồ, dưới chân Núi
Tám Mối Phúc, chỉ cách Capharnaum chừng 3 km. Tên Vùng này
theo tiếng Hy-Lạp là “Heptagon” (hình bảy góc) vì trong khu vực
có “7 mạch nước” nóng do chứa nhiều chất lưu huỳnh (sulfur)
tuôn ra Biển Hồ. Vì thế nước ở đây quanh năm ấm áp, nhất là vào
Mùa Đông, thu hút các luồng cá tụ về rất lớn. Vì thế đây cũng là
điểm đánh bắt cá ưa thích của ngư dân, trong đó có các tông đồ.
Thế nhưng, người Ả-rập đọc sai chữ “Hép-ta-gon” thành “Táp-
vơ-ga”, rồi cứ thế trở thành tên gọi chính thức của khu vực.
Địa danh Tabgha gắn liền với câu chuyện Chúa hiện ra với
các Tông đồ trên Biển Hồ sau Phục sinh (Ga 21,1-19), cho các ông
một mẻ cá lạ lớn lao sau 1 đêm trắng tay, rồi còn dọn sẵn bữa ăn
sáng trên Bờ hồ gồm bánh và cá nướng. Cuối bữa ăn Chúa hỏi
Phêrô ba lần: Anh có yêu mến Thầy không? rồi trao cho ông tối
thượng quyền chăn dắt toàn bầy chiên của Chúa là Giáo Hội. Các
Kitô-hữu xa xưa tin rằng sự kiện ấy xảy ra tại một phiến đá lớn
trên Bãi Tabgha, nên từ thời Byzantine thế kỷ IV, rồi Thập Tự
Chinh thế kỷ XII, đã từng có nhà thờ phủ trên tảng đá ấy.
Để đến Nhà thờ Tối thượng quyền ngày nay, từ mặt đường,
phải đi bộ vào con đường rợp bóng cây chừng 200m, hơi xuôi
75
dốc về phía Bờ Biển Hồ. Vừa vào cổng, đã bắt đầu thấy các tàn
tích xây dựng xưa cũ bên tay phải. Gần cuối con đường, có một
tấm bảng có hình của các ĐGH từ Thánh Phêrô cho đến nay.
Ngôi nhà thờ hiện tại khá nhỏ, xây bằng đá basan đen đặc
trưng của Vùng Biển Hồ, ngay trên phế tích của hai nhà thờ xưa.
Phía sau nhà thờ là một bãi đất trống, phủ sỏi tự nhiên, vươn ra
bờ Biển Hồ mênh mông rì rào tiếng sóng.
Bước vào Nhà Thờ, khách hành hương sẽ thấy ngay một
phiến đá lớn ở trên cung thánh có ghi chú “Mensa Christi” (Bàn
của Chúa Kitô). Có lẽ trên chiếc bàn đá này, Chúa Phục sinh đã
dọn bữa ăn sáng cho các tông đồ. Và cũng tại chiếc bàn đá này,
Ngài đã trao Tối Thượng quyền cho Thánh Phêrô.
76
Tràn đầy xúc động, cả đoàn thinh lặng nghe đoạn Phúc âm
Ga 21,1-19, những tưởng mình đang được chứng kiến quang cảnh
Chúa Phục sinh lui cui dọn bữa ăn cho môn đệ tại tảng đá trước
mặt, và trao Tối thượng quyền cho Thánh Phêrô. Tại đây, đoàn
đã đọc Kinh Tin kính để tuyên xưng đức tin, và hát vang bài “Này
Con là Đá” cầu nguyện cho ĐGH Phanxicô kính mến.
19. NHÀ THỜ TÁM MỐI PHÚC Ở TABGHA
Phúc âm Mát-thêu kể lại việc Chúa Giêsu thấy đám đông dân
chúng quá lớn, nên Ngài lên một gò cao, ngồi xuống để giảng
dạy cho họ về Tám Mối Phúc thật (5,1-11). Các Kitô-hữu từ thế kỷ
IV đã xác định vị trí đó nằm ở 1 ngọn đồi không xa Capharnaum,
cao hơn mặt hồ 200 m, ở Tây ngạn Hồ Galilê. Đã từng có một nhà
thờ và một tu viện trên đồi này vào thời Byzantine thế kỷ IV,
nhưng đã biến mất sau các giai đoạn cai trị của Hồi giáo, ngoại
trừ một cái hồ chứa nước nhỏ bằng đá đẽo và một vài mảng
“tranh khảm ghép gạch” (mosaic) của nền Nhà Thờ cổ.
Ngôi nhà thờ Bát phúc hiện nay được xây dựng từ năm 1938
tại địa điểm gần nền nhà thờ cổ vừa nói. Mặt tiền nhà thờ quay
lên sườn đồi, nơi có nhiều cây cối và các nhà chòi có mái che để
các nhóm hành hương dâng lễ. Lưng Nhà Thờ quay ra Biển Hồ.
Bề ngoài nhà thờ có vẻ bề thế, nhưng lòng nhà thờ lại khá nhỏ,
77
có hình bát giác để biểu trưng cho Tám mối phúc. Nhà Tạm và
Bàn thờ đặt ở tâm nhà thờ. Lời của 8 mối phúc được ghi trên 8
cửa kính màu phía trên mái vòm giữa nhà thờ.
Nhà Thờ Bát Phúc đã từng được ĐGH Phaolô VI (1964) và
ĐGH Gioan-Phaolô II (2000) đến viếng thăm trong các cuộc công
du Đất Thánh của các vị.
Khi đến nơi, đoàn chúng tôi vào viếng Thánh Thể trong Nhà
Thờ và đọc to Kinh Phúc Thật Tám Mối bằng tiếng Việt. Sau đó,
đoàn mượn đồ lễ để dâng lễ tại một chòi trên sườn đồi. Từ trên
đồi cao, có thể nhìn bao quát Biển Hồ trải rộng trước mắt.
Không xa Nhà Thờ Bát Phúc, cùng nằm trong khu vực
Tabgha hay “7 mạch nước”, là nơi Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa
bánh lần thứ nhất (Mt 14, 13-21).
78
20. NHÀ THỜ PHÉP LẠ HÓA BÁNH Ở TABGHA
Thánh Matthêu cho biết, khi được tin Gioan Tẩy giả bị
Hêrôđê trảm quyết, Chúa Giêsu lên thuyền lánh mặt đến nơi
hoang vắng, nhưng dân chúng tuốn đến tìm Chúa để được nghe
giảng dạy và chữa bệnh. Chiều đến, các tông đồ xin Chúa giải tán
đám đông vì nơi ấy rất hoang vắng, dân chúng không thể nào tìm
mua được thức ăn. Thế nhưng chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá,
Chúa đã làm phép lạ cả thể nuôi 5,000 người ăn no nê, mà vẫn
thu lại được 12 thúng đầy bánh vụn.
Tương truyền Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ấy trên một
tảng đá ở Tabgha. Từ thời Byzantine thế kỷ IV, các tín hữu đã xây
nhà thờ “Hóa Bánh” trùm lên trên tảng đá đó. Theo thời gian,
các tín hữu đến hành hương cứ “chẻ” một mẩu đá mang về nhà
nên phiến đá cứ nhỏ dần, cho đến lúc phải cấm làm điều ấy.
Năm 1939, các Cha Dòng Biển Đức người Đức từ Giêrusalem
đã mua khu vực phế tích của Nhà Thờ Hóa Bánh xưa, và xây nên
ngôi Nhà Thờ hiện tại. Điểm thu hút nhất của điểm hành hương
này là hai dấu chứng cổ xưa quý giá nằm dưới chân bàn thờ: đó
là phần còn lại của “tảng đá phép lạ” từ thời Chúa Giêsu, và một
bức tranh khảm ghép gạch (mosaic) của nền Nhà Thờ cổ thế kỷ
IV, khắc họa “hai con cá nằm hai bên rổ bánh”
79
Thánh Mác-cô còn tường thuật một phép lạ hóa bánh thứ
hai ở một nơi hoang vắng, sau khi dân chúng theo Chúa đã ba
ngày và cạn kiệt lương thực. Từ 7 chiếc bánh với một ít con cá
nhỏ, Chúa đã làm một phép lạ thứ hai để nuôi 4,000 người (Mc
8,1-10). Địa điểm ấy được Truyền thống địa phương xa xưa, cũng
như các học giả Thánh Kinh ngày nay, xác định ở Tell-Hadar, đối
diện Tabgha ở Bờ Đông bên kia của Biển Hồ, nơi chủ yếu là núi
đá và hoang mạc.
80
Ngày nay, địa điểm này chỉ còn là tàn tích và người ta dựng
một trụ đá để ghi dấu (như tập tục của các Tổ phụ Cựu ước).
21. TIBERIAS: MÓN CÁ NƯỚNG THÁNH PHÊRÔ
Từ giữa Biển Hồ nhìn lên sườn đồi ở bờ Hồ Tây, sẽ thấy
thành phố Tiberias do Hêrôđê Antipas xây năm 20 CN. Vua đặt
tên là thành phố Tiberias để vinh danh Hoàng đế La Mã Tiberius.
Tuy thành Tiberias nằm ngay ven Hồ, nhưng Chúa Giêsu không
bao giờ đặt chân đến đó, vì nó xây trên một nghĩa địa nên người
Do Thái không ở vì coi là ô uế. Duy nhất một lần Phúc âm nhắc
tên thành, đó là khi dân ngoại ở Tiberias nghe về phép lạ hóa
bánh ở Tabgha, họ đã chèo thuyền đến để gặp Chúa. (Ga 6,23)
Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Do thái lần 2 vào năm 135
và bị chính quyền Rôma trục xuất khỏi Giêrusalem, người Do thái
đã chuyển trung tâm văn hóa, học thuật và tôn giáo Do thái về
Vùng Kinneret, đặc biệt ở thành phố Tiberias này.
Chúng tôi ăn trưa tại nhà hàng của Trung Tâm lưu trú hành
hương Chính Thống Nga (Pilgrims’ Residence: Russian Ecclesiatic
Mission) ngay Bờ Biển Hồ, với món chính là “đặc sản cá nướng
của Thánh Phêrô”, đánh bắt từ Hồ Galilê, trông giống cá rô lai
của VN nhưng thịt ngọt và thơm hơn rất nhiều.
Kết thúc 2 ngày khám phá Galilê. Một lần nữa, xe đi xuôi
xuống phía Nam Biển Hồ, chạy dọc Thung lũng Sông Giođan, rẽ
qua Giêricô để về Bêlem, Miền Giuđêa.
81
22. ĐƯỜNG QUA THUNG LŨNG SÔNG GIOĐAN
ĐI GIÊRICÔ ĐỂ VỀ BÊLEM
Thung lũng Sông Giođan là tên gọi của vùng trũng dọc theo
bờ Sông Giođan, dài 110 km tính từ cực Nam Hồ Galilê đến điểm
cực Bắc của Biển Chết. Rời Biển Hồ Galilê xanh tươi, càng đi về
phía Nam Thung lũng Giođan, đất đai càng hoang mạc hóa.
Sông Giođan là biên giới phía Đông của Israel & Palestin với
Nước Jordan. Hầu hết chiều dài của sông Jordan nằm lọt trong
lãnh thổ của Jordan, nên chúng tôi không nhìn thấy sông và đất
đai hai bên sông thế nào. Bên trên chỉ toàn là hoang mạc! Con
đường dọc theo sông cũng là đường quân sự để tuần tra biên
giới. Dọc theo con đường là hàng rào kẽm gai điện tử, với nhiều
xe quân sự Israel lưu thông xuôi ngược trên đường.
82
Tiếp đến là chốt “biên giới nội địa” giữa Israel và Vùng Bờ
Tây do Israel kiểm soát: người Do thái và khách du lịch thì được
tự do qua lại giữa hai lãnh thổ Israel và Bờ Tây, nhưng người
Palestin ở Bờ Tây lại không được tự do qua chốt biên giới để vào
Israel trừ khi có Visa của Israel. Một sự bất bình đẳng thật khó
hiểu. Đúng là “lý” của kẻ chiến thắng!
Chỉ khi đến gần Giêricô, “Thành chà là”, thì mới thấy màu
xanh của các vườn chà là nhô lên từ giữa hoang mạc.
Thay vì tiếp tục đi Biển Chết, xe chúng tôi rẽ phải vào
Giêricô, từ đó xuôi hướng Tây Nam để lên Giêrusalem và Bêlem.
Tại Giêricô, đoàn dừng chân ở Núi Cám dỗ để bà con thư giãn và
mua chà là. Người Palestine ra tận xe chào mời ăn thử chà là và
mứt vả khô. Họ biết dân VN là “khách sộp”!
83
Đường từ Giêricô lên Giêrusalem rất dốc. Chỉ trong một cự
ly 25 km đường chim bay mà chênh lệch độ cao trên 1,000 mét:
từ cao độ của Giêricô - 258m (dưới mực nước biển) lên đến 754m
của Giêrusalem. Hiếm đèo núi nào ở VN có độ cao chênh lệch từ
chân đèo lên đến đầu đèo lớn đến thế. May mắn thay, xe cộ ngày
nay đã có những xa lộ xẻ núi phẳng phiu, an toàn.
Tuy vậy, con đường ngàn năm từ Giêrusalem xuống Giêricô
của “người Samari nhân hậu” hãy còn tồn tại, vẫn băng qua
những “vực sâu” (TV 51) và “thung lũng tối” (TV 23) đúng nghĩa,
những núi cao và thung lũng hẹp nằm kề nhau theo hình chữ “V”
dốc đứng. Một địa danh nổi tiếng trên cung đường ấy là Tu viện
Saint George bám cheo leo bên vách đá dưới một vực thẳm;
trước tu viện vẫn còn con đường cũ từ Giêrusalem xuống
Giêricô, chỉ dành cho những du khách có máu phiêu lưu!
Lên đến Thành phố Giêrusalem trên cao, xe còn đi thêm 8
km mới tới Thành phố Bêlem Bêlem lúc sẩm tối. Trời mưa phùn
và se lạnh, nhiệt độ chừng 160 C, tạo nên cảm giác khoan khoái,
nhẹ nhàng. Đoàn sẽ nghỉ hai đêm tiếp theo ở Bêlem tại Khách
sạn “Kim cương trắng” (White Diamond).
Hành trình 160 km hôm nay từ Nazarét về Bêlem đã giúp
chúng tôi hình dung phần nào sự xa xôi và khó nhọc mà thánh
Giuse và mẹ Maria đã trải qua, khi khăn gói đi bộ từ Nazarét về
Giêrusalem, rồi phải đến Bêlem này để hạ sinh Chúa Cứu Thế.
84
NGÀY THỨ TƯ (7.5.2018)
VÙNG NÚI GIUĐÊA: LÀNG EIN KAREM & BÊLEM
Hành trình Ngày thứ Tư:
Buổi sáng:
- Làng Ein Karem, quê nhà của Gioan Tẩy-giả
- Nhà Thờ Đức Mẹ Thăm viếng Bà Êlisabét
- Nhà Thờ Gioan Tẩy-giả hạ sinh
- Cánh đồng Chiên và Nhà Thờ Mục đồng Bêlem.
Buổi chiều:
- Hang sữa
- Quần thể Nhà Thờ Giáng Sinh Bêlem.
23. VÙNG NÚI GIUĐÊA & LÀNG EIN KAREM CỦA GIOAN
“Vùng Núi Giuđêa” (Judean Mountains) trải dài từ Ramallah,
xuống Giêrusalem, Bêlem, Hebron ở độ cao 750m - 920m hơn
mực nước biển, nằm song song với “Dải hoang mạc Giuđêa”
(Judean Desert) bao trùm Thung lũng sông Jordan, Biển Chết đến
sát Sa mạc Nêgev. Do chênh lệch độ cao cả 1000m, khí hậu hai
vùng rất cách biệt: Trên núi thì ôn đới và xanh, dưới hoang mạc
thì khô cháy. Vùng Núi Giuđêa là vùng đất trung tâm của lịch sử
Israel trong Kinh Thánh, với Thánh đô Giêrusalem là trọng tâm.
Thánh Luca kể lại, khi được Thiên Thần báo tin, Maria đã vội
vã đi đến một thành Miền Núi Giuđêa thăm Chị họ Êlisabét đang
mang thai (Lc 1,39-56). Đó chính là làng Ein Karem xanh tươi trên
Vùng Núi Giuđêa, cách Giêrusalem 7 km về phía Tây. Trong tiếng
Ả-rập, Ein có nghĩa là “mạch nước”, Karem là “lùm cây”.
