hÃy cẢnh giÁc vỚi bỆnh ung thƯ -...

245
HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ Tiến sỹ Y khoa Nguyễn Thanh Đạm Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Vật lý trị liệu Bộ Y tế Tổng thư ký Hội phòng chống Ung thư Việt Nam Bệnh viện K, 43 Quán Sứ, Hà Nội, Việt Nam Fax: (84-4) 7.181.636 ĐT: (84-4) 9.346.49643 DĐ: 0913.228.665 Công ty Cổ phần Tập đoàn Liên kết Việt Nam Phòng tư vấn VINA-LINK GROUP Số 16 ngõ 183 Đặng Tiến Đông, quận Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam ĐT: (84-4) 5.377.052 Email: [email protected]

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HÃY CẢNH GIÁC

VỚI BỆNH UNG THƯ

Tiến sỹ Y khoa Nguyễn Thanh Đạm

Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu

Vật lý trị liệu Bộ Y tế

Tổng thư ký Hội phòng chống Ung thư Việt

Nam

Bệnh viện K, 43 Quán Sứ, Hà Nội, Việt Nam

Fax: (84-4) 7.181.636

ĐT: (84-4) 9.346.49643

DĐ: 0913.228.665

Công ty Cổ phần Tập đoàn Liên kết

Việt Nam

Phòng tư vấn VINA-LINK GROUP

Số 16 ngõ 183 Đặng Tiến Đông, quận Đống Đa,

Hà Nội, Việt Nam

ĐT: (84-4) 5.377.052

Email: [email protected]

Page 2: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

2 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Email: [email protected]

Page 3: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay
Page 4: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

4 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ

TS. NGUYỄN THANH ĐẠM

HÃY CẢNH GIÁC

VỚI BỆNH UNG THƯ

(HỎI VÀ ĐÁP VỀ UNG THƯ)

Page 5: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC

Page 6: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

Cuốn sách được thực hiện bởi Công ty Sách Alpha

Page 7: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

Số 164B, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

Tel: (04) 722 6237 |35 |36 - Fax: (04) 722 6237

E-mail: [email protected]

http://www.alphabooks.vn

LỜI GIỚI THIỆU

ng thư là vấn đề sức khỏe được quan tâm ở nhiều

nước trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế

giới, hàng năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người mắc

bệnh ung thư và 5 triệu người chết do ung thư. Ở Việt Nam

theo ước tính mỗi năm có khoảng 100.000 đến 150.000 bệnh

nhân ung thư mới mắc và 70.000 người chết vì ung thư. Con

số này có xu hướng ngày càng gia tăng.

Các nhà khoa học đã khẳng định một phần ba số bệnh

ung thư có thể phòng ngừa, một phần ba có thể chữa khỏi

nếu được chẩn đoán sớm và cùng với điều trị chăm sóc hỗ

trợ sẽ làm tăng chất lượng sống cho một phần ba số bệnh

nhân ung thư còn lại. Vì vậy vấn đề phòng bệnh, phát hiện

U

Page 8: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

8 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ

sớm bệnh ung thư ngày càng là vấn đề cấp bách, rất cần

thiết đối với mọi người dân.

Cuốn sách Hãy cảnh giác với bệnh ung thư do Công ty Cổ

phần sách Alpha xuất bản đáp ứng nhu cầu phòng bệnh và

phát hiện sớm bệnh ung thư của người dân trong cộng

đồng. Tác giả cuốn sách đã diễn đạt dưới hình thức rất đơn

giản Hỏi và Đáp về bệnh ung thư để mọi người dễ dàng liên

hệ với bản thân mình khi đọc; phù hợp cho việc hướng dẫn,

thông tin và tuyên truyền, giúp hiểu rõ hơn về căn bệnh ung

thư.

Xin trân trọng giới thiệu với các độc giả.

Chủ tịch Viện Khoa học và

Công nghệ Việt Nam

Chủ nhiệm UB KHCN&MT của Quốc hội

G S . V S . Đ Ặ N G V Ũ M I N H

Page 9: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

MỤC LỤC

Lời tựa ............................................................................................. 13

Hỏi và đáp về ung thư gan ..................................................... 17

Hỏi và đáp về ung thư dạ dày ................................................ 31

Hỏi và đáp về ung thư vú ....................................................... 38

Hỏi và đáp về ung thư thận .................................................... 81

Hỏi và đáp về bệnh Hodgkin ................................................. 91

Hỏi và đáp về ung thư tuyến tiền liệt ...................................105

Hỏi và đáp về ung thư não ....................................................117

Hỏi và đáp về ung thư thực quản .........................................134

Hỏi và đáp về ung thư âm đạo ..............................................142

Hỏi và đáp về ung thư tử cung .............................................154

Hỏi và đáp về ung thư tế bào máu........................................166

Hỏi và đáp về sác-côm cơ vân trẻ em ...................................179

Page 10: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

10 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Hỏi và đáp về ung thư da ......................................................204

Hỏi và đáp về u vỏ tuyến thượng thận ................................211

Hỏi và đáp về ung thư dương vật .........................................225

Hỏi và đáp về ung thư tuyến tụy ..........................................239

Page 11: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

Kính tặng Mẹ,

Người đã hy sinh cả cuộc đời cho chúng tôi

Page 12: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

12 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Page 13: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

LỜI TỰA

hi chứng kiến nỗi đau của gia đình bệnh nhân ung thư

mất đi những người thân yêu nhất của mình vì căn

bệnh hiểm nghèo này, tôi lại trăn trở một vấn đề chiến lược

của ngành ung thư: Cần phải tiêu diệt ung thư ngay khi còn

trứng nước. Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay tại bệnh

viện K Hà Nội, nơi tôi làm việc, hầu hết các bệnh nhân đến

bệnh viện đã vào giai đoạn muộn, các nỗ lực của ngành y

lúc này chỉ có thể kéo dài cuộc sống từ vài tháng đến vài

năm.

Nhiều người con hiếu thảo, nhiều người vợ hiền chung

thủy nói với chúng tôi rằng dù có phải bán đi mọi tài sản của

mình họ vẫn sẵn sàng, chỉ mong sao cứu được người thân của

mình. Chúng tôi đã gặp vô vàn cảnh ngộ rất cảm động, và

thực sự chúng tôi cũng dốc hết tâm lực của mình để cùng

bệnh nhân và gia đình họ chiến đấu chống lại bệnh tật, nhưng

lực bất tòng tâm, khi mà căn bệnh đã đến giai đoạn di căn.

Tại sao chúng ta cứ để mãi xảy ra tình trạng bệnh nhân

ung thư đến muộn? Tại sao chúng ta cứ để mất đi không

biết bao nhiêu của cải, sức lực để rồi vẫn phải chịu thất vọng

và thêm mất mát?

K

Page 14: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

14 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Đã đến lúc chúng ta phải quyết tâm thay đổi mạnh mẽ,

phải làm sao cho người dân trong cộng đồng luôn cảnh giác

với căn bệnh ung thư để phát hiện được bệnh sớm. Không ai

có thể nhận ra được những thay đổi của bạn tốt hơn bạn, và

cũng không ai có thể thay bạn đến gặp các chuyên gia y tế

để hỏi về những vấn đề của chính bạn. Hãy cảnh giác với

bệnh ung thư, và nếu phát hiện bệnh sớm thì có thể chữa

khỏi bệnh hoàn toàn như nhiều căn bệnh thông thường

khác. Đó chính là thông điệp của cuốn sách này.

Việc phát hiện sớm các dấu hiệu ung thư là vấn đề rất

phức tạp, nó vẫn lúc ẩn lúc hiện tùy theo sức khỏe của mỗi

người, nó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với bệnh

ung thư. Chúng ta đang thiếu vắng những tài liệu khoa học

phổ thông đơn giản có thể phổ biến cho hàng triệu người

dân, những cuốn sách có tác động xã hội to lớn vừa trực tiếp

tới từng người dân vừa có tính chất lâu dài. Nhưng làm sao

cuốn sách đến được với các bạn đọc là vô cùng khó khăn vì

sách mang tải các nội dung khoa học thường không hấp dẫn

người đọc. Tác giả cuốn sách đã cố gắng chuyển tải thông

tin dưới dạng những câu hỏi đáp rất đơn giản, dễ hiểu với

mong muốn giúp mọi người tìm lời giải đáp về căn bệnh

ung thư.

Việc phòng bệnh ung thư phải là một chiến lược lớn của

ngành ung thư phối hợp với các bộ ban ngành để đảm bảo

những vấn đề lớn hơn như giữ cho môi trường trong sạch, an

toàn thực phẩm, xây dựng lối sống lành mạnh, tập luyện đều

đặn để nâng cao sức khỏe. Một hướng mới mà trên thế giới

đã thành công là đưa thực phẩm chức năng vào phòng bệnh

Page 15: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

LỜI TỰA 15

ung thư, tim mạch, bệnh mạn tính. Việt Nam có trên 3.800 cây

làm thuốc trên tổng số hơn 10.600 loài thực vật, vì vậy nước ta

được coi là nơi có nguồn dược liệu phong phú và đa dạng,

chắc chắn sẽ có các sản phẩm chức năng của riêng mình.

Công ty cổ phần tập đoàn liên kết Việt Nam (VINA-LINK

GROUP) đã thành công bước đầu trong việc đưa ra các sản

phẩm thực phẩm chức năng đảm bảo an toàn, là sự kết hợp

hoàn hảo giữa tinh hoa của y học Việt Nam và sức mạnh của

công nghệ hiện đại thế giới, làm tăng cường kích thích hệ

miễn dịch bẩm sinh, nâng cao sức đề kháng của cơ thể để

phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh suy giảm miễn dịch

cũng như sẽ đóng góp vào việc phòng bệnh ung thư.

Hãy cảnh giác với bệnh ung thư là lời tâm huyết mà tác

giả cuốn sách muốn gửi gắm tới bạn đọc với kinh nghiệm

của hơn 40 năm làm việc trong ngành Y.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Công ty Cổ phần sách Alpha đã

tạo điều kiện cho cuốn sách đến được với đông đảo bạn đọc,

để góp một phần nhỏ vào cuộc chiến chống lại căn bệnh

hiểm nghèo của thế kỷ.

Hy vọng rằng cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn đọc những

thông tin bổ ích, để làm tăng thêm cơ hội phát hiện sớm bệnh

ung thư. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn

đọc.

T¸c gi¶

Page 16: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

16 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

T S . N G U Y Ễ N T H A N H Đ Ạ M

Page 17: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Gan

1. Ung thư gan là gì?

Ung thư gan là loại khối u ác tính hình thành từ các tế bào

gan phân chia bừa bãi. Loại này có tỷ lệ mắc bệnh đang tăng

dần, chủ yếu là do liên quan tới viêm gan C. Ở một số vùng

trên thế giới ung thư tế bào gan là loại ung thư phổ biến. Tại

Việt Nam, ung thư gan đứng hàng thứ ba trong các loại ung

thư phổ biến nhất. Ung thư tế bào gan có thể chữa trị bằng

phẫu thuật, nhưng chỉ được lựa chọn cho một số ít bệnh nhân

ung thư gan có khối u khu trú. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào

mức độ choán chỗ của khối u và mức độ suy yếu chức năng

gan.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư gan là gì?

Xơ gan: Có tới 50-80% bệnh nhân ung thư gan có liên

quan đến gan xơ; 5% bệnh nhân xơ gan sau này sẽ phát triển

thành ung thư tế bào gan và thường là nhiều ổ.

Page 18: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

18 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Viêm gan virút: Viêm gan virút B và C là nguyên nhân

đáng kể nhất gây ung thư tế bào gan trên toàn thế giới, đặc

biệt là ở những bệnh nhân có kháng nguyên tồn tại trong

máu kéo dài liên tục và ở những bệnh nhân viêm gan mạn

tính hoạt động. Một loạt các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân

nam trên 50 tuổi nhiễm cả virút viêm gan B và viêm gan C

có nguy cơ mắc ung thư tế bào gan đặc biệt cao (cao gấp ba

lần so với nhóm đối chứng). Có bằng chứng cho thấy bệnh

nhân nhiễm virút viêm gan B, C và uống trên 80g rượu mỗi

ngày có nguy cơ bị ung thư gan tăng cao hơn (tỷ số chênh là

7,3) so với bệnh nhân không uống rượu. Bên cạnh đó, có

người thân ở thế hệ liền kề bị viêm gan B và ung thư tế bào

gan cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho các thành viên

trong gia đình đang mang virút viêm gan B (tỷ số chênh là

2,41).

Chất độc: Chất Alfatoxin cũng được coi là một trong

những yếu tố nguyên nhân của ung thư gan nguyên phát ở

một số vùng trên thế giới, là những nơi có nồng độ

mycotoxin trong thức ăn cao. Công nhân tiếp xúc với vinyl

clorua trước khi bụi vinyl clorua được xử lý dễ bị ung thư

loại sarcoma trong gan, phổ biến nhất là sarcoma mạch. Còn

phát hiện ra các dạng sarcoma khác có nguồn gốc mạch máu

và cơ trơn.

3. Ung thư gan được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư gan là gì?

Triệu chứng ban đầu của ung thư gan rất khó phát hiện.

Khi các triệu chứng xuất hiện như:

Page 19: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 19

Mất cảm giác ăn ngon miệng

Ăn uống khó tiêu

Người yếu và mệt mỏi khó chịu

Cảm giác nằng nặng ở dưới bờ sườn phải

Vàng da tăng dần

Các triệu chứng thường không rõ ràng, quá mơ hồ nên dễ

bị bỏ qua. Tới khi bụng bị trướng to, sờ thấy khối u ở vùng

thượng vị, vàng da rõ ràng, không ăn được thì bệnh đã ở

giai đoạn muộn.

Chất chỉ điểm sinh học AFP rất hữu ích cho việc chẩn

đoán khối u tân tạo này. Nhờ kỹ thuật miễn dịch phóng xạ,

50 - 70% bệnh nhân ung thư tế bào gan ở Mỹ được phát hiện

có nồng độ AFP cao. Vì vậy, hiện nay các bác sĩ coi tăng

nồng độ AFP là dấu hiệu chỉ điểm ung thư tế bào gan. Tuy

nhiên, bệnh nhân mắc các loại bệnh ác tính khác (carcinom

tế bào mầm và hiếm gặp là carcinom tuyến tuỵ và dạ dày)

cũng có nồng độ AFP huyết thanh cao, khi đó sẽ phải làm

thêm các xét nghiệm khác để phân biệt. Nồng độ AFP có vai

trò quan trọng và được dùng làm dấu hiệu chỉ điểm sớm vì

tiên lượng của bệnh và khoảng thời gian sống thêm của các

bệnh nhân có AFP âm tính lâu hơn rõ rệt so với bệnh nhân

có AFP dương tính. Các yếu tố khác bao gồm tình trạng hoạt

động, chức năng gan, có hay không có xơ gan kèm theo

cùng với mức độ trầm trọng của nó theo phân loại của

Child-Pugh cũng ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh.

Bệnh nhân có kế hoạch phẫu thuật cần được đánh giá

trước khi phẫu thuật bằng chụp mạch kết hợp với chụp cắt

Page 20: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

20 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

lớp vi tính xoắn ốc hay chụp cộng hưởng từ hạt nhân và

chụp mạch cộng hưởng từ; những phương pháp thăm dò

hình ảnh có thể thay thế cho việc chụp mạch ở hầu hết các

bệnh nhân. Thông tin về giải phẫu động mạch rất hữu ích

cho bác sĩ phẫu thuật quyết định có được phép phẫu thuật

hay không. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp

vi tính động học có thể chỉ ra mối liên hệ của khối u gan

với tĩnh mạch gan và tĩnh mạch cửa (và đôi khi có thể thấy

tình trạng khối u xâm lấn vào các mạch máu này) cho phép

nhìn thấy các khối u mà khả năng phẫu thuật là rất khó

khăn. Soi ổ bụng có thể phát hiện ra ung thư di căn, ung

thư hai tiểu thuỳ, thực trạng gan để quyết định không còn

khả năng phẫu thuật nữa.

Phân loại tế bào

U ác tính ở gan chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến nguyên

phát, với hai loại tế bào chính: ung thư tế bào gan và ung

thư tế bào đường mật.

Theo loại tế bào phát triển thành khối u xác định bằng xét

nghiệm mô học, người ta phân loại thành: Ung thư tế bào

gan, ung thư tế bào gan dạng sợi, ung thư tế bào đường mật,

ung thư hỗn hợp tế bào gan và tế bào đường mật, ung thư

không biệt hóa, khối u blastoma gan hiếm gặp ở người lớn.

Trong các loại thì ung thư tế bào gan dạng sợi có thể chữa

khỏi được nếu khối u được cắt bỏ. Loại này thường xảy ra ở

những phụ nữ trẻ và có tiến triển lâm sàng chậm hơn loại

ung thư tế bào gan thường gặp.

Page 21: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 21

4. Ung thư gan được chẩn đoán phân giai đoạn như

thế nào?

Uỷ ban Liên kết về Ung thư của Mỹ (AJCC) đã quy định

các giai đoạn TNM cho ung thư gan như sau:

Giai đoạn theo TNM là cách xác định khối u căn cứ vào

ba tiêu chuẩn chính: T là chữ viết tắt của Tumor có nghĩa là

kích thước của khối u; N là chữ viết tắt của Node có nghĩa là

có hạch lymphô hay chưa; M là chữ viết tắt của Metastasis,

có nghĩa là mức độ di căn xa từ khối u nguyên phát.

• Khối u nguyên phát (T)

TX: Khối u nguyên phát không thể xác định được.

T0: Không có bằng chứng của khối u nguyên phát.

T1: Khối u đơn độc với đường kính lớn nhất từ 2cm trở

xuống và không có xâm lấn vào mạch máu.

T2: Khối u đơn độc với đường kính lớn nhất từ 2cm trở

xuống và đã xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u

nhưng chỉ khu trú ở một thuỳ, không có khối u nào có

đường kính lớn nhất trên 2cm và không xâm lấn vào mạch

máu; hay một khối u đơn độc với đường kính lớn nhất trên

2cm và không xâm lấn vào mạch máu.

T3: Khối u đơn độc có đường kính lớn nhất trên 2cm và đã

xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u nhưng chỉ khu trú ở

một thuỳ, không có khối u nào có đường kính lớn nhất trên 2

cm, đã xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u nhưng chỉ

Page 22: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

22 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

khu trú ở một thuỳ, các khối u có đường kính lớn nhất trên 2

cm, đã xâm lấn hoặc chưa xâm lấn vào mạch máu.

T4: Nhiều khối u ở nhiều thuỳ hay các khối u xâm lấn vào

nhánh chính của tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch gan hoặc

xâm lấn vào các cơ quan lân cận loại trừ túi mật hay làm

thủng phúc mạc tạng.

• Các hạch vùng (N)

NX: Hạch vùng không thể đánh giá được.

N0: Không có di căn vào hạch vùng.

N1: Có di căn vào hạch vùng.

Các hạch vùng là hạch rốn gan (có nghĩa là các hạch ở

dây chằng gan-tá tràng, quanh tĩnh mạch gan và tĩnh mạch

cửa). Các hạch vùng còn bao gồm cả những hạch nằm dọc

theo tĩnh mạch chủ dưới, động mạch gan và tĩnh mạch cửa.

Sự xâm lấn vào bất kỳ hạch bạch huyết nào ngoài những

hạch này được gọi là di căn xa và được phân loại là M1. Sự

xâm lấn vào các hạch dưới cơ hoành cũng được xếp vào M1.

• Di căn xa (M)

MX: Di căn xa không thể đánh giá được.

M0: Không có di căn xa.

M1: Có di căn xa.

Di căn thường hay xuất hiện nhất là ở xương và phổi.

Khối u có thể lan qua bao gan tới cơ hoành.

Phân nhóm giai đoạn theo AJCC

Page 23: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 23

Giai đoạn I

T1, N0, M0

Giai đoạn II

T2, N0, M0

Giai đoạn IIIA

T3, N0, M0

Giai đoạn IIIB

T1, N1, M0

T2, N1, M0

T3, N1, M0

Giai đoạn IVA

T4, N bất kỳ, M0

Giai đoạn IVB

T bất kỳ, N bất kỳ, M1

Theo khả năng điều trị, bệnh nhân ung thư gan được chia

thành ba nhóm: có thể cắt bỏ khối u khu trú, không thể cắt

bỏ khối u khu trú và giai đoạn muộn. Các giai đoạn này

được miêu tả cùng với hệ thống phân loại TNM tương ứng:

Giai đoạn khu trú có thể cắt bỏ

(T1, T2, T3 và một số T4; N0; M0)

Là khối u đơn độc nằm trong một phần của gan và có thể

cho phép phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u với một phần mô

gan lành xung quanh. Xét nghiệm chức năng gan thường

Page 24: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

24 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

cho kết quả bình thường hoặc ở mức độ bất thường tối thiểu

và không có bằng chứng của xơ gan hoặc viêm gan mạn

tính. Chỉ có một số ít bệnh nhân ung thư gan còn ở giai đoạn

này. Các thăm dò trước phẫu thuật bao gồm chụp cắt lớp vi

tính hoặc chụp cộng hưởng từ hạt nhân nhằm mục đích xác

định mức độ lan tỏa của khối u qua mặt phân cách các thuỳ,

sự xâm lấn vào rốn gan hay vào tĩnh mạch chủ. Phần gan

được cắt phải có mép cắt vào mô lành từ 1 - 2cm. Bệnh nhân

viêm gan mạn tính và xơ gan có nguy cơ rủi ro cao khi tiến

hành phẫu thuật.

Giai đoạn khu trú không thể cắt bỏ

(Một số T2, T3 và T4; N0; M0)

Loại ung thư này giới hạn trong gan, nhưng không thể

tiến hành phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u bởi vị trí của khối

u trong gan hoặc vì các tình trạng bệnh đi kèm (chẳng hạn

như xơ gan). Bệnh nhân ung thư tế bào gan dạng sợi khu trú

không thể cắt bỏ có thể xem xét để ghép gan. Đối với các

bệnh nhân khác, có thể lựa chọn điều trị bằng nút mạch

bằng hóa chất.

Giai đoạn muộn

(T bất kỳ, N1 hoặc M1)

Ung thư gan giai đoạn muộn là khi ung thư đã xuất hiện

ở hai thuỳ gan hoặc đã di căn tới các vị trí xa. Thời gian sống

thêm trung bình thường là hai đến bốn tháng. Vị trí di căn

thường gặp nhất của ung thư tế bào gan là phổi và xương.

Ung thư gan thường có nhiều ổ, đặc biệt là khi bệnh nhân đã

bị xơ gan hoặc viêm gan mạn tính.

Page 25: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 25

5. Ung thư gan được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Ung thư gan có thể phẫu thuật

• Các lựa chọn điều trị chuẩn:

Phẫu thuật: Phẫu thuật cắt khối ung thư gan khu trú có

thể là cắt một phần thuỳ đến ba phần thuỳ (80%). Trong một

loạt bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận, phẫu thuật cắt gan

bán phần mang lại thời gian sống thêm dài năm năm cho 10

- 30% bệnh nhân. Ung thư tế bào gan thường có nhiều ổ và

có thể đã ảnh hưởng tới nhiều vị trí trong toàn bộ gan tại

thời điểm thăm khám, thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy

khối u lớn nhất khi thăm dò trước phẫu thuật. Trước phẫu

thuật cần làm các thăm dò để tìm di căn ngoài gan, vì tình

trạng này sẽ cản trở tiến hành phẫu thuật cắt gan theo kế

hoạch. Phẫu thuật cắt hơn một góc gan ở những bệnh nhân

xơ gan hoặc viêm gan hoạt động mạn tính là khó vì khả

năng làm việc của gan phần còn lại là kém (tỷ lệ tử vong

cao). Thường đó là các chống chỉ định của phẫu thuật cắt

phần lớn gan nhưng có thể không chống chỉ định cho ghép

gan. Ghép gan cho những bệnh nhân ung thư tế bào nội mạc

mạch gan, ung thư tế bào biểu mô dạng sợi và các khối ung

thư tế bào gan nhỏ (<5cm) kèm theo hoặc không kèm theo

xơ gan mang lại thời gian sống thêm năm năm cho 20-30%

trường hợp.

• Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá trên lâm sàng:

Bởi có nhiều bệnh nhân ung thư gan khu trú bị tái phát

bệnh sau phẫu thuật cắt gan, cần sử dụng các biện pháp

điều trị bổ trợ như phương pháp truyền hóa chất vào động

Page 26: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

26 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

mạch gan trong vùng khối u hay toàn thân. Một thử nghiệm

ngẫu nhiên tiến hành trên 43 bệnh nhân cho thấy thời gian

sống thêm được kéo dài khi tiêm bổ trợ sau phẫu thuật một

liều đơn độc (1850 MBq) lipiodol I-131 qua động mạch gan.

Thời gian sống thêm trung bình của nhóm bệnh nhân được

điều trị bổ trợ là 57 tháng so với 13,6 tháng ở nhóm bệnh

nhân chỉ được phẫu thuật cắt gan. Lipiodol không độc,

nhưng cần phải điều trị ức chế tuyến giáp trước và sau phẫu

thuật. Thử nghiệm lâm sàng được kết thúc trước dự định vì

sự khác biệt về thời gian sống thêm giữa nhóm điều trị và

nhóm chứng xuất hiện sớm. Vì vậy, những kết quả này chỉ

được coi là sơ bộ và cần phải được kiểm chứng. Trong một

nghiên cứu áp dụng liệu pháp miễn dịch dùng interleukin-2

và các tế bào lymphô tự thân hoạt hóa kháng CD3 cho thấy

là chỉ kéo dài thời gian bệnh ổn định, chứ không kéo dài thời

gian sống sót nói chung. Ung thư gan tái phát nhưng khu

trú đôi khi có thể điều trị thành công bằng tái phẫu thuật.

Ung thư gan nguyên phát người lớn giai đoạn khu trú

nhưng không thể cắt bỏ

Bệnh nhân có khối u khu trú T2, T3 và T4; N0; M0 nhưng

không thể cắt bỏ do vị trí của khối u ở trong gan và các tình

trạng bệnh đi kèm (như xơ gan) hoặc thậm chí là u hai bên

thuỳ giới hạn có thể được điều trị theo phương pháp nút

động mạch bằng hóa chất (làm giảm khối u), phá huỷ u

bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phương pháp phá

huỷ khối u bằng nhiệt khi khối u có đường kính nhỏ hơn

5cm. Thời gian sống thêm tương đương với khi điều trị bằng

phương pháp phẫu thuật cắt gan.

Page 27: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 27

Thử nghiệm lâm sàng sử dụng hóa trị liệu toàn thân, hóa

trị liệu vùng hoặc kháng thể gắn đồng vị phóng xạ có thể

làm bệnh ổn định khi khối u gan không thể cắt bỏ. Các

phương pháp điều trị khác bao gồm nút động mạch gan

bằng bột gel xốp hoặc là các phần cơ và hóa chất, thường là

adriamycin. Những phương pháp này thường gây hoại tử ở

trung tâm khối u, làm giảm kích thước khối u và giảm đau,

nhưng tác dụng của nó thường chỉ kéo dài một thời gian

ngắn. Bất kỳ sự can thiệp nào vào hệ thống tưới máu động

mạch (bao gồm cả hóa trị liệu truyền) có thể làm cho bệnh

nặng hơn và bị chống chỉ định khi có tăng áp lực tĩnh mạch

cửa, huyết khối tĩnh mạch cửa hoặc vàng da trên lâm sàng.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên kết thúc sớm cho thấy phương

pháp nút động mạch bằng hóa chất không kéo dài thêm

được thời gian sống so với điều trị bảo tồn.

Các lựa chọn điều trị gồm:

Nút động mạch bằng hóa chất, phá huỷ u bằng đông

lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phá huỷ u bằng nhiệt

đối với khối u nhỏ (có đường kính từ 5cm trở xuống),

khu trú nhưng không thể cắt bỏ.

Đối với một số bệnh nhân ung thư gan khu trú không

thể cắt bỏ, đặc biệt là ung thư tế bào gan dạng sợi, ghép

gan có thể là lựa chọn điều trị hữu hiệu.

Hóa trị liệu (truyền vào vùng khối u gan): hóa chất có

thể truyền bằng một bơm đặt dưới da vào tĩnh mạch

cửa qua một ống catheter đặt vào động mạch gan. Các

nghiên cứu trước đây sử dụng các hóa chất chuẩn đã

Page 28: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

28 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

cho thấy tỷ lệ đáp ứng đạt được ở 15%-30% các trường

hợp như vậy, nhưng các hóa chất và kĩ thuật mới hơn

(vi hạt giáng hóa sinh học) đã được đánh giá trong các

thử nghiệm lâm sàng đi đầu, cũng như hóa trị liệu

vùng kết hợp với chiếu xạ ngoài. Nhiều bệnh nhân

không được điều trị bằng những phương pháp này vì

những phương pháp này thường đòi hỏi phẫu thuật

can thiệp.

Hóa trị liệu toàn thân: Thời gian bệnh ổn định kéo dài là

hiếm gặp và thời gian sống thêm không tăng lên đáng kể.

Phẫu thuật, hóa trị liệu và tia xạ trị liệu: Các phương

pháp này có thể được phối hợp trong các thử nghiệm

lâm sàng đối với những bệnh nhân có một khối u gan

chính với nhiều ổ nhưng số lượng khối u ít; phẫu thuật

cắt gan hay phẫu thuật cắt lạnh khối u chính có thể tiến

hành trước khi truyền hóa chất vào phần gan còn lại

đơn độc hoặc kết hợp với phương pháp thấu nhiệt, tia

phóng xạ hoặc tia xạ và chất mẫn cảm phóng xạ. Hóa

trị liệu kết hợp với tia phóng xạ cũng được sử dụng để

làm co nhỏ khối u trước khi phẫu thuật.

Tiêm alcohol vào trong khối u.

Các phương pháp khác bao gồm sử dụng chất mẫn

cảm phóng xạ và chiếu xạ ngoài mà không dùng hóa

chất. Tính nhạy cảm phóng xạ của mô gan lành so sánh

với mô u phải luôn được theo dõi khi sử dụng tia xạ trị

liệu.

Phá huỷ khối u bằng nhiệt.

Page 29: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ GAN 29

Ung thư gan nguyên phát người lớn giai đoạn muộn

Không có phương pháp điều trị chuẩn nào cho bệnh nhân

ung thư gan di căn giai đoạn muộn (T bất kỳ, N1 hoặc M1).

Những bệnh nhân như vậy nên xem xét việc tham gia vào

thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác dụng của các loại thuốc

điều trị ung thư hoặc sinh học mới (các nghiên cứu giai đoạn

I và II) hoặc kết hợp các loại thuốc hiện đang lưu hành, các

chất mẫn cảm phóng xạ và tia xạ trị liệu. Trong những

nghiên cứu này đôi khi thấy có kết quả làm bệnh ổn định.

Điều trị bằng chiếu xạ ngoài và hóa trị liệu kèm theo

kháng thể anti-ferritin đa clon đánh dấu phóng xạ sau đó tạo

ra đáp ứng khách quan ở khoảng 50% bệnh nhân, nhưng nó

là phương pháp điều trị tại chỗ và không thể điều trị bệnh

toàn thân.

Ung thư gan nguyên phát người lớn tái phát

Tiên lượng đối với tất cả bệnh nhân ung thư gan nguyên

phát đã được điều trị nhưng bệnh vẫn tiến triển hay tái phát

là không tốt. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị tiếp

theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm việc điều trị trước

đó, vị trí tái phát, sự có mặt của bệnh xơ gan và chức năng

gan cũng như suy nghĩ của từng cá nhân. Nên phẫu thuật lại

nếu có thể, nhưng hầu hết bệnh nhân đều tái phát, thường là

ở gan. Nếu không thể phẫu thuật lại được, các lựa chọn điều

trị cho bệnh nhân ung thư gan tái phát có thể bao gồm việc

sử dụng phương pháp thuyên tắc hóa dầu qua động mạch

(TOCE), tiêm ethanol qua da (PEIT), hóa trị liệu hoặc ghép

gan. Tại một viện duy nhất của Hồng Kông, các bác sĩ tiến

Page 30: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

30 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

hành theo dõi 244 bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan để

phát hiện tái phát trong gan. Trong số 244 bệnh nhân, 139

bệnh nhân không bị tái phát trong gan và thời gian sống

thêm một năm, ba năm, năm năm tương ứng là 87%, 79% và

74%. Trong số 105 bệnh nhân ung thư tái phát trong gan, 11

bệnh nhân được điều trị bằng tái phẫu thuật và tỷ lệ sống

thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 81%, 70%

và 69%; 71 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp

TOCE và tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm

tương ứng là 72%, 38%, 20%; 6 bệnh nhân được điều trị bằng

phương pháp PEIT có tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và

năm năm tương ứng là 67%, 22% và 0%; 17 bệnh nhân còn

lại được điều trị hoặc bằng hóa trị liệu toàn thân hoặc điều

trị bảo tồn, không có bệnh nhân nào sống thêm được ba

năm. Các thử nghiệm lâm sàng là hợp lý và nên áp dụng khi

có thể.

Page 31: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Dạ Dày

1. Ung thư dạ dày là gì?

Ung thư dạ dày là khối u ác tính có thể phát triển ở bất cứ

phần nào của dạ dày và có thể lan xuyên qua dạ dày sang

các cơ quan khác. Nó có thể tăng trưởng dọc theo thành dạ

dày vào thực quản hoặc ruột non. Nó cũng có thể lan rộng

xuyên qua thành dạ dày và lan sang các hạch bạch huyết lân

cận và lan sang các cơ quan như gan, tuyến tụy và đại tràng.

Ung thư dạ dày cũng có thể lan tới các cơ quan xa như phổi,

các hạch thượng đòn và buồng trứng. Khi ung thư lan sang

phần khác của cơ thể, khối u mới có cùng loại tế bào bất

thường và có cùng tên với khối u nguyên phát từ dạ dày. Ví

dụ, nếu ung thư dạ dày lan sang gan, các tế bào ung thư ở

gan là các tế bào giống tế bào của khối ung thư dạ dày. Đó là

ung thư dạ dày di căn chứ không phải là ung thư tế bào gan.

Tuy nhiên, khi ung thư dạ dày lan sang buồng trứng, khối u

ở buồng trứng được gọi là u Krukenberg, khối u này được

đặt theo tên một bác sĩ, không phải là một bệnh khác; nó là

ung thư dạ dày di căn đến. Các tế bào ung thư ở khối u

Page 32: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

32 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Krukenberg là các tế bào ung thư dạ dày, cùng loại với các tế

bào ở khối u nguyên phát.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày là gì?

Các nhà nghiên cứu cũng đã biết rằng một số người dễ

dàng bị ung thư hơn so với người khác. Căn bệnh này thường

gặp nhất ở những người trên 55 tuổi, nam giới mắc bệnh

nhiều gấp hai lần so với nữ giới và thường gặp ở người da

đen hơn người da trắng. Ngoài ra, ung thư dạ dày cũng

thường gặp hơn ở một số vùng trên thế giới như Nhật Bản,

Hàn Quốc, một phần Đông Âu và châu Mỹ La Tinh so với ở

Mỹ. Người dân ở những vùng này ăn nhiều thực phẩm được

phơi khô, xông khói, ướp muối hoặc ngâm chua. Các nhà

khoa học tin rằng việc ăn các thực phẩm được chế biến theo

những cách này có thể đóng một vai trò trong phát triển ung

thư dạ dày. Ngược lại, các thực phẩm tươi (đặc biệt là rau và

trái cây tươi hay các thực phẩm tươi được ướp lạnh hoặc làm

đông lạnh đúng quy cách) có thể bảo vệ chống lại căn bệnh

này.

Những vết loét dạ dày có vẻ không làm gia tăng nguy cơ

mắc ung thư dạ dày. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra

rằng vi khuẩn Helicobacter pylori, có thể gây viêm và loét dạ

dày và là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư dạ

dày. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy những người đã

phẫu thuật dạ dày hoặc có bệnh thiếu máu ác tính, thiếu

toan dịch vị hoặc teo dạ dày (thường dẫn tới giảm lượng

dịch vị) thì có nguy cơ ung thư dạ dày tăng lên.

Page 33: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DẠ DÀY 33

Sự tiếp xúc với bụi và khói ở nơi làm việc có liên quan

đến nguy cơ ung thư dạ dày cao hơn mức trung bình. Ngoài

ra, một số nhà khoa học cho rằng hút thuốc lá cũng gây tăng

nguy cơ ung thư dạ dày.

3. Ung thư dạ dày được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư dạ dày là gì?

Ung thư dạ dày có thể khó phát hiện được sớm. Thường

thì không có triệu chứng gì ở các giai đoạn sớm và trong

nhiều trường hợp, ung thư đã lan tỏa trước khi nó được

phát hiện. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng thường quá

mơ hồ đến nỗi mà người ta có thể bỏ qua. Ung thư dạ dày có

thể gây ra một số triệu chứng sau:

- Khó tiêu hoặc ợ chua

- Khó chịu hoặc đau ở bụng

- Buồn nôn và nôn

- Ỉa chảy hoặc táo bón

- Trướng hơi dạ dày sau các bữa ăn

- Mất cảm giác ngon miệng

- Yếu và mệt mỏi

- Chảy máu (nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu)

Bất kỳ triệu chứng nào kể trên có thể do ung thư hoặc

một bệnh khác ít nguy hiểm đến tính mạng hơn gây ra,

chẳng hạn như viêm dạ dày do vi rút hoặc loét. Bác sĩ khám

và xét nghiệm có thể tìm được nguyên nhân. Những ai có

Page 34: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

34 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

các triệu chứng trên nên đến gặp bác sĩ của mình. Họ cũng

có thể đến khám một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa là chuyên

gia về chẩn đoán và điều trị các vấn đề về tiêu hóa.

Nhiều bệnh ở đường tiêu hóa có thể gây chảy máu, vì

thế, có máu trong phân không nhất thiết có nghĩa là bị

bệnh ung thư .

Chụp X quang đường tiêu hóa cao (dạ dày-thực quản). Bệnh

nhân được cho uống dung dịch barium, một chất lỏng đặc

giống phấn. Barium cản tia Rơngen nên phác thảo ra hình dạ

dày trên phim X quang, giúp bác sĩ tìm ra các khối u hoặc

các vùng bất thường khác. Khi cho chụp phim bác sĩ có thể

bơm khí vào dạ dày để giúp nhìn thấy rõ các khối u nhỏ rõ

hơn.

4. Ung thư dạ dày được chẩn đoán như thế nào?

Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng bác sĩ cần hỏi

kỹ tiền sử, bệnh sử của người bệnh, tiến hành kiểm tra sức

khỏe và có thể yêu cầu một số xét nghiệm. Một bệnh nhân

có thể cần làm một hoặc tất cả các thăm dò sau đây:

Xét nghiệm máu trong phân để kiểm tra xem có máu ẩn trong

phân hay không. Xét nghiệm này được tiến hành bằng cách

đặt một lượng phân nhỏ lên một miếng chất dẻo hoặc trên

giấy đặc biệt. Cần làm xét nghiệm này vì ung thư dạ dày

đôi khi gây chảy máu nhưng không nhìn thấy được bằng

mắt thường.

Page 35: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DẠ DÀY 35

Nội soi dạ dày là một phương pháp thăm dò giúp thầy

thuốc nhìn được thành bên trong của thực quản và dạ dày

bằng một ống nhỏ có nguồn sáng được gọi là ống nội soi,

luồn qua miệng và thực quản xuống dạ dày. Họng của bệnh

nhân được xịt thuốc tê để giảm sự khó chịu và nghẹt thở.

Các bệnh nhân cũng có thể uống thuốc để giảm các hiện

tượng trên. Nhờ nội soi dạ dày, bác sĩ có thể nhìn trực tiếp

vào bên trong dạ dày. Nếu có một vùng bất thường được

phát hiện, bác sĩ có thể lấy ra một ít mô thông qua ống nội

soi để làm xét nghiệm tế bào. Một bác sĩ khác chuyên khoa

bệnh học sẽ xem xét mô đó dưới kính hiển vi để tìm các tế

bào ung thư. Thủ thuật lấy mô và kiểm tra nó dưới kính

hiển vi được gọi là sinh thiết. Sinh thiết là cách đảm bảo duy

nhất để biết liệu có các tế bào ung thư hay không.

5. Ung thư dạ dày được điều trị như thế nào?

Phẫu thuật là cách điều trị ung thư dạ dày phổ biến nhất.

Phẫu thuật đó được gọi là cắt dạ dày. Bác sĩ phẫu thuật cắt

một phần hoặc phần lớn dạ dày (cắt dạ dày bán phần) hoặc

toàn bộ dạ dày kèm theo một phần mô xung quanh dạ dày.

Sau khi cắt bán phần dạ dày, bác sĩ nối các phần còn lại của

dạ dày với thực quản hoặc ruột non. Sau khi phẫu thuật cắt

bỏ toàn bộ dạ dày, bác sĩ nối thực quản trực tiếp với ruột

non. Bởi vì ung thư có thể lan tỏa qua hệ thống bạch huyết,

nên các hạch bạch huyết gần khối u thường được vét bỏ khi

phẫu thuật để các chuyên gia bệnh học có thể kiểm tra tìm tế

bào ung thư. Nếu các tế bào ung thư có trong hạch bạch

huyết thì bệnh có thể đã lan sang các phần khác của cơ thể.

Page 36: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

36 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Hóa trị liệu là dùng thuốc để diệt các tế bào ung thư.

Loại điều trị này được gọi là điều trị hệ thống hay toàn thể

bởi thuốc đi vào mạch máu và đi tới khắp cơ thể.

Các thử nghiệm lâm sàng đang tìm cách tốt nhất để sử

dụng hóa trị liệu điều trị ung thư dạ dày. Các nhà khoa học

đang khám phá ra những lợi ích của việc dùng hóa chất

trước khi phẫu thuật để làm khối u nhỏ lại hoặc của việc

dùng hóa chất bổ sung sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung

thư còn sót lại. Điều trị phối hợp bằng hóa chất và tia phóng

xạ cũng đang được nghiên cứu. Các bác sĩ đang tiến hành

thử nghiệm một phương pháp điều trị bằng cách đưa trực

tiếp vào ổ bụng các thuốc chống ung thư (đưa hóa chất vào

trong phúc mạc). Hóa trị liệu cũng đang được nghiên cứu để

điều trị ung thư đã lan tỏa và để làm giảm nhẹ các triệu

chứng của bệnh. Hầu hết các thuốc chống ung thư đều được

dùng theo đường tiêm; một số khác có thể theo đường uống.

Bác sĩ có thể dùng một loại thuốc hoặc phối hợp nhiều loại

thuốc. Hóa trị liệu sử dụng từng đợt: một đợt điều trị, tiếp

theo là một đợt nghỉ để hồi phục, sau đó lại một đợt điều trị

khác v.v… Thường thì bệnh nhân ngoại trú đến nhận điều

trị bằng hóa chất tại bệnh viện, ở phòng khám của bác sĩ

hoặc ở nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử

dụng và tình hình sức khỏe chung của bệnh nhân mà có thể

cần cho bệnh nhân nằm viện một thời gian ngắn.

Điều trị tia xạ (còn được gọi là tia xạ trị liệu) là dùng

các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và

ngăn không cho chúng tăng trưởng. Cũng giống như phẫu

thuật, nó là phương pháp điều trị tại chỗ; tia xạ chỉ tác

Page 37: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DẠ DÀY 37

dụng lên các tế bào ung thư trong vùng được điều trị.

Điều trị tia phóng xạ đôi khi còn được tiến hành sau phẫu

thuật để diệt các tế bào ung thư có thể còn sót lại ở vùng

này. Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm lâm sàng để

tìm ra xem việc điều trị bằng tia phóng xạ trong khi phẫu

thuật có tác dụng hay không (tia xạ trị liệu trong phẫu

thuật). Tia phóng xạ cũng có thể được dùng để làm giảm

đau hoặc phong bế.

Bệnh nhân thường đến bệnh viện hàng ngày để được

chiếu tia. Thông thường việc chiếu tia được tiến hành 5 ngày

một tuần và kéo dài trong 5 đến 6 tuần.

Liệu pháp sinh học (còn được gọi là liệu pháp miễn

dịch) là một hình thức điều trị nhằm hỗ trợ hệ thống miễn

dịch của cơ thể tấn công và huỷ diệt các tế bào ung thư; nó

cũng giúp cơ thể hồi phục khi có một vài tác dụng phụ của

điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ đang

nghiên cứu liệu pháp sinh học phối hợp với các phương

pháp điều trị khác để cố gắng phòng ngừa ung thư dạ dày

tái phát. Một chỉ định khác của liệu pháp sinh học là khi các

bệnh nhân có số lượng tế bào máu thấp trong hoặc sau khi

dùng hóa chất, họ có thể được dùng các yếu tố kích thích

dòng tế bào máu nhằm khôi phục số lượng tế bào. Các bệnh

nhân có thể cần phải nằm viện khi sử dụng một vài loại

thuốc của liệu pháp sinh học.

Page 38: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Vú

1. Ung thư vú là gì?

Ung thư vú là loại ung thư có tỷ lệ mắc đứng hàng đầu ở

phụ nữ Việt Nam. Ở Mỹ hàng năm có khoảng 180.000 phụ

nữ được chẩn đoán ung thư vú. Tuy nhiên, không phải tất

cả phụ nữ đều có cùng nguy cơ bị ung thư vú trong đời. Các

nghiên cứu cho thấy có một số yếu tố gọi là các yếu tố nguy

cơ, làm tăng khả năng phát triển ung thư vú ở nữ giới.

Nhiều yếu tố trong số đó là cố định, nhưng một số yếu tố có

thể thay đổi.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư vú là gì?

Do các số liệu thống kê có thể gây nhầm lẫn, mỗi phụ nữ

phải trao đổi với bác sĩ của mình để xác định nguy cơ ung

thư vú của cá nhân. Có các yếu tố nguy cơ không có nghĩa là

chắc chắn sẽ bị ung thư: nhiều phụ nữ có yếu tố nguy cơ lại

không hề bị ung thư vú. Các yếu tố nguy cơ chỉ giúp phát

hiện những phụ nữ có thể được lợi khi khám sàng lọc.

Page 39: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 39

Cần nhớ rằng ung thư vú cũng có thể xuất hiện ở những

phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ. Do đó, tất cả phụ nữ

phải tuân theo lịch trình khám sàng lọc ung thư vú của bác

sĩ ngay cả khi họ có nguy cơ thấp.

Một số yếu tố làm tăng nguy cơ nhiều hơn so với các yếu

tố khác. Một người cũng có thể có một vài yếu tố nguy cơ.

Vấn đề quan trọng là phải phát hiện ra tất cả các yếu tố nguy

cơ này để bạn và bác sĩ của bạn có thể thảo luận về ảnh

hưởng của chúng đối với từng cá nhân và tìm ra chương

trình khám sàng lọc phù hợp nhất.

Có ba yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú

mạnh nhất:

Tuổi già

Nguy cơ chủ yếu gây ra ung thư vú ở phụ nữ là tuổi già.

Chỉ có 5% các trường hợp ung thư vú xảy ra ở độ tuổi từ 30

trở xuống, 10% xuất hiện ở phụ nữ trong độ tuổi 40 và 85%

xuất hiện ở phụ nữ tuổi từ 50 trở lên. Bác sĩ khuyến cáo tăng

cường khám sàng lọc cho những người phụ nữ khi về già do

nguy cơ bị ung thư tăng.

Tiền sử gia đình rất rõ rệt

Phụ nữ có ít nhất hai người thân mức độ I (mẹ, con gái,

chị/em gái) bị ung thư vú trước mãn kinh có nguy cơ cao

hơn so với phụ nữ không có người thân mức độ I bị ung thư

vú. Nguy cơ này thường liên quan đến sự đột biến của hai

gen, gọi là BRCA1 và BRCA2, xét nghiệm có thể phát hiện ra

các đột biến gen này. Phụ nữ có các đột biến gen BRCA1 có

Page 40: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

40 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

nguy cơ phát triển ung thư vú đặc biệt cao trong đời, nhưng

rất may là chỉ có khoảng 1 trong số 1000 phụ nữ có các đột

biến gen như vậy.

Bị ung thư trước đó

Phụ nữ đã bị ung thư một bên vú có nguy cơ phát triển

ung thư ở bên vú còn lại sẽ tăng.

Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú ở mức độ

vừa.

Các yếu tố có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ phát triển ung

thư vú ở nữ giới.

Bất thường trên phim chụp X quang tuyến vú

Phụ nữ sau mãn kinh có nhiều nhân tăng đậm độ cản

quang trên phim chụp X quang tuyến vú có nguy cơ bị ung

thư vú tăng cao so với những phụ nữ chỉ có mô mỡ trên

phim X quang. Nên hỏi bác sỹ về các kết quả chụp X quang

tuyến vú.

Tiền sử gia đình

Phụ nữ có người thân mức độ I (mẹ, con gái, chị/em gái)

bị ung thư vú có nguy cơ bị bệnh cao hơn so với phụ nữ

không có người thân mức độ I bị ung thư vú.

Bất thường trên tiêu bản sinh thiết

Phụ nữ có tăng sản mô tuyến vú trên tiêu bản sinh thiết

có nguy cơ ung thư vú tăng. Cần hỏi bác sĩ về kết quả sinh

thiết, đặc biệt là nếu các kết quả đó yêu cầu phải khám sàng

lọc thường xuyên hơn.