Ein Karem ngày nay có 4 di tích hành hương: Nhà Thờ Đức
Mẹ Thăm Viếng ở sườn đồi cao bên tay phải; phía sau là Nhà Thờ
Chính Thống Nga từ 1847; dưới chân đồi có “Suối nước Đức Mẹ”
(Mary’s Spring); còn Nhà Thờ Thánh Gioan Tẩy giả hạ sinh ở ngay
trong làng Ein Karem, trên một sườn đồi phẳng hơn.
85
24. NHÀ THỜ THĂM VIẾNG EIN KAREM
Tại sao lại có đến 2 địa danh thuộc gia đình Giacaria chỉ cách
nhau 1.5 km trong cùng một làng: Nhà Thờ Đức Mẹ Thăm viếng
trên đồi cao, và Nhà Thờ Thánh Gioan ở giữa làng?
Truyền thống cho rằng Giacaria là một tư tế về hưu khá giả.
Vì thế ngoài ngôi nhà chính ở giữa làng, ông còn có nhà phụ trên
núi để tránh nóng mùa hè. Có lẽ Bà Êlisabét đã lên đây nghỉ
dưỡng khi mang thai, nên Maria đã đến nhà này để thăm chị họ,
nay là địa điểm của Nhà Thờ Đức Mẹ Thăm viếng.
Trước khi lên đồi cao, có thể Maria đã dừng chân ở mạch
nước chân đồi để uống nước lấy sức, sau một đoạn đường đi bộ
chừng 140 km từ Nazarét. Vì thế mạch nước này đã được đặt tên
86
là “Suối Đức Mẹ” (Mary’s Spring). Ngày nay suối này đã bị ô
nhiễm không uống được, và trên di tích ấy có một giáo đường
Hồi giáo bỏ hoang, dấu tích của thời Hồi giáo chiếm đóng.
Nhà thờ Đức Mẹ thăm viếng hiện tại do các Cha Phanxicô
xây năm 1937, trên phế tích của Nhà Thờ do Thánh nữ Hêlêna từ
thế kỷ IV. Mặt tiền nhà thờ có bức bích họa lộng lẫy, khắc họa
cuộc hành trình của Đức Mẹ được ba thiên thần hộ tống.
Tầng Nhà thờ hầm không có nhà nguyện, chỉ có một chiếc
giếng cổ nguyên vẹn là dấu tích của một nhà cổ, và tảng đá hình
tròn dẹp đường kính hơn 1 mét, bên trên có ghi hàng chữ Latinh:
“Chính nơi tảng đá này, Bà Êlisabét đã giấu Gioan” để tránh cuộc
sát hại các hài nhi của Hêrôđê để tìm diệt con trẻ Giêsu (Mt 2,16-
18). Trên trần vòm nhà thờ hầm có 3 bức bích họa: Tư tế Giacaria
dâng hương trong Đền Thờ; Hai chị em Êlisabét và Maria chào
nhau và hài nhi Gioan nhảy mừng trong bụng mẹ; Hêrôđê giết
các hài nhi.
Nhà Thờ Tầng trên rất uy nghi, trang trí theo lối Byzantine
(Chính Thống Đông Phương) khá tối tăm, hoàn toàn không dùng
tượng, mà chỉ có rất nhiều tranh bích họa, không chỉ trên gian
Cung Thánh, mà phủ kín trần và mọi bức tường trong Nhà thờ.
Chủ đề của các bích họa liên quan đều đến cuộc đời Đức Mẹ (như
tiệc cưới Cana) hoặc các mầu nhiệm đức tin về Đức Mẹ (như:
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa; Đức Mẹ Mân Côi).
87
Bức tường bao quanh khuôn viên nhà thờ có các bia kinh
“Magnificat” bằng nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt.
25. NHÀ THỜ THÁNH GIOAN TẨY GIẢ EIN KAREM
Hình thù bề ngoài ngôi Nhà Thờ này khá lạ, như ghép lại từ
nhiều khối nhà. Điều ấy không sai, vì khi xây dựng lại Nhà thờ này
vào cuối thế kỷ XIX, các Cha Phanxicô đã giữ lại cả 3 khối nhà:
- Nhà thờ chính giữ nguyên nền Nhà thờ cũ do Thập Tự quân
xây, trong đó có hang giáng sinh Gioan Tẩy giả (thế kỷ XIII).
- Phần Mặt tiền của Nhà thờ chính hiện nay là phần xây trên
nền nhà thờ cổ nhất từ thời Byzantine (thế kỷ IV-V).
- Khối nhà phụ thêm ở bên ngoài chân tháp chuông của nhà
thờ, là Hội trường của Thập Tự quân (thế kỷ XIII).
88
Cả Nhà thờ là một khối hùng vĩ xây bằng đá trắng, được cho
là tọa lạc trên nền nhà của Ông Giacaria. Vì thế bên cánh trái của
Cung Thánh trong Nhà Thờ chính, có một hang đá với bàn thờ
có phiến đá cẩm thạch dưới chân ghi dòng chữ Latinh: Chính tại
nơi đây, Vị Tiền Hô của Chúa đã chào đời.
Trên bức tường đá quanh khuôn viên Nhà Thờ phủ kín các
bia kinh “Chúc Tụng Chúa” (Benedictus) bằng nhiều thứ tiếng.
Đoàn VN đã đến trước bia kinh Việt ngữ để cùng đọc Lời Kinh.
26. CÁNH ĐỒNG CHIÊN BÊLEM
& NHÀ NGUYỆN MỤC ĐỒNG
Nói về Bêlem, thì đây là quê quán của Vua Đavít (Lc 2,4). Tên
gọi Beth-Lehem trong tiếng Do thái có nghĩa là “Nhà của bánh
mì” (Lò bánh), tiếng Ả-rập lại là “Nhà của thịt” (Lò mổ), nhưng
đúng nhất có lẽ là “Nhà của Lehem”, tên một vị thần về sinh sản
của người Canaan. Bêlem ngày nay thuộc Vùng Bờ Tây, cách
Giêrusalem khoảng 10 km, với khoảng 30,000 dân. Đây là trung
tâm hành hương lớn vì có quần thể Nhà thờ Giáng Sinh. Vì thế
89
Bêlem có trên 30 khách sạn và trên 300 cơ sở chế tác và bán đồ
thủ công lưu niệm, chủ yếu là gỗ cây ô-liu điêu khắc.
Đầu tiên, hướng dẫn viên đưa đoàn đến một cửa hàng lớn
ở Bãi đậu xe, được giới thiệu là của Hợp tác xã Thủ công mỹ nghệ
của người Palestin Công giáo tại Bêlem. Mua hàng ở đây là cách
ủng hộ sinh kế cho họ. Nhưng thực ra, đó chỉ là chiêu trò. Mặc
dù cửa hàng giảm giá 20%, nhưng vẫn đắt gấp nhiều lần so với
giá cả đường phố. Vì thế chỉ nên mua các món lặt vặt, không mua
hàng mỹ nghệ hay đồ trang sức đắt tiền để tránh bị lừa.
Điểm viếng thăm đầu tiên của đoàn tại Bêlem là Cánh đồng
chiên (Shepherds’ Field) cách Nhà Thờ Giáng sinh nơi Chúa sinh ra
chừng 4 km. Cánh đồng này nằm trên một sườn đồi, được cho
là nơi Thiên Thần đã hiện ra báo tin Đấng Cứu Thế ra đời cho các
mục đồng đang chăn chiên du mục dài ngày trên núi.
90
Từ cổng vào, đi bộ lên sườn đồi chừng 250m, thì đến Hang
mục đồng, có trần khá rộng và bằng phẳng, là nơi chiên vào ngủ
trong mùa đông, còn mục đồng thì canh thức ngoài cửa hang.
Bên phải hang chừng 70 m, trên đỉnh đồi, là Nhà nguyện
Mục đồng vuông vức bằng đá trắng, có hình dáng lụp xụp như
túp lều mục đồng.
Lòng Nhà nguyện Mục đồng rất nhỏ, với Bàn thờ đặt ở
trung tâm. Trên vòm Nhà Thờ có 3 bức bích họa: Thiên thần báo
91
tin cho các mục đồng; Mục đồng viếng Chúa Hài đồng tại Hang
Bêlem (tức Nhà Thờ Giáng Sinh cách đó 4 km); Mục đồng ra về
nhảy múa hân hoan báo tin vui Giáng sinh cho người khác.
27. THÀNH CỔ BÊLEM & QUẢNG TRƯỜNG MÁNG CỎ
Sau cơm trưa, đoàn gửi xe ở một Trung Tâm thương mại,
rồi đi bộ đến Thành Cổ, tọa lạc ngay Trung tâm Thành phố Bêlem
ngày nay. Thành Cổ gồm 7 khu phố Kitô-giáo có từ thời Byzantine
và chỉ có 1 khu phố Hồi giáo, bao quanh Quảng trường Máng Cỏ
rộng rãi dẫn về phía quần thể Nhà Thờ Giáng sinh hùng vĩ bằng
đá vôi trắng án ngữ ở cuối quảng trường. Đầu vào quảng trường
là Thánh đường Hồi giáo Omar được xây năm 1860 bởi Đế quốc
Ottoman, với ngọn tháp vươn cao ngạo nghễ để khẳng định sự
thống lĩnh của Hồi giáo trên linh địa Kitô-giáo này.
92
Tại Thành Cổ, đoàn đã hành hương tới 3 địa điểm: Hang sữa,
Nhà Thờ Thánh Catarina thành Alexandria tử đạo, Nhà Thờ Giáng
Sinh và địa điểm linh thánh nhất là Hang đá Giáng Sinh.
28. HANG SỮA
Hang sữa (Milk Grotto) cách quần thể Nhà thờ Giáng sinh chỉ
vài trăm mét về phía Nam. Đó là một hang động cấu tạo bằng
loại đá trắng tự nhiên và mềm, với nhiều ngóc ngách ăn sâu vào
trong. Từ xa xưa, nơi này đã là điểm hành hương của người Kitô
giáo và Hồi giáo, đặc biệt là các bà mẹ đang mong có con hoặc
mới có con, do gắn với một tương truyền về sự tích của Động.
93
Chuyện kể lại, khi Hêrôđê tàn sát các trẻ nam Do thái từ 2
tuổi trở xuống (Mt 2,16), Thánh gia liền trốn đi Ai-Cập trong đêm.
Vì con trẻ khát sữa nên Hai Đấng trốn tạm vào hang cho bú. Một
giọt sữa của Đức Mẹ đã rơi xuống đất khiến toàn bộ đá của hang
trở nên sáng trắng rực rỡ. Trong hang hiện nay có trang trí vài
tượng và hình “Đức Mẹ cho con bú”, và tượng “Thánh Gia trốn
qua Ai-Cập” ngay lối xuống Hang. Ngôi nhà nguyện ở hang rộng
nhất do các Cha Phanxicô thiết kế và xây dựng năm 1872.
Tại Nhà Thờ có bán các túi nhỏ chứa một chút bột trắng cạo
ra từ vách đá mà người bình dân gọi là “sữa Đức Mẹ” (2 USD).
Nhiều bà mẹ hiếm con hoặc hiếm sữa đã mua “sữa này” về trộn
vào thức ăn và cầu xin với “Đức Mẹ Sữa”. Khi được ơn có con
hoặc có sữa, họ đã gửi hình con về Nhà thờ để làm chứng và tạ
ơn. Nhiều người trong đoàn đã mua sữa này về tặng. Có cả một
Cha quản hạt ở VN cũng nhờ Cha phó trong đoàn mua giúp!
94
29. QUẦN THỂ NHÀ THỜ GIÁNG SINH
Gọi là “quần thể”, vì là một khối kiến trúc khổng lồ bằng đá
trắng không định hình thể rõ nét (12,000 m2), bao gồm 3 công
trình tôn giáo (theo thứ tự hình): Đan viện Chính Thống Armênia,
nối dài là Nhà thờ Giáng sinh Chính Thống Hy Lạp; còn Nhà Thờ
Công giáo Thánh Catarina lại liền vách với Nhà Thờ Giáng Sinh.
95
30. NHÀ THỜ THÁNH CATARINA TỬ ĐẠO
Khi chúng tôi đến Nhà Thờ Giáng sinh thì có quá nhiều đoàn
hành hương, không thể chen chân vào Hang Giáng sinh, nên
chúng tôi đã vào Nhà Thờ Công giáo Thánh Catarina để cử hành
Thánh lễ như đã xin lịch hẹn từ trước, đồng thời sau lễ sẽ viếng
Hang Thánh Giêrônimô ở tầng hầm của thánh đường này.
Thánh nữ Catarina sống vào thế kỷ IV, là con gái một gia
đình giàu có ở thành Alexandria (Ai Cập), có nhan sắc và rất say
mê nghiên cứu triết học và tôn giáo. Khi đọc được các sách về
Kitô giáo bà đã quyết tâm rửa tội để theo đạo. Khi Catarina 18
tuổi, Hoàng đế La Mã Maximinô đang bắt đạo lại muốn cưới bà
làm hoàng hậu. Nhưng bà một mực từ chối vì đã giành cả cuộc
đời để phụng sự cho đức tin của Chúa. Hết sức tức giận, Hoàng
đế đã hành hình bà bằng cách cột bà vào một bánh xe đầy đinh
nhọn và thả bánh xe ấy lăn cho tới khi bà chết.
Nhà thờ kính thánh Catarina được xây từ năm 1347, sát vách
bên phải Vương Cung Thánh đường Giáng sinh. Kiến trúc của
Nhà thờ mang phong cách Tân gôthic, với chiếc đàn phong cầm
hùng vĩ bằng ống kim loại và tấm kính màu về Giáng sinh rực rỡ
ở sau Cung Thánh. Trước Nhà thờ có trụ tượng thánh Giêrônimô.
Hiện nhà thờ do các Cha Phanxicô cai quản và là nơi Thượng Phụ
Latinh ở Giêrusalem dâng thánh lễ Nửa Đêm Giáng Sinh.
96
31. HANG THÁNH GIÊRÔNIMÔ
Cuối Nhà Thờ Catarina, bên phía trái, có một cầu thang hẹp
uốn khúc dẫn xuống hang thánh Giêrônimô ở tầng hầm Nhà thờ.
Đây là một hang khá lớn, nơi thánh nhân đã sống 36 năm (386-
420) để dịch Kinh Thánh ra tiếng Latinh có tên “bản Phổ thông”
(Vulgata) của Công giáo Rôma. Ngài cũng đã được chôn táng ở
đây, trước khi được đưa về Đền Thờ Đức Bà Cả ở Rôma. Hang
Giêrônimô ngày nay gồm ba nhà nguyện kề cận nhau:
- Nhà nguyện thánh Giêrônimô: Là hang chính nơi ngài sinh
sống. Trên vách đá của hang có ghi dòng chữ Latinh “Locus
sancti Hieronymi presbyterii & Ecclesiae doctoris” (Nơi ở của
Thánh Giêrônimô linh mục và tiến sĩ Hội Thánh)
- Nhà nguyện Thánh Giuse: Tưởng nhớ việc thiên thần hiện ra
truyền lệnh đem Mẹ con Hài nhi trốn sang Ai Cập (Mt 2,13).
97
- Nhà nguyện Các Thánh Anh Hài: Tưởng niệm các trẻ vô tội đã
bị Vua Hêrôđê cả ra lệnh thảm sát (Mt 2,16-18)
Hang Giêrônimô thông với Hang Giáng sinh bởi một ngách
đá giống một hành lang tự nhiên nhưng đã bị xây bít, để chỉ duy
trì một lối duy nhất vào Hang Giáng sinh, hầu bảo vệ hang cực
thánh này.
32- NHÀ THỜ GIÁNG SINH
Vương Cung Thánh Đường Giáng sinh đầu tiên do Hoàng đế
Constantinô và Thái hậu Hêlêna xây dựng từ năm 327 đến 333,
trên vị trí được Thánh Truyền nhìn nhận là hang Chúa Giêsu hạ
sinh. Nhà thờ đầu tiên này đã bị hỏa hoạn năm 529, rồi bị tàn phá
hoàn toàn bởi người Samari trong cuộc nổi dậy năm 556. Chín
năm sau (565), Hoàng đế Justinianô I của Byzantine đã cho xây
lại nhà thờ mới theo đúng kiến trúc nguyên thủy. Sau đó đã có
nhiều kiến trúc bổ sung, trong đó có các tháp chuông nổi tiếng.
98
Khi người Hồi giáo chiếm Bêlem năm 614, họ đã không phá
hủy nhà thờ thứ hai này, do vị chỉ huy Hồi giáo đã xúc động khi
nhìn thấy bức tranh trong nhà thờ mô tả Ba vị đạo sĩ phương
Đông mặc y phục Ba Tư. Đến thời Vương quốc Giêrusalem của
Thập Tự Chinh (1099-1291), khu nhà thờ đã được sửa chữa và nới
rộng thêm, cho đến nay chiếm diện tích khoảng 12,000 m2.
Nhà thờ Giáng Sinh hiện tại thuộc Giáo hội Chính Thống Hy
Lạp, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, và cũng thuộc
Danh sách các di sản bị đe dọa vì sự xuống cấp trầm trọng do
thời gian và do sự tàn phá của nhiều cuộc chiến tranh.
Mặt tiền và cửa vào chính diện cũ của Nhà Thờ Giáng Sinh
Chính Thống đã bị Đan viện Armênia xây bít kín. Vì thế lối duy
nhất vào nhà thờ bây giờ là một cửa rất thấp đục vào tường Nhà
Thờ gọi là "Cửa Khiêm Cung” (Door of Humility). Khách hành
hương phải khom mình mới bước qua được cửa này.
Nhà Thờ Giáng sinh có kiến trúc của một Vương cung thánh
đường Rôma điển hình, với 4 hàng cột làm nên 5 gian dọc và một
gian cung thánh có hậu điện (apse) phía sau.
Kể từ khi Chính Thống giáo tiếp quản nhà thờ, họ đã cải tạo
Cung thánh thành hai gian theo phụng vụ Chính Thống: “gian
ngoài” và “gian thánh” phía sau được ngăn cách bởi một bức
bình phong thánh lớn bằng gỗ mạ vàng (iconostasis), với các
tranh tượng thánh rực rỡ. Ở giữa tấm bình phong có 2 cánh cửa
99
nhỏ luôn khép kín để vào gian thánh trong hậu điện, chỉ được
mở ra khi hành lễ. Ngoại trừ vị thượng phụ hay linh mục hành lễ
mặt quay nhìn vào gian thánh, không ai rõ gian thánh phía sau
được trang hoàng thế nào. Ngoài ra, trên trần của gian ngoài
cung thánh còn có các chùm đèn chầu rực rỡ.
Khi chúng tôi đến nơi, một vị chủ tế mặc áo choàng trắng
đang hát kinh phụng vụ tiếng Hy Lạp và xông hương gian ngoài
Cung Thánh; có hai người hầu đèn mặc áo chùng đen đứng trước
2 cửa giữa bức bình phong; các đèn chầu được thắp sáng.
Các tường trong lòng Nhà thờ được trang trí bằng các tranh
khảm vàng, nhưng phần lớn đã bị hư hỏng. Sàn nhà được lát
gạch theo phong cách La Mã. Riêng có một khung kính để lộ một
mảng sàn ghép khảm của nhà thờ nguyên thủy từ thế kỷ IV.
33. HANG GIÁNG SINH
Hang Giáng Sinh nằm ngay dưới gian Cung Thánh của Nhà
Thờ, có kích thước 12 mét x 3 mét. Cửa xuống hang là cầu thang
xoắn bên phải gian cung thánh; còn cầu thang xoắn bên trái là
đường đi lên. Dưới hang có một bàn thờ chính diện tại vị trí Chúa
sinh ra. Trên trần có treo nhiều đèn chầu bằng bạc.
Dưới chân bàn thờ, nơi được cho là Chúa sinh ra, được đánh
dấu bởi một ngôi sao bằng bạc có 14 cánh, được khảm chặt vào
100
sàn nhà bằng cẩm thạch màu hồng. Trên viền ngôi sao có dòng
chữ Latinh: “Hic de Virgine Maria Iesus Christus natus est” (Chính
tại nơi đây, Chúa Giêsu Kitô đã được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria).
Xuống viếng Hang Giáng sinh, mọi khách hành hương đều
xếp hàng chờ quỳ hôn cung kính vị trí cực thánh, nơi Chúa Giêsu
Đấng Cứu Thế nhân loại đã hạ sinh làm người.
101
NGÀY THỨ NĂM (8.5.2018)
HOANG MẠC GIUĐÊA: GIOĐAN & GIÊRICÔ & BIỂN CHẾT
Hành trình Ngày thứ Năm:
Buổi sáng:
- Hoang mạc Giuđêa
- Qasr el Yahud, nơi Thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa.
- Núi Cám Dỗ; Mạch nước của Tiên tri Êlisa; Thành Giêricô và
Cây sung của ông Giakêu.
Buổi chiều:
- Khu khảo cổ Qumran & các “cuộn Bản thảo Biển Chết”.
- Khu du lịch Biển Chết.
- Đường từ Giêricô lên Giêrusalem.
- Làng Bêtania Miền Galilê.
34. VÙNG HOANG MẠC GIUĐÊA
Tiếp theo “Vùng Núi Giuđêa”, hôm nay đoàn khám phá
“Vùng hoang mạc Giuđêa”, trải rộng từ Đông Giêrusalem, xuống
Thung lũng Sông Giođan, tới sa mạc Nêgev. Sáng nay, đoàn trả
phòng khách sạn ở Bêlem, đến tối sẽ về nghỉ tại Giêrusalem.
Từ Bêlem, xe đi ngược về Giêrusalem, để trở ra xa lộ đi
Thung lũng Sông Giođan. Vừa vượt qua Núi Cây Dầu ở Đông
Giêrusalem, màu xanh của cây cỏ biến mất rất nhanh, nhường
chỗ cho những đồi núi nâu sẫm, trơ trụi, nóng cháy. Núi Cây Dầu
- cao hơn Giêrusalem - vẫn được xem là “lá chắn khí hậu” bảo vệ
Vùng Núi Giêrusalem khỏi sự tấn công của gió nóng từ Vùng
Hoang Mạc Thung lũng Sông Giođan và Biển Chết thổi lên.
Từ độ cao 754m của Giêrusalem, xe đổ đèo chừng 20 km là
xuống đến cột mốc “0 mét”, tức bằng với mực nước biển. Từ
điểm này trở đi, hoang mạc Giuđêa sẽ càng lúc càng thấp, và sẽ
chạm mức -210m thấp hơn mực nước biển tại Sông Giođan.
102
Tại nơi có cột mốc “zero mét”, du khách thường dừng lại
chụp ảnh. Có một người đàn ông Ả-rập túc trực ở đây cho thuê
lạc đà để chụp hình đoàn (10 USD), cưỡi lạc đà chụp hình cá nhân
(5 USD). Giống lạc đà này rõ khổ: cả ngày phơi mình dưới cái
nắng sa mạc mà không được một giọt nước; cuối ngày mới được
cho ăn độ chừng 1 chục cái bắp cải nhỏ. Có điều là giống vật này
rất sạch, không chịu nằm dưới cát, mà chỉ nằm trên thảm.
35. QASR EL YAHUD - ĐỊA ĐIỂM RỬA TỘI Ở SÔNG GIOĐAN
Qasr el Yahud trên Sông Giođan là cửa ngõ vào Giêricô (9 km).
Địa danh này nổi tiếng từ Cựu ước, vì là khúc sông nơi ông Giôsuê
cho nhúng Hòm Bia Giao ước xuống khiến lòng Sông khô cạn để
dân bước vào Đất hứa ráo chân (Gs 3,14-17). Đây cũng là nơi Tiên
tri Êlia được Chúa đưa về trời vào cuối đời (2V 2,1-18).
103
Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa ở khúc sông này, nhưng bên
kia bờ trên đất Jordan vì Thánh Gioan nói rõ: Ông Gioan Tẩy giả
làm phép rửa ở “Bêtania, bên kia Sông Giođan” (Ga 1,28).
Giữa sông (bề ngang chỉ 25 m) có một dây phao phân chia
biên giới. Ở hai bên bờ đều có binh sĩ của từng nước canh gác.
Sau 1967, Israel đã chiếm lại vùng đất này từ tay Jordan và biến
thành khu quân sự, chỉ mở cửa hành hương mỗi năm một lần
vào ngày Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa (tháng 2). Từ năm 2012 trở
đi, khu vực đã mở cửa thường trực. Một hội trường trống trải
cũng được xây lên để các đoàn dâng thánh lễ. Tại đây, đoàn VN
đã dâng thánh lễ, và long trọng lập lại Lời Tuyên xưng đức tin khi
chịu phép rửa tội theo Phụng vụ của Đêm Vọng Phục Sinh.
104
36. NÚI CÁM DỖ
Lên khỏi Qasr el Yahud trên Sông Giođan, sẽ thấy ngay rặng
núi lớn án ngữ ở phía Tây, về hướng Giêricô. Núi Cám dỗ cũng
nằm trong rặng núi ấy. Phúc âm kể lại, sau khi chịu phép rửa ở
Sông Giođan, Chúa Giêsu đã vào sa mạc để chịu cám dỗ (Mt 4,1-
11). Chắc hẳn Ngài đã đi về rặng núi ở trước mặt chúng ta.
Tên địa phương của Núi Cám dỗ ngày nay là Jebel Quarantul,
đến từ chữ Latinh “quarentena” có nghĩa là 40, số ngày Chúa
Giêsu ăn chay. Trên Núi có rất nhiều hang động, mà từ xưa đã có
nhiều nhà ẩn tu tìm đến để tu luyện.
Ngày nay trên Núi Cám Dỗ còn có một Đan viện cổ của Chính
Thống Hy Lạp, bám cheo leo vào vách núi, dành cho cả nam tu
và nữ tu. Và người ta cũng đã mở một đường cáp treo du lịch lên
thăm Núi và tham quan Đan viện.
105
37. MẠCH NƯỚC TIÊN TRI ÊLISA
Nếu muốn biết một “ốc đảo xanh tươi” (oasis) nổi lên giữa
hoang mạc thế nào, hãy ghé thăm “Mạch nước Êlisa” tại Tell es-
Sultan (Giêricô). Giữa sa mạc nóng cháy cằn cỗi, bỗng có một
“bọng nước” từ lòng đất tuôn trào lên một mạch nước khiến
mảnh đất nhỏ xung quanh xanh tươi bóng chà là và cây cỏ.
Tiên tri Êlisa là học trò của Êlia, từng hoạt động ở Giêricô.
“Bọng nước” tại Tell es-Sultan vừa là nguồn nước quý giá, nhưng
cũng gây tai họa cho người trong thành trở nên vô sinh. Khi ghé
qua đây, Êlisa đã làm một phép lạ: đổ một bát muối xuống để giải
độc cho nguồn suối (2V 2,19-22). Kể từ đó nguồn suối trở nên
lành mạnh cho đến ngày nay. Sau lưng mạch nước, hiện là địa
điểm khai quật thành Tell es-Sultan đã có từ 9,000 năm trước.
Thành này được xem là cổ xưa nhất của nhân loại!
106
38. THÀNH GIÊRICÔ & CÂY SUNG GIAKÊU
Giêricô - “Thành chà là” (Đnl 34,3) - được cho là thị trấn lâu
đời nhất trên trái đất. Cũng như Capharnaum của Galilê, Giêricô
là nơi giao thương sầm uất, và cũng là “cửa ngõ biên cương”
của Miền Giuđêa. Người từ phương Đông thời xưa muốn đến
Giêrusalem thường phải vượt Sông Giođan, băng qua Giêricô, để
tới Giêrusalem (chừng 28 km). Vì thế tại thành này vào thời Chúa
Giêsu có một Ty thu thuế (do Giakêu là trưởng).
Giêricô được nhắc tên 70 lần trong Cựu Ước. Sách Giôsuê
thuật lại Dân Do thái vào Đất Hứa đã dùng tiếng kèn (biểu tượng
sự can thiệp của Chúa) và tiếng hô to vang dội làm sụp tường và
chinh phục thành này (Gs 6,1-16). Còn trong Tân ước, Chúa Giêsu
từng làm phép lạ chữa lành cho hai người tại Giêricô: chữa lành
thể lý cho anh mù Ba-ti-mê (Mc 10,46-52), và chữa lành tâm hồn
cho Ông Gia-kêu Trưởng ty thu thuế (Lc 19,1-10).
Giêricô ngày nay là một trong những thành thị sầm uất nhất
của Palestin. Các mạch nước cổ nhiều nước của Giêricô vẫn tiếp
tục tưới tắm phong phú cho các vườn cây trái và cây hương liệu.
Chất đất đặc biệt của Giêricô khiến chà là và trái cây (cam quýt)
ở đây có độ ngọt và thơm rất riêng. Gần Trung tâm thành phố
Giêricô, vẫn còn một cây sung ngàn tuổi mọc bên đường, nhắc
nhớ đến “Cây sung của ông Giakêu”.
107
39. QUMRAN & CÁC CUỘN BẢN THẢO BIỂN CHẾT
Rời Giêricô đã quá trưa, chúng tôi đi tới Qumran bên Bờ phía
Bắc của Biển Chết, và dùng cơm trưa ngay trên khu di tích khảo
cổ Qumran. Trời nắng chói chang khiến tất cả trở nên trắng bạc
lóa sáng, khó có thể phân biệt đâu là màu của Biển, màu của các
rặng núi bao quanh và màu của bầu trời. Sau cơm trưa, là cuộc
tham quan ngắn trên địa danh Qumran, nơi nổi tiếng bởi các
cuộn “Bản thảo Kinh Thánh Biển Chết” được tìm thấy năm 1947.
Năm 1947, một người chăn chiên du mục ở Qumran đã tình
cờ tìm thấy một hang động có những chum gốm đựng những
cuộn giấy da hoặc giấy cói ghi chép bằng chữ Do thái cổ. Các học
giả sau đó đã xác định, đó là những bản thảo cực quý hiếm của
bản văn Kinh Thánh, được chép tay từ thế kỷ thứ nhất.
Các cuộc khai quật mở rộng tại các hang động ở Qumran đã
tìm thấy gần 900 cuộn bản thảo khác. Điều đáng nói là cac bản
thảo này là những bản chép tay Kinh Thánh cổ xưa nhất mà giới
học giả có được trong tay, vì thế chúng giúp mở ra một trang sử
mới phục vụ cho việc nghiên cứu Thánh Kinh. Câu hỏi mà các học
108
giả quan tâm: Ai đã ghi chép các bản thảo này? Tại sao họ lại giấu
chúng trong các hang động ở Qumran?
Khi khai quật các khu vực xung quanh, các học giả phỏng
đoán đây là khu vực sinh sống của một “giáo phái” khổ tu vào
thế kỷ I CN (có thể là Nhóm Essêni) bao gồm: các bể chứa nước,
các nhà tắm thanh tẩy theo nghi thức Do thái giáo, phòng chép
sách, lò nung gốm, và cả nghĩa trang hàng 1000 người.
109
Có lẽ giáo phái này đã chọn sống biệt lập trong bối cảnh các
cuộc chiến tranh Do thái chống Rôma vào thế kỷ I và II chống lại
Rôma. Và họ đã chôn giấu các cuộn bản thảo Kinh Thánh ở hang
núi sâu để chính quyền Rôma không tìm thấy và hủy hoại. Hơn
nữa, có lẽ họ đã cố ý chọn Qumran, vì khí hậu khô nóng sẽ giúp
bảo quản các bản thảo khỏi bị ẩm mốc, mối mọt làm hư hoại.
40. BIỂN CHẾT ĐANG CHẾT!
Biển Chết là một hồ nước mặn, ngăn cách với đại dương
nhưng có độ mặn kỷ lục: 342 gam muối/ 1 lít nước; mặn hơn nước
biển thông thường 9.6 lần. Vì vậy mà nước Biển Chết có tỉ trọng
rất cao, đến độ mọi người đều nổi bồng bềnh trên mặt nước.
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất
là 400 m. Mặt Biển nằm ở -417 m dưới mực nước biển (điểm thấp
nhất trái đất). Trong hơn 50 năm qua, mỗi năm mực nước Biển
hạ xuống 1 mét do nước biển bốc hơi quá mạnh, trong khi nguồn
nước cung cấp từ Hồ Galilê và Sông Giođan chỉ nhỏ giọt. Hậu quả
là Biển Chết phía Nam đã gần như khô cạn: độ sâu trung bình ở
những chỗ còn nước chỉ là 3 mét! Còn Biển Chết phía Bắc hiện
chỉ còn 5 - 6 bãi tắm có thể hoạt động phục vụ cho du lịch.
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt với các du khách vì chứa
trên 21 loại khoáng, khiến bùn và muối của Biển Chết có tác dụng
làm đẹp và tăng cường sức khỏe.