Page 41: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 41

Phơi nhiễm phóng xạ liều cao vùng ngực

Phụ nữ đã được chiếu xạ vùng ngực, thường là một phần

trong quá trình điều trị ung thư, bị tăng nguy cơ ung thư vú

so với phụ nữ không bị chiếu xạ vùng ngực.

Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư

vú.

Một số yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ phát triển

ung thư vú ở nữ giới. Nhiều yếu tố trong số này làm tăng l-

ượng estrogen trong cơ thể.

Tuổi bắt đầu có kinh và mãn kinh

Trong độ tuổi sinh sản, estrogen kích thích các tế bào

tuyến vú phân chia. Thời gian người phụ nữ phơi nhiễm

với estrogen càng dài thì nguy cơ bị ung thư vú càng lớn.

Thời gian phơi nhiễm với estrogen tăng nếu người phụ nữ

có kinh từ 11 tuổi trở xuống và mãn kinh vào độ tuổi từ 55

trở lên.

Mang thai và cho con bú

Những phụ nữ không bao giờ sinh con có vẻ như có nguy

cơ ung thư vú sau mãn kinh cao hơn so với những người đã

sinh con nhiều lần. Thời điểm có thai lần đầu cũng có thể có

vai trò quan trọng: phụ nữ có thai lần đầu tiên ở tuổi từ 30

trở lên bị tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Liệu pháp hoóc-môn thay thế (HRT)

Khi người phụ nữ già đi, mô tuyến được thay thế dần

bằng mô mỡ. Các sản phẩm hoóc-môn để điều trị bao gồm

Page 42: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

42 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

một số dạng estrogen có tác dụng chống lại quá trình này.

Sử dụng estrogen lâu dài (khoảng từ năm năm trở lên) làm

tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở nữ giới. Các nhà nghiên cứu

hiện đang đánh giá nguy cơ phát triển ung thư vú liên quan

tới các phối hợp hoóc-môn khác nhau.

Tuy nhiên, hoóc-môn thay thế có một số lợi ích nhất định

có thể bù lại nguy cơ phát triển ung thư vú, và mỗi phụ nữ

cần phải thảo luận lợi ích và tác hại của liệu pháp này với

bác sĩ trước khi quyết định sử dụng nó cho phù hợp. Hầu

hết các bác sĩ khuyến cáo nên dùng liệu pháp điều trị khác

cho những phụ nữ có tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc

bản thân đã bị ung thư vú.

Chiều cao và trọng lượng

Phụ nữ có vóc người cao lớn có nguy cơ phát triển ung

thư vú cao hơn phụ nữ vóc người nhỏ thấp. Trọng lượng

cũng có vai trò, có thể là do mỡ trong cơ thể làm thay đổi

quá trình chuyển hóa estrogen. Những phụ nữ béo phì có

nguy cơ phát triển ung thư vú sau mãn kinh cao hơn phụ

nữ gầy.

Uống rượu

Uống rượu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở nữ

giới, có lẽ là thông qua tình trạng tăng nồng độ estrogen

trong cơ thể. Một người phụ nữ uống càng nhiều rượu thì

nguy cơ phát triển ung thư vú càng cao. Tuy nhiên uống

một lượng rượu vừa phải có thể chống lại một số bệnh khác

và người phụ nữ nên thảo luận về lợi ích của rượu với bác sĩ

trước khi quyết định bỏ rượu hoàn toàn.

Page 43: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 43

Có các ung thư khác

Phụ nữ đã được chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung, ung

thư buồng trứng, hoặc ung thư đại tràng có nguy cơ phát

triển ung thư vú cao hơn so với phụ nữ không có các loại

ung thư này.

Các yếu tố khác

Một số yếu tố khác có liên quan tới nguy cơ phát triển

ung thư vú vì những lý do chưa rõ. Phụ nữ có địa vị kinh tế-

xã hội cao và/hoặc phụ nữ ở thành phố có nguy cơ cao hơn

phụ nữ có địa vị kinh tế-xã hội thấp và/hoặc ở nông thôn.

Chủng tộc/dân tộc và tôn giáo dường như cũng có vai trò

nguy cơ. Trước tuổi 40, phụ nữ da đen có nguy cơ mắc bệnh

cao hơn phụ nữ châu Á; trong khi đó, khi ngoài 40 tuổi, phụ

nữ da trắng có nguy cơ cao hơn phụ nữ châu Á. Phụ nữ có

nguồn gốc Do Thái Ashkenzi có nguy cơ cao hơn do họ có

khả năng mang các đột biến gen gây ung thư vú cao hơn.

Các yếu tố làm giảm nguy cơ ung thư vú

Có hai yếu tố làm giảm nguy cơ ung thư vú.

• Cắt buồng trứng

Nếu phải phẫu thuật cắt tử cung thì hầu hết phụ nữ được

giữ lại buồng trứng khi còn đang trong độ tuổi sinh sản,

nhưng trong một số tình trạng bệnh lý nào đó lại cần cắt

buồng trứng khi bệnh nhân còn rất trẻ. Phụ nữ phải cắt

buồng trứng trước 35 tuổi có nguy cơ bị ung thư vú thấp

hơn trong đời so với phụ nữ không bị cắt buồng trứng.

Page 44: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

44 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

• Nơi sinh

Phụ nữ sinh ra ở châu Á hoặc ở châu Phi có nguy cơ ung

thư vú thấp hơn so với phụ nữ sinh ra ở Bắc Mỹ hoặc Bắc

Âu.

Dự đoán nguy cơ ung thư vú của cá nhân

Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới nguy cơ phát triển ung

thư vú ở nữ giới và tầm quan trọng tương đối của các yếu tố

nguy cơ này có thể còn chưa rõ ràng.

Trong hầu hết các trường hợp, người phụ nữ và bác sĩ

của mình có thể sử dụng hệ thống tính điểm của Viện

Nghiên cứu Ung thư Quốc gia để dự đoán nguy cơ cá

nhân. Khi tính điểm, phải dựa trên nguy cơ nền của người

phụ nữ (dựa trên độ tuổi, chủng tộc/dân tộc) và các nguy

cơ liên quan tới năm yếu tố then chốt: độ tuổi bắt đầu có

kinh, số lần đã sinh thiết vú, tiền sử mang thai, số người

thân mức độ bị ung thư vú, và hiện tượng tăng sản trên

tiêu bản sinh thiết. Nguy cơ của mỗi cá thể được so sánh

với nguy cơ của một phụ nữ ở cùng lứa tuổi nhưng không

có các yếu tố nguy cơ khác.

3. Việc lựa chọn giữa điều trị bảo tồn tuyến vú

(BCT) và phẫu thuật cắt tuyến vú triệt để (MRM) là

gì?

Nhiều nghiên cứu cho thấy điều trị BCT hay MRM đều

cho cơ hội sống sót tương đương cho những bệnh nhân

ung thư vú khu trú. Tuy nhiên, theo ước tính thì có khoảng

Page 45: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 45

dưới 60% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm được điều

trị bằng BCT. Một số bằng chứng cho thấy có thể bác sĩ

khuyến khích bệnh nhân lựa chọn MRM hơn là BCT, hoặc

chính bệnh nhân thích chọn MRM hơn BCT. Ngoài ra, việc

lựa chọn BCT còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố địa lý và

kinh tế xã hội.

Mặc dù có tỷ lệ sống sót tương đương, nhưng một số yếu

tố cần được xem xét khi quyết định BCT hay MRM là lựa

chọn điều trị tốt hơn cho từng bệnh nhân ung thư vú khu

trú.

3.1. Bệnh sử và khám lâm sàng

Bệnh sử và khám lâm sàng rất hữu ích trong việc xác

định tình trạng sức khỏe chung và các tình trạng bệnh lý

khác của bệnh nhân. Một số tình trạng bệnh lý nhất định có

thể quyết định nên lựa chọn điều trị bằng BCT hay MRM thì

tốt hơn. Chỉ riêng tuổi của bệnh nhân không đủ để xác định

lựa chọn BCT hay MRM là tốt hơn.

Kết quả chụp X quang tuyến vú

Phim chụp tuyến vú trước phẫu thuật có vai trò hết sức

quan trọng để xác định kích thước, phạm vi và các đặc điểm

khác của khối u là những yếu tố có thể ảnh hưởng tới quyết

định lựa chọn BCT hay MRM.

Xét nghiệm vi thể khối u

Xét nghiệm vi thể bệnh phẩm khối u lấy qua sinh thiết

hay khi phẫu thuật có thể xác định các yếu tố giúp cho việc

Page 46: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

46 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

quyết định nên lựa chọn BCT hay MRM. Chẳng hạn tình

trạng còn sót tế bào ung thư ở mép cắt. Nếu còn sót nhiều tế

bào ung thư sau khi cắt bỏ một lượng mô lớn thì có thể nên

chọn MRM.

3.2. Nhu cầu và nguyện vọng của người bệnh

Mỗi bệnh nhân cần thảo luận với bác sĩ nếu có nguyện

vọng bảo tồn tuyến vú. Điều quan trọng là phải cân nhắc

xem việc lựa chọn BCT hay MRM có ảnh hưởng đến hiệu

quả điều trị ung thư, sự tự tin, hoạt động tình dục, và chất

lượng cuộc sống chung của người bệnh hay không. Trong

việc cân nhắc về lợi ích và nguy cơ của BCT và MRM cần

chú ý đến các điểm chính sau:

- Thời gian sống sót lâu dài sau ung thư vú

- Nguy cơ và hậu quả của tái phát tại chỗ

- Điều chỉnh tâm lý với điều trị (bao gồm cả sự sợ hãi ung

thư sẽ tái phát)

- Kết quả thẩm mỹ có thể có

- Điều chỉnh quan hệ tình dục

Đối với hầu hết bệnh nhân, khả năng ung thư vú khu

trú còn sót là như nhau khi điều trị bằng BCT hoặc MRM;

ngược lại, MRM có thể có ảnh hưởng đáng kể tới chất

lượng cuộc sống của bệnh nhân. Cảm nhận về ung thư vú

của bệnh nhân chọn BCT hay chọn MRM đều căng thẳng

như nhau. Tuy nhiên, bệnh nhân lựa chọn BCT dường

như nhìn nhận hình ảnh cơ thể của mình lạc quan hơn và

Page 47: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 47

ít có thay đổi ham muốn tình dục hơn so với những người

lựa chọn MRM.

3.3. Các yếu tố ủng hộ lựa chọn

Một số yếu tố lâm sàng ủng hộ rõ ràng nên chọn MRM

hơn là BCT do các lý do bệnh lý, chẳng hạn như:

− Có từ hai khối u riêng biệt trở lên ở các vị trí khác nhau

trên vú

− Khối u lan tỏa xâm lấn vào mô tuyến vú

− Đã chiếu xạ vào mô vú hoặc lồng ngực trước đó, và do

đó không nên tiếp tục chiếu xạ

− Có thai ở ba tháng đầu hoặc ba tháng thứ hai, và do đó

không nên chiếu xạ

− Còn sót nhiều tế bào ung thư trong phẫu thuật bảo tồn

vú mặc dù đã cắt bỏ một lượng mô lớn

Một số yếu tố lâm sàng ủng hộ phần nào nên chọn MRM

so với BCT do tình trạng bệnh lý của từng cá thể, tuy nhiên

có một số trường hợp ngoại lệ:

− Một số bệnh tạo keo (tự miễn) có thể có những tác

dụng phụ đáng kể khi chiếu xạ; phụ nữ bị xơ cứng bì

và lupus ban đỏ hệ thống hoạt động thường được

khuyến cáo lựa chọn MRM, còn bệnh nhân viêm khớp

dạng thấp có thể được chiếu xạ an toàn và do đó có thể

lựa chọn hoặc MRM hoặc BCT

Page 48: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

48 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

− Có một số u lân cận và có các lắng đọng canxi trong

cùng khu vực có u vú

− Kích thước khối u lớn hơn; MRM thường được khuyến

cáo cho bệnh nhân có khối u lớn hơn 50mm và cho

bệnh nhân có khối u tương đối lớn so với kích thước

của vú

− Kích thước và hình dạng của vú; khó có thể chiếu xạ

đồng đều ở bệnh nhân có vú to hoặc sệ, và những bệnh

nhân này có thể được khuyên chọn MRM

Một số yếu tố không có vai trò quan trọng khi cân nhắc lựa

chọn giữa BCT và MRM:

− Tế bào ung thư lan vào hạch nách

− Vị trí cụ thể của khối u trong vú; tuy nhiên, khi khối u

ở một số vị trí - nhất định có thể làm giảm kết quả thẩm

mỹ của BCT

− Tiền sử gia đình về ung thư vú

− Nguy cơ di căn cao; tuy nhiên, nguy cơ di căn tăng đòi

hỏi điều trị bổ trợ

3.4. Xử trí hạch nách

Mặc dù khám lâm sàng có thể phát hiện một số hạch to

nhưng phẫu thuật là biện pháp chính xác duy nhất để xác

định xem ung thư đã lan vào hạch nách hay chưa. Lấy toàn

bộ hạch nách thường là một công việc thường quy theo

truyền thống được tiến hành khi xử trí ung thư giai đoạn

Page 49: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 49

sớm cho những bệnh nhân được điều trị bằng MRM hay

bằng BCT. Tuy nhiên, còn có nhiều tranh cãi về chỉ định

điều trị xâm lấn làm sạch vùng hạch. Rõ ràng, thông tin có

được khi vét hạch mang tính chất tiên lượng. Hơn nữa, việc

điều trị không đầy đủ các hạch nách dương tính sẽ làm tăng

nguy cơ tái phát tại chỗ. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng rõ

ràng về việc điều trị xâm lấn hạch nách có thể cải thiện tỷ lệ

sống sót. Cho dù như thế nào thì điều trị xâm lấn các hạch

bạch huyết (phẫu thuật và/hoặc chiếu xạ) chắc chắn sẽ làm

tăng nguy cơ biến chứng.

Phạm vi vét hạch nách được xác định bằng số lượng và vị

trí hạch được vét bỏ. Biến chứng quan trọng nhất của vét

hạch nách là phù cánh tay, mức độ phù phụ thuộc vào phạm

vi vét hạch. Nhằm xác định chính xác những bệnh nhân có

tổn thương hạch và hạn chế tối đa nguy cơ phù cánh tay,

người ta đã hoàn thiện kỹ thuật sinh thiết các hạch có nguy

cơ di căn đầu tiên.

Sinh thiết hạch có nguy cơ di căn đầu tiên

Khái niệm về hạch có nguy cơ di căn đầu tiên được đưa

ra dựa trên giả thuyết là khi tế bào ung thư tách ra khỏi khối

u ở vú thì sẽ xâm lấn một hoặc một vài hạch trước khi xâm

lấn các hạch khác hoặc lan rộng hơn. Để phát hiện ra hạch

đầu tiên này, bác sĩ tiêm một chất chỉ thị màu hoặc một chất

liệu phát xạ, hoặc cả hai vào vùng bao quanh khối u, chúng

sẽ đi vào các kênh bạch huyết và sau đó đi vào hạch. Khi

hạch đầu tiên được xác định, người ta sẽ lấy nó ra để nghiên

cứu dưới kính hiển vi. Nếu hạch này âm tính, khả năng các

hạch nách khác âm tính sẽ cao, và những bệnh nhân như

Page 50: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

50 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

vậy có thể không cần vét toàn bộ hạch nách. Ngược lại, nếu

hạch đầu tiên dương tính thì nguy cơ các hạch khác có tế

bào ung thư sẽ cao, và thường phải vét toàn bộ hạch nách.

Vấn đề cơ bản của kỹ thuật sinh thiết hạch có nguy cơ di

căn đầu tiên là nguy cơ hạch bị “âm tính giả”, tức các hạch

nách khác thực sự có tế bào ung thư mà hạch đầu tiên lại dự

báo là chúng âm tính. Khả năng âm tính giả của hạch đầu

tiên liên quan đến kinh nghiệm của bác sĩ phẫu thuật khi

thực hiện thủ thuật này. Ngay cả khi phẫu thuật viên có

kinh nghiệm, nguy cơ chẩn đoán sai vẫn là khoảng 5 - 10%.

Nhiều bác sĩ đã cố gắng khắc phục vấn đề này bằng cách

tiến hành một xét nghiệm hạch đặc biệt được gọi là nhuộm

hóa mô miễn dịch (IHC). Đôi khi IHC dương tính ngay cả

khi không thấy hạch có tế bào ung thư dưới kính hiển vi

quang học. Tuy nhiên, ý nghĩa của kết quả này chưa được

xác định rõ; hầu hết các chuyên gia không khuyên sử dụng

thường quy kỹ thuật IHC đối với các hạch có nguy cơ di căn

đầu tiên.

3.5. Tái phát ung thư tại chỗ sau BCT

Tái phát tại chỗ là ung thư xuất hiện trở lại ở mô vú hoặc

các mô ở thành ngực xung quanh. Sau MRM, tái phát tại chỗ

thường xuất hiện ở thành ngực do không còn mô vú; sau

BCT, tái phát tại chỗ thường xuất hiện ở mô vú còn sót lại.

Ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I hoặc II, tái phát tại

chỗ xuất hiện ở 7 - 20% bệnh nhân được điều trị bằng BCT,

và 4 - 14% bệnh nhân được điều trị bằng MRM. Tuy nhiên,

thời gian bị tái phát khác nhau. Tái phát tại chỗ thường xuất

Page 51: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 51

hiện muộn sau BCT nhiều năm, trong khi đó tái phát tại chỗ

thường xuất hiện trong vòng ba năm sau MRM.

Cần lưu ý là BCT không thể ngăn ngừa hoàn toàn một

khối u mới mọc ở mô vú còn sót. ở bệnh nhân được điều trị

bằng BCT, nguy cơ có một khối u mới, không liên quan ở

cùng bên là khoảng 1%/năm (tức nguy cơ là 13% sau 15 năm

tiến hành thủ thuật). Do đó, bệnh nhân được điều trị bằng

BCT phải tiếp tục tiến hành tự khám vú và khám sàng lọc cả

hai bên vú bằng chụp X quang tuyến vú.

Các yếu tố nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ sau BCT

Khả năng ung thư vú tái phát tại chỗ sau BCT chịu ảnh

hưởng của yếu tố cá nhân, yếu tố khối u, và yếu tố điều trị.

• Các yếu tố cá nhân

Độ tuổi của người bệnh dường như có ảnh hưởng tới

nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT. Bệnh nhân được điều trị

BCT khi ở độ tuổi từ 40 trở xuống có vẻ có nguy cơ tái phát

tại chỗ cao hơn những người trên 40 tuổi. Các nghiên cứu

khác cũng cho thấy bệnh nhân trẻ tuổi hơn có khả năng tái

phát tại chỗ sau MRM cao hơn. Do đó, tuổi còn trẻ không đ-

ược coi là một yếu tố góp phần quyết định lựa chọn phương

thức điều trị mà phải coi là một dấu hiệu chỉ điểm cho nguy

cơ tái phát tại chỗ cao hơn.

• Các yếu tố khối u

Nguy cơ tái phát tại chỗ của khối u sau BCT cũng chịu

ảnh hưởng của hai yếu tố liên quan đến khối u:

Page 52: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

52 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

- Tế bào ung thư còn sót ở mép vết mổ. Tế bào ung thư còn

sót ở mép cắt làm tăng nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT.

Trong một nghiên cứu, tỷ lệ tái phát tại chỗ sau BCT là 7% ở

bệnh nhân không còn sót tế bào ung thư, so với 18% ở bệnh

nhân còn sót tế bào ung thư. Mặc dù bác sĩ phẫu thuật sẽ cố

gắng lấy toàn bộ tế bào ung thư khi tiến hành phẫu thuật,

đôi khi vẫn còn các tế bào ung thư sót lại sau phẫu thuật khi

nghiên cứu vi thể khối u kỹ hơn.

- Có tế bào ung thư nội ống. Việc xem xét có tế bào ung thư

trong nhiều ống ở mô vú đã được cắt bỏ là một công cụ hữu

ích để đánh giá nguy cơ tái phát tại chỗ. Nguy cơ tái phát tại

chỗ cao hơn khi tế bào ung thư có mặt ở nhiều ống trong

khối u hoặc trong mô vú lành nếu tế bào ung thư vẫn còn

sót ở mép cắt. Một số dấu hiệu trên phim chụp vú trước

phẫu thuật thường cảnh báo bác sĩ phẫu thuật về sự có mặt

của tế bào ung thư nội ống. Trong các trường hợp như vậy,

bác sĩ phẫu thuật cần đặc biệt chú ý để đảm bảo không còn

sót tế bào ung thư ở mép cắt.

• Các yếu tố cá nhân

Có ba yếu tố điều trị ảnh hưởng tới nguy cơ tái phát tại

chỗ sau BCT:

- Phạm vi phẫu thuật. Nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ

sau BCT thấp hơn khi lượng mô vú được cắt bỏ nhiều hơn.

- Chiếu xạ tăng cường. Chiếu xạ tăng cường là chiếu thêm

một liều xạ vào vùng trước đó đã có khối u. Không phải tất cả

mà chỉ một số nghiên cứu cho thấy chiếu xạ tăng cường có

làm giảm chút ít nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ, mặc dù

Page 53: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 53

liều tăng cường này có thể làm giảm nhẹ kết quả thẩm mỹ của

BCT.

- Hóa chất hoặc hoóc-môn. Hóa chất và/hoặc hoóc-môn

thường được khuyên dùng sau phẫu thuật ung thư vú khu

trú. Bổ sung các liệu pháp này cùng với BCT sẽ làm giảm

tiếp nguy cơ tái phát tại chỗ, mặc dù không phải tất cả bệnh

nhân đều cần điều trị bằng cả hai liệu pháp này.

Ví dụ, trong một nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư vú

có hạch âm tính, không có thụ thể estrogen (viết tắt là ER),

được điều trị hóa chất so sánh với không dùng hóa chất sau

BCT. Ung thư tái phát tại chỗ trong vòng tám năm ở 2,6%

bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất và ở 13,4% bệnh

nhân không được điều trị bằng hóa chất.

Trong nghiên cứu thứ hai tiến hành trên bệnh nhân ung

thư vú có hạch âm tính và có thụ thể estrogen được điều trị

bằng tamoxifen so sánh với dùng thuốc vờ sau BCT. Ung th-

ư tái phát tại chỗ trong vòng 10 năm ở 4,3% bệnh nhân được

điều trị bằng tamoxifen, và ở 14,7% bệnh nhân được điều trị

bằng thuốc vờ.

Điều trị tái phát tại chỗ.

Nhiều bệnh nhân tái phát tại chỗ có thể được tiến hành

thủ thuật cắt vú “triệt để”, và vẫn có cơ hội được chữa khỏi

bệnh, nếu u không lan rộng hơn nữa.

4. Ung thư được điều trị như thế nào?

Page 54: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

54 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Đối với nhiều loại ung thư, mục tiêu điều trị là phải chữa

khỏi bệnh, đặc biệt là khi ung thư được chẩn đoán ở giai

đoạn sớm. Tuy nhiên, khó có thể chữa khỏi bệnh khi đã có

di căn; do đó, các mục đích điều trị khác quan trọng hơn.

Các mục đích này gồm: điều trị giảm triệu chứng, cải thiện

chất lượng cuộc sống, kéo dài thời gian sống sót, và kéo dài

thời gian đáp ứng với điều trị đặc hiệu (được gọi là thời gian

sống thêm không có bệnh tiến triển hoặc thời gian sống

thêm không tái phát bệnh).

4.1. Chữa khỏi bệnh

Ung thư vú được coi là chữa khỏi khi không còn sót tế

bào ung thư (bệnh ổn định) trong một thời gian nhất định

và người bệnh có thể sống bình thường. Tuy nhiên, rất khó

xác định khoảng thời gian trước khi người bệnh được đánh

giá là chữa khỏi, do căn bệnh này có thể tái phát nhiều năm

sau chẩn đoán và điều trị ban đầu. Đối với bệnh nhân ung

thư vú giai đoạn sớm, nguy cơ tái phát cao nhất ở khoảng

thời gian 5 năm đầu sau điều trị, nhưng vẫn có thể tái phát

30 năm sau đó.

Bệnh đã di căn hiếm khi được chữa khỏi. Mặc dù có thể

điều trị cho bệnh ổn định (không còn dấu hiệu ung thư),

nhưng chỉ ngăn chặn được sự tiến triển của khối u trong

một thời gian dài ở 2 - 5% trường hợp ung thư vú di căn.

Những bệnh nhân này sống thêm được một thời gian dài và

có thể khỏi bệnh.

Page 55: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 55

4.2. Kéo dài thời gian sống thêm

Mặc dù tỷ lệ khỏi bệnh còn thấp nhưng điều trị có thể kéo

dài thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư vú di căn, mặc

dù chưa có nghiên cứu nào so sánh thời gian sống thêm ở

nhóm điều trị với nhóm không điều trị. Thời gian sống thêm

trung bình ở bệnh nhân ung thư vú di căn là 18 đến 24

tháng, nhưng có thể dao động từ vài tháng đến vài năm.

Thời gian sống thêm dường như dài hơn chút ít (tính theo

tháng chứ không tính theo năm) đối với bệnh nhân có đáp

ứng, so với bệnh nhân không có đáp ứng.

Tỷ lệ đáp ứng

Tỷ lệ đáp ứng với một phương thức điều trị cụ thể là số

bệnh nhân có lượng mô ung thư giảm đáng kể được xác

định hoặc là bằng khám lâm sàng hoặc là bằng chụp X

quang, ví dụ chụp cắt lớp - CT hoặc chụp X quang lồng

ngực. Đáp ứng được chia thành bốn loại:

- Đáp ứng hoàn toàn - không còn dấu hiệu của tế bào

ung thư

- Đáp ứng một phần - giảm hơn 50% kích thước khối u

đo được

- Đáp ứng tối thiểu - giảm dưới 50% kích thước khối u

đo được

- Bệnh ổn định - kích thước khối u đo được không giảm

đáng kể, nhưng không tăng trong thời gian điều trị

Page 56: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

56 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Mặc dù tỷ lệ đáp ứng trong các nghiên cứu đã công bố

thường chỉ tính đến số bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn và

đáp ứng một phần với một liệu pháp cụ thể, nhưng điều trị

cũng có thể có tác dụng với bệnh nhân có đáp ứng tối thiểu

và có bệnh ổn định, mặc dù ở mức độ ít hơn. Do đó, tỷ lệ

đáp ứng có thể giúp bác sĩ dự đoán tác dụng của một liệu

pháp điều trị cụ thể đối với bệnh nhân. Ví dụ, nếu phương

thức điều trị có tỷ lệ đáp ứng là 60% thì 60 trong 100 bệnh

nhân được điều trị có thể giảm đáng kể kích thước khối u đo

được (giảm 50% hoặc nhiều hơn) khi có đáp ứng với điều trị,

miễn là việc điều trị được tiến hành đúng lúc với liều lượng

phù hợp. Trong mọi trường hợp, điều trị ung thư vú di căn

đều nhằm mục đích đạt tỷ lệ đáp ứng cao nhất.

Một khái niệm quan trọng là ung thư vú cuối cùng sẽ trơ

với điều trị ban đầu, ngay cả khi lúc đầu có đáp ứng. Biểu

hiện trơ với điều trị là khi tiếp tục điều trị khối u vẫn phát

triển. Tình trạng này gọi là bệnh tiến triển, và là một dấu

hiệu kháng điều trị, và cần phải chuyển sang phương pháp

điều trị khác. Do hiện nay có nhiều phương pháp điều trị

khác nhau nên bệnh nhân ung thư vú di căn thường được

điều trị bằng các týp hoặc “các đợt” điều trị khác nhau.

Làm ổn định sự phát triển khối u

Đôi khi, việc điều trị không làm giảm kích thước khối u

một cách khách quan nhưng có thể làm ổn định sự phát

triển của khối u; nói cách khác, khối u vẫn còn, nhưng

không tiến triển. Bệnh nhân có bệnh ổn định nhờ đáp ứng

với điều trị sẽ có thời gian sống thêm dài hơn bệnh nhân

Page 57: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 57

ung thư vú tiếp tục phát triển mặc dù đang được điều trị,

đặc biệt là nếu bệnh ổn định ít nhất trong vòng sáu tháng.

Cải thiện chất lượng cuộc sống

Điều trị có thể cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh

nhân ung thư vú di căn bằng cách giảm thiểu triệu chứng do

ung thư. Các nghiên cứu cho thấy hóa chất có thể cải thiện

hiệu quả chất lượng cuộc sống mặc dù nó có các tác dụng

phụ.

Dự đoán tiên lượng

Như đã nêu ở trên, thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung

thư vú di căn dao động từ vài tháng đến vài năm. Các yếu tố

giúp xác định khả năng tiến triển của ung thư vú di căn theo

thời gian chính là yếu tố tiên lượng.

Khoảng thời gian cho tới khi bệnh tái phát

Tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di căn thường tốt

hơn nếu như khoảng thời gian từ khi tiến hành điều trị ban

đầu cho tới khi bệnh tái phát kéo dài ít nhất năm năm.

Số lượng tổn thương di căn

Các xét nghiệm có thể giúp phát hiện số tổn thương di

căn. Bệnh nhân có số tổn thương di căn ít hơn thường có tiên

lượng tốt hơn so với bệnh nhân có nhiều tổn thương di căn.

Tình trạng ung thư lan vào các bộ phận quan trọng

Page 58: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

58 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di căn thường tốt

hơn khi ung thư di căn vào thành ngực hoặc hạch bạch

huyết chứ không phải vào gan hoặc phổi.

Tình trạng thụ thể estrogen

Các xét nghiệm cận lâm sàng có thể xác định tế bào ung thư

vú có các thụ thể hoóc-môn chẳng hạn như thụ thể estrogen

(ER) hoặc thụ thể progesteron (PgR). Sự có mặt của một số thụ

thể hoóc-môn ở tế bào ung thư mang lại tiên lượng tốt hơn.

Cấp độ ung thư vú

Cấp độ ung thư được xác định từ các đặc điểm tế bào ung

thư trên vi thể. Ung thư vú có cấp độ thấp (tế bào đã trưởng

thành) có tiên lượng tốt hơn ung thư vú cấp độ cao (tế bào

chưa trưởng thành).

HER-2/neu

Một số loại ung thư vú có mật độ một loại protein là

HER-2/neu rất cao (còn gọi là c erbB - 2). Mặc dù sự có mặt

của chất chỉ điểm này chỉ ra khả năng đáp ứng với một loại

thuốc có tên là Herceptin cao hơn, nhưng vai trò của nó

trong việc dự đoán tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di

căn hiện chưa được xác định rõ.

4.3. Lựa chọn điều trị tối ưu

Khi lựa chọn phương thức điều trị, cần cân nhắc nhiều

yếu tố, như tỷ lệ đáp ứng điều trị, tính ưu tiên của từng ph-

ương pháp, đồng thời đánh giá lợi ích và nguy cơ của điều

trị. Cụ thể là cần xem xét một số yếu tố sau đây.

Page 59: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 59

Chọn liệu pháp tại chỗ hay liệu pháp toàn thân

Liệu pháp điều trị tại chỗ là phẫu thuật và/hoặc chiếu xạ

trực tiếp vào từng vùng bị tổn thương. Liệu pháp toàn thân

được chỉ định để điều trị các tổn thương di căn trên toàn cơ

thể, và thường là hóa chất, hoóc-môn, hoặc phối hợp các loại

này.

Bệnh nhân ung thư vú tái phát nhưng còn giới hạn ở vú

hoặc ở thành ngực là những đối tượng phù hợp nhất để điều

trị tại chỗ. Tuy nhiên, phẫu thuật hoặc chiếu xạ cũng có thể

được xem xét áp dụng cho bệnh nhân có di căn. Nhìn chung,

các tổn thương di căn đáp ứng với liệu pháp tại chỗ tốt hơn

so với liệu pháp toàn thân, nhưng khi xét nhu cầu điều trị tại

chỗ cần tính đến một số yếu tố, như mức độ lan rộng của

ung thư, vị trí di căn, và mức độ cấp thiết của việc điều trị

một di căn cụ thể. Ví dụ, khi có di căn vào một xương đỡ

trọng lượng cơ thể quan trọng như xương chân, phẫu thuật

có thể là phù hợp nhất để phòng gẫy xương. Trong những

trường hợp này, liệu pháp tại chỗ (phẫu thuật, sau đó chiếu

xạ) thường được điều trị phối hợp với liệu pháp toàn thân.

Chọn dùng hóa chất hay hoóc-môn

Hóa chất (thường được dùng qua đường tĩnh mạch) và

hoóc-môn (thường được dùng qua đường uống) là hai cách

điều trị ung thư vú di căn toàn thân khác nhau. Việc lựa

chọn hóa chất hay hoóc-môn cần dựa vào một số yếu tố:

- Tình trạng có các thụ thể hoóc-môn (ER và/hoặc PgR) ở

tế bào ung thư, nếu có mặt của các thụ thể này có thể dự

đoán là liệu pháp hoóc-môn sẽ có lợi

Page 60: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

60 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

- Cân nhắc nguy cơ và lợi ích có thể của cả hai cách điều trị

- Vị trí của các di căn

- Mức độ lan của ung thư và các triệu chứng của ung thư

Hoóc-môn thường được khuyến cáo sử dụng ngay từ đầu

cho bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể ER hoặc PgR do

hoóc-môn có ít tác dụng phụ hơn so với hóa chất. Nếu hiệu

quả của hoóc-môn không chắc chắn thì bác sĩ thường

khuyên dùng hóa chất để điều trị ngay từ đầu.

Ngược lại, hóa chất thường được khuyến cáo sử dụng

ngay từ đầu khi ung thư tiến triển nhanh, khi có di căn vào

các cơ quan sống quan trọng, khi bệnh nhân có nhiều triệu

chứng bệnh, hoặc khi liệu pháp hoóc-môn có thể không hiệu

quả (ví dụ, nếu ung thư không có thụ thể hoóc-môn).

Chọn cách dùng hóa chất phối hợp hoóc-môn

Mặc dù việc sử dụng đồng thời hóa chất và hoóc-môn có

thể làm tăng tỷ lệ đáp ứng của ung thư vú di căn có thụ thể

hoóc-môn với điều trị, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đáp ứng

cao hơn này không có nghĩa là cho tỷ lệ sống sót cao hơn.

Hơn nữa, liệu pháp phối hợp có nguy cơ gây ra nhiều tác

dụng phụ hơn và làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh

nhân. Vì vậy, bệnh nhân ung thư vú có thụ thể hoóc-môn d-

ương tính thường được điều trị theo trình tự, hoặc là dùng

hoóc-môn trước, sau đó dùng hóa chất khi bệnh tiến triển,

hoặc hóa chất trước, sau đó dùng hoóc-môn khi khối u tiến

triển.

Bisphosphonat

Page 61: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 61

Bên cạnh liệu pháp toàn thân bằng hóa chất hoặc hoóc-

môn, bệnh nhân ung thư vú có di căn xương cũng được

hưởng lợi khi sử dụng các loại thuốc tăng cường xương gọi là

biphosphonat. Khi phối hợp với hóa chất hoặc hoóc-môn, việc

truyền bisphosphonat (ví dụ, pamidronat hoặc axít

zoledronic) hàng tháng có thể làm giảm nguy cơ, trì hoãn tiến

trình phát triển của các biến chứng xương như gẫy xương.

Các yếu tố dự báo

Các yếu tố dự báo có thể giúp dự đoán khả năng đáp ứng

của ung thư vú với một týp điều trị cụ thể.

Liệu pháp hoóc-môn

Một số yếu tố đi kèm khả năng đáp ứng với hoóc-môn

cao hơn:

− Thời gian giữa điều trị ban đầu đến tái phát là dài

− Di căn đơn độc vào xương hoặc mô mềm, ví dụ như

hạch bạch huyết hoặc da

− Đã có đáp ứng với hoóc-môn trước đó

− Có ER ở tế bào ung thư vú, ví dụ, khoảng 50 - 60% các

trường hợp ung thư vú đáp ứng với liệu pháp hoóc-

môn khi có số lượng ER cao hoặc vừa, so với chỉ 10%

đáp ứng ở các trường hợp ung thư vú có ít ER.

− Ngoài ER còn có PgR ở tế bào ung thư vú.

Hóa chất

Không giống liệu pháp hoóc-môn, không có yếu tố rõ

ràng nào có thể dự đoán được sự đáp ứng của ung thư vú

Page 62: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

62 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

với hóa chất. Hóa chất thường được ưu tiên chọn dùng khi

khối u không có thụ thể với estrogen và progesteron. Trong

số những bệnh nhân ung thư vú di căn chưa hề dùng hóa

chất trước đó để điều trị di căn, khoảng 50 - 70% bệnh nhân

sẽ có đáp ứng với đợt hóa chất ban đầu.

− Hóa chất có thể ít hiệu quả hơn: khi được sử dụng để

điều trị đợt hai (tức là ung thư vú vẫn tiến triển mặc dù

đã được điều trị bằng hóa chất).

− Khi ung thư vú tái phát xuất hiện trong khoảng 12

tháng sau khi kết thúc hóa chất bổ trợ (là đợt hóa chất

ban đầu dùng cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn

sớm).

− Khi tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân tồi, hoặc

khi ung thư xuất hiện ở nhiều vị trí trên toàn cơ thể,

đặc biệt là ở các cơ quan sống quan trọng.

Một số yếu tố khác có thể giúp dự đoán khả năng đáp

ứng với hóa chất, như:

− Các chất chỉ điểm tăng sinh. Một số chất chỉ điểm có thể

giúp xác định tốc độ tăng sinh của các tế bào ung thư

vú. Tốc độ tăng sinh càng cao thì khả năng đáp ứng với

hóa chất có vẻ càng cao.

− HER-2/neu. Một số nghiên cứu thấy rằng sự có mặt của

HER-2/neu trên tế bào ung thư vú là một dấu hiệu hữu

ích để dự báo đáp ứng của ung thư vú di căn với các

liệu pháp điều trị khác nhau. Đặc biệt, bệnh nhân ung

thư vú có nồng độ HER-2/neu cao có thể thu được

Page 63: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 63

nhiều kết quả điều trị hơn khi được điều trị bằng

Herceptin (còn gọi là trastuzumab).

5. Hóa chất trong điều trị ung thư vú di căn là gì?

5.1. Các tác nhân gây độc tế bào

Một số tác nhân gây độc tế bào có hoạt tính trong ung thư

vú di căn, cả khi điều trị đơn độc hoặc khi dùng trong phác

đồ đa hóa chất.

Anthracyclin và anthraquinon

Trước khi có taxan, các anthracyclin và các sản phẩm

đồng gen của chúng, đặc biệt là doxorubicin, là các tác nhân

có hoạt tính mạnh nhất đối với bệnh nhân ung thư vú chưa

được điều trị, với tỷ lệ đáp ứng khoảng 35 - 50% khi điều trị

bằng một tác nhân đơn nhất. Ở một số thử nghiệm người ta

thấy mitoxantron dường như có hiệu quả thấp hơn một chút

so với doxorubicin hoặc epirubicin, cả khi dùng đơn độc

hoặc cùng các hóa chất khác.

Mức độ nặng của tác dụng phụ đối với các thuốc trong

nhóm này khác nhau. Buồn nôn, nôn, rụng tóc, và ức chế tuỷ

xương ít gặp hơn khi dùng mitoxantron so với doxorubicin

và epirubicin. Ngoài ra, tổn thương cơ tim gây suy tim sung

huyết trên lâm sàng là một tác dụng phụ cơ bản đặc hiệu

cho nhóm anthracyclin và những tác nhân có liên quan. Tần

suất bị suy tim sung huyết có liên quan trực tiếp tới tổng

liều cộng dồn, tăng vọt khi liều doxorubicin đạt trên

450mg/m2. Epirubicin và mitoxantron có ít độc tính với tim

Page 64: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

64 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

hơn so với doxorubicin. Tuy nhiên, epirubicin có vẻ có hoạt

tính thấp hơn so với doxorubicin theo đơn vị liều 1mg/m2.

Nguy cơ bị suy tim sung huyết do dùng anthracyclin có

thể giảm xuống nhờ một số biện pháp như sau:

- Sử dụng phác đồ cho nồng độ đỉnh trong huyết thanh

thấp hơn, như kéo dài thời gian truyền (trong 6 tới 96 giờ)

hoặc tiêm nhiều lần và mỗi lần với liều thấp hơn, với hiệu

quả điều trị được bảo tồn. Tuy nhiên, kéo dài thời gian

truyền hoặc tăng số lần truyền doxorubicin đều bất tiện cho

bệnh nhân.

- Đưa doxorubicin vào các liposom có kích thước Nano

cho phép đạt liều cộng dồn cao hơn mà tần suất bị suy tim

sung huyết lại thấp hơn và hiệu quả tương đương với

doxorubicin tự do. Doxorubicin trong liposom (được gọi là

Doxil ở Mỹ và Caelyx ở châu Âu) được bào chế để duy trì

hiệu quả của anthracyclin với ít tác dụng phụ hơn, đặc biệt

là độc tính với tim. Một số nghiên cứu dùng ít nhất hai chế

phẩm khác nhau (Doxil và Evacet [TLC - 99]) cho thấy các

loại thuốc này là lựa chọn hợp lý trong điều trị bệnh di căn,

mặc dù chúng chưa được Cục quản lý thuốc và thực phẩm

Mỹ cho phép sử dụng vào mục đích này. Chứng đỏ da gan

bàn tay gan bàn chân (hội chứng bàn tay bàn chân) là biến

chứng điều trị gặp ở nhiều bệnh nhân.

- Dùng đồng thời các chất bảo vệ tim như dexrazoxan,

một dẫn chất của EDTA, có thể làm giảm tần suất bị suy tim

sung huyết. Tuy nhiên, việc bổ sung tác nhân này có thể làm

giảm hiệu quả điều trị. Kết quả của hai thử nghiệm ngẫu

Page 65: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 65

nhiên dùng doxorubicin kết hợp hoặc không kết hợp với

dexrazoxan cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở nhóm dùng

dexrazoxan hơi thấp hơn.

Dùng dexrazoxan trước hay sau khi dùng doxorubicin

300mg/m2 đều có tác dụng bảo vệ tim. Nhiều bệnh nhân bị

kháng doxorubicin trước khi đạt tới tổng liều cộng dồn và

do vậy có nguy cơ bị suy tim sung huyết cao. Do đó, trì hoãn

việc dùng dexrazoxan cho tới khi đạt liều doxorubicin cộng

dồn 300mg/m2 có thể bảo vệ cơ tim mà không ảnh hưởng

đến hiệu quả ban đầu. (Hội ung thư lâm sàng Mỹ đã có tài

liệu hướng dẫn sử dụng dexrazoxan cho bệnh nhân ung thư

vú và các loại ung thư khác cùng với hướng dẫn việc theo

dõi điều trị; Nhóm Điều trị bệnh bằng phương pháp toàn

thân Canada cũng đưa ra các khuyến cáo).

Do có tỷ lệ hoạt tính cao, các anthracyclin đã được đưa

vào một số phác đồ đa hóa chất nhằm điều trị ung thư vú di

căn. Có lẽ, phác đồ đa hóa chất được sử dụng rộng rãi nhất

là doxorubicin phối hợp với cyclophosphamid và 5-

fluorouracil (5-FU), thường được gọi là FAC hoặc CAF,

và/hoặc epirubicin phối hợp với cyclophosphamid và 5-FU,

thường được gọi là FEC. Nhìn chung, các phác đồ này cho

đáp ứng ở 20 - 60% bệnh nhân có bệnh di căn chưa được

điều trị trước đó. Chúng có hoạt tính mạnh hơn nhưng cũng

có nhiều độc tính hơn so với chế độ đa hóa chất chuẩn dùng

cyclophosphamid, methotrexat và 5-FU (CMF).

Một số nghiên cứu giai đoạn I và II cho thấy các chế độ

phối hợp anthracycline khác có thể có hoạt tính mạnh hơn

Page 66: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

66 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

so với CAF hoặc FEC. Tuy nhiên, còn chưa được chứng

minh rõ ràng.

Các tác nhân alkyl hóa

Cyclophosphamid (CPA) là tác nhân alkyl hóa được sử

dụng rộng rãi nhất trong điều trị ung thư vú. CPA đơn độc

cho đáp ứng ở 10 - 60% bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn

muộn. CPA có thể gây viêm bàng quang và đái máu tuy

nhiên các tác dụng phụ này có thể được loại bỏ bằng cách bù

đủ dịch và đi tiểu thường xuyên. Các tác nhân alkyl hóa

cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu (mà quen gọi là

bệnh máu trắng hay ung thư máu) dòng tuỷ cấp, điều này

tuỳ vào từng loại thuốc và liều cộng dồn. Trái với melphalan

là một tác nhân làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu lên 30

lần, nguy cơ bệnh bạch cầu khi dùng CPA tăng rất ít (dưới

ba lần), đặc biệt là ở các liều cộng dồn dưới 20.000mg/m2.

Ifosfamid dùng đơn độc tương đối ít tác dụng đối với

ung thư vú giai đoạn muộn. Tuy nhiên, khi dùng phác đồ

phối hợp có ifosfamid thì hoạt tính tăng lên đáng kể, với tỷ

lệ đáp ứng dao động trong khoảng 28 - 60%, và độc tính ở

mức chịu đựng được.

Cisplatin và carboplatin là các hóa chất chủ yếu được

dùng trong các chế độ điều trị liều rất cao và bệnh nhân

thường phải được truyền bổ sung tế bào mầm của tuỷ x-

ương. Tuy nhiên, tỷ lệ đáp ứng khi dùng tác nhân đơn nhất

ở các mức liều không huỷ hoại tuỷ xương dao động trong

khoảng 0 - 25% Cũng như ifosfamid, cisplatin và carboplatin

thường được đưa vào các chế độ đa hóa chất. Tuy nhiên ng-

Page 67: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 67

ười ta chưa rõ các phác đồ có cisplatin và carboplatin có hiệu

quả hơn so với các phác đồ đơn hóa chất khác như taxan hay

anthracyclin hay không. Cisplatin phối hợp với gemcitabin

có thể có hoạt tính đối với những bệnh nhân kháng thuốc.

Trong một nghiên cứu tiến hành trên 30 bệnh nhân, tỷ lệ

đáp ứng chung là 50%, trong số bốn bệnh nhân tái phát sau

liệu pháp hóa chất liều cao phối hợp truyền tế bào mầm có

hai người có đáp ứng.

5.2. Các chất chống chuyển hóa

Giống các tác nhân alkyl hóa, các chất chống chuyển hóa

như methotrexat là các thành phần thường có trong các chế

độ đa hóa chất điều trị ung thư vú. Mặc dù methotrexat đơn

độc có tác dụng hạn chế nhưng đây là một thành phần trong

phác đồ CMF “uống” chuẩn (gồm có cyclophosphamid

uống 100mg/m2/ngày từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 14;

methotrexat tĩnh mạch 40mg/m2 ngày thứ nhất và ngày

thứ tám; và 5-FU tĩnh mạch 600mg/m2 ngày thứ nhất và

ngày thứ tám). Trimetrexat cũng là một đơn hóa chất có

hoạt tính.

5-FU và các dẫn chất của nó thường được sử dụng cho

ung thư vú di căn. Hoạt tính của chúng phụ thuộc vào

phác đồ điều trị, truyền nhiều lần hoặc kéo dài thời gian

truyền có tác dụng cao hơn so với tiêm liều tấn công

nhanh. Bổ sung thêm leucovorin có thể tăng tác dụng điều

trị, đạt tỷ lệ đáp ứng 20 - 40% bệnh nhân, ngay cả ở bệnh

nhân đã có bệnh tiến triển trước đó khi điều trị bằng các

phác đồ có 5-FU, ví dụ như CMF. Một số phác đồ điều trị

Page 68: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

68 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

được đề xuất hầu hết đều có 5-FU liều tấn công

500mg/m2/ngày trong năm ngày cùng với truyền

leucovorin từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu, hoặc có thể

truyền liên tục 5-FU liều thấp kéo dài (250 mg/m2/ngày

trong 21 ngày sau đó nghỉ 7 ngày), hoặc dùng 5-FU liều

cao hơn 1 lần/tuần (1000 đến 2000 mg/m2/ngày) có thể kết

hợp hoặc không kết hợp với leucovorin.

Tác dụng của việc bổ sung leucovorin vào các chế độ đa

hóa chất có 5-FU và có một anthracyclin chưa được xác định

rõ. Cho tới nay, chỉ mới có một thử nghiệm ngẫu nhiên duy

nhất công bố là không có sự khác biệt về hiệu quả giữa phác

đồ CAF phối hợp leucovorin và CAF đơn độc ở liều dùng và

lịch dùng tương tự. Mitoxantron (Novantrone), 5-FU và

leucovorin (phác đồ NFL) là một chế độ điều trị hiệu quả và

được bệnh nhân di căn chịu đựng tốt, đặc biệt đáng chú ý là

bệnh nhân không bị rụng tóc. Trong một thử nghiệm ngẫu

nhiên so sánh NFL với CMF ở bệnh nhân có bệnh di căn

chưa được điều trị trước đó, tỷ lệ đáp ứng ở nhóm NFL cao

hơn rõ rệt (45% so với 26%) nhưng thời gian cho tới khi bệnh

tiến triển chỉ dài hơn một vài tháng và tỷ lệ sống sót chung

gần như tương đương.