110
Ngoại trừ ưu điểm ấy ra, bãi tắm của Biển Chết trông quá
“tội nghiệp” so với bãi biển ở VN: đường xuống bãi biển thì sâu
hun hút; bờ biển trơ ra như bức “tường thành” đen đủi và nham
nhở; người tắm biển chỉ được phép ra xa vài chục mét, không
được vượt quá đường biên quy định vì có thể nguy hiểm.
Trước khi xuống biển, du khách được cảnh báo không được
thử uống nước biển; nếu nước biển rơi vào mắt thì phải lên rửa
mắt ngay bằng nước ngọt. Trải nghiệm thích thú duy nhất là du
khách thả nổi trên mặt nước; nhưng đừng để lật úp người hay
úp mặt xuống nước vì có nguy cơ… “ngộ độc” nước biển!
Điểm thích thú khác mà nhiều nữ giới có thể thích là xoa bùn
khoáng lên mặt và tay chân để… làm đẹp. Một trải nghiệm rõ
nét về độ mặn của nước biển, đó là chỉ cần đưa tay lên khỏi mặt
nước 30 giây thì da thịt sẽ cảm giác như xoa dầu nhờn, kế đó là
thấy nham nhám tinh thể muối đã khô lại trên da thịt.
111
41. ĐƯỜNG TỪ GIÊRICÔ LÊN GIÊRUSALEM
Rời Biển Chết, đoàn về lại Giêrusalem qua ngả Giêricô,
bằng xa lộ xuyên núi đã dùng sáng nay để đi Sông Giođan. Tuy
nhiên, đây cũng là cơ hội thuận tiện để chúng tôi tìm hiểu một
chút về “con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô” trong dụ
ngôn “Người Samari nhân hậu” (Lc 10,25-37).
Vào thời Chúa Giêsu, Giêricô là một trong những thành
được chỉ định cho các thầy tư tế và Lêvi cư trú. Vì thế việc nhìn
thấy các vị chức sắc này đi lại trên con đường từ Giêricô lên
Giêrusalem không phải là hiếm hoi.
Sơ đồ trên đây cho thấy độ dốc của quãng đường lớn thế
nào. Giêricô thì nằm ở độ sâu -243 m dưới mực nước biển; còn
Núi Cây Dầu ở độ cao 826 m, và Giêrusalem ở độ cao 754 m. Như
vậy, trọn đoạn đường từ Giêricô đến Núi Cây Dầu phải leo núi liên
tục dài 28 km đường chim bay, băng qua rất nhiều núi cao vực
thẳm, để chinh phục độ cao 1096 m. May mắn là ngày nay không
còn ai dùng con đường này, vì đã có xa lộ xuyên núi.
Trên đường về, xe chúng tôi ghé một ngọn núi ven đường,
từ đó có thể nhìn thấy Đan viện Chính Thống Saint George nằm
dưới vực sâu, bám chênh vênh vào vách núi. Còn con đường của
người Samari thì băng qua phía trước đan viện. Một vài hình
chụp Đan viện Saint George từ trên cao sẽ giúp hình dung độ khó
khăn của con đường Giêricô-Giêrusalem ngày xưa như thế nào.
112
42. LÀNG BÊTANIA MIỀN GIUĐÊA
Về đến gần Giêrusalem, đoàn ghé thăm làng Bêtania Lazarô,
khác Bêtania bên kia Sông Giođan. Thánh Mác-cô còn nói rõ làng
Bêtania này gần làng Betphagê, bên triền Núi Ô liu (1,1-13).
Bêtania có nghĩa là “nhà của người nghèo”. Đây là chặng
nghỉ cuối của khách hành hương từ Galilê (180km) trước khi vào
113
Thành thánh Giêrusalem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu và các
môn đệ hay ghé nhà của ba chị em nhà Lazarô.
Ngày nay, cư dân Bêtania toàn bộ là người Palestin. Ngôi
nhà thờ được các cha Phanxicô xây năm 1953, trên phế tích của
hai nhà thờ từ thời Byzantine và Thập Tự Chinh. Cách nhà thờ
200 m, có một hầm mộ được cho là của Lazarô ngày xưa.
Thực tế, Bêtania nằm ở phía Đông Núi Cây Dầu, chỉ cách Tu
viện các Soeurs Nữ Tử Bác Ái phía Tây Núi Cây Dầu 2 km, nơi đoàn
sẽ trọ 3 đêm cuối ở Đất Thánh. Tuy nhiên, do bị bức tường ngăn
đôi Israel và Bờ Tây chia cắt, xe phải đi đường vòng 16 km và qua
trạm kiểm soát, mãi đến 7g tối xe mới tới Tu viện. Tu viện này có
vài mươi phòng trọ mà chỉ có hai nữ tu cao tuổi và hai giáo dân
phục vụ vì không có người trẻ vào tu! Không khí trên Núi Cây Dầu
thật trong lành, khí hậu se lạnh, đối lập hoàn toàn với cái nóng
hoang mạc mà chúng tôi trải nghiệm suốt hôm nay.
114
NGÀY THỨ SÁU (9.5.2018)
MỘT NGÀY Ở NÚI CÂY DẦU & THÀNH CỔ GIÊRUSALEM
Hành trình Ngày thứ Sáu:
Buổi sáng: Núi Cây Dầu
- Nhà nguyện Chúa Thăng Thiên
- Nhà nguyện Kinh Lạy Cha
- Nhà nguyện Bétphagê
- Thánh Lễ tại Nhà nguyện Vườn Giếtsêmani
Buổi chiều: Thành Cổ Giêrusalem
- Thành Cổ Giêrusalem và Bức Tường Than khóc
- Phòng Tiệc Ly và Mộ Vua Đavít.
- Nhà thờ Đức Mẹ Ngủ.
- Nhà thờ Gà Gáy (Phêrô chối Chúa).
43. NHÀ NGUYỆN CHÚA THĂNG THIÊN
Núi Cây Dầu nằm đối diện ở phía Đông Thành Giêrusalem và
ngăn cách với Thành Thánh bởi Thung lũng Khít-rôn dài và hẹp.
Từ Núi Cây Dầu, có thể thấy toàn cảnh Thành Thánh trên Núi Sion
đối diện. Núi Cây Dầu còn ghi lại nhiều sự kiện của Chúa Giêsu
trong lần Ngài dự lễ Vượt qua cuối cùng ở Giêrusalem. Các nơi
chốn xảy ra các sự kiện ấy, ngày nay đã trở thành những Nhà thờ
mà đoàn sẽ thăm viếng trong buổi sáng hôm nay.
115
Địa điểm thăm viếng đầu tiên của đoàn là Nhà nguyện Chúa
Thăng Thiên trên đỉnh Núi Cây Dầu. Ngôi Thánh đường đầu tiên
ở đây do Thánh nữ Hêlêna xây vào thế kỷ IV đã bị người Hồi giáo
đập bỏ, và thay bằng một Thánh đường Hồi giáo còn tồn tại cho
đến nay. May mắn là họ còn giữ lại “Tháp Thăng Thiên”, chỉ nhỏ
như căn phòng chừng 25 m2, trong đó còn lưu giữ tảng đá được
cho là ghi dấu bàn chân phải của Chúa lúc về Trời.
Tuy Nhà nguyện Thăng Thiên do Hồi giáo quản lý, các Kitô-
hữu được phép vào viếng tự do. Đặc biệt còn được phép dâng
Thánh Lễ Chúa Lên Trời theo lịch phụng vụ của mỗi Giáo hội.
44. NHÀ THỜ KINH LẠY CHA
Bên dưới Nhà nguyện Thăng Thiên vài trăm mét, vẫn trên
Núi Cây Dầu, có một hốc đá được truyền thống cho là nơi Chúa
Giêsu và các tông đồ hay nghỉ đêm mỗi khi đến Giêrusalem.
Tương truyền trong một lần nghỉ ngơi ở hang này, các tông đồ
đã xin Chúa Giêsu dạy các ông cầu nguyện (Lc 11,1). Và chính tại
hang ấy, Chúa đã dạy các ông Kinh Lạy Cha.
Năm 1910, người ta đã khai quật được ở vị trí phía đông nhà
thờ một hang động cũ đã sụp đổ, gắn với một ngôi mộ từ thế
kỷ thứ nhất. Trên bờ tường của cửa hang động có khắc dòng
chữ Latinh chẳng biết từ thuở nào: "Spelunga in qua docebat
Dominus apostolos in Monte Oliveti" nghĩa là: Hang động trong
đó Chúa đã dạy dỗ các tông đồ ở trên Núi Ô-liu.
116
Nhà Thờ Kinh Lạy Cha (Pater Noster) hiện tại được xây từ năm 1874. Trên các bức tường xung quanh khuôn viên có các bia Kinh Lạy Cha hơn 100 ngôn ngữ. Riêng bia Kinh tiếng Việt được vinh dự nằm trong Nhà Thờ. Trong khuôn viên Nhà Thờ, còn có một Đan viện của các Soeurs Cát-Minh Pháp.
45. NHÀ THỜ BÉTPHAGÊ
Nhà thờ Bétphagê cũng nằm trên Núi Cây Dầu; sau lưng là Làng Bêtania, trước mặt là Núi Đền Giêrusalem.
117
Thánh Luca kể lại, Chúa Giêsu đã từ Bêtania đến Bétphagê,
rồi từ đó Ngài vào Giêrusalem dự Lễ Vượt qua lần cuối (19,28-
48). Dân chúng Bétphagê đã tung hô Chúa là Vua, hái cành lá hai
bên đường làm cờ vì không kịp chuẩn bị trước; cởi áo choàng
trải đường cho Vị Vua hòa bình cưỡi lừa tiến vào Thành.
Tại Nhà Thờ Bétphagê, chúng tôi may mắn được một tu sĩ
Phanxicô ân cần tiếp đón và thuyết minh cặn kẽ về địa danh này.
Tên gọi “Bétphagê” có nghĩa “ngôi nhà của trái vả xanh” vì ngày
xưa đây là làng chuyên canh cây vả để làm mứt.
Việc Chúa cưỡi lừa đi từ Bétphagê trên Núi Ô-liu vào Thành
nhắc nhớ hai sự kiện Cựu ước. Trước hết, Vua Salômon cưỡi lừa
đi phong vương ở Suối Ghi-khôn gần Giêrusalem (1V 1,38-40).
Khi cưỡi lừa là phương tiện chuyên chở của dân để vào Thành,
Chúa muốn bày tỏ Ngài là Vị Vua hòa bình gần gũi với dân (Dcr
9,9), không là vua chinh chiến cưỡi ngựa là con vật chiến đấu.
Tiếp đến, Chúa vào Thành từ Bétphagê trên Núi Ô-liu là để
ứng nghiệm lời Tiên tri Dacaria tiên báo: Đấng Thiên sai sẽ từ Núi
Ô-liu đến ngự trị và xét xử Giêrusalem vào thời cánh chung (Dcr
14,1-21). Hơn nữa, khi ra tay đuổi quân buôn bán ở Đền Thờ,
Chúa còn tỏ mình là Đấng thanh tẩy Đền Thờ, tái hiện lại hình ảnh
Anh em Nhà Maccabê đã thanh luyện và Cung hiến Đền Thờ đã
bị ô uế dưới thời chiếm đóng của Nhà Sêlêucia của Hy Lạp (1
Mac 4,36-61). Quá ý nghĩa!
118
Nhà Thờ Bếtphagê hiện tại được xây từ năm 1883, trên nền
của Nhà Thờ của Thập Tự quân thế kỷ XII đã bị phá đổ. Trên gian
Cung thánh có vòm bích họa Chúa cưỡi lừa vào Thành. Bức
tường 2 bên nhà thờ đầy những bích họa chỉ dùng một màu ô-
liu nhạt. Toàn bộ trần nhà thờ màu sơn sáng, điểm các họa tiết
hoa văn trang trí là những cành ô-liu nhỏ li ti rất xinh.
Đặc biệt ở hàng ghế trái gần cung thánh có 1 khối đá vuông
được bảo vệ trong ô kính dày, với 4 hình vẽ ở 4 mặt: 2 môn đệ
dắt lừa; dân chúng cầm cành lá; Chúa cho Lazarô sống lại, và chữ
Bethphage. Khối đá này sót lại từ phế tích Nhà Thờ thế kỷ XII, và
được truyền tụng với lòng đạo đức là “khối đá kê chân”
(mounting rock) để Chúa bước leo lên lưng lừa!
46. NHÀ NGUYỆN “CHÚA KHÓC”
Từ Nhà thờ Bétphagê xuống vị trí lưng chừng Núi Ô-liu,
Chúa trông thấy toàn cảnh Giêrusalem với Đền Thờ nguy nga thì
119
khóc thương cho Thành, vì Chúa biết trước sẽ đến ngày Thành
Thánh “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”, Dân Chúa sẽ
phải lưu đày tha phương, không còn nơi thờ phượng (Lc 19,41-
44). Và đã xảy ra đúng như thế trong biến cố năm 70 và 135.
Tại vị trí này, người ta đã xây một Nhà nguyện nhỏ bằng đá
trắng từ năm 1955 có hình “giọt nước mắt”, và đặt tên là “Nhà
Thờ Chúa khóc” (Dominus Flevit). Ngày nay, từ khuôn viên nhà
thờ, ta cũng trông thấy toàn cảnh của Giêrusalem như Chúa ngày
xưa; chỉ khác là Đền Thờ nguy nga ngày xưa đã bị thay thế bằng
Đền Vòm đá Tảng có mái màu kim nhũ của Hồi giáo.
Tiếp tục, Chúa đi xuống Vườn ép dầu Giếtsêmani ở chân
Núi, băng qua khe thung lũng Khít-rôn đi lên Tường Thành, rồi
được dân chúng hò reo đón qua Cửa Vàng hay Cửa Xót thương
(nay đã xây bít) để vào Đền Thờ trong khuôn viên Núi Đền.
120
Thánh Vịnh 24 đã tiên báo việc Chúa khải hoàn vào Thành
qua Cửa Kim Môn: Cửa hỡi, hãy cất cao đầu, hỡi Cửa ngàn thu…
Để Vua vinh quang tiến vào! Khi vào đến Đền Thờ, Ngài đã thanh
tẩy Đền Thờ, xô đổ bàn đổi tiền và đuổi quân buôn bán. Hai việc
làm đó đã đụng đến uy quyền và túi tiền của các tư tế Đền thờ,
nên họ đã rắp tâm giết Chúa.
47. NHÀ THỜ CHÚA HẤP HỐI - VƯỜN GIẾTSÊMANI
Từ Nhà nguyện “Chúa khóc” xuống gần chân Núi Ô-liu sẽ
gặp Vườn Giếtsêmani, có nghĩa “nơi ép dầu”. Có lẽ đây là chỗ sản
xuất dầu ô-liu thu hoạch từ trên Núi xuống. Hiện nay trong Vườn
vẫn còn nhiều cây ô-liu cổ thụ, trong đó một cây hàng nghìn tuổi
nằm sát Nhà Thờ, được cho là có từ thời Chúa Giêsu.
Các Phúc Âm nhất lãm kể lại, sau Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã
cùng các môn đệ đã rời Thành Giêrusalem, băng qua thung lũng
Khít-rôn và đến cầu nguyện tại Vườn ép dầu này.
121
Vương Cung Thánh Đường Giếtsêmani còn có tên “Nhà Thờ
các dân tộc”, vì nhiều quốc gia góp tiền xây dựng năm 1922-1924,
trên nền nhà thờ đầu tiên thế kỷ IV. Trước bàn thờ có tảng đá rất
lớn và phẳng, mà Truyền thống cho là Chúa Giêsu đã quỳ cầu
nguyện với Chúa Cha. Còn bàn thờ thì có hình “chén đắng”.
48. THÀNH CỔ GIÊRUSALEM
Trong Cựu ước, có đến 15 “Thánh vịnh lên Đền” diễn tả tâm
tình háo hức của khách hành hương đi lên Thánh Đô (Tv 120-134).
Còn Tv 137 lại là khúc ca ai oán của dân lưu đày, than khóc, nhớ
nhung da diết Đền Thờ thứ I đã bị phá đổ: Giêrusalem hỡi, lòng
này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Có đặt chân đến
Thánh Đô Giêrusalem, ta mới cảm nghiệm được phần nào tâm
tình của các thánh vịnh ấy.
122
Thành Cổ Giêrusalem tọa lạc trên đỉnh Núi Sion, đối diện với
Núi Ô-liu ở phía Đông, có diện tích gần 1 km2 (với 4 cạnh hình
vuông, mỗi cạnh xấp xỉ 1,ooo m), và được bao bọc bởi bức tường
thành cao 12m, dày 2,5m, do Đế quốc Ottoman xây dựng từ năm
1537-1541. Trên thành có tổng cộng 34 tháp canh và 8 cửa ra vào
thành (đánh số từ 1-8 trên sơ đồ). Riêng Cửa Kim Môn (số 4,
Golden Gate) từ Núi Ô-liu vào Núi Đền đã bị xây bít.
Thành cổ gồm 4 khu vực dân cư của 4 nhóm tôn giáo, có diện tích không đều. Các số từ 1-8 là vị trí của 8 Cổng Thành.
- Khu phố Hồi giáo & Núi Đền: Chiếm một khu vực rộng lớn phía
Đông Bắc Cổ Thành, gần 50% diện tích của Thành Cổ.
Khuôn viên Núi Đền rất rộng (490 x 280m) có tường bao chỉ
dành riêng cho Hồi giáo, rất giới hạn với người không Hồi giáo.
123
Khuôn viên hoàn toàn trống trải, chỉ mọc lên Đền “Vòm Đá
Tảng” (màu vàng) và Giáo đường Al Aqsa (vòm đen).
Đền “Vòm Đá Tảng” nằm trên vị trí Gian cực Thánh của Đền
Thờ thứ I và II, nơi có tảng đá Abraham sát tế Isaác. Núi Đền
cũng có ý nghĩa quan trọng với Kitô-giáo, vì tại đây Hài nhi Giêsu
đã được dâng vào Đền thờ (Lc 2,22-24); khi lên 12 tuổi Ngài từng
trốn lại Đền thờ (Lc 2,41-50); trong các lần đến Giêrusalem, Ngài
cũng thường vào Đền Thờ giảng dạy (Ga 8,2); và cũng tại đây,
Ngài đã tiên báo Đền Thờ sẽ bị phá hủy (Mc 13,2).
Khu phố Hồi giáo: Trong Khu phố này cũng có nhiều nhà thờ
Kitô-Giáo, và 7 chặng Đàng Thành giá đầu tiên.
- Khu phố Do thái: Nằm ở khu vực Đông Nam Cổ Thành, nơi có
Bức Tường Phía Tây giáp với Núi Đền (vạch màu đỏ).
- Khu phố Kitô giáo: Nằm ở khu vực Tây Bắc Cổ Thành, có nhiều
nhà thờ và cơ sở của các Giáo hội Chính Thống, Công giáo.
Nổi tiếng nhất là quần thể Nhà Thờ Mộ Thánh.
- Khu phố Armênia: Nằm ở khu vực Tây Nam Cổ Thành, có
nhiều tu viện và Nhà thờ của Chính Thống. Người Chính thống
Armênia hành hương đến Đất Thánh đã ở lại khu phố này từ
thế kỷ IV CN.
Khi vào các Cổng Thành, người Do thái thường chạm bàn
tay vào “3 ống đồng” đính cao trên tường, rồi xoa bàn tay lên
124
trán và mặt một cách cung kính. Khách hành hương không khỏi
thắc mắc: trong ống đồng ấy có cái gì, và cử chỉ ấy để làm gì?
Trở lại với thắc mắc lúc chờ lên máy bay ở Istanbul liên quan
đến việc cầu nguyện của người Do thái: nhất là về hai chiếc “đèn
pin thợ mỏ” hình vuông màu đen mà họ đeo trên trán và cột ở
bắp tay trái. Thật ra các hộp vuông ấy có liên quan mật thiết đến
“3 ống đồng” treo trên cao ở Cổng Thành.
Được biết Do thái giáo là một tôn giáo độc thần. Điều răn
thứ nhất và quan trọng nhất của họ được ghi lại trong Sách Đệ
Nhị Luật 6,4-9:
Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy
nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết dạ và hết sức
anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, phải ghi
lòng tạc dạ. Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái và nói
lại cho chúng lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi
ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải buộc những lời ấy vào
125
tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên khung
cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em.
Tuân lệnh Chúa, người Do thái đặt lời Chúa trong ống đồng
trước Cửa Thành và trong các hộp kinh (tefillin) bằng da màu đen
có dây buộc. Mọi trẻ nam từ 13 tuổi (việc hành đạo chỉ dành cho
nam giới) phải đeo hộp kinh này vào trán và tay trái để cầu kinh
3 lần một ngày, mặt hướng về Đền Thờ, để nhắc nhớ bao kỳ công
Chúa đã làm cho dân tộc của mình. Hơn ai hết, đức tin Do thái
gắn chặt với lịch sử, với các biến cố cụ thể của dân tộc họ, ở
những nơi chốn cụ thể; vì thế việc cầu nguyện trở nên chính hơi
thở cuộc sống của họ.
Thành Cổ Giêrusalem được UNESCO công nhận là Di sản thế
giới năm 1981 vì bề dày lịch sử của Thành, cũng như vì các địa
điểm tôn giáo cổ xưa quan trọng trong Thành: Nhà thờ Mộ
Thánh của Kitô-giáo, Núi Đền của Hồi giáo, Bức tường phía Tây
của Do thái giáo. Tại đây, đoàn chúng tôi không có thời gian tìm
hiểu cặn kẽ Thành Cổ, mà chỉ có thể thăm viếng một vài địa điểm
tôn giáo đặc biệt quan trọng.
49. BỨC TƯỜNG THAN KHÓC (PHÍA TÂY)
Năm 20 tcn, Vua Hêrôđê Cả đã xây dựng tường thành dài
488m, cao 19m phần nổi + 13m móng chìm, bao quanh Núi Đền
để bảo vệ Đền Thờ. Khi quân Rôma bình địa Đền Thờ (135 CN),
may mắn hãy còn sót lại đoạn tường Phía Tây 57 mét này.
126
Đối với người Do thái, Bức Tường Phía Tây (Western Wall)
là nơi linh thiêng nhất còn sót lại cho họ tại Giêrusalem, bởi đây
là điểm tiếp cận gần nhất với khuôn viên Núi Đền của Salômon,
cũng là nơi gần nhất với vị trí Đền Thờ đã bị phá hủy (nay là Đền
“Vòm đá tảng”), mà suốt 19 thế kỷ qua họ không được đặt chân
vào! Cầu thang mái che bên phải Bức Tường là lối lên Núi Đền
dành cho du khách không là Hồi giáo (Những người Hồi giáo thì
có 10 cổng dành riêng để vào Núi Đền).
Có nỗi đau đớn nào lớn bằng nỗi đau của cả một dân tộc bị
“đánh cắp” nơi thờ tự Thiên Chúa của họ đã gần 19 thế kỷ qua.
Vì thế lời cầu nguyện duy nhất của họ chỉ có thể là…sự than
khóc: Thống thiết mong đến ngày Chúa đoái thương cho dân
tộc họ xây dựng lại Đền Thờ thứ III tại Núi Thánh của Tổ phụ của
họ từ gần 4000 năm trước!
127
Trong 19 năm chiếm đóng Giêrusalem (1948-1967), quân đội
Jordan đã phong tỏa hoàn toàn, không một người Do thái nào
đặt chân được đến Bờ Tường để cầu nguyện. Vì thế nhân cuộc
chiến 1967, Israel đã bằng mọi giá tái chiếm Bức Tường, rồi giải
tỏa luôn khu phố người Ma-rốc sát chân Tường để mở Quảng
trường Bức Tường Phía Tây rộng 2 hecta như hiện nay.
Ngày 14.5.2018, trong diễn văn chào đón Chính phủ Mỹ dời
Đại sứ quán về Giêrusalem, Thủ Tướng Netanyahu khẳng định
Giêrusalem đã là Thủ đô Israel từ thời Vua Đavít (3.000 năm), và
ông không giấu khát vọng của Israel sẽ xây lại Đền Thờ thứ III ở
Núi Đền! Nếu Israel xúc tiến việc này, chắc sẽ không tránh khỏi
Thế Chiến III vì khuấy động đến thế giới Hồi giáo!
Để vào Quảng Trường Bức Tường Phía Tây, buộc phải qua
cổng kiểm tra an ninh gắt gao. Khu vực cầu nguyện ở chân Bờ
Tường được ngăn đôi: bên tả dành cho nam và bên hữu dành
cho nữ. Trước khi vào cầu nguyện, phải rửa tay “thanh tẩy”
(ablution); nếu là đàn ông thì còn phải dùng các “mũ chụp” miễn
phí ở cửa vào để che đỉnh đầu như người Do thái. Có một phong
tục thiêng liêng ở đây, là viết lời cầu nguyện vào một mảnh giấy
rồi đặt trong một khe nào đó trong tường thành.
Tuy vậy, bầu khí ở Quảng trường rất thanh bình. Không chỉ
có nhiều người Do thái sốt sắng cầu nguyện ở Chân tường, mà
128
rất nhiều du khách háo hức khám phá tìm hiểu. Có nhiều trẻ mẫu
giáo trai Do thái (nam giới) cũng được đưa đến đây để tham
quan và làm quen với bầu khí cầu nguyện.
50. PHÒNG TIỆC LY & HẦM MỘ VUA ĐAVÍT
Phòng Tiệc ly nằm ở tầng trên một tòa nhà hai tầng gần
Nhà thờ “Đức Bà Ngủ”, ở phía nam Cổng Zion dẫn vào Khu Do
thái giáo trong Thành Cổ. Bên cạnh Phòng là tháp của một nhà
thờ Hồi giáo; và ngay bên dưới là lăng mộ Vua Đavít, có chiếc
quan tài bằng đá (sarcophagus) được cho là của Vua Đavít.
Phòng tiệc ly ngày nay là một căn phòng tương đối rộng, có
cột và trần vòm theo kiến trúc gôthic do Thập Tự quân xây vào
thế kỷ XII,. Theo Tân ước, tại phòng này đã xảy ra 3 sự kiện lớn:
Chúa Giêsu ăn Bữa Tiệc Ly (Lc 22,7-13); sau khi phục sinh Ngài hiện
ra trấn an các tông đồ (Ga 20,19-29); Chúa Thánh Thần ngự xuống
trên các tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2,1-4). Sau đó, đây là nơi
tự họp của các tín hữu đầu tiên trong Thành Giêrusalem.
129
HẦM MỘ VUA ĐAVÍT
Một trong những địa điểm thiêng liêng nhất của người Do
thái trong Thành Cổ là lăng mộ của Vua Đavít. Theo Kinh Thánh,
Vua Đavít qua đời sau 40 năm trị vì Vương quốc thống nhất, và
đã được chôn trong “Thành của Đavít” tức Giêrusalem, cùng
với tổ tiên của Ngài. (1V 2,10)
Hầm mộ hiện nằm ở Tầng dưới của Thượng Lầu Tiệc Ly. Ở
lối vào lăng mộ là một Phòng nghiên cứu Kinh Thánh với nhiều
Sách Thánh cổ, lúc nào cũng có các học giả Do thái chính thống
say sưa nghiên cứu và tranh luận về Kinh Thánh.
Bên trái Phòng nghiên cứu là Hầm mộ, trong đó có một
chiếc quan tài lớn bằng đá trắng (sarcophagus) chạm trổ theo
kiểu quý tộc Rôma, được phủ khăn trắng. Phía trước quan tài là
một bức bình phong gỗ có 3 cánh, trên đó có ghi các bản văn
bằng tiếng Do thái.
130
Vì sự tôn kính với Vua Thánh Đavít, chiếc quan tài chưa bao
giờ được xác định niên đại, hay kiểm tra di cốt bên trong thế
nào. Trong hầm mộ luôn có một Rabbi túc trực bên quan tài,
chăm chú nghiền ngẫm Kinh Thánh, chẳng bận tâm gì đến người
vào viếng.
51. NHÀ THỜ ĐỨC BÀ NGỦ (DORMITION)
Nhà thờ “Đức Bà Ngủ” nằm ở vị trí cao nhất của Núi Sion
trong Thành Cổ, cách phòng Tiệc ly & Hầm mộ Đavít chỉ 200 mét.
Đây là địa điểm được lưu truyền là nơi Đức Mẹ đã qua đời trước
mặt các tông đồ. Sau đó thân xác Đức Mẹ được táng trong một
ngôi mộ gần vườn Giếtsêmani thể theo ý muốn của Đức Mẹ.
Truyền thống kể lại Tôma lại vắng mặt khi Đức Mẹ qua đời.
Lúc trở về ông ra viếng mộ thì không còn thấy xác Đức Mẹ. Còn
hầm mộ thì ngập tràn hương thơm ngào ngạt và tiếng nhạc du
dương như vẳng xa từ Thiên quốc! Vì thế ngay từ đầu, các tín
hữu đã tin rằng thân xác của Đấng cưu mang con Thiên Chúa
hằng sống không thể chịu cảnh hư nát của thụ tạo, nhưng đã
được Thiên Chúa đưa thẳng về Trời ân thưởng cả hồn lẫn xác.
Chính vì thế mà Truyền thống không dùng từ “chết” mà nói là
“Đức Bà ngủ” (dormition).
Về sau, mảnh đất nơi Đức Mẹ “thiếp ngủ” (qua đời) đã
được Vua Thổ Nhĩ Kỳ là Sultan Abdul Hamid II tặng cho Hoàng
131
đế Wilhelm II của Nước Đức năm 1898. Trên đó, các cha Biển
Đức người Đức đã xây một Nhà Thờ năm 1910, gồm tầng trệt,
tầng hầm, và 1 tháp tròn cao rất uy nghi.
Phía trên vòm bàn thờ Nhà Thờ tầng trệt là bức bích họa
Đức Maria bồng con với dòng chữ Latinh: “Này, một trinh nữ sẽ
thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7,14)
Giữa Tầng hầm bên dưới có bức tượng sống động bằng
kích thước người thật, khắc Đức Mẹ đang ngủ (qua đời). Tượng
bằng gỗ anh đào với một số chi tiết bằng ngà voi. Trong tầng
hầm còn có nhiều bàn thờ với tượng, và bích họa khác.
52. NHÀ THỜ PHÊRÔ CHỐI CHÚA
Hay: NHÀ THỜ GÀ GÁY
Một trong những nơi nổi bật nhất ở Giêrusalem là Nhà thờ
Phêrô chối Chúa, có tên Latinh là “Galli-cantu” (Gà gáy), tọa lạc
132
trên một sườn đồi cao phía Đông Núi Sion bên ngoài Tường
Thành, được cho là Dinh của Thượng Tế Caipha trước kia. Từ
sườn đồi, có một sân thượng rộng để du khách ngắm toàn cảnh
rộng lớn của Giêrusalem bên dưới; thấy cả vị trí “Thửa ruộng
của Ông thợ gốm” còn gọi là “Ruộng máu”, được mua bằng
tiền Giuđa trả lại trước khi tự tử, để chôn cất khách ngoại kiều
vô gia cư (Mt 27,3-10)
Nhà Thờ Gà gáy được xây từ năm 1932, là một hình ống
dựng đứng bên đồi, gồm 4 tầng: Nhà thờ trên, Nhà thờ Trung cổ
tầng dưới, Tầng hầm tra khảo và Hầm biệt giam sâu thứ tư. Trong
sân nhà thờ có bức tượng đồng mô tả cảnh Phêrô chối Chúa
bên bếp lửa, trước một đứa tớ gái và một lính Rôma.
Cửa vào Nhà Thờ lầu Trên cùng là một bức tranh được gò
bằng đồng, khắc họa việc Chúa Giêsu trong Bữa tiệc ly đã báo
trước với Phêrô rằng ông sẽ chối Chúa trước khi gà gáy đêm ấy.
133
Ở tầng hầm tra khảo có các cột đá để trói đánh phạm nhân
và một cái chén bằng đá khắc trên sàn để chứa muối và giấm
khử trùng hoặc làm tăng đau đớn các vết thương. Đặc biệt, có
một lỗ tròn như miệng giếng để thả phạm nhân trói bằng dây
thừng xuống hầm biệt giam. Đến thăm hai tầng tra khảo và biệt
giam, chúng ta có thể cảm nghiêm được tình cảnh đơn độc của
Chúa Giêsu Kitô trong đêm trước khi bị đem đi đóng đinh.
134
NGÀY THỨ BẢY (10.5.2018)
SAMARIA: GIẾNG GIACÓP & MỘ GIOAN TẨY GIẢ
Hành trình Ngày thứ Bảy:
Buổi sáng:
- Thành Sikhem của các Tổ phụ: Thành phố Nablus
- Núi Garizim ở Samaria
- Giếng cổ Giacóp.