Gần đây hơn, các dẫn chất của 5-FU có hoạt tính đường

uống đã có mặt trên thị trường, như Tegafur (Ftorafur) và

Capecitabine. Capecitabine là tiền thân của fluoropyrimidin

carbamat có tính chọn lọc đối với tế bào ung thư đã được

kích hoạt, khi dùng đơn độc cho tỷ lệ đáp ứng từ 20 - 26%,

ngay cả ở những bệnh nhân kháng 5-FU hoặc các taxan đã

được điều trị tích cực trước đó. Mặc dù liều capecitabin khởi

Page 69: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 69

đầu được chấp nhận cho điều trị ung thư vú di căn là

2500mg/m2/ngày trong 14 ngày của mỗi đợt điều trị 21 ngày,

việc theo dõi sau khi tiếp thị cho thấy liều này có thể quá

cao. Các mức liều thấp hơn (bắt đầu ở mức 2000mg/m2/ngày

trong 14 ngày của mỗi đợt điều trị 21 ngày) có thể cải thiện

chỉ số điều trị mà không ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.

Đỏ da và loạn cảm ở gan bàn tay và gan bàn chân (hội

chứng bàn tay bàn chân) là tác dụng phụ thường gặp ở bệnh

nhân dùng capecitabin; uống thêm pyridoxin có thể giảm

tần suất bị tác dụng phụ này. Liều > 200 mg/ngày có tác

dụng giảm triệu chứng rõ hơn so với liều 100 - 200, hoặc <

100 mg/ngày (giảm tương ứng là 54%, 42% và 33%).

Tegafur là một chất chống chuyển hóa được chuyển hóa

từ từ thành 5-FU in vivo và được nghiên cứu sử dụng hoặc

đơn độc hoặc phối hợp đa hóa chất. Tỷ lệ đáp ứng khi dùng

đơn độc dao động từ 20 - 32%; phác đồ phối hợp tegafur

uống kéo dài với leucovorin, cyclophosphamid và

methotrexat có vẻ có hoạt tính tương đương phác đồ CMF

trong điều trị ung thư vú di căn ban đầu.

5-FU và các dẫn chất của nó kết hợp hoặc không kết hợp

với leucovorin không gây rụng tóc hoặc ức chế tuỷ xương

nhiều như khi dùng doxorubicin, các tác nhân alkyl hóa

khác hoặc các taxan. Buồn nôn và nôn gặp ở dưới 10% bệnh

nhân. Tuy nhiên, các biểu hiện về đường tiêu hóa khác như

ỉa lỏng và viêm niêm mạc lại thường gặp, đặc biệt là khi bổ

sung thêm leucovorin. Các thuốc uống và 5-FU truyền có thể

gây hội chứng bàn tay bàn chân tuỳ theo liều dùng (có thể là

phụ thuộc vào cả liều cộng dồn và cả nồng độ trong huyết

Page 70: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

70 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

thanh cao kéo dài) và gặp ở khoảng 20% bệnh nhân. Thay

đổi tổng liều hàng ngày hoặc số ngày dùng thuốc có thể làm

giảm các triệu chứng này.

5.3. Vinca alkaloid

Các vinca alkaloid với các biệt dược Vincristine,

Vinblastine, Vinorelbine và Vindesine có tác dụng cản trở sự

tổ hợp các vi ống trong tế bào và dẫn đến ức chế quá trình

sao chép. Vincristine đã được đưa vào phác đồ CMF. Tuy

nhiên, hoạt tính của tác nhân đơn nhất thấp và độc tính lên

thần kinh lại nhiều. Trái lại, ba tác nhân khác trong nhóm

này được dung nạp tốt hơn, một phần là do khả năng gắn

chọn lọc vào protein của vi ống. Các loại thuốc này đã được

sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư vú di căn với tỷ lệ

đáp ứng khi dùng tác nhân đơn nhất lên tới 40%, và độc tính

thần kinh ở mức chấp nhận được.

Vinorelbine là tác nhân được sử dụng nhiều nhất hiện

nay. Thuốc thường được dùng qua đường tĩnh mạch với

liều từ 25 - 35mg/m2 vào ngày thứ nhất và ngày thứ tám của

một đợt điều trị kéo dài ba tuần, tuy nhiên truyền liên tục

kéo dài hàng tuần có hiệu quả tương đương và tác dụng ức

chế tuỷ xương thấp hơn. Trong một báo cáo, 40 bệnh nhân

di căn kháng anthracyclin được điều trị bằng Vinorelbine

đơn độc (25mg/m2/tuần truyền liên tục). Tỷ lệ đáp ứng

chung là 53%, trung vị thời gian cho tới khi bệnh tiến triển là

chín tháng, giảm bạch cầu trung tính nặng (cấp độ 3 hoặc 4)

chỉ xảy ra trong khoảng 2% số tuần điều trị.

Page 71: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 71

Ngoài độc tính lên hệ tạo máu và thần kinh, các tác nhân

này đôi khi có thể gây đau quanh khối u cấp tính và nặng,

bắt đầu trong khi truyền hoặc ngay sau khi truyền và kéo

dài vài phút tới vài giờ. Phản ứng này sẽ tự mất đi mà

không để lại di chứng lâu dài.

Các vinca alkaloid được đưa vào các chế độ đa hóa chất

phối hợp với các tác nhân alkyl hóa (CPA, ifosfamid,

cisplatin, carboplatin, mitomycin C), các chất chống chuyển

hóa (5-FU/leucovorin, truyền 5-FU kéo dài), các anthracyclin

(doxorubicin, epirubicin, mitoxantron), và/hoặc các taxan

(paclitaxel, docetaxel). Trong từng trường hợp, các chế độ

điều trị phối hợp tỏ ra có hiệu quả cao hơn các tác nhân đơn

nhất, nhưng tác dụng phụ cũng tăng lên. Nhìn chung, các

nghiên cứu ngẫu nhiên không chứng minh được tính ưu việt

của các chế độ điều trị phối hợp so với các tác nhân đơn

nhất.

- Viện Ung thư Quốc gia Canada tiến hành một thử

nghiệm trên 303 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn

được điều trị bằng Vinorelbine phối hợp doxorubicin hoặc

doxorubicin đơn độc. Tỷ lệ đáp ứng, chất lượng cuộc sống,

thời gian cho tới khi bệnh tiến triển, và tỷ lệ sống chung ở

hai nhóm không khác biệt nhưng chế độ điều trị phối hợp

hay gây độc tính lên thần kinh, giảm bạch cầu trung tính có

sốt, kích ứng tĩnh mạch nhiều hơn so với phác đồ đơn nhất.

- Chế độ phối hợp mitomycin C và Vinblastine có hoạt

tính đối với ung thư vú di căn kháng anthracyclin và thư-

ờng được sử dụng làm phác đồ điều trị bậc hai trước khi

taxan được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, mitomycin

Page 72: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

72 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

C/Vinblastine có hiệu quả thấp hơn docetaxel đơn độc

trong một thử nghiệm ngẫu nhiên tiền cứu ở bệnh nhân

ung thư vú di căn, với trung vị thời gian sống ngắn hơn

(8,7 tháng so với 11,4 tháng), thời gian cho tới khi bệnh tiến

triển cũng ngắn hơn (11 tuần so với 19 tuần) và tỷ lệ đáp

ứng thấp hơn (12% so với 30%).

5.4. Các taxan

Các taxan có nguồn gốc từ thân (paclitaxel) hoặc lá

(docetaxel) của các cây thuỷ tùng vùng Tây Thái bình dương

và châu Âu, hiện nay cả hai hoạt chất này đều có thể tổng

hợp được. Khác với vinca alkaloid là những hoạt chất ức chế

sự tổ hợp của các vi ống trong tế bào, các taxan làm ổn định

các vi ống và làm ngừng chu kỳ G2. ứng dụng lâm sàng của

paclitaxel ban đầu bị ngăn cản vì đã xảy ra các phản ứng

kiểu phản vệ và dị ứng nguy hiểm đến tính mạng do tá d-

ược - dầu thầu dầu polyoxyethylat và cồn (Cremaphor EL)

gây ra. Các phản ứng này được làm giảm bằng cách dùng

dexamethason, diphenhydramin và chất ức chế thụ thể H1

trước và sau điều trị, đồng thời giảm tốc độ truyền thuốc. Có

thể không cần dùng corticosteroid khi truyền paclitaxel

hàng tuần ở mức liều trung bình trong vòng một giờ.

Docetaxel không có tá dược Cremaphor nên ít gây các phản

ứng tăng mẫn cảm hơn.

Paclitaxel

Paclitaxel có hoạt tính mạnh ở cả bệnh nhân mẫn cảm

(tỷ lệ đáp ứng từ 35 - 55% ) và bệnh nhân không mẫn cảm

Page 73: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 73

với doxorubicin (tỷ lệ đáp ứng 20%). Liều dùng và chương

trình dùng paclitaxel tối ưu vẫn chưa được xác định.

Paclitaxel đã được điều trị với các liều từ 135 đến 250

mg/m2 trong một đến 24 giờ, ba tuần một lần. Một thử

nghiệm tiến hành trên bệnh nhân ung thư vú di căn cho

thấy dùng paclitaxel với liều 175mg/m2 có tác dụng cao

hơn chút ít so với liều 135mg/m2 về thời gian cho tới khi

bệnh tiến triển (4,2 tháng so với 3,0 tháng), nhưng tỷ lệ đáp

ứng (29% so với 22%) và thời gian sống chung (11,7 tháng

so với 10,5 tháng) tương đương nhau.

Thử nghiệm ngẫu nhiên thứ hai do Nhóm B nghiên cứu

về bệnh bạch cầu và ung thư (CALGB) thực hiện so sánh các

liều 250, 210, và 175mg/m2 ở bệnh nhân ung thư vú di căn

chưa được điều trị trước đó. Các kết quả cũng tương tự

nghiên cứu trên, điều trị liều cao hơn kéo dài thời gian cho

tới khi bệnh tái phát hơn (3,8 tháng so với 4,1 và 4,8 tháng),

nhưng tỷ lệ đáp ứng (21%, 28%, và 22%), và thời gian sống

(9,8 tháng, 11,8 tháng, và 11,9 tháng) ở ba nhóm tương

đương nhau.

Dùng paclitaxel 1 lần/tuần cho hiệu quả điều trị tương

đương nhưng ít gây ức chế tuỷ xương và tác dụng phụ lên

hệ thần kinh hơn so với các liều cao hơn truyền 3 tuần 1 lần.

Có thể dùng liều 80 - 100 mg/m2/tuần trong vài tuần; ở hai

nghiên cứu riêng rẽ, tỷ lệ đáp ứng ghi nhận được là 53% và

22%, ngay cả ở bệnh nhân kháng anthracyclin.

Paclitaxel ít gây buồn nôn hoặc nôn, nhưng khi dùng ba

tuần một lần phần lớn bệnh nhân đều bị rụng tóc. Ngoài ra,

5 - 15% bệnh nhân bị hội chứng đau cơ và đau khớp, từ mức

Page 74: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

74 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

độ nhẹ đến rất nặng gây suy kiệt cơ thể. Hội chứng này

thường bắt đầu xuất hiện khoảng 24 - 72 giờ sau điều trị và

kéo dài từ hai đến bốn ngày. Có thể kéo dài thời gian dùng

dexamethason từ ngày truyền thuốc cho đến thời gian dự

đoán sẽ có đau cơ nếu bệnh nhân đau rất nhiều. Các kết quả

sơ bộ cho thấy uống bổ sung glutamin có thể phòng ngừa

đau cơ và đau khớp.

Cũng giống vinca alkaloid, các dấu hiệu thần kinh

ngoại vi thường xảy ra khi dùng paclitaxel, mặc dù chỉ 10

-15% bệnh nhân có triệu chứng ở mức độ nghiêm trọng

(cấp độ ba hoặc bốn). Bệnh thần kinh ngoại vi thường xảy

ra khi dùng liều cao hơn và thời gian truyền ngắn hơn, và

có tính chất tích luỹ. Các kinh nghiệm ban đầu cho thấy

giảm liều thuốc truyền hàng tuần có thể làm giảm các biểu

hiện thần kinh ngoại vi nhưng lại cho phép đạt liều cộng

dồn cao hơn nhiều.

Docetaxel

Mặc dù docetaxel tương tự như paclitaxel về mặt cấu trúc

và cơ chế tác dụng nhưng hai loại thuốc này có các đặc điểm

lâm sàng riêng biệt. Giống paclitaxel, docetaxel cũng có hiệu

quả cao ngay cả ở bệnh nhân đã được điều trị tích cực trước

đó với tỷ lệ đáp ứng trong khoảng 35 - 60%. Theo các số liệu

tiền lâm sàng, hiện tượng kháng docetaxel dường như ít bị

các protein kháng đa thuốc gây ảnh hưởng hơn so với

paclitaxel. Do đó, hai loại thuốc này có thể không kháng

chéo hoàn toàn. Ví dụ, trong một nghiên cứu, 25% bệnh

nhân có bệnh tiến triển khi dùng paclitaxel có đáp ứng với

docetaxel sau đó.

Page 75: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 75

So với paclitaxel, có ít nghiên cứu về hiệu quả của các liều

và các phác đồ dùng docetaxel khác nhau hơn. Docetaxel

thường được dùng với liều 100mg/m2 trong một giờ, ba tuần

một lần. Docetaxel 1 lần/tuần (30-40mg/m2/tuần trong 1 giờ)

cho đáp ứng khách quan ở 40 - 50% bệnh nhân ung thư vú

di căn ở hai nghiên cứu riêng rẽ. Cũng như với paclitaxel,

docetaxel dùng 1 lần/tuần có vẻ ít gây độc tính lên hệ thần

kinh và hệ tạo máu hơn.

Giống paclitaxel, docetaxel hiếm khi gây buồn nôn và

nôn, rụng tóc thường là hoàn toàn, các dấu hiệu thần kinh

ngoại vi có tính chất tích luỹ. Không giống paclitaxel,

docetaxel gây ứ dịch, phù ngoại vi và tràn dịch màng phổi.

Trong các nghiên cứu giai đoạn II ban đầu, ứ dịch có tính

chất tích luỹ và phụ thuộc liều. Tuy nhiên, nếu trước đó có

điều trị phù hợp (uống corticosteroid 3-5 ngày bắt đầu từ 24

giờ trước điều trị), có thể đạt liều cộng dồn cao hơn trước

khi xuất hiện ứ dịch.

Cả paclitaxel và docetaxel có thể gây ức chế tuỷ xương

nặng, thường xuất hiện thoáng qua và không có tính chất

tích luỹ. Tuy nhiên, do cả hai loại thuốc này đều được đào

thải qua hệ thống gan - mật cho nên cần hết sức thận trọng

khi dùng cho bệnh nhân có rối loạn chức năng gan, kết hợp

với giảm liều và theo dõi chặt chẽ về huyết học.

Không có nghiên cứu nào so sánh trực tiếp docetaxel và

paclitaxel ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn. Các

thử nghiệm ngẫu nhiên tiền cứu so sánh paclitaxel và

docetaxel trong điều trị bổ trợ và điều trị bệnh di căn

đang được tiến hành.

Page 76: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

76 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

Các chế độ điều trị phối hợp có taxan

Cả paclitaxel và docetaxel đã được phối hợp với các tác

nhân gây độc tế bào khác trong điều trị ung thư vú di căn.

Chế độ phối hợp paclitaxel và doxorubicin có hoạt tính

mạnh, nhưng có thể gây suy tim ở liều doxorubicin cộng

dồn thấp hơn nhiều so với liều thường quy. Mặc dù không

phải nghiên cứu nào cũng như nhau nhưng suy tim gặp ở

khoảng 20% bệnh nhân được điều trị bằng chế độ phối hợp.

Paclitaxel có thể làm giảm độ thanh thải doxorubicin, làm

tăng nồng độ thuốc trong máu. Truyền doxorubicin trước

paclitaxel có thể làm giảm độc tính lên máu và niêm mạc

nhưng không rõ có làm giảm độc tính lên tim hay không.

Các chiến lược khác gồm có hạn chế liều doxorubicin cộng

dồn ở mức dưới 350 mg/m2 và/hoặc dùng thuốc bảo vệ tim.

Người ta cũng đã phối hợp paclitaxel với mitoxantron và

epirubicin mà không gây độc tính lên tim quá mức.

Đến nay, phác đồ phối hợp docetaxel và doxorubicin

không làm tăng tỷ lệ suy tim cao hơn dự tính. Ví dụ, 54 bệnh

nhân ung thư vú di căn chưa được điều trị trước đó dùng

doxorubicin (liều 60mg/m2, ba tuần một lần) kết hợp với

docetaxel (60mg/m2, ba tuần một lần) và yếu tố kích thích

dòng bạch cầu hạt (G.CSF). Tỷ lệ đáp ứng khách quan là

57% với trung vị thời gian bảy tháng. Mặc dù 15 bệnh nhân

(28%) có giảm phân suất tống máu thất trái (với liều

doxorubicin cộng dồn trung bình 450mg/m2), chỉ có ba tr-

ường hợp bị suy tim sung huyết cấp độ ba hoặc bốn.

Các kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong một thử

nghiệm thứ hai trong đó docetaxel (75mg/m2), doxorubicin

Page 77: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 77

(50mg/m2) và cyclophosphamid (500 mg/m2) được dùng vào

ngày 1 của từng đợt điều trị 3 tuần cho 54 bệnh nhân ung

thư vú di căn chưa được điều trị trước đó. Tỷ lệ đáp ứng

khách quan là 77%, và tỷ lệ sống hai năm là 57. Mặc dù 14

bệnh nhân (26%) có giảm phân suất tống máu thất trái

không triệu chứng trong quá trình điều trị (6 trong số này

dùng liều doxorubicin < 360mg/m2), chỉ hai bệnh nhân (4%)

bị suy tim sung huyết cấp độ ba hoặc bốn.

Người ta chưa biết rõ liệu có nên chấp nhận nguy cơ

tăng độc tính của các phác đồ phối hợp có taxan để tăng

hiệu quả điều trị hay không. Một thử nghiệm của nhiều

nhóm nghiên cứu ở Mỹ tiến hành nhằm so sánh paclitaxel

đơn độc với doxorubicin đơn độc hoặc với hai thuốc phối

hợp trên bệnh nhân ung thư vú di căn chưa được điều trị

trước đó. Các bệnh nhân dùng thuốc đơn độc được

chuyển từ loại này sang loại kia vào thời điểm bệnh tiến

triển. Mặc dù tỷ lệ đáp ứng và thời gian cho tới khi bệnh

tái phát ở nhóm được điều trị bằng hai loại thuốc cao hơn

nhóm được điều trị bằng tác nhân đơn độc nhưng tỷ lệ

sống chung tương tự ở cả ba nhóm. Độc tính lên tim khi

dùng doxorubicin đơn độc hoặc khi dùng phối hợp với

paclitaxel là tương đương nhau.

Nếu trước khi điều trị bệnh di căn bằng phác đồ phối hợp

doxorubicin và paclitaxel bệnh nhân đã dùng các phác đồ có

anthracyclin bổ trợ thì hiệu quả điều trị có thể giảm. Trong

một nghiên cứu, thời gian cho tới khi bệnh tiến triển ngắn

hơn nhiều ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng chế độ

hóa chất có anthracyclin trước đó (7,0 tháng), tuy nhiên

Page 78: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

78 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

những người dùng phác đồ bổ trợ không có anthracyclin thì

không bị ảnh hưởng (8,6 tháng) khi so với những người ch-

ưa từng được điều trị bổ trợ trước đó (12,3 tháng).

Người ta so sánh phác đồ phối hợp doxorubicin và

paclitaxel với phác đồ FAC trong điều trị bậc I bệnh nhân

ung thư vú di căn. Tỷ lệ đáp ứng (68% so với 55%), thời gian

bệnh ổn định (8,3 tháng so với 6,2 tháng), thời gian sống (23

tháng so với 18 tháng) ở nhóm dùng doxorubicin và

paclitaxel cao hơn rõ rệt so với FAC.

Docetaxel (100mg/m2 trong 1 giờ, 3 tuần 1 lần) được so

sánh trực tiếp với docetaxel (75mg/m2 trong 1 giờ, 3 tuần 1

lần) phối hợp capecitabin (1250mg/m2/ngày chia 2 lần trong

2 tuần sau đó nghỉ 1 tuần) ở 511 bệnh nhân ung thư vú di

căn kháng anthracyclin. So với docetaxel đơn độc, liệu

pháp phối hợp cải thiện đáng kể trung vị thời gian sống

chung (442 ngày so với 352 ngày), thời gian bệnh ổn định

(186 ngày so với 128 ngày), và tỷ lệ đáp ứng chung (32% so

với 22%). Tuy nhiên, tác dụng phụ thường xảy ra nhiều

hơn khi điều trị bằng liệu pháp phối hợp, trong đó có viêm

niêm mạc, đỏ da gan bàn tay bàn chân, và sốt có giảm bạch

cầu trung tính.

Với tác dụng khiêm tốn nhưng có ý nghĩa trên lâm sàng

lên tỷ lệ sống, chưa rõ phác đồ phối hợp có tốt hơn so với

việc dùng lần lượt từng thuốc hay không, nhưng mới đây

Cục quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ đã thông qua và cho

phép sử dụng phối hợp docetaxel và capecitabin trong điều

trị ung thư vú di căn.

Page 79: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ VÚ 79

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Việc theo dõi định kỳ là hết sức cần thiết đối với bệnh

nhân ung thư vú. Theo dõi có thể giúp đánh giá hiệu quả

điều trị, phát hiện và đánh giá mức độ nghiêm trọng của tác

dụng phụ.

Khai thác bệnh sử và khám lâm sàng

Bệnh sử và khám lâm sàng rất hữu ích cho việc theo dõi

triệu chứng và đáp ứng của các dấu hiệu bệnh lý, ví dụ các

nhân ung thư dưới da, với điều trị. Tuy nhiên, ở 50% bệnh

nhân ung thư vú di căn, bệnh sử và khám lâm sàng không

cung cấp thông tin về đáp ứng của bệnh với điều trị.

Các thăm dò hình ảnh

X quang và chụp cắt lớp là công cụ thăm dò bằng hình

ảnh hữu ích cho phép quan sát những thay đổi về kích

thước và sự lan rộng của u vú di căn. Người ta thường tiến

hành chụp phim định kỳ trong quá trình điều trị để đánh

giá đáp ứng với điều trị. Xạ hình xương (dùng chất phóng

xạ để ghi hình xương) giúp phát hiện di căn xương và xem

di căn xương đang tiến triển hay đang thoái lui. Tuy nhiên,

rất khó lượng giá được sự xâm lấn của ung thư trên hình

ảnh xạ hình xương. Do đó, xạ hình xương không hữu ích

bằng chụp X quang và chụp cắt lớp trong việc đánh giá mức

độ đáp ứng điều trị.

Các chất chỉ điểm khối u

Đối với những bệnh nhân không phát hiện được các dấu

hiệu ung thư vú di căn bộc lộ ra ngoài, nồng độ các chất chỉ

Page 80: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

80 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

điểm u trong máu (ví dụ, CA15-3 và CEA) có thể hữu ích

trong việc đánh giá đáp ứng của ung thư với điều trị. Nồng

độ của các chất chỉ điểm khối u này trong máu tương ứng

với tiến triển của ung thư vú ở 60 - 70% bệnh nhân ung thư

vú di căn.

Page 81: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Thận

1. Ung thư thận là gì?

Có một số loại ung thư có thể phát triển trong thận. Bài

này thảo luận về ung thư tế bào thận là loại ung thư thận phổ

biến nhất ở người lớn. Ung thư tế bào chuyển tiếp (ung thư

biểu mô) liên quan đến bể thận là loại ung thư thận ít gặp

hơn. Nó tương tự như ung thư ở bàng quang và thường được

điều trị giống ung thư bàng quang. U Wilms là loại ung thư

thận phổ biến nhất ở trẻ em, khác với ung thư thận ở người

lớn.

Khi ung thư thận phát triển, nó có thể xâm lấn vào các cơ

quan ở gần thận, như gan, đại tràng hoặc tuyến tuỵ. Tế bào

ung thư thận có thể tách khỏi khối u ban đầu và lan đi xa (di

căn) tới các bộ phận khác của cơ thể. Khi ung thư thận di căn

thì tế bào ung thư có thể xuất hiện trong các hạch bạch

huyết. Nếu bác sĩ giải phẫu tìm thấy tế bào ung thư trong

các hạch bạch huyết ở gần thận nạo vét được trong khi phẫu

thuật, khi đó có thể ung thư đã lan tới các bộ phận khác

Page 82: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

82 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

trong cơ thể. Ung thư thận có thể lan và tạo ra các u mới,

thường gặp nhất là ở xương và phổi. Khối u mới có cùng

loại tế bào bất thường và có cùng tên với khối u ban đầu

(khối u nguyên phát) ở thận.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư thận là gì?

Giống như hầu hết các loại ung thư khác, các nghiên cứu

cho thấy nguy cơ ung thư thận tăng lên theo độ tuổi. Bệnh

thường xuất hiện nhất là trong độ tuổi 50 - 70. Gặp ở nam

giới nhiều gấp đôi nữ giới. Bên cạnh đó, ung thư thận có vẻ

thường gặp hơn ở người Mỹ gốc Phi so với người Mỹ da

trắng. Các yếu tố nguy cơ khác của ung thư thận là:

- Sử dụng thuốc lá: Theo kết quả nghiên cứu, những

người hút thuốc lá có nguy cơ bị ung thư thận cao gấp đôi

những người không hút thuốc. Bên cạnh đó, thời gian sử

dụng thuốc càng dài thì nguy cơ càng cao. Tuy nhiên, nguy

cơ mắc ung thư thận sẽ giảm xuống khi bỏ hút thuốc.

- Béo phì: Béo phì có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung

thư thận. Trong một số nghiên cứu, béo phì đi kèm tăng

nguy cơ ung thư ở phụ nữ. Một nghiên cứu khác nêu ra rằng

thừa cân cũng là một yếu tố nguy cơ cả ở nam giới. Nguyên

nhân của mối liên quan này còn chưa được xác định rõ.

- Sự tiếp xúc trong nghề nghiệp: Một số nghiên cứu đã

kiểm tra xem tiếp xúc với các yếu tố nghề nghiệp có làm

tăng nguy cơ phát triển ung thư thận ở công nhân hay

không. Ví dụ, các nghiên cứu chỉ ra công nhân lò than cốc

trong nhà máy thép có tỷ lệ mắc ung thư thận cao hơn bình

Page 83: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HẬN 83

thường. Bên cạnh đó, có một số bằng chứng cho thấy

amiăng ở nơi làm việc, một chất có liên quan tới ung thư

phổi và ung thư trung mô (là lớp màng bao phủ các tạng

bên trong của cơ thể), cũng làm tăng nguy cơ mắc một số

loại ung thư thận.

- Tia xạ: Những phụ nữ đã được chiếu xạ để điều trị các

rối loạn ở tử cung có thể tăng nhẹ nguy cơ phát triển ung

thư thận. Hơn nữa, những người đã tiếp xúc với thorotrast

(thorium dioxid), một chất phóng xạ được sử dụng vào

những năm 20 cùng với việc chụp X quang để chẩn đoán, có

tỷ lệ mắc ung thư thận tăng lên. Tuy nhiên, chất này hiện

không còn được sử dụng và các nhà khoa học cho rằng

chiếu xạ chỉ gây ra một phần trăm rất nhỏ trong tổng số các

trường hợp ung thư thận.

- Phenacetin: Một số người đã bị ung thư thận sau một

thời gian dài sử dụng loại thuốc này với liều cao. Loại thuốc

giảm đau này hiện không còn được sử dụng ở Mỹ.

- Lọc máu: Những bệnh nhân được lọc máu để điều trị

suy thận mạn tính trong nhiều năm tăng nguy cơ phát triển

nang thận và ung thư thận. Cần tiếp tục nghiên cứu để tìm

hiểu thêm về tác dụng lâu dài của việc lọc máu đối với các

bệnh nhân bị suy thận.

- Bệnh Von Hippel-Lindau (VHL): Các nhà nghiên cứu đã

phát hiện ra những người có căn bệnh di truyền này có nguy

cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào thận cũng như khối u ở

các bộ phận khác cao hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát tìm

ra một loại gen gây bệnh VHL và họ tin rằng việc phân lập

Page 84: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

84 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

được gen này có thể giúp cải thiện các phương pháp chẩn

đoán, điều trị và thậm chí phòng ngừa một số loại ung thư

thận.

3. Ung thư thận được phát hiện như thế nào? Triệu

chứng của ung thư thận là gì?

Ở giai đoạn sớm, ung thư thận thường không gây ra dấu

hiệu gì rõ ràng hoặc các triệu chứng khó chịu. Khi u thận

phát triển thì xuất hiện những triệu chứng sau:

• Đái máu. Máu có thể xuất hiện trong nước tiểu hôm nay

nhưng hôm sau lại không xuất hiện. Trong một số trường

hợp, người bệnh có thể nhìn thấy máu hoặc có thể được phát

hiện khi làm xét nghiệm nước tiểu trong thăm khám sức khỏe

định kỳ.

• Khối u ở vùng thận.

• Các triệu chứng ít gặp hơn có thể bao gồm:

- Mệt mỏi

- Chán ăn

- Giảm cân

- Sốt tái đi tái lại

- Đau ở cạnh lưng không khỏi

- Cảm thấy mỏi mệt toàn thân.

Huyết áp cao hoặc thiếu máu cũng có thể là dấu hiệu của

ung thư thận; tuy nhiên, những triệu chứng này ít gặp hơn.

Page 85: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HẬN 85

Những triệu chứng này có thể do ung thư hoặc các các

tình trạng bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra như nhiễm

khuẩn hoặc nang. Chỉ có bác sĩ mới có thể đưa ra chẩn đoán.

Những người có các triệu chứng này có thể đến gặp bác sĩ

gia đình hoặc bác sĩ chuyên khoa tiết niệu. Thông thường,

ung thư giai đoạn sớm không gây đau; điều quan trọng là

không nên chờ cho đến khi thấy đau mới đến khám bác sĩ.

Trong hầu hết các trường hợp, ung thư càng được phát

hiện và điều trị sớm thì khả năng hồi phục hoàn toàn của

bệnh nhân càng lớn.

4. Ung thư thận được chẩn đoán như thế nào?

Để tìm nguyên nhân gây triệu chứng, bác sĩ cần khai

thác tiền bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm

sàng. Bên cạnh việc kiểm tra các dấu hiệu về sức khỏe

chung, bác sĩ có thể chỉ định làm xét nghiệm máu và nước

tiểu. Bác sĩ có thể khám kỹ vùng bụng để tìm u cục hoặc

các khối bất thường.

Bác sĩ thường chỉ định các thăm dò hình ảnh của thận và

các cơ quan lân cận. Những bức tranh này thường có thể cho

biết các thay đổi ở thận và mô xung quanh. Ví dụ, chụp hệ

tiết niệu có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch (IVP) là chụp X

quang thận, niệu quản và bàng quang sau khi tiêm thuốc

cản quang vào tĩnh mạch. Các hình ảnh chụp được có thể

cho thấy những biến đổi về hình dạng của các cơ quan này

và các hạch lymphô lân cận.

Chụp động mạch sẽ cung cấp một loạt phim X quang

chụp mạch máu. Thuốc cản quang được tiêm vào mạch máu

Page 86: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

86 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

lớn qua một ống thông. Phim chụp cho thấy mạng lưới

mạch máu nhỏ hơn ở bên trong và xung quanh thận.

Các thăm dò bằng hình ảnh khác bao gồm chụp cắt lớp vi

tính, chụp cộng hưởng từ và siêu âm, có thể cho thấy sự

khác biệt giữa các mô bệnh và các mô lành.

Nếu kết quả xét nghiệm nghi ngờ ung thư thận thì có thể

tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất chắc chắn để

chẩn đoán ung thư. Sinh thiết để tìm ung thư thận tức là bác

sĩ chọc một kim nhỏ vào trong khối u và hút ra một mẫu mô.

Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh quan sát mô đó dưới kính hiển

vi để tìm tế bào ung thư.

Khi chẩn đoán ung thư thận, bác sĩ cần xác định giai đoạn

hoặc phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là một quá trình

thăm dò chi tiết để phát hiện ung thư đã lan chưa và nếu lan

thì lan tới phần nào của cơ thể. Bác sĩ cần phải có thông tin

này để lập kế hoạch điều trị cho bệnh nhân.

Để phân giai đoạn ung thư thận, bác sĩ có thể cho chụp bổ

sung cộng hưởng từ và chụp X quang các mô và mạch máu

ở bên trong và xung quanh thận. Bác sĩ có thể tìm các hạch

lymphô bị sưng to lên ở trong lồng ngực và ổ bụng qua

chụp cắt lớp vi tính. Chụp X quang lồng ngực thường có thể

cho biết ung thư đã di căn vào phổi chưa. Xạ hình xương là

dùng chất phóng xạ để ghi hình xương, có thể phát hiện ra

các dấu hiệu di căn của ung thư vào xương.

5. Ung thư thận được điều trị như thế nào? Tác

dụng phụ của điều trị là gì?

Page 87: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HẬN 87

5.1. Các phương pháp điều trị tại chỗ

Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư thận phổ

biến nhất. Phẫu thuật được thực hiện là cắt bỏ thận. Bác sĩ

phẫu thuật thường cắt bỏ toàn bộ quả thận cùng với tuyến

thượng thận và các mô quanh thận. Một số hạch bạch huyết

trong vùng có thể được nạo vét. Đây là thủ thuật cắt thận

triệt để. Trong một số trường hợp, bác sĩ phẫu thuật chỉ cắt

bỏ thận (thủ thuật cắt thận đơn giản). Quả thận còn lại nói

chung có thể đảm đương được công việc của cả hai thận.

Một số trường hợp khác, bác sỹ phẫu thuật chỉ cắt bỏ một

phần quả thận nơi có khối u, gọi là thủ thuật cắt thận bán

phần.

Thuyên tắc động mạch nghĩa là làm tắc động mạch để

khối u thuyên giảm đi, đôi khi được thực hiện trước phẫu

thuật để có thể tiến hành phẫu thuật dễ dàng hơn. Nó cũng

thường được sử dụng để giảm đau hoặc chống chảy máu

khi không thể cắt bỏ được khối u. Các miếng xốp nhỏ bằng

gelatin đặc biệt hoặc bằng chất liệu khác được tiêm vào cơ

thể qua một ống thông để làm tắc các mạch máu chính ở

thận. Thủ thuật này làm nhỏ khối u nhờ việc giảm tưới

dòng máu mang ôxy và các chất dinh dưỡng cần cho khối u

phát triển.

Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân thường đặt ra

trước khi phẫu thuật:

− Loại phẫu thuật nào sẽ được thực hiện?

− Có cần phải tiếp tục điều trị sau khi phẫu thuật không?

Cách điều trị như thế nào?

Page 88: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

88 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

− Tôi sẽ cảm thấy thế nào sau khi phẫu thuật?

− Nếu tôi bị đau, bác sĩ có thể giúp tôi như thế nào?

− Khi nào tôi có thể bắt đầu trở lại hoạt động thường ngày?

Liệu pháp tia xạ là sử dụng các tia có năng lượng cao để

tiêu diệt tế bào ung thư. Đôi khi, bác sĩ sử dụng liệu pháp

này để giảm đau (điều trị triệu chứng) khi ung thư thận đã

di căn vào xương.

Người ta điều trị ung thư thận bằng phương pháp chiếu

xạ ngoài, dùng một vật liệu phóng xạ bên ngoài cơ thể và

một máy chiếu xạ hướng các tia vào một vùng cụ thể. Bệnh

nhân ngoại trú được điều trị ở bệnh viện hoặc phòng khám

năm ngày mỗi tuần trong vài tuần. Phác đồ điều trị này giúp

bảo vệ các mô lành nhờ sự tỏa tổng liều phóng xạ ra ngoài.

Bệnh nhân không cần nằm viện trong khi tiến hành xạ trị và

bệnh nhân không mang nguồn xạ trong và sau khi điều trị.

Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân thường hỏi bác

sĩ trước khi tiến hành xạ trị:

− Mục đích của phương pháp điều trị này là gì?

− Khi nào thì việc điều trị bắt đầu? Khi nào thì kết thúc?

− Tôi sẽ cảm thấy như thế nào trong thời gian điều trị?

Có thể có những tác dụng phụ nào?

− Tôi có thể làm gì để chăm sóc bản thân trong khi điều

trị bằng tia phóng xạ?

− Làm cách nào tôi biết được điều trị có hiệu quả hay

không?

Page 89: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HẬN 89

− Liệu tôi có thể tiếp tục hoạt động như bình thường

trong thời gian điều trị tia phóng xạ hay không?

5.2. Các phương pháp điều trị toàn thân

Phẫu thuật và thuyên tắc động mạch là các phương pháp

điều trị tại chỗ. Các phương pháp đó chỉ tác động tới tế bào

ung thư trong vùng điều trị. Liệu pháp sinh học, hóa trị liệu

và liệu pháp hoóc-môn, được giải thích sau đây, là các

phương pháp điều trị toàn thân bởi vì chúng đi vào hệ

thống mạch máu và tới các tế bào trong toàn bộ cơ thể.

Liệu pháp sinh học là một dạng điều trị tăng cường khả

năng kháng ung thư tự nhiên của cơ thể (hệ thống miễn

dịch). Interleukin-2 và interferon là hai loại thuốc sử dụng

trong liệu pháp sinh học để điều trị ung thư thận giai đoạn

muộn. Các thử nghiệm lâm sàng tiếp tục nghiên cứu các

phương pháp tốt hơn để tiến hành liệu pháp sinh học đồng

thời có thể giảm được tác dụng phụ. Nhiều bệnh nhân được

điều trị bằng liệu pháp sinh học cần nằm viện trong thời

gian điều trị để có thể theo dõi được các tác dụng phụ này.

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế

bào ung thư. Mặc dù có hiệu quả trong điều trị nhiều loại

ung thư khác nhưng hóa trị liệu lại tỏ ra hạn chế đối với ung

thư thận. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm

hiểu các loại thuốc và các phác đồ phối hợp thuốc mới có thể

có hiệu quả hơn.

Liệu pháp hoóc-môn được áp dụng cho một số lượng

nhỏ bệnh nhân ung thư thận giai đoạn muộn. Một số trường

Page 90: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

90 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

hợp ung thư thận có thể điều trị bằng hoóc-môn để kiểm

soát sự phát triển của tế bào ung thư. Thông thường hoóc-

môn được sử dụng để điều trị triệu chứng.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Việc theo dõi định kỳ của bác sĩ sau khi điều trị ung thư

thận là rất quan trọng. Bác sĩ sẽ đề xuất một chương trình

khám theo dõi phù hợp bao gồm khám lâm sàng, chụp X

quang lồng ngực và các xét nghiệm cận lâm sàng. Đôi khi

bác sĩ chỉ định làm xạ hình và các xét nghiệm khác. Bệnh

nhân cần phải tiếp tục đến bác sĩ khám và báo với bác sĩ

ngay khi có những dấu hiệu bất thường xuất hiện.

Page 91: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Bệnh Hodgkin

1. Bệnh Hodgkin là gì?

Bệnh Hodgkin (HD) hay ung thư Hodgkin là một dạng u

lymphô ác tính, là một loại ung thư hệ bạch huyết. Điển

hình là u xuất hiện ở hạch bạch huyết rồi sau đó lan dần

theo thứ tự đến các hạch khác, lách, gan và tuỷ xương. Bệnh

Hodgkin còn được gọi là u lymphô Hodgkin.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư Hodgkin là gì?

Độ tuổi

Ở Mỹ và các nước kinh tế phát triển khác, tuổi mắc bệnh

Hodgin phân bổ theo đường cong có hai đỉnh, một ở độ tuổi

20 và một ở độ tuổi trên 50. Đa số bệnh nhân là thanh niên

trẻ. Hàng năm ở Mỹ có gần 7500 trường hợp HD mới mắc và

khoảng 1500 trường hợp tử vong do HD. Bệnh nhân trẻ hơn

có tỷ lệ sống sót sau năm năm cao hơn so với bệnh nhân

nhiều tuổi: 88% đối với bệnh nhân dưới 45 tuổi ở thời điểm

chẩn đoán, 77% đối với bệnh nhân từ 45 đến 54 tuổi, 67%

Page 92: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

92 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

đối với bệnh nhân từ 65 đến 74 tuổi và 38% đối với bệnh

nhân từ 75 tuổi trở lên.

Vị trí địa lý và tình trạng kinh tế xã hội

Bệnh Hodgkin có các dưới loại đặc trưng ở các vùng khác

nhau trên thế giới với tình trạng kinh tế xã hội khác nhau;

các dưới loại này phản ánh điều kiện phát triển tế bào ung

thư khác nhau. Một dưới loại là nhân xơ (NS) phổ biến ở các

nước phát triển, xuất hiện ở trẻ em, ở tuổi vị thành niên và

người trưởng thành. NS ở độ tuổi này chiếm phần chủ yếu ở

đỉnh đầu tiên trên đường cong theo tuổi.

Ở các nước đang phát triển không có lợi thế về kinh tế,

tần suất mắc bệnh HD cũng tăng vọt ở hai nhóm: ở trẻ em

nam và ở người trưởng thành lớn tuổi; tỷ lệ mắc bệnh tương

đối thấp ở thanh niên trẻ. Dưới loại HD phổ biến nhất ở các

nước đang phát triển là dưới loại tế bào hỗn hợp (MC).

Sự khác biệt về địa lý trong tần suất mắc HD đặc hiệu

theo tuổi dường như song song với mức độ phát triển công

nghiệp. Ví dụ, ở các nước đang ở giai đoạn đầu công nghiệp

hóa hoặc nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, sẽ thấy

kiểu phân bố trung gian với đỉnh ở tuổi trẻ em và thanh niên

trẻ, tần suất mắc dưới loại MC và NS là tương đương nhau.

Vai trò của các tác nhân nhiễm trùng

Người ta đã từng cho rằng các tác nhân nhiễm trùng, ví

dụ như virút, có thể kích thích quá trình phát triển bệnh

Hodgkin. Người ta cho rằng mối liên quan giữa tình trạng

kinh tế xã hội và nguy cơ mắc HD phản ảnh sự tiếp xúc kéo

dài với cùng một loại virút. Nói cách khác, những người

Page 93: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 93

sống trong cùng một vùng thì có sự tiếp xúc với cùng loại

virút và sẽ có cùng nguy cơ bị HD. Hiện chưa xác định được

loại virút đặc hiệu gây HD, nhưng một số nghiên cứu đã cho

thấy virút Epstein-Barr (EVB), virút gây bệnh bạch cầu đơn

nhân có thể là nguyên nhân. Khoảng thời gian có nguy cơ bị

HD cao nhất là năm đến chín năm sau chẩn đoán bệnh bạch

cầu đơn nhân. Có 40% đến 50% trường hợp HD kinh điển có

tế bào ung thư bị nhiễm EBV.

Tần suất mắc HD ở thanh niên trẻ có lẽ liên quan với

tình trạng nhiễm EBV hoặc các tình trạng nhiễm khuẩn

khác khi ở độ tuổi trẻ em. Bệnh nhân ở các nước công

nghiệp chưa phát triển, những người có điều kiện kinh tế

xã hội thấp và trẻ em bị HD thường hay có EBV dương tính

hơn so với bệnh nhân có điều kiện kinh tế xã hội cao hoặc

thanh niên trẻ. Do đó, ngoài EBV thì có thể còn có các cơ

chế hoặc tác nhân khác là nguyên nhân gây ra bệnh

Hodgkin ở thanh niên trẻ.

Một số trường hợp HD phát triển từ EBV, nhưng còn các

trường hợp không có EBV thì sao? Một khả năng là còn có

một loại virút hoặc vi trùng khác tham gia vào. Khả năng

thứ hai là có EBV nhưng không phát hiện ra. Khả năng thứ

ba là EBV không liên quan đến quá trình phát triển HD và

việc nó có mặt trong tế bào ung thư chỉ đơn thuần phản ánh

tình trạng tế bào của một người nào đó có mang EBV.

Hiện tượng mắc bệnh thành nhóm

Mắc bệnh thành nhóm là hiện tượng trong đó các trường

hợp mắc bệnh xẩy ra liền nhau về mặt thời gian và địa điểm

Page 94: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

94 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

khi được chẩn đoán. Mặc dù đã có thông báo về hiện tượng

mắc bệnh thành nhóm, nhưng các nghiên cứu khác chưa

khẳng định được các kết quả ban đầu này.

Yếu tố di truyền

Nhìn chung, nguy cơ bị HD ở những người có quan hệ họ

hàng gần gũi với bệnh nhân HD tăng khoảng 3-5 lần so với

tỷ lệ dự đoán, có thể là do tính nhạy cảm di truyền và sự

tiếp xúc với cùng một môi trường. Nguy cơ tăng 7 lần ở

những người là anh chị em của bệnh nhân HD còn trẻ tuổi

và nguy cơ của anh chị em sinh đôi cùng trứng tăng 100 lần.

Người ta không thấy nguy cơ mắc bệnh tăng ở các thành

viên trong gia đình của bệnh nhân trung niên bị HD.

3. Ung thư Hodgkin được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư Hodgkin là gì?

Khi đánh giá khả năng một bệnh nhân bị HD, bác sĩ sẽ

tìm hiểu một loạt yếu tố như tiền sử, kết quả khám lâm

sàng, sinh thiết, các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò

hình ảnh. Việc đánh giá bệnh nhân bị bệnh Hodgkin ban

đầu nhằm cung cấp thông tin cho chẩn đoán, tiên lượng,

phân giai đoạn và lựa chọn phương pháp điều trị.

Đa số bệnh nhân đến gặp bác sĩ khi bệnh đã có dấu hiệu

rõ ràng, thường là có một hạch to hoặc có khối u trên phim

chụp X quang lồng ngực. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể

không đặc hiệu và thường là dấu hiệu của một tình trạng

nhiễm khuẩn chứ không phải là của ung thư.

Page 95: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 95

Tiền sử và khám lâm sàng

Khai thác tiền sử nhằm xác định các triệu chứng, thời

gian xuất hiện và mức độ của chúng, như sốt không rõ

nguyên nhân, vã mồ hôi (đặc biệt ban đêm), sút cân, ngứa

và đau khi uống rượu. Tiền sử ung thư trước đó (kể cả các

loại u lymphô khác), điều trị hóa chất hoặc chiếu xạ trước

đó, tình trạng hệ miễn dịch (ví dụ, AIDS) và tiền sử gia đình

về bệnh Hodgkin hay các ung thư dòng lymphô, dòng tuỷ

và các mô khác cũng cần được tìm hiểu.

Bệnh nhân bị bệnh Hodgkin cần được một bác sỹ có kinh

nghiệm khám kỹ và đầy đủ. Bác sĩ lưu ý đặc biệt đến những

vùng thường hay có hạch to và số lượng các vị trí tổn

thương, kích thước gan và lách.

4. Ung thư Hodgkin được chẩn đoán như thế

nào?

Nếu nghi ngờ bị HD sau khi khai thác tiền sử và xét

nghiệm lâm sàng, cần phải sinh thiết hạch để xác định chẩn

đoán. Bác sĩ sẽ không sinh thiết hạch bẹn nếu có một hạch

nghi ngờ ở vị trí nào khác. Đôi khi các bác sỹ có thể yêu cầu

thêm sinh thiết hạch nếu bệnh Hodgkin được chẩn đoán

dựa vào kết quả sinh thiết ngoài hạch. Thủ thuật mở ổ bụng

để chẩn đoán hiện nay không còn được chỉ định để phân

giai đoạn HD.

Sinh thiết tuỷ xương

Khi có tế bào ung thư ở tuỷ xương thì có nghĩa là bệnh đã

ở giai đoạn muộn; ở giai đoạn sớm điều này chỉ gặp ở dưới

Page 96: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

96 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

1% bệnh nhân. Sinh thiết tủy xương có thể phát hiện ra tình

trạng thâm nhiễm vào tuỷ xương. Tuy nhiên, kết quả sinh

thiết tuỷ xương thường không ảnh hưởng tới điều trị, đặc

biệt là ở bệnh nhân giai đoạn muộn.

Mặc dù có các hạn chế này, sinh thiết tuỷ xương thường

được chỉ định cho bệnh nhân bị HD mới được chẩn đoán; ở

Anh, một nghiên cứu công bố 74% bác sĩ chuyên khoa huyết

học và 40% bác sĩ ung thư lâm sàng tiến hành sinh thiết tuỷ

xương. Các khuyến cáo hiện nay gợi ý sinh thiết tuỷ xương

là phù hợp với bệnh nhân mới được chẩn đoán HD nếu họ

có một hoặc một số đặc điểm dưới đây:

- Có một nhóm các triệu chứng được gọi là “hội chứng

B”, gồm có sốt, ra mồ hôi ban đêm, giảm cân và đôi khi bị

mệt và ngứa.

- Bệnh ở giai đoạn III hoặc IV trên lâm sàng

- Thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu

Các xét nghiệm cận lâm sàng

Sau khi đã xác định chẩn đoán bệnh Hodgkin trên sinh

thiết, các bác sĩ sẽ cho người bệnh làm thêm một số xét

nghiệm như:

- Công thức máu toàn bộ

- Tốc độ máu lắng

- Xét nghiệm chức năng gan, xương và thận

Mặc dù các kết quả này không trực tiếp quyết định giai

đoạn bệnh nhưng sẽ giúp bác sĩ lựa chọn liệu pháp điều trị

Page 97: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 97

và gợi ý các xét nghiệm thăm dò thêm để xác định các vị trí

tổn thương khác.

Thăm dò hình ảnh

Sau khi chẩn đoán HD, các bác sĩ thường yêu cầu làm

thêm các thăm dò bổ sung như chụp X quang lồng ngực;

chụp cắt lớp ngực, ổ bụng và khung chậu. Ghi hình vùng cổ

ngày càng trở nên phổ biến. Ngoài chụp CT, chụp với

gallium hoặc PET cũng được khuyến cáo.

• Lồng ngực

Tất cả các bệnh nhân cần được chụp X quang lồng ngực

thẳng và nghiêng. Trước kia, chụp cắt lớp chỉ được thực

hiện khi chụp X quang cho kết quả bình thường để phát

hiện các hạch nhỏ có thể bị bỏ qua khi chụp X quang. Tuy

nhiên, chụp cắt lớp lồng ngực hiện nay được khuyến cáo cho

tất cả bệnh nhân mới mắc vì nó có thể phát hiện ra các bất

thường một cách chính xác hơn, giảm số lượng kết quả

dương tính giả và thường cung cấp cho bác sĩ tin để thay đổi

liệu pháp điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.

• Ổ bụng

Chụp cắt lớp được sử dụng rộng rãi để thay thế chụp

bạch mạch ở hai chân (tiêm thuốc cản quang vào bạch mạch

hai chân để làm hiện hình hạch và bạch mạch trên phim X

quang) để tìm tổn thương trong ổ bụng, do kỹ thuật này dễ

tiến hành và thuận tiện cho bệnh nhân hơn. Chụp bạch

mạch ở hai chân vẫn có thể được chỉ định cho bệnh nhân có

tổn thương dưới cơ hoành và đang được xem xét chiếu xạ,

vì nó cho phép bảo vệ mô lành một cách chính xác hơn.

Page 98: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

98 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ

• Lách

Mặc dù chụp cắt lớp có thể cung cấp thông tin chi tiết về

gan và lách, nhưng chẩn đoán HD ở lách vẫn rất khó khăn.

Chụp với đồng vị phóng xạ và chụp cộng hưởng từ cũng

không đủ độ tin cậy và chính xác để phát hiện tình trạng

tổn thương ở lách. Vì vậy, thủ thuật mở bụng để phân giai

đoạn được chỉ định cho các trường hợp trong đó các biện

pháp điều trị có thể thay đổi tuỳ thuộc vào tình trạng tổn

thương lách.

• Gan

Tổn thương gan gặp ở gần 5% các trường hợp bị HD.

Tổn thương thường là rất nhỏ, không nhìn được bằng mắt

thường, do vậy việc chẩn đoán trở nên khó khăn. Các

hướng dẫn hiện nay khuyến cáo phải sử dụng tối thiểu

hai kỹ thuật hiện hình để chẩn đoán các đa tổn thương do

HD ở gan.

• Xương

Tổn thương xương hiếm gặp ở thời điểm chẩn đoán HD,

nó xuất hiện quá trình tiến triển bệnh ở 20% bệnh nhân. Khi

bệnh nhân bị đau xương hoặc đau khớp hoặc khi có các kết

quả cận lâm sàng đặc hiệu hoặc khi nghi có các vùng tổn

thương ở xương trên phim CT hoặc X quang thường quy,

các bác sĩ thường chỉ định làm hình xạ hương.

• Ống tiêu hóa

HD hiếm khi xuất hiện ở ống tiêu hóa. Nếu nghi có tổn

thương ở ống tiêu hóa, người bệnh sẽ được chụp ống tiêu

Page 99: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 99

hóa có bơm barium để phát hiện, sau đó được nội soi và

sinh thiết để khẳng định chẩn đoán.

• Hệ thần kinh trung ương

Tổn thương ở hệ thần kinh trung ương hiếm khi gặp ở bệnh

nhân bị bệnh Hodgkin. Có thể có tổn thương não hoặc tuỷ

sống.

Bác sĩ có thể xác định chẩn đoán dựa vào chụp X quang

thẳng, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ và xét nghiệm dịch

não tuỷ.

Có một số thuật ngữ liên quan đến các tiêu chuẩn phân

giai đoạn là:

− Hạch bạch huyết “vùng”: một vùng hạch bạch huyết và

mô lân cận; ví dụ hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn hoặc

hạch trung thất trong lồng ngực.

− Các cấu trúc ngoài hạch: các cơ quan hoặc các cấu trúc

thuộc hệ bạch huyết, ví dụ như lách, tuỷ xương và

tuyến ức.

− Cơ hoành: Một cơ rộng ngăn cách khoang lồng ngực và

khoang bụng.

Các giai đoạn

Giai đoạn I - Chỉ có tổn thương bệnh ở một vùng hạch

hoặc một cấu trúc ngoài hạch.

Giai đoạn II - Tổn thương từ 2 vùng hạch hoặc cấu trúc

hạch trở lên nhưng ở về một phía của cơ hoành.

Page 100: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

100 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Giai đoạn III - Tổn thương các vùng hạch hoặc cấu trúc

hạch ở cả hai phía của cơ hoành.

Giai đoạn IV - Tổn thương lan rộng nhiều cơ quan và các

mô ngoài các vùng hạch hoặc cấu trúc hạch, ví dụ gan, phổi

hoặc tuỷ xương.

Xác định dưới nhóm

Các tiêu chuẩn bổ sung giúp bác sĩ tiếp tục xác định các

dưới nhóm trong một giai đoạn gồm:

− Các triệu chứng như sốt không rõ nguyên nhân, ra mồ

hôi ban đêm hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân

trong vòng 6 tháng trước khi chẩn đoán. Chữ cái “A”

(ví dụ giai đoạn IIA) có nghĩa là không có các triệu

chứng này. Chữ cái “B” (ví dụ giai đoạn IIIB) có nghĩa

là có các triệu chứng này;

− Tình trạng lan tại chỗ của bệnh từ một vùng hạch hoặc

cấu trúc hạch tới mô lân cận hoặc liền kề ở cùng một

vùng của cơ thể được biểu diễn bằng chữ cái “e”, (ví dụ

giai đoạn IIe);

− Tổn thương ở lách được biểu diễn bằng chữ cái “s” (ví

dụ giai đoạn IIIs);

− Tình trạng “bệnh lan rộng”, khi mô ung thư có kích

thước lớn, được biểu diễn bằng chữ cái x.

Ví dụ, một bệnh nhân bị bệnh Hodgkin có tổn thương

hạch cổ, hạch trung thất và hạch bẹn (có nghĩa là cả trên và

Page 101: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 101

dưới cơ hoành) đồng thời có các triệu chứng như sốt, ra mồ

hôi vào ban đêm và giảm cân (các triệu chứng toàn thân),

được xếp vào giai đoạn IIIB.

5. Ung thư Hodgkin được điều trị như thế nào? Tác

dụng phụ của điều trị là gì?

Các phương thức điều trị chính cho bệnh Hodgkin là hóa

chất và chiếu xạ. Người ta sử dụng các hóa chất mạnh để tiêu

diệt tế bào ung thư và đo liều chiếu xạ rất kỹ càng. Trước khi

điều trị bác sỹ sẽ thảo luận với bệnh nhân về tác dụng phụ

đặc trưng của hóa chất, của chiếu xạ và phác đồ điều trị điển

hình.

Quyết định sử dụng hóa chất hoặc chiếu xạ hoặc cả hai

biện pháp điều trị phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn của

bệnh. Nguyện vọng của bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của

phương pháp điều trị cũng là một căn cứ quan trọng trong

quyết định lựa chọn biện pháp điều trị.

Giai đoạn I hoặc II

Khi bệnh ở giai đoạn I hoặc II, bác sĩ có thể yêu cầu xét

nghiệm bổ sung để xác định lựa chọn điều trị phù hợp nhất.

Bệnh nhân có thể tiếp tục được phân loại thành các nhóm: có

diễn biến rất thuận lợi, có diễn biến thuận lợi và có diễn biến

không thuận lợi. Những bệnh nhân thuộc nhóm có diễn biến

không thuận lợi có khả năng bị bệnh nặng hơn, nhưng vẫn

còn ở giai đoạn bệnh sớm nhất. Việc chia nhóm như vậy

giúp bác sĩ tìm ra lựa chọn điều trị phù hợp nhất cho bệnh

nhân giai đoạn sớm.

Page 102: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

102 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Các tiêu chuẩn được sử dụng để xác định bệnh giai đoạn

I hoặc II có diễn biến thuận lợi hoặc không thuận lợi bao

gồm tình trạng có u lớn trong lồng ngực, số lượng vùng

hạch tổn thương, độ tuổi của bệnh nhân, có triệu chứng

lâm sàng hoặc bất thường về tốc độ lắng máu đặc hiệu.

Quyết định điều trị tuỳ thuộc vào diễn biến của bệnh là

thuận lợi hay không.

Bệnh diễn biến thuận lợi

Có một số lựa chọn điều trị cho bệnh nhân giai đoạn I

hoặc II có bệnh diễn biến thuận lợi hoặc rất thuận lợi. Như

trên đã nêu, một số bệnh nhân có thể được chỉ định mở ổ

bụng để phân giai đoạn giúp khẳng định chắc chắn là bệnh

chưa lan. Nếu vậy, bệnh nhân có thể được chiếu xạ vào

vùng tổn thương.

Đối với bệnh nhân không được mở ổ bụng, các lựa chọn

điều trị bao gồm hóa chất phối hợp với chiếu xạ hoặc chiếu

xạ đơn độc. Điều trị phối hợp hóa chất với chiếu xạ cho tỷ lệ

tái phát thấp hơn, nhưng thường có độc tính cao hơn. Nguy

cơ tái phát cao hơn sau chiếu xạ đơn độc, nhưng bệnh nhân

tái phát sau chiếu xạ đơn độc có thể dễ điều trị hơn so với

bệnh nhân tái phát sau điều trị phối hợp hóa chất và chiếu

xạ. Bệnh nhân và bác sĩ phải thảo luận thật kỹ càng các lựa

chọn điều trị này, vì nguyện vọng của bệnh nhân đối với

nguy cơ tái phát và tác dụng phụ của điều trị đóng vai trò

quan trọng trong việc quyết định.

Bệnh diễn biến không thuận lợi

Page 103: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

BỆ NH HODGKIN 103

Bệnh nhân giai đoạn I hoặc II có bệnh diễn biến không

thuận lợi thường được điều trị bằng cả hóa chất và chiếu xạ.

Giai đoạn IIIA

Ở giai đoạn này tỷ lệ chữa khỏi bệnh ban đầu có thể đạt

60-80% chỉ bằng phương pháp chiếu xạ vào tất cả các hạch

mà không dùng hóa chất. Tuy nhiên, do nguy cơ tái phát

sau điều trị như vậy lên tới 50% nên hóa chất thường được

sử dụng phối hợp. Trong một số trường hợp, các bệnh nhân

này được điều trị bằng hóa chất đơn độc. Quyết định điều

trị phụ thuộc vào nguyện vọng của bệnh nhân về thời gian

điều trị, tác dụng mong đợi và các độc tính có thể gặp. Một

số thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ tái phát giảm khi

bệnh nhân điều trị bằng chiếu xạ phối hợp với hóa chất so

với bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất đơn độc, nhưng

không một thử nghiệm nào trong số này cho thấy sự khác

biệt về tỷ lệ sống sót.

Giai đoạn IIIB

Thông thường những bệnh nhân này được điều trị bằng

hóa chất đơn độc. Trong một số trường hợp có thể chiếu xạ

vào vùng có khối u lớn hoặc vào những vùng không đáp

ứng hoàn toàn với hóa chất.

Giai đoạn IV

Điều trị tương tự như giai đoạn IIIB, chủ yếu là bằng hóa

chất đơn độc. Một số trường hợp nhất định có thể chiếu xạ.

Ghép tuỷ xương

Page 104: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

104 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Truyền tế bào mầm tự thân sau khi dùng hóa chất liều

cao là phương thức điều trị hiệu quả cho bệnh nhân tái phát

sau điều trị hóa chất hoặc hóa chất phối hợp với chiếu xạ

ban đầu. Ghép tủy xương (còn gọi là cấy tế bào tạo máu) là

biện pháp điều trị trong đó người ta sử dụng hóa chất hoặc

chiếu xạ liều rất cao để diệt các tế bào ung thư, nhưng cũng

huỷ hoại các tế bào máu còn rất non (tế bào mầm) hình

thành trong tuỷ xương. Điều này khiến cho cơ thể tạm thời

không thể sản xuất được hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu đủ

số lượng cần thiết. Các tế bào mầm mới được cấy vào bệnh

nhân để khôi phục chức năng tạo máu của tuỷ xương

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Bệnh nhân u lymphô Hodgkin nên khám theo dõi định

kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan

trọng trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận

ngay với bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh

nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức

khỏe cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái

phát có thể được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các

đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u lymphô Hodgkin

nên thông báo với bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe

ngay khi chúng xuất hiện.

Page 105: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Tuyến Tiền Liệt

1. Tuyến tiền liệt là gì?

Tuyến tiền liệt là một tuyến trong hệ cơ quan sinh dục

nam. Nó sản xuất và chứa đựng tinh dịch, một loại dịch màu

trắng sữa nuôi dưỡng tinh trùng. Dịch này được tiết ra để

góp phần cấu thành tinh dịch.

Tuyến tiền liệt có kích thước gần bằng quả óc chó. Nó

nằm dưới bàng quang và phía trước trực tràng. Nó bao

quanh phần trên niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang

ra ngoài). Nếu tuyến tiền liệt phát triển quá to, chèn ép lên

niệu đạo làm dòng nước tiểu thoát ra ngoài có thể bị chậm

lại hoặc bị dừng lại.

Để hoạt động bình thường, tuyến tiền liệt cần có hoóc-

môn sinh dục nam (các androgen). Hoóc-môn sinh dục nam

quy định đặc tính của nam giới. Hoóc-môn sinh dục nam

chủ yếu là testosteron, chủ yếu do tinh hoàn sản xuất ra. Các

Page 106: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

106 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

tuyến thượng thận sản xuất một lượng nhỏ một số hoóc-

môn sinh dục nam.

2. Ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư biểu mô tuyến,

chủ yếu là loại biệt hóa tốt. Ung thư nguyên phát tuyến

tiền liệt có thể gồm một hoặc nhiều ổ. Khoảng 50% số bệnh

nhân khi chẩn đoán đã có di căn xa, thường hay gặp là di

căn vào xương.

Nhờ nghiên cứu mà hiểu biết của chúng ta về ung thư

tuyến tiền liệt ngày càng được tăng lên. Các nhà nghiên cứu

đang tìm hiểu về những nguyên nhân có thể gây ra ung thư

tuyến tiền liệt và tìm kiếm những phương pháp mới để

phòng chống, phát hiện, chẩn đoán và điều trị căn bệnh này.

Nhờ có những nghiên cứu này, nguy cơ tử vong do ung thư

tuyến tiền liệt ở nam giới hiện nay đã giảm xuống.

3. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến tiền liệt là

gì?

Nguyên nhân gây ra ung thư tuyến tiền liệt chưa được

xác định rõ. Bác sĩ không thể giải thích tại sao người đàn ông

này bị ung thư tuyến tiền liệt nhưng người đàn ông khác lại

không bị.

Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu các yếu tố có thể

làm tăng nguy cơ mắc loại ung thư này. Họ đã chỉ ra

những yếu tố nguy cơ dưới đây có liên quan tới ung thư

tuyến tiền liệt:

Page 107: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 107

Độ tuổi. Ở Mỹ ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện chủ

yếu ở những nam giới trên 55 tuổi. Độ tuổi trung bình của

bệnh nhân khi chẩn đoán bệnh là 70 tuổi.

Tiền sử gia đình có ung thư tuyến tiền liệt. Nguy cơ ung

thư tuyến tiền liệt ở một người đàn ông tăng lên khi bố hoặc

anh em trai của người đó bị mắc loại ung thư này.

Chủng tộc. Loại ung thư này ở những nam giới người Mỹ

gốc Phi thường gặp hơn so với người da trắng. Bệnh ít gặp

hơn ở những nam giới gốc da đỏ và người châu Á.

Chế độ ăn uống và các yếu tố dinh dưỡng. Một số bằng

chứng cho thấy rằng chế độ ăn có hàm lượng mỡ động vật

cao có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền

liệt còn chế độ ăn có nhiều rau và trái cây tươi có thể làm

giảm nguy cơ phát triển loại ung thư này. Các nghiên cứu

đang được tiến hành để tìm hiểu xem có thể làm giảm

nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới bằng cách

bổ sung thêm một số chất vào chế độ ăn hay không.

Mặc dù một vài nghiên cứu đề xuất việc thắt ống dẫn

tinh có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến

tiền liệt ở nam giới, nhưng hầu hết các nghiên cứu không

ủng hộ điều này. Các nhà khoa học đã nghiên cứu những

yếu tố như tăng sản tuyến tiền liệt lành tính, béo phì, ít

tập thể dục, hút thuốc lá, tiếp xúc với chất phóng xạ hoặc

các loại virút lây qua đường tình dục có làm tăng nguy cơ

phát triển ung thư tuyến tiền liệt không. Hiện nay có rất

ít bằng chứng chứng tỏ những yếu tố này làm tăng nguy

cơ mắc bệnh.

Page 108: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

108 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

4. Ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Những xét nghiệm sau đây được sử dụng để phát hiện

các bất thường ở tuyến tiền liệt, nhưng chúng không thể

quyết định rằng những triệu chứng bất thường đó là ung th-

ư hay do một bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Bác sĩ

sẽ xem xét các kết quả xét nghiệm và cân nhắc việc quyết

định khám thăm dò tìm thêm triệu chứng ung thư của bệnh

nhân. Bác sĩ có thể giải thích thêm về các xét nghiệm.

Thăm trực tràng. Bác sĩ dùng một ngón tay đi găng và

được bôi trơn vào trực tràng thăm tuyến tiền liệt qua thành

trực tràng để kiểm tra những vùng bị cứng hoặc nổi cục.

Xét nghiệm máu định lượng kháng nguyên đặc hiệu tuyến

tiền liệt (PSA). Nồng độ PSA trong máu có thể tăng lên ở

những người bị ung thư tuyến tiền liệt, phì đại lành tính

hoặc nhiễm khuẩn tuyến tiền liệt.

Triệu chứng

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm thường không có

triệu chứng. Nhưng ung thư tuyến tiền liệt có thể gây ra

những triệu chứng sau:

- Đái rắt, đặc biệt là vào ban đêm.

- Bí đái hoặc đi tiểu không hết bãi

- Không tiểu tiện được

- Dòng nước tiểu yếu hoặc ngắt quãng

- Đau và rát khi đi tiểu

Page 109: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 109

- Khó cương

- Đau khi xuất tinh

- Có máu trong nước tiểu hoặc trong tinh dịch

- Thường bị đau và co cứng ở phần dưới lưng, mông và

phần trên đùi.

Bất kỳ triệu chứng nào trong số này có thể do ung thư

hay bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra, chẳng hạn như

phì đại lành tính tuyến tiền liệt hoặc nhiễm khuẩn. Khi một

nam giới có những triệu chứng giống như vậy thì nên đến

bác sĩ khám hoặc đến bác sĩ chuyên khoa tiết niệu.

5. Ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán như thế nào?

Nếu một người có những triệu chứng hay kết quả xét

nghiệm nghi ung thư tuyến tiền liệt, khi đến khám bác sĩ sẽ

tìm hiểu về bệnh sử, tiền sử cá nhân và gia đình, tiến hành

khám và có thể chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng. Thăm

khám và xét nghiệm có thể bao gồm thăm trực tràng, xét

nghiệm nước tiểu để kiểm tra xem có máu hay có bị nhiễm

khuẩn không và xét nghiệm máu để đo nồng độ PSA. Trong

một số trường hợp bác sĩ còn có thể đo nồng độ

phosphataza acid tuyến tiền liệt (PAP) trong máu đặc biệt là

khi kết quả xét nghiệm PSA nghi có bất thường.

Bác sĩ có thể thăm dò thêm để tìm nguyên nhân gây ra

triệu chứng. Những xét nghiệm này bao gồm:

− Siêu âm qua trực tràng. Những sóng âm mà con người

không thể nghe thấy (siêu âm) được phát ra từ một đầu

Page 110: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

110 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

dò đưa vào trực tràng. Những sóng âm này phản hồi

lại để ghi lại thành hình ảnh của tuyến tiền liệt và máy

vi tính sử dụng hình ảnh được dội lại này để tạo nên

một hình ảnh siêu âm.

− Phim chụp bể thận-tiết niệu có tiêm thuốc cản quang tĩnh

mạch

− Soi bàng quang cho phép bác sĩ quan sát niệu đạo và

bàng quang qua một ống soi nhỏ có nguồn sáng.

Sinh thiết

Nếu kết quả xét nghiệm nghi có ung thư bệnh nhân sẽ

cần phải được tiến hành sinh thiết. Trong quá trình sinh

thiết bác sĩ cắt mẫu mô ở tuyến tiền liệt, thường là bằng kim.

Bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát những mô này dưới kính

hiển vi để tìm tế bào ung thư. Nếu có ung thư bác sĩ thường

thông báo mức độ của khối u. Mức độ khối u cho chúng ta

biết mức độ mô ung thư khác mô thường như thế nào và tốc

độ phát triển của khối u. Một cách phân mức độ ung thư

tuyến tiền liệt, được gọi là hệ thống Gleason, sử dụng thang

điểm từ 2 đến 10. Một hệ thống khác sử dụng từ G1 đến G4.

Khối u có mức điểm cao hơn thì khả năng phát triển và lan

nhanh hơn những khối u có mức điểm thấp hơn.

Nếu kết quả thăm khám và xét nghiệm không phải ung

thư, bác sĩ có thể chỉ định thuốc để làm giảm triệu chứng

do hiện tượng tuyến tiền liệt to lên gây ra. Phẫu thuật

cũng là một cách làm giảm bớt những triệu chứng này.

Phẫu thuật thường được sử dụng nhất là cắt tuyến tiền liệt

qua đường niệu đạo (TURP hay TUR). Khi tiến hành TURP,

Page 111: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 111

một dụng cụ được đưa qua niệu đạo để cắt bỏ phần mô

tuyến tiền liệt chèn lên phần trên niệu đạo và gây cản trở

dòng nước tiểu.

Các giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt

Nếu phát hiện ra ung thư ở tuyến tiền liệt, bác sĩ cần biết

giai đoạn hay phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là để tìm

xem ung thư đã lan ra chưa và nếu rồi thì lan tới bộ phận

nào của cơ thể. Bác sĩ tiến hành nhiều xét nghiệm máu và

thăm dò hình ảnh khác nhau để xác định được giai đoạn của

bệnh. Việc điều trị phụ thuộc vào những phát hiện này.

Xác định giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt là một quá

trình phức tạp. Bác sĩ có thể mô tả các giai đoạn bằng cách

sử dụng chữ số La mã (I-IV) hay chữ in (A-D). Dưới đây là

những biểu hiện chính của từng giai đoạn:

− Giai đoạn I hay giai đoạn A. Không phát hiện ra ung thư

khi thăm trực tràng. Có thể tình cờ phát hiện ra khi tiến

hành phẫu thuật vì lý do khác, thường là phẫu thuật để

điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Không có bằng

chứng cho thấy ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt.

− Giai đoạn II hay giai đoạn B. Khối u đã lan tỏa nhiều hơn

trong mô tuyến tiền liệt, có thể phát hiện ra khi thăm

trực tràng, cũng có thể phát hiện ra khi tiến hành sinh

thiết do nồng độ PSA cao. Không có bằng chứng cho

thấy ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt

− Giai đoạn III hay giai đoạn C. Ung thư đã lan ra ngoài

tuyến tiền liệt tới các mô lân cận.

Page 112: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

112 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

− Giai đoạn IV hay giai đoạn D. Ung thư đã lan vào hạch và

các bộ phận khác của cơ thể.

6. Ung thư tuyến tiền liệt được điều trị như thế

nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Các phương pháp điều trị

Có thể điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng những

phương pháp như: chờ đợi có theo dõi, phẫu thuật, tia xạ trị

liệu, liệu pháp hoóc-môn. Một số bệnh nhân được điều trị

bằng cách phối hợp các biện pháp. Bên cạnh đó, bác sĩ cũng

đang nghiên cứu các phương pháp điều trị khác có thể chữa

trị hiệu quả căn bệnh này.

Chờ đợi có theo dõi có thể được chỉ định cho một số

bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ra ở giai

đoạn sớm và bệnh phát triển chậm. Việc theo dõi và chờ đợi

nên áp dụng cho bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân có những

tình trạng bệnh nghiêm trọng khác. Đối với những bệnh

nhân này, nguy cơ rủi ro và tác dụng phụ của phẫu thuật, tia

xạ trị liệu, liệu pháp hoóc-môn có thể vượt qua những lợi ích

có thể đem lại. Những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt ở

giai đoạn sớm đang tham gia vào nghiên cứu để xác định

xem khi nào cần điều trị và dùng phương pháp điều trị nào

thì có hiệu quả.

Phẫu thuật là phương pháp thường được sử dụng để

điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm. Bác sĩ có thể

cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt (gọi là phẫu thuật cắt bỏ tuyến

tiền liệt triệt để) hay chỉ cắt bỏ một phần. Trong một số

Page 113: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 113

trường hợp, bác sĩ có thể sử dụng một kỹ thuật mới được

gọi là phẫu thuật giữ lại dây thần kinh. Loại phẫu thuật này

có thể giữ lại những dây thần kinh điều khiển sự cương d-

ương vật. Tuy nhiên, bệnh nhân có khối u lớn hoặc khối u

quá gần dây thần kinh có thể không thể thực hiện được loại

phẫu thuật này.

Bác sĩ có thể mô tả các loại phẫu thuật, thảo luận và so

sánh lợi ích và nguy cơ của chúng.

- Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để qua ổ bụng: bác sĩ

cắt toàn bộ tuyến tiền liệt và các hạch lân cận qua đường ổ

bụng.

- Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để qua tầng sinh môn,

bác sĩ cắt toàn bộ tuyến tiền liệt qua một vết rạch giữa bìu và

hậu môn. Đôi khi các hạch lân cận được cắt bỏ qua một vết

rạch riêng ở ổ bụng.

- Phẫu thuật cắt tuyền tiền liệt qua niệu quản (TURP), bác sĩ

cắt một phần tuyến tiền liệt bằng một dụng cụ đưa qua niệu

đạo. Ung thư được cắt bỏ khỏi tuyến tiền liệt bằng một dòng

điện truyền qua một vòng dây nhỏ ở đầu của dụng cụ đó.

Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để cắt bỏ phần mô

cản trở dòng nước tiểu.

Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện ra tế bào ung thư

trong hạch thì có khả năng bệnh đã lan sang các bộ phận

khác của cơ thể. Đôi khi bác sĩ tiến hành vét hạch trước

khi tiến hành cắt bỏ tuyến tiền liệt. Nếu ung thư tuyến

tiền liệt chưa lan vào hạch, bác sĩ có thể cắt bỏ tuyến tiền

liệt. Nếu ung thư đã lan vào hạch, tuyến tiền liệt có thể

Page 114: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

114 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

không được cắt bỏ nhưng bác sỹ có thể gợi ý các phương

pháp điều trị khác.

Tia xạ trị liệu (còn được gọi là liệu pháp phóng xạ) là

cách điều trị có sử dụng tia X có năng lượng cao để tiêu diệt

tế bào ung thư. Giống như phẫu thuật, tia xạ trị liệu là một

phương pháp điều trị tại chỗ, nó chỉ ảnh hưởng tới những tế

bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Đối với ung thư tuyến tiền liệt

giai đoạn sớm, tia xạ có thể được dùng thay cho phẫu thuật

hoặc được sử dụng sau phẫu thuật để tiêu diệt tất cả tế bào

ung thư còn sót lại trong vùng điều trị. Ở giai đoạn muộn nó

có thể được sử dụng để giảm đau hay làm nhẹ các triệu

chứng khác.

Tia phóng xạ có thể do một máy chiếu trực tiếp vào cơ

thể (chiếu xạ ngoài) hay nó có thể phát ra từ những hạt

phóng xạ nhỏ đặt ở bên trong hay gần khối u (chiếu xạ

trong hay chiếu xạ áp sát). Bệnh nhân có những khối u nhỏ

thường được điều trị bằng hạt phóng xạ trong đơn độc.

Một số bệnh nhân được điều trị bằng cả chiếu xạ trong và

chiếu xạ ngoài.

Đối với chiếu xạ ngoài, bệnh nhân đến điều trị tại bệnh

viện hoặc phòng khám 5 ngày mỗi tuần trong vài tuần. Bệnh

nhân có thể nằm viện trong một thời gian ngắn khi mang

nguồn xạ trong cơ thể.

Liệu pháp hoóc-môn ngăn cản tế bào ung thư lấy hoóc-

môn sinh dục nam cần thiết để chúng phát triển. Phương

pháp này được gọi là phương pháp điều trị toàn thân bởi nó

tác dụng lên toàn bộ các tế bào ung thư trong cơ thể và được

sử dụng để điều trị ung thư đã lan. Đôi khi phương pháp

Page 115: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 115

này được sử dụng để phòng ngừa ung thư tái phát sau phẫu

thuật hay sau điều trị bằng tia phóng xạ.

Có một vài dạng hoóc-môn liệu pháp đựơc sử dụng để

điều trị ung thư tuyến tiền liệt:

- Cắt bỏ tinh hoàn là phẫu thuật nhằm lấy đi nguồn sản

xuất chính của hoóc-môn sinh dục nam.

- Những loại thuốc gây bài tiết hoóc-môn giải phóng

hoóc-môn tạo hoàng thể (LH-RH) có thể ngăn chặn tinh

hoàn sản xuất testosteron. Ví dụ như leuprolid, goserelin và

buserelin.

- Những loại thuốc kháng các androgen có thể ngăn cản

hoạt động của hoóc-môn nam. Hai ví dụ là flutamid và

bicalutamid.

- Những loại thuốc có thể ngăn chặn tuyến thượng thận

sản xuất androgen bao gồm ketoconazol và aminoglutethimid

Sau phẫu thuật cắt tinh hoàn hay điều trị bằng một thuốc

kích thích LH-RH, cơ thể không còn testosteron do tinh hoàn

tiết ra nữa. Tuy nhiên các tuyến thượng thận vẫn sản xuất

một lượng nhỏ hoóc-môn nam. Đôi khi bệnh nhân còn được

dùng một loại thuốc kháng androgen, loại thuốc này sẽ ngăn

cản tác dụng của các hoóc-môn nam còn sót lại. Phương

pháp phối hợp các biện pháp điều trị này được gọi là

Phương pháp chẹn androgen toàn bộ. Bác sĩ không biết chắc

chắn liệu điều trị bằng phương pháp chẹn androgen toàn bộ

có hiệu quả hơn việc điều trị đơn độc hoặc bằng phương

pháp phẫu thuật cắt tinh hoàn hoặc bằng thuốc kích thích

LR-RH hay không.

Page 116: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

116 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Ung thư tuyến tiền liệt khi đã lan sang các bộ phận khác

có thể kiểm soát được bằng liệu pháp hoóc-môn trong một

thời gian, thường là trong vài năm. Tuy nhiên, cuối cùng

thì phần lớn các khối ung thư tuyến tiền liệt vẫn có thể

phát triển khi không có hoặc có rất ít hoóc-môn nam. Khi

điều này xảy ra, liệu pháp hoóc-môn không còn hiệu quả

nữa và bác sĩ có thể gợi ý các dạng điều trị đang được

nghiên cứu khác.

7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Trong và sau khi điều trị, bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi bệnh

nhân. Bác sĩ sẽ khám cho bệnh nhân định kỳ để chắc chắn

bệnh không xuất hiện trở lại hay tiến triển và sẽ quyết định

liệu có cần thêm một phương pháp điều trị nào khác nữa

hay không. Khám theo dõi có thể bao gồm chụp X quang,

chụp cắt lớp vi tính và xét nghiệm cận lâm sàng, ví dụ định

lượng PSA máu.

Page 117: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Não

1. Ung thư não là gì?

Ung thư não là khái niệm chung để chỉ các khối u ác tính

ở não chứa các tế bào ung thư. Chúng ảnh hưởng đến các

chức năng sống và gây nguy hiểm cho tính mạng. Các khối

u này thường lớn lên nhanh và xâm lấn vào mô lân cận.

Cũng giống như một loại cây, các khối u này có thể “mọc rễ”

vào mô lành của não. Nếu khối u ác tính ở não là rắn và

không có rễ, đó là khối u có vỏ bọc. Khi có một khối u ở

vùng điều hành chức năng sống của não và ảnh hưởng đến

các chức năng này thì chúng cũng có thể được coi là khối u

ác tính (mặc dù chúng không chứa tế bào ung thư).

2. Các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân của ung thư não là gì?

Nguyên nhân gây ra u não chưa được xác định. Các

nhà nghiên cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này. Họ

càng tìm hiểu được nhiều về các nguyên nhân gây ra u

Page 118: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

118 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

não thì cơ hội tìm ra các cách phòng chống càng lớn. Bác sĩ

không thể giải thích tại sao người này bị u não nhưng

người khác lại không bị, nhưng các nhà nghiên cứu biết

rằng không ai bị lây u não từ một người khác. U não

không phải là bệnh truyền nhiễm.

Mặc dù các khối u não có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, các

nghiên cứu cho thấy chúng phổ biến nhất ở hai nhóm tuổi.

Nhóm thứ nhất là trẻ em từ 3 đến 12 tuổi; nhóm thứ hai là ở

người lớn từ 40 đến 70 tuổi.

Bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn bệnh nhân ung

thư, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố nguy cơ

nhất định có thể làm tăng nguy cơ phát triển u não. Người

có những yếu tố nguy cơ này có tỷ lệ bị u não cao hơn mức

trung bình. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy một số loại u não

thường xuất hiện hơn ở những công nhân trong một số

ngành công nghiệp nhất định như lọc dầu, sản xuất cao su

và sản xuất dược phẩm. Các nghiên cứu khác cho thấy, các

nhà hóa học và những người làm nghề ướp xác có tỷ lệ u

não cao hơn. Các nhà nghiên cứu cũng đang xem xét việc

tiếp xúc với virút có thể là một nguyên nhân gây u não hay

không. Vì đôi khi một số thành viên trong cùng một gia đình

có thể bị u não, các nhà nghiên cứu cũng đang nghiên cứu

tiền sử gia đình để xem yếu tố di truyền có phải là nguyên

nhân hay không. Hiện nay, các nhà khoa học không tin rằng

chấn thương ở đầu có thể dẫn đến u não.

Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân u não không có

yếu tố nguy cơ rõ ràng. Bệnh này có thể là kết quả của nhiều

yếu tố nguy cơ cùng tác động.

Page 119: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 119

3. Ung thư não được phát hiện như thế nào? Triệu

chứng của ung thư não là gì?

Triệu chứng của u não phụ thuộc chủ yếu vào kích thước

và vị trí của khối u trong não. Triệu chứng xuất hiện do tổn

thương phần mô não điều khiển các chức năng sống quan

trọng hoặc do chèn ép não vì khối u phát triển trong khoảng

trống có giới hạn của hộp sọ. Các triệu chứng có thể do tình

trạng phù tổ chức xung quanh khối u hoặc do hiện tượng

não úng thuỷ tức là khối u cản trở dòng dịch não tuỷ và gây

ứ dịch trong não thất. Nếu khối u não phát triển chậm, triệu

chứng của chúng có thể xuất hiện một cách từ từ đến mức

chúng bị bỏ qua trong một thời gian dài.

Triệu chứng thường gặp nhất của u não bao gồm:

- Đau đầu, đặc biệt vào buổi sáng và đỡ dần trong ngày

- Co giật

- Buồn nôn hoặc nôn

- Yếu hoặc mất cảm giác ở tay hoặc chân

- Mất thăng bằng khi đi lại

- Cử động nhãn cầu bất thường hoặc thay đổi thị giác

- Buồn ngủ

- Thay đổi tính cách hoặc trí nhớ

- Thay đổi ngôn ngữ

Những triệu chứng này có thể do u não gây ra nhưng

cũng có thể do các bệnh khác gây ra. Chỉ có bác sĩ mới có thể

đưa ra chẩn đoán.

Page 120: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

120 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Khối u não nguyên phát

Khối u bắt đầu ở mô não được gọi là khối u não nguyên

phát. Nó khác với khối u thứ phát là khối u xuất hiện khi ung

thư lan vào não. Khối u não nguyên phát được phân loại theo

loại mô nơi chúng xuất hiện. Loại u não thường gặp nhất là u

thần kinh đệm xuất phát từ mô đệm. Có nhiều loại u mô

đệm:

U tế bào hình sao xuất phát từ những tế bào nhỏ hình sao

(tiếng Anh gọi là astrocyt). Các u tế bào hình sao có thể phát

triển ở khắp mọi nơi trong não bộ hoặc tuỷ sống. Ở người

lớn u tế bào hình sao thường xuất hiện ở đại não. Ở trẻ em,

chúng xuất hiện ở thân não, đại não và tiểu não. U tế bào

hình sao cấp độ III có thể được gọi là u tế bào hình sao

không biệt hóa. U tế bào hình sao cấp độ IV thường được

gọi là u nguyên bào đệm nhiều dạng.

U thần kinh đệm ở thân não xuất hiện ở phần thân não.

Thân não kiểm soát nhiều chức năng sống quan trọng. Các

khối u ở vùng này nói chung không thể cắt bỏ được. Hấu hết

u thần kinh đệm thân não là u tế bào hình sao cấp độ cao.

U tế bào màng não thất thường phát triển trong lớp niêm

mạc lót não thất. Chúng còn có thể xuất hiện ở tuỷ sống.

Mặc dù chúng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi nhưng

thường gặp nhất ở trẻ em và thanh niên.

U tế bào thần kinh đệm có đuôi gai xuất hiện từ những tế

bào sản xuất myelin - lớp vỏ bọc mỡ bảo vệ dây thần kinh.

Những khối u này thường xuất hiện ở đại não. Chúng phát

triển chậm và thường không lan vào các mô não lân cận. U

Page 121: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 121

thần kinh đệm có đuôi gai thường hiếm gặp. Chúng thường

gặp nhất ở lứa tuổi trung niên nhưng đã phát hiện ra các

trường hợp mắc loại ung thư này ở mọi lứa tuổi.

Còn có các loại u não khác không xuất phát từ mô đệm.

Một số loại ung thư thường gặp nhất được trình bày dưới

đây:

U nguyên tuỷ bào trước đây được cho là phát triển từ tế

bào đệm. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra những

khối u này phát triển từ những tế bào thần kinh nguyên

thuỷ, những tế bào này thông thường không còn lại trong cơ

thể sau khi đứa trẻ ra đời. Vì lý do này, u nguyên tuỷ bào

đôi khi còn được gọi là u tế bào thần kinh lá phôi ngoài

nguyên thuỷ (PNET). Hầu hết u nguyên tuỷ bào xuất hiện ở

tiểu não; tuy nhiên chúng cũng có thể xuất hiện ở các vùng

não khác. Những khối u này thường xuất hiện ở trẻ em và

thường gặp nhiều ở trẻ trai hơn trẻ gái.

U màng não phát triển ở màng não. Chúng thường là

những khối u lành tính. Bởi vì những khối u này phát triển

chậm, não có thể điều chỉnh theo chúng; u màng não thường

phát triển khá lớn trước khi chúng gây ra triệu trứng. Chúng

thường xuất hiện ở những phụ nữ trong độ tuổi 30-50.

U tế bào Schwann là những khối u lành tính xuất phát từ

những tế bào sợi thần kinh Schwann là tế bào sản xuất myelin

bảo vệ dây thần kinh thính giác. U dây thần kinh thính giác là

một loại u tế bào Schwann. Chúng chủ yếu xuất hiện ở người

lớn. Loại ung thư này gặp ở nữ giới nhiều gấp đôi nam giới.

Page 122: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

122 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

U sọ-hầu phát triển ở vùng tuyến yên gần vùng dưới đồi

thị. Chúng thường là lành tính; tuy nhiên đôi khi chúng

được coi là ác tính bởi vì chúng có thể chèn ép lên hoặc huỷ

hoại vùng dưới đồi thị gây ảnh hưởng tới các chức năng

sống quan trọng của cơ thể. Những khối u này thường gặp

nhất ở trẻ em và thanh niên.

U tế bào mầm xuất phát từ những tế bào mầm (tế bào

sinh dục) nguyên thuỷ. Loại ung thư tế bào mầm trong não

thường gặp nhất là u tế bào mầm.

U vùng tuyến tùng xuất hiện ở trong hoặc xung quanh

tuyến tùng là một bộ phận nhỏ gần trung tâm não. Khối u có

thể là u tế bào tuyến tùng phát triển chậm hoặc u nguyên

bào tuyến tùng phát triển nhanh. Khu vực tuyến tùng là vị

trí rất khó tiếp cận và những khối u này thường không thể

cắt bỏ.

Khối u não thứ phát

Di căn là quá trình lan của ung thư. Ung thư xuất phát từ

một bộ phận khác của cơ thể có thể lan vào não và hình thành

khối u thứ phát. Những khối u này không giống như khối u

não nguyên phát. Ung thư lan vào não có cùng tên với ung

thư gốc (nguyên phát). Ví dụ, nếu ung thư phổi lan vào não

thì u ở não là ung thư phổi di căn bởi tế bào trong khối u thứ

phát là tế bào phổi bất thường chứ không phải tế bào não bất

thường.

Điều trị ung thư thứ phát tuỳ thuộc vào vị trí ung thư

nguyên phát và phạm vi lan cũng như các yếu tố khác bao

Page 123: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 123

gồm độ tuổi, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân và

đáp ứng với điều trị trước đó.

4. Ung thư não được chẩn đoán như thế nào?

Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng, bác sĩ có thể

hỏi bệnh nhân về tiền sử cá nhân và gia đình, tiến hành

thăm khám toàn bộ. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu

sức khỏe chung, bác sĩ còn tiến hành khám thần kinh. Quá

trình này bao gồm việc kiểm tra sự tỉnh táo, sức mạnh của

cơ bắp, khả năng giữ thăng bằng, các phản xạ và đáp ứng

đau. Bác sĩ còn tiến hành khám mắt để tìm dấu hiệu phù nề

do khối u chèn lên dây thần kinh nối mắt với não.

Tuỳ thuộc vào kết quả khám lâm sàng và thần kinh, bác

sĩ có thể yêu cầu tiến hành một hoặc cả hai thăm dò dưới

đây:

Chụp cắt lớp vi tính là các phim chụp chi tiết não bộ.

Phim chụp này được tạo ra bằng một máy vi tính nối với

một máy chụp X quang. Trong một số trường hợp cần tiêm

thuốc vào tĩnh mạch trước khi chụp để làm hiển thị sự khác

biệt của các mô trong não.

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân tạo ra phim chụp não bộ

bằng cách nối một nam châm mạnh với một máy vi tính.

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân đặc biệt hữu ích khi chẩn

đoán u não bởi vì nó có thể nhìn xuyên qua xương sọ não để

quan sát các mô bên dưới. Một loại thuốc đặc biệt có thể

được sử dụng để làm tăng khả năng phát hiện ra khối u não.

Bác sĩ có thể yêu cầu tiến hành các xét nghiệm khác như:

Page 124: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

124 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Chụp X quang hộp sọ có thể cho thấy những thay đổi

trong xương sọ do khối u gây ra. Nó cho thấy các lắng đọng

canxi có mặt trong một số loại u não.

Chụp xạ hình não hiển thị hình ảnh những khu vực phát

triển không bình thường ở não và ghi lại trên một loại phim

đặc biệt. Một lượng nhỏ chất phóng xạ được tiêm vào tĩnh

mạch. Chất này được khối u hấp thụ và mức độ hấp thụ

được hiển thị trên phim. Chất phóng xạ đi ra khỏi cơ thể

trong vòng sáu giờ và không nguy hiểm.

Chụp mạch hoặc chụp động mạch, là chụp bằng tia X sau

khi tiêm vào động mạch (thường là động mạch đùi) một loại

thuốc đặc biệt. Thuốc đi đến mạch máu não và có thể quan

sát trên phim X quang. Có thể thấy được hình ảnh khối u và

các mạch máu đi đến khối u.

Chụp X quang tuỷ sống. Một loại thuốc đặc biệt được

tiêm vào dịch não tuỷ và bệnh nhân được đặt nghiêng để

thuốc hòa vào dịch não tuỷ. Có thể thực hiện thăm dò này

khi bác sĩ nghi ngờ có khối u ở tuỷ sống.

5. Ung thư não được điều trị như thế nào? Tác dụng

phụ của điều trị là gì?

Các phương pháp điều trị

Các khối u não được điều trị bằng phẫu thuật, xạ trị và

hóa chất, có thể sử dụng nhiều biện pháp. Bệnh nhân có thể

được gửi đến các bác sĩ chuyên về các lĩnh vực khác nhau và

các bác sĩ này phối hợp với nhau trong điều trị. Đội ngũ các

bác sĩ chuyên khoa thường có bác sĩ phẫu thuật thần kinh,

Page 125: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 125

bác sĩ ung thư nội khoa, bác sĩ tia xạ ung thư, y tá, chuyên

gia dinh dưỡng và người làm công tác xã hội. Bệnh nhân có

thể làm việc với một bác sĩ vật lý trị liệu, chuyên gia chữa

bệnh bằng lao động và bác sĩ chuyên khoa ngôn ngữ.

Trước khi bắt đầu điều trị, hầu hết bệnh nhân được dùng

steroid là thuốc làm giảm phù nề. Bệnh nhân còn có thể

được dùng thuốc chống co giật để phòng chống hoặc kiểm

soát các cơn co giật. Nếu xuất hiện não úng thuỷ thì bệnh

nhân sẽ được làm một đường nối tắt (tiếng anh gọi là shunt)

để dẫn lưu dịch não tuỷ. Đường nối tắt là một ống dài và

mảnh được đặt vào não thất và sau đó đi dưới da tới một bộ

phận khác của cơ thể, thường là ổ bụng. Nó hoạt động như

một ống dẫn: Dịch thừa được dẫn ra khỏi não và được hấp

thụ trong vùng bụng. (Trong một số trường hợp, dịch thừa

được dẫn vào tim.)

Phẫu thuật là phương pháp điều trị thường được sử

dụng cho hầu hết các trường hợp u não. Để cắt bỏ khối u,

bác sĩ phẫu thuật thần kinh phải mở hộp sọ.

Bất cứ khi nào có thể, bác sĩ phẫu thuật cố gắng cắt bỏ

toàn bộ khối u. Tuy nhiên, nếu không thể cắt bỏ toàn bộ khối

u mà không làm tổn thương tới các mô não quan trọng thì

bác sĩ sẽ cố gắng cắt bỏ khối u càng nhiều càng tốt. Cắt bỏ

một phần khối u giúp làm giảm triệu chứng do làm giảm sự

chèn ép lên não và làm giảm khối lượng khối u được điều trị

bằng tia phóng xạ hoặc hóa chất.

Một số khối u không thể cắt bỏ. Trong những trường hợp

như vậy, bác sĩ chỉ có thể tiến hành sinh thiết. Một mảnh

Page 126: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

126 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

khối u nhỏ được cắt ra để bác sĩ giải phẫu bệnh có thể quan

sát dưới kính hiển vi nhằm xác định loại tế bào trong khối u.

Việc này giúp bác sĩ quyết định nên sử dụng phương pháp

điều trị nào.

Đôi khi, sinh thiết được thực hiện bằng kim. Bác sĩ còn sử

dụng một dụng cụ dạng khung đội đầu đặc biệt và chụp cắt

lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ hạt nhân để xác định vị

trí chính xác của khối u. Bác sĩ phẫu thuật mở một lỗ nhỏ ở

hộp sọ và sau đó hướng mũi kim vào khối u (định hướng

không gian).

Tia xạ trị liệu sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu

diệt tế bào ung thư và ngăn không cho chúng phát triển. Nó

thường được sử dụng để tiêu diệt phần mô ung thư không

cắt bỏ được khi phẫu thuật hoặc là để tiêu diệt tế bào ung

thư còn sót lại sau khi phẫu thuật. Xạ trị còn được sử dụng

khi không thể tiến hành phẫu thuật.

Xạ trị có thể thực hiện theo hai cách. Chiếu xạ ngoài xuất

phát từ một máy lớn. Nói chung, chiếu xạ ngoài được tiến

hành 5 ngày mỗi tuần trong vài tuần. Kế hoạch điều trị phụ

thuộc vào loại và kích thước của khối u và độ tuổi của bệnh

nhân. Tổng liều chiếu xạ đạt được sau một thời gian kéo dài

giúp bảo vệ các mô lành trong khu vực có khối u.