Buổi chiều:
- Khu Phế tích Sebastia: Kinh đô Vương quốc Samaria
- Hang mộ chôn táng Thủ cấp Thánh Gioan Tẩy giả.
53. NABLUS: THÀNH SIKHEM CỦA CÁC TỔ PHỤ
Lịch trình hôm này của đoàn là hành hương đến Miền Trung
Samaria. Tại đó sẽ trải qua 4 địa điểm: Thành Sikhem của các Tổ
phụ; Núi Garizim của người Samari; Giếng Giacóp và nơi chôn
táng Thủ cấp của Thánh Gioan Tẩy giả.
Nablus là thành phố lớn nhất của Palestin, thuộc Vùng Bờ
Tây trong lãnh thổ của Palestin, cách Giêrusalem 50 km về phía
Bắc. Đất đai ở vùng này cằn cỗi, khô cháy, nhiều sỏi đá. Thành
phố Nablus tựa lưng vào ngọn núi Garizim nổi tiếng trong Kinh
Thánh, nơi từng có Đền Thờ sầm uất của người Samari nhưng
nay đã trở thành bình địa.
135
Nablus hoàn toàn mang sắc thái của 1 thành phố Ả rập: chỉ
có bảng hiệu tiếng Ả-rập và tiếng Anh, không có tiếng Do thái.
Thành phố rộng nhưng quy hoạch luộm thuộm giống các nước
đang phát triển. Được biết mức lương trung bình ở đây chỉ 500
USD/tháng, bằng 1/2 ở các thành phố Israel (1.000 USD/tháng).
Nhưng do giá cả sinh hoạt ở các thành phố Ả-rập thấp hơn, nên
chi phí cuộc sống ở hai bên cũng tương đương.
Theo Kinh Thánh, nơi đây là thành cổ của người Canaan tên
là Sikhem, nơi các Tổ phụ từng đến lập cư. Sách Sáng thế kể lại,
Sikhem là điểm dừng chân đầu tiên của tổ phụ Abraham (thế kỷ
XX tcn) khi ông từ Kha-ran đặt chân đến Đất hứa. Ông đã đóng
chốt ở chỗ có Cây sồi Mô-rê. Tại đó, Chúa đã hiện ra chúc lành
cho ông, và ông đã lập một bàn thờ để kính Chúa (St 12,6-9).
Đến thời Tổ phụ Giacóp (thế kỷ XVIII tcn), ông từ Pát-đan
A-ram đến đây mua mảnh đất của ông Khamo, vị đầu mục trong
136
vùng, với giá 100 đồng để lập cư. Ông đã lập một bàn thờ kính
Chúa tại mảnh đất đó và đặt tên là “Ên, Thiên Chúa của Israel”
(St 33,18-20). Có lẽ cái giếng mà người Samari nhận là của Tổ
phụ Giacóp (Ga 4,12) nằm trên mảnh đất lập cư này.
Tuy nhiên, một sự cố nghiêm trọng đã khiến gia đình
Giacóp phải vội vã rời bỏ Thành Sikhem, đó là Đina - con gái
Giacóp - bị Sikhem - con trai Khamo - yêu và cưỡng hiếp. Ông
Khamo biết lỗi nên đến nộp phạt và xin cưới Đina cho con trai
mình. Hai người anh của Đina là Simêon và Lêvi lập mưu trả thù,
đòi gia đình Khamo và mọi đàn ông trong thành phải cắt bì theo
tập tục Do thái thì mới gả em gái. Khi mọi đàn ông con trai trong
thành vừa cắt bì và còn đang yếu sức, các con trai Giacóp đã
giấu cha, xông vào giết tất cả đàn ông trong thành, và cướp bóc
tài sản súc vật của họ. Khi hay tin, Giacóp đau buồn và sợ hãi,
liền đưa cả gia đình trốn đi Bết-ên (St 34).
Cũng tại Sikhem, gần Núi Garizim, hãy còn một địa điểm
được người Do thái tôn kính là lăng mộ Tổ phụ Giuse, do Giosuê
đưa hồi hương về Đất Hứa trong cuộc Xuất hành và đã cho chôn
táng tại Sikhem (Gs 24,32). Tiếc là đoàn không có thời gian ghé
thăm các địa điểm vừa nói tại Nablus.
54. NÚI GARIZIM & NGƯỜI SAMARI
Núi Garizim được nhắc tên lần đầu tiên trong Sách Đệ Nhị
Luật (11,29-30): Ông Môsê chỉ thị cho dân Israel khi vào Đất Hứa
137
sẽ ghi khắc trên Núi Garizim những lời chúc phúc của Chúa nếu
dân trung tín với Lề Luật (Đnl 28,1-14), và khắc trên Núi Êban đối
diện những lời chúc dữ nếu dân bội ước (Đnl 27,15-26; 28,15-68).
Khi vào Đất Hứa, Ông Giosuê đã cùng dân thi hành lệnh ấy của
Môsê (;Gs 8,32-35), Chính vì thế mà người Samari qua ngàn năm
vẫn chỉ nhìn nhận một mình Garizim là Núi Thánh mà thôi.
Nói về thái độ thù địch giữa Do thái và Samari, thì người Do
thái luôn xem mình là thượng đẳng hơn dân Samari, những kẻ
“ngoại tộc” và “ngoại giáo”. Với người Do thái, “tha nhân” mà
họ phải yêu “như chính mình” chỉ gồm những người đồng chủng
(Do thái) và đồng đạo (Do Thái giáo). Vì vậy chúng ta chẳng lạ gì
câu hỏi của người luật sĩ trong Dụ ngôn Người Samari nhân hậu:
"Nhưng ai là người thân cận của tôi?" (Lc 10,29).
Không đồng chủng: Vì năm 721 tcn, Đế quốc Assyria chinh
phạt Vương quốc Israel, bắt dân đi lưu đầy, và đưa người ngoại
bang từ Babylon, Cutha, Ava, Khamát…đến định cư ở các thành
Samari để đồng hóa nên một dân tạp chủng (2V 17,24).
Không đồng đạo: Vì sau cái chết của Vua Salômon năm 931
tcn, Vương quốc Israel phía Bắc đã ly khai cả về chính trị lẫn tôn
giáo: lấy Samaria làm thủ đô; xây Đền Thờ ở Bết-Ên và Đan, lập
hàng tư tế mới, chối bỏ Đền Thờ Giêrusalem (2V 11,26-33). Về
sau, Người Samari vẫn kế thừa đức tin Do thái giáo, nhưng họ
chỉ nhìn nhận Sách Luật Torah (Sách Ngũ Thư) và vẫn duy trì Đền
thờ riêng của họ trên Núi Garizim (nay chỉ còn là tàn tích).
Sự thù nghịch giữa dân Israel và Samari lớn đến mức vào
thời Chúa Giêsu, người hành hương từ Galilê không đi qua Đất
Samari, nhưng đi bộ dọc bên kia Sông Giođan cho đến Qasr el
Yahud thì mới vượt sông vào Giêricô rồi đi tiếp lên Giêrusalem.
Có một lần Chúa Giêsu cố ý đi qua một làng Samari thì dân làng
không tiếp đón; Gioan và Giacôbê đã nổi cáu đòi xin lửa từ trời
xuống thiêu đốt những người Samari này! (Lc 9,51-56)
138
Trong bầu khí đó, ta dễ hiểu sự đối đáp của thiếu phụ
Samari với Chúa Giêsu bên Bờ giếng Giacóp: “Ông là người Do-
thái, mà lại xin tôi là một phụ nữ Samari nước uống sao?” (Ga 4,9)
“Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; sao
các ông lại bảo: Giêrusalem mới là nơi phải thờ phượng?” (4,20)
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã khéo léo chinh phục đức tin của
thiếu phụ Samari, và cả dân làng Xykhar của chị cũng đã tin vào
Ngài: “Chúng tôi tin không còn phải vì lời chị kể, mà quả thật,
chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ông này thật là Đấng cứu độ
trần gian.” (4,42). Tuyệt vời!
Năm 529, sau một thời gian dài bị Đế quốc Byzantine đàn
áp tàn bạo, người Samari đã quật khởi mạnh mẽ, mong tái dựng
một đất nước Samari độc lập; họ đã phá đổ nhiều nhà thờ Kitô-
giáo của Byzantine như tại Bêlem. Nhưng cuộc nổi dậy bị tiêu
diệt đến gần như diệt chủng; tôn giáo Samari bị Byzantine đặt
ra ngoài vòng pháp luật. Để tránh bách hại, nhiều người Samari
còn lại đã cải đạo qua Kitô-giáo hoặc trà trộn với người Ả-rập;
số khác cải đạo qua Hồi giáo trong các thế kỷ tiếp theo dưới sự
cai trị của người Hồi giáo. Hiện nay chỉ còn khoảng 600 người
Samari sống du mục quanh Núi Garizim, và họ vẫn trung thành
cử hành Lễ Vượt Qua hàng năm trên ngọn Núi của tổ tiên họ.
Số phận dân tộc Samari thật nghiệt ngã; gần giống thân
phận dân tộc Chiêm Thành ở Miền Trung VN với Hận… Đồ Bàn!
55. GIẾNG CỔ GIACÓP
Câu chuyện của Chúa Giêsu gặp gỡ thiếu phụ Samari bên
bờ Giếng Giacóp trong Phúc Âm Gioan đã quá quen thuộc với
mỗi người chúng ta (Ga 4). Tới Nablus, chúng tôi đã đến thăm
Giếng cổ, tồn tại từ trước chúng ta hơn 3,700 năm, hiện đang
nằm dưới tầng hầm của một Nhà Thờ Chính Thống Nga, ở ngay
một con phố chính của Thành phố Nablus.
139
Ngôi nhà thờ đầu tiên tại địa điểm này được xây năm 380,
rồi nhà thờ thứ hai vào thế kỷ VI. Nhưng rồi tất cả đều sụp đổ.
Đến năm 1860, Giáo hội Chính Thống Nga đã mua lại mảnh đất và
xây một nhà nguyện nhỏ trên giếng (nay là Nhà nguyện hầm).
Mãi đến 2007, ngôi nhà thờ hiện tại mới hoàn thiện, được xây
dựng bằng đá vôi trắng, với hai tháp cao và lòng nhà thờ theo
kiến trúc một Vương Cung Thánh đường của thời Thập Tự Chinh.
Bên trong Nhà Thờ hoàn toàn trang trí theo Chính Thống
giáo, không có tượng, nhưng tất cả là bích họa rực rỡ ở trên
cung thánh, trên các tường và trên trần nhà thờ. Đặc biệt có bức
bích họa rất đẹp, họa lại Chúa Giêsu uy nghi bên bờ giếng trò
chuyện với thiếu phụ Samari.
140
Nhà nguyện hầm nằm bên dưới gian cung thánh Nhà thờ
chính. Giếng Giacóp vẫn còn đó, đục sâu vào đá khối, sâu chừng
40m, nước rất sạch và ngọt, vẫn còn uống được. Tại giếng nước,
đoàn đã cầu nguyện với đoạn Phúc âm Gioan 4,1-42.
Rời nhà thờ, chúng tôi lên khu phế tích Thành Cổ Sebastia
và dùng cơm trong một nhà hàng Palestin.
141
56. HANG MỘ THỦ CẤP GIOAN TẨY GIẢ Ở SEBASTIA
Sebastia được giới khảo cổ xác nhận là địa điểm của thủ đô
Samari, bao trùm một ngọn đồi cao và rộng, nhìn bao quát xuống
cả một vùng đồi núi phía dưới đầy ô-liu.
Ngổn ngang trên các sườn đồi là tàn tích sót lại từ sáu nền
văn hóa tiếp nối nhau: người Canaan (9.000 năm), Vương quốc
Israel, thời Hy Lạp, La Mã và Byzantine. Trong số đó, có phế tích
Cung điện Vua Hêrôđê ở Sebastia. Chính từ vị trí Cung điện này,
mà các tín hữu địa phương từ xa xưa đã xác định được nơi chôn
thủ cấp của Thánh Gioan Tẩy giả. Còn phần thi hài của ngài đã
được các đồ đệ xin về để chôn táng (Mt 14,12).
Các tín hữu từ thế kỷ IV đã tin rằng địa điểm chôn thủ cấp
của Thánh Gioan Tẩy Giả nằm ở sườn đồi phía sau cung điện
Hêrôđê tại Sebastia, cách chừng vài trăm mét. Từ thế kỷ V rồi
thế kỷ XII, tại địa điểm này đã từng có Nhà thờ chôn Thủ cấp
Thánh Gioan, nhưng tất cả ngày nay chỉ còn lại phế tích.
142
Ngày nay, cứ đến Lễ Thánh Gioan bị trảm quyết (29.8), các
Kitô-hữu địa phương lại đến thắp nến cầu nguyện tại hầm mộ
từng chứa thủ cấp Thánh Gioan bên dưới phế tích Nhà thờ.
Rời Samaria, xe phải mất 2 tiếng rưỡi mới về đến Giêrusalem
vì giao thông ở Vùng Bờ Tây khá hỗn loạn; xe cộ chen ngang lấn
tuyến chẳng khác gì VN. Thêm vào đó, vì là giờ cao điểm buổi
chiều, xe cộ phải chờ khá lâu mới qua được trạm kiểm soát biên
giới nội địa từ Vùng Bờ Tây vào lãnh thổ Israel.
143
NGÀY THỨ TÁM (11.5.2018)
GIÊRUSALEM: CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
Ngày cuối cùng trên Đất Thánh:
Buổi sáng:
- Đi Đàng Thánh giá trong Thành Giêrusalem.
- Núi Golgôtha: Quần thể Nhà Thờ Mộ Thánh.
Buổi chiều:
- Tạm biệt Giêrusalem, ra phi trường Tel Aviv.
- Qua Istanbul, về lại Sàigòn và Melbourne.
57. CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
Đi đàng Thánh giá tại Giêrusalem trên chính con đường
Chúa đã đi qua là cao điểm và có ý nghĩa linh thiêng nhất của
một cuộc Hành hương đến Đất Thánh. Điều đó không là ngoại
lệ đối với đoàn hành hương chúng tôi, vào buổi sáng cuối cùng
của 8 ngày rong ruổi trên quê hương Chúa Giêsu.
Việc Đi đàng Thánh giá tại Giêrusalem đã được các tín hữu
Kitô-giáo thực hành từ giữa thế kỷ IV CN, sau khi Hoàng đế
Constantin cho tự do tôn giáo. Kể từ lúc ấy, các tín hữu đã tìm
cách xác định: Chúa Giêsu đã đi qua những đoạn đường nào
trong Thành? Đâu là nơi xảy ra các sự kiện trong cuộc Thương
khó? Từ những câu hỏi đó, truyền thống đã hình thành nên 14
chặng đàng Thánh giá (hay Via Dolorosa - Đường đau khổ) mà
chúng tôi ao ước được đi trở lại với Chúa hôm nay.
Từ sáng sớm, đoàn đã khăn gói rời Tu viện các Soeurs ở
Núi Cây Dầu để vào Giêrusalem Đi đàng Thánh giá, trước khi các
phố hẻm của Thành Cổ họp chợ, khoảng 9g.
Chúng tôi vào Thành bằng Cổng “Sư tử” ở Khu Phố Ả-rập
(có khắc 2 sư tử), hay còn gọi là Cổng Têphanô, vì là nơi Vị tử
đạo tiên khởi của Giáo hội đã bị ném đá đến chết. Kế đó, chúng
144
tôi lần qua những con hẻm nhỏ lát đá quanh co hãy còn vắng
người, để đến địa điểm của Chặng Đàng Thánh giá thứ nhất.
SƠ LƯỢC 14 CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
Khi hành hương Đất Thánh, chúng ta không tìm “tưởng
niệm” vị trí xác thực 100% của các sự kiện, vì là điều không thể.
Nhưng với đức tin và lòng thành kính, chúng ta kính nhớ các
biến cố cứu độ của Chúa Giêsu chắc chắn đã xảy ra tại mỗi nơi,
để hiểu Chúa hơn, yêu Chúa hơn, và sống đạo sốt sắng hơn.
Cũng vậy, lộ trình 14 chặng Đàng Thánh giá ngày nay dựa
vào truyền thống đức tin và ký ức đạo đức của các tín hữu từ
ngàn xưa, hơn là chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên, có một điều
không thể nghi ngờ, đó là các vết chân lê bước, những giọt mồ
hôi, nước mắt và giọt máu của Chúa Giêsu đã từng đổ ra và hãy
còn ghi dấu trên con đường lên Núi Sọ này. Vì vậy, tại mỗi chặng
đàng, chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện với một sự kiện trong
145
cuộc thương khó, để được kết hiệp thẳm sâu với Chúa và biết
ơn tình yêu cứu độ của Chúa đã chết vì chúng ta.