Phóng xạ có thể xuất phát từ vật liệu phát xạ đặt trực tiếp

trong khối u. Tuỳ thuộc vào chất liệu phát xạ được sử dụng,

mảnh cấy có thể lưu lại trong não trong một thời gian ngắn

hoặc vĩnh viễn. Chất phát xạ mất dần hoạt tính phóng xạ

Page 127: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 127

mỗi ngày. Bệnh nhân nằm viện trong một thời gian ngắn khi

hoạt tính phóng xạ còn mạnh nhất. Chiếu xạ ngoài chỉ có thể

chiếu trực tiếp vào khối u và các mô gần khối u, hiếm khi

chiếu xạ toàn bộ não bộ. (Đôi khi phóng xạ được chiếu trực

tiếp vào tuỷ sống). Khi toàn bộ não được điều trị, bệnh nhân

thường được nhận thêm một liều phóng xạ vào khu vực

khối u. Lượng phóng xạ tăng cường này có thể xuất phát từ

chiếu xạ ngoài hoặc chiếu xạ trong.

Phẫu thuật bằng tia nhờ định hướng không gian là một

phương pháp điều trị u não. Phương pháp điều trị này được

thực hiện một lần; sau khi định vị được chính xác khối u thì

tia có năng lượng cao được chiếu hướng vào khối u từ nhiều

góc. Bằng cách này, một liều tia cao có thể đến phá huỷ khối

u nhưng lại không phá huỷ các mô não khác. Phương pháp

này đôi khi được gọi là dao gamma.

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để diệt tế bào

ung thư não. Bác sĩ có thể chỉ sử dụng một loại thuốc hoặc

phối hợp nhiều loại thuốc, thuốc thường được uống hoặc

tiêm vào tĩnh mạch hoặc cơ bắp. Hóa trị liệu trong tuỷ sống là

phương pháp điều trị bằng tiêm thuốc vào dịch não tuỷ.

Hóa trị liệu thường được tiến hành theo đợt: một đợt

điều trị tiếp đến là thời gian nghỉ hồi phục và tiếp tục như

vậy. Bệnh nhân thường không phải nằm viện trong thời gian

điều trị. Bệnh nhân có thể được tiêm truyền thuốc ở phòng

khám ngoại trú của bệnh viện. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại

thuốc được sử dụng, đường đưa vào cơ thể và tình trạng sức

Page 128: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

128 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

khỏe chung mà bệnh nhân có thể cần phải nằm viện trong

một thời gian ngắn.

Thử nghiệm lâm sàng

Các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm các phương pháp

hiệu quả hơn và có ít tác dụng phụ hơn để điều trị u não.

Khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy một

phương pháp điều trị mới là có triển vọng, bác sĩ sẽ sử dụng

phương pháp mới để điều trị cho bệnh nhân ung thư trong

các thử nghiệm lâm sàng. Những thử nghiệm lâm sàng này

được thực hiện để trả lời các câu hỏi khoa học và để tìm ra

phương pháp điều trị mới an toàn và hiệu quả. Bệnh nhân

tham gia vào thử nghiệm lâm sàng đã góp một phần quan

trọng cho sự phát triển của y học và là những người đầu tiên

được hưởng lợi từ những phương pháp điều trị mới.

Nhiều thử nghiệm lâm sàng các phương pháp điều trị u

não đang được tiến hành. Bác sĩ đang nghiên cứu các loại và

các kế hoạch xạ trị mới, các loại thuốc điều trị ung thư mới,

các phác đồ phối hợp thuốc mới và sự kết hợp giữa hóa trị

liệu và xạ trị liệu.

Các nhà khoa học đang cố gắng để làm tăng tính hiệu

quả của xạ trị bằng cách chiếu xạ 2 lần một ngày thay cho

một lần. Hơn nữa họ còn đang nghiên cứu các loại thuốc

được gọi là chất mẫn cảm phóng xạ. Những loại thuốc này

làm cho tế bào ung thư nhạy cảm hơn với phóng xạ. Một

phương pháp khác đang được nghiên cứu là phương pháp

thấu nhiệt, trong đó khối u được đốt nóng lên để tăng hiệu

quả của tia phóng xạ.

Page 129: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 129

Nhiều loại thuốc không thể tiếp cận tế bào não do hàng

rào máu-não, một mạng lưới mạch máu và tế bào ngăn máu

vào não. Các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm các loại thuốc

mới có thể đi qua hàng rào máu-não. Các nghiên cứu đang

được thực hiện sử dụng các kỹ thuật khác nhau để tạm thời

phá bỏ hàng rào này để thuốc có thể tiếp cận được khối u.

Trong các nghiên cứu khác, các nhà khoa học đang khám

phá các cách mới dể đưa thuốc vào cơ thể. Thuốc có thể

được tiêm vào động mạch dẫn đến não hoặc có thể tiêm trực

tiếp vào não thất. Bác sĩ cũng đang nghiên cứu hiệu quả của

việc đặt những miếng xốp nhỏ chứa thuốc diệt ung thư trực

tiếp vào khối u. Miếng xốp dần dần tan đi.

Các nhà nghiên cứu cũng đang thử nghiệm việc điều trị

bằng thuốc chống ung thư với liều rất cao. Do liều thuốc rất

cao có thể gây tổn thương tuỷ xương, bác sĩ kết hợp phương

pháp điều trị này với phương pháp ghép tuỷ xương để thay

thế cho tuỷ xương đã bị huỷ hoại.

Liệu pháp sinh học là một phương pháp điều trị u não

mới hiện đang được nghiên cứu. Phương pháp điều trị này

nhằm tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống

lại bệnh tật.

Tác dụng phụ của điều trị

Điều trị ung thư thường gây ra các tác dụng phụ. Những

tác dụng phụ này xuất hiện bởi vì điều trị cũng tiêu diệt và

huỷ hoại các tế bào lành.

Tác dụng phụ của điều trị ung thư khác nhau. Chúng

phụ thuộc vào phương pháp điều trị và vùng được điều trị.

Page 130: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

130 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Hơn nữa, mỗi bệnh nhân lại có những đáp ứng khác nhau.

Bác sĩ cố gắng lập kế hoạch điều trị để giảm tác dụng phụ

xuống mức thấp nhất. Họ còn theo dõi bệnh nhân rất kỹ

lưỡng để giúp xử lý tất cả những vấn đề có thể xảy ra.

Phẫu thuật mở não là đại phẫu thuật. Phẫu thuật có thể

huỷ hoại mô não lành và có thể gây hiện tượng phù nề. Mệt

mỏi, các rối loạn thăng bằng, thay đổi tính cách, khó nói và

khó tư duy có thể là những tác dụng phụ của điều trị. Bệnh

nhân cũng có thể bị co giật. Thực tế, một thời gian ngắn sau

khi phẫu thuật triệu chứng có thể trầm trọng hơn trước đó.

Hầu hết tác dụng phụ của phẫu thuật có thể giảm nhẹ hoặc

biến mất theo thời gian.

Hầu hết các tác dụng phụ của xạ trị sớm mất đi sau khi

kết thúc điều trị. Tuy nhiên, một số tác dụng phụ có thể xảy

ra hoặc kéo dài sau khi điều trị kết thúc.

Một số bệnh nhân cảm thấy buồn nôn trong vài giờ đồng

hồ sau khi điều trị. Bệnh nhân được chiếu xạ thấy mệt mỏi

khi tiếp tục điều trị. Nghỉ ngơi là rất quan trọng, nhưng bác

sĩ thường khuyên bệnh nhân cố gắng hoạt động một cách

hợp lý. Chiếu xạ ở vùng sọ làm cho hầu hết bệnh nhân bị

rụng tóc. Khi tóc mọc trở lại thì tóc mới đôi khi mềm hơn và

màu có thể hơi khác. Trong một số trường hợp, bệnh nhân bị

rụng tóc vĩnh viễn.

Phản ứng của da trong vùng điều trị là hiện tượng

thường gặp. Lớp da đầu và tai có thể bị đỏ lên, ngứa hoặc

đen đi; những vùng này có thể trông như bị cháy nắng. Nên

để vùng chiếu xạ tiếp xúc với không khí càng nhiều càng tốt

Page 131: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 131

nhưng nên tránh tia nắng mặt trời. Bệnh nhân không nên

đội các loại mũ nón có thể kích thích da đầu. Chăm sóc da

tốt là rất quan trọng trong thời gian này. Bác sĩ có thể gợi ý

một số loại xà phòng hoặc thuốc mỡ và bệnh nhân không

nên sử dụng bất kỳ loại dầu thơm hoặc kem dưỡng da nào

khi không có lời khuyên của bác sĩ.

Đôi khi tế bào não đã bị tia phóng xạ tiêu diệt tạo nên một

khối trong não. Khối tế bào chết này có thể trông giống như

khối u và có thể gây các triệu chứng tương tự như đau đầu,

mất trí nhớ hoặc co giật. Bác sĩ có thể gợi ý phẫu thuật hoặc

dùng steroid để làm giảm triệu chứng. Trong khoảng thời

gian từ 4-8 tuần sau khi chiếu xạ bệnh nhân có thể bị buồn

ngủ hoặc mất cảm giác ngon miệng. Những triệu chứng này

có thể kéo dài trong vài tuần nhưng chúng sẽ tự biến mất.

Tuy nhiên, bệnh nhân nên thông báo cho bác sĩ khi có triệu

chứng.

Những trẻ em được điều trị khối u não bằng tia phóng xạ

có thể gặp khó khăn trong quá trình học tập hoặc bị mất một

phần thị lực. Nếu tuyến yên bị ảnh hưởng trẻ em có thể

không lớn hoặc không phát triển bình thường được.

Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc vào loại thuốc

điều trị. Nói chung, thuốc điều trị ung thư ảnh hưởng tới tế

bào phân chia nhanh, như tế bào máu chống lại nhiễm

khuẩn, tế bào lót niêm mạc ống tiêu hóa và tế bào ở nang

tóc. Kết quả là khả năng chống nhiễm khuẩn của bệnh nhân

giảm, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, nôn hoặc đau

miệng. Bệnh nhân cũng có thể có ít năng lượng hơn và có

Page 132: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

132 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

thể bị rụng tóc. Những tác dụng phụ này thường dần biến

mất sau khi kết thúc điều trị.

Một số thuốc điều trị ung thư có thể gây vô sinh. Phụ nữ

uống một số loại thuốc điều trị ung thư nhất định có thể có

triệu chứng mãn kinh (bốc hoả hoặc khô âm đạo; kỳ kinh

nguyệt có thể thất thường hoặc dừng lại). Một số loại thuốc

được sử dụng điều trị ung thư ở trẻ em có thể ảnh hưởng tới

khả năng sinh con sau này.

Một số loại thuốc điều trị u não có thể gây tổn thương

thận. Bệnh nhân thường được truyền một lượng dịch lớn khi

uống những loại thuốc này. Bệnh nhân cũng có thể có cảm

giác kim châm ở ngón tay, ù tai hoặc nặng tai. Những vấn

đề này có thể không mất đi khi kết thúc điều trị.

Điều trị bằng steroid để giảm phù nề ở não có thể làm cho

bệnh nhân ăn nhiều và tăng cân. Phù mặt và chân là những

hiện tượng thường gặp. Steroid có thể gây cảm giác bồn chồn,

tính khí không ổn định, ợ nóng và trứng cá. Tuy nhiên, bệnh

nhân không nên ngừng sử dụng steroid hay thay đổi liều

lượng mà không tư vấn bác sĩ. Phải dừng uống steroid một

cách từ từ để cơ thể điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi.

Mất cảm giác ngon miệng có thể là vấn đề đối với bệnh

nhân trong quá trình điều trị. Bệnh nhân có thể không cảm

thấy đói khi mệt mỏi hoặc khó chịu. Một số tác dụng phụ

thường gặp khi điều trị ung thư như buồn nôn, nôn có thể

làm cho việc ăn uống khó khăn hơn. Ăn tốt có nghĩa là lấy

đủ lượng calo và protein để không bị giảm cân, lấy lại sức

lực và tái tạo lại các mô lành. Nhiều bệnh nhân thấy ăn

Page 133: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ NÃO 133

nhiều bữa ăn nhỏ và bữa ăn nhẹ trong ngày có hiệu quả hơn

là ăn ba bữa chính.

Bệnh nhân được điều trị u não có thể có hiện tượng đông

máu và viêm tĩnh mạch, thường xảy ra nhất ở chân. Hiện

tượng này được gọi là viêm tắc tĩnh mạch. Những bệnh

nhân phát hiện bị phù ở chân, đau chân và/hoặc tấy đỏ ở

chân nên thông báo cho bác sĩ ngay.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Theo dõi định kỳ sau khi điều trị là rất quan trọng đối với

bệnh nhân u não. Bác sĩ sẽ kiểm tra kỹ lưỡng để chắc chắn

rằng khối u chưa xuất hiện trở lại. Thăm khám định kỳ

thường bao gồm khám sức khỏe toàn thân và khám thần

kinh. Thỉnh thoảng bệnh nhân phải chụp cắt lớp vi tính hoặc

cộng hưởng từ hạt nhân.

Bệnh nhân được chiếu xạ vào những vùng rộng ở não

hoặc được điều trị bằng một số loại thuốc chống ung thư

nhất định có nguy cơ bị bệnh ung thư tế bào máu hoặc khối

u thứ hai cao hơn. Hơn nữa xạ trị ảnh hưởng tới nhãn cầu có

thể dẫn đến bệnh đục thể thuỷ tinh. Bệnh nhân nên làm theo

lời khuyên của bác sĩ về chăm sóc sức khỏe và khám kiểm

tra. Nếu có vấn đề sức khỏe bất thường xảy ra thì nên thông

báo cho bác sĩ ngay.

Page 134: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Thực Quản

1. Ung thư thực quản là gì?

Ung thư thực quản là khối u ác tính từ các tế bào ung thư

ở thực quản. Ung thư thực quản được chia thành hai loại

chính: ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tế

bào tuyến, tuỳ thuộc vào loại tế bào ác tính. Ung thư biểu

mô tế bào vẩy xuất phát từ tế bào vẩy lót niêm mạc thực

quản. Loại ung thư này thường xuất hiện ở phần trên hoặc

phần giữa thực quản. Ung thư biểu mô tế bào tuyến thường

phát triển trong mô tuyến ở phần dưới thực quản.

Nếu ung thư lan ra ngoài thực quản, đầu tiên nó thường

lan tới hạch. Ung thư thực quản cũng có thể lan tới hầu như

bất kỳ phần nào của cơ thể, như gan, phổi, não bộ và xương.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư thực quản là gì?

Nguyên nhân chính xác gây ung thư thực quản chưa

được xác định rõ. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu thì tất

Page 135: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HỰC QUẢN 135

cả các yếu tố dưới đây có thể làm tăng nguy cơ ung thư

thực quản:

Độ tuổi. Ung thư thực quản có nguy cơ xuất hiện nhiều

hơn khi về già; Hầu hết những người bị ung thư thực quản

là trên 60 tuổi.

Giới tính. Ung thư thực quản thường gặp ở nam giới

nhiều hơn ở nữ giới.

Sử dụng thuốc lá. Hút thuốc lá điếu hoặc sử dụng thuốc

lá sợi không khói là một trong những yếu tố nguy cơ chính

gây ung thư thực quản.

Uống rượu. Uống nhiều rượu hoặc uống rượu kéo dài là

một yếu tố nguy cơ chủ yếu khác gây ung thư thực quản.

Những người sử dụng cả rượu và thuốc lá có nguy cơ mắc

ung thư thực quản đặc biệt cao. Các nhà khoa học cho

rằng những chất này làm tăng tác dụng có hại của từng

chất đơn độc.

Bệnh thực quản Barret. Tình trạng bị kích thích kéo dài có

thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản. Mô ở đoạn cuối

thực quản có thể bị kích thích nếu axít của dịch dạ dày

thường xuyên “trào ngược” lên thực quản. Hiện tượng này

gọi là trào ngược dạ dày-thực quản. Dần dần, tế bào ở phần

thực quản bị kích thích có thể thay đổi và trở nên giống với

tế bào lót niêm mạc dạ dày. Tình trạng này, gọi là thực quản

Barret, là một điều kiện tiền ung thư và có thể phát triển

thành ung thư tế bào tuyến của thực quản.

Các loại kích thích khác. Các nguyên nhân khác gây kích

thích nghiêm trọng hoặc gây phá huỷ niêm mạc thực quản,

Page 136: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

136 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

như uống phải dung dịch kiềm mạnh hoặc các chất ăn mòn

khác, có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản.

Tiền sử. Bệnh nhân bị mắc các loại ung thư khác ở vùng

đầu cổ có nguy cơ phát triển bị ung thư thứ hai ở vùng đầu

cổ cao hơn, bao gồm cả ung thư thực quản.

Có bất kỳ yếu tố nào trong số kể trên đây đều làm tăng khả

năng bị ung thư thực quản. Tuy nhiên, hầu hết những người

có một hoặc thậm chí có một vài yếu tố nguy cơ trên đây

không bị mắc căn bệnh này. Và hầu hết những người mắc ung

thư thực quản lại không có yếu tố nguy cơ nào trong số đã biết.

3. Ung thư thực quản được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư thực quản là gì?

Ung thư thực quản giai đoạn sớm thường không gây ra

triệu chứng. Tuy nhiên, khi khối u phát triển có thể có các

triệu chứng:

− Khó nuốt hoặc nuốt đau

− Sút cân trầm trọng

− Đau họng hoặc lưng, đau ở sau xương ức hoặc giữa

xương bả vai

− Khàn giọng hoặc ho kéo dài

− Nôn

− Ho ra máu.

Những triệu chứng này có thể do ung thư thực quản hoặc

do các bệnh khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ

kiểm tra.

Page 137: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HỰC QUẢN 137

4. Ung thư thực quản được chẩn đoán như thế nào?

Để giúp tìm ra nguyên nhân gây triệu chứng, bác sĩ sẽ

đánh giá tiền sử bệnh sử và tiến hành khám lâm sàng. Bác sĩ

thường chỉ định chụp X quang lồng ngực và các xét nghiệm

chẩn đoán khác. Những xét nghiệm này có thể bao gồm:

− Chụp thực quản có bari cho ta một loạt phim X quang

thực quản. Bệnh nhân uống một dung dịch lỏng có

chứa bari, bari sẽ phủ lên mặt trong thực quản. Bari cản

quang nên cho ta nhìn thấy trên phim những thay đổi

về hình dạng thực quản.

− Nội soi thực quản là quá trình soi bên trong thực quản

nhờ một ống nhỏ có nguồn sáng, được gọi là ống nội

soi. Bệnh nhân được gây mê khi nội soi. Nếu phát hiện

ra vùng không bình thường, bác sĩ có thể lấy một mẫu

mô qua ống nội soi để xem dưới kính hiển vi. Quá trình

này được gọi là sinh thiết. Sinh thiết có thể chỉ ra ung

thư, những thay đổi ở mô có thể dẫn đến ung thư hoặc

những tình trạng bệnh khác.

Phân giai đoạn bệnh

Nếu chẩn đoán là ung thư thực quản thì bác sĩ cần biết

giai đoạn (hoặc phạm vi) của bệnh. Phân giai đoạn là một

quá trình tỷ mỉ và cẩn thận để tìm hiểu xem ung thư đã lan

hay chưa và nếu đã lan thì tới bộ phận nào của cơ thể. Biết

được giai đoạn của bệnh giúp bác sĩ lập kế hoặch điều trị.

Có bốn giai đoạn ung thư thực quản:

Page 138: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

138 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

− Giai đoạn I. Ung thư mới chỉ ở lớp tế bào ngoài cùng

của niêm mạc thực quản.

− Giai đoạn II. Ung thư liên quan tới lớp tế bào sâu hơn

trong niêm mạc thực quản hoặc nó đã lan tới các hạch

lân cận. Ung thư chưa lan tới các bộ phận khác của cơ

thể.

− Giai đoạn III. Ung thư đã xâm lấn sâu hơn vào thành

thực quản hoặc đã lan tới mô hoặc các hạch gần thực

quản. Nó chưa lan tới các bộ phận khác của cơ thể.

− Giai đoạn IV. Ung thư đã lan tới các bộ phận khác của

cơ thể. Ung thư thực quản có thể lan tới tất cả các bộ

phận khác trong cơ thể, bao gồm gan, phổi, não bộ và

xương.

Một số xét nghiệm được sử dụng để xác định ung thư đã

lan hay chưa bao gồm:

Chụp cắt lớp vi tính. Một máy vi tính được nối với một

máy chụp X quang sẽ cho hàng loạt ảnh chi tiết các bộ phận

bên trong cơ thể.

Xạ hình xương. Kỹ thuật này làm hiện hình ảnh xương

trên màn hình vi tính hoặc trên phim, có thể cho biết ung

thư đã lan tới xương hay chưa. Một lượng chất phóng xạ

nhỏ được tiêm vào tĩnh mạch; nó di chuyển qua mạch máu

và tụ lại ở trong xương, đặc biệt là ở những vùng xương

phát triển không bình thường. Một dụng cụ được gọi là máy

xạ hình đo mức độ phóng xạ trong những vùng này.

Page 139: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HỰC QUẢN 139

Nội soi phế quản. Bác sĩ đặt ống nội soi phế quản (một

ống nhỏ có nguồn sáng) qua mồm hoặc mũi và luồn xuống

khí quản để quan sát đường hô hấp.

5. Ung thư thực quản được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Nhiều phương pháp điều trị khác nhau và các phương

pháp kết hợp thường được sử dụng để điều trị ung thư hoặc

là để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng

cách làm giảm triệu chứng

Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư thực quản

phổ biến nhất. Thông thường, bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối

u cùng với tất cả hoặc một phần thực quản, các hạch lân cận

và các mô khác trong vùng phẫu thuật (phẫu thuật cắt bỏ

thực quản). Bác sĩ phẫu thuật nối các phần lành còn lại của

thực quản với dạ dày để bệnh nhân vẫn có thể nuốt được.

Đôi khi, một ống bằng nhựa hoặc một phần ruột được sử

dụng để nối. Bác sĩ phẫu thuật còn có thể nới rộng vị trí dạ

dày mở vào ruột non để cho phép thức ăn trong dạ dày có

thể chuyển vào ruột non dễ dàng hơn. Đôi khi, phẫu thuật

được tiến hành sau khi kết thúc một phương pháp điều trị

khác.

Liệu pháp chiếu xạ là phương pháp sử dụng những tia có

năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Liệu pháp chiếu

xạ chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Phóng

xạ có thể xuất phát từ một máy bên ngoài cơ thể (chiếu xạ

ngoài) hoặc vật liệu phát xạ đặt ở bên trong hoặc gần khối u

Page 140: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

140 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

(chiếu xạ trong). Một ống nhựa có thể được đặt vào trong

thực quản để giữ cho thực quản mở trong khi chiếu xạ. Thủ

thuật này được gọi là đặt ống trong lòng thực quản và nong.

Liệu pháp chiếu xạ có thể được sử dụng đơn độc hoặc kết

hợp với hóa trị liệu để làm phương pháp điều trị ban đầu

thay cho phẫu thuật, đặc biệt là khi kích thước hoặc vị trí

của khối u khiến cho việc phẫu thuật khó khăn. Bác sĩ có thể

kết hợp chiếu xạ với hóa trị liệu để làm co khối u trước khi

phẫu thuật. Thậm chí khi khối u không thể cắt bỏ hoàn toàn

bằng phẫu thuật hoặc không thể bị phá huỷ hoàn toàn bằng

chiếu xạ thì chiếu xạ thường có thể giúp giảm đau và giúp

bệnh nhân dễ nuốt hơn.

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc điều trị ung

thư để diệt tế bào ung thư. Thuốc điều trị ung thư thực quản

đi vào tất cả các bộ phận trong cơ thể. Thuốc thường được

tiêm tĩnh mạch. Hóa trị liệu có thể kết hợp với xạ trị như là

một phương pháp điều trị ban đầu (thay cho phẫu thuật) để

làm co khối u trước khi phẫu thuật.

Laser liệu pháp là phương pháp sử dụng tia sáng có cường

độ cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia laser chỉ ảnh hưởng tới

tế bào trong vùng được chiếu. Bác sĩ có thể sử dụng tia laser

để phá huỷ mô ung thư và làm giảm sự tắc nghẽn thực quản

khi không thể cắt bỏ ung thư bằng phẫu thuật. Giảm sự tắc

nghẽn có thể giúp giảm triệu chứng, đặc biệt là nuốt.

Liệu pháp quang động học là một dạng của laser liệu

pháp, có sử dụng các loại thuốc được tế bào ung thư hấp

thụ; khi tiếp xúc với một tia sáng đặc biệt, thuốc sẽ trở nên

có hoạt tính và phá huỷ tế bào ung thư. Bác sĩ có thể sử

Page 141: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ T HỰC QUẢN 141

dụng liệu pháp quang động học để làm giảm các triệu

chứng của ung thư thực quản như hiện tượng khó nuốt.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Theo dõi sau khi điều trị ung thư thực quản đóng vai trò

quan trọng trong việc đảm bảo phát hiện ra tất cả những

thay đổi về sức khỏe. Nếu ung thư tái phát trở lại hoặc phát

triển hoặc một ung thư mới xuất hiện thì nó có thể được

điều trị sớm. Thăm khám và xét nghiệm kiểm tra có thể bao

gồm khám lâm sàng, chụp X quang hoặc những xét nghiệm

cận lâm sàng. Giữa các đợt khám định kỳ, bệnh nhân nên

thông báo tất cả các vấn đề sức khỏe cho bác sĩ của họ ngay

khi chúng xuất hiện.

Page 142: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Âm Đạo

1. Ung thư âm đạo là gì?

Ung thư biểu mô âm đạo là loại ung thư hiếm gặp chiếm

khoảng 1-2% các bệnh phụ khoa ác tính. Chúng có thể được

điều trị hiệu quả và khi phát hiện ra ở giai đoạn sớm thì

thường có thể chữa khỏi. Sự phân biệt về mô học giữa ung

thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tuyến là rất quan

trọng vì đây là hai dạng bệnh khác nhau, mỗi dạng có một cơ

chế sinh bệnh học và tiền sử tự nhiên riêng. Ung thư âm đạo

tế bào vẩy (chiếm khoảng 85% các trường hợp) ban đầu lan

theo bề mặt trong thành âm đạo và sau đó xâm lấn vào các

mô xung quanh âm đạo và xung quanh tử cung. Di căn xa

thường gặp nhất là ở phổi và gan. Ung thư biểu mô tuyến

(chiếm gần 15% các trường hợp) có tần suất mắc cao nhất ở

độ tuổi 17 đến 21 và khác ung thư biểu mô tế bào vẩy vì loại

ung thư này có khả năng cao hơn di căn vào phổi và các hạch

thượng đòn và vùng chậu. Thi thoảng, u hắc tố và sác-côm

được mô tả như là ung thư âm đạo nguyên phát. Ung thư

Page 143: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 143

biểu mô tuyến tế bào vẩy là một loại ung thư biểu mô hỗn

hợp hiếm gặp nhưng rất ác tính và chiếm khoảng 1 đến 2%

các trường hợp.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư âm đạo là gì?

Ung thư biểu mô tế bào tuyến là hiếm gặp và xuất hiện

nhiều nhất ở những bệnh nhân dưới 30 tuổi có tiền sử tiếp

xúc DES trong bụng mẹ. Tần suất mắc bệnh, cao nhất đối

với những người bị tiếp xúc ở ba tháng đầu thai kỳ, đạt con

số tối đa vào giữa những năm 70, điều này phản ảnh xu

hướng sử dụng DES trong những năm 50. Những phụ nữ

trẻ có tiền sử tiếp xúc DES trong bụng mẹ cần được theo dõi

chặt chẽ để được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm. Bệnh có

khả năng chữa khỏi cao ở những phụ nữ đã được theo dõi

chặt chẽ và điều trị tốt.

Bệnh hạch âm đạo thường gặp nhất ở những phụ nữ trẻ

có tiếp xúc DES trong bụng mẹ và có thể cùng tồn tại với

ung thư biểu mô tế bào tuyến, mặc dù bệnh hiếm khi phát

triển thành ung thư biểu mô tuyến. Bệnh hạch chuyển thành

dị sản vẩy một cách tự nhiên và đòi hỏi phải được theo dõi

nhưng không cần cắt bỏ.

3. Ung thư âm đạo được chẩn đoán như thế nào?

Sinh thiết cổ tử cung là điều bắt buộc để loại trừ ung thư

biểu mô cổ tử cung. Ung thư biểu mô âm hộ cũng cần được

loại trừ.

Page 144: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

144 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Giai đoạn được phân loại theo quy định của Hội Sản-Phụ

khoa quốc tế (FIGO) hoặc Hiệp hội Ung thư Mỹ (AJCC) về

tiêu chuẩn phân loại theo TNM (T- Tumor-khối u; N-Node-

hạch; M-Metastasis-di căn).

Các định nghĩa TNM

Các định nghĩa theo tiêu chuẩn T tương ứng với một số

giai đoạn được FIGO chấp nhận.

Khối u nguyên phát (T)

TX: Khối u nguyên phát không thể đánh giá được

T0: Không có bằng chứng của khối u nguyên phát

Tis 0: Ung thư biểu mô nông tại chỗ

T1 I: Khối u chỉ giới hạn ở âm đạo

T2 II: Khối u đã xâm lấn vào các mô xung quanh âm

đạo nhưng chưa vào tới thành khung chậu.

T3 III: Khối u lan ra ngoài thành khung chậu

T4* IV4: Khối u xâm lấn vào niêm mạc bàng quang

hay trực tràng và/hoặc lan ra bên ngoài khung chậu

(Triệu chứng phù rộp chưa đủ để xếp loại khối u

vào giai đoạn T4)

* Chú ý: Nếu niêm mạc bàng quang chưa bị xâm lấn,

khối u còn ở giai đoạn III

Các hạch vùng (N)

NX: Hạch vùng không thể đánh giá được

Page 145: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 145

N0: Chưa di căn vào hạch vùng

N1: Di căn vào hạch ở vùng chậu hoặc bẹn

Di căn xa (M)

MX: Di căn xa không thể đánh giá được

M0: Chưa di căn xa

M1: Có di căn xa

Phân nhóm giai đoạn theo AJCC (American Joint

Committee on Cancer)

Giai đoạn 0

Tis, N0, M0

Giai đoạn I

T1, N0, M0

Giai đoạn II

T2, N0, M0

Giai đoạn III

T1, N1, M0

T2, N1, M0

T3, N0, M0

T3, N1, M0

Giai đoạn IVA

T4, N bất kỳ, M0

Page 146: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

146 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Giai đoạn IVB

T bất kì, N bất kì, M1

4. Ung thư âm đạo được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Các yếu tố cần được xem xét khi lập kế hoạch điều trị ung

thư âm đạo là giai đoạn bệnh, kích thước và vị trí tổn thương,

còn hoặc không còn tử cung và bệnh nhân đã từng được

chiếu xạ vào vùng chậu trước đó hay chưa. Trong một nghiên

cứu hồi cứu quy mô lớn theo dõi các phụ nữ trong vòng 30

năm, 50% bệnh nhân được phẫu thuật cắt tử cung trước khi

chẩn đoán ung thư âm đạo. Trong nhóm bệnh nhân này,

31/50 (62%) bệnh nhân phát triển ung thư nhưng chỉ giới hạn

ở 1/3 trên của âm đạo. Ở những phụ nữ chưa bị cắt tử cung

trước đó, chỉ có 17/50 (34%) bệnh nhân có các tổn thương ở

1/3 trên của âm đạo. Bạch huyết có thể được dẫn lưu tới các

hạch ở vùng chậu hoặc hạch bẹn tuỳ theo vị trí của khối u và

cần phải lưu ý tới các vùng này khi lập kế hoạch điều trị. Do

âm đạo ở gần bàng quang và trực tràng nên đã hạn chế các

lựa chọn điều trị và tăng các biến chứng liên quan tới các bộ

phận này. Đối với ung thư biểu mô âm đạo giai đoạn sớm,

phương pháp điều trị chuẩn do các bác sĩ ung thư phụ khoa

hoặc bác sĩ tia xạ ung thư thực hiện là rất hiệu quả. Đối với

bệnh nhân ung thư giai đoạn III và IVA, chiếu xạ đơn độc là

phương pháp điều trị chuẩn. Đối với ung thư giai đoạn IVB,

liệu trình điều trị hiện nay là không phù hợp và không có loại

thuốc điều trị ung thư đã biết nào có thể được coi là phương

pháp điều trị chuẩn. Do những bệnh nhân như vậy rất hiếm

Page 147: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 147

gặp nên họ được coi là những ứng cử viên phù hợp cho các

thử nghiệm lâm sàng sử dụng các loại thuốc điều trị ung thư

và/hoặc các chất nhạy phóng xạ nhằm cải thiện tỷ lệ sống sót

hoặc khả năng kiểm soát khối u tại chỗ.

Ung thư âm đạo giai đoạn 0

Ung thư biểu mô tế bào vẩy nông tại chỗ

Loại ung thư này thường có nhiều ổ và hay thấy ở cùng

đồ. Do quá trình tân tạo trong biểu mô âm đạo có liên quan

tới các u tân tạo khác ở bộ phận sinh dục, cần khám kĩ cổ tử

cung và âm hộ. Các phương pháp điều trị được liệt kê dưới

đây có tỷ lệ chữa khỏi bệnh tương đương. Quyết định lựa

chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào các yếu tố của

bệnh nhân và kĩ năng xử lý tại chỗ, ví dụ, biến dạng về giải

phẫu cùng đồ (do sự khâu đóng thành khi cắt tử cung) đòi

hỏi phải được cắt bỏ vì những lý do kĩ thuật để loại trừ khả

năng xâm lấn của u đã bị che lấp. Các tổn thương do chứng

dầy sừng đáp ứng với phẫu thuật hoặc với tia lazer tốt hơn

so với dùng 5-FU.

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ kèm theo hoặc không kèm

theo ghép da.

(2) Phẫu thuật cắt bỏ âm đạo toàn bộ hoặc bán phần phối

hợp với ghép da cho ung thư nhiều ổ hoặc đã lan rộng.

Page 148: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

148 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

(3) Dùng hóa chất trong âm đạo kết hợp với kem

fluorouracil 5%. Bôi 1,5 gam mỗi tuần trong 10 tuần cũng cho

hiệu quả tương tự như khi bôi thường xuyên hơn.

(4) Điều trị bằng tia lazer.

(5) Chiếu xạ trong khoang với liều từ 6000-7000 cGy vào

niêm mạc. Cần chiếu xạ toàn bộ niêm mạc âm đạo.

Ung thư âm đạo giai đoạn I

Ung thư biểu mô tế bào vẩy

Các lựa chọn điều trị chuẩn có hiệu quả tương đương (sự

lựa chọn phụ thuộc vào các yếu tố bệnh nhân và kĩ năng xử

lý tại chỗ) là:

- Đối với u nông ở giai đoạn I có độ dầy dưới 0,5cm:

(1) Chiếu xạ trong khoang. Trong hầu hết các trường hợp,

liều 6000-7000cGy xuyên sâu 0,5 cm chiếu vào khối u trong

vòng 5 đến 7 ngày (phải chiếu xạ ngoài khi có tổn thương

lan rộng). Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, người

ta chỉ định chiếu xạ chọn lọc liều 4500 đến 5000 cGy vào các

hạch vùng chậu các hạch bẹn.

(2) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ hoặc phẫu thuật cắt bỏ toàn

bộ âm đạo kết hợp với tạo hình âm đaọ, đặc biệt là đối với

các tổn thương ở phần trên âm đạo. Trong trường hợp, mép

phẫu thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào ung thư thì cần xem

xét điều trị tia xạ bổ trợ.

- Đối với các khối u ở giai đoạn I dày > 0,5cm:

Page 149: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 149

(1) Phẫu thuật. Đối với các tổn thương ở 1/3 trên âm đạo,

cần phẫu thuật cắt bỏ âm đạo triệt để và vét hạch bạch huyết

vùng chậu. Có thể tạo hình một âm đạo mới nếu có thể và

nếu bệnh nhân muốn. Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới âm

đạo, cần vét sạch hạch bẹn. Trong trường hợp mép phẫu

thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào ung thư thì cần xem xét

việc chiếu xạ bổ trợ.

(2) Tia xạ. Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ và chiếu xạ

trong khoang với liều ít nhất là 7500cGy cho khối u nguyên

phát. Chiếu xạ ngoài kết hợp với xạ áp sát được chỉ định cho

các khối u biệt hóa thấp hoặc các khối u thâm nhiễm có nguy

cơ di căn hạch cao hơn. Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới

âm đạo, có thể chiếu xạ chọn lọc liều 4500 đến 5000 cGy vào

các hạch ở vùng chậu và hạch bẹn.

Ung thư biểu mô tuyến

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phẫu thuật. Do u đã lan xuống lớp dưới biểu mô nên

cần phẫu thuật cắt bỏ âm đạo triệt để và cắt tử cung kết hợp

với vét hạch. Các hạch sâu trong vùng chậu được vét sạch

nếu tổn thương xâm lấn vào phần trên âm đạo và các hạch

bẹn được vét bỏ nếu tổn thương xuất phát từ phần dưới âm

đạo. Có thể tạo hình một âm đạo mới nếu điều đó có khả

năng thực hiện được và nếu bệnh nhân mong muốn. Trong

trường hợp mép phẫu thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào

ung thư thì cần xem xét chỉ định chiếu xạ bổ trợ.

(2) Chiếu xạ trong khoang và chiếu xạ trong khoảng kẽ

như đã được mô tả cho ung thư tế bào vẩy. Đối với các tổn

Page 150: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

150 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể chiếu xạ chọn lọc liều

4500-5000 cGy vào các hạch ở vùng chậu và hạch bẹn.

(3) Phối hợp điều trị tại chỗ cho một số trường hợp được

lựa chọn, có thể bao gồm phẫu thuật cắt rộng tại chỗ, vét

hạch và chiếu xạ trong khoảng kẽ.

Ung thư âm đạo giai đoạn II

Ung thư biểu mô tế bào vẩy

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

Tia phóng xạ là phương pháp điều trị chuẩn cho ung thư

biểu mô âm đạo giai đoạn II.

(1) Phối hợp chiếu xạ áp sát và chiếu xạ ngoài để tạo ra

liều tổng hợp 7000-8000 cGy vào khối u nguyên phát. Đối

với các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể tiến hành

chiếu xạ chọn lọc liều 4500-5000cGy vào các hạch vùng

chậu hạch bẹn.

(2) Phẫu thuật triệt để (cắt bỏ âm đạo hoặc cắt bỏ các tạng

vùng chậu triệt để) có hoặc không kèm theo xạ trị.

Ung thư biểu mô tuyến

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phối hợp chiếu xạ áp sát và chiếu xạ ngoài để tạo ra

liều tổng hợp 7000-8000 cGy vào u nguyên phát. Đối với

các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể tiến hành chiếu xạ

chọn lọc liều 4500-5000 cGy vào các hạch vùng chậu và

hạch bẹn.

Page 151: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 151

(2) Phẫu thuật triệt để (cắt bỏ âm đạo hoặc cắt bỏ các tạng

vùng chậu triệt để) có hoặc không phối hợp với xạ trị.

Ung thư âm đạo giai đoạn III

Ung thư biểu mô tế bào vẩy

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong

khoang và chiếu xạ ngoài. Chiếu xạ ngoài trong khoảng 5-6

tuần (bao gồm chiếu cả các hạch vùng chậu), tiếp đến là

chiếu xạ trong khoảng kẽ và /hoặc chiếu xạ áp sát trong

khoang liều 7500 đến 8000 cGy cho toàn bộ khối u và liều

5500 đến 6000 cGy cho thành chậu bên.

(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị

nêu trên.

Ung thư biểu mô tuyến

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong

khoang và chiếu xạ ngoài như đã được mô tả trong điều trị

ung thư tế bào vẩy.

(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị

nêu trên.

Ung thư âm đạo giai đoạn IVA

Ung thư biểu mô tế bào vẩy

Các lựa chọn điều trị chuẩn

Page 152: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

152 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong

khoang và chiếu xạ ngoài.

(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị

nêu trên.

Ung thư biểu mô tuyến

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong

khoang và chiếu xạ ngoài.

(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị

nêu trên.

Ung thư âm đạo giai đoạn IVB

Ung thư biểu mô tế bào vẩy

Bệnh nhân cần được lựa chọn làm ứng cử viên cho một

trong các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để cải

thiện kết quả điều trị. Phương pháp điều trị chuẩn là không

đầy đủ.

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

Chiếu xạ (làm giảm triệu chứng) kèm theo hoặc không

kèm theo hóa trị liệu.

Ung thư biểu mô tuyến

Bệnh nhân cần được lựa chọn làm ứng cử viên cho một

trong các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để cải

thiện kết quả điều trị.

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

Page 153: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ ÂM ĐẠO 153

Chiếu xạ (làm giảm triệu chứng) kèm theo hoặc không

kèm theo hóa trị liệu.

Ung thư âm đạo tái phát

Tái phát có tiên lượng rất xấu. Trong một nghiên cứu lớn,

chỉ có năm trong số 50 bệnh nhân tái phát được chữa khỏi

bằng phẫu thuật hoặc tia phóng xạ. Cả năm bệnh nhân được

chữa khỏi này ban đầu bệnh chỉ ở giai đoạn I hoặc II và lan

vào trung tâm vùng chậu. Hầu hết các trường hợp tái phát

xảy ra trong vòng hai năm đầu sau khi điều trị. Đối với bệnh

nhân ung thư âm đạo tái phát ở trung tâm vùng chậu, một

số bệnh nhân có thể là ứng cử viên cho phương pháp điều

trị cắt bỏ nội tạng trong khung chậu hoặc chiếu xạ. Các thử

nghiệm lâm sàng cũng phù hợp và nên được xem xét. Cả

cisplatin và mitoxantron đều không có tác dụng đáng kể

trong điều trị ung thư tế bào vẩy tái phát hoặc giai đoạn

muộn. Chưa có phương pháp điều trị chuẩn bằng hóa chất.

5. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Bệnh nhân ung thư âm đạo nên khám theo dõi định kỳ

sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng

trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với

bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân được

giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức khỏe cũng

được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có thể

được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám

theo dõi định kỳ, bệnh nhân ung thư âm đạo nên thông báo

tất cả những vấn đề về sức khỏe ngay khi chúng xuất hiện.

Page 154: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Tử Cung

1. Ung thư tử cung là gì?

Loại ung thư tử cung thường gặp nhất bắt đầu từ nội mạc

tử cung. Nó được gọi là ung thư nội mạc tử cung hoặc ung

thư tử cung.

Một loại ung thư khác là sarcoma tử cung, phát triển từ

cơ tử cung. Ung thư bắt đầu từ cổ tử cung là một loại ung

thư khác. Bài này không đề cập tới sác-côm tử cung hay ung

thư cổ tử cung.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tử cung là gì?

Các nghiên cứu đã tìm ra những yếu tố nguy cơ dưới

đây:

Độ tuổi. Ung thư tử cung xảy ra hầu hết ở những phụ nữ

ngoài 50 tuổi.

Page 155: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 155

Tăng sản nội mạc tử cung. Nguy cơ mắc ung thư tử cung

cao hơn nếu người phụ nữ bị tăng sản nội mạc tử cung. Tình

trạng này và cách điều trị đã được nêu ở trên.

Liệu pháp điều trị hoóc-môn thay thế (HRT). HRT được

sử dụng để kiểm soát triệu chứng ở thời kỳ mãn kinh, ngăn

chặn hiện tượng loãng xương và giảm nguy cơ mắc bệnh

tim hay đột quỵ.

Phụ nữ sử dụng estrogen mà không sử dụng progesteron

có nguy cơ mắc ung thư tử cung cao hơn. Việc sử dụng

estrogen kéo dài và với liều cao dường như cũng làm tăng

nguy cơ này. Những phụ nữ sử dụng phối hợp estrogen và

progesteron sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư tử cung thấp

hơn so với những phụ nữ chỉ sử dụng estrogen. Progesteron

bảo vệ tử cung.

Phụ nữ nên thảo luận về lợi ích và nguy cơ của việc sử

dụng liệu pháp hoóc-môn thay thế với bác sĩ của họ. Việc

khám định kỳ khi dùng hoóc-môn có thể tăng khả năng phát

hiện ra ung thư tử cung ở giai đoạn sớm nếu nó phát triển.

Béo phì và tình trạng liên quan. Cơ thể tạo ra một phần

estrogen trong các mô mỡ. Đó là nguyên nhân tại sao phụ

nữ béo phì thường có nồng độ estrogen trong cơ thể cao hơn

những phụ nữ gầy. Nồng độ estrogen cao hơn có thể là

nguyên nhân khiến những phụ nữ béo phì có nguy cơ mắc

ung thư tử cung cao hơn. Nguy cơ mắc bệnh này cũng cao

hơn ở những phụ nữ bị bệnh đái tháo đường và bị tăng

huyết áp (tình trạng xảy ra ở rất nhiều phụ nữ béo phì).

Page 156: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

156 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Tamoxifen. Phụ nữ dùng tamoxifen để phòng chống hay

điều trị ung thư vú có nguy cơ mắc ung thư tử cung cao

hơn. Nguy cơ này dường như liên quan tới những tác dụng

giống estrogen của loại thuốc này lên tử cung. Bác sĩ theo

dõi bệnh nhân dùng tamoxifen để phát hiện ra những triệu

chứng và dấu hiệu của ung thư tử cung.

Lợi ích của tamoxifen trong điều trị ung thư vú vượt quá

nguy cơ phát triển các loại ung thư khác. Tuy nhiên, đối với

mỗi phụ nữ là khác nhau. Phụ nữ muốn sử dụng tamoxifen

phải hỏi bác sĩ.

Chủng tộc. Những phụ nữ da trắng có nguy cơ mắc ung

thư tử cung cao hơn những phụ nữ Mỹ gốc Phi.

Ung thư đại-trực tràng. Phụ nữ bị ung thư đại-trực tràng

do di truyền có nguy cơ phát triển ung thư tử cung cao hơn

những phụ nữ khác.

Những yếu tố nguy cơ khác liên quan tới thời gian người

phụ nữ có tiếp xúc với estrogen. Phụ nữ không có con, bắt

đầu có kinh nguyệt rất sớm và mãn kinh muộn do tiếp xúc

với estrogen lâu hơn và có nguy cơ cao hơn.

Phụ nữ có yếu tố nguy cơ nêu trên và những người quan

tâm đến ung thư tử cung nên hỏi bác sĩ của họ về triệu

chứng để phát hiện bệnh và định kỳ khám bệnh. Lời khuyên

của bác sĩ sẽ dựa vào độ tuổi, bệnh sử của người phụ nữ và

các yếu tố khác.

Page 157: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 157

3. Ung thư tử cung được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư tử cung là gì?

Ung thư tử cung thường xuất hiện sau khi mãn kinh.

Nhưng nó cũng có thể xảy ra khi thời kỳ mãn kinh bắt đầu.

Hiện tượng ra máu âm đạo bất thường là triệu chứng

thường gặp nhất của ung thư tử cung. Hiện tượng ra máu có

thể bắt đầu là ra dịch ở dạng nước có vệt máu và dần dần có

nhiều máu hơn. Phụ nữ không nên cho rằng hiện tượng ra

máu âm đạo bất thường là một trong những hiện tượng của

thời kỳ mãn kinh.

Phụ nữ nên đến bác sĩ khám khi có những triệu chứng sau:

- Ra máu âm đạo hoặc khí hư bất thường

- Khó đái hay đái buốt.

- Đau khi quan hệ tình dục

- Đau ở vùng chậu

Những triệu chứng này có thể do ung thư gây ra, cũng có

thể do các bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Phần lớn

các triệu chứng này không phải do ung thư gây ra, nhưng

chỉ có bác sĩ mới có thể khẳng định được điều đó.

4. Ung thư tử cung được chẩn đoán như thế nào?

Nếu một phụ nữ có những triệu chứng nghi ung thư tử

cung, bác sĩ có thể kiểm tra tình trạng sức khỏe chung và có

thể yêu cầu xét nghiệm máu và nước tiểu. Bác sĩ còn có thể

Page 158: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

158 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

tiến hành một hay nhiều thăm dò và xét nghiệm được miêu

tả ở những trang sau.

Khám vùng chậu. Phụ nữ khám vùng chậu để kiểm tra

âm đạo, tử cung, bàng quang và trực tràng. Bác sĩ khám

những cơ quan này để tìm u cục và những thay đổi về hình

dáng và kích thước của chúng. Để khám phần trên âm đạo

và cổ tử cung, bác sĩ sẽ đưa một dụng cụ được gọi là mỏ vịt

vào âm đạo.

Nghiệm pháp Pap. Bác sĩ lấy tế bào ở cổ tử cung và phần

trên âm đạo. Tiến hành xét nghiệm trong phòng thí nghiệm

để tìm tế bào bất thường. Mặc dù nghiệm pháp Pap có thể

phát hiện ra ung thư cổ tử cung nhưng tế bào bên trong tử

cung thường không xuất hiện trong nghiệm pháp Pap. Do

vậy bác sĩ phải lấy mẫu tế bào từ bên trong tử cung qua sinh

thiết.

Siêu âm qua đường âm đạo. Bác sĩ đưa một dụng cụ vào

trong âm đạo. Dụng cụ này phát sóng âm có tần số cao vào

tử cung. Những sóng âm này dội lại tạo hình ảnh. Nếu nội

mạc tử cung quá dày bác sĩ có thể tiến hành sinh thiết.

Sinh thiết. Bác sĩ cắt một mẫu mô từ niêm mạc tử cung.

Thủ thuật này thường được tiến hành trong văn phòng

bác sĩ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phụ nữ

có thể cần tiến hành quá trình nong và nạo. Thủ thuật này

thường được tiến hành tại bệnh viện trong một ngày có

gây mê. Bác sĩ giải phẫu bệnh kiểm tra mẫu sinh thiết để

tìm tế bào ung thư, hiện tượng tăng sản nội mạc tử cung

và các hiện tượng khác. Trong một thời gian ngắn sau khi

Page 159: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 159

tiến hành sinh thiết, một số phụ nữ có thể bị co thắt và ra

máu âm đạo.

Khi chẩn đoán ung thư cổ tử cung, bác sĩ sẽ phải xác định

giai đoạn hay phạm vi của căn bệnh để lập phác đồ điều trị

hợp lý nhất. Phân giai đoạn là một quá trình tỷ mỉ và cẩn

thận để xem ung thư đã lan chưa, nếu đã lan thì sang bộ

phận nào của cơ thể.

Bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm máu, nước tiểu và chụp

X quang lồng ngực. Bệnh nhân có thể được chụp cắt lớp vi

tính, siêu âm, chụp cộng hưởng từ hạt nhân, soi đại tràng.

Trong hầu hết các trường hợp, phương pháp đáng tin cậy

nhất để phân giai đoạn bệnh là cắt tử cung. Sau khi tử cung

được cắt bỏ, bác sĩ phẫu thuật có thể tìm kiếm những dấu

hiệu rõ ràng chứng tỏ ung thư đã xâm lấn vào lớp cơ cổ tử

cung. Bác sĩ phẫu thuật có thể kiểm tra các hạch và các cơ

quan khác trong vùng chậu để tìm kiếm những dấu hiệu

ung thư. Bác sĩ giải phẫu bệnh dùng một kính hiển vi để

quan sát tử cung và các mô khác do bác sĩ phẫu thuật cắt ra.

Dưới đây là những đặc điểm chính của từng giai đoạn:

− Giai đoạn I. Ung thư chỉ ở trong phần thân tử cung mà

không có ở cổ tử cung.

− Giai đoạn II. Ung thư đã lan từ thân tử cung sang cổ

tử cung.

− Giai đoạn III. Ung thư đã lan ra ngoài tử cung, nhưng

chưa vượt quá vùng chậu (và chưa lan tới bàng quang

và trực tràng). Các hạch trong vùng chậu có thể chứa tế

bào ung thư.

Page 160: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

160 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

− Giai đoạn IV. Ung thư đã lan tới bàng quang hoặc trực

tràng. Hoặc nó đã lan ra ngoài vùng chậu tới các bộ

phận khác của cơ thể.

5. Ung thư tử cung được điều trị như thế nào?

Phụ nữ bị ung thư tử cung có nhiều cách điều trị. Hầu

hết phụ nữ bị ung thư tử cung được điều trị bằng phương

pháp phẫu thuật. Một số bệnh nhân khác được điều trị

bằng tia phóng xạ. Một số ít hơn được điều trị bằng hoóc-

môn. Một số bệnh nhân được điều trị bằng cách phối hợp

nhiều phương pháp.

Bác sĩ sẽ mô tả các phác đồ điều trị và thảo luận về các kết

quả có thể của quá trình điều trị với người bệnh.

Phẫu thuật

Hầu hết bệnh nhân ung thư tử cung được tiến hành phẫu

thuật cắt tử cung qua đường ổ bụng. Bác sĩ còn cắt bỏ cả hai

vòi trứng và buồng trứng (thủ thuật cắt bỏ buồng trứng-vòi

trứng hai bên).

Bác sĩ có thể cắt bỏ các hạch ở gần khối u để kiểm tra xem

chúng có chứa tế bào ung thư không. Nếu tế bào ung thư đã

xâm lấn vào hạch có nghĩa là bệnh đã lan sang các bộ phận

khác của cơ thể. Nếu tế bào ung thư vẫn chưa lan ra khỏi nội

mạc tử cung thì bệnh nhân không cần đến các phương pháp

điều trị khác. Thời gian nằm viện có thể kéo dài từ vài ngày

đến một tuần.

Tia xạ trị liệu

Page 161: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 161

Các tia có năng lượng cao được sử dụng để tiêu diệt tế

bào ung thư. Giống như phẫu thuật, tia xạ trị liệu là một

phương pháp điều trị tại chỗ. Nó chỉ ảnh hưởng tới tế bào

ung thư ở vùng được điều trị.

Một số bệnh nhân ung thư tử cung giai đoạn I, II, III cần

được điều trị cả bằng tia xạ và phẫu thuật. Họ có thể được

chiếu tia phóng xạ trước khi phẫu thuật để làm co khối u

hoặc sau khi phẫu thuật để tiêu diệt tế bào ung thư còn sót

lại trong vùng điều trị. Hơn nữa, bác sĩ cũng gợi ý tiến hành

diều trị bằng tia xạ cho những bệnh nhân không thể phẫu

thuật được.

Có hai cách chiếu tia xạ để điều trị ung thư tử cung:

Chiếu xạ ngoài: khi tiến hành chiếu xạ ngoài, một máy lớn

bên ngoài cơ thể được sử dụng để hướng tia phóng xạ vào

khối u. Bệnh nhân thường được điều trị ngoại trú, chỉ đến

bệnh viện hoặc phòng khám để chiếu xạ năm ngày một tuần

trong vài tuần.

Chiếu xạ trong: Khi tiến hành chiếu xạ trong, những ống

nhỏ có chứa vật liệu phát xạ được đặt vào âm đạo và lưu lại

tại chỗ trong vài ngày. Bệnh nhân nằm viện trong thời gian

điều trị. Để bảo vệ những người khác tránh tiếp xúc với

phóng xạ, người thân không đựơc vào thăm hoặc là chỉ

được vào thăm trong một thời gian ngắn khi nguồn phóng

xạ vẫn còn trong cơ thể. Khi nguồn xạ được lấy ra, bệnh

nhân sẽ không còn chất phóng xạ trong cơ thể.

Page 162: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

162 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Một số bệnh nhân cần được điều trị cả bằng chiếu xạ

ngoài và chiếu xạ trong.

Liệu pháp hoóc-môn là phương pháp sử dụng những

chất ngăn tế bào ung thư lấy và sử dụng hoóc-môn mà

chúng cần để phát triển. Hoóc-môn có thể gắn vào thụ thể

hoóc-môn, gây ra những biến đổi trong mô tử cung. Trước

khi tiến hành điều trị bằng hoóc-môn, bác sĩ có thể yêu cầu

tiến hành xét nghiệm thụ thể hoóc-môn. Xét nghiệm cận lâm

sàng đặc biệt về mô tử cung này giúp bác sĩ biết được sự có

mặt của thụ thể estrogen và progesteron. Nếu mô có thụ thể,

bệnh nhân dường như có nhiều cơ may đáp ứng với việc

điều trị bằng hoóc-môn hơn.

Liệu pháp hoóc-môn là một phương pháp điều trị mang

tính chất toàn thân (hệ thống) bởi nó có thể ảnh hưởng tới tế

bào ung thư trong toàn bộ cơ thể. Thông thường hoóc-môn

sử dụng cho điều trị là một dạng viên nang progesteron.

Bác sĩ thường chỉ định liệu pháp hoóc-môn cho những

phụ nữ bị ung thư tử cung khi không thể điều trị được

bằng phương pháp phẫu thuật hay tia phóng xạ. Hơn nữa

bác sĩ có thể áp dụng liệu pháp hoóc-môn cho những phụ

nữ bị ung thư tử cung đã lan tới phổi hoặc các vị trí ở xa

khác. Nó còn được sử dụng đối với những phụ nữ bị ung

thư tử cung tái phát.

6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư tử cung như thế nào?

Page 163: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 163

Vì điều trị ung thư có thể huỷ hoại tế bào và mô lành, nên

đôi khi xảy ra tác dụng phụ không mong muốn. Những tác

dụng phụ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cách

thức và phạm vi điều trị. Tác dụng phụ ở từng bệnh nhân là

khác nhau và chúng có thể thay đổi ở mỗi đợt điều trị. Trước

khi bắt đầu điều trị, bác sĩ và y tá sẽ giải thích những tác

dụng phụ có thể xảy ra và cách thức họ giúp bệnh nhân đối

phó với tác dụng phụ.

Tác dụng phụ của phẫu thuật

Sau khi cắt tử cung, bệnh nhân thường thấy đau và cực

kỳ mệt mỏi. Hầu hết bệnh nhân có thể bắt đầu lại những

hoạt động thường ngày trong vòng từ 4-8 tuần sau phẫu

thuật. Một số bệnh nhân có thể cần nhiều thời gian hơn. Một

số bệnh nhân có thể thấy buồn nôn và bị nôn sau khi phẫu

thuật và một số khác có rối loạn chức năng ruột và bàng

quang. Lúc đầu bác sĩ có thể cho bệnh nhân ăn thức ăn ở

dạng lỏng, rồi dần dần chuyển sang thức ăn ở dạng rắn.

Phụ nữ đã cắt tử cung không còn kinh nguyệt và không

thể mang thai. Khi cắt bỏ buồng trứng thì thời kỳ mãn

kinh xảy ra ngay lập tức. Hiện tượng bốc hoả và những

triệu chứng khác của thời kỳ mãn kinh do phẫu thuật gây

ra có thể nặng hơn những triệu chứng của thời kỳ mãn

kinh đến tự nhiên. Điều trị hoóc-môn thay thế thường

được chỉ định cho những phụ nữ không bị ung thư tử

cung để giảm nhẹ những triệu chứng này. Tuy nhiên, bác

sĩ thường không dùng estrogen cho những phụ nữ bị ung

thư tử cung. Bởi vì estrogen là một trong những yếu tố

Page 164: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

164 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

nguy cơ gây ung thư tử cung, nhiều bác sĩ lo ngại

estrogen có thể làm ung thư tử cung tái phát. Một số bác

sĩ khác cho rằng không có bằng chứng khoa học nào về

việc estrogen làm tăng khả năng tái phát ung thư. Hiện

nay người ta còn đang tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu

xem phụ nữ bị ung thư tử cung giai đoạn sớm có thể dùng

estrogen một cách an toàn hay không.

Đối với một số phụ nữ, việc cắt tử cung có thể ảnh

hưởng đến đời sống tình dục. Người phụ nữ có cảm giác

mất mát và chính cảm giác này gây trở ngại cho cuộc sống

riêng tư. Chia sẻ những tình cảm này với bạn đời của

mình có thể hữu ích.

Tác dụng phụ của liệu pháp phóng xạ

Tác dụng phụ của tia xạ trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào

liều lượng và bộ phận được điều trị. Tác dụng phụ thường

gặp của tia xạ trị liệu là da khô và đỏ lên, rụng lông ở vùng

chiếu tia, mất cảm giác ngon miệng và rất mệt mỏi. Một số

bệnh nhân có thể bị khô, ngứa, hẹp và bỏng rát ở âm đạo.

Liệu pháp phóng xạ có thể gây ra hiện tượng ỉa lỏng, đái

buốt, đái rắt. Phương pháp điều trị này có thể làm giảm số

lượng bạch cầu là những tế bào bảo vệ cơ thể tránh nhiễm

khuẩn.

Bác sĩ có thể khuyên bệnh nhân không nên quan hệ tình

dục khi đang điều trị bằng tia xạ. Tuy nhiên hầu hết bệnh

nhân có thể bắt đầu lại quan hệ tình dục khoảng vài tuần

sau khi kết thúc điều trị. Bác sĩ và y tá có thể gợi ý cách làm

giảm sự khó chịu liên quan tới phương pháp điều trị này.

Page 165: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TỬ CUNG 165

Tác dụng phụ của liệu pháp hoóc-môn

Liệu pháp hoóc-môn có thể gây ra một số tác dụng

phụ. Bệnh nhân uống progesteron có thể bị giữ nước, ăn

nhiều và tăng cân. Phụ nữ vẫn còn kinh có thể có thay đổi

chu kỳ kinh nguyệt.

7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Theo dõi sau khi điều trị ung thư tử cung là rất quan

trọng. Bệnh nhân nên thảo luận ngay với bác sĩ về việc theo

dõi. Khám định kỳ đảm bảo việc phát hiện ra bất kỳ thay đổi

về tình trạng sức khỏe nào. Tất cả những vấn đề nảy sinh

được phát hiện ra sẽ sớm được điều trị. Khám kiểm tra bao

gồm khám lâm sàng, khám vùng chậu, chụp X quang và các

xét nghiệm cận lâm sàng.

Page 166: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Tế Bào Máu

1. Ung thư tế bào máu là gì?

Ung thư máu là khi cơ thể sản xuất ra một lượng lớn

máu bất thường. Bệnh được gọi bằng tiếng nước ngoài

phiên âm là Lơ-xê-mi (leucemia). Trong hầu hết các loại ung

thư tế bào máu, các tế bào bất thường là bạch cầu. Tế bào

ung thư tế bào máu trông khác với máu bình thường và

không thực hiện được chức năng của chúng.

Các loại ung thư tế bào máu

Có nhiều loại ung thư tế bào máu. Chúng được phân

nhóm theo hai cách. Cách thứ nhất là phân loại theo theo tốc

độ tiến triển và xấu đi của bệnh. Cách thứ hai là phân loại

theo loại tế bào máu bị bệnh.

Ung thư tế bào máu có thể là cấp tính hoặc mạn tính.

Trong ung thư tế bào máu cấp, các tế bào bất thường là các

nguyên bào còn rất non và không thể thực hiện chức năng

bình thường của mình. Số lượng nguyên bào tăng lên rất

Page 167: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 167

nhanh và bệnh xấu đi nhanh chóng. Trong bệnh ung thư tế

bào máu mạn tính, một số nguyên bào xuất hiện, nhưng nói

chung những tế bào này có độ trưởng thành cao hơn và có

thể thực hiện được một số chức năng bình thường của

chúng. Hơn nữa, số lượng nguyên bào tăng chậm hơn so với

mức độ tăng trong bệnh ung thư tế bào máu cấp tính. Kết

quả là bệnh ung thư tế bào máu mạn tính xấu đi dần dần.

Bệnh ung thư tế bào máu có thể xuất phát từ hai loại

bạch cầu chính là tế bào lymphô hoặc tế bào tuỷ. Khi bệnh

ảnh hưởng tới tế bào lymphô thì nó được gọi là bệnh ung

thư tế bào máu dòng lymphô bào. Khi tế bào tuỷ bị ảnh

hưởng thì loại ung thư này được gọi là ung thư tế bào

máu dòng tuỷ.

Dưới đây là các loại ung thư tế bào máu thường gặp nhất:

Ung thư tế bào máu dòng lymphô cấp tính (ALL) là loại

thường gặp nhất ở trẻ em. Căn bệnh này cũng gặp ở người

lớn, đặc biệt là những người trên 50 tuổi.

Ung thư tế bào máu dòng tuỷ cấp tính (AML) xuất hiện ở cả

người lớn và trẻ em. Loại này đôi khi còn được gọi là ung thư

tế bào máu cấp tính không phải dòng lymphô bào (ANLL).

Ung thư tế bào máu dòng lymphô mạn tính (CLL) thường

xuất hiện nhiều nhất ở những người trên 55 tuổi. Đôi khi nó

xuất hiện ở những người trẻ tuổi hơn, nhưng hầu như

không bao giờ gặp ở trẻ em.

Ung thư tế bào máu dòng tuỷ mạn tính (CML) xuất hiện chủ

yếu ở người lớn. Một số lượng rất nhỏ trẻ em cũng có thể

mắc loại ung thư này.

Page 168: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

168 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tế bào máu là gì?

Cho tới hiện nay, chúng ta vẫn chưa xác định được

nguyên nhân nào gây bệnh ung thư tế bào máu. Các nhà

nghiên cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này. Các nhà

khoa học biết rằng bệnh xuất hiện ở nam giới nhiều hơn ở

nữ giới và ở người da trắng nhiều hơn người da đen. Tuy

nhiên, họ không thể giải thích tại sao người này mắc bệnh

còn người khác lại không.

Bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn người dân trên

toàn thế giới, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố

nguy cơ nhất định làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tế

bào máu. Ví dụ, việc tiếp xúc với một lượng lớn bức xạ có

năng lượng cao làm tăng nguy cơ phát triển bệnh. Hiện

tượng bức xạ này được tạo ra do các vụ nổ bom nguyên tử

ở Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Trong các nhà

máy điện nguyên tử, các quy định an toàn nghiêm ngặt

phải được thực hiện để bảo vệ công nhân và người dân

tránh bị phóng xạ gây hại.

Theo một số nghiên cứu thì việc tiếp xúc với trường điện

từ là một yếu tố nguy cơ có thể gây bệnh ung thư tế bào

máu. Trường điện từ là một dạng bức xạ năng lượng thấp

tỏa ra từ dây điện và các thiết bị điện. Tuy nhiên, cần phải

tiếp tục nghiên cứu để chứng tỏ mối liên hệ này.

Một số tình trạng di truyền nhất định có thể làm tăng

nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào máu. Hội chứng Đao

(Down) là một trong những tình trạng như vậy; trẻ em bị hội

Page 169: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 169

chứng này khi sinh ra có nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào

máu cao hơn những trẻ em khác.

Công nhân tiếp xúc với một số chất hóa học nhất định

trong một thời gian dài có nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào

máu cao hơn. Benzen là một trong những hóa chất này. Hơn

nữa, một số loại thuốc được sử dụng để điều trị các loại ung

thư khác có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên,

nguy cơ này rất nhỏ so với lợi ích mà hóa trị liệu mang lại.

Các nhà khoa học đã tìm ra một loại virút dường như có

khả năng làm tăng nguy cơ phát triển một loại ung thư tế

bào máu hiếm gặp. Tuy nhiên, loại virút này chưa được

chứng minh là có liên quan tới các loại ung thư tế bào máu

thường gặp. Các nhà khoa học trên toàn thế giới vẫn tiếp tục

nghiên cứu các virút và các yếu tố nguy cơ khác có thể gây

bệnh ung thư tế bào máu. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân

gây bệnh, các nhà khoa học hi vọng sẽ tìm ra các phương

pháp phòng ngừa và điều trị bệnh ung thư tế bào máu tốt

hơn.

3. Ung thư tế bào máu được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư tế bào máu là gì?

Tế bào ung thư máu là những tế bào bất thường và không

thực hiện được các chức năng của tế bào máu bình thường.

Chúng không thể giúp cơ thể chống lại nhiễm khuẩn. Vì lý

do này, bệnh nhân bị ung thư tế bào máu thường bị nhiễm

khuẩn và sốt.

Page 170: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

170 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Hơn nữa, bệnh nhân bị ung thư tế bào máu thường có số

lượng hồng cầu và tiểu cầu ít hơn bình thường. Do vậy họ

không có đủ hồng cầu để vận chuyển ôxy đến toàn bộ cơ

thể. Tình trạng này gọi là thiếu máu, bệnh nhân trông nhợt

nhạt và cảm thấy mệt mỏi, ốm yếu. Khi cơ thể không có đủ

tiểu cầu thì bệnh nhân dễ bị chảy máu và có các vết thâm

tím.

Giống như tất cả các tế bào máu, tế bào ung thư máu

cũng đi khắp cơ thể. Tuỳ theo số lượng tế bào bất thường và

vị trí các tế bào này tích tụ lại mà có thể có một số triệu

chứng khác nhau.

Trong bệnh ung thư tế bào máu ác tính, triệu chứng

xuất hiện nhanh và tiến triển nhanh. Bệnh nhân đến bác sĩ

khám vì mệt mỏi. Đối với ung thư tế bào máu mạn tính thì

triệu chứng có thể không xuất hiện trong một thời gian

dài; một khi triệu chứng xuất hiện thì ban đầu thường nhẹ

và xấu đi từ từ. Bác sĩ thường phát hiện ra bệnh ung thư tế

bào máu mạn tính qua các đợt khám định kỳ, trước khi

bệnh có triệu chứng.

Dưới đây là một số triệu chứng thường gặp của bệnh ung

thư tế bào máu:

- Sốt, rét run và các triệu chứng giống cảm cúm khác

- Yếu và mệt mỏi

- Thường xuyên bị nhiễm khuẩn

- Chán ăn hoặc giảm cân

Page 171: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 171

- Hạch, gan hoặc lách to hoặc đau

- Dễ bị chảy máu hoặc vết thâm tím

- Có các chấm xuất huyết nhỏ dưới da

- Sưng hoặc chảy máu lợi

- Ra mồ hôi, đặc biệt là ban đêm; và/hoặc

- Đau xương hoặc khớp

Trong bệnh ung thư tế bào máu ác tính, các tế bào bất

thường có thể tích tụ lại ở não hoặc tuỷ sống (còn được gọi

là hệ thần kinh trung ương). Bệnh nhân có thể bị đau đầu,

nôn, lú lẫn, liệt và co giật. Tế bào ung thư máu còn có thể

tích tụ lại ở tinh hoàn làm sưng tinh hoàn. Hơn nữa, một số

bệnh nhân còn bị đau mắt hoặc da. Bệnh ung thư tế bào máu

còn có thể ảnh hưởng tới ống tiêu hóa, thận, phổi hoặc các

bộ phận khác của cơ thể.

Trong bệnh ung thư tế bào máu mạn tính, các tế bào bất

thường có thể dần dần tích tụ lại ở các bộ phận khác nhau

của cơ thể. Bệnh có thể ảnh hưởng tới da, hệ thần kinh trung

ương, ống tiêu hóa, thận và tinh hoàn.

4. Ung thư tế bào máu được chẩn đoán như thế

nào?

Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng, bác sĩ sẽ khai

thác tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm

sàng. Bên cạnh việc kiểm tra các dấu hiệu sức khỏe chung,

bác sĩ còn khám gan, lách, các hạch ở nách, bẹn và cổ.

Page 172: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

172 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Xét nghiệm máu cũng giúp cho việc chẩn đoán. Mẫu máu

được quan sát dưới kính hiển vi để xem hình dạng tế bào

máu và xác định số lượng tế bào trưởng thành và số lượng

tế bào non (nguyên bào). Mặc dù xét nghiệm máu có thể cho

biết bệnh nhân bị bệnh ung thư tế bào máu, nhưng không

xác định được là loại ung thư tế bào máu gì.

Để xét nghiệm kỹ hơn về tế bào ung thư máu hoặc xác

định loại ung thư tế bào máu, bác sỹ chuyên khoa huyết học,

chuyên khoa ung thư hoặc chuyên gia bệnh học phải quan

sát tuỷ xương dưới kính hiển vi. Mẫu bệnh phẩm được lấy

bằng cách chọc hút tuỷ xương ở các xương dẹt (thường là

xương chậu). Khi cần thiết có thể phải sinh thiết tuỷ xương

bằng kim lớn hơn để lấy ra một mảnh xương và tuỷ xương

nhỏ. Nếu phát hiện ra tế bào ung thư máu trong mẫu tuỷ

xương, bác sĩ sẽ chỉ định các xét nghiệm khác để xác định

phạm vi của bệnh. Chọc lấy dịch tuỷ sống giúp phát hiện tế

bào ung thư trong dịch não tuỷ. Chụp X quang lồng ngực có

thể phát hiện các dấu hiệu bệnh trong lồng ngực.

5. Ung thư tế bào máu được điều trị như thế nào?

Hầu hết bệnh nhân bị bệnh ung thư tế bào máu được

điều trị bằng hóa chất. Một số bệnh nhân còn được điều trị

bằng tia phóng xạ hoặc ghép tuỷ xương hoặc liệu pháp sinh

học. Trong một số trường hợp, phẫu thuật cắt lách có thể là

một phần trong phác đồ điều trị.

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế

bào ung thư. Tuỳ thuộc vào loại ung thư tế bào máu, bệnh

Page 173: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 173

nhân có thể được điều trị bằng một loại thuốc đơn độc hoặc

phối hợp hai hay nhiều loại thuốc.

Một số thuốc chống ung thư dùng đường uống. Còn lại

hầu hết các thuốc được tiêm truyền tĩnh mạch. Thông

thường thuốc được tiêm truyền vào tĩnh mạch qua một ống

thông đặt vào một tĩnh mạch lớn (tĩnh mạch cảnh trong hoặc

tĩnh mạch dưới đòn). Nhờ đó tránh cho bệnh nhân khỏi bị

đau đớn và các tổn thương da khi phải tiêm nhiều lần.

Thuốc chống ung thư đi vào cơ thể qua đường tiêm hoặc

uống sẽ theo mạch máu tới hầu khắp cơ thể để diệt các tế

bào ung thư. Tuy nhiên, thuốc thường không tiếp cận được

các tế bào ung thư trong hệ thần kinh trung ương do bị

hàng rào máu-não ngăn lại. Hàng rào bảo vệ này được cấu

tạo từ một mạng lưới mạch máu và có nhiệm vụ lọc dòng

máu đến não và tuỷ sống. Để tiếp cận được những tế bào

ung thư trong hệ thần kinh trung ương, thuốc chống ung

thư được tiêm trực tiếp vào dịch não tuỷ. Có hai cách để

đưa thuốc vào dịnh não tuỷ. Một số bệnh nhân được đưa

thuốc vào thuỷ sống (phần thắt lưng). Một số khác, đặc biệt

là trẻ em, được đặt một loại ống thông đặc biệt, gọi là ống

dự trữ Ommaya, đưa vào dưới da đầu để tạo một con

đường vào dịch não tuỷ. Người ta tiêm thuốc chống ung

thư vào ống dự trữ này thay cho tiêm vào tuỷ sống và như

vậy có thể thực hiện việc điều trị một cách dễ dàng hơn và

bệnh nhân cảm thấy thoải mái hơn.

Hóa chất được sử dụng thành từng đợt: một đợt điều trị,

sau đó là một đợt nghỉ hồi sức tiếp đến một đợt điều trị

Page 174: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

174 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

khác... Trong một số trường hợp, bệnh nhân được điều trị

bằng hóa chất ngoại trú ở bệnh viện, tại phòng khám của

bác sĩ hoặc tại nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc điều

trị và tình trạng sức khỏe chung, bệnh nhân có thể phải nằm

viện trong một thời gian ngắn.

Liệu pháp chiếu xạ được kết hợp với hóa trị liệu cho một

số loại ung thư tế bào máu. Xạ trị sử dụng các tia có năng

lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chúng phát

triển. Phóng xạ có thể được chiếu từ một máy lớn.

Xạ trị để điều trị bệnh bạch cầu có thể được tiến hành

theo hai cách. Đối với một số bệnh nhân, bác sĩ có thể chiếu

xạ cho một vùng cụ thể trên cơ thể nơi tập trung tế bào ung

thư máu, như lách hoặc tinh hoàn. Một số bệnh nhân khác

được chiếu xạ toàn thân. Chiếu xạ toàn thân thường được

thực hiện trước khi ghép tuỷ xương.

Ghép tuỷ xương cũng được chỉ định cho một số bệnh

nhân. Tuỷ xương sản xuất ra tế bào ung thư máu của

người bệnh bị phá huỷ bằng thuốc và phóng xạ liều cao,

sau đó được thay thế bằng tuỷ xương lành. Tuỷ xương

lành có thể là do một người khác cho hoặc có thể là lấy từ

chính bệnh nhân và được cất giữ, bảo quản trước khi bị

phá huỷ. Nếu sử dụng chính tuỷ xương của người bệnh

thì lúc đầu cần phải xử lý nó bên ngoài cơ thể để loại bỏ tế

bào ung thư. Bệnh nhân được ghép tuỷ xương thường

phải nằm viện trong vài tuần. Bệnh nhân cần được bảo vệ

cẩn thận tránh nhiễm khuẩn cho đến khi tuỷ xương ghép

có thể sản xuất đủ lượng bạch cầu.

Page 175: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 175

Liệu pháp sinh học là phương pháp sử dụng các chất ảnh

hưởng tới đáp ứng của hệ thống miễn dịch lên ung thư.

Interferon là một dạng của liệu pháp miễn dịch để chống lại

một số loại ung thư tế bào máu. Rất khó hạn chế được tác

dụng của điều trị chỉ lên các tế bào ung thư. Do điều trị còn

phá huỷ các mô và tế bào lành nên nó cũng gây ra các tác

dụng phụ.

6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư tế bào máu

như thế nào?

Các tác dụng này phụ thuộc chủ yếu vào loại và phạm vi

của điều trị. Hơn nữa, mỗi bệnh nhân lại có phản ứng khác

nhau. Tác dụng phụ của mỗi phương pháp điều trị cũng

khác nhau. Bác sĩ cố gắng lập phác đồ điều trị cho bệnh

nhân sao cho tác dụng phụ là tối thiểu.

Tác dụng phụ của hóa trị liệu

Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại

thuốc mà bệnh nhân dùng. Bên cạnh đó, cũng như các

phương pháp điều trị khác, tác dụng phụ ở mỗi người là

khác nhau. Nói chung, thuốc chống ung thư sẽ tác dụng lên

các tế bào đang phân chia. Tế bào ung thư phân chia nhanh

hơn tế bào thường và dễ bị hóa chất tác dụng hơn. Tuy

nhiên, một số tế bào lành cũng bị phá huỷ. Các tế bào lành

phân chia nhanh, như tế bào máu, tế bào ở chân tóc và tế

bào ống tiêu hóa, có khả năng bị tổn thương nhiều nhất. Khi

hóa chất gây ảnh hưởng tới tế bào lành, nó có thể làm giảm

Page 176: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

176 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

khả năng chống nhiễm khuẩn của bệnh nhân, bệnh nhân có

ít năng lượng hơn, dễ bị chảy máu và thâm tím hơn. Bệnh

nhân có thể bị rụng tóc, buồn nôn, nôn, đau miệng. Hầu hết

các tác dụng phụ sẽ dần biến mất trong thời gian nghỉ phục

hồi hoặc sau khi kết thúc điều trị.

Một số loại thuốc chống ung thư có thể ảnh hưởng tới

khả năng sinh sản của bệnh nhân. Chu kỳ kinh nguyệt ở

phụ nữ có thể không đều hoặc ngừng lại, khi đó người bệnh

có các triệu chứng giống thời kỳ mãn kinh, như bốc hoả và

khô âm đạo. Nam giới có thể ngừng sản xuất tinh trùng. Do

những thay đổi này có thể là vĩnh viễn nên một số nam giới

chọn cách lưu trữ tinh trùng bằng phương pháp đông lạnh.

Hầu hết trẻ em được điều trị bệnh ung thư tế bào máu có

khả năng sinh sản bình thường khi lớn lên. Tuy nhiên, tuỳ

theo loại thuốc và liều lượng sử dụng cũng như độ tuổi của

bệnh nhân, một số trẻ em cả nam và nữ có thể không sinh

con được khi trưởng thành.

Tác dụng phụ của liệu pháp chiếu xạ

Bệnh nhân được chiếu xạ sẽ rất mệt mỏi. Nghỉ ngơi là

điều quan trọng, nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân cố

gắng hoạt động khi họ có thể.

Khi được chiếu xạ vào vùng đầu, bệnh nhân thường bị

rụng tóc. Chiếu xạ có thể làm cho da đầu hoặc da ở vùng

chiếu xạ trở nên đỏ, khô, nhạy cảm và ngứa. Nên hướng dẫn

bệnh nhân cách giữ cho da sạch sẽ. Bệnh nhân không nên

bôi bất kỳ loại nước hay kem nào lên vùng được chiếu xạ mà

Page 177: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 177

không có lời khuyên của bác sĩ. Chiếu xạ còn có thể gây

buồn nôn, nôn và chán ăn. Những tác dụng phụ này có thể

tạm thời; bác sĩ và y tá sẽ gợi ý cách thức kiểm soát chúng

cho đến khi kết thúc điều trị.

Tuy nhiên, một số tác dụng phụ có thể kéo dài. Trẻ em

(đặc biệt là trẻ nhỏ) được chiếu xạ ở não bộ có thể gây ảnh

hưởng đến việc học tập và phối hợp các hoạt động. Do vậy,

bác sĩ cố gắng cho liều xạ thấp nhất có thể được và chỉ sử

dụng phương pháp điều trị này với những trẻ không đáp

ứng với hóa chất đơn độc.

Hơn nữa, chiếu xạ tinh hoàn có thể ảnh hưởng tới khả

năng sinh sản và sự sản xuất hoóc-môn. Hầu hết bé trai điều

trị bằng phương pháp này về sau không có khả năng sinh

con. Một số có thể còn cần phải sử dụng hoóc-môn.

Tác dụng phụ của ghép tuỷ xương

Bệnh nhân được ghép tuỷ xương phải đối mặt với nguy cơ

bị nhiễm khuẩn và chảy máu cao hơn cũng như có cả các tác

dụng phụ khác do điều trị bằng hóa chất và tia xạ liều cao.

Bên cạnh đó, hiện tượng mảnh ghép chống lại vật chủ có thể

xảy ra đối với những bệnh nhân nhận tuỷ xương từ một

người cho khác. Trong trường hợp này, tuỷ xương của người

cho sẽ phản ứng chống lại mô của người nhận (thường là gan,

da và ống tiêu hóa). Phản ứng thải ghép có thể nhẹ hoặc rất

trầm trọng. Nó có thể xảy ra bất cứ khi nào sau ghép (thậm

chí vài năm sau). Một số thuốc có thể được chỉ định để làm

giảm nguy cơ bị thải ghép và để điều trị chống thải ghép nếu

nó xảy ra.

Page 178: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

178 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Khám theo dõi định kỳ sau khi điều trị bệnh ung thư tế

bào máu là rất quan trọng. Bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi bệnh

nhân chặt chẽ để chắc chắn ung thư không tái phát. Việc

khám định kỳ bao gồm xét nghiệm máu, tuỷ xương và dịch

não tuỷ. Thỉnh thoảng, bác sĩ tiến hành khám toàn bộ.

Việc điều trị ung thư có thể gây tác dụng phụ sau

nhiều năm. Do vậy bệnh nhân cần được tiếp tục khám và

theo dõi đều đặn cũng như cần thông báo bất kỳ vấn đề gì

bất thường về sức khỏe của mình cho bác sỹ biết càng sớm

càng tốt.

Page 179: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Sác-Côm Cơ Vân Trẻ Em

1. Sác-côm cơ vân trẻ em là gì?

Sarcom (đọc là sác-côm) cơ vân ở trẻ em, một loại u ác tính

mô mềm từ cơ thân, chiếm khoảng 3,5% các trường hợp ung

thư ở trẻ em trong độ tuổi từ 0 đến 14 và 2% các trường hợp

ung thư ở trẻ vị thành niên và thanh niên trẻ độ tuổi 15-19.

Bệnh có thể chữa khỏi được ở đa số trẻ em nếu được điều trị

một cách tối ưu, với trên 60% bệnh nhân sống sót năm năm sau

khi chẩn đoán. Các vị trí nguyên phát thường gặp nhất của

sác-côm cơ vân là ở vùng đầu cổ (ví dụ như vùng cận màng

não, hố mắt, hầu...), đường tiết niệu-sinh dục và các chi. Các vị

trí nguyên phát ít gặp hơn là thân, trong lồng ngực, ống tiêu

hóa (bao gồm gan và đường mật), vùng tầng sinh môn/hậu

môn.

2. Các yếu tố nguy cơ và tiên lượng của sác-côm cơ vân trẻ em là gì?

Page 180: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

180 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Tuyệt đại đa số các trường hợp sác-côm cơ vân xảy ra

đơn lẻ và không phát hiện được các yếu tố cơ địa hoặc nguy

cơ mặc dù một tỷ lệ nhỏ các trường hợp có liên quan tới các

điều kiện gen. Các điều kiện gen này bao gồm hội chứng dễ

bị ung thư Li-Fraumeni (với đột biến mầm gen p53), u xơ

thần kinh týp I và hội trứng Beckwith-Viedemann (mặc dù u

Wilm và u nguyên bào gan là hai loại ung thư thường liên

quan tới hội chứng này hơn).

Tiên lượng của bệnh nhân sác-côm cơ vân lứa tuổi trẻ em

hoặc vị thành niên có liên quan tới vị trí nguyên phát, phạm

vi và dạng mô bệnh học của khối u. Còn có những số liệu

ban đầu mô tả ý nghĩa tiên lượng của các đặc điểm sinh học

đặc hiệu ở tế bào u sác-côm cơ vân. Các ví dụ về các yếu tố

lâm sàng và sinh học với ý nghĩa tiên lượng được trình bày

vắn tắt dưới đây:

Vị trí nguyên phát có tiên lượng tốt hơn bao gồm hố mắt,

vùng đầu cổ không cận màng não và vùng tiết niệu-sinh dục

không phải bàng quang và tuyến tiền liệt (đặc biệt là vùng

cận tinh hoàn và âm đạo) và đường mật.

Kích thước của khối u ở thời điểm chẩn đoán có ý nghĩa

tiên lượng. Bệnh nhân với khối u nhỏ hơn (< 5cm) có tỷ lệ

sống sót cao hơn so với bệnh nhân có khối u lớn hơn, còn

trẻ em khi được chẩn đoán đã phát hiện có ung thư di căn

có tiên lượng xấu nhất. Ý nghĩa tiên lượng của bệnh di căn

thay đổi tuỳ theo đặc điểm mô học của khối u, độ tuổi khi

chẩn đoán và vị trí nguyên phát. Bệnh nhân dưới 10 tuổi có

ung thư di căn và có khối u dạng bào thai có tỷ lệ sống

thêm năm năm trên 50%, còn những bệnh nhân trên 10 tuổi

Page 181: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 181

hoặc có ung thư dạng nang có tiên lượng xấu hơn nhiều.

Tương tự, bệnh nhân ung thư di căn có khối u nguyên phát

ở hệ tiết niệu-sinh dục (không phải vùng bàng quang hay

tuyến tiền liệt) có tiên lượng tốt hơn bệnh nhân ung thư di

căn có khối u nguyên phát ở những vị trí khác. Bên cạnh

đó, bệnh nhân ung thư dù là khu trú nhưng đã lan sang các

hạch vùng có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân ung thư chưa

lan vào hạch.

Phạm vi của bệnh sau khi phẫu thuật ban đầu (được chia

làm các nhóm lâm sàng) cũng có liên quan tới tiên lượng.

Trong nghiên cứu sác-côm cơ vân (IRS) trên ba nhóm lâm

sàng cho thấy rằng, bệnh nhân có khối u còn sót lại kích

thước đại thể (có thể nhìn thấy bằng mắt) sau phẫu thuật

ban đầu (Nhóm lâm sàng III) có tỷ lệ sống thêm năm năm

khoảng 70%, còn ở những bệnh nhân không còn sót lại khối

u sau phẫu thuật ban đầu (Nhóm lâm sàng I) có tỷ lệ sống

thêm năm năm trên 90% và tỷ lệ này ở những bệnh nhân

còn sót khối u chỉ trên vi thể (nhìn thấy bằng soi kính hiển

vi) sau phẫu thuật ban đầu (Nhóm lâm sàng II) là 80%.

Dưới loại u dạng nang thường gặp hơn ở những bệnh

nhân có biểu hiện lâm sàng xấu hơn (ví dụ, tuổi cao hơn, có

vị trí nguyên phát ở các chi và ung thư di căn) và thường có

tiên lượng xấu hơn. Trong một nghiên cứu sác-côm cũng

cho thấy, dưới loại sác-côm dạng nang có tiên lượng tồi nhất

ở các bệnh nhân có khối u ở vị trí nguyên phát đã được cắt

bỏ hoàn toàn (Nhóm lâm sàng I). Tuy nhiên các nhà khoa

học không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời

gian sống sót ở các dưới loại ung thư theo mô bệnh học khác

Page 182: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

182 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

nhau khi phân tích tất cả các bệnh nhân sác-côm cơ vân và

cũng không nhận thấy sự khác biệt về dưới nhóm theo mô

học ở một nhóm lớn các trẻ em Đức bị sác-côm cơ vân.

Trong nghiên cứu IRS-III, tiên lượng của bệnh nhân có khối

u ở nhóm lâm sàng I và dưới loại u dạng nang tương tự với

tiên lượng của các bệnh nhân khác có khối u ở nhóm lâm

sàng I, nhưng bệnh nhân có dưới loại u dạng nang được

điều trị tích cực hơn. Bệnh nhân bị sác-côm không biệt hóa

có khối u ở những vị trí tương tự và tiên lượng tượng tự với

bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng nang (ARMS) và thường

được điều trị như những bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng

nang.

Sự trình diện gen P-glycoprotein của khối u và sự liên

quan tới khả năng kháng đa thuốc và tiên lượng của nó đang

được nghiên cứu. Số liệu hiện chưa thống nhất.

Do điều trị và tiên lượng phụ thuộc một phần vào đặc

điểm mô học của khối u nên mô khối u cần được bác sĩ giải

phẫu bệnh có kinh nghiệm trong việc đánh giá và chẩn đoán

khối u ở trẻ em xem xét. Bên cạnh đó, do tính đa dạng của

các vị trí nguyên phát, yêu cầu có biện pháp phẫu thuật và

xạ trị riêng cho từng vị trí nguyên phát và kế tiếp là quá

trình phục hồi đặc hiệu cho từng vị trí nguyên phát, các

bệnh nhi bị sác-côm cơ vân cần được điều trị tại các trung

tâm y tế với các phương thức điều trị phù hợp nhất.

3. Sác-côm cơ vân trẻ em được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của sác-côm cơ vân trẻ em là gì?

Page 183: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 183

Tùy thuộc vào vị trí của khối u nguyên phát mà sác-côm

cơ vân trẻ em gây ra các triệu chứng khác nhau:

- Sác-côm nguyên phát ổ hốc mắt: gây các triệu chứng lồi

mắt, phù quanh hốc mát và sụp mi.

- Sác-côm nguyên phát ở chi: thường là một khối thịt

trong bắp cơ, có thể nhầm với khối u máu hay u mềm.

- Sác-côm nguyên phát ở hệ sinh dục-tiết niệu: gây nên

đái ra máu, bí đường tiết niệu, tiểu tiện mất tự chủ.

Sác-côm cơ vân có thể phân ra thành nhiều dưới nhóm

theo mô học: dạng bào thai, dưới nhóm nhỏ dạng chùm

của sác-côm cơ vân dạng bào thai, dạng tế bào hình thoi,

dạng nang và dạng đa hình thái. Dưới nhóm dạng bào thai

là phổ biến nhất theo phân loại mô học sác-côm cơ vân ở

trẻ em, chiếm khoảng 60 - 70% các trường hợp. Khối u

thuộc dưới nhóm dạng bào thai thường xuất hiện ở vùng

đầu cổ hoặc trong hệ cơ quan tiết niệu-sinh dục mặc dù

chúng có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào. Khối u thuộc

dưới nhóm nhỏ dạng chùm chiếm khoảng 10% các trường

hợp sác-côm cơ vân và là u dạng bào thai xuất phát ở dưới

lớp niêm mạc của các lỗ tự nhiên trên cơ thể như âm đạo,

bàng quang, lỗ mũi ngoài và đường mật. Khối u thuộc dưới

nhóm tế bào hình thoi của sác-côm cơ vân dạng bào thai

thường xuất hiện ở vị trí cận tinh hoàn. Cả hai dưới nhóm

nhỏ dạng chùm và tế bào hình thoi có tiên lượng rất khả

quan. Khoảng 20% bệnh nhi bị sác-côm cơ vân thuộc nhóm

dạng nang; và tần suất mắc thể ung thư này tăng lên ở

bệnh nhân có vị trí nguyên phát ở các chi, thân, vùng tầng

Page 184: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

184 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

sinh môn/quanh trực tràng. Sác-côm mô mềm không biệt

hóa cũng xuất hiện ở trẻ em và được điều trị tương tự như

sác-côm cơ vân dạng nang. Sác-côm cơ vân đa hình thái

xuất hiện chủ yếu ở bệnh nhân tuổi từ 30 đến 50 và hiếm

khi gặp ở trẻ em.

4. Sác-côm cơ vân trẻ em được chẩn đoán và phân

giai đoạn như thế nào?

Như đã lưu ý ở trên, tiên lượng cho trẻ em bị sác-côm cơ

vân phụ thuộc vào phạm vi của bệnh, vị trí nguyên phát và

dưới nhóm theo tiêu chuẩn mô học. Nhóm có tiên lượng tốt

đã được xác định qua các liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ

vân trước đây (IRS) và phác đồ điều trị đã được xác lập dựa

trên việc phân bệnh nhân vào các nhóm khác nhau theo tiên

lượng. Ba nghiên cứu liên nhóm đầu tiên về sác-côm cơ vân

(IRS I,II,III) lập phác đồ điều trị dựa trên hệ thống phân

nhóm lâm sàng với các nhóm được xác định theo phạm vi

của bệnh và phạm vi phẫu thuật ban đầu. Các định nghĩa về

các nhóm lâm sàng ở nghiên cứu IRS theo nhóm được đưa

ra dưới đây.

Nhóm I

Nhóm I có khối u khu trú được cắt bỏ hoàn toàn và

không có tế bào ung thư ở các hạch vùng. Gần 13% bệnh

nhân thuộc nhóm này.

Nhóm II

Nhóm IIA có khối u được cắt bỏ trên đại thể nhưng vẫn

còn sót lại trên vi thể và không có tế bào ung thư ở hạch

Page 185: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 185

vùng. Nhóm IIB có bệnh còn khu trú trong vùng kèm theo

có lan vào hạch nhưng khối u còn cắt bỏ hoàn toàn được và

bệnh không còn sót lại. Nhóm IIC có khối u trong vùng kèm

theo lan vào hạch còn có thể cắt bỏ trên đại thể được nhưng

vẫn còn bằng chứng về còn sót bệnh về vi thể và/hoặc tổn

thương về mô học ở các hạch xa khối u nguyên phát ban đầu

nhất. Gần 20% các bệnh nhân thuộc nhóm này.

Nhóm III

Nhóm III có khối u nguyên phát không cắt bỏ được hết

(hoặc chỉ được tiến hành sinh thiết) và vì vậy còn sót trên

đại thể. Gần 48% bệnh nhân thuộc nhóm này.

Nhóm IV

Nhóm IV có khối u đã di căn xa tại thời điểm chẩn đoán.

Gần 18% bệnh nhân trong nhóm này.

Bên cạnh nhóm lâm sàng, phác đồ điều trị của liên nhóm

nghiên cứu sác-côm cơ vân hiện nay đưa ra dựa theo hệ

thống phân giai đoạn trước điều trị theo các tiêu chuẩn

TNM (khối u, hạch, di căn). Giai đoạn của bệnh nhân được

xác định dựa trên lâm sàng theo kích thước và vị trí của khối

u nguyên phát, tình trạng hạch và việc có di căn hay chưa.

Dưới đây là định nghĩa các giai đoạn:

Giai đoạn 1: Bệnh khu trú ở những vị trí thuận lợi như hố

mắt hoặc vùng đầu cổ (trừ các vị trí gần màng não) hoặc là

vùng tiết niệu-sinh dục không phải bàng quang và tuyến

tiền liệt hoặc đường mật.

Page 186: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

186 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Giai đoạn 2: Bệnh khu trú ở tất cả những vị trí không

thuận lợi không có trong giai đoạn I. Đường kính của các

khối u nguyên phát từ 5cm trở xuống và không có tế bào

ung thư ở hạch vùng.

Giai đoạn 3: Bệnh khu trú ở tất cả các vị trí không có trong

giai đoạn I. Những bệnh nhân này khác bệnh nhân ở nhóm

giai đoạn II ở đặc điểm có đường kính khối u lớn hơn 5cm

và/hoặc có tế bào ung thư ở hạch vùng.

Giai đoạn 4: Bệnh đã di căn ở thời điểm chẩn đoán.

Phân loại theo IRS chỉ định cho bệnh nhân các phác đồ

điều trị dựa vào hệ thống phân loại theo nguy cơ là hệ thống

kết hợp nhóm lâm sàng với thông tin về giai đoạn trình bày

ở trên. Bệnh nhân được chia theo các nhóm tuỳ theo mức độ

nguy cơ thấp, trung bình và cao. Dưới đây là các định nghĩa

chung của từng nhóm:

Nhóm có nguy cơ thấp: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân dạng

bào thai khu trú xuất hiện ở các vị trí thuận lợi (như trong

giai đoạn I) và bệnh nhân bị sác-côm cơ vân dạng bào thai

xuất hiện ở các vị trí không thuận lợi nhưng có thể cắt bỏ

hoàn toàn được (như trong nhóm lâm sàng I) hoặc chỉ còn

sót tế bào ung thư trên vi thể (như trong nhóm lâm sàng II).

Nhóm có nguy cơ trung bình: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân

dạng bào thai xuất hiện ở các vị trí không thuận lợi có khối u

còn sót lại trên đại thể (như trong nhóm lâm sàng III), bệnh

nhân có sác-côm cơ vân dạng bào thai di căn là trẻ dưới 10

tuổi và bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng nang không di

căn hoặc sác-côm không biệt hóa ở tất cả các vị trí.

Page 187: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 187

Nhóm có nguy cơ cao: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân di căn

hoặc không biệt hóa khi đến khám bệnh lần đầu trừ các

trường hợp dạng bào thai ở trẻ em dưới 10 tuổi.