Lộ trình của Đàng Thánh giá thực ra không dài, chỉ 600
mét khởi từ Pháp đình của Philatô trong Đồn Antonia của Roma
(Khu phố Ả-rập) và kết thúc ở đồi Golgôtha nay bị che phủ bởi
Nhà Thờ Mộ Chúa (Khu phố Kitô-giáo). Lộ trình ấy băng qua
những con đường hẹp lát đá, ngoằn nghèo, đồi dốc, và các bậc
tam cấp trong Thành Cổ. Hai bên đường của Đàng Thánh giá
ngày nay chủ yếu là phố chợ, xen kẽ với những nhà thờ và tu
viện của các thệ phái Kitô-giáo khác nhau.
Vị trí của 9 chặng đầu rải dọc trên đường phố. Mỗi chặng
được đánh dấu bằng một đĩa bằng đồng (35 cm) với số La Mã.
Còn 5 chặng cuối thì nằm trong quần Thể Nhà Thờ Mộ Thánh.
Thông thường, các nhóm hành hương hay mượn của Tu
viện Phanxicô một Cây Thánh giá bằng ván mỏng để vác qua
các chặng đàng Thánh giá. Nhưng hôm nay do đoàn chúng tôi
khởi sự hơi sớm, nên không mượn Thánh giá được.
Có một lối giúp dễ nhớ nội dung của 14 Chặng đàng, đó là
chia 14 chặng thành các cụm biến cố:
Chúa Giêsu bị xét xử và vác thánh giá: Chặng 1 và 2.
Chúa Giêsu ngã ba lần trên đường: Chặng 3, 7 và 9.
Bốn cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu trên đường Thập giá:
- Gặp gỡ Đức Mẹ: Chặng thứ 4.
- Được ông Simon vác đỡ Thánh giá: Chặng thứ 5.
146
- Được Bà Veronica trao khăn lau mặt: Chặng thứ 6.
- An ủi các phụ nữ Thành Giêrusalem: Chặng thứ 8.
Chúa Giêsu bị hành hình:
- Quân dữ lột áo Đức Chúa Giêsu: Chặng thứ 10.
- Quân dữ đóng đinh Đức Chúa Giêsu: Chặng thứ 11.
- Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh giá: Chặng thứ 12.
Tháo đinh và táng xác: Chặng 13 và 14.
Chặng 1: PHILATÔ LUẬN GIẾT CHÚA GIÊSU
Pháp đình nơi Philatô xét xử Chúa ngày nay không còn dấu
vết; chỉ biết là nơi ấy từng nằm trong Đồn Antonia của lính La
Mã. Ngày nay, Chặng đàng thứ 1 là Nhà Thờ Chúa Giêsu bị kết án
và vác Thánh giá của các cha Phanxicô, được xây trong khuôn
viên Đồn Antonia xưa.
147
Chặng 2: CHÚA GIÊSU VÁC THÁNH GIÁ
Chặng đàng thứ 2 được đặt trong Nhà Thờ Chúa Giêsu chịu
đánh đòn, cũng do các cha Phanxicô cai quản, nằm trong cùng
khuôn viên của Đồn Antonia xưa, xéo một bên đối diện Nhà
Thờ của Chặng thứ 1.
148
Chặng 3: CHÚA GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN I
Chặng này nằm ngay bên đường, phía trước một nhà thờ
của Giáo hội Công giáo Armênia hẹp đến mức gây cảm giác như
thể “lấn chiếm lòng lề đường” kiểu Việt Nam. Vì hãy còn quá
sớm nên Nhà Thờ chưa mở cửa.
Chặng 4: ĐỨC MẸ GẶP CHÚA GIÊSU VÁC THÁNH GIÁ
Phúc Âm không kể việc Đức Mẹ gặp Con vác Thánh giá,
nhưng cho biết Mẹ đã đứng dưới Chân Thập giá đến phút cuối
cùng và có mặt chứng kiến táng xác Con (Ga 19,25-27). Điều này
chứng tỏ Đức Mẹ đã lặng lẽ theo sát bước chân của Con trên
đường Thập giá, như đã từng kín đáo theo sát Con suốt 3 năm
rao giảng công khai (Mt 12,46-50).
Chặng thứ 4 nằm ở cổng vòm của Dinh Thượng phụ Giáo
hội Công giáo Armênia tại Giêrusalem, sát Nhà thờ nhỏ Armênia
149
lúc nãy ở bên ngoài bờ tường, phía trái cổng Dinh. Chúng tôi
vào hẳn sân bên trong của Dinh để ngắm Chặng thứ 4.
Chặng 5: ÔNG SIMON VÁC THÁNH GIÁ ĐỠ CHÚA GIÊSU
Chặng thứ 5 là một Nhà nguyện nằm ở góc phố, tại căn
nhà đầu tiên của các Cha Phanxicô tại Giêrusalem (1229), khi các
cha bắt đầu đặt chân đến Đất Thánh phục vụ.
Phúc Âm của Chúa thật trái nghịch: Anh dân ngoại gốc
Xyrênê lại là môn đệ đầu tiên đích thực của Chúa, vì anh đã từ
bỏ chính mình, vác thập giá theo Chúa (Mt 16,24). Để trở nên
môn đệ thật của Chúa, chúng ta cũng phải dám từ bỏ mình, vác
thập giá hàng ngày để theo Chúa.
Chặng 6: BÀ VERONICA TRAO KHĂN CHO CHÚA LAU MẶT
Chặng thứ 6 nằm trước Nhà thờ “Thánh Nhan Chúa Kitô”
thuộc Giáo hội Công Giáo Men-kít Hy Lạp.
150
Khi vác thánh giá đến đây, chắc khuôn mặt Chúa đã đẫm
mồ hôi và máu không mở mắt nổi để tiếp tục bước tới. Phúc
Âm không ghi nhận sự kiện này, nhưng Truyền thống kể lại một
phụ nữ đã động lòng cảm thương Chúa, chẳng còn sợ quân dữ,
lao ra trao khăn cho Chúa lau mặt. Lòng yêu mến của Bà đã
được Chúa tặng thưởng bằng hình ảnh in bằng chính mồ hôi và
máu của Chúa trên chiếc khăn. Không ai rõ phụ nữ ấy tên gì, vì
vậy truyền thống gọi bà là Veronica, ghép 2 từ Latinh: “Vera”
(đích thật), “icon” (ảnh); có ý nói hình ảnh trên khăn là “dung
nhan đích thực” của Chúa.
Chặng 7: CHÚA GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN II
Chặng thứ 7 là một Nhà nguyện của các Cha Phanxicô, sở
hữu từ năm 1875.
151
Chặng 8: CHÚA GIÊSU AN ỦI CÁC PHỤ NỮ GIÊRUSALEM
Có lẽ một số phụ nữ Giêrusalem ngày xưa đã đứng ở vị trí
này chờ Chúa vác thập giá đi ngang qua. Trông thấy Chúa hình
hài tan nát, các bà động lòng khóc thương Chúa. Nhưng trong
nỗi khổ đau, Chúa Giêsu vẫn không nghĩ đến mình, mà bày tỏ
một lần nữa sự xót thương thân phận khốn khó của Giêrusalem
sẽ bị phá hủy: “Các bà đừng khóc thương tôi. Có khóc thì hãy
khóc cho phận mình, và cho con cháu các bà.” (Lc 23,27-28)
Chặng thứ 8 đặt trên bờ tường Tu viện Chính thống Hy Lạp
Thánh Charalampus. Đặc biệt ở chặng này còn có một phù điêu
tròn bằng đá, khắc nổi hình cây Thánh giá và dòng chữ Hy Lạp:
- “IC - XC” (viết tắt của Giêsu-Kitô);
- “NIKA” (tiếng Hy Lạp có nghĩa chiến thắng).
Có nghĩa “Chúa đã chiến thắng trong cuộc Thương khó”.
152
Đi ngang qua đây, các Kitô-hữu địa phương thường cúi hôn
hoặc chạm tay vào phù điêu, rồi hôn tay và làm Dấu thánh giá.
Chặng 9 & 10: CHÚA GIÊSU NGÃ XUỐNG ĐẤT LẦN III
Chặng Chúa Giêsu ngã xuống đất lần 3 không còn xa Núi
Golgôtha bao xa, vì từ đây đã nhìn thấy Mái Nhà Thờ Mộ Thánh
ở trước mặt. Chặng 9 cũng không còn nằm trên đường phố, mà
ở lối vào của 2 tu viện của Giáo hội Chính thống Coptic Ai Cập:
Tu viện Thánh Antôn tu rừng và Tu viện Thánh nữ Hêlêna.
Tại đây, chúng tôi ngắm luôn chặng 10 (quân dữ lột áo Chúa)
do không thể ngắm 5 chặng cuối trong Nhà Thờ Mộ Thánh, nơi
đông nghẹt khách hành hương vào mùa cao điểm này.
Chặng 11- 14: CHÚA GIÊSU CHỊU HÀNH HÌNH - CHẾT - TÁNG XÁC
Đi qua bức tường Tu viện Chính Thống Ai Cập, đến khu vực
rộng rãi của Tu viện Chính Thống Êthiopia (Phi châu), xây bít
153
chính diện Nhà thờ Mộ Thánh. Do đó Thập Tự quân đã phải mở
lối vào Nhà Thờ Mộ Thánh bên hông trái Nhà Thờ.
Ngay giữa sân Tu viện Chính Thống Êthiopia nhô lên một “ụ
tròn” màu đen không mấy thẩm mỹ; được biết đó là “đỉnh
chóp” để lấy ánh sáng của Nhà thờ Hầm từ thế kỷ IV đào sâu
trong Núi Sọ bên dưới, nơi Thánh Nữ Hêlêna đã tìm thấy Thánh
giá của Chúa vào thế kỷ IV. Từ sân Tu viện Êthiopia, chúng tôi
ngước mắt nhìn về 2 Mái tròn của Nhà Thờ Mộ Thánh, sốt sắng
ngắm 4 Chặng đàng Thánh giá cuối cùng.
Rời vị trí này để đi vào “quần thể” Nhà Thờ Mộ Thánh, Anh
hướng dẫn viên nói với Cha chủ sự Đi đàng Thánh giá chỉ mặc
áo Alba và cất Dây Stola đi, vì đây là “khu vực liên-thệ-phái” của
6 Giáo hội Kitô-giáo. Vì thế, đã có một quy ước chung là các
chức sắc của mỗi Giáo hội chỉ mặc “phẩm phục” trong các nhà
nguyện của thệ phái mình!
154
58. NÚI CALVARIÔ & ĐỈNH GOLGÔTHA NGÀY NAY
Thời Chúa Giêsu, Núi Calvariô nằm ngoài Thành Giêrusalem,
nhưng nay lại ở bên trong Tường Thành. Đỉnh Golgôtha ngày
nay cũng hoàn toàn bị phủ kín bởi nhà cửa chen chúc, đến độ
nếu muốn chụp ảnh riêng một khối nhà nào đó thì không tài nào
thực hiện được. Trong quần thể kiến trúc tôn giáo hùng vĩ ấy,
linh thánh nhất vẫn ngôi mộ đá chôn táng Chúa Giêsu.
Nhìn Nhà thờ Mộ Thánh từ trên cao, sẽ thấy nổi bật lên Mái
vòm Mộ Thánh (lớn), Mái vòm Đại thánh đường Phục sinh (nhỏ)
và Tháp chuông cụt tuy chỉ còn ½ chiều cao nguyên thủy nhưng
vẫn chứa 18 quả chuông để báo các giờ Thờ phượng.
Do vậy sơ đồ dưới đây sẽ giúp định vị lối vào Nhà Thờ, vị trí
Đỉnh Golgôtha nơi Chúa chịu đóng đinh, và vị trí Mồ Thánh nơi
155
táng xác Chúa… Tuy nhiên, tất cả các vị trí ấy ngày nay đều nằm
trong lòng quần thể của Nhà Thờ Mộ Thánh!
59. QUẦN THỂ NHÀ THỜ MỘ THÁNH
Nhà Thờ Mộ Thánh ngày nay hoàn toàn bị bủa vây bởi nhà
cửa phố chợ. Có hai lối để đến nhà thờ: lối thứ nhất, đi băng qua
nhiều con hẻm buôn bán ngoằn ngoèo chật hẹp dẫn đến bậc
thang phía trái sân Nhà Thờ; lối thứ hai, đi từ Tu viện Êthiôpia lên
phía phải sân Nhà Thờ.
Nhà Thờ hiện tại là sự kết hợp của 2 kiến trúc rất cổ xưa:
- Vương Cung Thánh đường Mộ Thánh từ thời Byzantine thế
kỷ IV: gồm Vòm Mộ Thánh và Nhà thờ hầm kính Thánh Hêlêna.
156
- Vương Cung Thánh đường Mộ Thánh từ thời Thập tự Chinh
thế kỷ XII: gồm Đại Thánh đường và tháp chuông.
Từ thời cai trị của Hồi giáo thế kỷ XIII, Vương Cung Thánh
đường Mộ Thánh bị tranh giành sở hữu bởi 6 thệ phái: Chính
Thống Hy Lạp, Armênia, Coptic Ai Cập, Êthiopia, Syriac và Công
giáo, làm nên gần 30 nhà nguyện và bàn thờ lớn nhỏ hiện nay
(có cái chỉ vài mét vuông). Nhiều khách hành hương lần đầu
nghe tên và trông thấy các giáo sĩ bộ dạng râu ria và trang phục
lạ mắt các thệ phái; lần đầu nhìn thấy các bàn thờ trang trí rực
rỡ và các nghi thức phụng vụ rườm rà, xông hương mù mịt của
các thệ phái Đông Phương (và nhiều điều khác nữa!)
60. NHÀ NGUYỆN “QUÂN DỮ LỘT ÁO CHÚA GIÊSU”
Đây là Chặng Đàng thứ 10, một nhà nguyện chỉ 10m2, nép
mình trong góc phải Sân nhà thờ Mộ Thánh, do các Cha Phanxicô
cai quản nên thường được gọi là “Nhà nguyện Franks”.
157
61. NÚI GOLGÔTHA
Tên Latinh của Núi là Calvariô, còn tiếng Do thái thì gọi là
Golgôtha “đồi sọ”, do người ta tin rằng trong Núi này có chôn
hộp sọ của ông Tổ Ađam. Đây là một gò cao bên ngoài Thành
Giêrusalem, nơi xử tử các can phạm, để răn đe dân trong Thành
trông thấy không còn dám vi phạm pháp luật.
Lối lên Núi Golgotha ngày nay phải qua Cửa chính Nhà Thờ
Mộ Thánh. Vừa bước vào cửa Nhà Thờ, ta sẽ gặp “Phiến đá
khâm liệm” nhưng hãy nhìn về phía tay phải, lên một bậc cầu
thang hẹp và dốc, sẽ đến tầng trên khá rộng của phần đuôi Nhà
Thờ. Tầng này có độ cao bằng với đỉnh Núi Golgôtha, nơi cắm
cây thập giá đóng đinh Chúa Kitô. Nhưng tất cả ngày nay đều
nằm gọn dưới mái Nhà Thờ.
Trên tầng lầu thông suốt ấy, có nhiều bàn thờ khác nhau
của các thệ phái nằm liền kề và chen chúc nhau; tất cả đều liên
quan đến các Chặng đàng Thánh giá từ 11 đến 13: Quân dữ đóng
đinh Chúa Giêsu; Chúa Giêsu sinh thì trên thánh giá; tháo đanh
Chúa xuống và phó trong tay Đức Mẹ…
62. NHÀ NGUYỆN CHÚA CHỊU ĐÓNG ĐINH
Thật ra nhà nguyện Chúa chịu đóng đinh chỉ là một bàn thờ
kê sát vào tường, thuộc Công giáo và do các Cha Phanxicô cai
quản. Đặc biệt phía trên trần theo kiểu kiến trúc gôthic có một
158
bức bích họa màu tối và có chiều sâu, miêu tả Đức Mẹ uy nghi
nhìn Con chịu đóng đinh; còn Thánh Gioan thì sụp lạy Thầy Chí
Thánh đang căng mình chịu đóng đinh vào Thánh giá.
63. NHÀ NGUYỆN CHÚA TẮT HƠI TRÊN ĐỈNH GOLGÔTHA
Nhà nguyện này thuộc về Chính Thống Hy Lạp, nằm ngay
trên mỏm đá đỉnh núi Golgotha. Trên gian Cung thánh có tranh
tượng dát bạc lộng lẫy của Chúa Giêsu trên Thánh giá, Đức Mẹ
và Thánh Gioan đứng hai bên (Ga 19,25-27).
Dưới gầm bàn thờ có chân dung icon Chúa Giêsu mặc áo
vải điều, đầu đội mã gai. Bức tranh đặt trên một đĩa bạc đánh
dấu vị trí của Thánh giá Chúa. Các khách hành hương xếp hàng
đợi vào hôn kính vị trí Thánh giá Chúa.
159
Ở dưới chân phải của Bàn thờ có lồng kính với đèn chiếu
sáng rực, bên trong là tảng đá của Núi Golgôtha dưới chân
Thánh giá đã bị nứt toang làm đôi khi Chúa Giêsu trút hơi thở
cuối cùng (Mt 27,51).
64. PHIẾN ĐÁ KHÂM LIỆM
Trở xuống Tầng dưới, ngay Cửa vào Nhà Thờ, ta gặp lại
“Phiến đá khâm liệm” (Stone of Anointing) bằng đá cẩm thạch
hồng đặt trong trên một bệ đá cũng màu hồng. Phía trên có một
giá treo 8 chiếc đèn chầu bằng sứ trắng kiểu Chính Thống. Vị trí
phiến đá này được chọn làm Chặng đàng thứ 13.
Truyền thống cho rằng đây là địa điểm mà ông Nicôđêmô và
Giuse Arimathê đã khâm liệm Chúa trước khi táng xác vào một
huyệt đá mới chưa chôn táng ai (Ga 20,38-40). Hầu hết các tín
hữu đến đây đều dừng lại quỳ hôn cung kính tảng đá đặt xác Con
Thiên Chúa đã chết cho nhân loại.
160
Phía sau phiến đá, có 1 bức tranh khảm (mosaic) trải dài suốt
bức tường với ba cụm tranh từ phải sang trái: Hạ xác Chúa khỏi
Thánh Giá; khâm liệm; táng xác vào huyệt đá mới. Sở dĩ ba cụm
tranh được xếp theo thứ tự từ phải qua trái vì phía bên phải
phiến đá là Đồi Golgôtha; phiến đá khâm liệm thì ở giữa; còn đi
về phía tay trái là hang mộ táng xác Chúa.
65. SẢNH TRÒN & VÒM MỘ THÁNH
Từ phiến đá khâm liệm đi về phía trái, sẽ gặp sảnh tròn có
đường kính rất rộng (Rotunda), với Mộ Thánh ở giữa. Phía trên
sảnh là Vòm lớn, có từ Nhà Thờ Byzantine nguyên thủy thế kỷ IV,
được chống đỡ bằng những cột đá khổng lồ cao 3 tầng. Giữa
đỉnh vòm có một lỗ thông hơi để lấy ánh sáng, tỏa xuống 12 dải
“đuôi sao chổi” tượng trưng cho 12 “lưỡi lửa” của Thánh Thần
được ban xuống cho các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần.
161
Nói về Mộ Thánh, thì trước đây nằm trong triền núi trải dài
từ đỉnh Golgôtha xuống. Khi xây dựng Nhà Thờ vào thế kỷ IV,
hầu hết Núi đã bị khai thác để lấy đá. Riêng Mộ Thánh thì được
giữ nguyên vị trí ban đầu, rồi xây một “khám thờ” (edicule) bằng
đá cẩm thạch hồng trùm lên trên, trông giống một “hòn đảo”
nổi lên ở trung tâm Sảnh tròn Rotunda.
Tuy nhiên, các kiến trúc sư từ thế kỷ IV đã không quên giữ
lại một vài huyệt mộ từ thể kỷ I để lưu giữ và nhắc nhớ hình dáng
nguyên thủy của Mộ Thánh. Có lẽ chúng mới là mẫu đích thực
của huyệt mộ của Chúa Giêsu trước khi được mở mang và trang
hoàng lộng lẫy về sau. Các huyệt mộ nguyên thủy này hiện nằm
trong một hang nhỏ tại Nhà nguyện kính thánh Giuse Arimathê,
không xa Sảnh tròn Rotunda bao nhiêu.
162
66. BÊN TRONG KHÁM THỜ - MỘ THÁNH
Thông thường, khách hành hương phải xếp hàng một vài
giờ mới đến lượt vào viếng Mộ Thánh trong “khám thờ”. Trên
vòm cửa vào khám thờ có 12 khung ô-van chân dung 12 tông đồ,
còn khung ô-van ở giữa là hình Chúa phục sinh.
163
Một vị tu sĩ Chính Thống giáo luôn túc trực trước cửa khám,
chỉ cho phép từng 3 người một vào viếng. Khám thờ có 2 gian,
cũng là hai nhà nguyện, mặc dù diện tích mỗi gian rất hẹp.
Nhà nguyện Thiên Thần ở gian ngoài dâng kính hai thiên
thần canh cửa mộ khi các phụ nữ ra thăm mộ lúc tảng sáng (Ga
20,12). Giữa Nhà nguyện có một hộp bằng đá cẩm thạch (50cm x
50cm) chứa một phần “Tảng đá che cửa mộ”; bên trên được phủ
một tấm kính bảo vệ, với 2 ngọn nến cháy sáng liên tục. Kế tiếp
là cửa hang được chạm trổ rất công phu đi qua gian trong.
Nhà nguyện phục sinh ở gian trong, vốn là huyệt mộ đặt thi
hài Chúa, được đục rộng thành một gian phòng (chừng 2,5m x
1,7m) nhưng vẫn giữ nguyên bệ đá nguyên thủy đặt xác Chúa.
Tuy nhiên, từ xa xưa, bệ đá này đã được phủ một phiến đá cẩm
thạch trắng (85cm x 180cm) bên trên để bảo vệ, cũng được dùng
làm Bàn thờ của nhà nguyện.
164
Trần của Mộ Thánh được treo kín các đèn chầu kiểu treo của
Chính Thống, có hình dáng giống như những chiếc bình xông
hương được mạ vàng.
Trên phiến đá bàn thờ luôn có khay cắm các ngọn nến cháy
sáng, một loại nến nhỏ được làm bằng sáp ong thật vàng óng chỉ
bằng chiếc đũa và cháy hết hoàn toàn, không nhiễu sáp thừa
xuống đất. Trước bàn thờ có tấm phướn bằng nhung đỏ ghi
dòng chữ Hy Lạp: XPICTOC ANESTH (Kristos Anestê), có nghĩa là:
Đức Kitô đã sống lại.
Ngoài ra, kệ sát tường để đặt các chân nến và bình hoa đều
được bọ bằng tấm kim loại mạ vàng. Ở viền nổi của kệ có khắc
hàng chữ khá nhỏ bằng tiếng Latinh, ghi lại lời của Thiên Thần
loan báo với các phụ nữ ra Mộ: “Surrexit, non est hic, ecce locus
ubi posuerunt eum! Ngài đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa, đây
là chỗ người ta đã đặt Ngài!” (Mc 16,6)
165
67. NHÀ NGUYỆN A-ĐAM
Ở Tầng trệt Nhà Thờ, ngay bên dưới vị trí của Nhà nguyện
Golgôtha trên đỉnh Núi ở tầng trên, là Nhà nguyện Ađam, nơi
được cho là có chôn hộp sọ của ông Tổ Ađam. Đó là lý do khiến
ngọn núi mang tên là “Núi sọ”.
Trên tường Cung Thánh Nhà nguyện Adam có một ô kính
cho thấy vách Núi phía sau bị nứt toác, cùng một đường nứt của
Núi đá Golgôtha dưới chân Thánh giá.
Các tín hữu sơ khai tin rằng, cơn động đất khi Chúa tắt thở
đã làm nứt toác núi Golgôtha từ chân Thập giá xuống đến vị trí
hộp sọ Ađam ở đây: Máu Thánh Chúa đổ ra từ trên Thập giá đã
chảy theo đường nứt xuống chan tưới trên hộp sọ để cứu rỗi
Ađam. Từ tương truyền này, nghệ thuật làm tranh icon hay
tượng chịu nạn thường thêm vào dưới chân Thánh giá một hộp
sọ và những giọt máu; có khi còn thêm một hang nhỏ. Có lẽ bạn
cũng đã từng trông thấy ở đâu đó loại thánh giá này!
166
68. ĐẠI THÁNH ĐƯỜNG PHỤC SINH
Đại Thánh đường Phục Sinh của Chính Thống Hy Lạp là Nhà
thờ lớn nhất, chiếm hầu hết gian trung tâm của Tầng trệt Nhà
Thờ Mộ Thánh. Lòng Đại thánh đường hoàn toàn để trống.
Đặc biệt, phía trên gian Cung Thánh có vòm Katholikon, tức
vòm nhỏ trên nóc Nhà thờ. Phía trong vòm là bức bích họa chân
dung tuyệt tác của Chúa Giêsu uy nghi rực rỡ.
69. NHÀ NGUYỆN KÍNH THÁNH NỮ HÊLÊNA
Thánh nữ Hêlêna có công rất lớn trong việc giúp Giáo Hội
tìm lại vị trí các nơi chốn của cội nguồn đức tin tại Đất Thánh: từ
Hang Truyền tin ở Nazarét, Nhà Bà Êlisabét ở Ein Karem, Hang
167
Bêlem nơi Chúa sinh ra, các địa điểm quan trọng Chúa Giêsu rao
giảng ở Hồ Galilê, Vườn Giếtsêmani, Thăng Thiên, Mộ Thánh. Vì
thế, chúng tôi không thể không viếng Nhà nguyện kính Thánh
Nữ để bày tỏ lòng biết ơn và cầu nguyện, cũng như để kết thúc
tại đây cuộc hành hương 8 ngày của đoàn.
Chúng ta hãy nhìn lại sơ đồ Nhà Thờ Mộ Thánh để xác định vị
trí của Nhà thờ Thánh nữ Hêlêna: nằm sâu trong Núi Golgôtha,
dưới Tu viện Êthiopia, bên ngoài lòng Nhà Thờ chính.
Thực ra có tới 2 nhà thờ Thánh Hêlêna ở tầng hầm. Từ tầng
trệt đi xuống 29 bậc, sẽ đến Nhà thờ hầm uy nghi to lớn từ thế
kỷ IV, hãy còn nguyên vẹn (đỉnh chóp nhô lên sân Tu viện Êthio-
pia). Khi Thập Tự quân xây Thánh đường Mộ Thánh mới bên trên
vào thế kỷ XII, họ đã dâng Nhà thờ hầm để kính Thánh Hêlêna.
168
Thế nhưng khi Giáo hội Armênia chiếm Nhà thờ hầm này, họ
lại dâng kính “Thánh Gregory soi sáng” của quê hương họ, và
dâng các nhà nguyện nhỏ bên cạnh cho các vị thánh khác, trong
đó có Thánh Dismas là “Anh trộm lành”.
Từ Nhà thờ Hầm bước sâu xuống một cầu thang khác có 22
bậc, sẽ gặp 1 nhà nguyện nhỏ trong ngách đá, nơi Thánh Hêlêna
đã tìm ra Thánh giá Chúa cùng với các dụng cụ hành hình và đóng
đinh (ở góc tường bên phải bàn thờ được chiếu sáng). Khám phá
đó đã giúp Thánh nữ xác định vị trí Golgôtha, và cho xây Nhà Thờ
Kính Mộ Thánh đầu tiên tại đây cũng trong thế kỷ IV.
Nhà nguyện nhớ ơn Thánh Nữ Hêlêna hiện do các Cha
Phanxicô cai quản. Trên bức tường sau bàn thờ là bức tượng
màu đen của Thánh Nữ đang ôm Thánh giá Chúa.
169
70. THÁNH LỄ TẠ ƠN - NHÀ NGUYỆN “HIỆN RA”
Gần Mộ Thánh có 2 nhà nguyện “Hiện ra” của các Cha
Phanxicô. Đối diện cửa Mộ là Nhà nguyện “Hiện ra với Maria
Mađalêna”, tại vị trí được cho là Cô đứng khóc và được Chúa
Phục sinh hiện ra, nhưng tưởng là ông giữ vườn (Ga 20,11-18).
Nhà nguyện thứ 2 “Chúa Phục sinh hiện ra với Đức Mẹ” còn
gọi là Nhà nguyện Thánh Thể, trong một căn phòng phía trái Cửa
Mộ. Bên cánh trái Gian Cung Thánh, có một cột đá tròn và ngắn
đặt trên cao, được cho là một phần của chiếc cột đá mà lính
Rôma trói và đánh Chúa trước khi hành hình.
Tuy Phúc Âm không nói, nhưng Truyền thống Giáo Hội từ
sơ khai luôn tin rằng Đức Mẹ là nhân vật đầu tiên và xứng đáng
170
nhất được Chúa báo tin Phục sinh (chứ không phải là Maria
Mađalêna),do Đức Mẹ đã khiêm tốn không nói ra vinh dự ấy,
mà chỉ “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Để diễn tả niềm tin
ấy, Giáo hội cho đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trong suốt
Mùa Phục Sinh, là Lời báo tin Phục sinh cho Đức Mẹ.
Tại Nhà nguyện “Hiện ra với Đức Mẹ”, đoàn đã dâng Thánh
Lễ kết thúc việc Đi Đàng Thánh giá như đã xin hẹn trước. Đây
và cũng là Thánh lễ Tạ ơn của đoàn về toàn bộ chuyến hành
hương trước khi rời Đất Thánh chiều nay.
71. CHIA TAY ĐẤT THÁNH
Tám ngày hành hương trôi qua thật nhanh, nhưng cảm giác
được lưu lại trên Đất Thánh có vẻ rất dài, bởi chỉ trong 8 ngày,
chúng tôi đã viếng trên 50 địa điểm, trải qua biết bao nhiêu trải
nghiệm bên ngoài cũng như kinh nghiệm thiêng liêng bên trong.
Đúng 12g chúng tôi ăn trưa tại Nhà hàng BULGHOURJI trong
Khu phố Armênia. Như thế, chúng tôi đã được đặt chân vào cả 4
Khu Phố của Thành Cổ. Gần 1g trưa, chúng tôi trực chỉ Phi Trường
Tel Aviv, cách Giêrusalem chừng 60 km, mất khoảng 1 giờ.
Đúng ra, lịch chuyến bay Tel Aviv-Istanbul là 9g45 tối, nhưng
bị dời sớm lên 5 tiếng rưỡi, tức sẽ cất cánh lúc 4g15 chiều. Vì thế
đoàn bị hụt mất một số điểm tham quan trong lịch trình, trong đó
có Làng Emmau nằm ngay bên xa lộ ra Phi trường.
Khoảng 2g chiều chúng tôi vào làm thủ tục check-in. Anh
hướng dẫn viên cho chúng tôi biết cặn kẽ thủ tục xuất cảnh để trả
lời cho chính xác. Mỗi người đều phải trả lời nhân viên an ninh 4
câu hỏi: Bạn đến Israel làm gì? (Đi hành hương); Ai đã xếp hành lý
cho bạn? (Chính tôi); Có ai nhờ bạn cầm giúp đồ đạc gì không?
(Không); Bạn có mang theo vũ khí hay vật dụng nguy hiểm nào
không? (Không). Sau đó anh chờ cho đến khi chúng tôi vào hẳn
bên trong thì mới trở về.
171
Tại Istanbul, hai nhóm Sàigòn và Melbourne chia tay nhau.
Tuy nhiên cả hai nhóm đều phải chờ gần 8 tiếng mới đáp chuyến
bay tiếp theo về nước. Trong lúc ngồi chờ ở Phi trường và quan
sát, chúng tôi thấy rất đông tín đồ Hồi giáo người Ả-rập và Phi
Châu - trong trang phục tôn giáo riêng của họ - cũng quá cảnh ở
Phi trường Istanbul để đi hành hương ở đâu đó trong tháng Chay
Ramadan của họ (đối với năm 2018, kéo dài từ 16.5 đến 14.6).
Sau 10 tiếng dài trên máy bay, chúng tôi về đến Sàigòn lúc
5g chiều ngày 12.5, đúng theo lịch trình.
TẠ ƠN CHÚA VỀ CHUYẾN HÀNH HƯƠNG BÌNH AN. Ngoài ra,
chắc hẳn mỗi người chúng ta còn có nhiều điều riêng tư khác để
tạ ơn Chúa!
Một tháng sau chuyến hành hương,
Ngày 12.6.2018
Người hành hương
172