5. Sác-côm cơ vân trẻ em được điều trị như thế nào?

Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Các lựa chọn điều trị phẫu thuật

Nguyên tắc cơ bản trong điều trị bằng phẫu thuật ban

đầu cho trẻ em bị sác-côm cơ vân là cắt bỏ toàn bộ khối u

nguyên phát cùng với các mô lành “bao” xung quanh, mặc

dù vẫn có các trường hợp ngoại lệ (ví dụ như khi khối u ở

hố mắt và ở vùng tiết niệu-sinh dục). Nguyên tắc cắt bỏ rộng

và toàn bộ khối u nguyên phát ít được áp dụng với những

bệnh nhân ung thư được phát hiện di căn khi thực hiện

phẫu thuật ban đầu, nhưng có thể áp dụng nếu dễ thực hiện.

Bệnh nhân có khối u sót lại trên vi thể sau phẫu thuật ban

đầu dường như có tiên lượng tốt hơn nếu được tiến hành

phẫu thuật lần hai để cắt phần mô nền của khối u rộng hơn

trước khi điều trị bằng hóa chất để loại bỏ toàn bộ khối u. Vì

sác-côm cơ vân có thể xuất hiện ở rất nhiều vị trí khác nhau

nên cần có các biện pháp phẫu thuật phù hợp với từng vị trí.

Dưới đây là thái độ xử trí ngoại khoa cho các vị trí nguyên

phát thường gặp.

Vùng đầu cổ

Đối với những khối u ở vùng đầu cổ nằm trên bề mặt và

không phải hố mắt, phẫu thuật rộng là phù hợp nếu thực

Page 188: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

188 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

hiện được, mặc dù các mép cắt thường hẹp hơn do những

hạn chế về giải phẫu. Cần phải luôn chú ý tới các yếu tố về

thẩm mỹ và bảo tồn chức năng, nhưng với kỹ thuật hiện đại

việc cắt bỏ toàn bộ khối u ở những bệnh nhân có khối u nằm

trên bề mặt không cần phải thống nhất với các kết quả thẩm

mỹ và chức năng. Đội ngũ các bác sĩ chuyên khoa ngoại đã

cắt bỏ được những khối u phần trước hộp sọ ở những vùng

mà trước đây được coi là không thể tiếp cận bằng phẫu thuật,

bao gồm vùng mũi, các xoang mũi và hố thái dương. Tuy

nhiên những kỹ thuật này chỉ nên áp dụng với trẻ em bị sác-

côm cơ vân khu trú tái phát và còn sót lại tế bào ung thư sau

khi điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ. Đối với các bệnh

nhân có khối u nguyên phát vùng đầu cổ không thể cắt bỏ

được, hóa trị liệu và tia xạ trị liệu là những phương pháp điều

trị ban đầu chủ yếu. Sác-côm cơ vân hố mắt không đòi hỏi

phải khoét bỏ mắt khi chẩn đoán, chỉ cần tiến hành sinh thiết

để chẩn đoán xác định. Việc điều trị chủ yếu là bằng hóa chất

và tia phóng xạ, khoét bỏ mắt chỉ áp dụng cho một số ít bệnh

nhân khi có bệnh dai dẳng khu trú hoặc bệnh tái phát.

Các vị trí ở thân

Phẫu thuật cho bệnh nhân có tổn thương ở thành ngực

hoặc thành bụng nên tiến hành theo hướng dẫn như cho tổn

thương ở các chi, đó là phẫu thuật cắt rộng tại chỗ và cố

gắng cắt toàn bộ không để sót tế bào ung thư trên vi thể.

Điều này có thể đòi hỏi phải sử dụng chất liệu nhân tạo thay

thế nhưng có thể thực hiện thành công ở đa số bệnh nhân có

tổn thương ở những vị trí này. Đối với các khối u rất lớn cần

phải tiến hành sinh thiết trước khi điều trị bằng hóa chất,

Page 189: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 189

sau đó là cắt bỏ khối u đến mép lành và phẫu thuật tạo hình.

Hầu hết bệnh nhân có khối u ở những vị trí này thì bệnh còn

khu trú và có thể cắt bỏ toàn bộ tới mép lành và do vậy có

thời gian sống thêm rất dài.

Khối u ở trong lồng ngực hay ổ bụng hiếm khi có thể cắt

bỏ được bởi vì kích thước khối u đã rất lớn khi chẩn đoán

được và chúng đã xâm lấn vào các cơ quan quan trọng.

Trường hợp ngoại lệ có thể là sác-côm cơ vân xuất phát

trong đường mật, nhưng thậm chí trong các trường hợp này

hiếm khi có thể cắt bỏ toàn bộ khối u, tuy nhiên tiên lượng

bệnh vẫn tốt mặc dù không thể cắt bỏ hết khối u được. Các

ống dẫn lưu mật ra ngoài có thể làm tăng đáng kể nguy cơ

nhiễm khuẩn sau mổ và việc phẫu thuật sác-côm cơ vân

đường mật một cách nặng nề là không được đảm bảo.

Hệ tiết niệu-sinh dục

Các vị trí nguyên phát của sác-côm cơ vân ở trẻ em trong

hệ tiết niệu-sinh dục bao gồm vùng cận tinh hoàn, bàng

quang, tuyến tiền liệt, âm đạo và tử cung. Các vấn đề được

các bác sĩ xem xét trong xử trí ngoại khoa các khối u xuất

phát từ những vị trí này được nêu dưới đây.

Các tổn thương cạnh tinh hoàn hoặc thừng tinh cần được

loại bỏ bằng phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn và toàn bộ thừng

tinh, để làm việc này bác sĩ phẫu thuật cần phải thực hiện

một vết rạch ở bẹn và phải kiểm soát mạch máu đoạn trên

(phẫu thuật cắt tinh hoàn toàn bộ). Cần phải cắt bỏ da ở bìu

khi khối u bị dính hoặc xâm lấn vào hoặc khi trước đó đã

thực hiện sinh thiết qua bìu. Các trường hợp có khối u gần

Page 190: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

190 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

tinh hoàn có mức độ lan sang hệ bạch huyết tương đối cao

(26% các nghiên cứu ở liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ vân

IRS-I và IRS-II) và tất cả các bệnh nhân có khối u nguyên

phát ở gần tinh hoàn sẽ được chụp cắt lớp vi tính ở vùng

chậu và vùng bụng với lớp cắt mỏng có tiêm thuốc cản

quang để đánh giá hệ hạch. Đối với những bệnh nhi dưới 10

tuổi, bệnh nhi thuộc nhóm lâm sàng I và bệnh nhi không có

hạch to trên phim CT thì không cần phải tiến hành sinh thiết

hạch sau phúc mạc, tuy nhiên phải chụp cắt lớp vi tính ba

tháng một lần. Đối với những bệnh nhân nghi có hạch hoặc

phát hiện thấy hạch trên phim CT thì được sinh thiết hạch

sau phúc mạc (nhưng không phẫu tích chính thức) và quyết

định điều trị dựa trên kết quả sinh thiết. Đối với tất cả

những trẻ em trên 10 tuổi có sác-côm cơ vân gần tinh hoàn

việc phẫu tích hạch sau phúc mạc cùng bên đều được chỉ

định vì khả năng di căn ung thư từ các vị trí này vào hệ bạch

huyết vùng tương đối cao. Các nhà nghiên cứu châu Âu có

xu hướng chẩn đoán dựa vào kết quả chụp phim hơn là kết

quả đánh giá hạch sau phúc mạc được sinh thiết qua phẫu

thuật.

Bảo tồn bàng quang là mục tiêu quan trọng của phương

pháp điều trị cho bệnh nhân có khối u bàng quang và tuyến

tiền liệt. Trong một số trường hợp hiếm gặp khối u chỉ nằm

ở đỉnh (đáy) bàng quang và có thể cắt bỏ toàn bộ. Trái lại để

bảo tồn chức năng của bàng quang ở bệnh nhân có khối u

còn sót lại trên đại thể thì bệnh nhân có thể được điều trị

bằng hóa chất và tia phóng xạ để làm giảm kích thước khối

u, sau đó nếu cần có thể tiến hành phẫu thuật ở mức độ hạn

Page 191: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 191

chế hơn như cắt bỏ bàng quang một phần. Kết quả ban đầu

của phương pháp này gây thất vọng, chỉ có 20-40% bệnh

nhân có khối u ở bàng quang/ tuyến tiến liệt còn sống và

duy trì được chức năng của bàng quang trong vòng ba năm

tính từ thời gian bệnh được chẩn đoán (tỷ lệ bệnh nhân có

thời gian sống thêm ba năm trong các nghiên cứu IRS-II là

70%); các nghiên cứu IRS-III mới đây sử dụng hóa chất và tia

xạ tích cực hơn cho kết quả 50% bệnh nhân còn sống và duy

trì được chức năng của bàng quang ba năm sau khi bệnh

được chẩn đoán, với tỷ lệ bệnh nhân sống thêm được ba

năm nói chung là 90%. Vì vậy phương pháp này được chấp

nhận rộng rãi với hy vọng là việc điều trị bằng hóa chất và

tia phóng xạ hiệu quả hơn có thể tăng tần suất bảo tồn được

bàng quang. Quá trình phẫu thuật ban đầu ở hầu hết bệnh

nhân bao gồm sinh thiết, thường được thực hiện qua nội soi,

qua đáy chậu hoặc trên xương mu nhưng hiếm khi cần phải

phẫu thuật mở bụng. Như vậy, đối với những bệnh nhân

mà kết quả sinh thiết cho thấy khối u vẫn còn sót lại sau khi

điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ, xử trí phẫu thuật phù

hợp có thể bao gồm cắt bàng quang một phần, cắt bỏ tuyến

tiền liệt hoặc cắt bỏ nội tạng (thường phải bảo tồn trực

tràng). Một nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân có khối u bàng

quang nguyên phát nếu những khối u còn sót lại có tế bào

trưởng thành về mô học thì có thể điều trị bằng các đợt hóa

chất bổ sung trước khi xem xét việc cắt bỏ bàng quang.

Đối với những bệnh nhân có khối u nguyên phát ở hệ tiết

niệu-sinh dục như âm đạo/âm hộ/tử cung, quá trình phẫu

thuật ban đầu thường là sinh thiết qua âm đạo. Đáp ứng của

khối u ở âm đạo và âm hộ đối với hóa trị liệu thường giúp

Page 192: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

192 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

bệnh nhân không cần phải phẫu thuật triệt căn ban đầu (ví

dụ như cắt bỏ nội tạng vùng hố chậu). Phẫu thuật bảo tồn

cho bệnh nhân bị sác-côm cơ vân âm đạo, kèm theo hóa trị

liệu ban đầu và tia xạ trị liệu bổ trợ khi cần thiết, sẽ kéo dài

rõ rệt thời gian sống thêm không có bệnh tật. Vì chỉ có một

số ít bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tử cung nên rất khó đưa

ra quyết định điều trị cuối cùng. Trong một nghiên cứu trên

14 bệnh nhân thì 13 bệnh nhân có đáp ứng tốt với hóa trị

liệu, phẫu thuật hạn chế và xạ trị. Nhưng không may 4 trong

số 14 bệnh nhân chết vì nhiễm khuẩn huyết và/ hoặc do các

biến chứng khác liên quan tới điều trị. Đối với u nguyên

phát ở những vị trí này thường không cần tiến hành cắt bỏ

nội tạng nhưng nếu cần loại phẫu thuật này có thể được tiến

hành trong hầu hết các trường hợp với điều kiện là phải bảo

tồn trực tràng.

Đối với các bệnh nhân bị sác-côm cơ vân xuất phát từ

vùng bàng quang và tuyến tiền liệt được điều trị bằng hóa

chất và tia phóng xạ, nếu khối u gồm các nguyên bào cơ vân

biệt hóa cao trên tiêu bản phẫu thuật hoặc tiêu bản sinh thiết

sau điều trị thì thường nguy cơ tái phát không cao và không

có chỉ định phẫu thuật cắt bỏ bàng quang toàn phần. Chỉ

nên xem xét chỉ định phẫu thuật khi các nguyên bào cơ vân

không mất đi sau khi điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ

ban đầu. Đối với sác-côm cơ vân ở các vị trí khác trong cơ

thể người ta chưa rõ có nên xử trí tương tự như vậy hay

không do số liệu còn rất hạn chế.

Các khối u ở chi

Page 193: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 193

Phẫu thuật triệt để bao gồm cắt bỏ rộng khối u tại chỗ

cho tới mô lành quanh khối u. Có thể cắt bỏ khối u nguyên

phát lần hai cho những bệnh nhân có khối u còn sót lại trên

vi thể sau phẫu thuật ban đầu. Phẫu thuật cắt cụt chi có thể

áp dụng cho một số bệnh nhân có tổn thương ngoài cơ như

các dây thần kinh hoặc mạch máu lớn. Do khả năng lan

sang hạch của các khối u nguyên phát ở các chi rất cao

(thường không có triệu chứng lâm sàng) và các ảnh hưởng

của điều này đối với tiên lượng và điều trị, việc thăm dò kỹ

lưỡng hệ thống hạch trước điều trị là rất cần thiết. Một

công trình của liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ vân

(IRSG) khuyên nên vét sạch hạch nách (bảo tồn cơ ngực,

dây thần kinh cơ răng cưa to và dây thần kinh ngực) đối

với những bệnh nhân có khối u nguyên phát ở chi trên và

không có hạch trên lâm sàng, đồng thời cũng khuyên nên

lấy mẫu hạch ở tam giác đùi đối với những bệnh nhân có

khối u nguyên phát ở chi dưới. Nếu có hạch trên lâm sàng

thì cần sinh thiết các hạch gần trung tâm hơn trước khi vét

hạch hoặc lấy mẫu xét nghiệm hạch vùng bất thường. Sơ

đồ các hạch dễ bị tế bào ung thư xâm lấn đầu tiên được sử

dụng ở một số trung tâm để xác định những hạch vùng dễ

có khả năng bị ảnh hưởng nhất.

Các vị trí di căn

Phẫu thuật cắt bỏ khối u di căn hiếm khi được chỉ định

trừ trường hợp di căn phổi đơn độc. Nên cắt bỏ khối u di

căn phổi còn tồn tại sau khi điều trị bằng hóa chất và tia

phóng xạ khi có thể để giúp bệnh nhân thoát khỏi bệnh tật,

nếu vẫn duy trì được chức năng của phổi đầy đủ.

Page 194: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

194 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Lựa chọn điều trị hóa chất:

Lựa chọn điều trị chuẩn:

Tất cả bệnh nhi bị sác-côm cơ vân nên được điều trị bằng

hóa chất, với liều lượng và thời gian tuỳ thuộc vào kết quả

phân tích các yếu tố nguy cơ tương ứng.

Đối với bệnh nhân có tiên lượng tốt, yếu tố cần xem xét

quan trọng nhất là phải duy trì được tỷ lệ sống sót cao

(>90%) trong khi phải làm giảm hậu quả của hóa chất xuống

mức thấp nhất. Bệnh nhân có tiên lượng tốt là những bệnh

nhân bị sác-côm cơ vân dạng bào thai xuất hiện ở những vị

trí thuận lợi (như các vị trí đề cập trong giai đoạn 1) và sác-

côm cơ vân dạng bào thai ở các vị trí không thuận lợi nhưng

có thể cắt bỏ hoàn toàn (như trong nhóm lâm sàng I) hoặc có

thể còn sót lại trên vi thể (như trong nhóm lâm sàng II).

Một phân nhóm các bệnh nhân có tiên lượng tốt đạt

được tỷ lệ sống sót cao khi được điều trị chỉ bằng vincristin

(VCR) kết hợp với dactinomycin (DACT). Phân nhóm này

được xác định theo vị trí thuận lợi có thể cắt bỏ toàn bộ

hoặc chỉ còn sót lại trên vi thể, vị trí u không thuận lợi

nhưng kích thước khối u nhỏ và có thể cắt bỏ toàn bộ hoặc

u nguyên phát ở hố mắt còn lại trên đại thể (xem thêm chi

tiết ở mục nói về giai đoạn). Đối với những bệnh nhân có

khối u nguyên phát ở hố mắt, việc bổ sung thêm

cyclophosphamid cùng với VCR và DACT có thể tăng tỷ lệ

sống thêm không có biến cố, nhưng không có ảnh hưởng

tới thời gian sống thêm (tỷ lệ bệnh nhân sống thêm năm

năm là 95%). Do việc dùng cyclophosphamid có thể gây

Page 195: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 195

độc kéo dài nên phương pháp điều trị được ưu tiên sử

dụng hiện nay ở Hoa Kỳ là chỉ dùng VCR và DACT và

chiếu xạ với liều lượng và trường chiếu phù hợp.

Một phân nhóm bệnh nhân khác có tiên lượng tốt với tỷ

lệ sống sót cao khi điều trị bằng VCR và DATC kết hợp với

cyclophosphamid. Phân nhóm này bao gồm các bệnh nhân

có khối u ở vị trí thuận lợi và có hạch bị xâm lấn, bệnh nhân

có khối u ở vị trí thuận lợi (trừ hố mắt) và còn sót lại trên đại

thể, bệnh nhân có khối u nhỏ ở những vị trí không thuận lợi

và khối u còn sót lại trên vi thể hoặc đã có hạch bị tế bào ung

thư xâm lấn và bệnh nhân có khối u lớn ở những vị trí

không thuận lợi nhưng khối u không sót lại trên đại thể.

Bệnh nhân có tiên lượng ở mức trung bình có tỷ lệ sống

sót từ 55% đến 70%. Nhóm này bao gồm các bệnh nhân sác-

côm cơ vân dạng bào thai ở những vị trí không thuận lợi và

có khối u sót lại trên đại thể (như trong nhóm lâm sàng III),

bệnh nhân dưới 10 tuổi bị sác-côm cơ vân dạng bào thai đã

di căn và bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng nang không di căn

ở bất kỳ vị trí nào. Đối với bệnh nhân có tiên lượng ở mức

trung bình, VAC (VCR, DATC và cyclophosphamid) là phác

đồ điều trị hóa chất chuẩn. Liên nhóm nghiên cứu sác-côm

cơ vân (IRS-IV) đã lựa chọn bệnh nhân một cách ngẫu nhiên

để điều trị hoặc bằng phác đồ chuẩn VAC hoặc là một trong

hai phác đồ điều trị bằng thuốc khác. Một phác đồ kết hợp

VCR và DACT với ifosfamid (VAI), dựa trên hoạt tính chống

sác-côm cơ vân của ifosfamid. Phác đồ thứ hai phối hợp

VCR với ifosfamid và etoposid (VIE). Sự kết hợp ifosfamid

với etoposid có hoạt tính rất mạnh chống sác-côm cơ vân

Page 196: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

196 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II. Trong nghiên cứu

IRS-IV cho thấy không có sự khác biệt về tiên lượng giữa 3

phác đồ điều trị này và xác nhận VAC vẫn là phác đồ chuẩn

đối với bệnh nhi sác-côm cơ vân có tiên lượng ở mức trung

bình. So sánh các bệnh nhân có khối u dạng bào thai trong

IRS-IV được điều trị bằng cyclophosphamid liều cao hơn

(hoặc ifosfamid liều tương đương) với những bệnh nhân có

tình trạng tương tự trong IRS-III được điều trị với liều lượng

thấp hơn cho thấy lợi ích của việc sử dụng liều lượng cao

hơn ở một số nhóm bệnh nhân nhất định có nguy cơ ở mức

trung bình, nhóm này chủ yếu là những bệnh nhân có khối

u ở vị trí thuận lợi hoặc là bệnh nhân có khối u ở vị trí không

thuận lợi nhưng đã được cắt bỏ hoàn toàn trên đại thể

(nhưng không phải những bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng

bào thai ở những vị trí không thuận lợi và không thể cắt bỏ).

Bệnh nhân có khối u di căn tại thời điểm chẩn đoán (giai

đoạn IV) có tiên lượng xấu khi điều trị bằng phương pháp

hiện nay, cần phải có các phương pháp điều trị mới để tăng

tỷ lệ sống sót cho những bệnh nhân này. Các trường hợp

ngoại lệ là những bệnh nhân có u dạng bào thai và dưới 10

tuổi. Những bệnh nhân này dường như có tiên lượng tốt

hơn nhiều (tỷ lệ sống sót >50%) so với các bệnh nhân có ung

thư di căn khác.

Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá lâm sàng:

(1) Chế độ điều trị nhiều thuốc thay thế: Những chế độ

điều trị này kết hợp phác đồ VAC và doxorubicin với

các phương pháp điều trị phối hợp thuốc khác. Mặc

dù những chế độ điều trị nhiều loại thuốc này cho các

Page 197: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 197

kết quả tốt nhưng vẫn chưa có các nghiên cứu so

sánh nào cho thấy chúng có hiệu quả hơn phương

pháp chỉ sử dụng VAC.

(2) VAC liều cao: Các nghiên cứu trước đây của IRSG

cho thấy sự cải thiện đáng kể về tiên lượng của

những bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng bào thai khi

tăng liều lượng CYC trong các nghiên cứu kế tiếp

nhau. Kết quả này đã tạo ra động lực để tiếp tục

nghiên cứu xem liệu điều trị bằng cyclophosphamid

liều cao hơn có thể cải thiện hơn nữa tiên lượng của

bệnh nhân sác-côm cơ vân có nguy cơ trung bình và

cao hay không, nhưng vẫn chưa có số liệu của những

nghiên cứu đánh giá chiến lược điều trị này.

(3) Cho thêm yếu tố ức chế topoisomerase-I (topotecan

hoặc irinotecan) vào chế độ điều trị VAC: Topotecan,

một yếu tố ức chế topoisomerase-I, có hoạt tính chống

ung thư cao ở mô hình sác-côm cơ vân trên mảnh

ghép ngoại lai. IRSG đã chứng minh topotecan là một

tác nhân tích cực chống lại sác-côm cơ vân ở những

bệnh nhân chưa được điều trị trước đó, đặc biệt là

những bệnh nhân có tế bào u dạng nang. Điều trị kết

hợp cyclophosphamid và topotecan có hiệu quả cao

đối với bệnh nhân sác-côm cơ vân tái phát. Sự kết

hợp cyclophosphamid và topotecan đang được IRSG

nghiên cứu và đánh giá để điều trị cho bệnh nhi sác-

côm cơ vân có tiên lượng trung bình. Hiệu quả của

irinotecan đối với bệnh nhi sác-côm cơ vân di căn

Page 198: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

198 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

hiện đang được IRSG nghiên cứu (ngoại trừ bệnh

nhân dưới 10 tuổi có khối u dạng bào thai).

(4) Ghép tuỷ xương tự thân (ABMT): ABMT đã được

đánh giá trên một số lượng hạn chế các bệnh nhân

sác-côm cơ vân. Chiến lược điều trị này thường sử

dụng phác đồ hóa trị liệu, tia xạ trị liệu và phẫu thuật

thường quy trong vòng khoảng 6 tháng để làm giảm

đáng kể kích thước khối u. Sau đó bệnh nhân sẽ được

điều trị 1 hoặc 2 đợt hóa chất myeloablative (diệt tuỷ

xương) và tiếp đó là ghép tuỷ. Các dữ liệu hiện có

cho thấy ABMT không có tác dụng trong điều trị

bệnh nhân sác-côm cơ vân có tiên lượng xấu và chỉ

nên được sử dụng như là một phần của các thử

nghiệm lâm sàng có kiểm soát.

Các lựa chọn điều trị tia phóng xạ

Các lựa chọn điều trị chuẩn:

Xạ trị là một phương pháp điều trị hiệu quả để kiểm soát

tại chỗ khối u cho bệnh nhân sác-côm cơ vân còn sót lại trên

vi thể hoặc đại thể sau phẫu thuật hoặc hóa trị liệu ban đầu.

Bệnh nhân có u dạng bào thai có thể phẫu thuật cắt bỏ hoàn

toàn được (nhóm lâm sàng I) thì không cần chiếu xạ, nhưng

chiếu xạ có lợi cho những bệnh nhân thuộc nhóm lâm sàng I

có u tế bào dạng nang hoặc không biệt hóa. Cũng như đối

với phẫu thuật, việc chỉ định điều trị bằng tia phóng xạ cho

bệnh nhân sác-côm cơ vân phụ thuộc vào vị trí của khối u

nguyên phát và phạm vi của bệnh sau phẫu thuật.

Page 199: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 199

Để có sự chăm sóc tối ưu cho những bệnh nhi đang được

điều trị bằng tia xạ cần phải có bác sĩ tia xạ ung thư, kỹ thuật

viên chiếu tia và y tá có kinh nghiệm trong điều trị cho trẻ

em. Các cơ sở điều trị nên trang bị máy gia tốc thẳng và các

phương tiện có khả năng thực hiện liệu pháp bằng chùm

electron. Cần có kế hoạch điều trị được vi tính hóa, tốt nhất

là với hệ thống lập phác đồ ba chiều. Nên tính đến các kỹ

thuật chiếu xạ chính thức (ví dụ như chiếu xạ điều biến

cường độ, chiếu xạ proton hoặc chiếu xạ khoảng kẽ/chiếu xạ

trong khoang).

Liều lượng phóng xạ phụ thuộc chủ yếu vào phạm vi

của bệnh sau phẫu thuật ban đầu. Nói chung bệnh nhân bị

sác-côm cơ vân còn sót lại trên vi thể (nhóm lâm sàng I)

được được điều trị với liều phóng xạ khoảng 4100 cGy,

mặc dù liều từ 3000 đến 4000 cGy có thể là phù hợp đối

với những bệnh nhân có đáp ứng tốt với đa hóa chất.

Nhóm bệnh nhân IRS-II có khối u sót lại trên đại thể

(nhóm lâm sàng III) khi được điều trị liều từ 4000 đến trên

5000 cGy có tỷ lệ tái phát bệnh tại chỗ hoặc vùng trên

30%; liều chiếu xạ cao hơn (>6000 cGy) gây ra các tác dụng

phụ lâu dài không thể chấp nhận được. Bệnh nhân đang

được điều trị theo IRS-IV chuẩn cần nhận liều chiếu

khoảng 5000 cGy.

Khối lượng điều trị được quyết định tuỳ theo phạm vi

của khối u tại thời điểm chẩn đoán trước khi tiến hành

phẫu thuật và trước khi điều trị bằng hóa chất. Thông

thường mép cắt phải cách rìa khối u 2cm và cần vét các

hạch có dấu hiệu bị xâm lấn trên lâm sàng. Trong khi lượng

Page 200: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

200 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

phóng xạ điều trị có thể được điều chỉnh tuỳ theo chỉ dẫn

về độ dung nạp của các mô lành, vùng u sót lại trên đại thể

phải được nhận liều phóng xạ đủ. Thời điểm chiếu xạ

thường bắt đầu sau khi điều trị bằng hóa chất được 2 - 3

tháng, ngoại trừ các trường hợp có khối u gần màng não và

có bằng chứng của sự lan vào màng não thì thường được

chiếu xạ ngay khi bệnh được chẩn đoán. Điều trị bằng tia

xạ thường được thực hiện trong vòng 5 đến 6 tuần (ví dụ

180 cGy mỗi ngày trong vòng 28 ngày điều trị), trong thời

gian này phải điều chỉnh liều hóa chất để tránh tác nhân

gây nhạy cảm phóng xạ là dactinomycin.

Dưới đây là một số phác đồ điều trị tia phóng xạ cải tiến đối

với các khối u nguyên phát đặc biệt cho các bệnh nhân IRS-IV:

(1) Đối với bệnh nhân có khối u ở hố mắt phải có các

biện pháp để bảo vệ thuỷ tinh thể, giác mạc, tuyến lệ

và giao thoa thần kinh thị giác.

(2) Bệnh nhân có khối u nguyên phát ở bàng quang/tuyến

tiền liệt và có khối u lớn ở khung chậu gây tắc nghẽn

đường ra của bàng quang sẽ được điều trị liều phóng

xạ tuỳ theo kết quả thăm dò hình ảnh sau khi đã điều

trị bằng hóa chất ban đầu.

(3) Bệnh nhân có khối u nguyên phát gần màng não đã

lan tiếp vào nội sọ và/hoặc có bào mòn xương đáy

sọ và/hoặc liệt dây thần kinh sọ não thì không cần

phải chiếu xạ toàn não bộ. Nên chiếu xạ cho những

bệnh nhân này vào vị trí của khối u nguyên phát và

vượt ra ngoài mép khối u 2cm để bao gồm vùng

Page 201: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 201

màng não cận khối u nguyên phát và vào vùng u

lan vào trong hộp sọ và cũng vượt ra ngoài rìa 2cm.

Bệnh nhân có ung thư lan vào trong hộp sọ nên

được bắt đầu chiếu xạ trong vòng 2 tuần sau khi

chẩn đoán.

(4) Mặc dù hiếm khi xuất hiện, những bệnh nhi có tế

bào khối u ở trong dịch não tuỷ, có dấu hiệu tổn

thương màng não lan tỏa hoặc nhiều ổ di căn vào

nhu mô não từ khối u nguyên phát ở xa thì sẽ được

chiếu xạ toàn não bộ kèm theo hóa chất/tia xạ để

điều trị khối u nguyên phát. Chiếu xạ cột sống có

thể được tiến hành phối hợp với các phương pháp

điều trị khác và với sự thận trọng của các nhà

nghiên cứu/bác sỹ lâm sàng.

Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá lâm sàng:

Đối với bệnh nhân sác-côm cơ vân còn sót lại trên đại thể

sau phẫu thuật ban đầu, nghiên cứu IRS-IV đang so sánh

phương pháp chiếu xạ thường quy với phương pháp chiếu

xạ chia nhỏ liều. Phương pháp chiếu xạ chia nhỏ liều cho

phép đạt tổng liều phóng xạ vào khối u cao hơn mà không

làm tăng độc tính đối với mô lành về sau và được sử dụng

rộng rãi cho những bệnh nhân có khối u ở hệ thần kinh

trung ương (đặc biệt là u tế bào thần kinh đệm thân não).

Nhóm bệnh nhân IRS-IV được điều trị bằng phương pháp

chiếu xạ chia nhỏ liều nhận tổng liều 5940 cGy (phân liều

chiếu 110 cGy, chiếu hai lần mỗi ngày) và nhóm bệnh nhân

Page 202: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

202 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

được điều trị bằng phương pháp chiếu xạ thường quy nhận

tổng liều xạ 5040 cGy (một phân liều 180 cGy mỗi ngày).

Phương pháp chiếu xạ áp sát sử dụng nguyên liệu phóng

xạ đặt vào trong khoang rỗng hoặc vào khoảng kẽ là một

phương pháp kiểm soát khối u tại chỗ khác còn đang được

nghiên cứu và đã được sử dụng để điều trị cho bệnh nhi bị

sác-côm cơ vân, đặc biệt là những bệnh nhi có khối u

nguyên phát ở âm đạo hoặc âm hộ. Trong một nghiên cứu

nhỏ của một đơn vị duy nhất, phương pháp điều trị này cho

tỷ lệ sống sót cao (85%) và duy trì được chức năng của âm

đạo ở đa số bệnh nhân. Khối u ở các vị trí khác, đặc biệt là

vùng đầu và cổ cũng đã được điều trị bằng chiếu xạ áp sát.

Bệnh nhân thuộc nhóm lâm sàng III có khối u còn sót lại trên

vi thể sau khi điều trị bằng hóa chất có hoặc không kèm theo

phẫu thuật về sau thì có thể kiểm soát được khối u tại chỗ

với liều chiếu xạ 4000 cGy hoặc cao hơn.

Sác-côm cơ vân trẻ em tái phát

Mặc dù bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tái phát hoặc tiến

triển đôi khi có thể ổn định hoàn toàn khi điều trị bằng liệu

pháp thứ hai nhưng tiên lượng lâu dài cho hầu hết bệnh

nhân có bệnh tái phát là dè dặt. Tiên lượng là tốt nhất (tỷ lệ

sống thêm năm năm là 50 - 70%) khi bệnh nhân ở giai đoạn I

hoặc ở nhóm I và có u dạng bào thai theo mô học và khi

bệnh tái phát tại chỗ hoặc trong vùng. Một số lượng nhỏ trẻ

em có u dạng chùm theo mô học bị tái phát cũng có tiên

lượng tốt tương tự. Hầu hết các trẻ em khác bị tái phát có

tiên lượng rất tồi. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị

Page 203: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 203

tiếp theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm vị trí tái phát

và phương pháp điều trị trước đó cũng như các đặc điểm

của mỗi cá thể người bệnh. Sự kết hợp ifosfamid/etoposid có

hiệu quả cao đáng kể trong điều trị trẻ em sác-côm cơ vân

tái phát trước đó chưa được điều trị bằng các loại thuốc này.

Các chế độ điều trị khác cho thấy phác đồ phối hợp hai loại

thuốc carboplatin và etoposid và phối hợp ba loại thuốc

ifosfamid, carboplatin và etoposid có hoạt tính chống sác-

côm cơ vân tái phát. Điều trị bằng hóa chất rất tích cực và

truyền tuỷ xương tự thân sau đó cũng đang được nghiên

cứu trên các bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tái phát. Các hóa

chất mới đang được đánh giá lâm sàng ở giai đoạn I và giai

đoạn II nên được xem xét để điều trị cho những bệnh nhân

này.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Bệnh nhân sác-côm cơ vân trẻ em được khám theo dõi

định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan

trọng trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo

việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào

về sức khỏe cũng được thảo luận để ung thư mới hoặc ung

thư tái phát sẽ được phát hiện và điều trị sớm nhất. Khi đến

khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân và cha mẹ của trẻ nên

thông báo sớm với bác sĩ tất cả những vấn đề về sức khỏe

xuất mới hiện.

Page 204: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Da

1. Ung thư da là gì?

Hai loại ung thư da thường gặp nhất là ung thư biểu mô

tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vẩy (ung thư biểu mô

là những loại ung thư xuất phát từ những tế bào bao phủ

hoặc lót niêm mạc của các cơ quan) trong đó loại ung thư

biểu mô tế bào đáy chiếm đa số. Đây là loại ung thư tiến

triển chậm và hiếm khi lan sang các bộ phận khác của cơ thể.

Ung thư tế bào vẩy cũng hiếm khi lan, nhưng điều này

thường gặp hơn so với ung thư biểu mô tế bào đáy. Tuy

nhiên, điều quan trọng là phải phát hiện ra và điều trị sớm

ung thư da bởi vì chúng có thể xâm lấn và phá huỷ các mô

lân cận. Ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tế

bào đáy đôi khi được gọi là ung thư da không hắc tố. Một

loại ung thư da khác là u hắc tố, loại ung thư này xuất phát

từ tế bào hắc tố, không được đề cập trong bài này.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư da là gì?

Ung thư da là loại ung thư phổ biến nhất ở Mỹ. Theo

những ước tính gần đây, 40-50% người dân Mỹ sống đến độ

Page 205: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DA 205

tuổi 65 sẽ bị ung thư da ít nhất một lần. Mặc dù bất kỳ người

nào cũng có thể bị ung thư da nhưng nguy cơ mắc loại ung

thư này lớn nhất ở những người có da sáng màu, loại da dễ

bị tàn nhang, thường là những người có tóc màu đỏ hoặc

màu vàng và những người có mắt màu xanh hoặc sáng màu.

Bức xạ tia tử ngoại (UV) từ mặt trời là nguyên nhân chính

gây ung thư da. (Có hai loại bức xạ tử ngoại là UVA và

UVB). Nguồn bức xạ tử ngoại nhân tạo, như đèn mặt trời và

buồng tắm nắng, cũng có thể gây ung thư da.

Nguy cơ phát triển ung thư da chịu ảnh hưởng của khu vực

sinh sống. Những người sống ở những vùng có bức xạ tia tử

ngoại từ mặt trời ở mức độ cao có nguy cơ mắc ung thư da cao

hơn. Ví dụ, ở Mỹ tần suất mắc ung thư da ở bang Texas cao

hơn ở Minnesota là nơi cường độ ánh sáng mặt trời không quá

mạnh. Trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc ung thư da cao nhất là ở

Nam Phi và úc, là những vùng đón lượng bức xạ tử ngoại cao.

Bên cạnh đó, ung thư da có liên quan tới thời gian tiếp

xúc với tia tử ngoại trong đời. Hầu hết các trường hợp ung

thư da xuất hiện sau tuổi 50, nhưng tác hại của ánh mặt trời

bắt đầu từ khi bạn còn trẻ. Vì vậy, bạn nên bắt đầu thực hiện

các biện pháp bảo vệ khi còn nhỏ để phòng chống ung thư

xảy ra sau này trong đời.

Bất cứ khi nào có thể, bạn nên tránh ánh nắng mặt trời

buổi trưa (từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều hoặc là từ 11 giờ

sáng đến 3 giờ chiều). Bạn luôn phải nhớ mặc quần áo bảo

vệ, như mũ chống nắng, áo dài tay vì chúng có thể ngăn các

tia nắng mặt trời có hại. Hơn nữa, những loại kem có chứa

chất chống nắng có thể bảo vệ da. Độ mạnh của chất chống

Page 206: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

206 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

nắng được đánh giá theo yếu tố bảo vệ ánh mặt trời (và được

viết tắt bằng tiếng anh là SPF), theo thang độ ở phạm vi từ 2

đến 30 hoặc cao hơn. Những chất có độ mạnh SPF từ 15 đến

30 có thể ngăn hầu hết các tia nắng mặt trời có hại. Những

thay đổi trên da không phải là những dấu hiệu chắc chắn

của ung thư.

3. Ung thư da được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư da là gì?

Triệu chứng thường gặp nhất của ung thư da là sự thay

đổi trên da, đặc biệt là sự xuất hiện một mụn mới hoặc một

vết đau không khỏi. Không phải tất cả các loại ung thư da

trông đều giống nhau. Ví dụ, ung thư có thể bắt đầu từ

những cục u nhỏ, nhẵn, bóng, nhạt màu hoặc như sáp. Hoặc

là, nó có thể xuất hiện dưới dạng một mụn cứng màu đỏ. Đôi

khi, mụn này có thể chảy máu hoặc đóng vảy. Ung thư da

cũng có thể bắt đầu từ những mụn phẳng, màu đỏ, ráp, khô

hoặc có vảy.

Ung thư tế bào đáy và ung thư tế bào vẩy chủ yếu xuất

hiện ở những vùng da tiếp xúc với tia nắng mặt trời như

đầu, mặt, cổ, tay và cánh tay. Tuy nhiên, ung thư da có thể

xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào.

Chứng dày sừng do quang hóa xuất hiện dưới dạng mụn

vảy, màu đỏ hoặc nâu và ráp, là điều kiện tiền ung thư vì

đôi khi nó phát triển thành ung thư tế bào vẩy. Giống ung

thư da, nó thường xuất hiện ở những vùng tiếp xúc với ánh

nắng mặt trời, nhưng nó cũng có thể xuất hiện ở các vị trí

khác. Thay đổi trên da không phải là những dấu hiệu chắc

Page 207: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DA 207

chắn của ung thư. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đến

gặp bác sĩ khi triệu chứng kéo dài hơn 2 tuần. Đừng đợi đến

khi vùng đó bị đau. Nên nhớ rằng ung thư da hiếm khi gây

đau.

4. Ung thư da được chẩn đoán như thế nào?

Nhìn chung, ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu

mô tế bào đáy được chẩn đoán và điều trị tương tự như nhau.

Khi có một vùng da trông không bình thường, bác sĩ có thể cắt

bỏ toàn bộ hoặc một phần mụn. Quá trình này được gọi là

sinh thiết. Để tìm tế bào ung thư, bác sĩ giải phẫu bệnh hoặc

bác sĩ chyên khoa da liễu sẽ quan sát mẫu mô dưới kính hiển

vi. Sinh thiết là biện pháp duy nhất chắc chắn để khẳng định

ung thư.

Bác sĩ thường chia ung thư da thành hai giai đoạn: khu

trú (chỉ ảnh hưởng đến da) hoặc di căn (lan ra bên ngoài da).

Do ung thư da hiếm khi lan nên sinh thiết thường là xét

nghiệm duy nhất cần thiết để xác định giai đoạn của bệnh.

Trong những trường hợp mụn rất to hoặc đã tồn tại trong

một thời gian dài, bác sĩ sẽ phải cẩn thận kiểm tra các hạch

trong vùng. Bên cạnh đó, người bệnh có thể cần làm thêm

các xét nghiệm bổ sung như chụp X quang đặc biệt để xác

định ung thư đã lan tới các bộ phận khác chưa. Biết được

giai đoạn của bệnh sẽ giúp bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù

hợp nhất.

5. Ung thư da được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Page 208: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

208 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Phẫu thuật

Nhiều trường hợp ung thư da có thể cắt bỏ nhanh và dễ

dàng. Trên thực tế, có thể cắt bỏ hoàn toàn ung thư khi tiến

hành sinh thiết và không cần tiến hành điều trị thêm.

Nạo và đốt điện

Bác sĩ thường sử dụng một loại phẫu thuật được gọi là

nạo. Sau khi gây tê tại chỗ, ung thư được nạo bỏ bằng một

thìa nạo. Vùng bị ung thư cũng có thể được điều trị bằng

phương pháp đốt điện. Một dòng điện từ một máy đặc biệt

sẽ có tác dụng kiểm soát chảy máu và tiêu diệt tất cả tế bào

ung thư còn lại ở mép vết thương. Hầu hết trên bệnh nhân

để lại sẹo phẳng màu trắng.

Phẫu thuật Mohs

Kỹ thuật Mohs là một loại phẫu thuật đặc biệt được sử

dụng để điều trị ung thư da. Mục đích của nó là cắt bỏ toàn

bộ mô ung thư với lượng mô lành bị cắt là ít nhất. Kỹ thuật

này đặc biệt có ích khi bác sĩ không chắc chắn về hình dạng

và độ sâu của khối u. Bên cạnh đó, phương pháp này được

sử dụng để cắt bỏ những khối u lớn, những khối u ở những

vị trí khó điều trị và những khối u tái phát. Bệnh nhân được

gây tê tại chỗ và khối u lần lượt được nạo đi từng lớp mỏng.

Mỗi lớp này được quan sát dưới kính hiển vi cho đến khi

toàn bộ khối u được cắt bỏ. Mức độ để lại sẹo phụ thuộc vào

vị trí và kích thước của vùng được điều trị. Phương pháp

này do bác sĩ chuyên khoa về loại phẫu thuật này thực hiện.

Phẫu thuật lạnh

Page 209: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DA 209

Nhiệt độ cực lạnh có thể được sử dụng để điều trị các

điều kiện tiền ung thư da, như chứng dầy sừng do quang

hóa cũng như một số ung thư da nhỏ. Trong phẫu thuật

lạnh, người ta phun nitơ dạng lỏng lên mụn để làm đông và

tiêu diệt tế bào bất thường. Sau khi vùng này tan ra thì mô

chết sẽ rụng đi. Có thể phải làm đông nhiều lần để loại bỏ

hoàn toàn khối u. Phẫu thuật lạnh thường không gây ra đau

đớn, nhưng bệnh nhân có thể bị đau hoặc bị sưng sau khi

vùng điều trị tan ra. Sau điều trị có thể để lại một vết sẹo

màu trắng.

Laser liệu pháp

Đây là phương pháp sử dụng một chùm tia sáng hẹp để

loại bỏ hoặc phá huỷ tế bào ung thư. Phương pháp này đôi

khi được sử dụng để điều trị ung thư chỉ ở lớp ngoài của da.

Ghép da

Đôi khi, cần phải tiến hành ghép da để làm lành vết

thương và giảm kích thước sẹo, đặc biệt sau cắt bỏ ung thư

có kích thước lớn. Để thực hiện được điều này, bác sĩ sẽ lấy

một mảnh da lành ở bộ phận khác của cơ thể thay thế cho

phần da đã được cắt bỏ.

Chiếu xạ

Ung thư da đáp ứng tốt với liệu pháp chiếu xạ, liệu pháp

này sử dụng tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung

thư và ngăn không cho chúng phát triển. Bác sĩ thường sử

dụng phương pháp này để điều trị ung thư xuất hiện ở

những vùng khó tiến hành phẫu thuật. Ví dụ, chiếu xạ được

Page 210: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

210 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

sử dụng để điều trị ung thư ở mí mắt, đỉnh mũi hoặc ở tai.

Có thể phải tiến hành nhiều biện pháp điều trị để tiêu diệt

toàn bộ tế bào ung thư. Chiếu xạ có thể làm da phát ban

hoặc làm da ở vùng điều trị bị khô hoặc tấy đỏ. Thay đổi về

màu sắc da hoặc thay đổi bề mặt da có thể xuất hiện sau khi

điều trị kết thúc và cũng có thể được nhận ra sau đó nhiều

năm.

Hóa trị liệu khu trú

Hóa trị liệu khu trú là phương pháp sử dụng thuốc điều

trị ung thư dạng kem hoặc nước để bôi ngoài da. Chứng dày

sừng do quang hóa có thể được điều trị hiệu quả bằng

fluorouracil (còn được gọi là 5-FU). Phương pháp điều trị

này cũng có hiệu quả đối với ung thư chỉ giới hạn ở lớp trên

cùng của da. Hàng ngày bôi 5-FU, bôi trong vài tuần. Trong

thời gian điều trị da thường bị viêm nặng nhưng thường

không để lại sẹo.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Mặc dù hầu hết các trường hợp ung thư da đều được

chữa khỏi nhưng căn bệnh này có thể tái phát ở cùng vị trí.

Hơn nữa, những người đã được điều trị ung thư da có nguy

cơ bị ung thư da mới ở bất kỳ vị trí nào khác cao hơn mức

trung bình. Đó là nguyên nhân tại sao bệnh nhân cần phải

thường xuyên tự theo dõi và định kỳ đến bác sĩ khám, cũng

như làm theo các hướng dẫn của bác sĩ về cách làm giảm

nguy cơ ung thư da tái phát.

Page 211: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về U Vỏ Tuyến Thượng Thận

1. U vỏ tuyến thượng thận là gì?

U vỏ tuyến thượng thận là loại u hiếm gặp. Chúng có thể

gây ra hội chứng Cushing, nam hóa, cường aldosteron, tăng

huyết áp, khối u ổ bụng hoặc không có triệu chứng và được

phát hiện một cách tình cờ.

2. Các yếu tố nguy cơ và tiên lượng của u vỏ tuyến

thượng thận là gì?

Có hai loại u vỏ tuyến thượng thận chính: u tuyến thượng

thận và ung thư biểu mô tuyến thượng thận. Tiên lượng của

bệnh nhân có u tuyến thượng thận rất tốt vì hầu hết các

trường hợp có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật.

Trái lại, tiên lượng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến

thượng thận rất xấu vì hầu hết các trường hợp bị di căn xa

trên vi thể, thường vào gan hoặc phổi ngay tại thời điểm

Page 212: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

212 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

chẩn đoán và vì không có một phương pháp điều trị nào có

hiệu quả khi bệnh di căn hoặc tái phát. Dùng chất mitotan có

hiệu quả ở một số bệnh nhân nhưng không làm thay đổi tỷ

lệ sống sót, trừ khi được sử dụng ngay sau phẫu thuật ở

bệnh nhân không có dấu hiệu còn sót tế bào ung thư và tiếp

tục sử dụng không hạn định. Tuy nhiên, các triệu chứng

thừa steroid thường có thể kiểm soát được.

3. Triệu chứng của u vỏ tuyến thượng thận là gì?

Các triệu chứng lâm sàng gồm:

- Khối u ổ bụng kèm theo đau bụng vùng thượng vị, chán

ăn, mệt mỏi, sút cân.

- Khối u có thể sờ thấy được hoặc do tình cờ chụp bụng

phát hiện ra.

Các tổn thương ít gặp của tuyến thượng thận dạng nhân

to và nhỏ có thể gây ra hội chứng Cushing không phải chỉ

là các khối u tuyến thượng thận đơn thuần mà còn là hiện

tượng tăng sản hoặc loạn sản tuyến. Sinh lý bệnh học và

phương pháp điều trị các tổn thương này cũng tương tự

như u tuyến thượng thận đơn độc; tăng năng tuyến thượng

thận không phụ thuộc vào corticotropin (ACTH) và các rối

loạn liên quan được điều trị bằng cách cắt bỏ tuyến thượng

thận.

4. U vỏ tuyến thượng thận được chẩn đoán như thế

nào?

Page 213: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 213

Chẩn đoán giai đoạn bệnh:

U vỏ tuyến thượng thận được chẩn đoán khi đã ở giai

đoạn III hoặc IV

Kích thước u 5cm có hạch di căn hoặc xâm lấn tại vùng.

5. U vỏ tuyến thượng thận được điều trị như thế

nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?

Khi có bằng chứng về sự sản xuất hoóc-môn steroid tự

động thì bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật (phẫu thuật

mở hoặc nội soi) để loại bỏ khối u và để điều chỉnh tình

trạng dư thừa hoóc-môn steroid. Khi tình cờ phát hiện ra

khối u và kích thước u còn nhỏ (<3 hoặc 4cm), đặc biệt là

khi không có dấu hiệu thừa hoóc-môn thì có thể trì hoãn

điều trị.

Ở một số trường hợp, phẫu thuật nội soi có thể mất nhiều

thời gian hơn (mặc dù thời gian phẫu thuật giảm xuống khi

có kinh nghiệm), nhưng bệnh nhân ít bị đau sau phẫu thuật

hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn. Ví dụ, trong một báo

cáo tóm tắt các nghiên cứu công bố gần đây, thời gian nằm

viện trung bình dao động từ 1,5 đến 4 ngày (thời gian trung

bình chung là 2,7 ngày) ở bệnh nhân được điều trị bằng

phẫu thuật nội soi so với 5,3 tới 10 ngày (thời gian trung

bình chung là 7,4 ngày) ở bệnh nhân được phẫu thuật mở.

Phẫu thuật nội soi được tiến hành qua nhiều đường. Một

nghiên cứu tiến hành trên 36 bệnh nhân có u tuyến thượng

thận được phẫu thuật nội soi hoặc qua đường bên xuyên

Page 214: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

214 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

thành bụng hoặc qua phúc mạc từ phía sau lưng. Tất cả các

khối u đều được cắt bỏ thành công bằng cả hai đường, trong

đó có 8 khối u có kích thước > 6cm được cắt bỏ bằng đường

bên xuyên thành bụng. Thời gian phẫu thuật của hai cách

này là tương đương nhau và thời gian nằm viện trung bình

cũng tương tự (2,2 ngày so với 1,5 ngày).

Do đó, phẫu thuật nội soi đang trở thành phương thức

phẫu thuật chuẩn đối với bệnh nhân có u tuyến kích thước

nhỏ (đường kính < 6cm). Các khối u tuyến và ung thư có

kích thước lớn thường được cắt bỏ bằng phẫu thuật mở qua

đường cạnh sườn hoặc qua ổ bụng mặc dù u tuyến có kích

thước lớn cũng có thể được cắt bỏ bằng thủ thuật nội soi qua

đường bên xuyên thành bụng.

U tuyến

Hầu như tất cả bệnh nhân có u tuyến thượng thận đều

được chữa khỏi bằng phẫu thuật. Nếu bệnh nhân có hội

chứng Cushing thì thường có hiện tượng teo đét thứ phát

các tế bào bài tiết hoóc-môn giải phóng corticotropin vùng

dưới đồi, các tế bào tiết hoóc-môn hướng vỏ của tuyến yên,

các tế bào vùng lưới và vùng bó không u của tuyến thượng

thận; do vậy bệnh nhân sẽ được điều trị glucocorticoid thay

thế trong vài tháng sau khi cắt khối u hoặc điều trị thay thế

suốt đời sau khi cắt cả hai bên tuyến thượng thận để điều trị

các nhân tuyến hai bên (bệnh nhân cắt cả hai tuyến thượng

thận cũng được điều trị corticoid điều hòa muối-nước thay

thế suốt đời). Các nguyên lý thay thế tương tự như đối với

Page 215: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 215

bệnh nhân bị bệnh Cushing được chữa bằng cách cắt u

tuyến yên.

Bệnh nhân có u tiết aldosteron cũng gặp những vấn đề

tương tự. Sau khi cắt bỏ khối u, hiện tượng giảm natri máu

và tăng kali máu có thể xảy ra trong một thời gian ngắn và

đây là dấu hiệu cho biết hệ thống renin-angiotensin-

aldosteron đã bị ức chế từ trước. Các bệnh nhân này sẽ tuân

thủ một chế độ ăn có nhiều muối kết hợp hoặc không kết

hợp thuốc corticoid điều hòa muối-nước (ví dụ 0,05 đến 0,1

mg fludrocortison hàng ngày) trong vài tuần hoặc thậm chí

vài tháng. Trái lại, không cần điều trị bổ sung cho bệnh nhân

có u tiết androgen sau phẫu thuật trừ khi cả hai tuyến

thượng thận bị cắt hoàn toàn.

Ung thư biểu mô

Phẫu thuật không phải là biện pháp điều trị hiệu quả đối

với bệnh nhân bị ung thư biểu mô tuyến thượng thận do

bệnh thường sớm di căn trên vi thể; như vậy tác dụng về lâu

dài còn xa vời. Tiên lượng ở nam giới và nữ giới, ở bệnh

nhân có u lớn và u nhỏ, ở bệnh nhân có u chức năng và u

không chức năng và ở bệnh nhân có triệu chứng trong thời

gian ngắn hoặc dài đều xấu. Tuy nhiên, bệnh nhân đã có di

căn xa trên lâm sàng hoặc trên phim X quang khi chẩn đoán

có tiên lượng thời gian sống thêm không bằng một nửa thời

gian sống thêm của bệnh nhân không có di căn.

Thường không cắt bỏ được toàn bộ khối u nhưng cố gắng

cắt bỏ tối đa. Ngay cả khi bác sĩ phẫu thuật cho rằng toàn bộ

Page 216: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

216 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

khối u đã được cắt bỏ và không thấy dấu hiệu về khối u sót

lại trên phim X quang hoặc qua định lượng hoóc-môn sau

phẫu thuật nhưng đại đa số các trường hợp đều bị tái phát

(có lẽ là do đã có di căn trên vi thể tại thời điểm phẫu thuật)

ở gan, phổi hoặc các vị trí khác sau vài tháng.

Thời gian sống sót trung bình sau chẩn đoán ở bệnh nhân

trưởng thành bị ung thư biểu mô tuyến thượng thận đã điều

trị bằng phẫu thuật và hóa chất dao động từ 14,5 tháng tới 36

tháng; nếu không điều trị, thời gian sống sót trung bình chỉ là

ba tháng. U ở trẻ em phần nào ít xâm lấn hơn và bệnh nhân ở

tuổi < 40 có thời gian sống sót dài hơn so với bệnh nhân nhiều

tuổi hơn. Việc cắt bỏ các khối u tái phát tại chỗ hoặc khối u di

căn xa có thể kéo dài thời gian sống sót ở một số bệnh nhân và

trong một nghiên cứu tỏ ra hiệu quả hơn dùng chất mitotan.

Mitotan trong điều trị ung thư biểu mô tuyến thượng

thận

Mitotan (một chất tương tự DDT) là một loại thuốc ức chế

vỏ tuyến thượng thận và có một số hiệu quả điều trị đối với

bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng thận.

Điều trị ban đầu

Ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng thận đã

khẳng định trên sinh thiết và không thể phẫu thuật hoặc

chống chỉ định phẫu thuật, sẽ được chỉ định dùng mitotan

để điều trị ban đầu. Thuốc thường được dùng với liều cơ thể

có thể dung nạp được (10-20 g/ngày) sao cho nồng độ

mitotan huyết thanh đạt mức ít nhất 14 - 25 g/ml (44 - 78

Page 217: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 217

mol/l). Các liều thấp hơn, ví dụ 4g/ngày, có tác dụng ức chế

vỏ tuyến thượng thận bình thường và đôi khi được sử dụng

cho bệnh nhân bị bệnh Cushing, nhưng không có hiệu quả

trong điều trị ung thư biểu mô tuyến thượng thận.

Kết quả điều trị ban đầu cho bệnh nhân ung thư biểu mô

tuyến thượng thận rất khác nhau. Đã có các nghiên cứu công

bố có tới 75% bệnh nhân có đáp ứng với hoóc-môn và giảm

được kích thước khối u ở 30% bệnh nhân, nhưng các nghiên

cứu khác lại công bố các con số thấp hơn nhiều. Hơn nữa, tất

cả các dấu hiệu cải thiện chỉ là tạm thời và hầu như bệnh

không bao giờ chữa khỏi. Theo các nghiên cứu về mitotan có

kết quả tốt nhất thì thời gian sống sót trung bình chỉ được

6,5 tháng, không khác biệt so với nhóm bệnh nhân không

được điều trị. Ngay cả bệnh nhân có đáp ứng khách quan

thường cũng không có khả năng chống lại tác dụng phụ khi

điều trị bằng mitotan liều cao.

Phòng ngừa tái phát

Điều trị bằng mitotan có thể trì hoãn hoặc thậm chí ngăn

ngừa tái phát ở bệnh nhân có u nguyên phát đã cắt bỏ và

không có dấu hiệu di căn. Trong các báo cáo này, mitotan

được sử dụng ngay sau phẫu thuật và tiếp tục điều trị suốt

đời.

− Hai trong số bốn bệnh nhân ở một nghiên cứu không bị

di căn và thời gian sống sót trung bình (ba tháng và 75

tháng theo dõi) dài hơn nhiều so với bệnh nhân không

sử dụng mitotan sau phẫu thuật (9 và 10 tháng).

Page 218: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

218 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

− Bốn trong số 11 bệnh nhân ở một nghiên cứu khác sống

sót 4 đến 16 năm không tái phát.

− Năm trong số sáu bệnh nhân ở nghiên cứu thứ ba và

nghiên cứu theo dõi tiếp theo sống thêm một đến sáu

năm không tái phát mặc dù họ được điều trị bằng

mitotan ở liều thấp hơn (1,5 đến 2,0g/ngày).

Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều bị tái phát tại chỗ hoặc

di căn mặc dù đã điều trị bằng mitotan; theo một nghiên

cứu, bệnh nhân được điều trị bổ trợ bằng mitotan lại có tiên

lượng tồi hơn.

Liều lượng

Liều và thời gian điều trị mitotan tối ưu ngay ban đầu

hoặc để bổ trợ chưa được xác định. Tuy nhiên, do ung thư

biểu mô tuyến thượng thận có khả năng gây tử vong cao và

mitotan có thể mang lại hiệu quả nên việc chỉ định mitotan

cho mọi bệnh nhân ngay sau khi cắt bỏ khối u ban đầu là

hợp lý.

Bệnh nhân sẽ được dùng liều cao nhất mà cơ thể có thể

dung nạp được để đạt tác dụng ức chế vỏ tuyến thượng

thận tối đa. Liều khởi đầu là 0,5 g uống khi đi ngủ, bổ sung

thêm các liều đơn 0,5g vào các bữa ăn và khi đi ngủ hàng

tuần để cơ thể dụng nạp được. Để phòng ngừa tái phát, cần

đạt tới liều tối đa 4g/ngày mặc dù liều 2g/ngày có thể đủ và

có lợi thế là mức độ tuân thủ điều trị cao hơn do ít có tác

dụng phụ hơn; khi điều trị u nguyên phát không thể cắt bỏ

hoặc u tái phát thì cần đạt tới liều tối đa 20g/ngày hoặc nếu

không thể đạt tới liều này thì cố gắng đạt tới liều tối đa mà

Page 219: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 219

bệnh nhân có thể dung nạp được. Liều thuốc mỗi ngày cần

được chia nhỏ, một nửa uống khi đi ngủ và nửa còn lại được

chia nhỏ trong các bữa ăn để giảm thiểu chứng buồn nôn và

chán ăn.

Bệnh nhân phải điều trị kéo dài suốt đời hoặc ít nhất là

sáu năm. Có thể đánh giá hiệu quả điều trị định kì bằng

chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ lồng ngực và ổ bụng

trên và bằng định lượng cortisol bài tiết qua nước tiểu 24 giờ

ở bệnh nhân có u sản xuất cortisol hoặc định lượng các tiền

tố cortisol trong nước tiểu ở bệnh nhân có u sản xuất ra

chúng.

Tác dụng phụ

Mitotan rất đắt và có nhiều tác dụng phụ. Tác dụng

phụ thường gặp nhất là buồn nôn, nôn và chán ăn; ngoài

ra có thể có phát ban ngoài da, ỉa lỏng, ngủ gà, buồn ngủ,

chóng mặt, mất điều hòa cơ, to vú đàn ông, đau khớp và

giảm bạch cầu. Các tác dụng phụ khác bao gồm tăng

cholesterol máu, giảm acid uric máu và độc hại gan được

thể hiện qua sự tăng nồng độ phosphatase kiềm trong

huyết thanh.

Dạng thuốc pha chế từ mitotan là dạng bột tán nhỏ trộn

với cellulose acetylphthalate (Roussel-UCLAF), hiện chưa có

bán ở Mỹ, được dung nạp tốt hơn. Tổng liều dao động từ 3-

20g/ngày, chia làm ba lần.

Một số tác dụng phụ đề cập trên có thể là do thiếu

glucocorticoid hoặc đôi khi là do thiếu corticoid điều hòa

muối-nước, không liên quan trực tiếp đến mitotan. Theo

Page 220: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

220 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

một thử nghiệm tiến hành trong một thời gian ngắn,

glucocorticoid ở liều cao hơn có thể làm giảm triệu chứng và

nên tiếp tục dùng mitotan nếu có các tác dụng phụ như vậy.

Liệu pháp thay thế

Khi đạt được tác dụng ức chế vỏ tuyến thượng thận thì

mitotan sẽ làm giảm chức năng thượng thận và gây ra các

triệu chứng và dấu hiệu thiếu cortisol hoặc aldosteron hoặc

cả hai nếu không điều trị thay thế. Mitotan còn làm tăng

tốc độ chuyển hóa dexamethason và fludrocortison, nhưng

không làm tăng tốc độ chuyển hóa của prednisolon hoặc

của hydrocortison.

Không thể dự đoán khi nào bệnh nhân sẽ bị giảm cortisol

huyết sau khi điều trị bằng mitotan. Do đó, khi bắt đầu điều

trị bằng mitotan thì cần dùng glucocorticoid, thông thường

là prednison liều 5mg/ngày. Nếu sử dụng dexamethason

hoặc fludrocortison thì liều điều trị phải cao hơn liều duy trì

bình thường vài lần (tương ứng 0,5-0,75mg và 0,1-

0,2mg/ngày) để làm giảm triệu chứng thiểu năng tuyến

thượng thận và duy trì được điện giải và huyết áp ổn định.

Nếu bệnh nhân điều trị bằng prednison vẫn có triệu chứng

thiểu năng tuyến thượng thận và triệu chứng không giảm

khi tăng liều cao hơn, thì bác sĩ sẽ tìm các cách lý giải khác

cho các triệu chứng này và cho dùng lặp lại liều prednison

trước đây. Ngược lại, nếu bệnh nhân phát triển các dấu hiệu

của hội chứng Cushing thì bác sĩ sẽ giảm liều prednison.

Mitotan làm thay đổi quá trình chuyển hóa cortisol ở gan

từ con đường tetrahydro thông thường thành 6-beta-

Page 221: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 221

hydroxyl hóa. Do vậy lượng 17 hydroxycorticosteroid bài

tiết qua nước tiểu sẽ thấp và do đó đây là một chỉ số không

đáng tin cậy cho quá trình sản xuất cortisol. Mặt khác, nồng

độ cortisol huyết thanh và lượng cortisol bài tiết qua nước

tiểu không bị ảnh hưởng. Một số xét nghiệm cortisoi hiện có

trên thị trường có phản ứng chéo mạnh với prednisolon -

một chất chuyển hóa mạnh của prednison và làm cho nồng

độ cortisol tăng cao; việc lặp lại xét nghiệm này 1 hoặc 2

ngày sau khi tạm thời chuyển sang liệu pháp thay thế bằng

dexamethason sẽ phát hiện ra điều này. Định lượng cortisol

chủ yếu là để phát hiện chức năng khối u còn sót lại ở bệnh

nhân ung thư biểu mô gây ra hội chứng Cushing.

Cần nghĩ đến thiếu corticoid điều hòa muối nước nếu

bệnh nhân bị tụt huyết áp tư thế hoặc tăng kali huyết và tăng

hoạt tính renin huyết tương. Điều này có thể là do bài tiết

aldosterone thiếu hoặc có thể là do tăng quá trình chuyển hóa

fludrocotison ở bệnh nhân đã điều trị bằng fludrocotison.

Các hóa chất khác

Trong hầu hết các nghiên cứu, không có loại thuốc nào,

dù là đơn độc hay dùng phối hợp với mitotan, tỏ ra có hiệu

quả cao hơn mitotan đơn độc. Tuy nhiên, mitotan làm tăng

hoạt tính độc tế bào của các loại hóa chất khác đối với các tế

bào ung thư biểu mô tuyến thượng thận trên cơ thể làm thí

nghiệm. Theo một nghiên cứu, hai trong số 28 bệnh nhân

ung thư biểu mô tuyến thượng thận nặng (không thể phẫu

thuật, còn sót hoặc tái phát) được điều trị bằng chế độ phối

hợp có mitotan (1-4 g/ngày), etoposid, doxorubicin và

Page 222: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

222 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

cisplatin có đáp ứng hoàn toàn, 13 bệnh nhân khác có đáp

ứng đáng kể. Thời gian đáp ứng trung bình là 24,4 tháng. Sự

bài tiết hoóc-môn trở lại bình thường ở 9 trong số 16 bệnh

nhân được đánh giá.

Ba trong số 17 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng

thận di căn có bệnh tiến triển mặc dù đã được điều trị bằng

mitotan đáp ứng một phần với Gossypol dạng uống, một

spermatotoxin được chiết xuất từ dầu hạt bông thô, trong 6

đến 12 tháng.

Tia xạ trị liệu

Tia xạ trị liệu ít khi có hiệu quả đối với bệnh nhân ung

thư biểu mô tuyến thượng thận. Một nghiên cứu đã công bố

ba trong số chín bệnh nhân được chiếu xạ nền tuyến thượng

thận hoặc toàn bộ vùng bụng sau phẫu thuật sống thêm

được 10 năm; tuy nhiên, hai trong số ba bệnh nhân này sau

đó bị tử vong vì các loại ung thư khác do chiếu xạ gây ra.

Kiểm soát hội chứng Cushing bằng phương pháp nội

khoa

Để đề phòng cho bệnh nhân ung thư biểu mô vỏ tuyến

thượng thận không bị thiểu năng hoặc cường tuyến thượng

thận các bác sĩ sẽ giám sát chặt chẽ chức năng tuyến thượng

thận. Những bệnh nhân này có thể bị thiểu năng tuyến

thượng thận (do phẫu thuật hoặc do dùng mitotan) hoặc tiết

thừa cortisol (do có u tồn tại dai dẳng hoặc u tái phát).

Ngoài các đặc tính ức chế vỏ tuyến thượng thận, mitotan có

thể làm giảm tiết cortisol, nhưng thường cần phải điều trị

Page 223: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 223

bằng một chất ức chế enzym tuyến thượng thận đặc hiệu

hơn.

Các loại thuốc hiện có để đạt mục đích này là ketoconazol

(Nizoral), metyrapon (Metopirone) và aminoglutethimid

(Cytadren). Các loại thuốc này, đơn độc hoặc phối hợp, sẽ

được dùng đủ liều để gây thiểu năng tuyến thượng thận, do

khó có thể đạt được hoặc duy trì nồng độ cortisol huyết

thanh bình thường. Vì vậy mọi bệnh nhân sẽ được sử dụng

glucocorticoid thay thế.

Sử dụng một chất kháng glucocorticoid, ví dụ như

mifepriston, là không có lợi ích ích gì do các chất ức chế

enzym rẻ hơn và sẵn có hơn, lại dễ sử dụng hơn. Liều

antiglucocorticoid được xác định dựa trên biểu hiện lâm

sàng của tình trạng thiếu hoặc thừa cortisol chứ không phải

là dựa vào việc định lượng nồng độ cortisol huyết thanh

hoặc nước tiểu.

Những bệnh nhân bị tăng quá trình sinh tổng hợp steroid

và đang được điều trị bằng metyrapon có thể có tình trạng

giữ muối và tăng huyết áp do tăng quá trình sản xuất

deôxycorticosteron. Nếu không thể kiểm soát được tình

trạng tăng cortisol bằng các loại thuốc khác, bệnh nhân sẽ

được tiếp tục sử dụng metyrapon và điều trị các tác dụng

phụ về tim mạch của thuốc bằng lợi tiểu hoặc các thuốc hạ

áp phù hợp.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Page 224: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

224 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Bệnh nhân u vỏ tuyến thượng thận nên khám theo dõi

định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan

trọng trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm

bảo việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay

đổi nào về sức khỏe cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc

ung thư tái phát có thể được phát hiện và điều trị sớm nhất.

Giữa các đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u vỏ tuyến

thượng thận nên thông báo ngay với bác sĩ về tất cả những

vấn đề sức khỏe mới xuất hiện.

Page 225: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Dương Vật

1. Ung thư dương vật là gì?

95% các trường hợp ung thư dương vật là ung thư biểu

mô tế bào vẩy (SCC) nguyên phát. Các tuýp mô học khác

bao gồm sác-côm mô mềm nguyên phát, u niệu đạo, ung

thư biểu mô tế bào vẩy, u lymphô, ung thư biểu mô tế bào

đáy và ung thư dương vật di căn thứ phát là các dạng ung

thư dương vật hiếm gặp.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật là

gì?

Hiện đã có các bằng chứng thuyết phục cho thấy các yếu

tố như độ tuổi, hút thuốc lá, cắt bao quy đầu lúc mới sinh,

hẹp bao quy đầu và nhiễm virút papilloma người (HPV), có

ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ung thư biểu mô tế bào vẩy

dương vật. Các yếu tố nguy cơ có thể khác bao gồm tiền sử

có sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím (PUVA), có

Page 226: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

226 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

nhiều bạn tình, tiền sử rách hoặc xước dương vật, các yếu tố

di truyền và chủng tộc.

Độ tuổi

Tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật.

Ung thư dương vật hiếm gặp trước tuổi dậy thì, tần suất

mắc bệnh bắt đầu tăng ở tuổi trưởng thành và sau đó tiếp

tục tăng. Trong một nghiên cứu trên 4000 trường hợp, độ

tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh là 60 tuổi.

Hút thuốc lá

Những người hút thuốc lá có nguy cơ ung thư dương

vật cao hơn. Trong một nghiên cứu có đối chứng tiến

hành trong cộng đồng, người hút thuốc có nguy cơ mắc

bệnh cao gấp ba lần so với người không hút thuốc. Lượng

thuốc lá sử dụng liên quan tới ung thư dương vật là một

yếu tố độc lập, không phụ thuộc vào các yếu tố khác như

tiền sử tình dục.

Người ta cho rằng khói thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ

phát triển ung thư dương vật qua việc ức chế chức năng

các tế bào Langerhans trình diện kháng nguyên, hậu quả là

gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống cảnh báo miễn dịch. Một

số khác lại cho rằng tình trạng nhiễn HPV, kích thích

dương vật mạn tính hoặc hẹp bao quy đầu có thể có tác

dụng hiệp đồng với hút thuốc lá để thúc đẩy quá trình

chuyển dạng ác tính. Mặc dù có bằng chứng cho thấy các

chất gây ung thư trong thuốc lá tập trung ở bựa sinh dục,

việc điều trị hẹp bao quy đầu đơn độc không loại bỏ được

nguy cơ do hút thuốc gây ra.

Page 227: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 227

Cắt bao quy đầu

Tác dụng có lợi của việc cắt bao quy đầu lúc mới sinh đối

với sự phát triển ung thư dương vật đã được đánh giá cao từ

lâu. Dưới đây là các số liệu chứng minh:

− Ung thư dương vật hầu như không tồn tại ở cộng đồng

người Do thái và người theo đạo Hồi, là những người

có tục lệ cắt bao quy đầu cho nam giới khi mới sinh.

− Trong một nghiên cứu so sánh trực tiếp tiến hành ở

Uganda, các bộ lạc có tục lệ cắt bao quy đầu có tỷ lệ

ung thư dương vật là 0,5/100.000 nam giới, trong khi

đó tỷ lệ này ở các bộ lạc không có tục lệ cắt bao quy

đầu cao hơn gần sáu lần, tới 2,9/100.000 nam giới.

− Với những người không cắt bao quy đầu, tỷ lệ phát

triển ung thư dương vật trong cả cuộc đời có thể lên tới

1/600, trong khi đó tỷ lệ trong cộng đồng chung là

0,2/100.000 nam giới. Trong một báo cáo tổng quan trên

50.000 trường hợp bị ung thư biểu mô tế bào vẩy

dương vật, chỉ có 11 người được cắt bao quy đầu lúc

mới sinh, mặc dù một báo cáo tổng quan khác đưa ra

con số đối lập, trong đó 20% bệnh nhân ung thư dương

vật đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh.

− Phần lớn tác dụng có lợi của cắt bao quy đầu mất đi

nếu không được tiến hành khi còn là trẻ nhỏ. Trong

một nghiên cứu có đối chứng bao gồm 110 bệnh nhân

ung thư dương vật và 355 người chứng, so với những

người đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, nguy cơ

ung thư dương vật tương đối ở đối tượng không cắt

Page 228: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

228 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

bao quy đầu và đối tượng cắt bao quy đầu sau giai

đoạn sơ sinh tương ứng là 3,0 và 3,2. Các nhà nghiên

cứu đưa ra giả thuyết là tác dụng bảo vệ của việc cắt

bao quy đầu xuất phát từ việc không tồn đọng bựa sinh

dục và không bị hẹp bao quy đầu về sau khi dương vật

bị kích thích mạn tính, đặc biệt là khi vệ sinh cá nhân

không tốt. Hiện vẫn chưa xác định được mối liên hệ

giữa việc cắt bao quy đầu và nguy cơ lây nhiễm hoặc

lan truyền HPV.

Bựa sinh dục

Bựa sinh dục bắt đầu hình thành vào những ngày đầu

tiên của cuộc sống do bong tế bào biểu mô trong bao quy

đầu; dịch bài tiết từ các tuyến bao quy đầu cũng đóng góp

một phần. Bựa sinh dục có khả năng gây ung thư ở các mô

hình nghiên cứu trên súc vật, mặc dù thành phần đặc hiệu

gây chuyển dạng ác tính ở nam giới chưa được xác định. Vi

khuẩn Mycobaterium có trong bao quy đầu ở khoảng một

nửa đối tượng không cắt bao quy đầu, có thể chuyển đổi

sterol trong bựa sinh dục thành hợp chất gây ung thư. Ở

nam giới không cắt bao quy đầu, sự tồn đọng bựa sinh dục,

đặc biệt là khi bị hẹp bao quy đầu, có thể thúc đẩy quá trình

chuyển dạng ác tính do sự tiếp xúc trực tiếp với biểu mô bị

kích thích mạn tính.

Hẹp bao quy đầu

Hẹp bao quy đầu khiến cho bao quy đầu không thể co lại

được, là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất.

Theo một báo cáo tổng quan các nghiên cứu có đối chứng đã

công bố, hẹp bao quy đầu làm tăng nguy cơ phát triển ung

Page 229: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 229

thư dương vật nói chung lên hơn 10 lần. Hẹp bao quy đầu là

một bất thường hay đi kèm với ung thư dương vật nhất và

nó liên quan tới tình trạng không biệt hóa biểu mô. Trong

một thông báo, xét nghiệm mô học bao quy đầu ở nam giới

cho thấy tỷ lệ có tình trạng không biệt hóa biểu mô ở nam

giới có hẹp bao quy đầu là 35%, còn tỷ lệ đó ở nam giới

không bị hẹp bao quy đầu là 0%. Tình trạng tồn đọng bựa

sinh dục mạn tính, xảy ra khi vệ sinh cá nhân không tốt, có

thể thúc đẩy quá trình hình thành chứng hẹp bao quy đầu.

Nhiễm virút papilloma người

Giống như các loại ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng hậu

môn-sinh dục khác, tình trạng nhiễm virút papilloma người

(HPV) liên quan chặt chẽ với ung thư dương vật và có thể là

nguyên nhân gây ra loại ung thư này.

Tần suất nhiễm HPV ở bệnh nhân ung thư dương vật dao

động từ 27% tới 71%; hầu hết các trường hợp có liên quan

tới dưới tuýp 16 hoặc 18. Trái lại, tần suất nhiễm HPV ước

tính trong bao quy đầu của đối tượng khỏe mạnh không bị

ung thư dương vật và ở trẻ mới sinh tương ứng là 0 - 6% và

4%. Tình trạng nhiễm HPV dường như không ảnh hưởng tới

tiên lượng của bệnh nhân ung thư dương vật.

Các yếu tố khác. Các yếu tố khác cũng được cho là có

vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ung thư

dương vật.

Liệu pháp PUVA

Page 230: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

230 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Tiền sử sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím và

psoralen (PUVA) có liên quan tới sự phát triển ung thư

dương vật về sau.

Quan hệ tình dục bừa bãi

Quan hệ tình dục bừa bãi có thể thúc đẩy quá trình phát

triển ung thư dương vật. Trong một nghiên cứu, nam giới có

hơn 30 bạn tình trong cả cuộc đời có nguy cơ phát triển ung

thư dương vật cao hơn những người có một đến bốn hoặc

năm đến 29 bạn tình (tương ứng gấp 3,4 và 2,6 lần). Tuy

nhiên, tần suất nhiễm HPV cao hơn ở những người có quan

hệ tình dục bừa bãi có thể giải thích cho mối liên hệ này.

Tổn thương dương vật

Trong một thông báo, nguy cơ phát triển ung thư dương

vật ở những người bị các vết rách nhỏ hoặc xây xước dương

vật tăng 3,9 lần so với người không có các tổn thương này.

Chủng tộc và tiền sử gia đình

Mối liên hệ giữa chủng tộc và ung thư dương vật hiện còn

đang bị nghi ngờ. Theo một nghiên cứu, người Mỹ gốc Phi có

nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao gấp hai lần người

da trắng, nhưng các nghiên cứu khác lại không thấy sự khác

biệt này. Một hội chứng gia đình hiếm gặp cũng đã được mô

tả.

Nhiễm HIV

Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV và ung thư

dương vật chưa rõ ràng. Chỉ có một số ít trường hợp bị ung

Page 231: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 231

thư dương vật trong số những người nhiễm HIV được công

bố, thường là ở các trường hợp có nhiễm HPV. Tần suất mắc

ung thư dương vật thấp khi bị nhiễm HIV khiến cho người

ta ngạc nhiên vì các loại ung thư hậu môn-sinh dục liên

quan tới HPV khác tăng lên khi bị nhiễm HIV.

Các tổn thương dương vật tiền ung thư

Một số tổn thương dương vật hiện nay được coi là tiền

ung thư do có khả năng thúc đẩy hoặc phát triển trực tiếp

thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Các tổn thương

này bao gồm viêm quy đầu khô tắc (BXO), bạch sản, sừng

hóa da quy đầu, sùi mào gà, condilom Buschke-Lowenstein

khổng lồ, viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)

và ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) gồm các thể bệnh

Bowen (BD), hồng sản Querat (EQ) và sẩn dạng Bowen (PB).

Không xác định được phạm vi của tổn thương có trước

khi hình thành ung thư dương vật xâm lấn; các bằng chứng

hiện có gợi ý đa số các trường hợp ung thư biểu mô tế bào

vẩy dương vật phát triển tự nhiên. Ví dụ, trong một nghiên

cứu, chỉ có 39 người (8%) trong số 511 bệnh nhân ung thư

dương vật có tổn thương dương vật trước đó hoặc có tổn

thương đồng thời. Tuy nhiên, trong nghiên cứu thứ hai, 19

(42%) trong số 45 bệnh nhân công bố có tổn thương từ trước.

Do đó, vai trò chính xác của tổn thương dương vật có từ

trước đối với quá trình hình thành ung thư còn đang được

tiếp tục nghiên cứu.

Viêm bao quy đầu khô tắc

Page 232: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

232 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

BXO là một căn bệnh ở vùng sinh dục tương tự lichen thể

xơ hóa và teo đét, được đặc trưng bởi các mảng trắng ở quy

đầu hoặc ở bao quy đầu. Các mảng trắng này cuối cùng to

lên và kết hợp thành khối u xơ cứng gây dính, hẹp bao quy

đầu và chít hẹp miệng sáo. Mặc dù thường được coi là lành

tính nhưng BXO có liên quan tới ung thư biểu mô tế bào vẩy

ở khoảng hơn chục trường hợp, không có ai trong số này

được cắt bao quy đầu lúc mới sinh. Trong một nghiên cứu

có 86 bệnh nhân bị lichen xơ cứng vùng sinh dục, các biểu

hiện mô học tiền ung thư hoặc ung thư phát triển ở 5 bệnh

nhân (6%), 4 trong 5 bệnh nhân này có nhiễm HPV. Khoảng

thời gian trung bình từ lúc lichen xơ cứng khởi phát cho tới

khi phát triển ung thư dương vật là 17 năm (dao động từ 10

đến 2-3 năm).

Bạch sản

Tình trạng kích thích hoặc viêm mạn tính được coi là đóng

vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bạch sản, đó là

một tình trạng bệnh hiếm gặp thường có một hoặc nhiều

mảng trắng dạng vẩy ở miệng sáo. Mặc dù mối liên quan

chính xác với ung thư dương vật chưa được xác định rõ

nhưng bạch sản thường được phát hiện ở gần hoặc sát vùng

có ung thư biểu mô tế bào vẩy. Bản chất tiền ung thư của

bạch sản được gợi ý do có biểu hiện loạn sản ở 10 - 20% các

trường hợp nếu để bệnh tiến triển tới mức độ loét, xước hoặc

nứt.

Sừng hóa da quy đầu

Page 233: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 233

Sừng hóa da quy đầu là một tổn thương dày sừng lồi

được tạo thành do sự quá phát và sừng hóa biểu mô. Sừng

hóa da thường được tạo thành trên bề mặt của tổn thường

có từ trước như mụn ruồi, hạt cơm hoặc vết trầy xước và

chúng được coi là một đáp ứng với tình trạng viêm bao quy

đầu mạn tính. Sự thoái hóa ác tính đã được ghi nhận ở một

số trường hợp bệnh tái phát và hiếm khi sừng hóa phát triển

hoặc tạo thành từ ung thư xâm lấn.

Sùi mào gà

Sùi mào gà hay còn gọi là mụn cơm sinh dục là các u nhú,

mềm đi kèm tình trạng nhiễm HPV. Mặc dù u sùi thường có

diễn biến lành tính nhưng cũng có thể chuyển dạng ác tính,

đặc biệt khi đi kèm với một số dưới tuýp HPV nhất định (16,

18, 31, 33, 35 và 39). Tần suất mắc ung thư dương vật tăng ở

những người có sùi mào gà được minh họa trong một

nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng trên 110

bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người làm chứng,

trong đó nguy cơ ung thư dương vật ở người có tiền sử u sùi

mào gà cao hơn 5,9 lần so với người không có u sùi.

Condyloma Buschke-Lowenstein khổng lồ (ung thư biểu

mô dạng hạt cơm)

Đây thường là u lồi trông giống súp lơ ở quy đầu và bao

quy đầu của dương vật và là một dạng ung thư biểu mô tế

bào vẩy hậu môn-sinh dục biệt hóa cao, chiếm khoảng 5 -

24% các trường hợp ung thư dương vật tuỳ thuộc vào nhóm

đối tượng được nghiên cứu. HPV được cho là có liên quan

tới sinh bệnh học của ung thư biểu mô dạng hạt cơm; HPV

Page 234: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

234 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

dưới tuýp 6 và 11 thường được phân lập và dưới tuýp 16 và

18 có liên quan tới sự phát triển xâm lấn.

Ung thư biểu mô dạng hạt cơm có tiên lượng tốt hơn các

ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật khác. Trong một

nghiên cứu so sánh 60 trường hợp ung thư biểu mô tế bào

vẩy dương vật và 11 trường hợp ung thư biểu mô dạng hạt

cơm, ung thư biểu mô dạng hạt cơm có khả năng di căn

hạch thấp hơn (18% so với 57%) và tỷ lệ sống sót sau năm

năm cao hơn (100% so với 60%). Ung thư biểu mô dạng hạt

cơm còn có tần suất kết hợp với HPV ADN cao hơn (46% so

với 27%).

Viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)

PKMB là một tổn thương ít gặp, biểu hiện lâm sàng là

một mảng đơn độc màu trắng dày sừng phân thành lớp ở

quy đầu; nó thường xuất hiện ở người cao tuổi và được cắt

bao quy đầu muộn. Nguyên nhân chính xác gây ra căn bệnh

này vẫn chưa được xác định rõ, sự chuyển dạng ác tính

PKMB thành ung thư biểu mô tế bào vẩy đã được công bố;

dấu hiệu chuyển dạng là sự phát triển một tổn thương lồi

dạng nhân trong mảng trắng tồn tại từ trước.

Bệnh Bowen

Bệnh Bowen (BD) là một ung thư biểu mô nông tại chỗ

(CIS) trong biểu mô sinh nang, ví dụ trên thân dương vật.

Nó thường là đám đỏ nhạt đơn độc với các vùng có vỏ cứng

và rỉ nước. Trong một nghiên cứu, HPV-16 có ở 4 trong 5

tiêu bản sinh thiết BD sinh dục. Nếu không điều trị, ung thư

Page 235: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 235

biểu mô tế bào vẩy sẽ phát triển ở khoảng 5% các trường

hợp.

Hồng sản Querat

Hồng sản Querat (EQ) là một loại ung thư biểu mô nông

tại chỗ phát triển trong lớp biểu mô niêm mạc-da của dương

vật tức là quy đầu và bao quy đầu. Nó thường có màu đỏ

nhung, ranh giới rõ. Các tổn thương này thường đơn độc và

đôi khi bị xước hoặc bị loét nhưng ít khi bị đau. EQ thường

gặp ở người cao tuổi và không cắt bao quy đầu. Nó có xu

hướng thoái hóa thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn

cao hơn so với bệnh Bowen; tần suất chuyển dạng ác tính

dao động trong khoảng 10 - 33%. Sự phát triển loét và/hoặc

u nhú có liên quan tới sự tiến triển của bệnh. Người ta đã

mô tả mối liên hệ của bệnh với HPV 8 và 16.

Sẩn dạng Bowen

Sẩn dạng Bowen (BP) là dạng ung thư biểu mô nông tại

chỗ thứ ba, được đặc trưng bởi nhiều mụn sẩn hơi lồi có

màu từ đỏ tới tím. Các mụn này thường tạo thành trên thân

dương vật mặc dù quy đầu và bao quy đầu cũng có thể bị

tổn thương. Người ta cho là HPV có liên quan đến sinh bệnh

học của sẩn dạng Bowen. Diễn biến lâm sàng của sẩn dạng

Bowen thường là lành tính, nhưng cũng đã có một số ít

trường hợp tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm

lấn. Tuổi cao và tình trạng ức chế miễn dịch có thể làm tăng

nguy cơ tiến triển.

Page 236: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

236 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

3. Ung thư dương vật được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư dương vật là gì?

Ung thư dương vật có các biểu hiện lâm sàng rất khác

nhau, từ tổn thương có vẻ lành tính tới ung thư biểu mô

xâm lấn kèm với rụng dương vật. Có sự khác biệt lớn như

vậy một phần là do người ta thường đến khám muộn.

Khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân bắt đầu nhận thấy tổn

thương cho tới khi người bệnh đến khám bác sĩ trung bình

là 10 tháng và đến một nửa số bệnh nhân này có thể có tổn

thương trên một năm trước khi đến khám bác sĩ.

Dấu hiệu và triệu chứng của tổn thương nguyên phát

Trong một báo cáo tổng quan của trên 4000 bệnh nhân

ung thư dương vật, 47% có u, cục hoặc nhân ở dương vật;

35% bị đau hoặc loét và 17% bị tổn thương viêm. Khi đến

khám, 43% tổn thương có kích thước < 2cm và 57% có tổn

thương với kích thước lớn hơn. Trong nghiên cứu thứ hai,

48% các trường hợp có tổn thương quy đầu, thứ tự tiếp đó là

tổn thương bao quy đầu (21%), tổn thương cả quy đầu và

bao quy đầu (9%) tổn thương vành quy đầu (6%) và tổn

thương thân dương vật (< 2%); trong 14% các trường hợp,

ung thư đã xâm lấn vào trong thân dương vật từ các vị trí ở

xa hơn.

Ung thư dương vật có cả dạng nhú và dạng phẳng. U

nhú thường phát triển từ một tổn thương dạng hạt cơm lồi

ở quy đầu và da quy đầu, tổn thương này về sau có thể

rộng ra và kết hợp lại tạo thành một khối u dạng nấm kèm

hoại tử và huỷ hoại dương vật. Ngược lại, u phẳng thường

Page 237: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

UNG THƯ DƯƠNG VẬT 237

xâm lấn vào các cấu trúc sâu hơn của dương vật, đồng thời

lan rộng ra hai bên lên bề mặt dương vật làm cho bề mặt

thay đổi chút ít. Các tổn thương này thường là vết loét hình

tròn, nông và nhỏ trên nền hơi lồi. Cả hai loại tổn thương

đều có thể dẫn tới tình trạng nhiễm khuẩn thứ phát và

thường rỉ mủ có mùi hôi.

Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể thấy ngứa và nóng

rát ở dưới bao quy đầu và chỉ hơi bị đau vì bệnh ít khi gây

huỷ hoại lan rộng vào mô. Các triệu chứng thường gặp như

giảm cân và mệt mỏi có thể đi kèm sự tiến triển bệnh. Chảy

máu, rò niệu đạo và tắc niệu đạo là các biến chứng muộn

báo hiệu bệnh đã lan rộng; đây là các dấu hiệu hiếm khi xuất

hiện. Trong các trường hợp nghiêm trọng, khối u có thể

chiếm toàn bộ dương vật hoặc dương vật có thể rụng.

4. Ung thư dương vật được điều trị như thế nào?

Phẫu thuật là phương pháp cơ bản để điều trị ung thư

dương vật. Đối với những tổn thương dương vật được coi

là tiền ung thư như như viêm quy đầu khô tắc, bạch sản,

sừng hóa da đầu, viêm quy đầu giả u biểu mô dày sừng và

ung thư biểu mô nông tại chỗ gồm các thể bệnh Bowen,

hồng sản Querat và sẩn dạng Bowen thì sử dụng phẫu

thuật laser là tốt nhất.

Khi ung thư có kích thước lớn, tuỳ vào độ rộng của thâm

nhiễm và mức độ phá huỷ của ung thư đối với tổ chức bình

thường mà cắt cụt một phần dương vật hy có thể phối hợp

với cắm kim phóng xạ điều trị tại chỗ bằng Iridium192.

Page 238: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

238 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Khi tổn thương đã lan rộng, ngoài việc cắt cụt dương vật

kèm theo vét hạch bẹn chậu hai bên triệt để, nếu cần thiết thì

bậnh nhân được chiếu tia xạ sau mổ vào vùng bẹn chậu.

Hóa chất có vai trò điều trị tạm thời khi bệnh ở giai

đoạn muộn.

5. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Bệnh nhân ung thư dương vật nên khám theo dõi định kỳ

sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng

trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc

bệnh nhân được giám sát cẩn thận, và bất kỳ thay đổi về sức

khỏe cũng được thảo luận để phát hiện và điều trị sớm ung

thư mới hoặc ung thư tái phát. Giữa các đợt khám theo dõi

định kỳ, bệnh nhân ung thư dương vật nên thông báo ngay

với bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe mới xuất hiện.

Page 239: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

HỎ I & ĐÁP

về Ung Thư Tuyến Tuỵ

1. Ung thư tuyến tụy là gì?

Ung thư tuyến tụy thường khó phát hiện ở giai đoạn sớm

vì triệu chứng không điển hình bệnh có nguy cơ tử vong

cao.

2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến tụy là gì?

Các dữ liệu về môi trường cho thấy nguy cơ mắc ung thư

tuyến tuỵ có thể giảm xuống khi dừng hoặc bỏ hút thuốc,

giảm lượng thịt cá và tăng lượng rau xanh trong chế độ ăn.

3. Ung thư tuyến tụy được phát hiện như thế nào?

Triệu chứng của ung thư tuyến tụy là gì?

Cần bắt đầu khám sàng lọc 10 năm trước độ tuổi mà ung

thư tuyến tuỵ được chẩn đoán đầu tiên ở những gia đình có

hội chứng lâm sàng và sau 35 tuổi ở bệnh nhân viêm tuyến

tuỵ di truyền.

Page 240: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

240 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

Không có chiến lược khám sàng lọc nào tỏ ra có khả

năng phát hiện sớm ung thư tuyến tuỵ ở bệnh nhân có

nguy cơ cao, và không có một phương pháp khám đặc

hiệu nào. Hiện nay, có lẽ chiến lược có hiệu quả tốt nhất

là chụp cắt lớp xoắn ốc, sau đó là siêu âm nội soi nếu kết

quả chụp cắt lớp không chẩn đoán được bệnh và định

lượng CA 19-9 huyết thanh. Tuy nhiên, phương pháp này

có thể không phát hiện dược “các tổn thương sớm” có thể

chữa khỏi.

4. Ung thư tuyến tụy được chẩn đoán như thế

nào?

Hiện nay chụp cắt lớp thường quy hoặc chụp cắt lớp

xoắn ốc một pha là xét nghiệm ban đầu để chẩn đoán khối u

tuyến tuỵ. Tuy nhiên, chụp cắt lớp xoắn ốc hai pha là xét

nghiệm tốt nhất để chẩn đoán và phân giai đoạn u tuyến tuỵ

và trở thành phương pháp chuẩn. Siêu âm nội soi là phương

pháp tốt nhất để tìm các khối u nhỏ có thể cắt bỏ nhưng

không phát hiện được bằng chụp cắt lớp. Phân tích kết quả

xét nghiệm hình ảnh thường thiên về khả năng cho rằng

khối u có thể cắt bỏ, vì có thể tiến hành phẫu thuật xâm lấn

một cách an toàn nếu bác sĩ có kinh nghiệm.

Soi ổ bụng được chỉ định khi khối u có thể không cắt bỏ

được nhưng điều này chưa được xác nhận bằng các thăm dò

hình ảnh. Ví dụ khi chụp cắt lớp thấy có di căn gan hoặc tới

các bộ phận khác nhưng kết quả chọc hút tế bào âm tính,

ung thư ở thân hoặc đuôi tuỵ và cổ trướng.

Page 241: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

VỀ UNG TH Ư TUYẾ N T UỴ 241

5. Ung thư tuyến tụy được điều trị như thế nào? Tác

dụng phụ của điều trị là gì?

Phẫu thuật

Bệnh nhân có khối u cắt bỏ được cần được chuyển tới các

trung tâm có bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tuyến tuỵ để

thăm dò thêm.

Có thể tiến hành phương pháp phẫu thuật Whipple

chuẩn hoặc phương pháp phẫu thuật Whipple bảo tồn

môn vị. Phương pháp phẫu thuật Whipple chuẩn thường

được áp dụng cho các khối u có kích thước lớn hơn và lan

rộng hơn.

Nếu không cắt được u nguyên phát, bác sĩ phẫu thuật

phải quyết định có cần can thiệp làm giảm nhẹ triệu chứng

tắc mật hoặc tắc tá tràng hay không.

Điều trị triệu chứng

Bệnh nhân tắc mật nhưng không thể phẫu thuật triệt để

được cần được đặt stent (giá đỡ) nong rộng bằng kim loại

qua nội soi.

Khi khối u gây tắc tá tràng (thường ở giai đoạn muộn),

cần phải thực hiện nối dạ dày-ruột bằng phẫu thuật hoặc

qua nội soi. Phương pháp đặt dụng cụ nong rộng bằng kim

loại qua nội soi cần được đánh giá thêm.

Có thể giảm đau bằng cách dùng hóa chất phong bế dây

thần kinh tạng trong phẫu thuật, phong bế đám rối dương

qua da, hoặc dùng thuốc giảm đau opiod tác dụng kéo dài

Page 242: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

242 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ

phù hợp. Phong bế dây thần kinh tạng và phong bế qua da

giúp bệnh nhân tránh được tác dụng phụ của opioid.

Cần điều trị thiểu năng tuyến tuỵ ngoại tiết bằng enzym

tiêu mỡ liều 10% lượng hoạt tính tiêu mỡ sau ăn (30.000 đơn

vị quốc tế hoặc 90.000 đơn vị USP), thuốc dùng kèm với bữa

ăn được chia nhỏ: 1/3 liều sau khi ăn vài miếng, 1/3 liều

trong bữa ăn, và 1/3 liều vào cuối bữa ăn.

Hóa chất hoặc chiếu xạ

Tia xạ và hóa chất bổ sung có 5-fluouracil được chỉ định

sau phẫu thuật.

Hóa chất-tia xạ bổ trợ từ đầu là một phương pháp được

chấp nhận có thể thay thế cho hóa chất-tia xạ sau phẫu

thuật. Trước khi tiến hành liệu pháp bổ trợ, nên tiến hành

chụp cắt lớp xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang để phân giai

đoạn khối u một cách kĩ càng. Ngoài ra có thể tiến hành soi

ổ bụng để loại trừ di căn phúc mạc và di căn nội tạng tiềm

ẩn.

Bệnh nhân có u tại chỗ không thể cắt bỏ hoặc đã bị di căn

cần được xem xét để tham gia thử nghiệm thăm dò nếu họ

có tình trạng sức khỏe tốt (có khả năng thực hiện được các

hoạt động bình thường).

Thay cho nghiên cứu thăm dò, phương pháp điều trị

chuẩn cho bệnh nhân có u không thể cắt bỏ được là chiếu xạ

phối hợp đồng thời với 5-fluorouracil hoặc gemcitabin đơn

độc. Gemcitabin là lựa chọn điều trị cho tất cả bệnh nhân có

Page 243: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay

VỀ UNG TH Ư TUYẾ N T UỴ 243

tình trạng sức khỏe yếu và/hoặc bị đau hoặc để xử trí tổn

thương di căn.

6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?

Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến tụy là rất

quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân,

chụp X quang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ.

Page 244: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay
Page 245: HÃY CẢNH GIÁC VỚI BỆNH UNG THƯ - vietnamcancer.orgvietnamcancer.org/wp-content/uploads/2018/11/HOI-VA-DAP-VE-BENH-UNG... · Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay