hÃy cẢnh giÁc vỚi bỆnh ung thƯ -...
TRANSCRIPT
HÃY CẢNH GIÁC
VỚI BỆNH UNG THƯ
Tiến sỹ Y khoa Nguyễn Thanh Đạm
Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Vật lý trị liệu Bộ Y tế
Tổng thư ký Hội phòng chống Ung thư Việt
Nam
Bệnh viện K, 43 Quán Sứ, Hà Nội, Việt Nam
Fax: (84-4) 7.181.636
ĐT: (84-4) 9.346.49643
DĐ: 0913.228.665
Công ty Cổ phần Tập đoàn Liên kết
Việt Nam
Phòng tư vấn VINA-LINK GROUP
Số 16 ngõ 183 Đặng Tiến Đông, quận Đống Đa,
Hà Nội, Việt Nam
ĐT: (84-4) 5.377.052
Email: [email protected]
2 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Email: [email protected]
4 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ
TS. NGUYỄN THANH ĐẠM
HÃY CẢNH GIÁC
VỚI BỆNH UNG THƯ
(HỎI VÀ ĐÁP VỀ UNG THƯ)
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
Cuốn sách được thực hiện bởi Công ty Sách Alpha
Số 164B, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (04) 722 6237 |35 |36 - Fax: (04) 722 6237
E-mail: [email protected]
http://www.alphabooks.vn
LỜI GIỚI THIỆU
ng thư là vấn đề sức khỏe được quan tâm ở nhiều
nước trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế
giới, hàng năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người mắc
bệnh ung thư và 5 triệu người chết do ung thư. Ở Việt Nam
theo ước tính mỗi năm có khoảng 100.000 đến 150.000 bệnh
nhân ung thư mới mắc và 70.000 người chết vì ung thư. Con
số này có xu hướng ngày càng gia tăng.
Các nhà khoa học đã khẳng định một phần ba số bệnh
ung thư có thể phòng ngừa, một phần ba có thể chữa khỏi
nếu được chẩn đoán sớm và cùng với điều trị chăm sóc hỗ
trợ sẽ làm tăng chất lượng sống cho một phần ba số bệnh
nhân ung thư còn lại. Vì vậy vấn đề phòng bệnh, phát hiện
U
8 HÃY CẢNH GIÁC V ỚI B ỆNH UNG THƯ
sớm bệnh ung thư ngày càng là vấn đề cấp bách, rất cần
thiết đối với mọi người dân.
Cuốn sách Hãy cảnh giác với bệnh ung thư do Công ty Cổ
phần sách Alpha xuất bản đáp ứng nhu cầu phòng bệnh và
phát hiện sớm bệnh ung thư của người dân trong cộng
đồng. Tác giả cuốn sách đã diễn đạt dưới hình thức rất đơn
giản Hỏi và Đáp về bệnh ung thư để mọi người dễ dàng liên
hệ với bản thân mình khi đọc; phù hợp cho việc hướng dẫn,
thông tin và tuyên truyền, giúp hiểu rõ hơn về căn bệnh ung
thư.
Xin trân trọng giới thiệu với các độc giả.
Chủ tịch Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam
Chủ nhiệm UB KHCN&MT của Quốc hội
G S . V S . Đ Ặ N G V Ũ M I N H
MỤC LỤC
Lời tựa ............................................................................................. 13
Hỏi và đáp về ung thư gan ..................................................... 17
Hỏi và đáp về ung thư dạ dày ................................................ 31
Hỏi và đáp về ung thư vú ....................................................... 38
Hỏi và đáp về ung thư thận .................................................... 81
Hỏi và đáp về bệnh Hodgkin ................................................. 91
Hỏi và đáp về ung thư tuyến tiền liệt ...................................105
Hỏi và đáp về ung thư não ....................................................117
Hỏi và đáp về ung thư thực quản .........................................134
Hỏi và đáp về ung thư âm đạo ..............................................142
Hỏi và đáp về ung thư tử cung .............................................154
Hỏi và đáp về ung thư tế bào máu........................................166
Hỏi và đáp về sác-côm cơ vân trẻ em ...................................179
10 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Hỏi và đáp về ung thư da ......................................................204
Hỏi và đáp về u vỏ tuyến thượng thận ................................211
Hỏi và đáp về ung thư dương vật .........................................225
Hỏi và đáp về ung thư tuyến tụy ..........................................239
Kính tặng Mẹ,
Người đã hy sinh cả cuộc đời cho chúng tôi
12 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
LỜI TỰA
hi chứng kiến nỗi đau của gia đình bệnh nhân ung thư
mất đi những người thân yêu nhất của mình vì căn
bệnh hiểm nghèo này, tôi lại trăn trở một vấn đề chiến lược
của ngành ung thư: Cần phải tiêu diệt ung thư ngay khi còn
trứng nước. Thật đáng tiếc khi ở Việt Nam, ngay tại bệnh
viện K Hà Nội, nơi tôi làm việc, hầu hết các bệnh nhân đến
bệnh viện đã vào giai đoạn muộn, các nỗ lực của ngành y
lúc này chỉ có thể kéo dài cuộc sống từ vài tháng đến vài
năm.
Nhiều người con hiếu thảo, nhiều người vợ hiền chung
thủy nói với chúng tôi rằng dù có phải bán đi mọi tài sản của
mình họ vẫn sẵn sàng, chỉ mong sao cứu được người thân của
mình. Chúng tôi đã gặp vô vàn cảnh ngộ rất cảm động, và
thực sự chúng tôi cũng dốc hết tâm lực của mình để cùng
bệnh nhân và gia đình họ chiến đấu chống lại bệnh tật, nhưng
lực bất tòng tâm, khi mà căn bệnh đã đến giai đoạn di căn.
Tại sao chúng ta cứ để mãi xảy ra tình trạng bệnh nhân
ung thư đến muộn? Tại sao chúng ta cứ để mất đi không
biết bao nhiêu của cải, sức lực để rồi vẫn phải chịu thất vọng
và thêm mất mát?
K
14 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Đã đến lúc chúng ta phải quyết tâm thay đổi mạnh mẽ,
phải làm sao cho người dân trong cộng đồng luôn cảnh giác
với căn bệnh ung thư để phát hiện được bệnh sớm. Không ai
có thể nhận ra được những thay đổi của bạn tốt hơn bạn, và
cũng không ai có thể thay bạn đến gặp các chuyên gia y tế
để hỏi về những vấn đề của chính bạn. Hãy cảnh giác với
bệnh ung thư, và nếu phát hiện bệnh sớm thì có thể chữa
khỏi bệnh hoàn toàn như nhiều căn bệnh thông thường
khác. Đó chính là thông điệp của cuốn sách này.
Việc phát hiện sớm các dấu hiệu ung thư là vấn đề rất
phức tạp, nó vẫn lúc ẩn lúc hiện tùy theo sức khỏe của mỗi
người, nó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác với bệnh
ung thư. Chúng ta đang thiếu vắng những tài liệu khoa học
phổ thông đơn giản có thể phổ biến cho hàng triệu người
dân, những cuốn sách có tác động xã hội to lớn vừa trực tiếp
tới từng người dân vừa có tính chất lâu dài. Nhưng làm sao
cuốn sách đến được với các bạn đọc là vô cùng khó khăn vì
sách mang tải các nội dung khoa học thường không hấp dẫn
người đọc. Tác giả cuốn sách đã cố gắng chuyển tải thông
tin dưới dạng những câu hỏi đáp rất đơn giản, dễ hiểu với
mong muốn giúp mọi người tìm lời giải đáp về căn bệnh
ung thư.
Việc phòng bệnh ung thư phải là một chiến lược lớn của
ngành ung thư phối hợp với các bộ ban ngành để đảm bảo
những vấn đề lớn hơn như giữ cho môi trường trong sạch, an
toàn thực phẩm, xây dựng lối sống lành mạnh, tập luyện đều
đặn để nâng cao sức khỏe. Một hướng mới mà trên thế giới
đã thành công là đưa thực phẩm chức năng vào phòng bệnh
LỜI TỰA 15
ung thư, tim mạch, bệnh mạn tính. Việt Nam có trên 3.800 cây
làm thuốc trên tổng số hơn 10.600 loài thực vật, vì vậy nước ta
được coi là nơi có nguồn dược liệu phong phú và đa dạng,
chắc chắn sẽ có các sản phẩm chức năng của riêng mình.
Công ty cổ phần tập đoàn liên kết Việt Nam (VINA-LINK
GROUP) đã thành công bước đầu trong việc đưa ra các sản
phẩm thực phẩm chức năng đảm bảo an toàn, là sự kết hợp
hoàn hảo giữa tinh hoa của y học Việt Nam và sức mạnh của
công nghệ hiện đại thế giới, làm tăng cường kích thích hệ
miễn dịch bẩm sinh, nâng cao sức đề kháng của cơ thể để
phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh suy giảm miễn dịch
cũng như sẽ đóng góp vào việc phòng bệnh ung thư.
Hãy cảnh giác với bệnh ung thư là lời tâm huyết mà tác
giả cuốn sách muốn gửi gắm tới bạn đọc với kinh nghiệm
của hơn 40 năm làm việc trong ngành Y.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Công ty Cổ phần sách Alpha đã
tạo điều kiện cho cuốn sách đến được với đông đảo bạn đọc,
để góp một phần nhỏ vào cuộc chiến chống lại căn bệnh
hiểm nghèo của thế kỷ.
Hy vọng rằng cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn đọc những
thông tin bổ ích, để làm tăng thêm cơ hội phát hiện sớm bệnh
ung thư. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn
đọc.
T¸c gi¶
16 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
T S . N G U Y Ễ N T H A N H Đ Ạ M
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Gan
1. Ung thư gan là gì?
Ung thư gan là loại khối u ác tính hình thành từ các tế bào
gan phân chia bừa bãi. Loại này có tỷ lệ mắc bệnh đang tăng
dần, chủ yếu là do liên quan tới viêm gan C. Ở một số vùng
trên thế giới ung thư tế bào gan là loại ung thư phổ biến. Tại
Việt Nam, ung thư gan đứng hàng thứ ba trong các loại ung
thư phổ biến nhất. Ung thư tế bào gan có thể chữa trị bằng
phẫu thuật, nhưng chỉ được lựa chọn cho một số ít bệnh nhân
ung thư gan có khối u khu trú. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào
mức độ choán chỗ của khối u và mức độ suy yếu chức năng
gan.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư gan là gì?
Xơ gan: Có tới 50-80% bệnh nhân ung thư gan có liên
quan đến gan xơ; 5% bệnh nhân xơ gan sau này sẽ phát triển
thành ung thư tế bào gan và thường là nhiều ổ.
18 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Viêm gan virút: Viêm gan virút B và C là nguyên nhân
đáng kể nhất gây ung thư tế bào gan trên toàn thế giới, đặc
biệt là ở những bệnh nhân có kháng nguyên tồn tại trong
máu kéo dài liên tục và ở những bệnh nhân viêm gan mạn
tính hoạt động. Một loạt các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân
nam trên 50 tuổi nhiễm cả virút viêm gan B và viêm gan C
có nguy cơ mắc ung thư tế bào gan đặc biệt cao (cao gấp ba
lần so với nhóm đối chứng). Có bằng chứng cho thấy bệnh
nhân nhiễm virút viêm gan B, C và uống trên 80g rượu mỗi
ngày có nguy cơ bị ung thư gan tăng cao hơn (tỷ số chênh là
7,3) so với bệnh nhân không uống rượu. Bên cạnh đó, có
người thân ở thế hệ liền kề bị viêm gan B và ung thư tế bào
gan cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho các thành viên
trong gia đình đang mang virút viêm gan B (tỷ số chênh là
2,41).
Chất độc: Chất Alfatoxin cũng được coi là một trong
những yếu tố nguyên nhân của ung thư gan nguyên phát ở
một số vùng trên thế giới, là những nơi có nồng độ
mycotoxin trong thức ăn cao. Công nhân tiếp xúc với vinyl
clorua trước khi bụi vinyl clorua được xử lý dễ bị ung thư
loại sarcoma trong gan, phổ biến nhất là sarcoma mạch. Còn
phát hiện ra các dạng sarcoma khác có nguồn gốc mạch máu
và cơ trơn.
3. Ung thư gan được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư gan là gì?
Triệu chứng ban đầu của ung thư gan rất khó phát hiện.
Khi các triệu chứng xuất hiện như:
UNG THƯ GAN 19
Mất cảm giác ăn ngon miệng
Ăn uống khó tiêu
Người yếu và mệt mỏi khó chịu
Cảm giác nằng nặng ở dưới bờ sườn phải
Vàng da tăng dần
Các triệu chứng thường không rõ ràng, quá mơ hồ nên dễ
bị bỏ qua. Tới khi bụng bị trướng to, sờ thấy khối u ở vùng
thượng vị, vàng da rõ ràng, không ăn được thì bệnh đã ở
giai đoạn muộn.
Chất chỉ điểm sinh học AFP rất hữu ích cho việc chẩn
đoán khối u tân tạo này. Nhờ kỹ thuật miễn dịch phóng xạ,
50 - 70% bệnh nhân ung thư tế bào gan ở Mỹ được phát hiện
có nồng độ AFP cao. Vì vậy, hiện nay các bác sĩ coi tăng
nồng độ AFP là dấu hiệu chỉ điểm ung thư tế bào gan. Tuy
nhiên, bệnh nhân mắc các loại bệnh ác tính khác (carcinom
tế bào mầm và hiếm gặp là carcinom tuyến tuỵ và dạ dày)
cũng có nồng độ AFP huyết thanh cao, khi đó sẽ phải làm
thêm các xét nghiệm khác để phân biệt. Nồng độ AFP có vai
trò quan trọng và được dùng làm dấu hiệu chỉ điểm sớm vì
tiên lượng của bệnh và khoảng thời gian sống thêm của các
bệnh nhân có AFP âm tính lâu hơn rõ rệt so với bệnh nhân
có AFP dương tính. Các yếu tố khác bao gồm tình trạng hoạt
động, chức năng gan, có hay không có xơ gan kèm theo
cùng với mức độ trầm trọng của nó theo phân loại của
Child-Pugh cũng ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh.
Bệnh nhân có kế hoạch phẫu thuật cần được đánh giá
trước khi phẫu thuật bằng chụp mạch kết hợp với chụp cắt
20 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
lớp vi tính xoắn ốc hay chụp cộng hưởng từ hạt nhân và
chụp mạch cộng hưởng từ; những phương pháp thăm dò
hình ảnh có thể thay thế cho việc chụp mạch ở hầu hết các
bệnh nhân. Thông tin về giải phẫu động mạch rất hữu ích
cho bác sĩ phẫu thuật quyết định có được phép phẫu thuật
hay không. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp
vi tính động học có thể chỉ ra mối liên hệ của khối u gan
với tĩnh mạch gan và tĩnh mạch cửa (và đôi khi có thể thấy
tình trạng khối u xâm lấn vào các mạch máu này) cho phép
nhìn thấy các khối u mà khả năng phẫu thuật là rất khó
khăn. Soi ổ bụng có thể phát hiện ra ung thư di căn, ung
thư hai tiểu thuỳ, thực trạng gan để quyết định không còn
khả năng phẫu thuật nữa.
Phân loại tế bào
U ác tính ở gan chủ yếu là ung thư biểu mô tuyến nguyên
phát, với hai loại tế bào chính: ung thư tế bào gan và ung
thư tế bào đường mật.
Theo loại tế bào phát triển thành khối u xác định bằng xét
nghiệm mô học, người ta phân loại thành: Ung thư tế bào
gan, ung thư tế bào gan dạng sợi, ung thư tế bào đường mật,
ung thư hỗn hợp tế bào gan và tế bào đường mật, ung thư
không biệt hóa, khối u blastoma gan hiếm gặp ở người lớn.
Trong các loại thì ung thư tế bào gan dạng sợi có thể chữa
khỏi được nếu khối u được cắt bỏ. Loại này thường xảy ra ở
những phụ nữ trẻ và có tiến triển lâm sàng chậm hơn loại
ung thư tế bào gan thường gặp.
UNG THƯ GAN 21
4. Ung thư gan được chẩn đoán phân giai đoạn như
thế nào?
Uỷ ban Liên kết về Ung thư của Mỹ (AJCC) đã quy định
các giai đoạn TNM cho ung thư gan như sau:
Giai đoạn theo TNM là cách xác định khối u căn cứ vào
ba tiêu chuẩn chính: T là chữ viết tắt của Tumor có nghĩa là
kích thước của khối u; N là chữ viết tắt của Node có nghĩa là
có hạch lymphô hay chưa; M là chữ viết tắt của Metastasis,
có nghĩa là mức độ di căn xa từ khối u nguyên phát.
• Khối u nguyên phát (T)
TX: Khối u nguyên phát không thể xác định được.
T0: Không có bằng chứng của khối u nguyên phát.
T1: Khối u đơn độc với đường kính lớn nhất từ 2cm trở
xuống và không có xâm lấn vào mạch máu.
T2: Khối u đơn độc với đường kính lớn nhất từ 2cm trở
xuống và đã xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u
nhưng chỉ khu trú ở một thuỳ, không có khối u nào có
đường kính lớn nhất trên 2cm và không xâm lấn vào mạch
máu; hay một khối u đơn độc với đường kính lớn nhất trên
2cm và không xâm lấn vào mạch máu.
T3: Khối u đơn độc có đường kính lớn nhất trên 2cm và đã
xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u nhưng chỉ khu trú ở
một thuỳ, không có khối u nào có đường kính lớn nhất trên 2
cm, đã xâm lấn vào mạch máu; hay nhiều khối u nhưng chỉ
22 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
khu trú ở một thuỳ, các khối u có đường kính lớn nhất trên 2
cm, đã xâm lấn hoặc chưa xâm lấn vào mạch máu.
T4: Nhiều khối u ở nhiều thuỳ hay các khối u xâm lấn vào
nhánh chính của tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch gan hoặc
xâm lấn vào các cơ quan lân cận loại trừ túi mật hay làm
thủng phúc mạc tạng.
• Các hạch vùng (N)
NX: Hạch vùng không thể đánh giá được.
N0: Không có di căn vào hạch vùng.
N1: Có di căn vào hạch vùng.
Các hạch vùng là hạch rốn gan (có nghĩa là các hạch ở
dây chằng gan-tá tràng, quanh tĩnh mạch gan và tĩnh mạch
cửa). Các hạch vùng còn bao gồm cả những hạch nằm dọc
theo tĩnh mạch chủ dưới, động mạch gan và tĩnh mạch cửa.
Sự xâm lấn vào bất kỳ hạch bạch huyết nào ngoài những
hạch này được gọi là di căn xa và được phân loại là M1. Sự
xâm lấn vào các hạch dưới cơ hoành cũng được xếp vào M1.
• Di căn xa (M)
MX: Di căn xa không thể đánh giá được.
M0: Không có di căn xa.
M1: Có di căn xa.
Di căn thường hay xuất hiện nhất là ở xương và phổi.
Khối u có thể lan qua bao gan tới cơ hoành.
Phân nhóm giai đoạn theo AJCC
UNG THƯ GAN 23
Giai đoạn I
T1, N0, M0
Giai đoạn II
T2, N0, M0
Giai đoạn IIIA
T3, N0, M0
Giai đoạn IIIB
T1, N1, M0
T2, N1, M0
T3, N1, M0
Giai đoạn IVA
T4, N bất kỳ, M0
Giai đoạn IVB
T bất kỳ, N bất kỳ, M1
Theo khả năng điều trị, bệnh nhân ung thư gan được chia
thành ba nhóm: có thể cắt bỏ khối u khu trú, không thể cắt
bỏ khối u khu trú và giai đoạn muộn. Các giai đoạn này
được miêu tả cùng với hệ thống phân loại TNM tương ứng:
Giai đoạn khu trú có thể cắt bỏ
(T1, T2, T3 và một số T4; N0; M0)
Là khối u đơn độc nằm trong một phần của gan và có thể
cho phép phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u với một phần mô
gan lành xung quanh. Xét nghiệm chức năng gan thường
24 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
cho kết quả bình thường hoặc ở mức độ bất thường tối thiểu
và không có bằng chứng của xơ gan hoặc viêm gan mạn
tính. Chỉ có một số ít bệnh nhân ung thư gan còn ở giai đoạn
này. Các thăm dò trước phẫu thuật bao gồm chụp cắt lớp vi
tính hoặc chụp cộng hưởng từ hạt nhân nhằm mục đích xác
định mức độ lan tỏa của khối u qua mặt phân cách các thuỳ,
sự xâm lấn vào rốn gan hay vào tĩnh mạch chủ. Phần gan
được cắt phải có mép cắt vào mô lành từ 1 - 2cm. Bệnh nhân
viêm gan mạn tính và xơ gan có nguy cơ rủi ro cao khi tiến
hành phẫu thuật.
Giai đoạn khu trú không thể cắt bỏ
(Một số T2, T3 và T4; N0; M0)
Loại ung thư này giới hạn trong gan, nhưng không thể
tiến hành phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u bởi vị trí của khối
u trong gan hoặc vì các tình trạng bệnh đi kèm (chẳng hạn
như xơ gan). Bệnh nhân ung thư tế bào gan dạng sợi khu trú
không thể cắt bỏ có thể xem xét để ghép gan. Đối với các
bệnh nhân khác, có thể lựa chọn điều trị bằng nút mạch
bằng hóa chất.
Giai đoạn muộn
(T bất kỳ, N1 hoặc M1)
Ung thư gan giai đoạn muộn là khi ung thư đã xuất hiện
ở hai thuỳ gan hoặc đã di căn tới các vị trí xa. Thời gian sống
thêm trung bình thường là hai đến bốn tháng. Vị trí di căn
thường gặp nhất của ung thư tế bào gan là phổi và xương.
Ung thư gan thường có nhiều ổ, đặc biệt là khi bệnh nhân đã
bị xơ gan hoặc viêm gan mạn tính.
UNG THƯ GAN 25
5. Ung thư gan được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Ung thư gan có thể phẫu thuật
• Các lựa chọn điều trị chuẩn:
Phẫu thuật: Phẫu thuật cắt khối ung thư gan khu trú có
thể là cắt một phần thuỳ đến ba phần thuỳ (80%). Trong một
loạt bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận, phẫu thuật cắt gan
bán phần mang lại thời gian sống thêm dài năm năm cho 10
- 30% bệnh nhân. Ung thư tế bào gan thường có nhiều ổ và
có thể đã ảnh hưởng tới nhiều vị trí trong toàn bộ gan tại
thời điểm thăm khám, thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy
khối u lớn nhất khi thăm dò trước phẫu thuật. Trước phẫu
thuật cần làm các thăm dò để tìm di căn ngoài gan, vì tình
trạng này sẽ cản trở tiến hành phẫu thuật cắt gan theo kế
hoạch. Phẫu thuật cắt hơn một góc gan ở những bệnh nhân
xơ gan hoặc viêm gan hoạt động mạn tính là khó vì khả
năng làm việc của gan phần còn lại là kém (tỷ lệ tử vong
cao). Thường đó là các chống chỉ định của phẫu thuật cắt
phần lớn gan nhưng có thể không chống chỉ định cho ghép
gan. Ghép gan cho những bệnh nhân ung thư tế bào nội mạc
mạch gan, ung thư tế bào biểu mô dạng sợi và các khối ung
thư tế bào gan nhỏ (<5cm) kèm theo hoặc không kèm theo
xơ gan mang lại thời gian sống thêm năm năm cho 20-30%
trường hợp.
• Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá trên lâm sàng:
Bởi có nhiều bệnh nhân ung thư gan khu trú bị tái phát
bệnh sau phẫu thuật cắt gan, cần sử dụng các biện pháp
điều trị bổ trợ như phương pháp truyền hóa chất vào động
26 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
mạch gan trong vùng khối u hay toàn thân. Một thử nghiệm
ngẫu nhiên tiến hành trên 43 bệnh nhân cho thấy thời gian
sống thêm được kéo dài khi tiêm bổ trợ sau phẫu thuật một
liều đơn độc (1850 MBq) lipiodol I-131 qua động mạch gan.
Thời gian sống thêm trung bình của nhóm bệnh nhân được
điều trị bổ trợ là 57 tháng so với 13,6 tháng ở nhóm bệnh
nhân chỉ được phẫu thuật cắt gan. Lipiodol không độc,
nhưng cần phải điều trị ức chế tuyến giáp trước và sau phẫu
thuật. Thử nghiệm lâm sàng được kết thúc trước dự định vì
sự khác biệt về thời gian sống thêm giữa nhóm điều trị và
nhóm chứng xuất hiện sớm. Vì vậy, những kết quả này chỉ
được coi là sơ bộ và cần phải được kiểm chứng. Trong một
nghiên cứu áp dụng liệu pháp miễn dịch dùng interleukin-2
và các tế bào lymphô tự thân hoạt hóa kháng CD3 cho thấy
là chỉ kéo dài thời gian bệnh ổn định, chứ không kéo dài thời
gian sống sót nói chung. Ung thư gan tái phát nhưng khu
trú đôi khi có thể điều trị thành công bằng tái phẫu thuật.
Ung thư gan nguyên phát người lớn giai đoạn khu trú
nhưng không thể cắt bỏ
Bệnh nhân có khối u khu trú T2, T3 và T4; N0; M0 nhưng
không thể cắt bỏ do vị trí của khối u ở trong gan và các tình
trạng bệnh đi kèm (như xơ gan) hoặc thậm chí là u hai bên
thuỳ giới hạn có thể được điều trị theo phương pháp nút
động mạch bằng hóa chất (làm giảm khối u), phá huỷ u
bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phương pháp phá
huỷ khối u bằng nhiệt khi khối u có đường kính nhỏ hơn
5cm. Thời gian sống thêm tương đương với khi điều trị bằng
phương pháp phẫu thuật cắt gan.
UNG THƯ GAN 27
Thử nghiệm lâm sàng sử dụng hóa trị liệu toàn thân, hóa
trị liệu vùng hoặc kháng thể gắn đồng vị phóng xạ có thể
làm bệnh ổn định khi khối u gan không thể cắt bỏ. Các
phương pháp điều trị khác bao gồm nút động mạch gan
bằng bột gel xốp hoặc là các phần cơ và hóa chất, thường là
adriamycin. Những phương pháp này thường gây hoại tử ở
trung tâm khối u, làm giảm kích thước khối u và giảm đau,
nhưng tác dụng của nó thường chỉ kéo dài một thời gian
ngắn. Bất kỳ sự can thiệp nào vào hệ thống tưới máu động
mạch (bao gồm cả hóa trị liệu truyền) có thể làm cho bệnh
nặng hơn và bị chống chỉ định khi có tăng áp lực tĩnh mạch
cửa, huyết khối tĩnh mạch cửa hoặc vàng da trên lâm sàng.
Một nghiên cứu ngẫu nhiên kết thúc sớm cho thấy phương
pháp nút động mạch bằng hóa chất không kéo dài thêm
được thời gian sống so với điều trị bảo tồn.
Các lựa chọn điều trị gồm:
Nút động mạch bằng hóa chất, phá huỷ u bằng đông
lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phá huỷ u bằng nhiệt
đối với khối u nhỏ (có đường kính từ 5cm trở xuống),
khu trú nhưng không thể cắt bỏ.
Đối với một số bệnh nhân ung thư gan khu trú không
thể cắt bỏ, đặc biệt là ung thư tế bào gan dạng sợi, ghép
gan có thể là lựa chọn điều trị hữu hiệu.
Hóa trị liệu (truyền vào vùng khối u gan): hóa chất có
thể truyền bằng một bơm đặt dưới da vào tĩnh mạch
cửa qua một ống catheter đặt vào động mạch gan. Các
nghiên cứu trước đây sử dụng các hóa chất chuẩn đã
28 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
cho thấy tỷ lệ đáp ứng đạt được ở 15%-30% các trường
hợp như vậy, nhưng các hóa chất và kĩ thuật mới hơn
(vi hạt giáng hóa sinh học) đã được đánh giá trong các
thử nghiệm lâm sàng đi đầu, cũng như hóa trị liệu
vùng kết hợp với chiếu xạ ngoài. Nhiều bệnh nhân
không được điều trị bằng những phương pháp này vì
những phương pháp này thường đòi hỏi phẫu thuật
can thiệp.
Hóa trị liệu toàn thân: Thời gian bệnh ổn định kéo dài là
hiếm gặp và thời gian sống thêm không tăng lên đáng kể.
Phẫu thuật, hóa trị liệu và tia xạ trị liệu: Các phương
pháp này có thể được phối hợp trong các thử nghiệm
lâm sàng đối với những bệnh nhân có một khối u gan
chính với nhiều ổ nhưng số lượng khối u ít; phẫu thuật
cắt gan hay phẫu thuật cắt lạnh khối u chính có thể tiến
hành trước khi truyền hóa chất vào phần gan còn lại
đơn độc hoặc kết hợp với phương pháp thấu nhiệt, tia
phóng xạ hoặc tia xạ và chất mẫn cảm phóng xạ. Hóa
trị liệu kết hợp với tia phóng xạ cũng được sử dụng để
làm co nhỏ khối u trước khi phẫu thuật.
Tiêm alcohol vào trong khối u.
Các phương pháp khác bao gồm sử dụng chất mẫn
cảm phóng xạ và chiếu xạ ngoài mà không dùng hóa
chất. Tính nhạy cảm phóng xạ của mô gan lành so sánh
với mô u phải luôn được theo dõi khi sử dụng tia xạ trị
liệu.
Phá huỷ khối u bằng nhiệt.
UNG THƯ GAN 29
Ung thư gan nguyên phát người lớn giai đoạn muộn
Không có phương pháp điều trị chuẩn nào cho bệnh nhân
ung thư gan di căn giai đoạn muộn (T bất kỳ, N1 hoặc M1).
Những bệnh nhân như vậy nên xem xét việc tham gia vào
thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác dụng của các loại thuốc
điều trị ung thư hoặc sinh học mới (các nghiên cứu giai đoạn
I và II) hoặc kết hợp các loại thuốc hiện đang lưu hành, các
chất mẫn cảm phóng xạ và tia xạ trị liệu. Trong những
nghiên cứu này đôi khi thấy có kết quả làm bệnh ổn định.
Điều trị bằng chiếu xạ ngoài và hóa trị liệu kèm theo
kháng thể anti-ferritin đa clon đánh dấu phóng xạ sau đó tạo
ra đáp ứng khách quan ở khoảng 50% bệnh nhân, nhưng nó
là phương pháp điều trị tại chỗ và không thể điều trị bệnh
toàn thân.
Ung thư gan nguyên phát người lớn tái phát
Tiên lượng đối với tất cả bệnh nhân ung thư gan nguyên
phát đã được điều trị nhưng bệnh vẫn tiến triển hay tái phát
là không tốt. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị tiếp
theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm việc điều trị trước
đó, vị trí tái phát, sự có mặt của bệnh xơ gan và chức năng
gan cũng như suy nghĩ của từng cá nhân. Nên phẫu thuật lại
nếu có thể, nhưng hầu hết bệnh nhân đều tái phát, thường là
ở gan. Nếu không thể phẫu thuật lại được, các lựa chọn điều
trị cho bệnh nhân ung thư gan tái phát có thể bao gồm việc
sử dụng phương pháp thuyên tắc hóa dầu qua động mạch
(TOCE), tiêm ethanol qua da (PEIT), hóa trị liệu hoặc ghép
gan. Tại một viện duy nhất của Hồng Kông, các bác sĩ tiến
30 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
hành theo dõi 244 bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan để
phát hiện tái phát trong gan. Trong số 244 bệnh nhân, 139
bệnh nhân không bị tái phát trong gan và thời gian sống
thêm một năm, ba năm, năm năm tương ứng là 87%, 79% và
74%. Trong số 105 bệnh nhân ung thư tái phát trong gan, 11
bệnh nhân được điều trị bằng tái phẫu thuật và tỷ lệ sống
thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 81%, 70%
và 69%; 71 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp
TOCE và tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm
tương ứng là 72%, 38%, 20%; 6 bệnh nhân được điều trị bằng
phương pháp PEIT có tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và
năm năm tương ứng là 67%, 22% và 0%; 17 bệnh nhân còn
lại được điều trị hoặc bằng hóa trị liệu toàn thân hoặc điều
trị bảo tồn, không có bệnh nhân nào sống thêm được ba
năm. Các thử nghiệm lâm sàng là hợp lý và nên áp dụng khi
có thể.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Dạ Dày
1. Ung thư dạ dày là gì?
Ung thư dạ dày là khối u ác tính có thể phát triển ở bất cứ
phần nào của dạ dày và có thể lan xuyên qua dạ dày sang
các cơ quan khác. Nó có thể tăng trưởng dọc theo thành dạ
dày vào thực quản hoặc ruột non. Nó cũng có thể lan rộng
xuyên qua thành dạ dày và lan sang các hạch bạch huyết lân
cận và lan sang các cơ quan như gan, tuyến tụy và đại tràng.
Ung thư dạ dày cũng có thể lan tới các cơ quan xa như phổi,
các hạch thượng đòn và buồng trứng. Khi ung thư lan sang
phần khác của cơ thể, khối u mới có cùng loại tế bào bất
thường và có cùng tên với khối u nguyên phát từ dạ dày. Ví
dụ, nếu ung thư dạ dày lan sang gan, các tế bào ung thư ở
gan là các tế bào giống tế bào của khối ung thư dạ dày. Đó là
ung thư dạ dày di căn chứ không phải là ung thư tế bào gan.
Tuy nhiên, khi ung thư dạ dày lan sang buồng trứng, khối u
ở buồng trứng được gọi là u Krukenberg, khối u này được
đặt theo tên một bác sĩ, không phải là một bệnh khác; nó là
ung thư dạ dày di căn đến. Các tế bào ung thư ở khối u
32 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Krukenberg là các tế bào ung thư dạ dày, cùng loại với các tế
bào ở khối u nguyên phát.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày là gì?
Các nhà nghiên cứu cũng đã biết rằng một số người dễ
dàng bị ung thư hơn so với người khác. Căn bệnh này thường
gặp nhất ở những người trên 55 tuổi, nam giới mắc bệnh
nhiều gấp hai lần so với nữ giới và thường gặp ở người da
đen hơn người da trắng. Ngoài ra, ung thư dạ dày cũng
thường gặp hơn ở một số vùng trên thế giới như Nhật Bản,
Hàn Quốc, một phần Đông Âu và châu Mỹ La Tinh so với ở
Mỹ. Người dân ở những vùng này ăn nhiều thực phẩm được
phơi khô, xông khói, ướp muối hoặc ngâm chua. Các nhà
khoa học tin rằng việc ăn các thực phẩm được chế biến theo
những cách này có thể đóng một vai trò trong phát triển ung
thư dạ dày. Ngược lại, các thực phẩm tươi (đặc biệt là rau và
trái cây tươi hay các thực phẩm tươi được ướp lạnh hoặc làm
đông lạnh đúng quy cách) có thể bảo vệ chống lại căn bệnh
này.
Những vết loét dạ dày có vẻ không làm gia tăng nguy cơ
mắc ung thư dạ dày. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra
rằng vi khuẩn Helicobacter pylori, có thể gây viêm và loét dạ
dày và là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư dạ
dày. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy những người đã
phẫu thuật dạ dày hoặc có bệnh thiếu máu ác tính, thiếu
toan dịch vị hoặc teo dạ dày (thường dẫn tới giảm lượng
dịch vị) thì có nguy cơ ung thư dạ dày tăng lên.
UNG THƯ DẠ DÀY 33
Sự tiếp xúc với bụi và khói ở nơi làm việc có liên quan
đến nguy cơ ung thư dạ dày cao hơn mức trung bình. Ngoài
ra, một số nhà khoa học cho rằng hút thuốc lá cũng gây tăng
nguy cơ ung thư dạ dày.
3. Ung thư dạ dày được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư dạ dày là gì?
Ung thư dạ dày có thể khó phát hiện được sớm. Thường
thì không có triệu chứng gì ở các giai đoạn sớm và trong
nhiều trường hợp, ung thư đã lan tỏa trước khi nó được
phát hiện. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng thường quá
mơ hồ đến nỗi mà người ta có thể bỏ qua. Ung thư dạ dày có
thể gây ra một số triệu chứng sau:
- Khó tiêu hoặc ợ chua
- Khó chịu hoặc đau ở bụng
- Buồn nôn và nôn
- Ỉa chảy hoặc táo bón
- Trướng hơi dạ dày sau các bữa ăn
- Mất cảm giác ngon miệng
- Yếu và mệt mỏi
- Chảy máu (nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu)
Bất kỳ triệu chứng nào kể trên có thể do ung thư hoặc
một bệnh khác ít nguy hiểm đến tính mạng hơn gây ra,
chẳng hạn như viêm dạ dày do vi rút hoặc loét. Bác sĩ khám
và xét nghiệm có thể tìm được nguyên nhân. Những ai có
34 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
các triệu chứng trên nên đến gặp bác sĩ của mình. Họ cũng
có thể đến khám một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa là chuyên
gia về chẩn đoán và điều trị các vấn đề về tiêu hóa.
Nhiều bệnh ở đường tiêu hóa có thể gây chảy máu, vì
thế, có máu trong phân không nhất thiết có nghĩa là bị
bệnh ung thư .
Chụp X quang đường tiêu hóa cao (dạ dày-thực quản). Bệnh
nhân được cho uống dung dịch barium, một chất lỏng đặc
giống phấn. Barium cản tia Rơngen nên phác thảo ra hình dạ
dày trên phim X quang, giúp bác sĩ tìm ra các khối u hoặc
các vùng bất thường khác. Khi cho chụp phim bác sĩ có thể
bơm khí vào dạ dày để giúp nhìn thấy rõ các khối u nhỏ rõ
hơn.
4. Ung thư dạ dày được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng bác sĩ cần hỏi
kỹ tiền sử, bệnh sử của người bệnh, tiến hành kiểm tra sức
khỏe và có thể yêu cầu một số xét nghiệm. Một bệnh nhân
có thể cần làm một hoặc tất cả các thăm dò sau đây:
Xét nghiệm máu trong phân để kiểm tra xem có máu ẩn trong
phân hay không. Xét nghiệm này được tiến hành bằng cách
đặt một lượng phân nhỏ lên một miếng chất dẻo hoặc trên
giấy đặc biệt. Cần làm xét nghiệm này vì ung thư dạ dày
đôi khi gây chảy máu nhưng không nhìn thấy được bằng
mắt thường.
UNG THƯ DẠ DÀY 35
Nội soi dạ dày là một phương pháp thăm dò giúp thầy
thuốc nhìn được thành bên trong của thực quản và dạ dày
bằng một ống nhỏ có nguồn sáng được gọi là ống nội soi,
luồn qua miệng và thực quản xuống dạ dày. Họng của bệnh
nhân được xịt thuốc tê để giảm sự khó chịu và nghẹt thở.
Các bệnh nhân cũng có thể uống thuốc để giảm các hiện
tượng trên. Nhờ nội soi dạ dày, bác sĩ có thể nhìn trực tiếp
vào bên trong dạ dày. Nếu có một vùng bất thường được
phát hiện, bác sĩ có thể lấy ra một ít mô thông qua ống nội
soi để làm xét nghiệm tế bào. Một bác sĩ khác chuyên khoa
bệnh học sẽ xem xét mô đó dưới kính hiển vi để tìm các tế
bào ung thư. Thủ thuật lấy mô và kiểm tra nó dưới kính
hiển vi được gọi là sinh thiết. Sinh thiết là cách đảm bảo duy
nhất để biết liệu có các tế bào ung thư hay không.
5. Ung thư dạ dày được điều trị như thế nào?
Phẫu thuật là cách điều trị ung thư dạ dày phổ biến nhất.
Phẫu thuật đó được gọi là cắt dạ dày. Bác sĩ phẫu thuật cắt
một phần hoặc phần lớn dạ dày (cắt dạ dày bán phần) hoặc
toàn bộ dạ dày kèm theo một phần mô xung quanh dạ dày.
Sau khi cắt bán phần dạ dày, bác sĩ nối các phần còn lại của
dạ dày với thực quản hoặc ruột non. Sau khi phẫu thuật cắt
bỏ toàn bộ dạ dày, bác sĩ nối thực quản trực tiếp với ruột
non. Bởi vì ung thư có thể lan tỏa qua hệ thống bạch huyết,
nên các hạch bạch huyết gần khối u thường được vét bỏ khi
phẫu thuật để các chuyên gia bệnh học có thể kiểm tra tìm tế
bào ung thư. Nếu các tế bào ung thư có trong hạch bạch
huyết thì bệnh có thể đã lan sang các phần khác của cơ thể.
36 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Hóa trị liệu là dùng thuốc để diệt các tế bào ung thư.
Loại điều trị này được gọi là điều trị hệ thống hay toàn thể
bởi thuốc đi vào mạch máu và đi tới khắp cơ thể.
Các thử nghiệm lâm sàng đang tìm cách tốt nhất để sử
dụng hóa trị liệu điều trị ung thư dạ dày. Các nhà khoa học
đang khám phá ra những lợi ích của việc dùng hóa chất
trước khi phẫu thuật để làm khối u nhỏ lại hoặc của việc
dùng hóa chất bổ sung sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung
thư còn sót lại. Điều trị phối hợp bằng hóa chất và tia phóng
xạ cũng đang được nghiên cứu. Các bác sĩ đang tiến hành
thử nghiệm một phương pháp điều trị bằng cách đưa trực
tiếp vào ổ bụng các thuốc chống ung thư (đưa hóa chất vào
trong phúc mạc). Hóa trị liệu cũng đang được nghiên cứu để
điều trị ung thư đã lan tỏa và để làm giảm nhẹ các triệu
chứng của bệnh. Hầu hết các thuốc chống ung thư đều được
dùng theo đường tiêm; một số khác có thể theo đường uống.
Bác sĩ có thể dùng một loại thuốc hoặc phối hợp nhiều loại
thuốc. Hóa trị liệu sử dụng từng đợt: một đợt điều trị, tiếp
theo là một đợt nghỉ để hồi phục, sau đó lại một đợt điều trị
khác v.v… Thường thì bệnh nhân ngoại trú đến nhận điều
trị bằng hóa chất tại bệnh viện, ở phòng khám của bác sĩ
hoặc ở nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử
dụng và tình hình sức khỏe chung của bệnh nhân mà có thể
cần cho bệnh nhân nằm viện một thời gian ngắn.
Điều trị tia xạ (còn được gọi là tia xạ trị liệu) là dùng
các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và
ngăn không cho chúng tăng trưởng. Cũng giống như phẫu
thuật, nó là phương pháp điều trị tại chỗ; tia xạ chỉ tác
UNG THƯ DẠ DÀY 37
dụng lên các tế bào ung thư trong vùng được điều trị.
Điều trị tia phóng xạ đôi khi còn được tiến hành sau phẫu
thuật để diệt các tế bào ung thư có thể còn sót lại ở vùng
này. Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm lâm sàng để
tìm ra xem việc điều trị bằng tia phóng xạ trong khi phẫu
thuật có tác dụng hay không (tia xạ trị liệu trong phẫu
thuật). Tia phóng xạ cũng có thể được dùng để làm giảm
đau hoặc phong bế.
Bệnh nhân thường đến bệnh viện hàng ngày để được
chiếu tia. Thông thường việc chiếu tia được tiến hành 5 ngày
một tuần và kéo dài trong 5 đến 6 tuần.
Liệu pháp sinh học (còn được gọi là liệu pháp miễn
dịch) là một hình thức điều trị nhằm hỗ trợ hệ thống miễn
dịch của cơ thể tấn công và huỷ diệt các tế bào ung thư; nó
cũng giúp cơ thể hồi phục khi có một vài tác dụng phụ của
điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ đang
nghiên cứu liệu pháp sinh học phối hợp với các phương
pháp điều trị khác để cố gắng phòng ngừa ung thư dạ dày
tái phát. Một chỉ định khác của liệu pháp sinh học là khi các
bệnh nhân có số lượng tế bào máu thấp trong hoặc sau khi
dùng hóa chất, họ có thể được dùng các yếu tố kích thích
dòng tế bào máu nhằm khôi phục số lượng tế bào. Các bệnh
nhân có thể cần phải nằm viện khi sử dụng một vài loại
thuốc của liệu pháp sinh học.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Vú
1. Ung thư vú là gì?
Ung thư vú là loại ung thư có tỷ lệ mắc đứng hàng đầu ở
phụ nữ Việt Nam. Ở Mỹ hàng năm có khoảng 180.000 phụ
nữ được chẩn đoán ung thư vú. Tuy nhiên, không phải tất
cả phụ nữ đều có cùng nguy cơ bị ung thư vú trong đời. Các
nghiên cứu cho thấy có một số yếu tố gọi là các yếu tố nguy
cơ, làm tăng khả năng phát triển ung thư vú ở nữ giới.
Nhiều yếu tố trong số đó là cố định, nhưng một số yếu tố có
thể thay đổi.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư vú là gì?
Do các số liệu thống kê có thể gây nhầm lẫn, mỗi phụ nữ
phải trao đổi với bác sĩ của mình để xác định nguy cơ ung
thư vú của cá nhân. Có các yếu tố nguy cơ không có nghĩa là
chắc chắn sẽ bị ung thư: nhiều phụ nữ có yếu tố nguy cơ lại
không hề bị ung thư vú. Các yếu tố nguy cơ chỉ giúp phát
hiện những phụ nữ có thể được lợi khi khám sàng lọc.
UNG THƯ VÚ 39
Cần nhớ rằng ung thư vú cũng có thể xuất hiện ở những
phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ. Do đó, tất cả phụ nữ
phải tuân theo lịch trình khám sàng lọc ung thư vú của bác
sĩ ngay cả khi họ có nguy cơ thấp.
Một số yếu tố làm tăng nguy cơ nhiều hơn so với các yếu
tố khác. Một người cũng có thể có một vài yếu tố nguy cơ.
Vấn đề quan trọng là phải phát hiện ra tất cả các yếu tố nguy
cơ này để bạn và bác sĩ của bạn có thể thảo luận về ảnh
hưởng của chúng đối với từng cá nhân và tìm ra chương
trình khám sàng lọc phù hợp nhất.
Có ba yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú
mạnh nhất:
Tuổi già
Nguy cơ chủ yếu gây ra ung thư vú ở phụ nữ là tuổi già.
Chỉ có 5% các trường hợp ung thư vú xảy ra ở độ tuổi từ 30
trở xuống, 10% xuất hiện ở phụ nữ trong độ tuổi 40 và 85%
xuất hiện ở phụ nữ tuổi từ 50 trở lên. Bác sĩ khuyến cáo tăng
cường khám sàng lọc cho những người phụ nữ khi về già do
nguy cơ bị ung thư tăng.
Tiền sử gia đình rất rõ rệt
Phụ nữ có ít nhất hai người thân mức độ I (mẹ, con gái,
chị/em gái) bị ung thư vú trước mãn kinh có nguy cơ cao
hơn so với phụ nữ không có người thân mức độ I bị ung thư
vú. Nguy cơ này thường liên quan đến sự đột biến của hai
gen, gọi là BRCA1 và BRCA2, xét nghiệm có thể phát hiện ra
các đột biến gen này. Phụ nữ có các đột biến gen BRCA1 có
40 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
nguy cơ phát triển ung thư vú đặc biệt cao trong đời, nhưng
rất may là chỉ có khoảng 1 trong số 1000 phụ nữ có các đột
biến gen như vậy.
Bị ung thư trước đó
Phụ nữ đã bị ung thư một bên vú có nguy cơ phát triển
ung thư ở bên vú còn lại sẽ tăng.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú ở mức độ
vừa.
Các yếu tố có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ phát triển ung
thư vú ở nữ giới.
Bất thường trên phim chụp X quang tuyến vú
Phụ nữ sau mãn kinh có nhiều nhân tăng đậm độ cản
quang trên phim chụp X quang tuyến vú có nguy cơ bị ung
thư vú tăng cao so với những phụ nữ chỉ có mô mỡ trên
phim X quang. Nên hỏi bác sỹ về các kết quả chụp X quang
tuyến vú.
Tiền sử gia đình
Phụ nữ có người thân mức độ I (mẹ, con gái, chị/em gái)
bị ung thư vú có nguy cơ bị bệnh cao hơn so với phụ nữ
không có người thân mức độ I bị ung thư vú.
Bất thường trên tiêu bản sinh thiết
Phụ nữ có tăng sản mô tuyến vú trên tiêu bản sinh thiết
có nguy cơ ung thư vú tăng. Cần hỏi bác sĩ về kết quả sinh
thiết, đặc biệt là nếu các kết quả đó yêu cầu phải khám sàng
lọc thường xuyên hơn.
UNG THƯ VÚ 41
Phơi nhiễm phóng xạ liều cao vùng ngực
Phụ nữ đã được chiếu xạ vùng ngực, thường là một phần
trong quá trình điều trị ung thư, bị tăng nguy cơ ung thư vú
so với phụ nữ không bị chiếu xạ vùng ngực.
Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư
vú.
Một số yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ phát triển
ung thư vú ở nữ giới. Nhiều yếu tố trong số này làm tăng l-
ượng estrogen trong cơ thể.
Tuổi bắt đầu có kinh và mãn kinh
Trong độ tuổi sinh sản, estrogen kích thích các tế bào
tuyến vú phân chia. Thời gian người phụ nữ phơi nhiễm
với estrogen càng dài thì nguy cơ bị ung thư vú càng lớn.
Thời gian phơi nhiễm với estrogen tăng nếu người phụ nữ
có kinh từ 11 tuổi trở xuống và mãn kinh vào độ tuổi từ 55
trở lên.
Mang thai và cho con bú
Những phụ nữ không bao giờ sinh con có vẻ như có nguy
cơ ung thư vú sau mãn kinh cao hơn so với những người đã
sinh con nhiều lần. Thời điểm có thai lần đầu cũng có thể có
vai trò quan trọng: phụ nữ có thai lần đầu tiên ở tuổi từ 30
trở lên bị tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
Liệu pháp hoóc-môn thay thế (HRT)
Khi người phụ nữ già đi, mô tuyến được thay thế dần
bằng mô mỡ. Các sản phẩm hoóc-môn để điều trị bao gồm
42 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
một số dạng estrogen có tác dụng chống lại quá trình này.
Sử dụng estrogen lâu dài (khoảng từ năm năm trở lên) làm
tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở nữ giới. Các nhà nghiên cứu
hiện đang đánh giá nguy cơ phát triển ung thư vú liên quan
tới các phối hợp hoóc-môn khác nhau.
Tuy nhiên, hoóc-môn thay thế có một số lợi ích nhất định
có thể bù lại nguy cơ phát triển ung thư vú, và mỗi phụ nữ
cần phải thảo luận lợi ích và tác hại của liệu pháp này với
bác sĩ trước khi quyết định sử dụng nó cho phù hợp. Hầu
hết các bác sĩ khuyến cáo nên dùng liệu pháp điều trị khác
cho những phụ nữ có tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc
bản thân đã bị ung thư vú.
Chiều cao và trọng lượng
Phụ nữ có vóc người cao lớn có nguy cơ phát triển ung
thư vú cao hơn phụ nữ vóc người nhỏ thấp. Trọng lượng
cũng có vai trò, có thể là do mỡ trong cơ thể làm thay đổi
quá trình chuyển hóa estrogen. Những phụ nữ béo phì có
nguy cơ phát triển ung thư vú sau mãn kinh cao hơn phụ
nữ gầy.
Uống rượu
Uống rượu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú ở nữ
giới, có lẽ là thông qua tình trạng tăng nồng độ estrogen
trong cơ thể. Một người phụ nữ uống càng nhiều rượu thì
nguy cơ phát triển ung thư vú càng cao. Tuy nhiên uống
một lượng rượu vừa phải có thể chống lại một số bệnh khác
và người phụ nữ nên thảo luận về lợi ích của rượu với bác sĩ
trước khi quyết định bỏ rượu hoàn toàn.
UNG THƯ VÚ 43
Có các ung thư khác
Phụ nữ đã được chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung, ung
thư buồng trứng, hoặc ung thư đại tràng có nguy cơ phát
triển ung thư vú cao hơn so với phụ nữ không có các loại
ung thư này.
Các yếu tố khác
Một số yếu tố khác có liên quan tới nguy cơ phát triển
ung thư vú vì những lý do chưa rõ. Phụ nữ có địa vị kinh tế-
xã hội cao và/hoặc phụ nữ ở thành phố có nguy cơ cao hơn
phụ nữ có địa vị kinh tế-xã hội thấp và/hoặc ở nông thôn.
Chủng tộc/dân tộc và tôn giáo dường như cũng có vai trò
nguy cơ. Trước tuổi 40, phụ nữ da đen có nguy cơ mắc bệnh
cao hơn phụ nữ châu Á; trong khi đó, khi ngoài 40 tuổi, phụ
nữ da trắng có nguy cơ cao hơn phụ nữ châu Á. Phụ nữ có
nguồn gốc Do Thái Ashkenzi có nguy cơ cao hơn do họ có
khả năng mang các đột biến gen gây ung thư vú cao hơn.
Các yếu tố làm giảm nguy cơ ung thư vú
Có hai yếu tố làm giảm nguy cơ ung thư vú.
• Cắt buồng trứng
Nếu phải phẫu thuật cắt tử cung thì hầu hết phụ nữ được
giữ lại buồng trứng khi còn đang trong độ tuổi sinh sản,
nhưng trong một số tình trạng bệnh lý nào đó lại cần cắt
buồng trứng khi bệnh nhân còn rất trẻ. Phụ nữ phải cắt
buồng trứng trước 35 tuổi có nguy cơ bị ung thư vú thấp
hơn trong đời so với phụ nữ không bị cắt buồng trứng.
44 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
• Nơi sinh
Phụ nữ sinh ra ở châu Á hoặc ở châu Phi có nguy cơ ung
thư vú thấp hơn so với phụ nữ sinh ra ở Bắc Mỹ hoặc Bắc
Âu.
Dự đoán nguy cơ ung thư vú của cá nhân
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới nguy cơ phát triển ung
thư vú ở nữ giới và tầm quan trọng tương đối của các yếu tố
nguy cơ này có thể còn chưa rõ ràng.
Trong hầu hết các trường hợp, người phụ nữ và bác sĩ
của mình có thể sử dụng hệ thống tính điểm của Viện
Nghiên cứu Ung thư Quốc gia để dự đoán nguy cơ cá
nhân. Khi tính điểm, phải dựa trên nguy cơ nền của người
phụ nữ (dựa trên độ tuổi, chủng tộc/dân tộc) và các nguy
cơ liên quan tới năm yếu tố then chốt: độ tuổi bắt đầu có
kinh, số lần đã sinh thiết vú, tiền sử mang thai, số người
thân mức độ bị ung thư vú, và hiện tượng tăng sản trên
tiêu bản sinh thiết. Nguy cơ của mỗi cá thể được so sánh
với nguy cơ của một phụ nữ ở cùng lứa tuổi nhưng không
có các yếu tố nguy cơ khác.
3. Việc lựa chọn giữa điều trị bảo tồn tuyến vú
(BCT) và phẫu thuật cắt tuyến vú triệt để (MRM) là
gì?
Nhiều nghiên cứu cho thấy điều trị BCT hay MRM đều
cho cơ hội sống sót tương đương cho những bệnh nhân
ung thư vú khu trú. Tuy nhiên, theo ước tính thì có khoảng
UNG THƯ VÚ 45
dưới 60% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm được điều
trị bằng BCT. Một số bằng chứng cho thấy có thể bác sĩ
khuyến khích bệnh nhân lựa chọn MRM hơn là BCT, hoặc
chính bệnh nhân thích chọn MRM hơn BCT. Ngoài ra, việc
lựa chọn BCT còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố địa lý và
kinh tế xã hội.
Mặc dù có tỷ lệ sống sót tương đương, nhưng một số yếu
tố cần được xem xét khi quyết định BCT hay MRM là lựa
chọn điều trị tốt hơn cho từng bệnh nhân ung thư vú khu
trú.
3.1. Bệnh sử và khám lâm sàng
Bệnh sử và khám lâm sàng rất hữu ích trong việc xác
định tình trạng sức khỏe chung và các tình trạng bệnh lý
khác của bệnh nhân. Một số tình trạng bệnh lý nhất định có
thể quyết định nên lựa chọn điều trị bằng BCT hay MRM thì
tốt hơn. Chỉ riêng tuổi của bệnh nhân không đủ để xác định
lựa chọn BCT hay MRM là tốt hơn.
Kết quả chụp X quang tuyến vú
Phim chụp tuyến vú trước phẫu thuật có vai trò hết sức
quan trọng để xác định kích thước, phạm vi và các đặc điểm
khác của khối u là những yếu tố có thể ảnh hưởng tới quyết
định lựa chọn BCT hay MRM.
Xét nghiệm vi thể khối u
Xét nghiệm vi thể bệnh phẩm khối u lấy qua sinh thiết
hay khi phẫu thuật có thể xác định các yếu tố giúp cho việc
46 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
quyết định nên lựa chọn BCT hay MRM. Chẳng hạn tình
trạng còn sót tế bào ung thư ở mép cắt. Nếu còn sót nhiều tế
bào ung thư sau khi cắt bỏ một lượng mô lớn thì có thể nên
chọn MRM.
3.2. Nhu cầu và nguyện vọng của người bệnh
Mỗi bệnh nhân cần thảo luận với bác sĩ nếu có nguyện
vọng bảo tồn tuyến vú. Điều quan trọng là phải cân nhắc
xem việc lựa chọn BCT hay MRM có ảnh hưởng đến hiệu
quả điều trị ung thư, sự tự tin, hoạt động tình dục, và chất
lượng cuộc sống chung của người bệnh hay không. Trong
việc cân nhắc về lợi ích và nguy cơ của BCT và MRM cần
chú ý đến các điểm chính sau:
- Thời gian sống sót lâu dài sau ung thư vú
- Nguy cơ và hậu quả của tái phát tại chỗ
- Điều chỉnh tâm lý với điều trị (bao gồm cả sự sợ hãi ung
thư sẽ tái phát)
- Kết quả thẩm mỹ có thể có
- Điều chỉnh quan hệ tình dục
Đối với hầu hết bệnh nhân, khả năng ung thư vú khu
trú còn sót là như nhau khi điều trị bằng BCT hoặc MRM;
ngược lại, MRM có thể có ảnh hưởng đáng kể tới chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân. Cảm nhận về ung thư vú
của bệnh nhân chọn BCT hay chọn MRM đều căng thẳng
như nhau. Tuy nhiên, bệnh nhân lựa chọn BCT dường
như nhìn nhận hình ảnh cơ thể của mình lạc quan hơn và
UNG THƯ VÚ 47
ít có thay đổi ham muốn tình dục hơn so với những người
lựa chọn MRM.
3.3. Các yếu tố ủng hộ lựa chọn
Một số yếu tố lâm sàng ủng hộ rõ ràng nên chọn MRM
hơn là BCT do các lý do bệnh lý, chẳng hạn như:
− Có từ hai khối u riêng biệt trở lên ở các vị trí khác nhau
trên vú
− Khối u lan tỏa xâm lấn vào mô tuyến vú
− Đã chiếu xạ vào mô vú hoặc lồng ngực trước đó, và do
đó không nên tiếp tục chiếu xạ
− Có thai ở ba tháng đầu hoặc ba tháng thứ hai, và do đó
không nên chiếu xạ
− Còn sót nhiều tế bào ung thư trong phẫu thuật bảo tồn
vú mặc dù đã cắt bỏ một lượng mô lớn
Một số yếu tố lâm sàng ủng hộ phần nào nên chọn MRM
so với BCT do tình trạng bệnh lý của từng cá thể, tuy nhiên
có một số trường hợp ngoại lệ:
− Một số bệnh tạo keo (tự miễn) có thể có những tác
dụng phụ đáng kể khi chiếu xạ; phụ nữ bị xơ cứng bì
và lupus ban đỏ hệ thống hoạt động thường được
khuyến cáo lựa chọn MRM, còn bệnh nhân viêm khớp
dạng thấp có thể được chiếu xạ an toàn và do đó có thể
lựa chọn hoặc MRM hoặc BCT
48 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
− Có một số u lân cận và có các lắng đọng canxi trong
cùng khu vực có u vú
− Kích thước khối u lớn hơn; MRM thường được khuyến
cáo cho bệnh nhân có khối u lớn hơn 50mm và cho
bệnh nhân có khối u tương đối lớn so với kích thước
của vú
− Kích thước và hình dạng của vú; khó có thể chiếu xạ
đồng đều ở bệnh nhân có vú to hoặc sệ, và những bệnh
nhân này có thể được khuyên chọn MRM
Một số yếu tố không có vai trò quan trọng khi cân nhắc lựa
chọn giữa BCT và MRM:
− Tế bào ung thư lan vào hạch nách
− Vị trí cụ thể của khối u trong vú; tuy nhiên, khi khối u
ở một số vị trí - nhất định có thể làm giảm kết quả thẩm
mỹ của BCT
− Tiền sử gia đình về ung thư vú
− Nguy cơ di căn cao; tuy nhiên, nguy cơ di căn tăng đòi
hỏi điều trị bổ trợ
3.4. Xử trí hạch nách
Mặc dù khám lâm sàng có thể phát hiện một số hạch to
nhưng phẫu thuật là biện pháp chính xác duy nhất để xác
định xem ung thư đã lan vào hạch nách hay chưa. Lấy toàn
bộ hạch nách thường là một công việc thường quy theo
truyền thống được tiến hành khi xử trí ung thư giai đoạn
UNG THƯ VÚ 49
sớm cho những bệnh nhân được điều trị bằng MRM hay
bằng BCT. Tuy nhiên, còn có nhiều tranh cãi về chỉ định
điều trị xâm lấn làm sạch vùng hạch. Rõ ràng, thông tin có
được khi vét hạch mang tính chất tiên lượng. Hơn nữa, việc
điều trị không đầy đủ các hạch nách dương tính sẽ làm tăng
nguy cơ tái phát tại chỗ. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng rõ
ràng về việc điều trị xâm lấn hạch nách có thể cải thiện tỷ lệ
sống sót. Cho dù như thế nào thì điều trị xâm lấn các hạch
bạch huyết (phẫu thuật và/hoặc chiếu xạ) chắc chắn sẽ làm
tăng nguy cơ biến chứng.
Phạm vi vét hạch nách được xác định bằng số lượng và vị
trí hạch được vét bỏ. Biến chứng quan trọng nhất của vét
hạch nách là phù cánh tay, mức độ phù phụ thuộc vào phạm
vi vét hạch. Nhằm xác định chính xác những bệnh nhân có
tổn thương hạch và hạn chế tối đa nguy cơ phù cánh tay,
người ta đã hoàn thiện kỹ thuật sinh thiết các hạch có nguy
cơ di căn đầu tiên.
Sinh thiết hạch có nguy cơ di căn đầu tiên
Khái niệm về hạch có nguy cơ di căn đầu tiên được đưa
ra dựa trên giả thuyết là khi tế bào ung thư tách ra khỏi khối
u ở vú thì sẽ xâm lấn một hoặc một vài hạch trước khi xâm
lấn các hạch khác hoặc lan rộng hơn. Để phát hiện ra hạch
đầu tiên này, bác sĩ tiêm một chất chỉ thị màu hoặc một chất
liệu phát xạ, hoặc cả hai vào vùng bao quanh khối u, chúng
sẽ đi vào các kênh bạch huyết và sau đó đi vào hạch. Khi
hạch đầu tiên được xác định, người ta sẽ lấy nó ra để nghiên
cứu dưới kính hiển vi. Nếu hạch này âm tính, khả năng các
hạch nách khác âm tính sẽ cao, và những bệnh nhân như
50 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
vậy có thể không cần vét toàn bộ hạch nách. Ngược lại, nếu
hạch đầu tiên dương tính thì nguy cơ các hạch khác có tế
bào ung thư sẽ cao, và thường phải vét toàn bộ hạch nách.
Vấn đề cơ bản của kỹ thuật sinh thiết hạch có nguy cơ di
căn đầu tiên là nguy cơ hạch bị “âm tính giả”, tức các hạch
nách khác thực sự có tế bào ung thư mà hạch đầu tiên lại dự
báo là chúng âm tính. Khả năng âm tính giả của hạch đầu
tiên liên quan đến kinh nghiệm của bác sĩ phẫu thuật khi
thực hiện thủ thuật này. Ngay cả khi phẫu thuật viên có
kinh nghiệm, nguy cơ chẩn đoán sai vẫn là khoảng 5 - 10%.
Nhiều bác sĩ đã cố gắng khắc phục vấn đề này bằng cách
tiến hành một xét nghiệm hạch đặc biệt được gọi là nhuộm
hóa mô miễn dịch (IHC). Đôi khi IHC dương tính ngay cả
khi không thấy hạch có tế bào ung thư dưới kính hiển vi
quang học. Tuy nhiên, ý nghĩa của kết quả này chưa được
xác định rõ; hầu hết các chuyên gia không khuyên sử dụng
thường quy kỹ thuật IHC đối với các hạch có nguy cơ di căn
đầu tiên.
3.5. Tái phát ung thư tại chỗ sau BCT
Tái phát tại chỗ là ung thư xuất hiện trở lại ở mô vú hoặc
các mô ở thành ngực xung quanh. Sau MRM, tái phát tại chỗ
thường xuất hiện ở thành ngực do không còn mô vú; sau
BCT, tái phát tại chỗ thường xuất hiện ở mô vú còn sót lại.
Ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I hoặc II, tái phát tại
chỗ xuất hiện ở 7 - 20% bệnh nhân được điều trị bằng BCT,
và 4 - 14% bệnh nhân được điều trị bằng MRM. Tuy nhiên,
thời gian bị tái phát khác nhau. Tái phát tại chỗ thường xuất
UNG THƯ VÚ 51
hiện muộn sau BCT nhiều năm, trong khi đó tái phát tại chỗ
thường xuất hiện trong vòng ba năm sau MRM.
Cần lưu ý là BCT không thể ngăn ngừa hoàn toàn một
khối u mới mọc ở mô vú còn sót. ở bệnh nhân được điều trị
bằng BCT, nguy cơ có một khối u mới, không liên quan ở
cùng bên là khoảng 1%/năm (tức nguy cơ là 13% sau 15 năm
tiến hành thủ thuật). Do đó, bệnh nhân được điều trị bằng
BCT phải tiếp tục tiến hành tự khám vú và khám sàng lọc cả
hai bên vú bằng chụp X quang tuyến vú.
Các yếu tố nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ sau BCT
Khả năng ung thư vú tái phát tại chỗ sau BCT chịu ảnh
hưởng của yếu tố cá nhân, yếu tố khối u, và yếu tố điều trị.
• Các yếu tố cá nhân
Độ tuổi của người bệnh dường như có ảnh hưởng tới
nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT. Bệnh nhân được điều trị
BCT khi ở độ tuổi từ 40 trở xuống có vẻ có nguy cơ tái phát
tại chỗ cao hơn những người trên 40 tuổi. Các nghiên cứu
khác cũng cho thấy bệnh nhân trẻ tuổi hơn có khả năng tái
phát tại chỗ sau MRM cao hơn. Do đó, tuổi còn trẻ không đ-
ược coi là một yếu tố góp phần quyết định lựa chọn phương
thức điều trị mà phải coi là một dấu hiệu chỉ điểm cho nguy
cơ tái phát tại chỗ cao hơn.
• Các yếu tố khối u
Nguy cơ tái phát tại chỗ của khối u sau BCT cũng chịu
ảnh hưởng của hai yếu tố liên quan đến khối u:
52 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
- Tế bào ung thư còn sót ở mép vết mổ. Tế bào ung thư còn
sót ở mép cắt làm tăng nguy cơ tái phát tại chỗ sau BCT.
Trong một nghiên cứu, tỷ lệ tái phát tại chỗ sau BCT là 7% ở
bệnh nhân không còn sót tế bào ung thư, so với 18% ở bệnh
nhân còn sót tế bào ung thư. Mặc dù bác sĩ phẫu thuật sẽ cố
gắng lấy toàn bộ tế bào ung thư khi tiến hành phẫu thuật,
đôi khi vẫn còn các tế bào ung thư sót lại sau phẫu thuật khi
nghiên cứu vi thể khối u kỹ hơn.
- Có tế bào ung thư nội ống. Việc xem xét có tế bào ung thư
trong nhiều ống ở mô vú đã được cắt bỏ là một công cụ hữu
ích để đánh giá nguy cơ tái phát tại chỗ. Nguy cơ tái phát tại
chỗ cao hơn khi tế bào ung thư có mặt ở nhiều ống trong
khối u hoặc trong mô vú lành nếu tế bào ung thư vẫn còn
sót ở mép cắt. Một số dấu hiệu trên phim chụp vú trước
phẫu thuật thường cảnh báo bác sĩ phẫu thuật về sự có mặt
của tế bào ung thư nội ống. Trong các trường hợp như vậy,
bác sĩ phẫu thuật cần đặc biệt chú ý để đảm bảo không còn
sót tế bào ung thư ở mép cắt.
• Các yếu tố cá nhân
Có ba yếu tố điều trị ảnh hưởng tới nguy cơ tái phát tại
chỗ sau BCT:
- Phạm vi phẫu thuật. Nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ
sau BCT thấp hơn khi lượng mô vú được cắt bỏ nhiều hơn.
- Chiếu xạ tăng cường. Chiếu xạ tăng cường là chiếu thêm
một liều xạ vào vùng trước đó đã có khối u. Không phải tất cả
mà chỉ một số nghiên cứu cho thấy chiếu xạ tăng cường có
làm giảm chút ít nguy cơ tái phát ung thư vú tại chỗ, mặc dù
UNG THƯ VÚ 53
liều tăng cường này có thể làm giảm nhẹ kết quả thẩm mỹ của
BCT.
- Hóa chất hoặc hoóc-môn. Hóa chất và/hoặc hoóc-môn
thường được khuyên dùng sau phẫu thuật ung thư vú khu
trú. Bổ sung các liệu pháp này cùng với BCT sẽ làm giảm
tiếp nguy cơ tái phát tại chỗ, mặc dù không phải tất cả bệnh
nhân đều cần điều trị bằng cả hai liệu pháp này.
Ví dụ, trong một nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư vú
có hạch âm tính, không có thụ thể estrogen (viết tắt là ER),
được điều trị hóa chất so sánh với không dùng hóa chất sau
BCT. Ung thư tái phát tại chỗ trong vòng tám năm ở 2,6%
bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất và ở 13,4% bệnh
nhân không được điều trị bằng hóa chất.
Trong nghiên cứu thứ hai tiến hành trên bệnh nhân ung
thư vú có hạch âm tính và có thụ thể estrogen được điều trị
bằng tamoxifen so sánh với dùng thuốc vờ sau BCT. Ung th-
ư tái phát tại chỗ trong vòng 10 năm ở 4,3% bệnh nhân được
điều trị bằng tamoxifen, và ở 14,7% bệnh nhân được điều trị
bằng thuốc vờ.
Điều trị tái phát tại chỗ.
Nhiều bệnh nhân tái phát tại chỗ có thể được tiến hành
thủ thuật cắt vú “triệt để”, và vẫn có cơ hội được chữa khỏi
bệnh, nếu u không lan rộng hơn nữa.
4. Ung thư được điều trị như thế nào?
54 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Đối với nhiều loại ung thư, mục tiêu điều trị là phải chữa
khỏi bệnh, đặc biệt là khi ung thư được chẩn đoán ở giai
đoạn sớm. Tuy nhiên, khó có thể chữa khỏi bệnh khi đã có
di căn; do đó, các mục đích điều trị khác quan trọng hơn.
Các mục đích này gồm: điều trị giảm triệu chứng, cải thiện
chất lượng cuộc sống, kéo dài thời gian sống sót, và kéo dài
thời gian đáp ứng với điều trị đặc hiệu (được gọi là thời gian
sống thêm không có bệnh tiến triển hoặc thời gian sống
thêm không tái phát bệnh).
4.1. Chữa khỏi bệnh
Ung thư vú được coi là chữa khỏi khi không còn sót tế
bào ung thư (bệnh ổn định) trong một thời gian nhất định
và người bệnh có thể sống bình thường. Tuy nhiên, rất khó
xác định khoảng thời gian trước khi người bệnh được đánh
giá là chữa khỏi, do căn bệnh này có thể tái phát nhiều năm
sau chẩn đoán và điều trị ban đầu. Đối với bệnh nhân ung
thư vú giai đoạn sớm, nguy cơ tái phát cao nhất ở khoảng
thời gian 5 năm đầu sau điều trị, nhưng vẫn có thể tái phát
30 năm sau đó.
Bệnh đã di căn hiếm khi được chữa khỏi. Mặc dù có thể
điều trị cho bệnh ổn định (không còn dấu hiệu ung thư),
nhưng chỉ ngăn chặn được sự tiến triển của khối u trong
một thời gian dài ở 2 - 5% trường hợp ung thư vú di căn.
Những bệnh nhân này sống thêm được một thời gian dài và
có thể khỏi bệnh.
UNG THƯ VÚ 55
4.2. Kéo dài thời gian sống thêm
Mặc dù tỷ lệ khỏi bệnh còn thấp nhưng điều trị có thể kéo
dài thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư vú di căn, mặc
dù chưa có nghiên cứu nào so sánh thời gian sống thêm ở
nhóm điều trị với nhóm không điều trị. Thời gian sống thêm
trung bình ở bệnh nhân ung thư vú di căn là 18 đến 24
tháng, nhưng có thể dao động từ vài tháng đến vài năm.
Thời gian sống thêm dường như dài hơn chút ít (tính theo
tháng chứ không tính theo năm) đối với bệnh nhân có đáp
ứng, so với bệnh nhân không có đáp ứng.
Tỷ lệ đáp ứng
Tỷ lệ đáp ứng với một phương thức điều trị cụ thể là số
bệnh nhân có lượng mô ung thư giảm đáng kể được xác
định hoặc là bằng khám lâm sàng hoặc là bằng chụp X
quang, ví dụ chụp cắt lớp - CT hoặc chụp X quang lồng
ngực. Đáp ứng được chia thành bốn loại:
- Đáp ứng hoàn toàn - không còn dấu hiệu của tế bào
ung thư
- Đáp ứng một phần - giảm hơn 50% kích thước khối u
đo được
- Đáp ứng tối thiểu - giảm dưới 50% kích thước khối u
đo được
- Bệnh ổn định - kích thước khối u đo được không giảm
đáng kể, nhưng không tăng trong thời gian điều trị
56 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Mặc dù tỷ lệ đáp ứng trong các nghiên cứu đã công bố
thường chỉ tính đến số bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn và
đáp ứng một phần với một liệu pháp cụ thể, nhưng điều trị
cũng có thể có tác dụng với bệnh nhân có đáp ứng tối thiểu
và có bệnh ổn định, mặc dù ở mức độ ít hơn. Do đó, tỷ lệ
đáp ứng có thể giúp bác sĩ dự đoán tác dụng của một liệu
pháp điều trị cụ thể đối với bệnh nhân. Ví dụ, nếu phương
thức điều trị có tỷ lệ đáp ứng là 60% thì 60 trong 100 bệnh
nhân được điều trị có thể giảm đáng kể kích thước khối u đo
được (giảm 50% hoặc nhiều hơn) khi có đáp ứng với điều trị,
miễn là việc điều trị được tiến hành đúng lúc với liều lượng
phù hợp. Trong mọi trường hợp, điều trị ung thư vú di căn
đều nhằm mục đích đạt tỷ lệ đáp ứng cao nhất.
Một khái niệm quan trọng là ung thư vú cuối cùng sẽ trơ
với điều trị ban đầu, ngay cả khi lúc đầu có đáp ứng. Biểu
hiện trơ với điều trị là khi tiếp tục điều trị khối u vẫn phát
triển. Tình trạng này gọi là bệnh tiến triển, và là một dấu
hiệu kháng điều trị, và cần phải chuyển sang phương pháp
điều trị khác. Do hiện nay có nhiều phương pháp điều trị
khác nhau nên bệnh nhân ung thư vú di căn thường được
điều trị bằng các týp hoặc “các đợt” điều trị khác nhau.
Làm ổn định sự phát triển khối u
Đôi khi, việc điều trị không làm giảm kích thước khối u
một cách khách quan nhưng có thể làm ổn định sự phát
triển của khối u; nói cách khác, khối u vẫn còn, nhưng
không tiến triển. Bệnh nhân có bệnh ổn định nhờ đáp ứng
với điều trị sẽ có thời gian sống thêm dài hơn bệnh nhân
UNG THƯ VÚ 57
ung thư vú tiếp tục phát triển mặc dù đang được điều trị,
đặc biệt là nếu bệnh ổn định ít nhất trong vòng sáu tháng.
Cải thiện chất lượng cuộc sống
Điều trị có thể cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh
nhân ung thư vú di căn bằng cách giảm thiểu triệu chứng do
ung thư. Các nghiên cứu cho thấy hóa chất có thể cải thiện
hiệu quả chất lượng cuộc sống mặc dù nó có các tác dụng
phụ.
Dự đoán tiên lượng
Như đã nêu ở trên, thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung
thư vú di căn dao động từ vài tháng đến vài năm. Các yếu tố
giúp xác định khả năng tiến triển của ung thư vú di căn theo
thời gian chính là yếu tố tiên lượng.
Khoảng thời gian cho tới khi bệnh tái phát
Tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di căn thường tốt
hơn nếu như khoảng thời gian từ khi tiến hành điều trị ban
đầu cho tới khi bệnh tái phát kéo dài ít nhất năm năm.
Số lượng tổn thương di căn
Các xét nghiệm có thể giúp phát hiện số tổn thương di
căn. Bệnh nhân có số tổn thương di căn ít hơn thường có tiên
lượng tốt hơn so với bệnh nhân có nhiều tổn thương di căn.
Tình trạng ung thư lan vào các bộ phận quan trọng
58 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di căn thường tốt
hơn khi ung thư di căn vào thành ngực hoặc hạch bạch
huyết chứ không phải vào gan hoặc phổi.
Tình trạng thụ thể estrogen
Các xét nghiệm cận lâm sàng có thể xác định tế bào ung thư
vú có các thụ thể hoóc-môn chẳng hạn như thụ thể estrogen
(ER) hoặc thụ thể progesteron (PgR). Sự có mặt của một số thụ
thể hoóc-môn ở tế bào ung thư mang lại tiên lượng tốt hơn.
Cấp độ ung thư vú
Cấp độ ung thư được xác định từ các đặc điểm tế bào ung
thư trên vi thể. Ung thư vú có cấp độ thấp (tế bào đã trưởng
thành) có tiên lượng tốt hơn ung thư vú cấp độ cao (tế bào
chưa trưởng thành).
HER-2/neu
Một số loại ung thư vú có mật độ một loại protein là
HER-2/neu rất cao (còn gọi là c erbB - 2). Mặc dù sự có mặt
của chất chỉ điểm này chỉ ra khả năng đáp ứng với một loại
thuốc có tên là Herceptin cao hơn, nhưng vai trò của nó
trong việc dự đoán tiên lượng của bệnh nhân ung thư vú di
căn hiện chưa được xác định rõ.
4.3. Lựa chọn điều trị tối ưu
Khi lựa chọn phương thức điều trị, cần cân nhắc nhiều
yếu tố, như tỷ lệ đáp ứng điều trị, tính ưu tiên của từng ph-
ương pháp, đồng thời đánh giá lợi ích và nguy cơ của điều
trị. Cụ thể là cần xem xét một số yếu tố sau đây.
UNG THƯ VÚ 59
Chọn liệu pháp tại chỗ hay liệu pháp toàn thân
Liệu pháp điều trị tại chỗ là phẫu thuật và/hoặc chiếu xạ
trực tiếp vào từng vùng bị tổn thương. Liệu pháp toàn thân
được chỉ định để điều trị các tổn thương di căn trên toàn cơ
thể, và thường là hóa chất, hoóc-môn, hoặc phối hợp các loại
này.
Bệnh nhân ung thư vú tái phát nhưng còn giới hạn ở vú
hoặc ở thành ngực là những đối tượng phù hợp nhất để điều
trị tại chỗ. Tuy nhiên, phẫu thuật hoặc chiếu xạ cũng có thể
được xem xét áp dụng cho bệnh nhân có di căn. Nhìn chung,
các tổn thương di căn đáp ứng với liệu pháp tại chỗ tốt hơn
so với liệu pháp toàn thân, nhưng khi xét nhu cầu điều trị tại
chỗ cần tính đến một số yếu tố, như mức độ lan rộng của
ung thư, vị trí di căn, và mức độ cấp thiết của việc điều trị
một di căn cụ thể. Ví dụ, khi có di căn vào một xương đỡ
trọng lượng cơ thể quan trọng như xương chân, phẫu thuật
có thể là phù hợp nhất để phòng gẫy xương. Trong những
trường hợp này, liệu pháp tại chỗ (phẫu thuật, sau đó chiếu
xạ) thường được điều trị phối hợp với liệu pháp toàn thân.
Chọn dùng hóa chất hay hoóc-môn
Hóa chất (thường được dùng qua đường tĩnh mạch) và
hoóc-môn (thường được dùng qua đường uống) là hai cách
điều trị ung thư vú di căn toàn thân khác nhau. Việc lựa
chọn hóa chất hay hoóc-môn cần dựa vào một số yếu tố:
- Tình trạng có các thụ thể hoóc-môn (ER và/hoặc PgR) ở
tế bào ung thư, nếu có mặt của các thụ thể này có thể dự
đoán là liệu pháp hoóc-môn sẽ có lợi
60 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
- Cân nhắc nguy cơ và lợi ích có thể của cả hai cách điều trị
- Vị trí của các di căn
- Mức độ lan của ung thư và các triệu chứng của ung thư
Hoóc-môn thường được khuyến cáo sử dụng ngay từ đầu
cho bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể ER hoặc PgR do
hoóc-môn có ít tác dụng phụ hơn so với hóa chất. Nếu hiệu
quả của hoóc-môn không chắc chắn thì bác sĩ thường
khuyên dùng hóa chất để điều trị ngay từ đầu.
Ngược lại, hóa chất thường được khuyến cáo sử dụng
ngay từ đầu khi ung thư tiến triển nhanh, khi có di căn vào
các cơ quan sống quan trọng, khi bệnh nhân có nhiều triệu
chứng bệnh, hoặc khi liệu pháp hoóc-môn có thể không hiệu
quả (ví dụ, nếu ung thư không có thụ thể hoóc-môn).
Chọn cách dùng hóa chất phối hợp hoóc-môn
Mặc dù việc sử dụng đồng thời hóa chất và hoóc-môn có
thể làm tăng tỷ lệ đáp ứng của ung thư vú di căn có thụ thể
hoóc-môn với điều trị, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đáp ứng
cao hơn này không có nghĩa là cho tỷ lệ sống sót cao hơn.
Hơn nữa, liệu pháp phối hợp có nguy cơ gây ra nhiều tác
dụng phụ hơn và làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân. Vì vậy, bệnh nhân ung thư vú có thụ thể hoóc-môn d-
ương tính thường được điều trị theo trình tự, hoặc là dùng
hoóc-môn trước, sau đó dùng hóa chất khi bệnh tiến triển,
hoặc hóa chất trước, sau đó dùng hoóc-môn khi khối u tiến
triển.
Bisphosphonat
UNG THƯ VÚ 61
Bên cạnh liệu pháp toàn thân bằng hóa chất hoặc hoóc-
môn, bệnh nhân ung thư vú có di căn xương cũng được
hưởng lợi khi sử dụng các loại thuốc tăng cường xương gọi là
biphosphonat. Khi phối hợp với hóa chất hoặc hoóc-môn, việc
truyền bisphosphonat (ví dụ, pamidronat hoặc axít
zoledronic) hàng tháng có thể làm giảm nguy cơ, trì hoãn tiến
trình phát triển của các biến chứng xương như gẫy xương.
Các yếu tố dự báo
Các yếu tố dự báo có thể giúp dự đoán khả năng đáp ứng
của ung thư vú với một týp điều trị cụ thể.
Liệu pháp hoóc-môn
Một số yếu tố đi kèm khả năng đáp ứng với hoóc-môn
cao hơn:
− Thời gian giữa điều trị ban đầu đến tái phát là dài
− Di căn đơn độc vào xương hoặc mô mềm, ví dụ như
hạch bạch huyết hoặc da
− Đã có đáp ứng với hoóc-môn trước đó
− Có ER ở tế bào ung thư vú, ví dụ, khoảng 50 - 60% các
trường hợp ung thư vú đáp ứng với liệu pháp hoóc-
môn khi có số lượng ER cao hoặc vừa, so với chỉ 10%
đáp ứng ở các trường hợp ung thư vú có ít ER.
− Ngoài ER còn có PgR ở tế bào ung thư vú.
Hóa chất
Không giống liệu pháp hoóc-môn, không có yếu tố rõ
ràng nào có thể dự đoán được sự đáp ứng của ung thư vú
62 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
với hóa chất. Hóa chất thường được ưu tiên chọn dùng khi
khối u không có thụ thể với estrogen và progesteron. Trong
số những bệnh nhân ung thư vú di căn chưa hề dùng hóa
chất trước đó để điều trị di căn, khoảng 50 - 70% bệnh nhân
sẽ có đáp ứng với đợt hóa chất ban đầu.
− Hóa chất có thể ít hiệu quả hơn: khi được sử dụng để
điều trị đợt hai (tức là ung thư vú vẫn tiến triển mặc dù
đã được điều trị bằng hóa chất).
− Khi ung thư vú tái phát xuất hiện trong khoảng 12
tháng sau khi kết thúc hóa chất bổ trợ (là đợt hóa chất
ban đầu dùng cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn
sớm).
− Khi tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân tồi, hoặc
khi ung thư xuất hiện ở nhiều vị trí trên toàn cơ thể,
đặc biệt là ở các cơ quan sống quan trọng.
Một số yếu tố khác có thể giúp dự đoán khả năng đáp
ứng với hóa chất, như:
− Các chất chỉ điểm tăng sinh. Một số chất chỉ điểm có thể
giúp xác định tốc độ tăng sinh của các tế bào ung thư
vú. Tốc độ tăng sinh càng cao thì khả năng đáp ứng với
hóa chất có vẻ càng cao.
− HER-2/neu. Một số nghiên cứu thấy rằng sự có mặt của
HER-2/neu trên tế bào ung thư vú là một dấu hiệu hữu
ích để dự báo đáp ứng của ung thư vú di căn với các
liệu pháp điều trị khác nhau. Đặc biệt, bệnh nhân ung
thư vú có nồng độ HER-2/neu cao có thể thu được
UNG THƯ VÚ 63
nhiều kết quả điều trị hơn khi được điều trị bằng
Herceptin (còn gọi là trastuzumab).
5. Hóa chất trong điều trị ung thư vú di căn là gì?
5.1. Các tác nhân gây độc tế bào
Một số tác nhân gây độc tế bào có hoạt tính trong ung thư
vú di căn, cả khi điều trị đơn độc hoặc khi dùng trong phác
đồ đa hóa chất.
Anthracyclin và anthraquinon
Trước khi có taxan, các anthracyclin và các sản phẩm
đồng gen của chúng, đặc biệt là doxorubicin, là các tác nhân
có hoạt tính mạnh nhất đối với bệnh nhân ung thư vú chưa
được điều trị, với tỷ lệ đáp ứng khoảng 35 - 50% khi điều trị
bằng một tác nhân đơn nhất. Ở một số thử nghiệm người ta
thấy mitoxantron dường như có hiệu quả thấp hơn một chút
so với doxorubicin hoặc epirubicin, cả khi dùng đơn độc
hoặc cùng các hóa chất khác.
Mức độ nặng của tác dụng phụ đối với các thuốc trong
nhóm này khác nhau. Buồn nôn, nôn, rụng tóc, và ức chế tuỷ
xương ít gặp hơn khi dùng mitoxantron so với doxorubicin
và epirubicin. Ngoài ra, tổn thương cơ tim gây suy tim sung
huyết trên lâm sàng là một tác dụng phụ cơ bản đặc hiệu
cho nhóm anthracyclin và những tác nhân có liên quan. Tần
suất bị suy tim sung huyết có liên quan trực tiếp tới tổng
liều cộng dồn, tăng vọt khi liều doxorubicin đạt trên
450mg/m2. Epirubicin và mitoxantron có ít độc tính với tim
64 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
hơn so với doxorubicin. Tuy nhiên, epirubicin có vẻ có hoạt
tính thấp hơn so với doxorubicin theo đơn vị liều 1mg/m2.
Nguy cơ bị suy tim sung huyết do dùng anthracyclin có
thể giảm xuống nhờ một số biện pháp như sau:
- Sử dụng phác đồ cho nồng độ đỉnh trong huyết thanh
thấp hơn, như kéo dài thời gian truyền (trong 6 tới 96 giờ)
hoặc tiêm nhiều lần và mỗi lần với liều thấp hơn, với hiệu
quả điều trị được bảo tồn. Tuy nhiên, kéo dài thời gian
truyền hoặc tăng số lần truyền doxorubicin đều bất tiện cho
bệnh nhân.
- Đưa doxorubicin vào các liposom có kích thước Nano
cho phép đạt liều cộng dồn cao hơn mà tần suất bị suy tim
sung huyết lại thấp hơn và hiệu quả tương đương với
doxorubicin tự do. Doxorubicin trong liposom (được gọi là
Doxil ở Mỹ và Caelyx ở châu Âu) được bào chế để duy trì
hiệu quả của anthracyclin với ít tác dụng phụ hơn, đặc biệt
là độc tính với tim. Một số nghiên cứu dùng ít nhất hai chế
phẩm khác nhau (Doxil và Evacet [TLC - 99]) cho thấy các
loại thuốc này là lựa chọn hợp lý trong điều trị bệnh di căn,
mặc dù chúng chưa được Cục quản lý thuốc và thực phẩm
Mỹ cho phép sử dụng vào mục đích này. Chứng đỏ da gan
bàn tay gan bàn chân (hội chứng bàn tay bàn chân) là biến
chứng điều trị gặp ở nhiều bệnh nhân.
- Dùng đồng thời các chất bảo vệ tim như dexrazoxan,
một dẫn chất của EDTA, có thể làm giảm tần suất bị suy tim
sung huyết. Tuy nhiên, việc bổ sung tác nhân này có thể làm
giảm hiệu quả điều trị. Kết quả của hai thử nghiệm ngẫu
UNG THƯ VÚ 65
nhiên dùng doxorubicin kết hợp hoặc không kết hợp với
dexrazoxan cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở nhóm dùng
dexrazoxan hơi thấp hơn.
Dùng dexrazoxan trước hay sau khi dùng doxorubicin
300mg/m2 đều có tác dụng bảo vệ tim. Nhiều bệnh nhân bị
kháng doxorubicin trước khi đạt tới tổng liều cộng dồn và
do vậy có nguy cơ bị suy tim sung huyết cao. Do đó, trì hoãn
việc dùng dexrazoxan cho tới khi đạt liều doxorubicin cộng
dồn 300mg/m2 có thể bảo vệ cơ tim mà không ảnh hưởng
đến hiệu quả ban đầu. (Hội ung thư lâm sàng Mỹ đã có tài
liệu hướng dẫn sử dụng dexrazoxan cho bệnh nhân ung thư
vú và các loại ung thư khác cùng với hướng dẫn việc theo
dõi điều trị; Nhóm Điều trị bệnh bằng phương pháp toàn
thân Canada cũng đưa ra các khuyến cáo).
Do có tỷ lệ hoạt tính cao, các anthracyclin đã được đưa
vào một số phác đồ đa hóa chất nhằm điều trị ung thư vú di
căn. Có lẽ, phác đồ đa hóa chất được sử dụng rộng rãi nhất
là doxorubicin phối hợp với cyclophosphamid và 5-
fluorouracil (5-FU), thường được gọi là FAC hoặc CAF,
và/hoặc epirubicin phối hợp với cyclophosphamid và 5-FU,
thường được gọi là FEC. Nhìn chung, các phác đồ này cho
đáp ứng ở 20 - 60% bệnh nhân có bệnh di căn chưa được
điều trị trước đó. Chúng có hoạt tính mạnh hơn nhưng cũng
có nhiều độc tính hơn so với chế độ đa hóa chất chuẩn dùng
cyclophosphamid, methotrexat và 5-FU (CMF).
Một số nghiên cứu giai đoạn I và II cho thấy các chế độ
phối hợp anthracycline khác có thể có hoạt tính mạnh hơn
66 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
so với CAF hoặc FEC. Tuy nhiên, còn chưa được chứng
minh rõ ràng.
Các tác nhân alkyl hóa
Cyclophosphamid (CPA) là tác nhân alkyl hóa được sử
dụng rộng rãi nhất trong điều trị ung thư vú. CPA đơn độc
cho đáp ứng ở 10 - 60% bệnh nhân có bệnh ở giai đoạn
muộn. CPA có thể gây viêm bàng quang và đái máu tuy
nhiên các tác dụng phụ này có thể được loại bỏ bằng cách bù
đủ dịch và đi tiểu thường xuyên. Các tác nhân alkyl hóa
cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu (mà quen gọi là
bệnh máu trắng hay ung thư máu) dòng tuỷ cấp, điều này
tuỳ vào từng loại thuốc và liều cộng dồn. Trái với melphalan
là một tác nhân làm tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu lên 30
lần, nguy cơ bệnh bạch cầu khi dùng CPA tăng rất ít (dưới
ba lần), đặc biệt là ở các liều cộng dồn dưới 20.000mg/m2.
Ifosfamid dùng đơn độc tương đối ít tác dụng đối với
ung thư vú giai đoạn muộn. Tuy nhiên, khi dùng phác đồ
phối hợp có ifosfamid thì hoạt tính tăng lên đáng kể, với tỷ
lệ đáp ứng dao động trong khoảng 28 - 60%, và độc tính ở
mức chịu đựng được.
Cisplatin và carboplatin là các hóa chất chủ yếu được
dùng trong các chế độ điều trị liều rất cao và bệnh nhân
thường phải được truyền bổ sung tế bào mầm của tuỷ x-
ương. Tuy nhiên, tỷ lệ đáp ứng khi dùng tác nhân đơn nhất
ở các mức liều không huỷ hoại tuỷ xương dao động trong
khoảng 0 - 25% Cũng như ifosfamid, cisplatin và carboplatin
thường được đưa vào các chế độ đa hóa chất. Tuy nhiên ng-
UNG THƯ VÚ 67
ười ta chưa rõ các phác đồ có cisplatin và carboplatin có hiệu
quả hơn so với các phác đồ đơn hóa chất khác như taxan hay
anthracyclin hay không. Cisplatin phối hợp với gemcitabin
có thể có hoạt tính đối với những bệnh nhân kháng thuốc.
Trong một nghiên cứu tiến hành trên 30 bệnh nhân, tỷ lệ
đáp ứng chung là 50%, trong số bốn bệnh nhân tái phát sau
liệu pháp hóa chất liều cao phối hợp truyền tế bào mầm có
hai người có đáp ứng.
5.2. Các chất chống chuyển hóa
Giống các tác nhân alkyl hóa, các chất chống chuyển hóa
như methotrexat là các thành phần thường có trong các chế
độ đa hóa chất điều trị ung thư vú. Mặc dù methotrexat đơn
độc có tác dụng hạn chế nhưng đây là một thành phần trong
phác đồ CMF “uống” chuẩn (gồm có cyclophosphamid
uống 100mg/m2/ngày từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 14;
methotrexat tĩnh mạch 40mg/m2 ngày thứ nhất và ngày
thứ tám; và 5-FU tĩnh mạch 600mg/m2 ngày thứ nhất và
ngày thứ tám). Trimetrexat cũng là một đơn hóa chất có
hoạt tính.
5-FU và các dẫn chất của nó thường được sử dụng cho
ung thư vú di căn. Hoạt tính của chúng phụ thuộc vào
phác đồ điều trị, truyền nhiều lần hoặc kéo dài thời gian
truyền có tác dụng cao hơn so với tiêm liều tấn công
nhanh. Bổ sung thêm leucovorin có thể tăng tác dụng điều
trị, đạt tỷ lệ đáp ứng 20 - 40% bệnh nhân, ngay cả ở bệnh
nhân đã có bệnh tiến triển trước đó khi điều trị bằng các
phác đồ có 5-FU, ví dụ như CMF. Một số phác đồ điều trị
68 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
được đề xuất hầu hết đều có 5-FU liều tấn công
500mg/m2/ngày trong năm ngày cùng với truyền
leucovorin từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu, hoặc có thể
truyền liên tục 5-FU liều thấp kéo dài (250 mg/m2/ngày
trong 21 ngày sau đó nghỉ 7 ngày), hoặc dùng 5-FU liều
cao hơn 1 lần/tuần (1000 đến 2000 mg/m2/ngày) có thể kết
hợp hoặc không kết hợp với leucovorin.
Tác dụng của việc bổ sung leucovorin vào các chế độ đa
hóa chất có 5-FU và có một anthracyclin chưa được xác định
rõ. Cho tới nay, chỉ mới có một thử nghiệm ngẫu nhiên duy
nhất công bố là không có sự khác biệt về hiệu quả giữa phác
đồ CAF phối hợp leucovorin và CAF đơn độc ở liều dùng và
lịch dùng tương tự. Mitoxantron (Novantrone), 5-FU và
leucovorin (phác đồ NFL) là một chế độ điều trị hiệu quả và
được bệnh nhân di căn chịu đựng tốt, đặc biệt đáng chú ý là
bệnh nhân không bị rụng tóc. Trong một thử nghiệm ngẫu
nhiên so sánh NFL với CMF ở bệnh nhân có bệnh di căn
chưa được điều trị trước đó, tỷ lệ đáp ứng ở nhóm NFL cao
hơn rõ rệt (45% so với 26%) nhưng thời gian cho tới khi bệnh
tiến triển chỉ dài hơn một vài tháng và tỷ lệ sống sót chung
gần như tương đương.
Gần đây hơn, các dẫn chất của 5-FU có hoạt tính đường
uống đã có mặt trên thị trường, như Tegafur (Ftorafur) và
Capecitabine. Capecitabine là tiền thân của fluoropyrimidin
carbamat có tính chọn lọc đối với tế bào ung thư đã được
kích hoạt, khi dùng đơn độc cho tỷ lệ đáp ứng từ 20 - 26%,
ngay cả ở những bệnh nhân kháng 5-FU hoặc các taxan đã
được điều trị tích cực trước đó. Mặc dù liều capecitabin khởi
UNG THƯ VÚ 69
đầu được chấp nhận cho điều trị ung thư vú di căn là
2500mg/m2/ngày trong 14 ngày của mỗi đợt điều trị 21 ngày,
việc theo dõi sau khi tiếp thị cho thấy liều này có thể quá
cao. Các mức liều thấp hơn (bắt đầu ở mức 2000mg/m2/ngày
trong 14 ngày của mỗi đợt điều trị 21 ngày) có thể cải thiện
chỉ số điều trị mà không ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
Đỏ da và loạn cảm ở gan bàn tay và gan bàn chân (hội
chứng bàn tay bàn chân) là tác dụng phụ thường gặp ở bệnh
nhân dùng capecitabin; uống thêm pyridoxin có thể giảm
tần suất bị tác dụng phụ này. Liều > 200 mg/ngày có tác
dụng giảm triệu chứng rõ hơn so với liều 100 - 200, hoặc <
100 mg/ngày (giảm tương ứng là 54%, 42% và 33%).
Tegafur là một chất chống chuyển hóa được chuyển hóa
từ từ thành 5-FU in vivo và được nghiên cứu sử dụng hoặc
đơn độc hoặc phối hợp đa hóa chất. Tỷ lệ đáp ứng khi dùng
đơn độc dao động từ 20 - 32%; phác đồ phối hợp tegafur
uống kéo dài với leucovorin, cyclophosphamid và
methotrexat có vẻ có hoạt tính tương đương phác đồ CMF
trong điều trị ung thư vú di căn ban đầu.
5-FU và các dẫn chất của nó kết hợp hoặc không kết hợp
với leucovorin không gây rụng tóc hoặc ức chế tuỷ xương
nhiều như khi dùng doxorubicin, các tác nhân alkyl hóa
khác hoặc các taxan. Buồn nôn và nôn gặp ở dưới 10% bệnh
nhân. Tuy nhiên, các biểu hiện về đường tiêu hóa khác như
ỉa lỏng và viêm niêm mạc lại thường gặp, đặc biệt là khi bổ
sung thêm leucovorin. Các thuốc uống và 5-FU truyền có thể
gây hội chứng bàn tay bàn chân tuỳ theo liều dùng (có thể là
phụ thuộc vào cả liều cộng dồn và cả nồng độ trong huyết
70 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
thanh cao kéo dài) và gặp ở khoảng 20% bệnh nhân. Thay
đổi tổng liều hàng ngày hoặc số ngày dùng thuốc có thể làm
giảm các triệu chứng này.
5.3. Vinca alkaloid
Các vinca alkaloid với các biệt dược Vincristine,
Vinblastine, Vinorelbine và Vindesine có tác dụng cản trở sự
tổ hợp các vi ống trong tế bào và dẫn đến ức chế quá trình
sao chép. Vincristine đã được đưa vào phác đồ CMF. Tuy
nhiên, hoạt tính của tác nhân đơn nhất thấp và độc tính lên
thần kinh lại nhiều. Trái lại, ba tác nhân khác trong nhóm
này được dung nạp tốt hơn, một phần là do khả năng gắn
chọn lọc vào protein của vi ống. Các loại thuốc này đã được
sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư vú di căn với tỷ lệ
đáp ứng khi dùng tác nhân đơn nhất lên tới 40%, và độc tính
thần kinh ở mức chấp nhận được.
Vinorelbine là tác nhân được sử dụng nhiều nhất hiện
nay. Thuốc thường được dùng qua đường tĩnh mạch với
liều từ 25 - 35mg/m2 vào ngày thứ nhất và ngày thứ tám của
một đợt điều trị kéo dài ba tuần, tuy nhiên truyền liên tục
kéo dài hàng tuần có hiệu quả tương đương và tác dụng ức
chế tuỷ xương thấp hơn. Trong một báo cáo, 40 bệnh nhân
di căn kháng anthracyclin được điều trị bằng Vinorelbine
đơn độc (25mg/m2/tuần truyền liên tục). Tỷ lệ đáp ứng
chung là 53%, trung vị thời gian cho tới khi bệnh tiến triển là
chín tháng, giảm bạch cầu trung tính nặng (cấp độ 3 hoặc 4)
chỉ xảy ra trong khoảng 2% số tuần điều trị.
UNG THƯ VÚ 71
Ngoài độc tính lên hệ tạo máu và thần kinh, các tác nhân
này đôi khi có thể gây đau quanh khối u cấp tính và nặng,
bắt đầu trong khi truyền hoặc ngay sau khi truyền và kéo
dài vài phút tới vài giờ. Phản ứng này sẽ tự mất đi mà
không để lại di chứng lâu dài.
Các vinca alkaloid được đưa vào các chế độ đa hóa chất
phối hợp với các tác nhân alkyl hóa (CPA, ifosfamid,
cisplatin, carboplatin, mitomycin C), các chất chống chuyển
hóa (5-FU/leucovorin, truyền 5-FU kéo dài), các anthracyclin
(doxorubicin, epirubicin, mitoxantron), và/hoặc các taxan
(paclitaxel, docetaxel). Trong từng trường hợp, các chế độ
điều trị phối hợp tỏ ra có hiệu quả cao hơn các tác nhân đơn
nhất, nhưng tác dụng phụ cũng tăng lên. Nhìn chung, các
nghiên cứu ngẫu nhiên không chứng minh được tính ưu việt
của các chế độ điều trị phối hợp so với các tác nhân đơn
nhất.
- Viện Ung thư Quốc gia Canada tiến hành một thử
nghiệm trên 303 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn
được điều trị bằng Vinorelbine phối hợp doxorubicin hoặc
doxorubicin đơn độc. Tỷ lệ đáp ứng, chất lượng cuộc sống,
thời gian cho tới khi bệnh tiến triển, và tỷ lệ sống chung ở
hai nhóm không khác biệt nhưng chế độ điều trị phối hợp
hay gây độc tính lên thần kinh, giảm bạch cầu trung tính có
sốt, kích ứng tĩnh mạch nhiều hơn so với phác đồ đơn nhất.
- Chế độ phối hợp mitomycin C và Vinblastine có hoạt
tính đối với ung thư vú di căn kháng anthracyclin và thư-
ờng được sử dụng làm phác đồ điều trị bậc hai trước khi
taxan được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, mitomycin
72 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
C/Vinblastine có hiệu quả thấp hơn docetaxel đơn độc
trong một thử nghiệm ngẫu nhiên tiền cứu ở bệnh nhân
ung thư vú di căn, với trung vị thời gian sống ngắn hơn
(8,7 tháng so với 11,4 tháng), thời gian cho tới khi bệnh tiến
triển cũng ngắn hơn (11 tuần so với 19 tuần) và tỷ lệ đáp
ứng thấp hơn (12% so với 30%).
5.4. Các taxan
Các taxan có nguồn gốc từ thân (paclitaxel) hoặc lá
(docetaxel) của các cây thuỷ tùng vùng Tây Thái bình dương
và châu Âu, hiện nay cả hai hoạt chất này đều có thể tổng
hợp được. Khác với vinca alkaloid là những hoạt chất ức chế
sự tổ hợp của các vi ống trong tế bào, các taxan làm ổn định
các vi ống và làm ngừng chu kỳ G2. ứng dụng lâm sàng của
paclitaxel ban đầu bị ngăn cản vì đã xảy ra các phản ứng
kiểu phản vệ và dị ứng nguy hiểm đến tính mạng do tá d-
ược - dầu thầu dầu polyoxyethylat và cồn (Cremaphor EL)
gây ra. Các phản ứng này được làm giảm bằng cách dùng
dexamethason, diphenhydramin và chất ức chế thụ thể H1
trước và sau điều trị, đồng thời giảm tốc độ truyền thuốc. Có
thể không cần dùng corticosteroid khi truyền paclitaxel
hàng tuần ở mức liều trung bình trong vòng một giờ.
Docetaxel không có tá dược Cremaphor nên ít gây các phản
ứng tăng mẫn cảm hơn.
Paclitaxel
Paclitaxel có hoạt tính mạnh ở cả bệnh nhân mẫn cảm
(tỷ lệ đáp ứng từ 35 - 55% ) và bệnh nhân không mẫn cảm
UNG THƯ VÚ 73
với doxorubicin (tỷ lệ đáp ứng 20%). Liều dùng và chương
trình dùng paclitaxel tối ưu vẫn chưa được xác định.
Paclitaxel đã được điều trị với các liều từ 135 đến 250
mg/m2 trong một đến 24 giờ, ba tuần một lần. Một thử
nghiệm tiến hành trên bệnh nhân ung thư vú di căn cho
thấy dùng paclitaxel với liều 175mg/m2 có tác dụng cao
hơn chút ít so với liều 135mg/m2 về thời gian cho tới khi
bệnh tiến triển (4,2 tháng so với 3,0 tháng), nhưng tỷ lệ đáp
ứng (29% so với 22%) và thời gian sống chung (11,7 tháng
so với 10,5 tháng) tương đương nhau.
Thử nghiệm ngẫu nhiên thứ hai do Nhóm B nghiên cứu
về bệnh bạch cầu và ung thư (CALGB) thực hiện so sánh các
liều 250, 210, và 175mg/m2 ở bệnh nhân ung thư vú di căn
chưa được điều trị trước đó. Các kết quả cũng tương tự
nghiên cứu trên, điều trị liều cao hơn kéo dài thời gian cho
tới khi bệnh tái phát hơn (3,8 tháng so với 4,1 và 4,8 tháng),
nhưng tỷ lệ đáp ứng (21%, 28%, và 22%), và thời gian sống
(9,8 tháng, 11,8 tháng, và 11,9 tháng) ở ba nhóm tương
đương nhau.
Dùng paclitaxel 1 lần/tuần cho hiệu quả điều trị tương
đương nhưng ít gây ức chế tuỷ xương và tác dụng phụ lên
hệ thần kinh hơn so với các liều cao hơn truyền 3 tuần 1 lần.
Có thể dùng liều 80 - 100 mg/m2/tuần trong vài tuần; ở hai
nghiên cứu riêng rẽ, tỷ lệ đáp ứng ghi nhận được là 53% và
22%, ngay cả ở bệnh nhân kháng anthracyclin.
Paclitaxel ít gây buồn nôn hoặc nôn, nhưng khi dùng ba
tuần một lần phần lớn bệnh nhân đều bị rụng tóc. Ngoài ra,
5 - 15% bệnh nhân bị hội chứng đau cơ và đau khớp, từ mức
74 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
độ nhẹ đến rất nặng gây suy kiệt cơ thể. Hội chứng này
thường bắt đầu xuất hiện khoảng 24 - 72 giờ sau điều trị và
kéo dài từ hai đến bốn ngày. Có thể kéo dài thời gian dùng
dexamethason từ ngày truyền thuốc cho đến thời gian dự
đoán sẽ có đau cơ nếu bệnh nhân đau rất nhiều. Các kết quả
sơ bộ cho thấy uống bổ sung glutamin có thể phòng ngừa
đau cơ và đau khớp.
Cũng giống vinca alkaloid, các dấu hiệu thần kinh
ngoại vi thường xảy ra khi dùng paclitaxel, mặc dù chỉ 10
-15% bệnh nhân có triệu chứng ở mức độ nghiêm trọng
(cấp độ ba hoặc bốn). Bệnh thần kinh ngoại vi thường xảy
ra khi dùng liều cao hơn và thời gian truyền ngắn hơn, và
có tính chất tích luỹ. Các kinh nghiệm ban đầu cho thấy
giảm liều thuốc truyền hàng tuần có thể làm giảm các biểu
hiện thần kinh ngoại vi nhưng lại cho phép đạt liều cộng
dồn cao hơn nhiều.
Docetaxel
Mặc dù docetaxel tương tự như paclitaxel về mặt cấu trúc
và cơ chế tác dụng nhưng hai loại thuốc này có các đặc điểm
lâm sàng riêng biệt. Giống paclitaxel, docetaxel cũng có hiệu
quả cao ngay cả ở bệnh nhân đã được điều trị tích cực trước
đó với tỷ lệ đáp ứng trong khoảng 35 - 60%. Theo các số liệu
tiền lâm sàng, hiện tượng kháng docetaxel dường như ít bị
các protein kháng đa thuốc gây ảnh hưởng hơn so với
paclitaxel. Do đó, hai loại thuốc này có thể không kháng
chéo hoàn toàn. Ví dụ, trong một nghiên cứu, 25% bệnh
nhân có bệnh tiến triển khi dùng paclitaxel có đáp ứng với
docetaxel sau đó.
UNG THƯ VÚ 75
So với paclitaxel, có ít nghiên cứu về hiệu quả của các liều
và các phác đồ dùng docetaxel khác nhau hơn. Docetaxel
thường được dùng với liều 100mg/m2 trong một giờ, ba tuần
một lần. Docetaxel 1 lần/tuần (30-40mg/m2/tuần trong 1 giờ)
cho đáp ứng khách quan ở 40 - 50% bệnh nhân ung thư vú
di căn ở hai nghiên cứu riêng rẽ. Cũng như với paclitaxel,
docetaxel dùng 1 lần/tuần có vẻ ít gây độc tính lên hệ thần
kinh và hệ tạo máu hơn.
Giống paclitaxel, docetaxel hiếm khi gây buồn nôn và
nôn, rụng tóc thường là hoàn toàn, các dấu hiệu thần kinh
ngoại vi có tính chất tích luỹ. Không giống paclitaxel,
docetaxel gây ứ dịch, phù ngoại vi và tràn dịch màng phổi.
Trong các nghiên cứu giai đoạn II ban đầu, ứ dịch có tính
chất tích luỹ và phụ thuộc liều. Tuy nhiên, nếu trước đó có
điều trị phù hợp (uống corticosteroid 3-5 ngày bắt đầu từ 24
giờ trước điều trị), có thể đạt liều cộng dồn cao hơn trước
khi xuất hiện ứ dịch.
Cả paclitaxel và docetaxel có thể gây ức chế tuỷ xương
nặng, thường xuất hiện thoáng qua và không có tính chất
tích luỹ. Tuy nhiên, do cả hai loại thuốc này đều được đào
thải qua hệ thống gan - mật cho nên cần hết sức thận trọng
khi dùng cho bệnh nhân có rối loạn chức năng gan, kết hợp
với giảm liều và theo dõi chặt chẽ về huyết học.
Không có nghiên cứu nào so sánh trực tiếp docetaxel và
paclitaxel ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn. Các
thử nghiệm ngẫu nhiên tiền cứu so sánh paclitaxel và
docetaxel trong điều trị bổ trợ và điều trị bệnh di căn
đang được tiến hành.
76 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
Các chế độ điều trị phối hợp có taxan
Cả paclitaxel và docetaxel đã được phối hợp với các tác
nhân gây độc tế bào khác trong điều trị ung thư vú di căn.
Chế độ phối hợp paclitaxel và doxorubicin có hoạt tính
mạnh, nhưng có thể gây suy tim ở liều doxorubicin cộng
dồn thấp hơn nhiều so với liều thường quy. Mặc dù không
phải nghiên cứu nào cũng như nhau nhưng suy tim gặp ở
khoảng 20% bệnh nhân được điều trị bằng chế độ phối hợp.
Paclitaxel có thể làm giảm độ thanh thải doxorubicin, làm
tăng nồng độ thuốc trong máu. Truyền doxorubicin trước
paclitaxel có thể làm giảm độc tính lên máu và niêm mạc
nhưng không rõ có làm giảm độc tính lên tim hay không.
Các chiến lược khác gồm có hạn chế liều doxorubicin cộng
dồn ở mức dưới 350 mg/m2 và/hoặc dùng thuốc bảo vệ tim.
Người ta cũng đã phối hợp paclitaxel với mitoxantron và
epirubicin mà không gây độc tính lên tim quá mức.
Đến nay, phác đồ phối hợp docetaxel và doxorubicin
không làm tăng tỷ lệ suy tim cao hơn dự tính. Ví dụ, 54 bệnh
nhân ung thư vú di căn chưa được điều trị trước đó dùng
doxorubicin (liều 60mg/m2, ba tuần một lần) kết hợp với
docetaxel (60mg/m2, ba tuần một lần) và yếu tố kích thích
dòng bạch cầu hạt (G.CSF). Tỷ lệ đáp ứng khách quan là
57% với trung vị thời gian bảy tháng. Mặc dù 15 bệnh nhân
(28%) có giảm phân suất tống máu thất trái (với liều
doxorubicin cộng dồn trung bình 450mg/m2), chỉ có ba tr-
ường hợp bị suy tim sung huyết cấp độ ba hoặc bốn.
Các kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong một thử
nghiệm thứ hai trong đó docetaxel (75mg/m2), doxorubicin
UNG THƯ VÚ 77
(50mg/m2) và cyclophosphamid (500 mg/m2) được dùng vào
ngày 1 của từng đợt điều trị 3 tuần cho 54 bệnh nhân ung
thư vú di căn chưa được điều trị trước đó. Tỷ lệ đáp ứng
khách quan là 77%, và tỷ lệ sống hai năm là 57. Mặc dù 14
bệnh nhân (26%) có giảm phân suất tống máu thất trái
không triệu chứng trong quá trình điều trị (6 trong số này
dùng liều doxorubicin < 360mg/m2), chỉ hai bệnh nhân (4%)
bị suy tim sung huyết cấp độ ba hoặc bốn.
Người ta chưa biết rõ liệu có nên chấp nhận nguy cơ
tăng độc tính của các phác đồ phối hợp có taxan để tăng
hiệu quả điều trị hay không. Một thử nghiệm của nhiều
nhóm nghiên cứu ở Mỹ tiến hành nhằm so sánh paclitaxel
đơn độc với doxorubicin đơn độc hoặc với hai thuốc phối
hợp trên bệnh nhân ung thư vú di căn chưa được điều trị
trước đó. Các bệnh nhân dùng thuốc đơn độc được
chuyển từ loại này sang loại kia vào thời điểm bệnh tiến
triển. Mặc dù tỷ lệ đáp ứng và thời gian cho tới khi bệnh
tái phát ở nhóm được điều trị bằng hai loại thuốc cao hơn
nhóm được điều trị bằng tác nhân đơn độc nhưng tỷ lệ
sống chung tương tự ở cả ba nhóm. Độc tính lên tim khi
dùng doxorubicin đơn độc hoặc khi dùng phối hợp với
paclitaxel là tương đương nhau.
Nếu trước khi điều trị bệnh di căn bằng phác đồ phối hợp
doxorubicin và paclitaxel bệnh nhân đã dùng các phác đồ có
anthracyclin bổ trợ thì hiệu quả điều trị có thể giảm. Trong
một nghiên cứu, thời gian cho tới khi bệnh tiến triển ngắn
hơn nhiều ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng chế độ
hóa chất có anthracyclin trước đó (7,0 tháng), tuy nhiên
78 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
những người dùng phác đồ bổ trợ không có anthracyclin thì
không bị ảnh hưởng (8,6 tháng) khi so với những người ch-
ưa từng được điều trị bổ trợ trước đó (12,3 tháng).
Người ta so sánh phác đồ phối hợp doxorubicin và
paclitaxel với phác đồ FAC trong điều trị bậc I bệnh nhân
ung thư vú di căn. Tỷ lệ đáp ứng (68% so với 55%), thời gian
bệnh ổn định (8,3 tháng so với 6,2 tháng), thời gian sống (23
tháng so với 18 tháng) ở nhóm dùng doxorubicin và
paclitaxel cao hơn rõ rệt so với FAC.
Docetaxel (100mg/m2 trong 1 giờ, 3 tuần 1 lần) được so
sánh trực tiếp với docetaxel (75mg/m2 trong 1 giờ, 3 tuần 1
lần) phối hợp capecitabin (1250mg/m2/ngày chia 2 lần trong
2 tuần sau đó nghỉ 1 tuần) ở 511 bệnh nhân ung thư vú di
căn kháng anthracyclin. So với docetaxel đơn độc, liệu
pháp phối hợp cải thiện đáng kể trung vị thời gian sống
chung (442 ngày so với 352 ngày), thời gian bệnh ổn định
(186 ngày so với 128 ngày), và tỷ lệ đáp ứng chung (32% so
với 22%). Tuy nhiên, tác dụng phụ thường xảy ra nhiều
hơn khi điều trị bằng liệu pháp phối hợp, trong đó có viêm
niêm mạc, đỏ da gan bàn tay bàn chân, và sốt có giảm bạch
cầu trung tính.
Với tác dụng khiêm tốn nhưng có ý nghĩa trên lâm sàng
lên tỷ lệ sống, chưa rõ phác đồ phối hợp có tốt hơn so với
việc dùng lần lượt từng thuốc hay không, nhưng mới đây
Cục quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ đã thông qua và cho
phép sử dụng phối hợp docetaxel và capecitabin trong điều
trị ung thư vú di căn.
UNG THƯ VÚ 79
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Việc theo dõi định kỳ là hết sức cần thiết đối với bệnh
nhân ung thư vú. Theo dõi có thể giúp đánh giá hiệu quả
điều trị, phát hiện và đánh giá mức độ nghiêm trọng của tác
dụng phụ.
Khai thác bệnh sử và khám lâm sàng
Bệnh sử và khám lâm sàng rất hữu ích cho việc theo dõi
triệu chứng và đáp ứng của các dấu hiệu bệnh lý, ví dụ các
nhân ung thư dưới da, với điều trị. Tuy nhiên, ở 50% bệnh
nhân ung thư vú di căn, bệnh sử và khám lâm sàng không
cung cấp thông tin về đáp ứng của bệnh với điều trị.
Các thăm dò hình ảnh
X quang và chụp cắt lớp là công cụ thăm dò bằng hình
ảnh hữu ích cho phép quan sát những thay đổi về kích
thước và sự lan rộng của u vú di căn. Người ta thường tiến
hành chụp phim định kỳ trong quá trình điều trị để đánh
giá đáp ứng với điều trị. Xạ hình xương (dùng chất phóng
xạ để ghi hình xương) giúp phát hiện di căn xương và xem
di căn xương đang tiến triển hay đang thoái lui. Tuy nhiên,
rất khó lượng giá được sự xâm lấn của ung thư trên hình
ảnh xạ hình xương. Do đó, xạ hình xương không hữu ích
bằng chụp X quang và chụp cắt lớp trong việc đánh giá mức
độ đáp ứng điều trị.
Các chất chỉ điểm khối u
Đối với những bệnh nhân không phát hiện được các dấu
hiệu ung thư vú di căn bộc lộ ra ngoài, nồng độ các chất chỉ
80 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
điểm u trong máu (ví dụ, CA15-3 và CEA) có thể hữu ích
trong việc đánh giá đáp ứng của ung thư với điều trị. Nồng
độ của các chất chỉ điểm khối u này trong máu tương ứng
với tiến triển của ung thư vú ở 60 - 70% bệnh nhân ung thư
vú di căn.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Thận
1. Ung thư thận là gì?
Có một số loại ung thư có thể phát triển trong thận. Bài
này thảo luận về ung thư tế bào thận là loại ung thư thận phổ
biến nhất ở người lớn. Ung thư tế bào chuyển tiếp (ung thư
biểu mô) liên quan đến bể thận là loại ung thư thận ít gặp
hơn. Nó tương tự như ung thư ở bàng quang và thường được
điều trị giống ung thư bàng quang. U Wilms là loại ung thư
thận phổ biến nhất ở trẻ em, khác với ung thư thận ở người
lớn.
Khi ung thư thận phát triển, nó có thể xâm lấn vào các cơ
quan ở gần thận, như gan, đại tràng hoặc tuyến tuỵ. Tế bào
ung thư thận có thể tách khỏi khối u ban đầu và lan đi xa (di
căn) tới các bộ phận khác của cơ thể. Khi ung thư thận di căn
thì tế bào ung thư có thể xuất hiện trong các hạch bạch
huyết. Nếu bác sĩ giải phẫu tìm thấy tế bào ung thư trong
các hạch bạch huyết ở gần thận nạo vét được trong khi phẫu
thuật, khi đó có thể ung thư đã lan tới các bộ phận khác
82 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
trong cơ thể. Ung thư thận có thể lan và tạo ra các u mới,
thường gặp nhất là ở xương và phổi. Khối u mới có cùng
loại tế bào bất thường và có cùng tên với khối u ban đầu
(khối u nguyên phát) ở thận.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư thận là gì?
Giống như hầu hết các loại ung thư khác, các nghiên cứu
cho thấy nguy cơ ung thư thận tăng lên theo độ tuổi. Bệnh
thường xuất hiện nhất là trong độ tuổi 50 - 70. Gặp ở nam
giới nhiều gấp đôi nữ giới. Bên cạnh đó, ung thư thận có vẻ
thường gặp hơn ở người Mỹ gốc Phi so với người Mỹ da
trắng. Các yếu tố nguy cơ khác của ung thư thận là:
- Sử dụng thuốc lá: Theo kết quả nghiên cứu, những
người hút thuốc lá có nguy cơ bị ung thư thận cao gấp đôi
những người không hút thuốc. Bên cạnh đó, thời gian sử
dụng thuốc càng dài thì nguy cơ càng cao. Tuy nhiên, nguy
cơ mắc ung thư thận sẽ giảm xuống khi bỏ hút thuốc.
- Béo phì: Béo phì có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung
thư thận. Trong một số nghiên cứu, béo phì đi kèm tăng
nguy cơ ung thư ở phụ nữ. Một nghiên cứu khác nêu ra rằng
thừa cân cũng là một yếu tố nguy cơ cả ở nam giới. Nguyên
nhân của mối liên quan này còn chưa được xác định rõ.
- Sự tiếp xúc trong nghề nghiệp: Một số nghiên cứu đã
kiểm tra xem tiếp xúc với các yếu tố nghề nghiệp có làm
tăng nguy cơ phát triển ung thư thận ở công nhân hay
không. Ví dụ, các nghiên cứu chỉ ra công nhân lò than cốc
trong nhà máy thép có tỷ lệ mắc ung thư thận cao hơn bình
UNG THƯ T HẬN 83
thường. Bên cạnh đó, có một số bằng chứng cho thấy
amiăng ở nơi làm việc, một chất có liên quan tới ung thư
phổi và ung thư trung mô (là lớp màng bao phủ các tạng
bên trong của cơ thể), cũng làm tăng nguy cơ mắc một số
loại ung thư thận.
- Tia xạ: Những phụ nữ đã được chiếu xạ để điều trị các
rối loạn ở tử cung có thể tăng nhẹ nguy cơ phát triển ung
thư thận. Hơn nữa, những người đã tiếp xúc với thorotrast
(thorium dioxid), một chất phóng xạ được sử dụng vào
những năm 20 cùng với việc chụp X quang để chẩn đoán, có
tỷ lệ mắc ung thư thận tăng lên. Tuy nhiên, chất này hiện
không còn được sử dụng và các nhà khoa học cho rằng
chiếu xạ chỉ gây ra một phần trăm rất nhỏ trong tổng số các
trường hợp ung thư thận.
- Phenacetin: Một số người đã bị ung thư thận sau một
thời gian dài sử dụng loại thuốc này với liều cao. Loại thuốc
giảm đau này hiện không còn được sử dụng ở Mỹ.
- Lọc máu: Những bệnh nhân được lọc máu để điều trị
suy thận mạn tính trong nhiều năm tăng nguy cơ phát triển
nang thận và ung thư thận. Cần tiếp tục nghiên cứu để tìm
hiểu thêm về tác dụng lâu dài của việc lọc máu đối với các
bệnh nhân bị suy thận.
- Bệnh Von Hippel-Lindau (VHL): Các nhà nghiên cứu đã
phát hiện ra những người có căn bệnh di truyền này có nguy
cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào thận cũng như khối u ở
các bộ phận khác cao hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát tìm
ra một loại gen gây bệnh VHL và họ tin rằng việc phân lập
84 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
được gen này có thể giúp cải thiện các phương pháp chẩn
đoán, điều trị và thậm chí phòng ngừa một số loại ung thư
thận.
3. Ung thư thận được phát hiện như thế nào? Triệu
chứng của ung thư thận là gì?
Ở giai đoạn sớm, ung thư thận thường không gây ra dấu
hiệu gì rõ ràng hoặc các triệu chứng khó chịu. Khi u thận
phát triển thì xuất hiện những triệu chứng sau:
• Đái máu. Máu có thể xuất hiện trong nước tiểu hôm nay
nhưng hôm sau lại không xuất hiện. Trong một số trường
hợp, người bệnh có thể nhìn thấy máu hoặc có thể được phát
hiện khi làm xét nghiệm nước tiểu trong thăm khám sức khỏe
định kỳ.
• Khối u ở vùng thận.
• Các triệu chứng ít gặp hơn có thể bao gồm:
- Mệt mỏi
- Chán ăn
- Giảm cân
- Sốt tái đi tái lại
- Đau ở cạnh lưng không khỏi
- Cảm thấy mỏi mệt toàn thân.
Huyết áp cao hoặc thiếu máu cũng có thể là dấu hiệu của
ung thư thận; tuy nhiên, những triệu chứng này ít gặp hơn.
UNG THƯ T HẬN 85
Những triệu chứng này có thể do ung thư hoặc các các
tình trạng bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra như nhiễm
khuẩn hoặc nang. Chỉ có bác sĩ mới có thể đưa ra chẩn đoán.
Những người có các triệu chứng này có thể đến gặp bác sĩ
gia đình hoặc bác sĩ chuyên khoa tiết niệu. Thông thường,
ung thư giai đoạn sớm không gây đau; điều quan trọng là
không nên chờ cho đến khi thấy đau mới đến khám bác sĩ.
Trong hầu hết các trường hợp, ung thư càng được phát
hiện và điều trị sớm thì khả năng hồi phục hoàn toàn của
bệnh nhân càng lớn.
4. Ung thư thận được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm nguyên nhân gây triệu chứng, bác sĩ cần khai
thác tiền bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm
sàng. Bên cạnh việc kiểm tra các dấu hiệu về sức khỏe
chung, bác sĩ có thể chỉ định làm xét nghiệm máu và nước
tiểu. Bác sĩ có thể khám kỹ vùng bụng để tìm u cục hoặc
các khối bất thường.
Bác sĩ thường chỉ định các thăm dò hình ảnh của thận và
các cơ quan lân cận. Những bức tranh này thường có thể cho
biết các thay đổi ở thận và mô xung quanh. Ví dụ, chụp hệ
tiết niệu có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch (IVP) là chụp X
quang thận, niệu quản và bàng quang sau khi tiêm thuốc
cản quang vào tĩnh mạch. Các hình ảnh chụp được có thể
cho thấy những biến đổi về hình dạng của các cơ quan này
và các hạch lymphô lân cận.
Chụp động mạch sẽ cung cấp một loạt phim X quang
chụp mạch máu. Thuốc cản quang được tiêm vào mạch máu
86 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
lớn qua một ống thông. Phim chụp cho thấy mạng lưới
mạch máu nhỏ hơn ở bên trong và xung quanh thận.
Các thăm dò bằng hình ảnh khác bao gồm chụp cắt lớp vi
tính, chụp cộng hưởng từ và siêu âm, có thể cho thấy sự
khác biệt giữa các mô bệnh và các mô lành.
Nếu kết quả xét nghiệm nghi ngờ ung thư thận thì có thể
tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất chắc chắn để
chẩn đoán ung thư. Sinh thiết để tìm ung thư thận tức là bác
sĩ chọc một kim nhỏ vào trong khối u và hút ra một mẫu mô.
Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh quan sát mô đó dưới kính hiển
vi để tìm tế bào ung thư.
Khi chẩn đoán ung thư thận, bác sĩ cần xác định giai đoạn
hoặc phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là một quá trình
thăm dò chi tiết để phát hiện ung thư đã lan chưa và nếu lan
thì lan tới phần nào của cơ thể. Bác sĩ cần phải có thông tin
này để lập kế hoạch điều trị cho bệnh nhân.
Để phân giai đoạn ung thư thận, bác sĩ có thể cho chụp bổ
sung cộng hưởng từ và chụp X quang các mô và mạch máu
ở bên trong và xung quanh thận. Bác sĩ có thể tìm các hạch
lymphô bị sưng to lên ở trong lồng ngực và ổ bụng qua
chụp cắt lớp vi tính. Chụp X quang lồng ngực thường có thể
cho biết ung thư đã di căn vào phổi chưa. Xạ hình xương là
dùng chất phóng xạ để ghi hình xương, có thể phát hiện ra
các dấu hiệu di căn của ung thư vào xương.
5. Ung thư thận được điều trị như thế nào? Tác
dụng phụ của điều trị là gì?
UNG THƯ T HẬN 87
5.1. Các phương pháp điều trị tại chỗ
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư thận phổ
biến nhất. Phẫu thuật được thực hiện là cắt bỏ thận. Bác sĩ
phẫu thuật thường cắt bỏ toàn bộ quả thận cùng với tuyến
thượng thận và các mô quanh thận. Một số hạch bạch huyết
trong vùng có thể được nạo vét. Đây là thủ thuật cắt thận
triệt để. Trong một số trường hợp, bác sĩ phẫu thuật chỉ cắt
bỏ thận (thủ thuật cắt thận đơn giản). Quả thận còn lại nói
chung có thể đảm đương được công việc của cả hai thận.
Một số trường hợp khác, bác sỹ phẫu thuật chỉ cắt bỏ một
phần quả thận nơi có khối u, gọi là thủ thuật cắt thận bán
phần.
Thuyên tắc động mạch nghĩa là làm tắc động mạch để
khối u thuyên giảm đi, đôi khi được thực hiện trước phẫu
thuật để có thể tiến hành phẫu thuật dễ dàng hơn. Nó cũng
thường được sử dụng để giảm đau hoặc chống chảy máu
khi không thể cắt bỏ được khối u. Các miếng xốp nhỏ bằng
gelatin đặc biệt hoặc bằng chất liệu khác được tiêm vào cơ
thể qua một ống thông để làm tắc các mạch máu chính ở
thận. Thủ thuật này làm nhỏ khối u nhờ việc giảm tưới
dòng máu mang ôxy và các chất dinh dưỡng cần cho khối u
phát triển.
Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân thường đặt ra
trước khi phẫu thuật:
− Loại phẫu thuật nào sẽ được thực hiện?
− Có cần phải tiếp tục điều trị sau khi phẫu thuật không?
Cách điều trị như thế nào?
88 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
− Tôi sẽ cảm thấy thế nào sau khi phẫu thuật?
− Nếu tôi bị đau, bác sĩ có thể giúp tôi như thế nào?
− Khi nào tôi có thể bắt đầu trở lại hoạt động thường ngày?
Liệu pháp tia xạ là sử dụng các tia có năng lượng cao để
tiêu diệt tế bào ung thư. Đôi khi, bác sĩ sử dụng liệu pháp
này để giảm đau (điều trị triệu chứng) khi ung thư thận đã
di căn vào xương.
Người ta điều trị ung thư thận bằng phương pháp chiếu
xạ ngoài, dùng một vật liệu phóng xạ bên ngoài cơ thể và
một máy chiếu xạ hướng các tia vào một vùng cụ thể. Bệnh
nhân ngoại trú được điều trị ở bệnh viện hoặc phòng khám
năm ngày mỗi tuần trong vài tuần. Phác đồ điều trị này giúp
bảo vệ các mô lành nhờ sự tỏa tổng liều phóng xạ ra ngoài.
Bệnh nhân không cần nằm viện trong khi tiến hành xạ trị và
bệnh nhân không mang nguồn xạ trong và sau khi điều trị.
Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân thường hỏi bác
sĩ trước khi tiến hành xạ trị:
− Mục đích của phương pháp điều trị này là gì?
− Khi nào thì việc điều trị bắt đầu? Khi nào thì kết thúc?
− Tôi sẽ cảm thấy như thế nào trong thời gian điều trị?
Có thể có những tác dụng phụ nào?
− Tôi có thể làm gì để chăm sóc bản thân trong khi điều
trị bằng tia phóng xạ?
− Làm cách nào tôi biết được điều trị có hiệu quả hay
không?
UNG THƯ T HẬN 89
− Liệu tôi có thể tiếp tục hoạt động như bình thường
trong thời gian điều trị tia phóng xạ hay không?
5.2. Các phương pháp điều trị toàn thân
Phẫu thuật và thuyên tắc động mạch là các phương pháp
điều trị tại chỗ. Các phương pháp đó chỉ tác động tới tế bào
ung thư trong vùng điều trị. Liệu pháp sinh học, hóa trị liệu
và liệu pháp hoóc-môn, được giải thích sau đây, là các
phương pháp điều trị toàn thân bởi vì chúng đi vào hệ
thống mạch máu và tới các tế bào trong toàn bộ cơ thể.
Liệu pháp sinh học là một dạng điều trị tăng cường khả
năng kháng ung thư tự nhiên của cơ thể (hệ thống miễn
dịch). Interleukin-2 và interferon là hai loại thuốc sử dụng
trong liệu pháp sinh học để điều trị ung thư thận giai đoạn
muộn. Các thử nghiệm lâm sàng tiếp tục nghiên cứu các
phương pháp tốt hơn để tiến hành liệu pháp sinh học đồng
thời có thể giảm được tác dụng phụ. Nhiều bệnh nhân được
điều trị bằng liệu pháp sinh học cần nằm viện trong thời
gian điều trị để có thể theo dõi được các tác dụng phụ này.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế
bào ung thư. Mặc dù có hiệu quả trong điều trị nhiều loại
ung thư khác nhưng hóa trị liệu lại tỏ ra hạn chế đối với ung
thư thận. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm
hiểu các loại thuốc và các phác đồ phối hợp thuốc mới có thể
có hiệu quả hơn.
Liệu pháp hoóc-môn được áp dụng cho một số lượng
nhỏ bệnh nhân ung thư thận giai đoạn muộn. Một số trường
90 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
hợp ung thư thận có thể điều trị bằng hoóc-môn để kiểm
soát sự phát triển của tế bào ung thư. Thông thường hoóc-
môn được sử dụng để điều trị triệu chứng.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Việc theo dõi định kỳ của bác sĩ sau khi điều trị ung thư
thận là rất quan trọng. Bác sĩ sẽ đề xuất một chương trình
khám theo dõi phù hợp bao gồm khám lâm sàng, chụp X
quang lồng ngực và các xét nghiệm cận lâm sàng. Đôi khi
bác sĩ chỉ định làm xạ hình và các xét nghiệm khác. Bệnh
nhân cần phải tiếp tục đến bác sĩ khám và báo với bác sĩ
ngay khi có những dấu hiệu bất thường xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Bệnh Hodgkin
1. Bệnh Hodgkin là gì?
Bệnh Hodgkin (HD) hay ung thư Hodgkin là một dạng u
lymphô ác tính, là một loại ung thư hệ bạch huyết. Điển
hình là u xuất hiện ở hạch bạch huyết rồi sau đó lan dần
theo thứ tự đến các hạch khác, lách, gan và tuỷ xương. Bệnh
Hodgkin còn được gọi là u lymphô Hodgkin.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư Hodgkin là gì?
Độ tuổi
Ở Mỹ và các nước kinh tế phát triển khác, tuổi mắc bệnh
Hodgin phân bổ theo đường cong có hai đỉnh, một ở độ tuổi
20 và một ở độ tuổi trên 50. Đa số bệnh nhân là thanh niên
trẻ. Hàng năm ở Mỹ có gần 7500 trường hợp HD mới mắc và
khoảng 1500 trường hợp tử vong do HD. Bệnh nhân trẻ hơn
có tỷ lệ sống sót sau năm năm cao hơn so với bệnh nhân
nhiều tuổi: 88% đối với bệnh nhân dưới 45 tuổi ở thời điểm
chẩn đoán, 77% đối với bệnh nhân từ 45 đến 54 tuổi, 67%
92 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
đối với bệnh nhân từ 65 đến 74 tuổi và 38% đối với bệnh
nhân từ 75 tuổi trở lên.
Vị trí địa lý và tình trạng kinh tế xã hội
Bệnh Hodgkin có các dưới loại đặc trưng ở các vùng khác
nhau trên thế giới với tình trạng kinh tế xã hội khác nhau;
các dưới loại này phản ánh điều kiện phát triển tế bào ung
thư khác nhau. Một dưới loại là nhân xơ (NS) phổ biến ở các
nước phát triển, xuất hiện ở trẻ em, ở tuổi vị thành niên và
người trưởng thành. NS ở độ tuổi này chiếm phần chủ yếu ở
đỉnh đầu tiên trên đường cong theo tuổi.
Ở các nước đang phát triển không có lợi thế về kinh tế,
tần suất mắc bệnh HD cũng tăng vọt ở hai nhóm: ở trẻ em
nam và ở người trưởng thành lớn tuổi; tỷ lệ mắc bệnh tương
đối thấp ở thanh niên trẻ. Dưới loại HD phổ biến nhất ở các
nước đang phát triển là dưới loại tế bào hỗn hợp (MC).
Sự khác biệt về địa lý trong tần suất mắc HD đặc hiệu
theo tuổi dường như song song với mức độ phát triển công
nghiệp. Ví dụ, ở các nước đang ở giai đoạn đầu công nghiệp
hóa hoặc nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, sẽ thấy
kiểu phân bố trung gian với đỉnh ở tuổi trẻ em và thanh niên
trẻ, tần suất mắc dưới loại MC và NS là tương đương nhau.
Vai trò của các tác nhân nhiễm trùng
Người ta đã từng cho rằng các tác nhân nhiễm trùng, ví
dụ như virút, có thể kích thích quá trình phát triển bệnh
Hodgkin. Người ta cho rằng mối liên quan giữa tình trạng
kinh tế xã hội và nguy cơ mắc HD phản ảnh sự tiếp xúc kéo
dài với cùng một loại virút. Nói cách khác, những người
BỆ NH HODGKIN 93
sống trong cùng một vùng thì có sự tiếp xúc với cùng loại
virút và sẽ có cùng nguy cơ bị HD. Hiện chưa xác định được
loại virút đặc hiệu gây HD, nhưng một số nghiên cứu đã cho
thấy virút Epstein-Barr (EVB), virút gây bệnh bạch cầu đơn
nhân có thể là nguyên nhân. Khoảng thời gian có nguy cơ bị
HD cao nhất là năm đến chín năm sau chẩn đoán bệnh bạch
cầu đơn nhân. Có 40% đến 50% trường hợp HD kinh điển có
tế bào ung thư bị nhiễm EBV.
Tần suất mắc HD ở thanh niên trẻ có lẽ liên quan với
tình trạng nhiễm EBV hoặc các tình trạng nhiễm khuẩn
khác khi ở độ tuổi trẻ em. Bệnh nhân ở các nước công
nghiệp chưa phát triển, những người có điều kiện kinh tế
xã hội thấp và trẻ em bị HD thường hay có EBV dương tính
hơn so với bệnh nhân có điều kiện kinh tế xã hội cao hoặc
thanh niên trẻ. Do đó, ngoài EBV thì có thể còn có các cơ
chế hoặc tác nhân khác là nguyên nhân gây ra bệnh
Hodgkin ở thanh niên trẻ.
Một số trường hợp HD phát triển từ EBV, nhưng còn các
trường hợp không có EBV thì sao? Một khả năng là còn có
một loại virút hoặc vi trùng khác tham gia vào. Khả năng
thứ hai là có EBV nhưng không phát hiện ra. Khả năng thứ
ba là EBV không liên quan đến quá trình phát triển HD và
việc nó có mặt trong tế bào ung thư chỉ đơn thuần phản ánh
tình trạng tế bào của một người nào đó có mang EBV.
Hiện tượng mắc bệnh thành nhóm
Mắc bệnh thành nhóm là hiện tượng trong đó các trường
hợp mắc bệnh xẩy ra liền nhau về mặt thời gian và địa điểm
94 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
khi được chẩn đoán. Mặc dù đã có thông báo về hiện tượng
mắc bệnh thành nhóm, nhưng các nghiên cứu khác chưa
khẳng định được các kết quả ban đầu này.
Yếu tố di truyền
Nhìn chung, nguy cơ bị HD ở những người có quan hệ họ
hàng gần gũi với bệnh nhân HD tăng khoảng 3-5 lần so với
tỷ lệ dự đoán, có thể là do tính nhạy cảm di truyền và sự
tiếp xúc với cùng một môi trường. Nguy cơ tăng 7 lần ở
những người là anh chị em của bệnh nhân HD còn trẻ tuổi
và nguy cơ của anh chị em sinh đôi cùng trứng tăng 100 lần.
Người ta không thấy nguy cơ mắc bệnh tăng ở các thành
viên trong gia đình của bệnh nhân trung niên bị HD.
3. Ung thư Hodgkin được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư Hodgkin là gì?
Khi đánh giá khả năng một bệnh nhân bị HD, bác sĩ sẽ
tìm hiểu một loạt yếu tố như tiền sử, kết quả khám lâm
sàng, sinh thiết, các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò
hình ảnh. Việc đánh giá bệnh nhân bị bệnh Hodgkin ban
đầu nhằm cung cấp thông tin cho chẩn đoán, tiên lượng,
phân giai đoạn và lựa chọn phương pháp điều trị.
Đa số bệnh nhân đến gặp bác sĩ khi bệnh đã có dấu hiệu
rõ ràng, thường là có một hạch to hoặc có khối u trên phim
chụp X quang lồng ngực. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể
không đặc hiệu và thường là dấu hiệu của một tình trạng
nhiễm khuẩn chứ không phải là của ung thư.
BỆ NH HODGKIN 95
Tiền sử và khám lâm sàng
Khai thác tiền sử nhằm xác định các triệu chứng, thời
gian xuất hiện và mức độ của chúng, như sốt không rõ
nguyên nhân, vã mồ hôi (đặc biệt ban đêm), sút cân, ngứa
và đau khi uống rượu. Tiền sử ung thư trước đó (kể cả các
loại u lymphô khác), điều trị hóa chất hoặc chiếu xạ trước
đó, tình trạng hệ miễn dịch (ví dụ, AIDS) và tiền sử gia đình
về bệnh Hodgkin hay các ung thư dòng lymphô, dòng tuỷ
và các mô khác cũng cần được tìm hiểu.
Bệnh nhân bị bệnh Hodgkin cần được một bác sỹ có kinh
nghiệm khám kỹ và đầy đủ. Bác sĩ lưu ý đặc biệt đến những
vùng thường hay có hạch to và số lượng các vị trí tổn
thương, kích thước gan và lách.
4. Ung thư Hodgkin được chẩn đoán như thế
nào?
Nếu nghi ngờ bị HD sau khi khai thác tiền sử và xét
nghiệm lâm sàng, cần phải sinh thiết hạch để xác định chẩn
đoán. Bác sĩ sẽ không sinh thiết hạch bẹn nếu có một hạch
nghi ngờ ở vị trí nào khác. Đôi khi các bác sỹ có thể yêu cầu
thêm sinh thiết hạch nếu bệnh Hodgkin được chẩn đoán
dựa vào kết quả sinh thiết ngoài hạch. Thủ thuật mở ổ bụng
để chẩn đoán hiện nay không còn được chỉ định để phân
giai đoạn HD.
Sinh thiết tuỷ xương
Khi có tế bào ung thư ở tuỷ xương thì có nghĩa là bệnh đã
ở giai đoạn muộn; ở giai đoạn sớm điều này chỉ gặp ở dưới
96 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
1% bệnh nhân. Sinh thiết tủy xương có thể phát hiện ra tình
trạng thâm nhiễm vào tuỷ xương. Tuy nhiên, kết quả sinh
thiết tuỷ xương thường không ảnh hưởng tới điều trị, đặc
biệt là ở bệnh nhân giai đoạn muộn.
Mặc dù có các hạn chế này, sinh thiết tuỷ xương thường
được chỉ định cho bệnh nhân bị HD mới được chẩn đoán; ở
Anh, một nghiên cứu công bố 74% bác sĩ chuyên khoa huyết
học và 40% bác sĩ ung thư lâm sàng tiến hành sinh thiết tuỷ
xương. Các khuyến cáo hiện nay gợi ý sinh thiết tuỷ xương
là phù hợp với bệnh nhân mới được chẩn đoán HD nếu họ
có một hoặc một số đặc điểm dưới đây:
- Có một nhóm các triệu chứng được gọi là “hội chứng
B”, gồm có sốt, ra mồ hôi ban đêm, giảm cân và đôi khi bị
mệt và ngứa.
- Bệnh ở giai đoạn III hoặc IV trên lâm sàng
- Thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu
Các xét nghiệm cận lâm sàng
Sau khi đã xác định chẩn đoán bệnh Hodgkin trên sinh
thiết, các bác sĩ sẽ cho người bệnh làm thêm một số xét
nghiệm như:
- Công thức máu toàn bộ
- Tốc độ máu lắng
- Xét nghiệm chức năng gan, xương và thận
Mặc dù các kết quả này không trực tiếp quyết định giai
đoạn bệnh nhưng sẽ giúp bác sĩ lựa chọn liệu pháp điều trị
BỆ NH HODGKIN 97
và gợi ý các xét nghiệm thăm dò thêm để xác định các vị trí
tổn thương khác.
Thăm dò hình ảnh
Sau khi chẩn đoán HD, các bác sĩ thường yêu cầu làm
thêm các thăm dò bổ sung như chụp X quang lồng ngực;
chụp cắt lớp ngực, ổ bụng và khung chậu. Ghi hình vùng cổ
ngày càng trở nên phổ biến. Ngoài chụp CT, chụp với
gallium hoặc PET cũng được khuyến cáo.
• Lồng ngực
Tất cả các bệnh nhân cần được chụp X quang lồng ngực
thẳng và nghiêng. Trước kia, chụp cắt lớp chỉ được thực
hiện khi chụp X quang cho kết quả bình thường để phát
hiện các hạch nhỏ có thể bị bỏ qua khi chụp X quang. Tuy
nhiên, chụp cắt lớp lồng ngực hiện nay được khuyến cáo cho
tất cả bệnh nhân mới mắc vì nó có thể phát hiện ra các bất
thường một cách chính xác hơn, giảm số lượng kết quả
dương tính giả và thường cung cấp cho bác sĩ tin để thay đổi
liệu pháp điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.
• Ổ bụng
Chụp cắt lớp được sử dụng rộng rãi để thay thế chụp
bạch mạch ở hai chân (tiêm thuốc cản quang vào bạch mạch
hai chân để làm hiện hình hạch và bạch mạch trên phim X
quang) để tìm tổn thương trong ổ bụng, do kỹ thuật này dễ
tiến hành và thuận tiện cho bệnh nhân hơn. Chụp bạch
mạch ở hai chân vẫn có thể được chỉ định cho bệnh nhân có
tổn thương dưới cơ hoành và đang được xem xét chiếu xạ,
vì nó cho phép bảo vệ mô lành một cách chính xác hơn.
98 HÃY CẢNH GIÁ C V ỚI B ỆNH UNG THƯ
• Lách
Mặc dù chụp cắt lớp có thể cung cấp thông tin chi tiết về
gan và lách, nhưng chẩn đoán HD ở lách vẫn rất khó khăn.
Chụp với đồng vị phóng xạ và chụp cộng hưởng từ cũng
không đủ độ tin cậy và chính xác để phát hiện tình trạng
tổn thương ở lách. Vì vậy, thủ thuật mở bụng để phân giai
đoạn được chỉ định cho các trường hợp trong đó các biện
pháp điều trị có thể thay đổi tuỳ thuộc vào tình trạng tổn
thương lách.
• Gan
Tổn thương gan gặp ở gần 5% các trường hợp bị HD.
Tổn thương thường là rất nhỏ, không nhìn được bằng mắt
thường, do vậy việc chẩn đoán trở nên khó khăn. Các
hướng dẫn hiện nay khuyến cáo phải sử dụng tối thiểu
hai kỹ thuật hiện hình để chẩn đoán các đa tổn thương do
HD ở gan.
• Xương
Tổn thương xương hiếm gặp ở thời điểm chẩn đoán HD,
nó xuất hiện quá trình tiến triển bệnh ở 20% bệnh nhân. Khi
bệnh nhân bị đau xương hoặc đau khớp hoặc khi có các kết
quả cận lâm sàng đặc hiệu hoặc khi nghi có các vùng tổn
thương ở xương trên phim CT hoặc X quang thường quy,
các bác sĩ thường chỉ định làm hình xạ hương.
• Ống tiêu hóa
HD hiếm khi xuất hiện ở ống tiêu hóa. Nếu nghi có tổn
thương ở ống tiêu hóa, người bệnh sẽ được chụp ống tiêu
BỆ NH HODGKIN 99
hóa có bơm barium để phát hiện, sau đó được nội soi và
sinh thiết để khẳng định chẩn đoán.
• Hệ thần kinh trung ương
Tổn thương ở hệ thần kinh trung ương hiếm khi gặp ở bệnh
nhân bị bệnh Hodgkin. Có thể có tổn thương não hoặc tuỷ
sống.
Bác sĩ có thể xác định chẩn đoán dựa vào chụp X quang
thẳng, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ và xét nghiệm dịch
não tuỷ.
Có một số thuật ngữ liên quan đến các tiêu chuẩn phân
giai đoạn là:
− Hạch bạch huyết “vùng”: một vùng hạch bạch huyết và
mô lân cận; ví dụ hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn hoặc
hạch trung thất trong lồng ngực.
− Các cấu trúc ngoài hạch: các cơ quan hoặc các cấu trúc
thuộc hệ bạch huyết, ví dụ như lách, tuỷ xương và
tuyến ức.
− Cơ hoành: Một cơ rộng ngăn cách khoang lồng ngực và
khoang bụng.
Các giai đoạn
Giai đoạn I - Chỉ có tổn thương bệnh ở một vùng hạch
hoặc một cấu trúc ngoài hạch.
Giai đoạn II - Tổn thương từ 2 vùng hạch hoặc cấu trúc
hạch trở lên nhưng ở về một phía của cơ hoành.
100 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn III - Tổn thương các vùng hạch hoặc cấu trúc
hạch ở cả hai phía của cơ hoành.
Giai đoạn IV - Tổn thương lan rộng nhiều cơ quan và các
mô ngoài các vùng hạch hoặc cấu trúc hạch, ví dụ gan, phổi
hoặc tuỷ xương.
Xác định dưới nhóm
Các tiêu chuẩn bổ sung giúp bác sĩ tiếp tục xác định các
dưới nhóm trong một giai đoạn gồm:
− Các triệu chứng như sốt không rõ nguyên nhân, ra mồ
hôi ban đêm hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân
trong vòng 6 tháng trước khi chẩn đoán. Chữ cái “A”
(ví dụ giai đoạn IIA) có nghĩa là không có các triệu
chứng này. Chữ cái “B” (ví dụ giai đoạn IIIB) có nghĩa
là có các triệu chứng này;
− Tình trạng lan tại chỗ của bệnh từ một vùng hạch hoặc
cấu trúc hạch tới mô lân cận hoặc liền kề ở cùng một
vùng của cơ thể được biểu diễn bằng chữ cái “e”, (ví dụ
giai đoạn IIe);
− Tổn thương ở lách được biểu diễn bằng chữ cái “s” (ví
dụ giai đoạn IIIs);
− Tình trạng “bệnh lan rộng”, khi mô ung thư có kích
thước lớn, được biểu diễn bằng chữ cái x.
Ví dụ, một bệnh nhân bị bệnh Hodgkin có tổn thương
hạch cổ, hạch trung thất và hạch bẹn (có nghĩa là cả trên và
BỆ NH HODGKIN 101
dưới cơ hoành) đồng thời có các triệu chứng như sốt, ra mồ
hôi vào ban đêm và giảm cân (các triệu chứng toàn thân),
được xếp vào giai đoạn IIIB.
5. Ung thư Hodgkin được điều trị như thế nào? Tác
dụng phụ của điều trị là gì?
Các phương thức điều trị chính cho bệnh Hodgkin là hóa
chất và chiếu xạ. Người ta sử dụng các hóa chất mạnh để tiêu
diệt tế bào ung thư và đo liều chiếu xạ rất kỹ càng. Trước khi
điều trị bác sỹ sẽ thảo luận với bệnh nhân về tác dụng phụ
đặc trưng của hóa chất, của chiếu xạ và phác đồ điều trị điển
hình.
Quyết định sử dụng hóa chất hoặc chiếu xạ hoặc cả hai
biện pháp điều trị phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn của
bệnh. Nguyện vọng của bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của
phương pháp điều trị cũng là một căn cứ quan trọng trong
quyết định lựa chọn biện pháp điều trị.
Giai đoạn I hoặc II
Khi bệnh ở giai đoạn I hoặc II, bác sĩ có thể yêu cầu xét
nghiệm bổ sung để xác định lựa chọn điều trị phù hợp nhất.
Bệnh nhân có thể tiếp tục được phân loại thành các nhóm: có
diễn biến rất thuận lợi, có diễn biến thuận lợi và có diễn biến
không thuận lợi. Những bệnh nhân thuộc nhóm có diễn biến
không thuận lợi có khả năng bị bệnh nặng hơn, nhưng vẫn
còn ở giai đoạn bệnh sớm nhất. Việc chia nhóm như vậy
giúp bác sĩ tìm ra lựa chọn điều trị phù hợp nhất cho bệnh
nhân giai đoạn sớm.
102 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Các tiêu chuẩn được sử dụng để xác định bệnh giai đoạn
I hoặc II có diễn biến thuận lợi hoặc không thuận lợi bao
gồm tình trạng có u lớn trong lồng ngực, số lượng vùng
hạch tổn thương, độ tuổi của bệnh nhân, có triệu chứng
lâm sàng hoặc bất thường về tốc độ lắng máu đặc hiệu.
Quyết định điều trị tuỳ thuộc vào diễn biến của bệnh là
thuận lợi hay không.
Bệnh diễn biến thuận lợi
Có một số lựa chọn điều trị cho bệnh nhân giai đoạn I
hoặc II có bệnh diễn biến thuận lợi hoặc rất thuận lợi. Như
trên đã nêu, một số bệnh nhân có thể được chỉ định mở ổ
bụng để phân giai đoạn giúp khẳng định chắc chắn là bệnh
chưa lan. Nếu vậy, bệnh nhân có thể được chiếu xạ vào
vùng tổn thương.
Đối với bệnh nhân không được mở ổ bụng, các lựa chọn
điều trị bao gồm hóa chất phối hợp với chiếu xạ hoặc chiếu
xạ đơn độc. Điều trị phối hợp hóa chất với chiếu xạ cho tỷ lệ
tái phát thấp hơn, nhưng thường có độc tính cao hơn. Nguy
cơ tái phát cao hơn sau chiếu xạ đơn độc, nhưng bệnh nhân
tái phát sau chiếu xạ đơn độc có thể dễ điều trị hơn so với
bệnh nhân tái phát sau điều trị phối hợp hóa chất và chiếu
xạ. Bệnh nhân và bác sĩ phải thảo luận thật kỹ càng các lựa
chọn điều trị này, vì nguyện vọng của bệnh nhân đối với
nguy cơ tái phát và tác dụng phụ của điều trị đóng vai trò
quan trọng trong việc quyết định.
Bệnh diễn biến không thuận lợi
BỆ NH HODGKIN 103
Bệnh nhân giai đoạn I hoặc II có bệnh diễn biến không
thuận lợi thường được điều trị bằng cả hóa chất và chiếu xạ.
Giai đoạn IIIA
Ở giai đoạn này tỷ lệ chữa khỏi bệnh ban đầu có thể đạt
60-80% chỉ bằng phương pháp chiếu xạ vào tất cả các hạch
mà không dùng hóa chất. Tuy nhiên, do nguy cơ tái phát
sau điều trị như vậy lên tới 50% nên hóa chất thường được
sử dụng phối hợp. Trong một số trường hợp, các bệnh nhân
này được điều trị bằng hóa chất đơn độc. Quyết định điều
trị phụ thuộc vào nguyện vọng của bệnh nhân về thời gian
điều trị, tác dụng mong đợi và các độc tính có thể gặp. Một
số thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ tái phát giảm khi
bệnh nhân điều trị bằng chiếu xạ phối hợp với hóa chất so
với bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất đơn độc, nhưng
không một thử nghiệm nào trong số này cho thấy sự khác
biệt về tỷ lệ sống sót.
Giai đoạn IIIB
Thông thường những bệnh nhân này được điều trị bằng
hóa chất đơn độc. Trong một số trường hợp có thể chiếu xạ
vào vùng có khối u lớn hoặc vào những vùng không đáp
ứng hoàn toàn với hóa chất.
Giai đoạn IV
Điều trị tương tự như giai đoạn IIIB, chủ yếu là bằng hóa
chất đơn độc. Một số trường hợp nhất định có thể chiếu xạ.
Ghép tuỷ xương
104 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Truyền tế bào mầm tự thân sau khi dùng hóa chất liều
cao là phương thức điều trị hiệu quả cho bệnh nhân tái phát
sau điều trị hóa chất hoặc hóa chất phối hợp với chiếu xạ
ban đầu. Ghép tủy xương (còn gọi là cấy tế bào tạo máu) là
biện pháp điều trị trong đó người ta sử dụng hóa chất hoặc
chiếu xạ liều rất cao để diệt các tế bào ung thư, nhưng cũng
huỷ hoại các tế bào máu còn rất non (tế bào mầm) hình
thành trong tuỷ xương. Điều này khiến cho cơ thể tạm thời
không thể sản xuất được hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu đủ
số lượng cần thiết. Các tế bào mầm mới được cấy vào bệnh
nhân để khôi phục chức năng tạo máu của tuỷ xương
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân u lymphô Hodgkin nên khám theo dõi định
kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan
trọng trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận
ngay với bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh
nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức
khỏe cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái
phát có thể được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các
đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u lymphô Hodgkin
nên thông báo với bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe
ngay khi chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tuyến Tiền Liệt
1. Tuyến tiền liệt là gì?
Tuyến tiền liệt là một tuyến trong hệ cơ quan sinh dục
nam. Nó sản xuất và chứa đựng tinh dịch, một loại dịch màu
trắng sữa nuôi dưỡng tinh trùng. Dịch này được tiết ra để
góp phần cấu thành tinh dịch.
Tuyến tiền liệt có kích thước gần bằng quả óc chó. Nó
nằm dưới bàng quang và phía trước trực tràng. Nó bao
quanh phần trên niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang
ra ngoài). Nếu tuyến tiền liệt phát triển quá to, chèn ép lên
niệu đạo làm dòng nước tiểu thoát ra ngoài có thể bị chậm
lại hoặc bị dừng lại.
Để hoạt động bình thường, tuyến tiền liệt cần có hoóc-
môn sinh dục nam (các androgen). Hoóc-môn sinh dục nam
quy định đặc tính của nam giới. Hoóc-môn sinh dục nam
chủ yếu là testosteron, chủ yếu do tinh hoàn sản xuất ra. Các
106 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
tuyến thượng thận sản xuất một lượng nhỏ một số hoóc-
môn sinh dục nam.
2. Ung thư tuyến tiền liệt là gì?
Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư biểu mô tuyến,
chủ yếu là loại biệt hóa tốt. Ung thư nguyên phát tuyến
tiền liệt có thể gồm một hoặc nhiều ổ. Khoảng 50% số bệnh
nhân khi chẩn đoán đã có di căn xa, thường hay gặp là di
căn vào xương.
Nhờ nghiên cứu mà hiểu biết của chúng ta về ung thư
tuyến tiền liệt ngày càng được tăng lên. Các nhà nghiên cứu
đang tìm hiểu về những nguyên nhân có thể gây ra ung thư
tuyến tiền liệt và tìm kiếm những phương pháp mới để
phòng chống, phát hiện, chẩn đoán và điều trị căn bệnh này.
Nhờ có những nghiên cứu này, nguy cơ tử vong do ung thư
tuyến tiền liệt ở nam giới hiện nay đã giảm xuống.
3. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến tiền liệt là
gì?
Nguyên nhân gây ra ung thư tuyến tiền liệt chưa được
xác định rõ. Bác sĩ không thể giải thích tại sao người đàn ông
này bị ung thư tuyến tiền liệt nhưng người đàn ông khác lại
không bị.
Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu các yếu tố có thể
làm tăng nguy cơ mắc loại ung thư này. Họ đã chỉ ra
những yếu tố nguy cơ dưới đây có liên quan tới ung thư
tuyến tiền liệt:
UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 107
Độ tuổi. Ở Mỹ ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện chủ
yếu ở những nam giới trên 55 tuổi. Độ tuổi trung bình của
bệnh nhân khi chẩn đoán bệnh là 70 tuổi.
Tiền sử gia đình có ung thư tuyến tiền liệt. Nguy cơ ung
thư tuyến tiền liệt ở một người đàn ông tăng lên khi bố hoặc
anh em trai của người đó bị mắc loại ung thư này.
Chủng tộc. Loại ung thư này ở những nam giới người Mỹ
gốc Phi thường gặp hơn so với người da trắng. Bệnh ít gặp
hơn ở những nam giới gốc da đỏ và người châu Á.
Chế độ ăn uống và các yếu tố dinh dưỡng. Một số bằng
chứng cho thấy rằng chế độ ăn có hàm lượng mỡ động vật
cao có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền
liệt còn chế độ ăn có nhiều rau và trái cây tươi có thể làm
giảm nguy cơ phát triển loại ung thư này. Các nghiên cứu
đang được tiến hành để tìm hiểu xem có thể làm giảm
nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới bằng cách
bổ sung thêm một số chất vào chế độ ăn hay không.
Mặc dù một vài nghiên cứu đề xuất việc thắt ống dẫn
tinh có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến
tiền liệt ở nam giới, nhưng hầu hết các nghiên cứu không
ủng hộ điều này. Các nhà khoa học đã nghiên cứu những
yếu tố như tăng sản tuyến tiền liệt lành tính, béo phì, ít
tập thể dục, hút thuốc lá, tiếp xúc với chất phóng xạ hoặc
các loại virút lây qua đường tình dục có làm tăng nguy cơ
phát triển ung thư tuyến tiền liệt không. Hiện nay có rất
ít bằng chứng chứng tỏ những yếu tố này làm tăng nguy
cơ mắc bệnh.
108 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
4. Ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt là gì?
Những xét nghiệm sau đây được sử dụng để phát hiện
các bất thường ở tuyến tiền liệt, nhưng chúng không thể
quyết định rằng những triệu chứng bất thường đó là ung th-
ư hay do một bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Bác sĩ
sẽ xem xét các kết quả xét nghiệm và cân nhắc việc quyết
định khám thăm dò tìm thêm triệu chứng ung thư của bệnh
nhân. Bác sĩ có thể giải thích thêm về các xét nghiệm.
Thăm trực tràng. Bác sĩ dùng một ngón tay đi găng và
được bôi trơn vào trực tràng thăm tuyến tiền liệt qua thành
trực tràng để kiểm tra những vùng bị cứng hoặc nổi cục.
Xét nghiệm máu định lượng kháng nguyên đặc hiệu tuyến
tiền liệt (PSA). Nồng độ PSA trong máu có thể tăng lên ở
những người bị ung thư tuyến tiền liệt, phì đại lành tính
hoặc nhiễm khuẩn tuyến tiền liệt.
Triệu chứng
Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm thường không có
triệu chứng. Nhưng ung thư tuyến tiền liệt có thể gây ra
những triệu chứng sau:
- Đái rắt, đặc biệt là vào ban đêm.
- Bí đái hoặc đi tiểu không hết bãi
- Không tiểu tiện được
- Dòng nước tiểu yếu hoặc ngắt quãng
- Đau và rát khi đi tiểu
UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 109
- Khó cương
- Đau khi xuất tinh
- Có máu trong nước tiểu hoặc trong tinh dịch
- Thường bị đau và co cứng ở phần dưới lưng, mông và
phần trên đùi.
Bất kỳ triệu chứng nào trong số này có thể do ung thư
hay bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra, chẳng hạn như
phì đại lành tính tuyến tiền liệt hoặc nhiễm khuẩn. Khi một
nam giới có những triệu chứng giống như vậy thì nên đến
bác sĩ khám hoặc đến bác sĩ chuyên khoa tiết niệu.
5. Ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán như thế nào?
Nếu một người có những triệu chứng hay kết quả xét
nghiệm nghi ung thư tuyến tiền liệt, khi đến khám bác sĩ sẽ
tìm hiểu về bệnh sử, tiền sử cá nhân và gia đình, tiến hành
khám và có thể chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng. Thăm
khám và xét nghiệm có thể bao gồm thăm trực tràng, xét
nghiệm nước tiểu để kiểm tra xem có máu hay có bị nhiễm
khuẩn không và xét nghiệm máu để đo nồng độ PSA. Trong
một số trường hợp bác sĩ còn có thể đo nồng độ
phosphataza acid tuyến tiền liệt (PAP) trong máu đặc biệt là
khi kết quả xét nghiệm PSA nghi có bất thường.
Bác sĩ có thể thăm dò thêm để tìm nguyên nhân gây ra
triệu chứng. Những xét nghiệm này bao gồm:
− Siêu âm qua trực tràng. Những sóng âm mà con người
không thể nghe thấy (siêu âm) được phát ra từ một đầu
110 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
dò đưa vào trực tràng. Những sóng âm này phản hồi
lại để ghi lại thành hình ảnh của tuyến tiền liệt và máy
vi tính sử dụng hình ảnh được dội lại này để tạo nên
một hình ảnh siêu âm.
− Phim chụp bể thận-tiết niệu có tiêm thuốc cản quang tĩnh
mạch
− Soi bàng quang cho phép bác sĩ quan sát niệu đạo và
bàng quang qua một ống soi nhỏ có nguồn sáng.
Sinh thiết
Nếu kết quả xét nghiệm nghi có ung thư bệnh nhân sẽ
cần phải được tiến hành sinh thiết. Trong quá trình sinh
thiết bác sĩ cắt mẫu mô ở tuyến tiền liệt, thường là bằng kim.
Bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát những mô này dưới kính
hiển vi để tìm tế bào ung thư. Nếu có ung thư bác sĩ thường
thông báo mức độ của khối u. Mức độ khối u cho chúng ta
biết mức độ mô ung thư khác mô thường như thế nào và tốc
độ phát triển của khối u. Một cách phân mức độ ung thư
tuyến tiền liệt, được gọi là hệ thống Gleason, sử dụng thang
điểm từ 2 đến 10. Một hệ thống khác sử dụng từ G1 đến G4.
Khối u có mức điểm cao hơn thì khả năng phát triển và lan
nhanh hơn những khối u có mức điểm thấp hơn.
Nếu kết quả thăm khám và xét nghiệm không phải ung
thư, bác sĩ có thể chỉ định thuốc để làm giảm triệu chứng
do hiện tượng tuyến tiền liệt to lên gây ra. Phẫu thuật
cũng là một cách làm giảm bớt những triệu chứng này.
Phẫu thuật thường được sử dụng nhất là cắt tuyến tiền liệt
qua đường niệu đạo (TURP hay TUR). Khi tiến hành TURP,
UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 111
một dụng cụ được đưa qua niệu đạo để cắt bỏ phần mô
tuyến tiền liệt chèn lên phần trên niệu đạo và gây cản trở
dòng nước tiểu.
Các giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt
Nếu phát hiện ra ung thư ở tuyến tiền liệt, bác sĩ cần biết
giai đoạn hay phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là để tìm
xem ung thư đã lan ra chưa và nếu rồi thì lan tới bộ phận
nào của cơ thể. Bác sĩ tiến hành nhiều xét nghiệm máu và
thăm dò hình ảnh khác nhau để xác định được giai đoạn của
bệnh. Việc điều trị phụ thuộc vào những phát hiện này.
Xác định giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt là một quá
trình phức tạp. Bác sĩ có thể mô tả các giai đoạn bằng cách
sử dụng chữ số La mã (I-IV) hay chữ in (A-D). Dưới đây là
những biểu hiện chính của từng giai đoạn:
− Giai đoạn I hay giai đoạn A. Không phát hiện ra ung thư
khi thăm trực tràng. Có thể tình cờ phát hiện ra khi tiến
hành phẫu thuật vì lý do khác, thường là phẫu thuật để
điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Không có bằng
chứng cho thấy ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt.
− Giai đoạn II hay giai đoạn B. Khối u đã lan tỏa nhiều hơn
trong mô tuyến tiền liệt, có thể phát hiện ra khi thăm
trực tràng, cũng có thể phát hiện ra khi tiến hành sinh
thiết do nồng độ PSA cao. Không có bằng chứng cho
thấy ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt
− Giai đoạn III hay giai đoạn C. Ung thư đã lan ra ngoài
tuyến tiền liệt tới các mô lân cận.
112 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
− Giai đoạn IV hay giai đoạn D. Ung thư đã lan vào hạch và
các bộ phận khác của cơ thể.
6. Ung thư tuyến tiền liệt được điều trị như thế
nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Các phương pháp điều trị
Có thể điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng những
phương pháp như: chờ đợi có theo dõi, phẫu thuật, tia xạ trị
liệu, liệu pháp hoóc-môn. Một số bệnh nhân được điều trị
bằng cách phối hợp các biện pháp. Bên cạnh đó, bác sĩ cũng
đang nghiên cứu các phương pháp điều trị khác có thể chữa
trị hiệu quả căn bệnh này.
Chờ đợi có theo dõi có thể được chỉ định cho một số
bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện ra ở giai
đoạn sớm và bệnh phát triển chậm. Việc theo dõi và chờ đợi
nên áp dụng cho bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân có những
tình trạng bệnh nghiêm trọng khác. Đối với những bệnh
nhân này, nguy cơ rủi ro và tác dụng phụ của phẫu thuật, tia
xạ trị liệu, liệu pháp hoóc-môn có thể vượt qua những lợi ích
có thể đem lại. Những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt ở
giai đoạn sớm đang tham gia vào nghiên cứu để xác định
xem khi nào cần điều trị và dùng phương pháp điều trị nào
thì có hiệu quả.
Phẫu thuật là phương pháp thường được sử dụng để
điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm. Bác sĩ có thể
cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt (gọi là phẫu thuật cắt bỏ tuyến
tiền liệt triệt để) hay chỉ cắt bỏ một phần. Trong một số
UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 113
trường hợp, bác sĩ có thể sử dụng một kỹ thuật mới được
gọi là phẫu thuật giữ lại dây thần kinh. Loại phẫu thuật này
có thể giữ lại những dây thần kinh điều khiển sự cương d-
ương vật. Tuy nhiên, bệnh nhân có khối u lớn hoặc khối u
quá gần dây thần kinh có thể không thể thực hiện được loại
phẫu thuật này.
Bác sĩ có thể mô tả các loại phẫu thuật, thảo luận và so
sánh lợi ích và nguy cơ của chúng.
- Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để qua ổ bụng: bác sĩ
cắt toàn bộ tuyến tiền liệt và các hạch lân cận qua đường ổ
bụng.
- Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để qua tầng sinh môn,
bác sĩ cắt toàn bộ tuyến tiền liệt qua một vết rạch giữa bìu và
hậu môn. Đôi khi các hạch lân cận được cắt bỏ qua một vết
rạch riêng ở ổ bụng.
- Phẫu thuật cắt tuyền tiền liệt qua niệu quản (TURP), bác sĩ
cắt một phần tuyến tiền liệt bằng một dụng cụ đưa qua niệu
đạo. Ung thư được cắt bỏ khỏi tuyến tiền liệt bằng một dòng
điện truyền qua một vòng dây nhỏ ở đầu của dụng cụ đó.
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để cắt bỏ phần mô
cản trở dòng nước tiểu.
Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện ra tế bào ung thư
trong hạch thì có khả năng bệnh đã lan sang các bộ phận
khác của cơ thể. Đôi khi bác sĩ tiến hành vét hạch trước
khi tiến hành cắt bỏ tuyến tiền liệt. Nếu ung thư tuyến
tiền liệt chưa lan vào hạch, bác sĩ có thể cắt bỏ tuyến tiền
liệt. Nếu ung thư đã lan vào hạch, tuyến tiền liệt có thể
114 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
không được cắt bỏ nhưng bác sỹ có thể gợi ý các phương
pháp điều trị khác.
Tia xạ trị liệu (còn được gọi là liệu pháp phóng xạ) là
cách điều trị có sử dụng tia X có năng lượng cao để tiêu diệt
tế bào ung thư. Giống như phẫu thuật, tia xạ trị liệu là một
phương pháp điều trị tại chỗ, nó chỉ ảnh hưởng tới những tế
bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Đối với ung thư tuyến tiền liệt
giai đoạn sớm, tia xạ có thể được dùng thay cho phẫu thuật
hoặc được sử dụng sau phẫu thuật để tiêu diệt tất cả tế bào
ung thư còn sót lại trong vùng điều trị. Ở giai đoạn muộn nó
có thể được sử dụng để giảm đau hay làm nhẹ các triệu
chứng khác.
Tia phóng xạ có thể do một máy chiếu trực tiếp vào cơ
thể (chiếu xạ ngoài) hay nó có thể phát ra từ những hạt
phóng xạ nhỏ đặt ở bên trong hay gần khối u (chiếu xạ
trong hay chiếu xạ áp sát). Bệnh nhân có những khối u nhỏ
thường được điều trị bằng hạt phóng xạ trong đơn độc.
Một số bệnh nhân được điều trị bằng cả chiếu xạ trong và
chiếu xạ ngoài.
Đối với chiếu xạ ngoài, bệnh nhân đến điều trị tại bệnh
viện hoặc phòng khám 5 ngày mỗi tuần trong vài tuần. Bệnh
nhân có thể nằm viện trong một thời gian ngắn khi mang
nguồn xạ trong cơ thể.
Liệu pháp hoóc-môn ngăn cản tế bào ung thư lấy hoóc-
môn sinh dục nam cần thiết để chúng phát triển. Phương
pháp này được gọi là phương pháp điều trị toàn thân bởi nó
tác dụng lên toàn bộ các tế bào ung thư trong cơ thể và được
sử dụng để điều trị ung thư đã lan. Đôi khi phương pháp
UNG THƯ TUYẾ N T IỀ N L IỆ T 115
này được sử dụng để phòng ngừa ung thư tái phát sau phẫu
thuật hay sau điều trị bằng tia phóng xạ.
Có một vài dạng hoóc-môn liệu pháp đựơc sử dụng để
điều trị ung thư tuyến tiền liệt:
- Cắt bỏ tinh hoàn là phẫu thuật nhằm lấy đi nguồn sản
xuất chính của hoóc-môn sinh dục nam.
- Những loại thuốc gây bài tiết hoóc-môn giải phóng
hoóc-môn tạo hoàng thể (LH-RH) có thể ngăn chặn tinh
hoàn sản xuất testosteron. Ví dụ như leuprolid, goserelin và
buserelin.
- Những loại thuốc kháng các androgen có thể ngăn cản
hoạt động của hoóc-môn nam. Hai ví dụ là flutamid và
bicalutamid.
- Những loại thuốc có thể ngăn chặn tuyến thượng thận
sản xuất androgen bao gồm ketoconazol và aminoglutethimid
Sau phẫu thuật cắt tinh hoàn hay điều trị bằng một thuốc
kích thích LH-RH, cơ thể không còn testosteron do tinh hoàn
tiết ra nữa. Tuy nhiên các tuyến thượng thận vẫn sản xuất
một lượng nhỏ hoóc-môn nam. Đôi khi bệnh nhân còn được
dùng một loại thuốc kháng androgen, loại thuốc này sẽ ngăn
cản tác dụng của các hoóc-môn nam còn sót lại. Phương
pháp phối hợp các biện pháp điều trị này được gọi là
Phương pháp chẹn androgen toàn bộ. Bác sĩ không biết chắc
chắn liệu điều trị bằng phương pháp chẹn androgen toàn bộ
có hiệu quả hơn việc điều trị đơn độc hoặc bằng phương
pháp phẫu thuật cắt tinh hoàn hoặc bằng thuốc kích thích
LR-RH hay không.
116 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Ung thư tuyến tiền liệt khi đã lan sang các bộ phận khác
có thể kiểm soát được bằng liệu pháp hoóc-môn trong một
thời gian, thường là trong vài năm. Tuy nhiên, cuối cùng
thì phần lớn các khối ung thư tuyến tiền liệt vẫn có thể
phát triển khi không có hoặc có rất ít hoóc-môn nam. Khi
điều này xảy ra, liệu pháp hoóc-môn không còn hiệu quả
nữa và bác sĩ có thể gợi ý các dạng điều trị đang được
nghiên cứu khác.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Trong và sau khi điều trị, bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi bệnh
nhân. Bác sĩ sẽ khám cho bệnh nhân định kỳ để chắc chắn
bệnh không xuất hiện trở lại hay tiến triển và sẽ quyết định
liệu có cần thêm một phương pháp điều trị nào khác nữa
hay không. Khám theo dõi có thể bao gồm chụp X quang,
chụp cắt lớp vi tính và xét nghiệm cận lâm sàng, ví dụ định
lượng PSA máu.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Não
1. Ung thư não là gì?
Ung thư não là khái niệm chung để chỉ các khối u ác tính
ở não chứa các tế bào ung thư. Chúng ảnh hưởng đến các
chức năng sống và gây nguy hiểm cho tính mạng. Các khối
u này thường lớn lên nhanh và xâm lấn vào mô lân cận.
Cũng giống như một loại cây, các khối u này có thể “mọc rễ”
vào mô lành của não. Nếu khối u ác tính ở não là rắn và
không có rễ, đó là khối u có vỏ bọc. Khi có một khối u ở
vùng điều hành chức năng sống của não và ảnh hưởng đến
các chức năng này thì chúng cũng có thể được coi là khối u
ác tính (mặc dù chúng không chứa tế bào ung thư).
2. Các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân của ung thư não là gì?
Nguyên nhân gây ra u não chưa được xác định. Các
nhà nghiên cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này. Họ
càng tìm hiểu được nhiều về các nguyên nhân gây ra u
118 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
não thì cơ hội tìm ra các cách phòng chống càng lớn. Bác sĩ
không thể giải thích tại sao người này bị u não nhưng
người khác lại không bị, nhưng các nhà nghiên cứu biết
rằng không ai bị lây u não từ một người khác. U não
không phải là bệnh truyền nhiễm.
Mặc dù các khối u não có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, các
nghiên cứu cho thấy chúng phổ biến nhất ở hai nhóm tuổi.
Nhóm thứ nhất là trẻ em từ 3 đến 12 tuổi; nhóm thứ hai là ở
người lớn từ 40 đến 70 tuổi.
Bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn bệnh nhân ung
thư, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố nguy cơ
nhất định có thể làm tăng nguy cơ phát triển u não. Người
có những yếu tố nguy cơ này có tỷ lệ bị u não cao hơn mức
trung bình. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy một số loại u não
thường xuất hiện hơn ở những công nhân trong một số
ngành công nghiệp nhất định như lọc dầu, sản xuất cao su
và sản xuất dược phẩm. Các nghiên cứu khác cho thấy, các
nhà hóa học và những người làm nghề ướp xác có tỷ lệ u
não cao hơn. Các nhà nghiên cứu cũng đang xem xét việc
tiếp xúc với virút có thể là một nguyên nhân gây u não hay
không. Vì đôi khi một số thành viên trong cùng một gia đình
có thể bị u não, các nhà nghiên cứu cũng đang nghiên cứu
tiền sử gia đình để xem yếu tố di truyền có phải là nguyên
nhân hay không. Hiện nay, các nhà khoa học không tin rằng
chấn thương ở đầu có thể dẫn đến u não.
Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân u não không có
yếu tố nguy cơ rõ ràng. Bệnh này có thể là kết quả của nhiều
yếu tố nguy cơ cùng tác động.
UNG THƯ NÃO 119
3. Ung thư não được phát hiện như thế nào? Triệu
chứng của ung thư não là gì?
Triệu chứng của u não phụ thuộc chủ yếu vào kích thước
và vị trí của khối u trong não. Triệu chứng xuất hiện do tổn
thương phần mô não điều khiển các chức năng sống quan
trọng hoặc do chèn ép não vì khối u phát triển trong khoảng
trống có giới hạn của hộp sọ. Các triệu chứng có thể do tình
trạng phù tổ chức xung quanh khối u hoặc do hiện tượng
não úng thuỷ tức là khối u cản trở dòng dịch não tuỷ và gây
ứ dịch trong não thất. Nếu khối u não phát triển chậm, triệu
chứng của chúng có thể xuất hiện một cách từ từ đến mức
chúng bị bỏ qua trong một thời gian dài.
Triệu chứng thường gặp nhất của u não bao gồm:
- Đau đầu, đặc biệt vào buổi sáng và đỡ dần trong ngày
- Co giật
- Buồn nôn hoặc nôn
- Yếu hoặc mất cảm giác ở tay hoặc chân
- Mất thăng bằng khi đi lại
- Cử động nhãn cầu bất thường hoặc thay đổi thị giác
- Buồn ngủ
- Thay đổi tính cách hoặc trí nhớ
- Thay đổi ngôn ngữ
Những triệu chứng này có thể do u não gây ra nhưng
cũng có thể do các bệnh khác gây ra. Chỉ có bác sĩ mới có thể
đưa ra chẩn đoán.
120 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Khối u não nguyên phát
Khối u bắt đầu ở mô não được gọi là khối u não nguyên
phát. Nó khác với khối u thứ phát là khối u xuất hiện khi ung
thư lan vào não. Khối u não nguyên phát được phân loại theo
loại mô nơi chúng xuất hiện. Loại u não thường gặp nhất là u
thần kinh đệm xuất phát từ mô đệm. Có nhiều loại u mô
đệm:
U tế bào hình sao xuất phát từ những tế bào nhỏ hình sao
(tiếng Anh gọi là astrocyt). Các u tế bào hình sao có thể phát
triển ở khắp mọi nơi trong não bộ hoặc tuỷ sống. Ở người
lớn u tế bào hình sao thường xuất hiện ở đại não. Ở trẻ em,
chúng xuất hiện ở thân não, đại não và tiểu não. U tế bào
hình sao cấp độ III có thể được gọi là u tế bào hình sao
không biệt hóa. U tế bào hình sao cấp độ IV thường được
gọi là u nguyên bào đệm nhiều dạng.
U thần kinh đệm ở thân não xuất hiện ở phần thân não.
Thân não kiểm soát nhiều chức năng sống quan trọng. Các
khối u ở vùng này nói chung không thể cắt bỏ được. Hấu hết
u thần kinh đệm thân não là u tế bào hình sao cấp độ cao.
U tế bào màng não thất thường phát triển trong lớp niêm
mạc lót não thất. Chúng còn có thể xuất hiện ở tuỷ sống.
Mặc dù chúng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi nhưng
thường gặp nhất ở trẻ em và thanh niên.
U tế bào thần kinh đệm có đuôi gai xuất hiện từ những tế
bào sản xuất myelin - lớp vỏ bọc mỡ bảo vệ dây thần kinh.
Những khối u này thường xuất hiện ở đại não. Chúng phát
triển chậm và thường không lan vào các mô não lân cận. U
UNG THƯ NÃO 121
thần kinh đệm có đuôi gai thường hiếm gặp. Chúng thường
gặp nhất ở lứa tuổi trung niên nhưng đã phát hiện ra các
trường hợp mắc loại ung thư này ở mọi lứa tuổi.
Còn có các loại u não khác không xuất phát từ mô đệm.
Một số loại ung thư thường gặp nhất được trình bày dưới
đây:
U nguyên tuỷ bào trước đây được cho là phát triển từ tế
bào đệm. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra những
khối u này phát triển từ những tế bào thần kinh nguyên
thuỷ, những tế bào này thông thường không còn lại trong cơ
thể sau khi đứa trẻ ra đời. Vì lý do này, u nguyên tuỷ bào
đôi khi còn được gọi là u tế bào thần kinh lá phôi ngoài
nguyên thuỷ (PNET). Hầu hết u nguyên tuỷ bào xuất hiện ở
tiểu não; tuy nhiên chúng cũng có thể xuất hiện ở các vùng
não khác. Những khối u này thường xuất hiện ở trẻ em và
thường gặp nhiều ở trẻ trai hơn trẻ gái.
U màng não phát triển ở màng não. Chúng thường là
những khối u lành tính. Bởi vì những khối u này phát triển
chậm, não có thể điều chỉnh theo chúng; u màng não thường
phát triển khá lớn trước khi chúng gây ra triệu trứng. Chúng
thường xuất hiện ở những phụ nữ trong độ tuổi 30-50.
U tế bào Schwann là những khối u lành tính xuất phát từ
những tế bào sợi thần kinh Schwann là tế bào sản xuất myelin
bảo vệ dây thần kinh thính giác. U dây thần kinh thính giác là
một loại u tế bào Schwann. Chúng chủ yếu xuất hiện ở người
lớn. Loại ung thư này gặp ở nữ giới nhiều gấp đôi nam giới.
122 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
U sọ-hầu phát triển ở vùng tuyến yên gần vùng dưới đồi
thị. Chúng thường là lành tính; tuy nhiên đôi khi chúng
được coi là ác tính bởi vì chúng có thể chèn ép lên hoặc huỷ
hoại vùng dưới đồi thị gây ảnh hưởng tới các chức năng
sống quan trọng của cơ thể. Những khối u này thường gặp
nhất ở trẻ em và thanh niên.
U tế bào mầm xuất phát từ những tế bào mầm (tế bào
sinh dục) nguyên thuỷ. Loại ung thư tế bào mầm trong não
thường gặp nhất là u tế bào mầm.
U vùng tuyến tùng xuất hiện ở trong hoặc xung quanh
tuyến tùng là một bộ phận nhỏ gần trung tâm não. Khối u có
thể là u tế bào tuyến tùng phát triển chậm hoặc u nguyên
bào tuyến tùng phát triển nhanh. Khu vực tuyến tùng là vị
trí rất khó tiếp cận và những khối u này thường không thể
cắt bỏ.
Khối u não thứ phát
Di căn là quá trình lan của ung thư. Ung thư xuất phát từ
một bộ phận khác của cơ thể có thể lan vào não và hình thành
khối u thứ phát. Những khối u này không giống như khối u
não nguyên phát. Ung thư lan vào não có cùng tên với ung
thư gốc (nguyên phát). Ví dụ, nếu ung thư phổi lan vào não
thì u ở não là ung thư phổi di căn bởi tế bào trong khối u thứ
phát là tế bào phổi bất thường chứ không phải tế bào não bất
thường.
Điều trị ung thư thứ phát tuỳ thuộc vào vị trí ung thư
nguyên phát và phạm vi lan cũng như các yếu tố khác bao
UNG THƯ NÃO 123
gồm độ tuổi, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân và
đáp ứng với điều trị trước đó.
4. Ung thư não được chẩn đoán như thế nào?
Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng, bác sĩ có thể
hỏi bệnh nhân về tiền sử cá nhân và gia đình, tiến hành
thăm khám toàn bộ. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu
sức khỏe chung, bác sĩ còn tiến hành khám thần kinh. Quá
trình này bao gồm việc kiểm tra sự tỉnh táo, sức mạnh của
cơ bắp, khả năng giữ thăng bằng, các phản xạ và đáp ứng
đau. Bác sĩ còn tiến hành khám mắt để tìm dấu hiệu phù nề
do khối u chèn lên dây thần kinh nối mắt với não.
Tuỳ thuộc vào kết quả khám lâm sàng và thần kinh, bác
sĩ có thể yêu cầu tiến hành một hoặc cả hai thăm dò dưới
đây:
Chụp cắt lớp vi tính là các phim chụp chi tiết não bộ.
Phim chụp này được tạo ra bằng một máy vi tính nối với
một máy chụp X quang. Trong một số trường hợp cần tiêm
thuốc vào tĩnh mạch trước khi chụp để làm hiển thị sự khác
biệt của các mô trong não.
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân tạo ra phim chụp não bộ
bằng cách nối một nam châm mạnh với một máy vi tính.
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân đặc biệt hữu ích khi chẩn
đoán u não bởi vì nó có thể nhìn xuyên qua xương sọ não để
quan sát các mô bên dưới. Một loại thuốc đặc biệt có thể
được sử dụng để làm tăng khả năng phát hiện ra khối u não.
Bác sĩ có thể yêu cầu tiến hành các xét nghiệm khác như:
124 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Chụp X quang hộp sọ có thể cho thấy những thay đổi
trong xương sọ do khối u gây ra. Nó cho thấy các lắng đọng
canxi có mặt trong một số loại u não.
Chụp xạ hình não hiển thị hình ảnh những khu vực phát
triển không bình thường ở não và ghi lại trên một loại phim
đặc biệt. Một lượng nhỏ chất phóng xạ được tiêm vào tĩnh
mạch. Chất này được khối u hấp thụ và mức độ hấp thụ
được hiển thị trên phim. Chất phóng xạ đi ra khỏi cơ thể
trong vòng sáu giờ và không nguy hiểm.
Chụp mạch hoặc chụp động mạch, là chụp bằng tia X sau
khi tiêm vào động mạch (thường là động mạch đùi) một loại
thuốc đặc biệt. Thuốc đi đến mạch máu não và có thể quan
sát trên phim X quang. Có thể thấy được hình ảnh khối u và
các mạch máu đi đến khối u.
Chụp X quang tuỷ sống. Một loại thuốc đặc biệt được
tiêm vào dịch não tuỷ và bệnh nhân được đặt nghiêng để
thuốc hòa vào dịch não tuỷ. Có thể thực hiện thăm dò này
khi bác sĩ nghi ngờ có khối u ở tuỷ sống.
5. Ung thư não được điều trị như thế nào? Tác dụng
phụ của điều trị là gì?
Các phương pháp điều trị
Các khối u não được điều trị bằng phẫu thuật, xạ trị và
hóa chất, có thể sử dụng nhiều biện pháp. Bệnh nhân có thể
được gửi đến các bác sĩ chuyên về các lĩnh vực khác nhau và
các bác sĩ này phối hợp với nhau trong điều trị. Đội ngũ các
bác sĩ chuyên khoa thường có bác sĩ phẫu thuật thần kinh,
UNG THƯ NÃO 125
bác sĩ ung thư nội khoa, bác sĩ tia xạ ung thư, y tá, chuyên
gia dinh dưỡng và người làm công tác xã hội. Bệnh nhân có
thể làm việc với một bác sĩ vật lý trị liệu, chuyên gia chữa
bệnh bằng lao động và bác sĩ chuyên khoa ngôn ngữ.
Trước khi bắt đầu điều trị, hầu hết bệnh nhân được dùng
steroid là thuốc làm giảm phù nề. Bệnh nhân còn có thể
được dùng thuốc chống co giật để phòng chống hoặc kiểm
soát các cơn co giật. Nếu xuất hiện não úng thuỷ thì bệnh
nhân sẽ được làm một đường nối tắt (tiếng anh gọi là shunt)
để dẫn lưu dịch não tuỷ. Đường nối tắt là một ống dài và
mảnh được đặt vào não thất và sau đó đi dưới da tới một bộ
phận khác của cơ thể, thường là ổ bụng. Nó hoạt động như
một ống dẫn: Dịch thừa được dẫn ra khỏi não và được hấp
thụ trong vùng bụng. (Trong một số trường hợp, dịch thừa
được dẫn vào tim.)
Phẫu thuật là phương pháp điều trị thường được sử
dụng cho hầu hết các trường hợp u não. Để cắt bỏ khối u,
bác sĩ phẫu thuật thần kinh phải mở hộp sọ.
Bất cứ khi nào có thể, bác sĩ phẫu thuật cố gắng cắt bỏ
toàn bộ khối u. Tuy nhiên, nếu không thể cắt bỏ toàn bộ khối
u mà không làm tổn thương tới các mô não quan trọng thì
bác sĩ sẽ cố gắng cắt bỏ khối u càng nhiều càng tốt. Cắt bỏ
một phần khối u giúp làm giảm triệu chứng do làm giảm sự
chèn ép lên não và làm giảm khối lượng khối u được điều trị
bằng tia phóng xạ hoặc hóa chất.
Một số khối u không thể cắt bỏ. Trong những trường hợp
như vậy, bác sĩ chỉ có thể tiến hành sinh thiết. Một mảnh
126 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khối u nhỏ được cắt ra để bác sĩ giải phẫu bệnh có thể quan
sát dưới kính hiển vi nhằm xác định loại tế bào trong khối u.
Việc này giúp bác sĩ quyết định nên sử dụng phương pháp
điều trị nào.
Đôi khi, sinh thiết được thực hiện bằng kim. Bác sĩ còn sử
dụng một dụng cụ dạng khung đội đầu đặc biệt và chụp cắt
lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ hạt nhân để xác định vị
trí chính xác của khối u. Bác sĩ phẫu thuật mở một lỗ nhỏ ở
hộp sọ và sau đó hướng mũi kim vào khối u (định hướng
không gian).
Tia xạ trị liệu sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu
diệt tế bào ung thư và ngăn không cho chúng phát triển. Nó
thường được sử dụng để tiêu diệt phần mô ung thư không
cắt bỏ được khi phẫu thuật hoặc là để tiêu diệt tế bào ung
thư còn sót lại sau khi phẫu thuật. Xạ trị còn được sử dụng
khi không thể tiến hành phẫu thuật.
Xạ trị có thể thực hiện theo hai cách. Chiếu xạ ngoài xuất
phát từ một máy lớn. Nói chung, chiếu xạ ngoài được tiến
hành 5 ngày mỗi tuần trong vài tuần. Kế hoạch điều trị phụ
thuộc vào loại và kích thước của khối u và độ tuổi của bệnh
nhân. Tổng liều chiếu xạ đạt được sau một thời gian kéo dài
giúp bảo vệ các mô lành trong khu vực có khối u.
Phóng xạ có thể xuất phát từ vật liệu phát xạ đặt trực tiếp
trong khối u. Tuỳ thuộc vào chất liệu phát xạ được sử dụng,
mảnh cấy có thể lưu lại trong não trong một thời gian ngắn
hoặc vĩnh viễn. Chất phát xạ mất dần hoạt tính phóng xạ
UNG THƯ NÃO 127
mỗi ngày. Bệnh nhân nằm viện trong một thời gian ngắn khi
hoạt tính phóng xạ còn mạnh nhất. Chiếu xạ ngoài chỉ có thể
chiếu trực tiếp vào khối u và các mô gần khối u, hiếm khi
chiếu xạ toàn bộ não bộ. (Đôi khi phóng xạ được chiếu trực
tiếp vào tuỷ sống). Khi toàn bộ não được điều trị, bệnh nhân
thường được nhận thêm một liều phóng xạ vào khu vực
khối u. Lượng phóng xạ tăng cường này có thể xuất phát từ
chiếu xạ ngoài hoặc chiếu xạ trong.
Phẫu thuật bằng tia nhờ định hướng không gian là một
phương pháp điều trị u não. Phương pháp điều trị này được
thực hiện một lần; sau khi định vị được chính xác khối u thì
tia có năng lượng cao được chiếu hướng vào khối u từ nhiều
góc. Bằng cách này, một liều tia cao có thể đến phá huỷ khối
u nhưng lại không phá huỷ các mô não khác. Phương pháp
này đôi khi được gọi là dao gamma.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để diệt tế bào
ung thư não. Bác sĩ có thể chỉ sử dụng một loại thuốc hoặc
phối hợp nhiều loại thuốc, thuốc thường được uống hoặc
tiêm vào tĩnh mạch hoặc cơ bắp. Hóa trị liệu trong tuỷ sống là
phương pháp điều trị bằng tiêm thuốc vào dịch não tuỷ.
Hóa trị liệu thường được tiến hành theo đợt: một đợt
điều trị tiếp đến là thời gian nghỉ hồi phục và tiếp tục như
vậy. Bệnh nhân thường không phải nằm viện trong thời gian
điều trị. Bệnh nhân có thể được tiêm truyền thuốc ở phòng
khám ngoại trú của bệnh viện. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại
thuốc được sử dụng, đường đưa vào cơ thể và tình trạng sức
128 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khỏe chung mà bệnh nhân có thể cần phải nằm viện trong
một thời gian ngắn.
Thử nghiệm lâm sàng
Các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm các phương pháp
hiệu quả hơn và có ít tác dụng phụ hơn để điều trị u não.
Khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy một
phương pháp điều trị mới là có triển vọng, bác sĩ sẽ sử dụng
phương pháp mới để điều trị cho bệnh nhân ung thư trong
các thử nghiệm lâm sàng. Những thử nghiệm lâm sàng này
được thực hiện để trả lời các câu hỏi khoa học và để tìm ra
phương pháp điều trị mới an toàn và hiệu quả. Bệnh nhân
tham gia vào thử nghiệm lâm sàng đã góp một phần quan
trọng cho sự phát triển của y học và là những người đầu tiên
được hưởng lợi từ những phương pháp điều trị mới.
Nhiều thử nghiệm lâm sàng các phương pháp điều trị u
não đang được tiến hành. Bác sĩ đang nghiên cứu các loại và
các kế hoạch xạ trị mới, các loại thuốc điều trị ung thư mới,
các phác đồ phối hợp thuốc mới và sự kết hợp giữa hóa trị
liệu và xạ trị liệu.
Các nhà khoa học đang cố gắng để làm tăng tính hiệu
quả của xạ trị bằng cách chiếu xạ 2 lần một ngày thay cho
một lần. Hơn nữa họ còn đang nghiên cứu các loại thuốc
được gọi là chất mẫn cảm phóng xạ. Những loại thuốc này
làm cho tế bào ung thư nhạy cảm hơn với phóng xạ. Một
phương pháp khác đang được nghiên cứu là phương pháp
thấu nhiệt, trong đó khối u được đốt nóng lên để tăng hiệu
quả của tia phóng xạ.
UNG THƯ NÃO 129
Nhiều loại thuốc không thể tiếp cận tế bào não do hàng
rào máu-não, một mạng lưới mạch máu và tế bào ngăn máu
vào não. Các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm các loại thuốc
mới có thể đi qua hàng rào máu-não. Các nghiên cứu đang
được thực hiện sử dụng các kỹ thuật khác nhau để tạm thời
phá bỏ hàng rào này để thuốc có thể tiếp cận được khối u.
Trong các nghiên cứu khác, các nhà khoa học đang khám
phá các cách mới dể đưa thuốc vào cơ thể. Thuốc có thể
được tiêm vào động mạch dẫn đến não hoặc có thể tiêm trực
tiếp vào não thất. Bác sĩ cũng đang nghiên cứu hiệu quả của
việc đặt những miếng xốp nhỏ chứa thuốc diệt ung thư trực
tiếp vào khối u. Miếng xốp dần dần tan đi.
Các nhà nghiên cứu cũng đang thử nghiệm việc điều trị
bằng thuốc chống ung thư với liều rất cao. Do liều thuốc rất
cao có thể gây tổn thương tuỷ xương, bác sĩ kết hợp phương
pháp điều trị này với phương pháp ghép tuỷ xương để thay
thế cho tuỷ xương đã bị huỷ hoại.
Liệu pháp sinh học là một phương pháp điều trị u não
mới hiện đang được nghiên cứu. Phương pháp điều trị này
nhằm tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống
lại bệnh tật.
Tác dụng phụ của điều trị
Điều trị ung thư thường gây ra các tác dụng phụ. Những
tác dụng phụ này xuất hiện bởi vì điều trị cũng tiêu diệt và
huỷ hoại các tế bào lành.
Tác dụng phụ của điều trị ung thư khác nhau. Chúng
phụ thuộc vào phương pháp điều trị và vùng được điều trị.
130 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Hơn nữa, mỗi bệnh nhân lại có những đáp ứng khác nhau.
Bác sĩ cố gắng lập kế hoạch điều trị để giảm tác dụng phụ
xuống mức thấp nhất. Họ còn theo dõi bệnh nhân rất kỹ
lưỡng để giúp xử lý tất cả những vấn đề có thể xảy ra.
Phẫu thuật mở não là đại phẫu thuật. Phẫu thuật có thể
huỷ hoại mô não lành và có thể gây hiện tượng phù nề. Mệt
mỏi, các rối loạn thăng bằng, thay đổi tính cách, khó nói và
khó tư duy có thể là những tác dụng phụ của điều trị. Bệnh
nhân cũng có thể bị co giật. Thực tế, một thời gian ngắn sau
khi phẫu thuật triệu chứng có thể trầm trọng hơn trước đó.
Hầu hết tác dụng phụ của phẫu thuật có thể giảm nhẹ hoặc
biến mất theo thời gian.
Hầu hết các tác dụng phụ của xạ trị sớm mất đi sau khi
kết thúc điều trị. Tuy nhiên, một số tác dụng phụ có thể xảy
ra hoặc kéo dài sau khi điều trị kết thúc.
Một số bệnh nhân cảm thấy buồn nôn trong vài giờ đồng
hồ sau khi điều trị. Bệnh nhân được chiếu xạ thấy mệt mỏi
khi tiếp tục điều trị. Nghỉ ngơi là rất quan trọng, nhưng bác
sĩ thường khuyên bệnh nhân cố gắng hoạt động một cách
hợp lý. Chiếu xạ ở vùng sọ làm cho hầu hết bệnh nhân bị
rụng tóc. Khi tóc mọc trở lại thì tóc mới đôi khi mềm hơn và
màu có thể hơi khác. Trong một số trường hợp, bệnh nhân bị
rụng tóc vĩnh viễn.
Phản ứng của da trong vùng điều trị là hiện tượng
thường gặp. Lớp da đầu và tai có thể bị đỏ lên, ngứa hoặc
đen đi; những vùng này có thể trông như bị cháy nắng. Nên
để vùng chiếu xạ tiếp xúc với không khí càng nhiều càng tốt
UNG THƯ NÃO 131
nhưng nên tránh tia nắng mặt trời. Bệnh nhân không nên
đội các loại mũ nón có thể kích thích da đầu. Chăm sóc da
tốt là rất quan trọng trong thời gian này. Bác sĩ có thể gợi ý
một số loại xà phòng hoặc thuốc mỡ và bệnh nhân không
nên sử dụng bất kỳ loại dầu thơm hoặc kem dưỡng da nào
khi không có lời khuyên của bác sĩ.
Đôi khi tế bào não đã bị tia phóng xạ tiêu diệt tạo nên một
khối trong não. Khối tế bào chết này có thể trông giống như
khối u và có thể gây các triệu chứng tương tự như đau đầu,
mất trí nhớ hoặc co giật. Bác sĩ có thể gợi ý phẫu thuật hoặc
dùng steroid để làm giảm triệu chứng. Trong khoảng thời
gian từ 4-8 tuần sau khi chiếu xạ bệnh nhân có thể bị buồn
ngủ hoặc mất cảm giác ngon miệng. Những triệu chứng này
có thể kéo dài trong vài tuần nhưng chúng sẽ tự biến mất.
Tuy nhiên, bệnh nhân nên thông báo cho bác sĩ khi có triệu
chứng.
Những trẻ em được điều trị khối u não bằng tia phóng xạ
có thể gặp khó khăn trong quá trình học tập hoặc bị mất một
phần thị lực. Nếu tuyến yên bị ảnh hưởng trẻ em có thể
không lớn hoặc không phát triển bình thường được.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc vào loại thuốc
điều trị. Nói chung, thuốc điều trị ung thư ảnh hưởng tới tế
bào phân chia nhanh, như tế bào máu chống lại nhiễm
khuẩn, tế bào lót niêm mạc ống tiêu hóa và tế bào ở nang
tóc. Kết quả là khả năng chống nhiễm khuẩn của bệnh nhân
giảm, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, nôn hoặc đau
miệng. Bệnh nhân cũng có thể có ít năng lượng hơn và có
132 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thể bị rụng tóc. Những tác dụng phụ này thường dần biến
mất sau khi kết thúc điều trị.
Một số thuốc điều trị ung thư có thể gây vô sinh. Phụ nữ
uống một số loại thuốc điều trị ung thư nhất định có thể có
triệu chứng mãn kinh (bốc hoả hoặc khô âm đạo; kỳ kinh
nguyệt có thể thất thường hoặc dừng lại). Một số loại thuốc
được sử dụng điều trị ung thư ở trẻ em có thể ảnh hưởng tới
khả năng sinh con sau này.
Một số loại thuốc điều trị u não có thể gây tổn thương
thận. Bệnh nhân thường được truyền một lượng dịch lớn khi
uống những loại thuốc này. Bệnh nhân cũng có thể có cảm
giác kim châm ở ngón tay, ù tai hoặc nặng tai. Những vấn
đề này có thể không mất đi khi kết thúc điều trị.
Điều trị bằng steroid để giảm phù nề ở não có thể làm cho
bệnh nhân ăn nhiều và tăng cân. Phù mặt và chân là những
hiện tượng thường gặp. Steroid có thể gây cảm giác bồn chồn,
tính khí không ổn định, ợ nóng và trứng cá. Tuy nhiên, bệnh
nhân không nên ngừng sử dụng steroid hay thay đổi liều
lượng mà không tư vấn bác sĩ. Phải dừng uống steroid một
cách từ từ để cơ thể điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi.
Mất cảm giác ngon miệng có thể là vấn đề đối với bệnh
nhân trong quá trình điều trị. Bệnh nhân có thể không cảm
thấy đói khi mệt mỏi hoặc khó chịu. Một số tác dụng phụ
thường gặp khi điều trị ung thư như buồn nôn, nôn có thể
làm cho việc ăn uống khó khăn hơn. Ăn tốt có nghĩa là lấy
đủ lượng calo và protein để không bị giảm cân, lấy lại sức
lực và tái tạo lại các mô lành. Nhiều bệnh nhân thấy ăn
UNG THƯ NÃO 133
nhiều bữa ăn nhỏ và bữa ăn nhẹ trong ngày có hiệu quả hơn
là ăn ba bữa chính.
Bệnh nhân được điều trị u não có thể có hiện tượng đông
máu và viêm tĩnh mạch, thường xảy ra nhất ở chân. Hiện
tượng này được gọi là viêm tắc tĩnh mạch. Những bệnh
nhân phát hiện bị phù ở chân, đau chân và/hoặc tấy đỏ ở
chân nên thông báo cho bác sĩ ngay.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi định kỳ sau khi điều trị là rất quan trọng đối với
bệnh nhân u não. Bác sĩ sẽ kiểm tra kỹ lưỡng để chắc chắn
rằng khối u chưa xuất hiện trở lại. Thăm khám định kỳ
thường bao gồm khám sức khỏe toàn thân và khám thần
kinh. Thỉnh thoảng bệnh nhân phải chụp cắt lớp vi tính hoặc
cộng hưởng từ hạt nhân.
Bệnh nhân được chiếu xạ vào những vùng rộng ở não
hoặc được điều trị bằng một số loại thuốc chống ung thư
nhất định có nguy cơ bị bệnh ung thư tế bào máu hoặc khối
u thứ hai cao hơn. Hơn nữa xạ trị ảnh hưởng tới nhãn cầu có
thể dẫn đến bệnh đục thể thuỷ tinh. Bệnh nhân nên làm theo
lời khuyên của bác sĩ về chăm sóc sức khỏe và khám kiểm
tra. Nếu có vấn đề sức khỏe bất thường xảy ra thì nên thông
báo cho bác sĩ ngay.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Thực Quản
1. Ung thư thực quản là gì?
Ung thư thực quản là khối u ác tính từ các tế bào ung thư
ở thực quản. Ung thư thực quản được chia thành hai loại
chính: ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tế
bào tuyến, tuỳ thuộc vào loại tế bào ác tính. Ung thư biểu
mô tế bào vẩy xuất phát từ tế bào vẩy lót niêm mạc thực
quản. Loại ung thư này thường xuất hiện ở phần trên hoặc
phần giữa thực quản. Ung thư biểu mô tế bào tuyến thường
phát triển trong mô tuyến ở phần dưới thực quản.
Nếu ung thư lan ra ngoài thực quản, đầu tiên nó thường
lan tới hạch. Ung thư thực quản cũng có thể lan tới hầu như
bất kỳ phần nào của cơ thể, như gan, phổi, não bộ và xương.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư thực quản là gì?
Nguyên nhân chính xác gây ung thư thực quản chưa
được xác định rõ. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu thì tất
UNG THƯ T HỰC QUẢN 135
cả các yếu tố dưới đây có thể làm tăng nguy cơ ung thư
thực quản:
Độ tuổi. Ung thư thực quản có nguy cơ xuất hiện nhiều
hơn khi về già; Hầu hết những người bị ung thư thực quản
là trên 60 tuổi.
Giới tính. Ung thư thực quản thường gặp ở nam giới
nhiều hơn ở nữ giới.
Sử dụng thuốc lá. Hút thuốc lá điếu hoặc sử dụng thuốc
lá sợi không khói là một trong những yếu tố nguy cơ chính
gây ung thư thực quản.
Uống rượu. Uống nhiều rượu hoặc uống rượu kéo dài là
một yếu tố nguy cơ chủ yếu khác gây ung thư thực quản.
Những người sử dụng cả rượu và thuốc lá có nguy cơ mắc
ung thư thực quản đặc biệt cao. Các nhà khoa học cho
rằng những chất này làm tăng tác dụng có hại của từng
chất đơn độc.
Bệnh thực quản Barret. Tình trạng bị kích thích kéo dài có
thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản. Mô ở đoạn cuối
thực quản có thể bị kích thích nếu axít của dịch dạ dày
thường xuyên “trào ngược” lên thực quản. Hiện tượng này
gọi là trào ngược dạ dày-thực quản. Dần dần, tế bào ở phần
thực quản bị kích thích có thể thay đổi và trở nên giống với
tế bào lót niêm mạc dạ dày. Tình trạng này, gọi là thực quản
Barret, là một điều kiện tiền ung thư và có thể phát triển
thành ung thư tế bào tuyến của thực quản.
Các loại kích thích khác. Các nguyên nhân khác gây kích
thích nghiêm trọng hoặc gây phá huỷ niêm mạc thực quản,
136 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
như uống phải dung dịch kiềm mạnh hoặc các chất ăn mòn
khác, có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản.
Tiền sử. Bệnh nhân bị mắc các loại ung thư khác ở vùng
đầu cổ có nguy cơ phát triển bị ung thư thứ hai ở vùng đầu
cổ cao hơn, bao gồm cả ung thư thực quản.
Có bất kỳ yếu tố nào trong số kể trên đây đều làm tăng khả
năng bị ung thư thực quản. Tuy nhiên, hầu hết những người
có một hoặc thậm chí có một vài yếu tố nguy cơ trên đây
không bị mắc căn bệnh này. Và hầu hết những người mắc ung
thư thực quản lại không có yếu tố nguy cơ nào trong số đã biết.
3. Ung thư thực quản được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư thực quản là gì?
Ung thư thực quản giai đoạn sớm thường không gây ra
triệu chứng. Tuy nhiên, khi khối u phát triển có thể có các
triệu chứng:
− Khó nuốt hoặc nuốt đau
− Sút cân trầm trọng
− Đau họng hoặc lưng, đau ở sau xương ức hoặc giữa
xương bả vai
− Khàn giọng hoặc ho kéo dài
− Nôn
− Ho ra máu.
Những triệu chứng này có thể do ung thư thực quản hoặc
do các bệnh khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ
kiểm tra.
UNG THƯ T HỰC QUẢN 137
4. Ung thư thực quản được chẩn đoán như thế nào?
Để giúp tìm ra nguyên nhân gây triệu chứng, bác sĩ sẽ
đánh giá tiền sử bệnh sử và tiến hành khám lâm sàng. Bác sĩ
thường chỉ định chụp X quang lồng ngực và các xét nghiệm
chẩn đoán khác. Những xét nghiệm này có thể bao gồm:
− Chụp thực quản có bari cho ta một loạt phim X quang
thực quản. Bệnh nhân uống một dung dịch lỏng có
chứa bari, bari sẽ phủ lên mặt trong thực quản. Bari cản
quang nên cho ta nhìn thấy trên phim những thay đổi
về hình dạng thực quản.
− Nội soi thực quản là quá trình soi bên trong thực quản
nhờ một ống nhỏ có nguồn sáng, được gọi là ống nội
soi. Bệnh nhân được gây mê khi nội soi. Nếu phát hiện
ra vùng không bình thường, bác sĩ có thể lấy một mẫu
mô qua ống nội soi để xem dưới kính hiển vi. Quá trình
này được gọi là sinh thiết. Sinh thiết có thể chỉ ra ung
thư, những thay đổi ở mô có thể dẫn đến ung thư hoặc
những tình trạng bệnh khác.
Phân giai đoạn bệnh
Nếu chẩn đoán là ung thư thực quản thì bác sĩ cần biết
giai đoạn (hoặc phạm vi) của bệnh. Phân giai đoạn là một
quá trình tỷ mỉ và cẩn thận để tìm hiểu xem ung thư đã lan
hay chưa và nếu đã lan thì tới bộ phận nào của cơ thể. Biết
được giai đoạn của bệnh giúp bác sĩ lập kế hoặch điều trị.
Có bốn giai đoạn ung thư thực quản:
138 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
− Giai đoạn I. Ung thư mới chỉ ở lớp tế bào ngoài cùng
của niêm mạc thực quản.
− Giai đoạn II. Ung thư liên quan tới lớp tế bào sâu hơn
trong niêm mạc thực quản hoặc nó đã lan tới các hạch
lân cận. Ung thư chưa lan tới các bộ phận khác của cơ
thể.
− Giai đoạn III. Ung thư đã xâm lấn sâu hơn vào thành
thực quản hoặc đã lan tới mô hoặc các hạch gần thực
quản. Nó chưa lan tới các bộ phận khác của cơ thể.
− Giai đoạn IV. Ung thư đã lan tới các bộ phận khác của
cơ thể. Ung thư thực quản có thể lan tới tất cả các bộ
phận khác trong cơ thể, bao gồm gan, phổi, não bộ và
xương.
Một số xét nghiệm được sử dụng để xác định ung thư đã
lan hay chưa bao gồm:
Chụp cắt lớp vi tính. Một máy vi tính được nối với một
máy chụp X quang sẽ cho hàng loạt ảnh chi tiết các bộ phận
bên trong cơ thể.
Xạ hình xương. Kỹ thuật này làm hiện hình ảnh xương
trên màn hình vi tính hoặc trên phim, có thể cho biết ung
thư đã lan tới xương hay chưa. Một lượng chất phóng xạ
nhỏ được tiêm vào tĩnh mạch; nó di chuyển qua mạch máu
và tụ lại ở trong xương, đặc biệt là ở những vùng xương
phát triển không bình thường. Một dụng cụ được gọi là máy
xạ hình đo mức độ phóng xạ trong những vùng này.
UNG THƯ T HỰC QUẢN 139
Nội soi phế quản. Bác sĩ đặt ống nội soi phế quản (một
ống nhỏ có nguồn sáng) qua mồm hoặc mũi và luồn xuống
khí quản để quan sát đường hô hấp.
5. Ung thư thực quản được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Nhiều phương pháp điều trị khác nhau và các phương
pháp kết hợp thường được sử dụng để điều trị ung thư hoặc
là để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng
cách làm giảm triệu chứng
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư thực quản
phổ biến nhất. Thông thường, bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ khối
u cùng với tất cả hoặc một phần thực quản, các hạch lân cận
và các mô khác trong vùng phẫu thuật (phẫu thuật cắt bỏ
thực quản). Bác sĩ phẫu thuật nối các phần lành còn lại của
thực quản với dạ dày để bệnh nhân vẫn có thể nuốt được.
Đôi khi, một ống bằng nhựa hoặc một phần ruột được sử
dụng để nối. Bác sĩ phẫu thuật còn có thể nới rộng vị trí dạ
dày mở vào ruột non để cho phép thức ăn trong dạ dày có
thể chuyển vào ruột non dễ dàng hơn. Đôi khi, phẫu thuật
được tiến hành sau khi kết thúc một phương pháp điều trị
khác.
Liệu pháp chiếu xạ là phương pháp sử dụng những tia có
năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Liệu pháp chiếu
xạ chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng chiếu xạ. Phóng
xạ có thể xuất phát từ một máy bên ngoài cơ thể (chiếu xạ
ngoài) hoặc vật liệu phát xạ đặt ở bên trong hoặc gần khối u
140 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(chiếu xạ trong). Một ống nhựa có thể được đặt vào trong
thực quản để giữ cho thực quản mở trong khi chiếu xạ. Thủ
thuật này được gọi là đặt ống trong lòng thực quản và nong.
Liệu pháp chiếu xạ có thể được sử dụng đơn độc hoặc kết
hợp với hóa trị liệu để làm phương pháp điều trị ban đầu
thay cho phẫu thuật, đặc biệt là khi kích thước hoặc vị trí
của khối u khiến cho việc phẫu thuật khó khăn. Bác sĩ có thể
kết hợp chiếu xạ với hóa trị liệu để làm co khối u trước khi
phẫu thuật. Thậm chí khi khối u không thể cắt bỏ hoàn toàn
bằng phẫu thuật hoặc không thể bị phá huỷ hoàn toàn bằng
chiếu xạ thì chiếu xạ thường có thể giúp giảm đau và giúp
bệnh nhân dễ nuốt hơn.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc điều trị ung
thư để diệt tế bào ung thư. Thuốc điều trị ung thư thực quản
đi vào tất cả các bộ phận trong cơ thể. Thuốc thường được
tiêm tĩnh mạch. Hóa trị liệu có thể kết hợp với xạ trị như là
một phương pháp điều trị ban đầu (thay cho phẫu thuật) để
làm co khối u trước khi phẫu thuật.
Laser liệu pháp là phương pháp sử dụng tia sáng có cường
độ cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia laser chỉ ảnh hưởng tới
tế bào trong vùng được chiếu. Bác sĩ có thể sử dụng tia laser
để phá huỷ mô ung thư và làm giảm sự tắc nghẽn thực quản
khi không thể cắt bỏ ung thư bằng phẫu thuật. Giảm sự tắc
nghẽn có thể giúp giảm triệu chứng, đặc biệt là nuốt.
Liệu pháp quang động học là một dạng của laser liệu
pháp, có sử dụng các loại thuốc được tế bào ung thư hấp
thụ; khi tiếp xúc với một tia sáng đặc biệt, thuốc sẽ trở nên
có hoạt tính và phá huỷ tế bào ung thư. Bác sĩ có thể sử
UNG THƯ T HỰC QUẢN 141
dụng liệu pháp quang động học để làm giảm các triệu
chứng của ung thư thực quản như hiện tượng khó nuốt.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư thực quản đóng vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo phát hiện ra tất cả những
thay đổi về sức khỏe. Nếu ung thư tái phát trở lại hoặc phát
triển hoặc một ung thư mới xuất hiện thì nó có thể được
điều trị sớm. Thăm khám và xét nghiệm kiểm tra có thể bao
gồm khám lâm sàng, chụp X quang hoặc những xét nghiệm
cận lâm sàng. Giữa các đợt khám định kỳ, bệnh nhân nên
thông báo tất cả các vấn đề sức khỏe cho bác sĩ của họ ngay
khi chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Âm Đạo
1. Ung thư âm đạo là gì?
Ung thư biểu mô âm đạo là loại ung thư hiếm gặp chiếm
khoảng 1-2% các bệnh phụ khoa ác tính. Chúng có thể được
điều trị hiệu quả và khi phát hiện ra ở giai đoạn sớm thì
thường có thể chữa khỏi. Sự phân biệt về mô học giữa ung
thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tuyến là rất quan
trọng vì đây là hai dạng bệnh khác nhau, mỗi dạng có một cơ
chế sinh bệnh học và tiền sử tự nhiên riêng. Ung thư âm đạo
tế bào vẩy (chiếm khoảng 85% các trường hợp) ban đầu lan
theo bề mặt trong thành âm đạo và sau đó xâm lấn vào các
mô xung quanh âm đạo và xung quanh tử cung. Di căn xa
thường gặp nhất là ở phổi và gan. Ung thư biểu mô tuyến
(chiếm gần 15% các trường hợp) có tần suất mắc cao nhất ở
độ tuổi 17 đến 21 và khác ung thư biểu mô tế bào vẩy vì loại
ung thư này có khả năng cao hơn di căn vào phổi và các hạch
thượng đòn và vùng chậu. Thi thoảng, u hắc tố và sác-côm
được mô tả như là ung thư âm đạo nguyên phát. Ung thư
UNG THƯ ÂM ĐẠO 143
biểu mô tuyến tế bào vẩy là một loại ung thư biểu mô hỗn
hợp hiếm gặp nhưng rất ác tính và chiếm khoảng 1 đến 2%
các trường hợp.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư âm đạo là gì?
Ung thư biểu mô tế bào tuyến là hiếm gặp và xuất hiện
nhiều nhất ở những bệnh nhân dưới 30 tuổi có tiền sử tiếp
xúc DES trong bụng mẹ. Tần suất mắc bệnh, cao nhất đối
với những người bị tiếp xúc ở ba tháng đầu thai kỳ, đạt con
số tối đa vào giữa những năm 70, điều này phản ảnh xu
hướng sử dụng DES trong những năm 50. Những phụ nữ
trẻ có tiền sử tiếp xúc DES trong bụng mẹ cần được theo dõi
chặt chẽ để được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm. Bệnh có
khả năng chữa khỏi cao ở những phụ nữ đã được theo dõi
chặt chẽ và điều trị tốt.
Bệnh hạch âm đạo thường gặp nhất ở những phụ nữ trẻ
có tiếp xúc DES trong bụng mẹ và có thể cùng tồn tại với
ung thư biểu mô tế bào tuyến, mặc dù bệnh hiếm khi phát
triển thành ung thư biểu mô tuyến. Bệnh hạch chuyển thành
dị sản vẩy một cách tự nhiên và đòi hỏi phải được theo dõi
nhưng không cần cắt bỏ.
3. Ung thư âm đạo được chẩn đoán như thế nào?
Sinh thiết cổ tử cung là điều bắt buộc để loại trừ ung thư
biểu mô cổ tử cung. Ung thư biểu mô âm hộ cũng cần được
loại trừ.
144 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn được phân loại theo quy định của Hội Sản-Phụ
khoa quốc tế (FIGO) hoặc Hiệp hội Ung thư Mỹ (AJCC) về
tiêu chuẩn phân loại theo TNM (T- Tumor-khối u; N-Node-
hạch; M-Metastasis-di căn).
Các định nghĩa TNM
Các định nghĩa theo tiêu chuẩn T tương ứng với một số
giai đoạn được FIGO chấp nhận.
Khối u nguyên phát (T)
TX: Khối u nguyên phát không thể đánh giá được
T0: Không có bằng chứng của khối u nguyên phát
Tis 0: Ung thư biểu mô nông tại chỗ
T1 I: Khối u chỉ giới hạn ở âm đạo
T2 II: Khối u đã xâm lấn vào các mô xung quanh âm
đạo nhưng chưa vào tới thành khung chậu.
T3 III: Khối u lan ra ngoài thành khung chậu
T4* IV4: Khối u xâm lấn vào niêm mạc bàng quang
hay trực tràng và/hoặc lan ra bên ngoài khung chậu
(Triệu chứng phù rộp chưa đủ để xếp loại khối u
vào giai đoạn T4)
* Chú ý: Nếu niêm mạc bàng quang chưa bị xâm lấn,
khối u còn ở giai đoạn III
Các hạch vùng (N)
NX: Hạch vùng không thể đánh giá được
UNG THƯ ÂM ĐẠO 145
N0: Chưa di căn vào hạch vùng
N1: Di căn vào hạch ở vùng chậu hoặc bẹn
Di căn xa (M)
MX: Di căn xa không thể đánh giá được
M0: Chưa di căn xa
M1: Có di căn xa
Phân nhóm giai đoạn theo AJCC (American Joint
Committee on Cancer)
Giai đoạn 0
Tis, N0, M0
Giai đoạn I
T1, N0, M0
Giai đoạn II
T2, N0, M0
Giai đoạn III
T1, N1, M0
T2, N1, M0
T3, N0, M0
T3, N1, M0
Giai đoạn IVA
T4, N bất kỳ, M0
146 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn IVB
T bất kì, N bất kì, M1
4. Ung thư âm đạo được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Các yếu tố cần được xem xét khi lập kế hoạch điều trị ung
thư âm đạo là giai đoạn bệnh, kích thước và vị trí tổn thương,
còn hoặc không còn tử cung và bệnh nhân đã từng được
chiếu xạ vào vùng chậu trước đó hay chưa. Trong một nghiên
cứu hồi cứu quy mô lớn theo dõi các phụ nữ trong vòng 30
năm, 50% bệnh nhân được phẫu thuật cắt tử cung trước khi
chẩn đoán ung thư âm đạo. Trong nhóm bệnh nhân này,
31/50 (62%) bệnh nhân phát triển ung thư nhưng chỉ giới hạn
ở 1/3 trên của âm đạo. Ở những phụ nữ chưa bị cắt tử cung
trước đó, chỉ có 17/50 (34%) bệnh nhân có các tổn thương ở
1/3 trên của âm đạo. Bạch huyết có thể được dẫn lưu tới các
hạch ở vùng chậu hoặc hạch bẹn tuỳ theo vị trí của khối u và
cần phải lưu ý tới các vùng này khi lập kế hoạch điều trị. Do
âm đạo ở gần bàng quang và trực tràng nên đã hạn chế các
lựa chọn điều trị và tăng các biến chứng liên quan tới các bộ
phận này. Đối với ung thư biểu mô âm đạo giai đoạn sớm,
phương pháp điều trị chuẩn do các bác sĩ ung thư phụ khoa
hoặc bác sĩ tia xạ ung thư thực hiện là rất hiệu quả. Đối với
bệnh nhân ung thư giai đoạn III và IVA, chiếu xạ đơn độc là
phương pháp điều trị chuẩn. Đối với ung thư giai đoạn IVB,
liệu trình điều trị hiện nay là không phù hợp và không có loại
thuốc điều trị ung thư đã biết nào có thể được coi là phương
pháp điều trị chuẩn. Do những bệnh nhân như vậy rất hiếm
UNG THƯ ÂM ĐẠO 147
gặp nên họ được coi là những ứng cử viên phù hợp cho các
thử nghiệm lâm sàng sử dụng các loại thuốc điều trị ung thư
và/hoặc các chất nhạy phóng xạ nhằm cải thiện tỷ lệ sống sót
hoặc khả năng kiểm soát khối u tại chỗ.
Ung thư âm đạo giai đoạn 0
Ung thư biểu mô tế bào vẩy nông tại chỗ
Loại ung thư này thường có nhiều ổ và hay thấy ở cùng
đồ. Do quá trình tân tạo trong biểu mô âm đạo có liên quan
tới các u tân tạo khác ở bộ phận sinh dục, cần khám kĩ cổ tử
cung và âm hộ. Các phương pháp điều trị được liệt kê dưới
đây có tỷ lệ chữa khỏi bệnh tương đương. Quyết định lựa
chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào các yếu tố của
bệnh nhân và kĩ năng xử lý tại chỗ, ví dụ, biến dạng về giải
phẫu cùng đồ (do sự khâu đóng thành khi cắt tử cung) đòi
hỏi phải được cắt bỏ vì những lý do kĩ thuật để loại trừ khả
năng xâm lấn của u đã bị che lấp. Các tổn thương do chứng
dầy sừng đáp ứng với phẫu thuật hoặc với tia lazer tốt hơn
so với dùng 5-FU.
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ kèm theo hoặc không kèm
theo ghép da.
(2) Phẫu thuật cắt bỏ âm đạo toàn bộ hoặc bán phần phối
hợp với ghép da cho ung thư nhiều ổ hoặc đã lan rộng.
148 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(3) Dùng hóa chất trong âm đạo kết hợp với kem
fluorouracil 5%. Bôi 1,5 gam mỗi tuần trong 10 tuần cũng cho
hiệu quả tương tự như khi bôi thường xuyên hơn.
(4) Điều trị bằng tia lazer.
(5) Chiếu xạ trong khoang với liều từ 6000-7000 cGy vào
niêm mạc. Cần chiếu xạ toàn bộ niêm mạc âm đạo.
Ung thư âm đạo giai đoạn I
Ung thư biểu mô tế bào vẩy
Các lựa chọn điều trị chuẩn có hiệu quả tương đương (sự
lựa chọn phụ thuộc vào các yếu tố bệnh nhân và kĩ năng xử
lý tại chỗ) là:
- Đối với u nông ở giai đoạn I có độ dầy dưới 0,5cm:
(1) Chiếu xạ trong khoang. Trong hầu hết các trường hợp,
liều 6000-7000cGy xuyên sâu 0,5 cm chiếu vào khối u trong
vòng 5 đến 7 ngày (phải chiếu xạ ngoài khi có tổn thương
lan rộng). Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, người
ta chỉ định chiếu xạ chọn lọc liều 4500 đến 5000 cGy vào các
hạch vùng chậu các hạch bẹn.
(2) Phẫu thuật cắt rộng tại chỗ hoặc phẫu thuật cắt bỏ toàn
bộ âm đạo kết hợp với tạo hình âm đaọ, đặc biệt là đối với
các tổn thương ở phần trên âm đạo. Trong trường hợp, mép
phẫu thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào ung thư thì cần xem
xét điều trị tia xạ bổ trợ.
- Đối với các khối u ở giai đoạn I dày > 0,5cm:
UNG THƯ ÂM ĐẠO 149
(1) Phẫu thuật. Đối với các tổn thương ở 1/3 trên âm đạo,
cần phẫu thuật cắt bỏ âm đạo triệt để và vét hạch bạch huyết
vùng chậu. Có thể tạo hình một âm đạo mới nếu có thể và
nếu bệnh nhân muốn. Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới âm
đạo, cần vét sạch hạch bẹn. Trong trường hợp mép phẫu
thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào ung thư thì cần xem xét
việc chiếu xạ bổ trợ.
(2) Tia xạ. Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ và chiếu xạ
trong khoang với liều ít nhất là 7500cGy cho khối u nguyên
phát. Chiếu xạ ngoài kết hợp với xạ áp sát được chỉ định cho
các khối u biệt hóa thấp hoặc các khối u thâm nhiễm có nguy
cơ di căn hạch cao hơn. Đối với các tổn thương ở 1/3 dưới
âm đạo, có thể chiếu xạ chọn lọc liều 4500 đến 5000 cGy vào
các hạch ở vùng chậu và hạch bẹn.
Ung thư biểu mô tuyến
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phẫu thuật. Do u đã lan xuống lớp dưới biểu mô nên
cần phẫu thuật cắt bỏ âm đạo triệt để và cắt tử cung kết hợp
với vét hạch. Các hạch sâu trong vùng chậu được vét sạch
nếu tổn thương xâm lấn vào phần trên âm đạo và các hạch
bẹn được vét bỏ nếu tổn thương xuất phát từ phần dưới âm
đạo. Có thể tạo hình một âm đạo mới nếu điều đó có khả
năng thực hiện được và nếu bệnh nhân mong muốn. Trong
trường hợp mép phẫu thuật sát nhau hoặc có chứa tế bào
ung thư thì cần xem xét chỉ định chiếu xạ bổ trợ.
(2) Chiếu xạ trong khoang và chiếu xạ trong khoảng kẽ
như đã được mô tả cho ung thư tế bào vẩy. Đối với các tổn
150 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể chiếu xạ chọn lọc liều
4500-5000 cGy vào các hạch ở vùng chậu và hạch bẹn.
(3) Phối hợp điều trị tại chỗ cho một số trường hợp được
lựa chọn, có thể bao gồm phẫu thuật cắt rộng tại chỗ, vét
hạch và chiếu xạ trong khoảng kẽ.
Ung thư âm đạo giai đoạn II
Ung thư biểu mô tế bào vẩy
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
Tia phóng xạ là phương pháp điều trị chuẩn cho ung thư
biểu mô âm đạo giai đoạn II.
(1) Phối hợp chiếu xạ áp sát và chiếu xạ ngoài để tạo ra
liều tổng hợp 7000-8000 cGy vào khối u nguyên phát. Đối
với các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể tiến hành
chiếu xạ chọn lọc liều 4500-5000cGy vào các hạch vùng
chậu hạch bẹn.
(2) Phẫu thuật triệt để (cắt bỏ âm đạo hoặc cắt bỏ các tạng
vùng chậu triệt để) có hoặc không kèm theo xạ trị.
Ung thư biểu mô tuyến
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phối hợp chiếu xạ áp sát và chiếu xạ ngoài để tạo ra
liều tổng hợp 7000-8000 cGy vào u nguyên phát. Đối với
các tổn thương ở 1/3 dưới âm đạo, có thể tiến hành chiếu xạ
chọn lọc liều 4500-5000 cGy vào các hạch vùng chậu và
hạch bẹn.
UNG THƯ ÂM ĐẠO 151
(2) Phẫu thuật triệt để (cắt bỏ âm đạo hoặc cắt bỏ các tạng
vùng chậu triệt để) có hoặc không phối hợp với xạ trị.
Ung thư âm đạo giai đoạn III
Ung thư biểu mô tế bào vẩy
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong
khoang và chiếu xạ ngoài. Chiếu xạ ngoài trong khoảng 5-6
tuần (bao gồm chiếu cả các hạch vùng chậu), tiếp đến là
chiếu xạ trong khoảng kẽ và /hoặc chiếu xạ áp sát trong
khoang liều 7500 đến 8000 cGy cho toàn bộ khối u và liều
5500 đến 6000 cGy cho thành chậu bên.
(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị
nêu trên.
Ung thư biểu mô tuyến
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong
khoang và chiếu xạ ngoài như đã được mô tả trong điều trị
ung thư tế bào vẩy.
(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị
nêu trên.
Ung thư âm đạo giai đoạn IVA
Ung thư biểu mô tế bào vẩy
Các lựa chọn điều trị chuẩn
152 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong
khoang và chiếu xạ ngoài.
(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị
nêu trên.
Ung thư biểu mô tuyến
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
(1) Phối hợp chiếu xạ trong khoảng kẽ, chiếu xạ trong
khoang và chiếu xạ ngoài.
(2) Phẫu thuật có thể kết hợp với các phương pháp điều trị
nêu trên.
Ung thư âm đạo giai đoạn IVB
Ung thư biểu mô tế bào vẩy
Bệnh nhân cần được lựa chọn làm ứng cử viên cho một
trong các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để cải
thiện kết quả điều trị. Phương pháp điều trị chuẩn là không
đầy đủ.
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
Chiếu xạ (làm giảm triệu chứng) kèm theo hoặc không
kèm theo hóa trị liệu.
Ung thư biểu mô tuyến
Bệnh nhân cần được lựa chọn làm ứng cử viên cho một
trong các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để cải
thiện kết quả điều trị.
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
UNG THƯ ÂM ĐẠO 153
Chiếu xạ (làm giảm triệu chứng) kèm theo hoặc không
kèm theo hóa trị liệu.
Ung thư âm đạo tái phát
Tái phát có tiên lượng rất xấu. Trong một nghiên cứu lớn,
chỉ có năm trong số 50 bệnh nhân tái phát được chữa khỏi
bằng phẫu thuật hoặc tia phóng xạ. Cả năm bệnh nhân được
chữa khỏi này ban đầu bệnh chỉ ở giai đoạn I hoặc II và lan
vào trung tâm vùng chậu. Hầu hết các trường hợp tái phát
xảy ra trong vòng hai năm đầu sau khi điều trị. Đối với bệnh
nhân ung thư âm đạo tái phát ở trung tâm vùng chậu, một
số bệnh nhân có thể là ứng cử viên cho phương pháp điều
trị cắt bỏ nội tạng trong khung chậu hoặc chiếu xạ. Các thử
nghiệm lâm sàng cũng phù hợp và nên được xem xét. Cả
cisplatin và mitoxantron đều không có tác dụng đáng kể
trong điều trị ung thư tế bào vẩy tái phát hoặc giai đoạn
muộn. Chưa có phương pháp điều trị chuẩn bằng hóa chất.
5. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân ung thư âm đạo nên khám theo dõi định kỳ
sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng
trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với
bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân được
giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức khỏe cũng
được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có thể
được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám
theo dõi định kỳ, bệnh nhân ung thư âm đạo nên thông báo
tất cả những vấn đề về sức khỏe ngay khi chúng xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tử Cung
1. Ung thư tử cung là gì?
Loại ung thư tử cung thường gặp nhất bắt đầu từ nội mạc
tử cung. Nó được gọi là ung thư nội mạc tử cung hoặc ung
thư tử cung.
Một loại ung thư khác là sarcoma tử cung, phát triển từ
cơ tử cung. Ung thư bắt đầu từ cổ tử cung là một loại ung
thư khác. Bài này không đề cập tới sác-côm tử cung hay ung
thư cổ tử cung.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tử cung là gì?
Các nghiên cứu đã tìm ra những yếu tố nguy cơ dưới
đây:
Độ tuổi. Ung thư tử cung xảy ra hầu hết ở những phụ nữ
ngoài 50 tuổi.
UNG THƯ TỬ CUNG 155
Tăng sản nội mạc tử cung. Nguy cơ mắc ung thư tử cung
cao hơn nếu người phụ nữ bị tăng sản nội mạc tử cung. Tình
trạng này và cách điều trị đã được nêu ở trên.
Liệu pháp điều trị hoóc-môn thay thế (HRT). HRT được
sử dụng để kiểm soát triệu chứng ở thời kỳ mãn kinh, ngăn
chặn hiện tượng loãng xương và giảm nguy cơ mắc bệnh
tim hay đột quỵ.
Phụ nữ sử dụng estrogen mà không sử dụng progesteron
có nguy cơ mắc ung thư tử cung cao hơn. Việc sử dụng
estrogen kéo dài và với liều cao dường như cũng làm tăng
nguy cơ này. Những phụ nữ sử dụng phối hợp estrogen và
progesteron sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư tử cung thấp
hơn so với những phụ nữ chỉ sử dụng estrogen. Progesteron
bảo vệ tử cung.
Phụ nữ nên thảo luận về lợi ích và nguy cơ của việc sử
dụng liệu pháp hoóc-môn thay thế với bác sĩ của họ. Việc
khám định kỳ khi dùng hoóc-môn có thể tăng khả năng phát
hiện ra ung thư tử cung ở giai đoạn sớm nếu nó phát triển.
Béo phì và tình trạng liên quan. Cơ thể tạo ra một phần
estrogen trong các mô mỡ. Đó là nguyên nhân tại sao phụ
nữ béo phì thường có nồng độ estrogen trong cơ thể cao hơn
những phụ nữ gầy. Nồng độ estrogen cao hơn có thể là
nguyên nhân khiến những phụ nữ béo phì có nguy cơ mắc
ung thư tử cung cao hơn. Nguy cơ mắc bệnh này cũng cao
hơn ở những phụ nữ bị bệnh đái tháo đường và bị tăng
huyết áp (tình trạng xảy ra ở rất nhiều phụ nữ béo phì).
156 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Tamoxifen. Phụ nữ dùng tamoxifen để phòng chống hay
điều trị ung thư vú có nguy cơ mắc ung thư tử cung cao
hơn. Nguy cơ này dường như liên quan tới những tác dụng
giống estrogen của loại thuốc này lên tử cung. Bác sĩ theo
dõi bệnh nhân dùng tamoxifen để phát hiện ra những triệu
chứng và dấu hiệu của ung thư tử cung.
Lợi ích của tamoxifen trong điều trị ung thư vú vượt quá
nguy cơ phát triển các loại ung thư khác. Tuy nhiên, đối với
mỗi phụ nữ là khác nhau. Phụ nữ muốn sử dụng tamoxifen
phải hỏi bác sĩ.
Chủng tộc. Những phụ nữ da trắng có nguy cơ mắc ung
thư tử cung cao hơn những phụ nữ Mỹ gốc Phi.
Ung thư đại-trực tràng. Phụ nữ bị ung thư đại-trực tràng
do di truyền có nguy cơ phát triển ung thư tử cung cao hơn
những phụ nữ khác.
Những yếu tố nguy cơ khác liên quan tới thời gian người
phụ nữ có tiếp xúc với estrogen. Phụ nữ không có con, bắt
đầu có kinh nguyệt rất sớm và mãn kinh muộn do tiếp xúc
với estrogen lâu hơn và có nguy cơ cao hơn.
Phụ nữ có yếu tố nguy cơ nêu trên và những người quan
tâm đến ung thư tử cung nên hỏi bác sĩ của họ về triệu
chứng để phát hiện bệnh và định kỳ khám bệnh. Lời khuyên
của bác sĩ sẽ dựa vào độ tuổi, bệnh sử của người phụ nữ và
các yếu tố khác.
UNG THƯ TỬ CUNG 157
3. Ung thư tử cung được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư tử cung là gì?
Ung thư tử cung thường xuất hiện sau khi mãn kinh.
Nhưng nó cũng có thể xảy ra khi thời kỳ mãn kinh bắt đầu.
Hiện tượng ra máu âm đạo bất thường là triệu chứng
thường gặp nhất của ung thư tử cung. Hiện tượng ra máu có
thể bắt đầu là ra dịch ở dạng nước có vệt máu và dần dần có
nhiều máu hơn. Phụ nữ không nên cho rằng hiện tượng ra
máu âm đạo bất thường là một trong những hiện tượng của
thời kỳ mãn kinh.
Phụ nữ nên đến bác sĩ khám khi có những triệu chứng sau:
- Ra máu âm đạo hoặc khí hư bất thường
- Khó đái hay đái buốt.
- Đau khi quan hệ tình dục
- Đau ở vùng chậu
Những triệu chứng này có thể do ung thư gây ra, cũng có
thể do các bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Phần lớn
các triệu chứng này không phải do ung thư gây ra, nhưng
chỉ có bác sĩ mới có thể khẳng định được điều đó.
4. Ung thư tử cung được chẩn đoán như thế nào?
Nếu một phụ nữ có những triệu chứng nghi ung thư tử
cung, bác sĩ có thể kiểm tra tình trạng sức khỏe chung và có
thể yêu cầu xét nghiệm máu và nước tiểu. Bác sĩ còn có thể
158 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
tiến hành một hay nhiều thăm dò và xét nghiệm được miêu
tả ở những trang sau.
Khám vùng chậu. Phụ nữ khám vùng chậu để kiểm tra
âm đạo, tử cung, bàng quang và trực tràng. Bác sĩ khám
những cơ quan này để tìm u cục và những thay đổi về hình
dáng và kích thước của chúng. Để khám phần trên âm đạo
và cổ tử cung, bác sĩ sẽ đưa một dụng cụ được gọi là mỏ vịt
vào âm đạo.
Nghiệm pháp Pap. Bác sĩ lấy tế bào ở cổ tử cung và phần
trên âm đạo. Tiến hành xét nghiệm trong phòng thí nghiệm
để tìm tế bào bất thường. Mặc dù nghiệm pháp Pap có thể
phát hiện ra ung thư cổ tử cung nhưng tế bào bên trong tử
cung thường không xuất hiện trong nghiệm pháp Pap. Do
vậy bác sĩ phải lấy mẫu tế bào từ bên trong tử cung qua sinh
thiết.
Siêu âm qua đường âm đạo. Bác sĩ đưa một dụng cụ vào
trong âm đạo. Dụng cụ này phát sóng âm có tần số cao vào
tử cung. Những sóng âm này dội lại tạo hình ảnh. Nếu nội
mạc tử cung quá dày bác sĩ có thể tiến hành sinh thiết.
Sinh thiết. Bác sĩ cắt một mẫu mô từ niêm mạc tử cung.
Thủ thuật này thường được tiến hành trong văn phòng
bác sĩ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phụ nữ
có thể cần tiến hành quá trình nong và nạo. Thủ thuật này
thường được tiến hành tại bệnh viện trong một ngày có
gây mê. Bác sĩ giải phẫu bệnh kiểm tra mẫu sinh thiết để
tìm tế bào ung thư, hiện tượng tăng sản nội mạc tử cung
và các hiện tượng khác. Trong một thời gian ngắn sau khi
UNG THƯ TỬ CUNG 159
tiến hành sinh thiết, một số phụ nữ có thể bị co thắt và ra
máu âm đạo.
Khi chẩn đoán ung thư cổ tử cung, bác sĩ sẽ phải xác định
giai đoạn hay phạm vi của căn bệnh để lập phác đồ điều trị
hợp lý nhất. Phân giai đoạn là một quá trình tỷ mỉ và cẩn
thận để xem ung thư đã lan chưa, nếu đã lan thì sang bộ
phận nào của cơ thể.
Bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm máu, nước tiểu và chụp
X quang lồng ngực. Bệnh nhân có thể được chụp cắt lớp vi
tính, siêu âm, chụp cộng hưởng từ hạt nhân, soi đại tràng.
Trong hầu hết các trường hợp, phương pháp đáng tin cậy
nhất để phân giai đoạn bệnh là cắt tử cung. Sau khi tử cung
được cắt bỏ, bác sĩ phẫu thuật có thể tìm kiếm những dấu
hiệu rõ ràng chứng tỏ ung thư đã xâm lấn vào lớp cơ cổ tử
cung. Bác sĩ phẫu thuật có thể kiểm tra các hạch và các cơ
quan khác trong vùng chậu để tìm kiếm những dấu hiệu
ung thư. Bác sĩ giải phẫu bệnh dùng một kính hiển vi để
quan sát tử cung và các mô khác do bác sĩ phẫu thuật cắt ra.
Dưới đây là những đặc điểm chính của từng giai đoạn:
− Giai đoạn I. Ung thư chỉ ở trong phần thân tử cung mà
không có ở cổ tử cung.
− Giai đoạn II. Ung thư đã lan từ thân tử cung sang cổ
tử cung.
− Giai đoạn III. Ung thư đã lan ra ngoài tử cung, nhưng
chưa vượt quá vùng chậu (và chưa lan tới bàng quang
và trực tràng). Các hạch trong vùng chậu có thể chứa tế
bào ung thư.
160 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
− Giai đoạn IV. Ung thư đã lan tới bàng quang hoặc trực
tràng. Hoặc nó đã lan ra ngoài vùng chậu tới các bộ
phận khác của cơ thể.
5. Ung thư tử cung được điều trị như thế nào?
Phụ nữ bị ung thư tử cung có nhiều cách điều trị. Hầu
hết phụ nữ bị ung thư tử cung được điều trị bằng phương
pháp phẫu thuật. Một số bệnh nhân khác được điều trị
bằng tia phóng xạ. Một số ít hơn được điều trị bằng hoóc-
môn. Một số bệnh nhân được điều trị bằng cách phối hợp
nhiều phương pháp.
Bác sĩ sẽ mô tả các phác đồ điều trị và thảo luận về các kết
quả có thể của quá trình điều trị với người bệnh.
Phẫu thuật
Hầu hết bệnh nhân ung thư tử cung được tiến hành phẫu
thuật cắt tử cung qua đường ổ bụng. Bác sĩ còn cắt bỏ cả hai
vòi trứng và buồng trứng (thủ thuật cắt bỏ buồng trứng-vòi
trứng hai bên).
Bác sĩ có thể cắt bỏ các hạch ở gần khối u để kiểm tra xem
chúng có chứa tế bào ung thư không. Nếu tế bào ung thư đã
xâm lấn vào hạch có nghĩa là bệnh đã lan sang các bộ phận
khác của cơ thể. Nếu tế bào ung thư vẫn chưa lan ra khỏi nội
mạc tử cung thì bệnh nhân không cần đến các phương pháp
điều trị khác. Thời gian nằm viện có thể kéo dài từ vài ngày
đến một tuần.
Tia xạ trị liệu
UNG THƯ TỬ CUNG 161
Các tia có năng lượng cao được sử dụng để tiêu diệt tế
bào ung thư. Giống như phẫu thuật, tia xạ trị liệu là một
phương pháp điều trị tại chỗ. Nó chỉ ảnh hưởng tới tế bào
ung thư ở vùng được điều trị.
Một số bệnh nhân ung thư tử cung giai đoạn I, II, III cần
được điều trị cả bằng tia xạ và phẫu thuật. Họ có thể được
chiếu tia phóng xạ trước khi phẫu thuật để làm co khối u
hoặc sau khi phẫu thuật để tiêu diệt tế bào ung thư còn sót
lại trong vùng điều trị. Hơn nữa, bác sĩ cũng gợi ý tiến hành
diều trị bằng tia xạ cho những bệnh nhân không thể phẫu
thuật được.
Có hai cách chiếu tia xạ để điều trị ung thư tử cung:
Chiếu xạ ngoài: khi tiến hành chiếu xạ ngoài, một máy lớn
bên ngoài cơ thể được sử dụng để hướng tia phóng xạ vào
khối u. Bệnh nhân thường được điều trị ngoại trú, chỉ đến
bệnh viện hoặc phòng khám để chiếu xạ năm ngày một tuần
trong vài tuần.
Chiếu xạ trong: Khi tiến hành chiếu xạ trong, những ống
nhỏ có chứa vật liệu phát xạ được đặt vào âm đạo và lưu lại
tại chỗ trong vài ngày. Bệnh nhân nằm viện trong thời gian
điều trị. Để bảo vệ những người khác tránh tiếp xúc với
phóng xạ, người thân không đựơc vào thăm hoặc là chỉ
được vào thăm trong một thời gian ngắn khi nguồn phóng
xạ vẫn còn trong cơ thể. Khi nguồn xạ được lấy ra, bệnh
nhân sẽ không còn chất phóng xạ trong cơ thể.
162 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Một số bệnh nhân cần được điều trị cả bằng chiếu xạ
ngoài và chiếu xạ trong.
Liệu pháp hoóc-môn là phương pháp sử dụng những
chất ngăn tế bào ung thư lấy và sử dụng hoóc-môn mà
chúng cần để phát triển. Hoóc-môn có thể gắn vào thụ thể
hoóc-môn, gây ra những biến đổi trong mô tử cung. Trước
khi tiến hành điều trị bằng hoóc-môn, bác sĩ có thể yêu cầu
tiến hành xét nghiệm thụ thể hoóc-môn. Xét nghiệm cận lâm
sàng đặc biệt về mô tử cung này giúp bác sĩ biết được sự có
mặt của thụ thể estrogen và progesteron. Nếu mô có thụ thể,
bệnh nhân dường như có nhiều cơ may đáp ứng với việc
điều trị bằng hoóc-môn hơn.
Liệu pháp hoóc-môn là một phương pháp điều trị mang
tính chất toàn thân (hệ thống) bởi nó có thể ảnh hưởng tới tế
bào ung thư trong toàn bộ cơ thể. Thông thường hoóc-môn
sử dụng cho điều trị là một dạng viên nang progesteron.
Bác sĩ thường chỉ định liệu pháp hoóc-môn cho những
phụ nữ bị ung thư tử cung khi không thể điều trị được
bằng phương pháp phẫu thuật hay tia phóng xạ. Hơn nữa
bác sĩ có thể áp dụng liệu pháp hoóc-môn cho những phụ
nữ bị ung thư tử cung đã lan tới phổi hoặc các vị trí ở xa
khác. Nó còn được sử dụng đối với những phụ nữ bị ung
thư tử cung tái phát.
6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư tử cung như thế nào?
UNG THƯ TỬ CUNG 163
Vì điều trị ung thư có thể huỷ hoại tế bào và mô lành, nên
đôi khi xảy ra tác dụng phụ không mong muốn. Những tác
dụng phụ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cách
thức và phạm vi điều trị. Tác dụng phụ ở từng bệnh nhân là
khác nhau và chúng có thể thay đổi ở mỗi đợt điều trị. Trước
khi bắt đầu điều trị, bác sĩ và y tá sẽ giải thích những tác
dụng phụ có thể xảy ra và cách thức họ giúp bệnh nhân đối
phó với tác dụng phụ.
Tác dụng phụ của phẫu thuật
Sau khi cắt tử cung, bệnh nhân thường thấy đau và cực
kỳ mệt mỏi. Hầu hết bệnh nhân có thể bắt đầu lại những
hoạt động thường ngày trong vòng từ 4-8 tuần sau phẫu
thuật. Một số bệnh nhân có thể cần nhiều thời gian hơn. Một
số bệnh nhân có thể thấy buồn nôn và bị nôn sau khi phẫu
thuật và một số khác có rối loạn chức năng ruột và bàng
quang. Lúc đầu bác sĩ có thể cho bệnh nhân ăn thức ăn ở
dạng lỏng, rồi dần dần chuyển sang thức ăn ở dạng rắn.
Phụ nữ đã cắt tử cung không còn kinh nguyệt và không
thể mang thai. Khi cắt bỏ buồng trứng thì thời kỳ mãn
kinh xảy ra ngay lập tức. Hiện tượng bốc hoả và những
triệu chứng khác của thời kỳ mãn kinh do phẫu thuật gây
ra có thể nặng hơn những triệu chứng của thời kỳ mãn
kinh đến tự nhiên. Điều trị hoóc-môn thay thế thường
được chỉ định cho những phụ nữ không bị ung thư tử
cung để giảm nhẹ những triệu chứng này. Tuy nhiên, bác
sĩ thường không dùng estrogen cho những phụ nữ bị ung
thư tử cung. Bởi vì estrogen là một trong những yếu tố
164 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nguy cơ gây ung thư tử cung, nhiều bác sĩ lo ngại
estrogen có thể làm ung thư tử cung tái phát. Một số bác
sĩ khác cho rằng không có bằng chứng khoa học nào về
việc estrogen làm tăng khả năng tái phát ung thư. Hiện
nay người ta còn đang tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu
xem phụ nữ bị ung thư tử cung giai đoạn sớm có thể dùng
estrogen một cách an toàn hay không.
Đối với một số phụ nữ, việc cắt tử cung có thể ảnh
hưởng đến đời sống tình dục. Người phụ nữ có cảm giác
mất mát và chính cảm giác này gây trở ngại cho cuộc sống
riêng tư. Chia sẻ những tình cảm này với bạn đời của
mình có thể hữu ích.
Tác dụng phụ của liệu pháp phóng xạ
Tác dụng phụ của tia xạ trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào
liều lượng và bộ phận được điều trị. Tác dụng phụ thường
gặp của tia xạ trị liệu là da khô và đỏ lên, rụng lông ở vùng
chiếu tia, mất cảm giác ngon miệng và rất mệt mỏi. Một số
bệnh nhân có thể bị khô, ngứa, hẹp và bỏng rát ở âm đạo.
Liệu pháp phóng xạ có thể gây ra hiện tượng ỉa lỏng, đái
buốt, đái rắt. Phương pháp điều trị này có thể làm giảm số
lượng bạch cầu là những tế bào bảo vệ cơ thể tránh nhiễm
khuẩn.
Bác sĩ có thể khuyên bệnh nhân không nên quan hệ tình
dục khi đang điều trị bằng tia xạ. Tuy nhiên hầu hết bệnh
nhân có thể bắt đầu lại quan hệ tình dục khoảng vài tuần
sau khi kết thúc điều trị. Bác sĩ và y tá có thể gợi ý cách làm
giảm sự khó chịu liên quan tới phương pháp điều trị này.
UNG THƯ TỬ CUNG 165
Tác dụng phụ của liệu pháp hoóc-môn
Liệu pháp hoóc-môn có thể gây ra một số tác dụng
phụ. Bệnh nhân uống progesteron có thể bị giữ nước, ăn
nhiều và tăng cân. Phụ nữ vẫn còn kinh có thể có thay đổi
chu kỳ kinh nguyệt.
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Theo dõi sau khi điều trị ung thư tử cung là rất quan
trọng. Bệnh nhân nên thảo luận ngay với bác sĩ về việc theo
dõi. Khám định kỳ đảm bảo việc phát hiện ra bất kỳ thay đổi
về tình trạng sức khỏe nào. Tất cả những vấn đề nảy sinh
được phát hiện ra sẽ sớm được điều trị. Khám kiểm tra bao
gồm khám lâm sàng, khám vùng chậu, chụp X quang và các
xét nghiệm cận lâm sàng.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tế Bào Máu
1. Ung thư tế bào máu là gì?
Ung thư máu là khi cơ thể sản xuất ra một lượng lớn
máu bất thường. Bệnh được gọi bằng tiếng nước ngoài
phiên âm là Lơ-xê-mi (leucemia). Trong hầu hết các loại ung
thư tế bào máu, các tế bào bất thường là bạch cầu. Tế bào
ung thư tế bào máu trông khác với máu bình thường và
không thực hiện được chức năng của chúng.
Các loại ung thư tế bào máu
Có nhiều loại ung thư tế bào máu. Chúng được phân
nhóm theo hai cách. Cách thứ nhất là phân loại theo theo tốc
độ tiến triển và xấu đi của bệnh. Cách thứ hai là phân loại
theo loại tế bào máu bị bệnh.
Ung thư tế bào máu có thể là cấp tính hoặc mạn tính.
Trong ung thư tế bào máu cấp, các tế bào bất thường là các
nguyên bào còn rất non và không thể thực hiện chức năng
bình thường của mình. Số lượng nguyên bào tăng lên rất
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 167
nhanh và bệnh xấu đi nhanh chóng. Trong bệnh ung thư tế
bào máu mạn tính, một số nguyên bào xuất hiện, nhưng nói
chung những tế bào này có độ trưởng thành cao hơn và có
thể thực hiện được một số chức năng bình thường của
chúng. Hơn nữa, số lượng nguyên bào tăng chậm hơn so với
mức độ tăng trong bệnh ung thư tế bào máu cấp tính. Kết
quả là bệnh ung thư tế bào máu mạn tính xấu đi dần dần.
Bệnh ung thư tế bào máu có thể xuất phát từ hai loại
bạch cầu chính là tế bào lymphô hoặc tế bào tuỷ. Khi bệnh
ảnh hưởng tới tế bào lymphô thì nó được gọi là bệnh ung
thư tế bào máu dòng lymphô bào. Khi tế bào tuỷ bị ảnh
hưởng thì loại ung thư này được gọi là ung thư tế bào
máu dòng tuỷ.
Dưới đây là các loại ung thư tế bào máu thường gặp nhất:
Ung thư tế bào máu dòng lymphô cấp tính (ALL) là loại
thường gặp nhất ở trẻ em. Căn bệnh này cũng gặp ở người
lớn, đặc biệt là những người trên 50 tuổi.
Ung thư tế bào máu dòng tuỷ cấp tính (AML) xuất hiện ở cả
người lớn và trẻ em. Loại này đôi khi còn được gọi là ung thư
tế bào máu cấp tính không phải dòng lymphô bào (ANLL).
Ung thư tế bào máu dòng lymphô mạn tính (CLL) thường
xuất hiện nhiều nhất ở những người trên 55 tuổi. Đôi khi nó
xuất hiện ở những người trẻ tuổi hơn, nhưng hầu như
không bao giờ gặp ở trẻ em.
Ung thư tế bào máu dòng tuỷ mạn tính (CML) xuất hiện chủ
yếu ở người lớn. Một số lượng rất nhỏ trẻ em cũng có thể
mắc loại ung thư này.
168 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tế bào máu là gì?
Cho tới hiện nay, chúng ta vẫn chưa xác định được
nguyên nhân nào gây bệnh ung thư tế bào máu. Các nhà
nghiên cứu đang cố gắng giải quyết vấn đề này. Các nhà
khoa học biết rằng bệnh xuất hiện ở nam giới nhiều hơn ở
nữ giới và ở người da trắng nhiều hơn người da đen. Tuy
nhiên, họ không thể giải thích tại sao người này mắc bệnh
còn người khác lại không.
Bằng cách nghiên cứu một số lượng lớn người dân trên
toàn thế giới, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố
nguy cơ nhất định làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tế
bào máu. Ví dụ, việc tiếp xúc với một lượng lớn bức xạ có
năng lượng cao làm tăng nguy cơ phát triển bệnh. Hiện
tượng bức xạ này được tạo ra do các vụ nổ bom nguyên tử
ở Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ 2. Trong các nhà
máy điện nguyên tử, các quy định an toàn nghiêm ngặt
phải được thực hiện để bảo vệ công nhân và người dân
tránh bị phóng xạ gây hại.
Theo một số nghiên cứu thì việc tiếp xúc với trường điện
từ là một yếu tố nguy cơ có thể gây bệnh ung thư tế bào
máu. Trường điện từ là một dạng bức xạ năng lượng thấp
tỏa ra từ dây điện và các thiết bị điện. Tuy nhiên, cần phải
tiếp tục nghiên cứu để chứng tỏ mối liên hệ này.
Một số tình trạng di truyền nhất định có thể làm tăng
nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào máu. Hội chứng Đao
(Down) là một trong những tình trạng như vậy; trẻ em bị hội
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 169
chứng này khi sinh ra có nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào
máu cao hơn những trẻ em khác.
Công nhân tiếp xúc với một số chất hóa học nhất định
trong một thời gian dài có nguy cơ mắc bệnh ung thư tế bào
máu cao hơn. Benzen là một trong những hóa chất này. Hơn
nữa, một số loại thuốc được sử dụng để điều trị các loại ung
thư khác có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên,
nguy cơ này rất nhỏ so với lợi ích mà hóa trị liệu mang lại.
Các nhà khoa học đã tìm ra một loại virút dường như có
khả năng làm tăng nguy cơ phát triển một loại ung thư tế
bào máu hiếm gặp. Tuy nhiên, loại virút này chưa được
chứng minh là có liên quan tới các loại ung thư tế bào máu
thường gặp. Các nhà khoa học trên toàn thế giới vẫn tiếp tục
nghiên cứu các virút và các yếu tố nguy cơ khác có thể gây
bệnh ung thư tế bào máu. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân
gây bệnh, các nhà khoa học hi vọng sẽ tìm ra các phương
pháp phòng ngừa và điều trị bệnh ung thư tế bào máu tốt
hơn.
3. Ung thư tế bào máu được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư tế bào máu là gì?
Tế bào ung thư máu là những tế bào bất thường và không
thực hiện được các chức năng của tế bào máu bình thường.
Chúng không thể giúp cơ thể chống lại nhiễm khuẩn. Vì lý
do này, bệnh nhân bị ung thư tế bào máu thường bị nhiễm
khuẩn và sốt.
170 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Hơn nữa, bệnh nhân bị ung thư tế bào máu thường có số
lượng hồng cầu và tiểu cầu ít hơn bình thường. Do vậy họ
không có đủ hồng cầu để vận chuyển ôxy đến toàn bộ cơ
thể. Tình trạng này gọi là thiếu máu, bệnh nhân trông nhợt
nhạt và cảm thấy mệt mỏi, ốm yếu. Khi cơ thể không có đủ
tiểu cầu thì bệnh nhân dễ bị chảy máu và có các vết thâm
tím.
Giống như tất cả các tế bào máu, tế bào ung thư máu
cũng đi khắp cơ thể. Tuỳ theo số lượng tế bào bất thường và
vị trí các tế bào này tích tụ lại mà có thể có một số triệu
chứng khác nhau.
Trong bệnh ung thư tế bào máu ác tính, triệu chứng
xuất hiện nhanh và tiến triển nhanh. Bệnh nhân đến bác sĩ
khám vì mệt mỏi. Đối với ung thư tế bào máu mạn tính thì
triệu chứng có thể không xuất hiện trong một thời gian
dài; một khi triệu chứng xuất hiện thì ban đầu thường nhẹ
và xấu đi từ từ. Bác sĩ thường phát hiện ra bệnh ung thư tế
bào máu mạn tính qua các đợt khám định kỳ, trước khi
bệnh có triệu chứng.
Dưới đây là một số triệu chứng thường gặp của bệnh ung
thư tế bào máu:
- Sốt, rét run và các triệu chứng giống cảm cúm khác
- Yếu và mệt mỏi
- Thường xuyên bị nhiễm khuẩn
- Chán ăn hoặc giảm cân
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 171
- Hạch, gan hoặc lách to hoặc đau
- Dễ bị chảy máu hoặc vết thâm tím
- Có các chấm xuất huyết nhỏ dưới da
- Sưng hoặc chảy máu lợi
- Ra mồ hôi, đặc biệt là ban đêm; và/hoặc
- Đau xương hoặc khớp
Trong bệnh ung thư tế bào máu ác tính, các tế bào bất
thường có thể tích tụ lại ở não hoặc tuỷ sống (còn được gọi
là hệ thần kinh trung ương). Bệnh nhân có thể bị đau đầu,
nôn, lú lẫn, liệt và co giật. Tế bào ung thư máu còn có thể
tích tụ lại ở tinh hoàn làm sưng tinh hoàn. Hơn nữa, một số
bệnh nhân còn bị đau mắt hoặc da. Bệnh ung thư tế bào máu
còn có thể ảnh hưởng tới ống tiêu hóa, thận, phổi hoặc các
bộ phận khác của cơ thể.
Trong bệnh ung thư tế bào máu mạn tính, các tế bào bất
thường có thể dần dần tích tụ lại ở các bộ phận khác nhau
của cơ thể. Bệnh có thể ảnh hưởng tới da, hệ thần kinh trung
ương, ống tiêu hóa, thận và tinh hoàn.
4. Ung thư tế bào máu được chẩn đoán như thế
nào?
Để tìm ra nguyên nhân của các triệu chứng, bác sĩ sẽ khai
thác tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm
sàng. Bên cạnh việc kiểm tra các dấu hiệu sức khỏe chung,
bác sĩ còn khám gan, lách, các hạch ở nách, bẹn và cổ.
172 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Xét nghiệm máu cũng giúp cho việc chẩn đoán. Mẫu máu
được quan sát dưới kính hiển vi để xem hình dạng tế bào
máu và xác định số lượng tế bào trưởng thành và số lượng
tế bào non (nguyên bào). Mặc dù xét nghiệm máu có thể cho
biết bệnh nhân bị bệnh ung thư tế bào máu, nhưng không
xác định được là loại ung thư tế bào máu gì.
Để xét nghiệm kỹ hơn về tế bào ung thư máu hoặc xác
định loại ung thư tế bào máu, bác sỹ chuyên khoa huyết học,
chuyên khoa ung thư hoặc chuyên gia bệnh học phải quan
sát tuỷ xương dưới kính hiển vi. Mẫu bệnh phẩm được lấy
bằng cách chọc hút tuỷ xương ở các xương dẹt (thường là
xương chậu). Khi cần thiết có thể phải sinh thiết tuỷ xương
bằng kim lớn hơn để lấy ra một mảnh xương và tuỷ xương
nhỏ. Nếu phát hiện ra tế bào ung thư máu trong mẫu tuỷ
xương, bác sĩ sẽ chỉ định các xét nghiệm khác để xác định
phạm vi của bệnh. Chọc lấy dịch tuỷ sống giúp phát hiện tế
bào ung thư trong dịch não tuỷ. Chụp X quang lồng ngực có
thể phát hiện các dấu hiệu bệnh trong lồng ngực.
5. Ung thư tế bào máu được điều trị như thế nào?
Hầu hết bệnh nhân bị bệnh ung thư tế bào máu được
điều trị bằng hóa chất. Một số bệnh nhân còn được điều trị
bằng tia phóng xạ hoặc ghép tuỷ xương hoặc liệu pháp sinh
học. Trong một số trường hợp, phẫu thuật cắt lách có thể là
một phần trong phác đồ điều trị.
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế
bào ung thư. Tuỳ thuộc vào loại ung thư tế bào máu, bệnh
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 173
nhân có thể được điều trị bằng một loại thuốc đơn độc hoặc
phối hợp hai hay nhiều loại thuốc.
Một số thuốc chống ung thư dùng đường uống. Còn lại
hầu hết các thuốc được tiêm truyền tĩnh mạch. Thông
thường thuốc được tiêm truyền vào tĩnh mạch qua một ống
thông đặt vào một tĩnh mạch lớn (tĩnh mạch cảnh trong hoặc
tĩnh mạch dưới đòn). Nhờ đó tránh cho bệnh nhân khỏi bị
đau đớn và các tổn thương da khi phải tiêm nhiều lần.
Thuốc chống ung thư đi vào cơ thể qua đường tiêm hoặc
uống sẽ theo mạch máu tới hầu khắp cơ thể để diệt các tế
bào ung thư. Tuy nhiên, thuốc thường không tiếp cận được
các tế bào ung thư trong hệ thần kinh trung ương do bị
hàng rào máu-não ngăn lại. Hàng rào bảo vệ này được cấu
tạo từ một mạng lưới mạch máu và có nhiệm vụ lọc dòng
máu đến não và tuỷ sống. Để tiếp cận được những tế bào
ung thư trong hệ thần kinh trung ương, thuốc chống ung
thư được tiêm trực tiếp vào dịch não tuỷ. Có hai cách để
đưa thuốc vào dịnh não tuỷ. Một số bệnh nhân được đưa
thuốc vào thuỷ sống (phần thắt lưng). Một số khác, đặc biệt
là trẻ em, được đặt một loại ống thông đặc biệt, gọi là ống
dự trữ Ommaya, đưa vào dưới da đầu để tạo một con
đường vào dịch não tuỷ. Người ta tiêm thuốc chống ung
thư vào ống dự trữ này thay cho tiêm vào tuỷ sống và như
vậy có thể thực hiện việc điều trị một cách dễ dàng hơn và
bệnh nhân cảm thấy thoải mái hơn.
Hóa chất được sử dụng thành từng đợt: một đợt điều trị,
sau đó là một đợt nghỉ hồi sức tiếp đến một đợt điều trị
174 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khác... Trong một số trường hợp, bệnh nhân được điều trị
bằng hóa chất ngoại trú ở bệnh viện, tại phòng khám của
bác sĩ hoặc tại nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc điều
trị và tình trạng sức khỏe chung, bệnh nhân có thể phải nằm
viện trong một thời gian ngắn.
Liệu pháp chiếu xạ được kết hợp với hóa trị liệu cho một
số loại ung thư tế bào máu. Xạ trị sử dụng các tia có năng
lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chúng phát
triển. Phóng xạ có thể được chiếu từ một máy lớn.
Xạ trị để điều trị bệnh bạch cầu có thể được tiến hành
theo hai cách. Đối với một số bệnh nhân, bác sĩ có thể chiếu
xạ cho một vùng cụ thể trên cơ thể nơi tập trung tế bào ung
thư máu, như lách hoặc tinh hoàn. Một số bệnh nhân khác
được chiếu xạ toàn thân. Chiếu xạ toàn thân thường được
thực hiện trước khi ghép tuỷ xương.
Ghép tuỷ xương cũng được chỉ định cho một số bệnh
nhân. Tuỷ xương sản xuất ra tế bào ung thư máu của
người bệnh bị phá huỷ bằng thuốc và phóng xạ liều cao,
sau đó được thay thế bằng tuỷ xương lành. Tuỷ xương
lành có thể là do một người khác cho hoặc có thể là lấy từ
chính bệnh nhân và được cất giữ, bảo quản trước khi bị
phá huỷ. Nếu sử dụng chính tuỷ xương của người bệnh
thì lúc đầu cần phải xử lý nó bên ngoài cơ thể để loại bỏ tế
bào ung thư. Bệnh nhân được ghép tuỷ xương thường
phải nằm viện trong vài tuần. Bệnh nhân cần được bảo vệ
cẩn thận tránh nhiễm khuẩn cho đến khi tuỷ xương ghép
có thể sản xuất đủ lượng bạch cầu.
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 175
Liệu pháp sinh học là phương pháp sử dụng các chất ảnh
hưởng tới đáp ứng của hệ thống miễn dịch lên ung thư.
Interferon là một dạng của liệu pháp miễn dịch để chống lại
một số loại ung thư tế bào máu. Rất khó hạn chế được tác
dụng của điều trị chỉ lên các tế bào ung thư. Do điều trị còn
phá huỷ các mô và tế bào lành nên nó cũng gây ra các tác
dụng phụ.
6. Tác dụng phụ của điều trị ung thư tế bào máu
như thế nào?
Các tác dụng này phụ thuộc chủ yếu vào loại và phạm vi
của điều trị. Hơn nữa, mỗi bệnh nhân lại có phản ứng khác
nhau. Tác dụng phụ của mỗi phương pháp điều trị cũng
khác nhau. Bác sĩ cố gắng lập phác đồ điều trị cho bệnh
nhân sao cho tác dụng phụ là tối thiểu.
Tác dụng phụ của hóa trị liệu
Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại
thuốc mà bệnh nhân dùng. Bên cạnh đó, cũng như các
phương pháp điều trị khác, tác dụng phụ ở mỗi người là
khác nhau. Nói chung, thuốc chống ung thư sẽ tác dụng lên
các tế bào đang phân chia. Tế bào ung thư phân chia nhanh
hơn tế bào thường và dễ bị hóa chất tác dụng hơn. Tuy
nhiên, một số tế bào lành cũng bị phá huỷ. Các tế bào lành
phân chia nhanh, như tế bào máu, tế bào ở chân tóc và tế
bào ống tiêu hóa, có khả năng bị tổn thương nhiều nhất. Khi
hóa chất gây ảnh hưởng tới tế bào lành, nó có thể làm giảm
176 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khả năng chống nhiễm khuẩn của bệnh nhân, bệnh nhân có
ít năng lượng hơn, dễ bị chảy máu và thâm tím hơn. Bệnh
nhân có thể bị rụng tóc, buồn nôn, nôn, đau miệng. Hầu hết
các tác dụng phụ sẽ dần biến mất trong thời gian nghỉ phục
hồi hoặc sau khi kết thúc điều trị.
Một số loại thuốc chống ung thư có thể ảnh hưởng tới
khả năng sinh sản của bệnh nhân. Chu kỳ kinh nguyệt ở
phụ nữ có thể không đều hoặc ngừng lại, khi đó người bệnh
có các triệu chứng giống thời kỳ mãn kinh, như bốc hoả và
khô âm đạo. Nam giới có thể ngừng sản xuất tinh trùng. Do
những thay đổi này có thể là vĩnh viễn nên một số nam giới
chọn cách lưu trữ tinh trùng bằng phương pháp đông lạnh.
Hầu hết trẻ em được điều trị bệnh ung thư tế bào máu có
khả năng sinh sản bình thường khi lớn lên. Tuy nhiên, tuỳ
theo loại thuốc và liều lượng sử dụng cũng như độ tuổi của
bệnh nhân, một số trẻ em cả nam và nữ có thể không sinh
con được khi trưởng thành.
Tác dụng phụ của liệu pháp chiếu xạ
Bệnh nhân được chiếu xạ sẽ rất mệt mỏi. Nghỉ ngơi là
điều quan trọng, nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân cố
gắng hoạt động khi họ có thể.
Khi được chiếu xạ vào vùng đầu, bệnh nhân thường bị
rụng tóc. Chiếu xạ có thể làm cho da đầu hoặc da ở vùng
chiếu xạ trở nên đỏ, khô, nhạy cảm và ngứa. Nên hướng dẫn
bệnh nhân cách giữ cho da sạch sẽ. Bệnh nhân không nên
bôi bất kỳ loại nước hay kem nào lên vùng được chiếu xạ mà
UNG THƯ TẾ B ÀO MÁU 177
không có lời khuyên của bác sĩ. Chiếu xạ còn có thể gây
buồn nôn, nôn và chán ăn. Những tác dụng phụ này có thể
tạm thời; bác sĩ và y tá sẽ gợi ý cách thức kiểm soát chúng
cho đến khi kết thúc điều trị.
Tuy nhiên, một số tác dụng phụ có thể kéo dài. Trẻ em
(đặc biệt là trẻ nhỏ) được chiếu xạ ở não bộ có thể gây ảnh
hưởng đến việc học tập và phối hợp các hoạt động. Do vậy,
bác sĩ cố gắng cho liều xạ thấp nhất có thể được và chỉ sử
dụng phương pháp điều trị này với những trẻ không đáp
ứng với hóa chất đơn độc.
Hơn nữa, chiếu xạ tinh hoàn có thể ảnh hưởng tới khả
năng sinh sản và sự sản xuất hoóc-môn. Hầu hết bé trai điều
trị bằng phương pháp này về sau không có khả năng sinh
con. Một số có thể còn cần phải sử dụng hoóc-môn.
Tác dụng phụ của ghép tuỷ xương
Bệnh nhân được ghép tuỷ xương phải đối mặt với nguy cơ
bị nhiễm khuẩn và chảy máu cao hơn cũng như có cả các tác
dụng phụ khác do điều trị bằng hóa chất và tia xạ liều cao.
Bên cạnh đó, hiện tượng mảnh ghép chống lại vật chủ có thể
xảy ra đối với những bệnh nhân nhận tuỷ xương từ một
người cho khác. Trong trường hợp này, tuỷ xương của người
cho sẽ phản ứng chống lại mô của người nhận (thường là gan,
da và ống tiêu hóa). Phản ứng thải ghép có thể nhẹ hoặc rất
trầm trọng. Nó có thể xảy ra bất cứ khi nào sau ghép (thậm
chí vài năm sau). Một số thuốc có thể được chỉ định để làm
giảm nguy cơ bị thải ghép và để điều trị chống thải ghép nếu
nó xảy ra.
178 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
7. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Khám theo dõi định kỳ sau khi điều trị bệnh ung thư tế
bào máu là rất quan trọng. Bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi bệnh
nhân chặt chẽ để chắc chắn ung thư không tái phát. Việc
khám định kỳ bao gồm xét nghiệm máu, tuỷ xương và dịch
não tuỷ. Thỉnh thoảng, bác sĩ tiến hành khám toàn bộ.
Việc điều trị ung thư có thể gây tác dụng phụ sau
nhiều năm. Do vậy bệnh nhân cần được tiếp tục khám và
theo dõi đều đặn cũng như cần thông báo bất kỳ vấn đề gì
bất thường về sức khỏe của mình cho bác sỹ biết càng sớm
càng tốt.
HỎ I & ĐÁP
về Sác-Côm Cơ Vân Trẻ Em
1. Sác-côm cơ vân trẻ em là gì?
Sarcom (đọc là sác-côm) cơ vân ở trẻ em, một loại u ác tính
mô mềm từ cơ thân, chiếm khoảng 3,5% các trường hợp ung
thư ở trẻ em trong độ tuổi từ 0 đến 14 và 2% các trường hợp
ung thư ở trẻ vị thành niên và thanh niên trẻ độ tuổi 15-19.
Bệnh có thể chữa khỏi được ở đa số trẻ em nếu được điều trị
một cách tối ưu, với trên 60% bệnh nhân sống sót năm năm sau
khi chẩn đoán. Các vị trí nguyên phát thường gặp nhất của
sác-côm cơ vân là ở vùng đầu cổ (ví dụ như vùng cận màng
não, hố mắt, hầu...), đường tiết niệu-sinh dục và các chi. Các vị
trí nguyên phát ít gặp hơn là thân, trong lồng ngực, ống tiêu
hóa (bao gồm gan và đường mật), vùng tầng sinh môn/hậu
môn.
2. Các yếu tố nguy cơ và tiên lượng của sác-côm cơ vân trẻ em là gì?
180 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Tuyệt đại đa số các trường hợp sác-côm cơ vân xảy ra
đơn lẻ và không phát hiện được các yếu tố cơ địa hoặc nguy
cơ mặc dù một tỷ lệ nhỏ các trường hợp có liên quan tới các
điều kiện gen. Các điều kiện gen này bao gồm hội chứng dễ
bị ung thư Li-Fraumeni (với đột biến mầm gen p53), u xơ
thần kinh týp I và hội trứng Beckwith-Viedemann (mặc dù u
Wilm và u nguyên bào gan là hai loại ung thư thường liên
quan tới hội chứng này hơn).
Tiên lượng của bệnh nhân sác-côm cơ vân lứa tuổi trẻ em
hoặc vị thành niên có liên quan tới vị trí nguyên phát, phạm
vi và dạng mô bệnh học của khối u. Còn có những số liệu
ban đầu mô tả ý nghĩa tiên lượng của các đặc điểm sinh học
đặc hiệu ở tế bào u sác-côm cơ vân. Các ví dụ về các yếu tố
lâm sàng và sinh học với ý nghĩa tiên lượng được trình bày
vắn tắt dưới đây:
Vị trí nguyên phát có tiên lượng tốt hơn bao gồm hố mắt,
vùng đầu cổ không cận màng não và vùng tiết niệu-sinh dục
không phải bàng quang và tuyến tiền liệt (đặc biệt là vùng
cận tinh hoàn và âm đạo) và đường mật.
Kích thước của khối u ở thời điểm chẩn đoán có ý nghĩa
tiên lượng. Bệnh nhân với khối u nhỏ hơn (< 5cm) có tỷ lệ
sống sót cao hơn so với bệnh nhân có khối u lớn hơn, còn
trẻ em khi được chẩn đoán đã phát hiện có ung thư di căn
có tiên lượng xấu nhất. Ý nghĩa tiên lượng của bệnh di căn
thay đổi tuỳ theo đặc điểm mô học của khối u, độ tuổi khi
chẩn đoán và vị trí nguyên phát. Bệnh nhân dưới 10 tuổi có
ung thư di căn và có khối u dạng bào thai có tỷ lệ sống
thêm năm năm trên 50%, còn những bệnh nhân trên 10 tuổi
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 181
hoặc có ung thư dạng nang có tiên lượng xấu hơn nhiều.
Tương tự, bệnh nhân ung thư di căn có khối u nguyên phát
ở hệ tiết niệu-sinh dục (không phải vùng bàng quang hay
tuyến tiền liệt) có tiên lượng tốt hơn bệnh nhân ung thư di
căn có khối u nguyên phát ở những vị trí khác. Bên cạnh
đó, bệnh nhân ung thư dù là khu trú nhưng đã lan sang các
hạch vùng có tiên lượng xấu hơn bệnh nhân ung thư chưa
lan vào hạch.
Phạm vi của bệnh sau khi phẫu thuật ban đầu (được chia
làm các nhóm lâm sàng) cũng có liên quan tới tiên lượng.
Trong nghiên cứu sác-côm cơ vân (IRS) trên ba nhóm lâm
sàng cho thấy rằng, bệnh nhân có khối u còn sót lại kích
thước đại thể (có thể nhìn thấy bằng mắt) sau phẫu thuật
ban đầu (Nhóm lâm sàng III) có tỷ lệ sống thêm năm năm
khoảng 70%, còn ở những bệnh nhân không còn sót lại khối
u sau phẫu thuật ban đầu (Nhóm lâm sàng I) có tỷ lệ sống
thêm năm năm trên 90% và tỷ lệ này ở những bệnh nhân
còn sót khối u chỉ trên vi thể (nhìn thấy bằng soi kính hiển
vi) sau phẫu thuật ban đầu (Nhóm lâm sàng II) là 80%.
Dưới loại u dạng nang thường gặp hơn ở những bệnh
nhân có biểu hiện lâm sàng xấu hơn (ví dụ, tuổi cao hơn, có
vị trí nguyên phát ở các chi và ung thư di căn) và thường có
tiên lượng xấu hơn. Trong một nghiên cứu sác-côm cũng
cho thấy, dưới loại sác-côm dạng nang có tiên lượng tồi nhất
ở các bệnh nhân có khối u ở vị trí nguyên phát đã được cắt
bỏ hoàn toàn (Nhóm lâm sàng I). Tuy nhiên các nhà khoa
học không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời
gian sống sót ở các dưới loại ung thư theo mô bệnh học khác
182 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nhau khi phân tích tất cả các bệnh nhân sác-côm cơ vân và
cũng không nhận thấy sự khác biệt về dưới nhóm theo mô
học ở một nhóm lớn các trẻ em Đức bị sác-côm cơ vân.
Trong nghiên cứu IRS-III, tiên lượng của bệnh nhân có khối
u ở nhóm lâm sàng I và dưới loại u dạng nang tương tự với
tiên lượng của các bệnh nhân khác có khối u ở nhóm lâm
sàng I, nhưng bệnh nhân có dưới loại u dạng nang được
điều trị tích cực hơn. Bệnh nhân bị sác-côm không biệt hóa
có khối u ở những vị trí tương tự và tiên lượng tượng tự với
bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng nang (ARMS) và thường
được điều trị như những bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng
nang.
Sự trình diện gen P-glycoprotein của khối u và sự liên
quan tới khả năng kháng đa thuốc và tiên lượng của nó đang
được nghiên cứu. Số liệu hiện chưa thống nhất.
Do điều trị và tiên lượng phụ thuộc một phần vào đặc
điểm mô học của khối u nên mô khối u cần được bác sĩ giải
phẫu bệnh có kinh nghiệm trong việc đánh giá và chẩn đoán
khối u ở trẻ em xem xét. Bên cạnh đó, do tính đa dạng của
các vị trí nguyên phát, yêu cầu có biện pháp phẫu thuật và
xạ trị riêng cho từng vị trí nguyên phát và kế tiếp là quá
trình phục hồi đặc hiệu cho từng vị trí nguyên phát, các
bệnh nhi bị sác-côm cơ vân cần được điều trị tại các trung
tâm y tế với các phương thức điều trị phù hợp nhất.
3. Sác-côm cơ vân trẻ em được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của sác-côm cơ vân trẻ em là gì?
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 183
Tùy thuộc vào vị trí của khối u nguyên phát mà sác-côm
cơ vân trẻ em gây ra các triệu chứng khác nhau:
- Sác-côm nguyên phát ổ hốc mắt: gây các triệu chứng lồi
mắt, phù quanh hốc mát và sụp mi.
- Sác-côm nguyên phát ở chi: thường là một khối thịt
trong bắp cơ, có thể nhầm với khối u máu hay u mềm.
- Sác-côm nguyên phát ở hệ sinh dục-tiết niệu: gây nên
đái ra máu, bí đường tiết niệu, tiểu tiện mất tự chủ.
Sác-côm cơ vân có thể phân ra thành nhiều dưới nhóm
theo mô học: dạng bào thai, dưới nhóm nhỏ dạng chùm
của sác-côm cơ vân dạng bào thai, dạng tế bào hình thoi,
dạng nang và dạng đa hình thái. Dưới nhóm dạng bào thai
là phổ biến nhất theo phân loại mô học sác-côm cơ vân ở
trẻ em, chiếm khoảng 60 - 70% các trường hợp. Khối u
thuộc dưới nhóm dạng bào thai thường xuất hiện ở vùng
đầu cổ hoặc trong hệ cơ quan tiết niệu-sinh dục mặc dù
chúng có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào. Khối u thuộc
dưới nhóm nhỏ dạng chùm chiếm khoảng 10% các trường
hợp sác-côm cơ vân và là u dạng bào thai xuất phát ở dưới
lớp niêm mạc của các lỗ tự nhiên trên cơ thể như âm đạo,
bàng quang, lỗ mũi ngoài và đường mật. Khối u thuộc dưới
nhóm tế bào hình thoi của sác-côm cơ vân dạng bào thai
thường xuất hiện ở vị trí cận tinh hoàn. Cả hai dưới nhóm
nhỏ dạng chùm và tế bào hình thoi có tiên lượng rất khả
quan. Khoảng 20% bệnh nhi bị sác-côm cơ vân thuộc nhóm
dạng nang; và tần suất mắc thể ung thư này tăng lên ở
bệnh nhân có vị trí nguyên phát ở các chi, thân, vùng tầng
184 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
sinh môn/quanh trực tràng. Sác-côm mô mềm không biệt
hóa cũng xuất hiện ở trẻ em và được điều trị tương tự như
sác-côm cơ vân dạng nang. Sác-côm cơ vân đa hình thái
xuất hiện chủ yếu ở bệnh nhân tuổi từ 30 đến 50 và hiếm
khi gặp ở trẻ em.
4. Sác-côm cơ vân trẻ em được chẩn đoán và phân
giai đoạn như thế nào?
Như đã lưu ý ở trên, tiên lượng cho trẻ em bị sác-côm cơ
vân phụ thuộc vào phạm vi của bệnh, vị trí nguyên phát và
dưới nhóm theo tiêu chuẩn mô học. Nhóm có tiên lượng tốt
đã được xác định qua các liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ
vân trước đây (IRS) và phác đồ điều trị đã được xác lập dựa
trên việc phân bệnh nhân vào các nhóm khác nhau theo tiên
lượng. Ba nghiên cứu liên nhóm đầu tiên về sác-côm cơ vân
(IRS I,II,III) lập phác đồ điều trị dựa trên hệ thống phân
nhóm lâm sàng với các nhóm được xác định theo phạm vi
của bệnh và phạm vi phẫu thuật ban đầu. Các định nghĩa về
các nhóm lâm sàng ở nghiên cứu IRS theo nhóm được đưa
ra dưới đây.
Nhóm I
Nhóm I có khối u khu trú được cắt bỏ hoàn toàn và
không có tế bào ung thư ở các hạch vùng. Gần 13% bệnh
nhân thuộc nhóm này.
Nhóm II
Nhóm IIA có khối u được cắt bỏ trên đại thể nhưng vẫn
còn sót lại trên vi thể và không có tế bào ung thư ở hạch
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 185
vùng. Nhóm IIB có bệnh còn khu trú trong vùng kèm theo
có lan vào hạch nhưng khối u còn cắt bỏ hoàn toàn được và
bệnh không còn sót lại. Nhóm IIC có khối u trong vùng kèm
theo lan vào hạch còn có thể cắt bỏ trên đại thể được nhưng
vẫn còn bằng chứng về còn sót bệnh về vi thể và/hoặc tổn
thương về mô học ở các hạch xa khối u nguyên phát ban đầu
nhất. Gần 20% các bệnh nhân thuộc nhóm này.
Nhóm III
Nhóm III có khối u nguyên phát không cắt bỏ được hết
(hoặc chỉ được tiến hành sinh thiết) và vì vậy còn sót trên
đại thể. Gần 48% bệnh nhân thuộc nhóm này.
Nhóm IV
Nhóm IV có khối u đã di căn xa tại thời điểm chẩn đoán.
Gần 18% bệnh nhân trong nhóm này.
Bên cạnh nhóm lâm sàng, phác đồ điều trị của liên nhóm
nghiên cứu sác-côm cơ vân hiện nay đưa ra dựa theo hệ
thống phân giai đoạn trước điều trị theo các tiêu chuẩn
TNM (khối u, hạch, di căn). Giai đoạn của bệnh nhân được
xác định dựa trên lâm sàng theo kích thước và vị trí của khối
u nguyên phát, tình trạng hạch và việc có di căn hay chưa.
Dưới đây là định nghĩa các giai đoạn:
Giai đoạn 1: Bệnh khu trú ở những vị trí thuận lợi như hố
mắt hoặc vùng đầu cổ (trừ các vị trí gần màng não) hoặc là
vùng tiết niệu-sinh dục không phải bàng quang và tuyến
tiền liệt hoặc đường mật.
186 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Giai đoạn 2: Bệnh khu trú ở tất cả những vị trí không
thuận lợi không có trong giai đoạn I. Đường kính của các
khối u nguyên phát từ 5cm trở xuống và không có tế bào
ung thư ở hạch vùng.
Giai đoạn 3: Bệnh khu trú ở tất cả các vị trí không có trong
giai đoạn I. Những bệnh nhân này khác bệnh nhân ở nhóm
giai đoạn II ở đặc điểm có đường kính khối u lớn hơn 5cm
và/hoặc có tế bào ung thư ở hạch vùng.
Giai đoạn 4: Bệnh đã di căn ở thời điểm chẩn đoán.
Phân loại theo IRS chỉ định cho bệnh nhân các phác đồ
điều trị dựa vào hệ thống phân loại theo nguy cơ là hệ thống
kết hợp nhóm lâm sàng với thông tin về giai đoạn trình bày
ở trên. Bệnh nhân được chia theo các nhóm tuỳ theo mức độ
nguy cơ thấp, trung bình và cao. Dưới đây là các định nghĩa
chung của từng nhóm:
Nhóm có nguy cơ thấp: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân dạng
bào thai khu trú xuất hiện ở các vị trí thuận lợi (như trong
giai đoạn I) và bệnh nhân bị sác-côm cơ vân dạng bào thai
xuất hiện ở các vị trí không thuận lợi nhưng có thể cắt bỏ
hoàn toàn được (như trong nhóm lâm sàng I) hoặc chỉ còn
sót tế bào ung thư trên vi thể (như trong nhóm lâm sàng II).
Nhóm có nguy cơ trung bình: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân
dạng bào thai xuất hiện ở các vị trí không thuận lợi có khối u
còn sót lại trên đại thể (như trong nhóm lâm sàng III), bệnh
nhân có sác-côm cơ vân dạng bào thai di căn là trẻ dưới 10
tuổi và bệnh nhân có sác-côm cơ vân dạng nang không di
căn hoặc sác-côm không biệt hóa ở tất cả các vị trí.
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 187
Nhóm có nguy cơ cao: Bệnh nhân bị sác-côm cơ vân di căn
hoặc không biệt hóa khi đến khám bệnh lần đầu trừ các
trường hợp dạng bào thai ở trẻ em dưới 10 tuổi.
5. Sác-côm cơ vân trẻ em được điều trị như thế nào?
Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Các lựa chọn điều trị phẫu thuật
Nguyên tắc cơ bản trong điều trị bằng phẫu thuật ban
đầu cho trẻ em bị sác-côm cơ vân là cắt bỏ toàn bộ khối u
nguyên phát cùng với các mô lành “bao” xung quanh, mặc
dù vẫn có các trường hợp ngoại lệ (ví dụ như khi khối u ở
hố mắt và ở vùng tiết niệu-sinh dục). Nguyên tắc cắt bỏ rộng
và toàn bộ khối u nguyên phát ít được áp dụng với những
bệnh nhân ung thư được phát hiện di căn khi thực hiện
phẫu thuật ban đầu, nhưng có thể áp dụng nếu dễ thực hiện.
Bệnh nhân có khối u sót lại trên vi thể sau phẫu thuật ban
đầu dường như có tiên lượng tốt hơn nếu được tiến hành
phẫu thuật lần hai để cắt phần mô nền của khối u rộng hơn
trước khi điều trị bằng hóa chất để loại bỏ toàn bộ khối u. Vì
sác-côm cơ vân có thể xuất hiện ở rất nhiều vị trí khác nhau
nên cần có các biện pháp phẫu thuật phù hợp với từng vị trí.
Dưới đây là thái độ xử trí ngoại khoa cho các vị trí nguyên
phát thường gặp.
Vùng đầu cổ
Đối với những khối u ở vùng đầu cổ nằm trên bề mặt và
không phải hố mắt, phẫu thuật rộng là phù hợp nếu thực
188 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hiện được, mặc dù các mép cắt thường hẹp hơn do những
hạn chế về giải phẫu. Cần phải luôn chú ý tới các yếu tố về
thẩm mỹ và bảo tồn chức năng, nhưng với kỹ thuật hiện đại
việc cắt bỏ toàn bộ khối u ở những bệnh nhân có khối u nằm
trên bề mặt không cần phải thống nhất với các kết quả thẩm
mỹ và chức năng. Đội ngũ các bác sĩ chuyên khoa ngoại đã
cắt bỏ được những khối u phần trước hộp sọ ở những vùng
mà trước đây được coi là không thể tiếp cận bằng phẫu thuật,
bao gồm vùng mũi, các xoang mũi và hố thái dương. Tuy
nhiên những kỹ thuật này chỉ nên áp dụng với trẻ em bị sác-
côm cơ vân khu trú tái phát và còn sót lại tế bào ung thư sau
khi điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ. Đối với các bệnh
nhân có khối u nguyên phát vùng đầu cổ không thể cắt bỏ
được, hóa trị liệu và tia xạ trị liệu là những phương pháp điều
trị ban đầu chủ yếu. Sác-côm cơ vân hố mắt không đòi hỏi
phải khoét bỏ mắt khi chẩn đoán, chỉ cần tiến hành sinh thiết
để chẩn đoán xác định. Việc điều trị chủ yếu là bằng hóa chất
và tia phóng xạ, khoét bỏ mắt chỉ áp dụng cho một số ít bệnh
nhân khi có bệnh dai dẳng khu trú hoặc bệnh tái phát.
Các vị trí ở thân
Phẫu thuật cho bệnh nhân có tổn thương ở thành ngực
hoặc thành bụng nên tiến hành theo hướng dẫn như cho tổn
thương ở các chi, đó là phẫu thuật cắt rộng tại chỗ và cố
gắng cắt toàn bộ không để sót tế bào ung thư trên vi thể.
Điều này có thể đòi hỏi phải sử dụng chất liệu nhân tạo thay
thế nhưng có thể thực hiện thành công ở đa số bệnh nhân có
tổn thương ở những vị trí này. Đối với các khối u rất lớn cần
phải tiến hành sinh thiết trước khi điều trị bằng hóa chất,
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 189
sau đó là cắt bỏ khối u đến mép lành và phẫu thuật tạo hình.
Hầu hết bệnh nhân có khối u ở những vị trí này thì bệnh còn
khu trú và có thể cắt bỏ toàn bộ tới mép lành và do vậy có
thời gian sống thêm rất dài.
Khối u ở trong lồng ngực hay ổ bụng hiếm khi có thể cắt
bỏ được bởi vì kích thước khối u đã rất lớn khi chẩn đoán
được và chúng đã xâm lấn vào các cơ quan quan trọng.
Trường hợp ngoại lệ có thể là sác-côm cơ vân xuất phát
trong đường mật, nhưng thậm chí trong các trường hợp này
hiếm khi có thể cắt bỏ toàn bộ khối u, tuy nhiên tiên lượng
bệnh vẫn tốt mặc dù không thể cắt bỏ hết khối u được. Các
ống dẫn lưu mật ra ngoài có thể làm tăng đáng kể nguy cơ
nhiễm khuẩn sau mổ và việc phẫu thuật sác-côm cơ vân
đường mật một cách nặng nề là không được đảm bảo.
Hệ tiết niệu-sinh dục
Các vị trí nguyên phát của sác-côm cơ vân ở trẻ em trong
hệ tiết niệu-sinh dục bao gồm vùng cận tinh hoàn, bàng
quang, tuyến tiền liệt, âm đạo và tử cung. Các vấn đề được
các bác sĩ xem xét trong xử trí ngoại khoa các khối u xuất
phát từ những vị trí này được nêu dưới đây.
Các tổn thương cạnh tinh hoàn hoặc thừng tinh cần được
loại bỏ bằng phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn và toàn bộ thừng
tinh, để làm việc này bác sĩ phẫu thuật cần phải thực hiện
một vết rạch ở bẹn và phải kiểm soát mạch máu đoạn trên
(phẫu thuật cắt tinh hoàn toàn bộ). Cần phải cắt bỏ da ở bìu
khi khối u bị dính hoặc xâm lấn vào hoặc khi trước đó đã
thực hiện sinh thiết qua bìu. Các trường hợp có khối u gần
190 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
tinh hoàn có mức độ lan sang hệ bạch huyết tương đối cao
(26% các nghiên cứu ở liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ vân
IRS-I và IRS-II) và tất cả các bệnh nhân có khối u nguyên
phát ở gần tinh hoàn sẽ được chụp cắt lớp vi tính ở vùng
chậu và vùng bụng với lớp cắt mỏng có tiêm thuốc cản
quang để đánh giá hệ hạch. Đối với những bệnh nhi dưới 10
tuổi, bệnh nhi thuộc nhóm lâm sàng I và bệnh nhi không có
hạch to trên phim CT thì không cần phải tiến hành sinh thiết
hạch sau phúc mạc, tuy nhiên phải chụp cắt lớp vi tính ba
tháng một lần. Đối với những bệnh nhân nghi có hạch hoặc
phát hiện thấy hạch trên phim CT thì được sinh thiết hạch
sau phúc mạc (nhưng không phẫu tích chính thức) và quyết
định điều trị dựa trên kết quả sinh thiết. Đối với tất cả
những trẻ em trên 10 tuổi có sác-côm cơ vân gần tinh hoàn
việc phẫu tích hạch sau phúc mạc cùng bên đều được chỉ
định vì khả năng di căn ung thư từ các vị trí này vào hệ bạch
huyết vùng tương đối cao. Các nhà nghiên cứu châu Âu có
xu hướng chẩn đoán dựa vào kết quả chụp phim hơn là kết
quả đánh giá hạch sau phúc mạc được sinh thiết qua phẫu
thuật.
Bảo tồn bàng quang là mục tiêu quan trọng của phương
pháp điều trị cho bệnh nhân có khối u bàng quang và tuyến
tiền liệt. Trong một số trường hợp hiếm gặp khối u chỉ nằm
ở đỉnh (đáy) bàng quang và có thể cắt bỏ toàn bộ. Trái lại để
bảo tồn chức năng của bàng quang ở bệnh nhân có khối u
còn sót lại trên đại thể thì bệnh nhân có thể được điều trị
bằng hóa chất và tia phóng xạ để làm giảm kích thước khối
u, sau đó nếu cần có thể tiến hành phẫu thuật ở mức độ hạn
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 191
chế hơn như cắt bỏ bàng quang một phần. Kết quả ban đầu
của phương pháp này gây thất vọng, chỉ có 20-40% bệnh
nhân có khối u ở bàng quang/ tuyến tiến liệt còn sống và
duy trì được chức năng của bàng quang trong vòng ba năm
tính từ thời gian bệnh được chẩn đoán (tỷ lệ bệnh nhân có
thời gian sống thêm ba năm trong các nghiên cứu IRS-II là
70%); các nghiên cứu IRS-III mới đây sử dụng hóa chất và tia
xạ tích cực hơn cho kết quả 50% bệnh nhân còn sống và duy
trì được chức năng của bàng quang ba năm sau khi bệnh
được chẩn đoán, với tỷ lệ bệnh nhân sống thêm được ba
năm nói chung là 90%. Vì vậy phương pháp này được chấp
nhận rộng rãi với hy vọng là việc điều trị bằng hóa chất và
tia phóng xạ hiệu quả hơn có thể tăng tần suất bảo tồn được
bàng quang. Quá trình phẫu thuật ban đầu ở hầu hết bệnh
nhân bao gồm sinh thiết, thường được thực hiện qua nội soi,
qua đáy chậu hoặc trên xương mu nhưng hiếm khi cần phải
phẫu thuật mở bụng. Như vậy, đối với những bệnh nhân
mà kết quả sinh thiết cho thấy khối u vẫn còn sót lại sau khi
điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ, xử trí phẫu thuật phù
hợp có thể bao gồm cắt bàng quang một phần, cắt bỏ tuyến
tiền liệt hoặc cắt bỏ nội tạng (thường phải bảo tồn trực
tràng). Một nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân có khối u bàng
quang nguyên phát nếu những khối u còn sót lại có tế bào
trưởng thành về mô học thì có thể điều trị bằng các đợt hóa
chất bổ sung trước khi xem xét việc cắt bỏ bàng quang.
Đối với những bệnh nhân có khối u nguyên phát ở hệ tiết
niệu-sinh dục như âm đạo/âm hộ/tử cung, quá trình phẫu
thuật ban đầu thường là sinh thiết qua âm đạo. Đáp ứng của
khối u ở âm đạo và âm hộ đối với hóa trị liệu thường giúp
192 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
bệnh nhân không cần phải phẫu thuật triệt căn ban đầu (ví
dụ như cắt bỏ nội tạng vùng hố chậu). Phẫu thuật bảo tồn
cho bệnh nhân bị sác-côm cơ vân âm đạo, kèm theo hóa trị
liệu ban đầu và tia xạ trị liệu bổ trợ khi cần thiết, sẽ kéo dài
rõ rệt thời gian sống thêm không có bệnh tật. Vì chỉ có một
số ít bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tử cung nên rất khó đưa
ra quyết định điều trị cuối cùng. Trong một nghiên cứu trên
14 bệnh nhân thì 13 bệnh nhân có đáp ứng tốt với hóa trị
liệu, phẫu thuật hạn chế và xạ trị. Nhưng không may 4 trong
số 14 bệnh nhân chết vì nhiễm khuẩn huyết và/ hoặc do các
biến chứng khác liên quan tới điều trị. Đối với u nguyên
phát ở những vị trí này thường không cần tiến hành cắt bỏ
nội tạng nhưng nếu cần loại phẫu thuật này có thể được tiến
hành trong hầu hết các trường hợp với điều kiện là phải bảo
tồn trực tràng.
Đối với các bệnh nhân bị sác-côm cơ vân xuất phát từ
vùng bàng quang và tuyến tiền liệt được điều trị bằng hóa
chất và tia phóng xạ, nếu khối u gồm các nguyên bào cơ vân
biệt hóa cao trên tiêu bản phẫu thuật hoặc tiêu bản sinh thiết
sau điều trị thì thường nguy cơ tái phát không cao và không
có chỉ định phẫu thuật cắt bỏ bàng quang toàn phần. Chỉ
nên xem xét chỉ định phẫu thuật khi các nguyên bào cơ vân
không mất đi sau khi điều trị bằng hóa chất và tia phóng xạ
ban đầu. Đối với sác-côm cơ vân ở các vị trí khác trong cơ
thể người ta chưa rõ có nên xử trí tương tự như vậy hay
không do số liệu còn rất hạn chế.
Các khối u ở chi
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 193
Phẫu thuật triệt để bao gồm cắt bỏ rộng khối u tại chỗ
cho tới mô lành quanh khối u. Có thể cắt bỏ khối u nguyên
phát lần hai cho những bệnh nhân có khối u còn sót lại trên
vi thể sau phẫu thuật ban đầu. Phẫu thuật cắt cụt chi có thể
áp dụng cho một số bệnh nhân có tổn thương ngoài cơ như
các dây thần kinh hoặc mạch máu lớn. Do khả năng lan
sang hạch của các khối u nguyên phát ở các chi rất cao
(thường không có triệu chứng lâm sàng) và các ảnh hưởng
của điều này đối với tiên lượng và điều trị, việc thăm dò kỹ
lưỡng hệ thống hạch trước điều trị là rất cần thiết. Một
công trình của liên nhóm nghiên cứu sác-côm cơ vân
(IRSG) khuyên nên vét sạch hạch nách (bảo tồn cơ ngực,
dây thần kinh cơ răng cưa to và dây thần kinh ngực) đối
với những bệnh nhân có khối u nguyên phát ở chi trên và
không có hạch trên lâm sàng, đồng thời cũng khuyên nên
lấy mẫu hạch ở tam giác đùi đối với những bệnh nhân có
khối u nguyên phát ở chi dưới. Nếu có hạch trên lâm sàng
thì cần sinh thiết các hạch gần trung tâm hơn trước khi vét
hạch hoặc lấy mẫu xét nghiệm hạch vùng bất thường. Sơ
đồ các hạch dễ bị tế bào ung thư xâm lấn đầu tiên được sử
dụng ở một số trung tâm để xác định những hạch vùng dễ
có khả năng bị ảnh hưởng nhất.
Các vị trí di căn
Phẫu thuật cắt bỏ khối u di căn hiếm khi được chỉ định
trừ trường hợp di căn phổi đơn độc. Nên cắt bỏ khối u di
căn phổi còn tồn tại sau khi điều trị bằng hóa chất và tia
phóng xạ khi có thể để giúp bệnh nhân thoát khỏi bệnh tật,
nếu vẫn duy trì được chức năng của phổi đầy đủ.
194 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Lựa chọn điều trị hóa chất:
Lựa chọn điều trị chuẩn:
Tất cả bệnh nhi bị sác-côm cơ vân nên được điều trị bằng
hóa chất, với liều lượng và thời gian tuỳ thuộc vào kết quả
phân tích các yếu tố nguy cơ tương ứng.
Đối với bệnh nhân có tiên lượng tốt, yếu tố cần xem xét
quan trọng nhất là phải duy trì được tỷ lệ sống sót cao
(>90%) trong khi phải làm giảm hậu quả của hóa chất xuống
mức thấp nhất. Bệnh nhân có tiên lượng tốt là những bệnh
nhân bị sác-côm cơ vân dạng bào thai xuất hiện ở những vị
trí thuận lợi (như các vị trí đề cập trong giai đoạn 1) và sác-
côm cơ vân dạng bào thai ở các vị trí không thuận lợi nhưng
có thể cắt bỏ hoàn toàn (như trong nhóm lâm sàng I) hoặc có
thể còn sót lại trên vi thể (như trong nhóm lâm sàng II).
Một phân nhóm các bệnh nhân có tiên lượng tốt đạt
được tỷ lệ sống sót cao khi được điều trị chỉ bằng vincristin
(VCR) kết hợp với dactinomycin (DACT). Phân nhóm này
được xác định theo vị trí thuận lợi có thể cắt bỏ toàn bộ
hoặc chỉ còn sót lại trên vi thể, vị trí u không thuận lợi
nhưng kích thước khối u nhỏ và có thể cắt bỏ toàn bộ hoặc
u nguyên phát ở hố mắt còn lại trên đại thể (xem thêm chi
tiết ở mục nói về giai đoạn). Đối với những bệnh nhân có
khối u nguyên phát ở hố mắt, việc bổ sung thêm
cyclophosphamid cùng với VCR và DACT có thể tăng tỷ lệ
sống thêm không có biến cố, nhưng không có ảnh hưởng
tới thời gian sống thêm (tỷ lệ bệnh nhân sống thêm năm
năm là 95%). Do việc dùng cyclophosphamid có thể gây
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 195
độc kéo dài nên phương pháp điều trị được ưu tiên sử
dụng hiện nay ở Hoa Kỳ là chỉ dùng VCR và DACT và
chiếu xạ với liều lượng và trường chiếu phù hợp.
Một phân nhóm bệnh nhân khác có tiên lượng tốt với tỷ
lệ sống sót cao khi điều trị bằng VCR và DATC kết hợp với
cyclophosphamid. Phân nhóm này bao gồm các bệnh nhân
có khối u ở vị trí thuận lợi và có hạch bị xâm lấn, bệnh nhân
có khối u ở vị trí thuận lợi (trừ hố mắt) và còn sót lại trên đại
thể, bệnh nhân có khối u nhỏ ở những vị trí không thuận lợi
và khối u còn sót lại trên vi thể hoặc đã có hạch bị tế bào ung
thư xâm lấn và bệnh nhân có khối u lớn ở những vị trí
không thuận lợi nhưng khối u không sót lại trên đại thể.
Bệnh nhân có tiên lượng ở mức trung bình có tỷ lệ sống
sót từ 55% đến 70%. Nhóm này bao gồm các bệnh nhân sác-
côm cơ vân dạng bào thai ở những vị trí không thuận lợi và
có khối u sót lại trên đại thể (như trong nhóm lâm sàng III),
bệnh nhân dưới 10 tuổi bị sác-côm cơ vân dạng bào thai đã
di căn và bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng nang không di căn
ở bất kỳ vị trí nào. Đối với bệnh nhân có tiên lượng ở mức
trung bình, VAC (VCR, DATC và cyclophosphamid) là phác
đồ điều trị hóa chất chuẩn. Liên nhóm nghiên cứu sác-côm
cơ vân (IRS-IV) đã lựa chọn bệnh nhân một cách ngẫu nhiên
để điều trị hoặc bằng phác đồ chuẩn VAC hoặc là một trong
hai phác đồ điều trị bằng thuốc khác. Một phác đồ kết hợp
VCR và DACT với ifosfamid (VAI), dựa trên hoạt tính chống
sác-côm cơ vân của ifosfamid. Phác đồ thứ hai phối hợp
VCR với ifosfamid và etoposid (VIE). Sự kết hợp ifosfamid
với etoposid có hoạt tính rất mạnh chống sác-côm cơ vân
196 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II. Trong nghiên cứu
IRS-IV cho thấy không có sự khác biệt về tiên lượng giữa 3
phác đồ điều trị này và xác nhận VAC vẫn là phác đồ chuẩn
đối với bệnh nhi sác-côm cơ vân có tiên lượng ở mức trung
bình. So sánh các bệnh nhân có khối u dạng bào thai trong
IRS-IV được điều trị bằng cyclophosphamid liều cao hơn
(hoặc ifosfamid liều tương đương) với những bệnh nhân có
tình trạng tương tự trong IRS-III được điều trị với liều lượng
thấp hơn cho thấy lợi ích của việc sử dụng liều lượng cao
hơn ở một số nhóm bệnh nhân nhất định có nguy cơ ở mức
trung bình, nhóm này chủ yếu là những bệnh nhân có khối
u ở vị trí thuận lợi hoặc là bệnh nhân có khối u ở vị trí không
thuận lợi nhưng đã được cắt bỏ hoàn toàn trên đại thể
(nhưng không phải những bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng
bào thai ở những vị trí không thuận lợi và không thể cắt bỏ).
Bệnh nhân có khối u di căn tại thời điểm chẩn đoán (giai
đoạn IV) có tiên lượng xấu khi điều trị bằng phương pháp
hiện nay, cần phải có các phương pháp điều trị mới để tăng
tỷ lệ sống sót cho những bệnh nhân này. Các trường hợp
ngoại lệ là những bệnh nhân có u dạng bào thai và dưới 10
tuổi. Những bệnh nhân này dường như có tiên lượng tốt
hơn nhiều (tỷ lệ sống sót >50%) so với các bệnh nhân có ung
thư di căn khác.
Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá lâm sàng:
(1) Chế độ điều trị nhiều thuốc thay thế: Những chế độ
điều trị này kết hợp phác đồ VAC và doxorubicin với
các phương pháp điều trị phối hợp thuốc khác. Mặc
dù những chế độ điều trị nhiều loại thuốc này cho các
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 197
kết quả tốt nhưng vẫn chưa có các nghiên cứu so
sánh nào cho thấy chúng có hiệu quả hơn phương
pháp chỉ sử dụng VAC.
(2) VAC liều cao: Các nghiên cứu trước đây của IRSG
cho thấy sự cải thiện đáng kể về tiên lượng của
những bệnh nhân sác-côm cơ vân dạng bào thai khi
tăng liều lượng CYC trong các nghiên cứu kế tiếp
nhau. Kết quả này đã tạo ra động lực để tiếp tục
nghiên cứu xem liệu điều trị bằng cyclophosphamid
liều cao hơn có thể cải thiện hơn nữa tiên lượng của
bệnh nhân sác-côm cơ vân có nguy cơ trung bình và
cao hay không, nhưng vẫn chưa có số liệu của những
nghiên cứu đánh giá chiến lược điều trị này.
(3) Cho thêm yếu tố ức chế topoisomerase-I (topotecan
hoặc irinotecan) vào chế độ điều trị VAC: Topotecan,
một yếu tố ức chế topoisomerase-I, có hoạt tính chống
ung thư cao ở mô hình sác-côm cơ vân trên mảnh
ghép ngoại lai. IRSG đã chứng minh topotecan là một
tác nhân tích cực chống lại sác-côm cơ vân ở những
bệnh nhân chưa được điều trị trước đó, đặc biệt là
những bệnh nhân có tế bào u dạng nang. Điều trị kết
hợp cyclophosphamid và topotecan có hiệu quả cao
đối với bệnh nhân sác-côm cơ vân tái phát. Sự kết
hợp cyclophosphamid và topotecan đang được IRSG
nghiên cứu và đánh giá để điều trị cho bệnh nhi sác-
côm cơ vân có tiên lượng trung bình. Hiệu quả của
irinotecan đối với bệnh nhi sác-côm cơ vân di căn
198 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
hiện đang được IRSG nghiên cứu (ngoại trừ bệnh
nhân dưới 10 tuổi có khối u dạng bào thai).
(4) Ghép tuỷ xương tự thân (ABMT): ABMT đã được
đánh giá trên một số lượng hạn chế các bệnh nhân
sác-côm cơ vân. Chiến lược điều trị này thường sử
dụng phác đồ hóa trị liệu, tia xạ trị liệu và phẫu thuật
thường quy trong vòng khoảng 6 tháng để làm giảm
đáng kể kích thước khối u. Sau đó bệnh nhân sẽ được
điều trị 1 hoặc 2 đợt hóa chất myeloablative (diệt tuỷ
xương) và tiếp đó là ghép tuỷ. Các dữ liệu hiện có
cho thấy ABMT không có tác dụng trong điều trị
bệnh nhân sác-côm cơ vân có tiên lượng xấu và chỉ
nên được sử dụng như là một phần của các thử
nghiệm lâm sàng có kiểm soát.
Các lựa chọn điều trị tia phóng xạ
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
Xạ trị là một phương pháp điều trị hiệu quả để kiểm soát
tại chỗ khối u cho bệnh nhân sác-côm cơ vân còn sót lại trên
vi thể hoặc đại thể sau phẫu thuật hoặc hóa trị liệu ban đầu.
Bệnh nhân có u dạng bào thai có thể phẫu thuật cắt bỏ hoàn
toàn được (nhóm lâm sàng I) thì không cần chiếu xạ, nhưng
chiếu xạ có lợi cho những bệnh nhân thuộc nhóm lâm sàng I
có u tế bào dạng nang hoặc không biệt hóa. Cũng như đối
với phẫu thuật, việc chỉ định điều trị bằng tia phóng xạ cho
bệnh nhân sác-côm cơ vân phụ thuộc vào vị trí của khối u
nguyên phát và phạm vi của bệnh sau phẫu thuật.
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 199
Để có sự chăm sóc tối ưu cho những bệnh nhi đang được
điều trị bằng tia xạ cần phải có bác sĩ tia xạ ung thư, kỹ thuật
viên chiếu tia và y tá có kinh nghiệm trong điều trị cho trẻ
em. Các cơ sở điều trị nên trang bị máy gia tốc thẳng và các
phương tiện có khả năng thực hiện liệu pháp bằng chùm
electron. Cần có kế hoạch điều trị được vi tính hóa, tốt nhất
là với hệ thống lập phác đồ ba chiều. Nên tính đến các kỹ
thuật chiếu xạ chính thức (ví dụ như chiếu xạ điều biến
cường độ, chiếu xạ proton hoặc chiếu xạ khoảng kẽ/chiếu xạ
trong khoang).
Liều lượng phóng xạ phụ thuộc chủ yếu vào phạm vi
của bệnh sau phẫu thuật ban đầu. Nói chung bệnh nhân bị
sác-côm cơ vân còn sót lại trên vi thể (nhóm lâm sàng I)
được được điều trị với liều phóng xạ khoảng 4100 cGy,
mặc dù liều từ 3000 đến 4000 cGy có thể là phù hợp đối
với những bệnh nhân có đáp ứng tốt với đa hóa chất.
Nhóm bệnh nhân IRS-II có khối u sót lại trên đại thể
(nhóm lâm sàng III) khi được điều trị liều từ 4000 đến trên
5000 cGy có tỷ lệ tái phát bệnh tại chỗ hoặc vùng trên
30%; liều chiếu xạ cao hơn (>6000 cGy) gây ra các tác dụng
phụ lâu dài không thể chấp nhận được. Bệnh nhân đang
được điều trị theo IRS-IV chuẩn cần nhận liều chiếu
khoảng 5000 cGy.
Khối lượng điều trị được quyết định tuỳ theo phạm vi
của khối u tại thời điểm chẩn đoán trước khi tiến hành
phẫu thuật và trước khi điều trị bằng hóa chất. Thông
thường mép cắt phải cách rìa khối u 2cm và cần vét các
hạch có dấu hiệu bị xâm lấn trên lâm sàng. Trong khi lượng
200 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
phóng xạ điều trị có thể được điều chỉnh tuỳ theo chỉ dẫn
về độ dung nạp của các mô lành, vùng u sót lại trên đại thể
phải được nhận liều phóng xạ đủ. Thời điểm chiếu xạ
thường bắt đầu sau khi điều trị bằng hóa chất được 2 - 3
tháng, ngoại trừ các trường hợp có khối u gần màng não và
có bằng chứng của sự lan vào màng não thì thường được
chiếu xạ ngay khi bệnh được chẩn đoán. Điều trị bằng tia
xạ thường được thực hiện trong vòng 5 đến 6 tuần (ví dụ
180 cGy mỗi ngày trong vòng 28 ngày điều trị), trong thời
gian này phải điều chỉnh liều hóa chất để tránh tác nhân
gây nhạy cảm phóng xạ là dactinomycin.
Dưới đây là một số phác đồ điều trị tia phóng xạ cải tiến đối
với các khối u nguyên phát đặc biệt cho các bệnh nhân IRS-IV:
(1) Đối với bệnh nhân có khối u ở hố mắt phải có các
biện pháp để bảo vệ thuỷ tinh thể, giác mạc, tuyến lệ
và giao thoa thần kinh thị giác.
(2) Bệnh nhân có khối u nguyên phát ở bàng quang/tuyến
tiền liệt và có khối u lớn ở khung chậu gây tắc nghẽn
đường ra của bàng quang sẽ được điều trị liều phóng
xạ tuỳ theo kết quả thăm dò hình ảnh sau khi đã điều
trị bằng hóa chất ban đầu.
(3) Bệnh nhân có khối u nguyên phát gần màng não đã
lan tiếp vào nội sọ và/hoặc có bào mòn xương đáy
sọ và/hoặc liệt dây thần kinh sọ não thì không cần
phải chiếu xạ toàn não bộ. Nên chiếu xạ cho những
bệnh nhân này vào vị trí của khối u nguyên phát và
vượt ra ngoài mép khối u 2cm để bao gồm vùng
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 201
màng não cận khối u nguyên phát và vào vùng u
lan vào trong hộp sọ và cũng vượt ra ngoài rìa 2cm.
Bệnh nhân có ung thư lan vào trong hộp sọ nên
được bắt đầu chiếu xạ trong vòng 2 tuần sau khi
chẩn đoán.
(4) Mặc dù hiếm khi xuất hiện, những bệnh nhi có tế
bào khối u ở trong dịch não tuỷ, có dấu hiệu tổn
thương màng não lan tỏa hoặc nhiều ổ di căn vào
nhu mô não từ khối u nguyên phát ở xa thì sẽ được
chiếu xạ toàn não bộ kèm theo hóa chất/tia xạ để
điều trị khối u nguyên phát. Chiếu xạ cột sống có
thể được tiến hành phối hợp với các phương pháp
điều trị khác và với sự thận trọng của các nhà
nghiên cứu/bác sỹ lâm sàng.
Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá lâm sàng:
Đối với bệnh nhân sác-côm cơ vân còn sót lại trên đại thể
sau phẫu thuật ban đầu, nghiên cứu IRS-IV đang so sánh
phương pháp chiếu xạ thường quy với phương pháp chiếu
xạ chia nhỏ liều. Phương pháp chiếu xạ chia nhỏ liều cho
phép đạt tổng liều phóng xạ vào khối u cao hơn mà không
làm tăng độc tính đối với mô lành về sau và được sử dụng
rộng rãi cho những bệnh nhân có khối u ở hệ thần kinh
trung ương (đặc biệt là u tế bào thần kinh đệm thân não).
Nhóm bệnh nhân IRS-IV được điều trị bằng phương pháp
chiếu xạ chia nhỏ liều nhận tổng liều 5940 cGy (phân liều
chiếu 110 cGy, chiếu hai lần mỗi ngày) và nhóm bệnh nhân
202 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
được điều trị bằng phương pháp chiếu xạ thường quy nhận
tổng liều xạ 5040 cGy (một phân liều 180 cGy mỗi ngày).
Phương pháp chiếu xạ áp sát sử dụng nguyên liệu phóng
xạ đặt vào trong khoang rỗng hoặc vào khoảng kẽ là một
phương pháp kiểm soát khối u tại chỗ khác còn đang được
nghiên cứu và đã được sử dụng để điều trị cho bệnh nhi bị
sác-côm cơ vân, đặc biệt là những bệnh nhi có khối u
nguyên phát ở âm đạo hoặc âm hộ. Trong một nghiên cứu
nhỏ của một đơn vị duy nhất, phương pháp điều trị này cho
tỷ lệ sống sót cao (85%) và duy trì được chức năng của âm
đạo ở đa số bệnh nhân. Khối u ở các vị trí khác, đặc biệt là
vùng đầu và cổ cũng đã được điều trị bằng chiếu xạ áp sát.
Bệnh nhân thuộc nhóm lâm sàng III có khối u còn sót lại trên
vi thể sau khi điều trị bằng hóa chất có hoặc không kèm theo
phẫu thuật về sau thì có thể kiểm soát được khối u tại chỗ
với liều chiếu xạ 4000 cGy hoặc cao hơn.
Sác-côm cơ vân trẻ em tái phát
Mặc dù bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tái phát hoặc tiến
triển đôi khi có thể ổn định hoàn toàn khi điều trị bằng liệu
pháp thứ hai nhưng tiên lượng lâu dài cho hầu hết bệnh
nhân có bệnh tái phát là dè dặt. Tiên lượng là tốt nhất (tỷ lệ
sống thêm năm năm là 50 - 70%) khi bệnh nhân ở giai đoạn I
hoặc ở nhóm I và có u dạng bào thai theo mô học và khi
bệnh tái phát tại chỗ hoặc trong vùng. Một số lượng nhỏ trẻ
em có u dạng chùm theo mô học bị tái phát cũng có tiên
lượng tốt tương tự. Hầu hết các trẻ em khác bị tái phát có
tiên lượng rất tồi. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị
SÁC-CÔM CƠ VÂN TRẺ E M 203
tiếp theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm vị trí tái phát
và phương pháp điều trị trước đó cũng như các đặc điểm
của mỗi cá thể người bệnh. Sự kết hợp ifosfamid/etoposid có
hiệu quả cao đáng kể trong điều trị trẻ em sác-côm cơ vân
tái phát trước đó chưa được điều trị bằng các loại thuốc này.
Các chế độ điều trị khác cho thấy phác đồ phối hợp hai loại
thuốc carboplatin và etoposid và phối hợp ba loại thuốc
ifosfamid, carboplatin và etoposid có hoạt tính chống sác-
côm cơ vân tái phát. Điều trị bằng hóa chất rất tích cực và
truyền tuỷ xương tự thân sau đó cũng đang được nghiên
cứu trên các bệnh nhân bị sác-côm cơ vân tái phát. Các hóa
chất mới đang được đánh giá lâm sàng ở giai đoạn I và giai
đoạn II nên được xem xét để điều trị cho những bệnh nhân
này.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân sác-côm cơ vân trẻ em được khám theo dõi
định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan
trọng trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo
việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào
về sức khỏe cũng được thảo luận để ung thư mới hoặc ung
thư tái phát sẽ được phát hiện và điều trị sớm nhất. Khi đến
khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân và cha mẹ của trẻ nên
thông báo sớm với bác sĩ tất cả những vấn đề về sức khỏe
xuất mới hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Da
1. Ung thư da là gì?
Hai loại ung thư da thường gặp nhất là ung thư biểu mô
tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vẩy (ung thư biểu mô
là những loại ung thư xuất phát từ những tế bào bao phủ
hoặc lót niêm mạc của các cơ quan) trong đó loại ung thư
biểu mô tế bào đáy chiếm đa số. Đây là loại ung thư tiến
triển chậm và hiếm khi lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Ung thư tế bào vẩy cũng hiếm khi lan, nhưng điều này
thường gặp hơn so với ung thư biểu mô tế bào đáy. Tuy
nhiên, điều quan trọng là phải phát hiện ra và điều trị sớm
ung thư da bởi vì chúng có thể xâm lấn và phá huỷ các mô
lân cận. Ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tế
bào đáy đôi khi được gọi là ung thư da không hắc tố. Một
loại ung thư da khác là u hắc tố, loại ung thư này xuất phát
từ tế bào hắc tố, không được đề cập trong bài này.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư da là gì?
Ung thư da là loại ung thư phổ biến nhất ở Mỹ. Theo
những ước tính gần đây, 40-50% người dân Mỹ sống đến độ
UNG THƯ DA 205
tuổi 65 sẽ bị ung thư da ít nhất một lần. Mặc dù bất kỳ người
nào cũng có thể bị ung thư da nhưng nguy cơ mắc loại ung
thư này lớn nhất ở những người có da sáng màu, loại da dễ
bị tàn nhang, thường là những người có tóc màu đỏ hoặc
màu vàng và những người có mắt màu xanh hoặc sáng màu.
Bức xạ tia tử ngoại (UV) từ mặt trời là nguyên nhân chính
gây ung thư da. (Có hai loại bức xạ tử ngoại là UVA và
UVB). Nguồn bức xạ tử ngoại nhân tạo, như đèn mặt trời và
buồng tắm nắng, cũng có thể gây ung thư da.
Nguy cơ phát triển ung thư da chịu ảnh hưởng của khu vực
sinh sống. Những người sống ở những vùng có bức xạ tia tử
ngoại từ mặt trời ở mức độ cao có nguy cơ mắc ung thư da cao
hơn. Ví dụ, ở Mỹ tần suất mắc ung thư da ở bang Texas cao
hơn ở Minnesota là nơi cường độ ánh sáng mặt trời không quá
mạnh. Trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc ung thư da cao nhất là ở
Nam Phi và úc, là những vùng đón lượng bức xạ tử ngoại cao.
Bên cạnh đó, ung thư da có liên quan tới thời gian tiếp
xúc với tia tử ngoại trong đời. Hầu hết các trường hợp ung
thư da xuất hiện sau tuổi 50, nhưng tác hại của ánh mặt trời
bắt đầu từ khi bạn còn trẻ. Vì vậy, bạn nên bắt đầu thực hiện
các biện pháp bảo vệ khi còn nhỏ để phòng chống ung thư
xảy ra sau này trong đời.
Bất cứ khi nào có thể, bạn nên tránh ánh nắng mặt trời
buổi trưa (từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều hoặc là từ 11 giờ
sáng đến 3 giờ chiều). Bạn luôn phải nhớ mặc quần áo bảo
vệ, như mũ chống nắng, áo dài tay vì chúng có thể ngăn các
tia nắng mặt trời có hại. Hơn nữa, những loại kem có chứa
chất chống nắng có thể bảo vệ da. Độ mạnh của chất chống
206 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nắng được đánh giá theo yếu tố bảo vệ ánh mặt trời (và được
viết tắt bằng tiếng anh là SPF), theo thang độ ở phạm vi từ 2
đến 30 hoặc cao hơn. Những chất có độ mạnh SPF từ 15 đến
30 có thể ngăn hầu hết các tia nắng mặt trời có hại. Những
thay đổi trên da không phải là những dấu hiệu chắc chắn
của ung thư.
3. Ung thư da được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư da là gì?
Triệu chứng thường gặp nhất của ung thư da là sự thay
đổi trên da, đặc biệt là sự xuất hiện một mụn mới hoặc một
vết đau không khỏi. Không phải tất cả các loại ung thư da
trông đều giống nhau. Ví dụ, ung thư có thể bắt đầu từ
những cục u nhỏ, nhẵn, bóng, nhạt màu hoặc như sáp. Hoặc
là, nó có thể xuất hiện dưới dạng một mụn cứng màu đỏ. Đôi
khi, mụn này có thể chảy máu hoặc đóng vảy. Ung thư da
cũng có thể bắt đầu từ những mụn phẳng, màu đỏ, ráp, khô
hoặc có vảy.
Ung thư tế bào đáy và ung thư tế bào vẩy chủ yếu xuất
hiện ở những vùng da tiếp xúc với tia nắng mặt trời như
đầu, mặt, cổ, tay và cánh tay. Tuy nhiên, ung thư da có thể
xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào.
Chứng dày sừng do quang hóa xuất hiện dưới dạng mụn
vảy, màu đỏ hoặc nâu và ráp, là điều kiện tiền ung thư vì
đôi khi nó phát triển thành ung thư tế bào vẩy. Giống ung
thư da, nó thường xuất hiện ở những vùng tiếp xúc với ánh
nắng mặt trời, nhưng nó cũng có thể xuất hiện ở các vị trí
khác. Thay đổi trên da không phải là những dấu hiệu chắc
UNG THƯ DA 207
chắn của ung thư. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đến
gặp bác sĩ khi triệu chứng kéo dài hơn 2 tuần. Đừng đợi đến
khi vùng đó bị đau. Nên nhớ rằng ung thư da hiếm khi gây
đau.
4. Ung thư da được chẩn đoán như thế nào?
Nhìn chung, ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu
mô tế bào đáy được chẩn đoán và điều trị tương tự như nhau.
Khi có một vùng da trông không bình thường, bác sĩ có thể cắt
bỏ toàn bộ hoặc một phần mụn. Quá trình này được gọi là
sinh thiết. Để tìm tế bào ung thư, bác sĩ giải phẫu bệnh hoặc
bác sĩ chyên khoa da liễu sẽ quan sát mẫu mô dưới kính hiển
vi. Sinh thiết là biện pháp duy nhất chắc chắn để khẳng định
ung thư.
Bác sĩ thường chia ung thư da thành hai giai đoạn: khu
trú (chỉ ảnh hưởng đến da) hoặc di căn (lan ra bên ngoài da).
Do ung thư da hiếm khi lan nên sinh thiết thường là xét
nghiệm duy nhất cần thiết để xác định giai đoạn của bệnh.
Trong những trường hợp mụn rất to hoặc đã tồn tại trong
một thời gian dài, bác sĩ sẽ phải cẩn thận kiểm tra các hạch
trong vùng. Bên cạnh đó, người bệnh có thể cần làm thêm
các xét nghiệm bổ sung như chụp X quang đặc biệt để xác
định ung thư đã lan tới các bộ phận khác chưa. Biết được
giai đoạn của bệnh sẽ giúp bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù
hợp nhất.
5. Ung thư da được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
208 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Phẫu thuật
Nhiều trường hợp ung thư da có thể cắt bỏ nhanh và dễ
dàng. Trên thực tế, có thể cắt bỏ hoàn toàn ung thư khi tiến
hành sinh thiết và không cần tiến hành điều trị thêm.
Nạo và đốt điện
Bác sĩ thường sử dụng một loại phẫu thuật được gọi là
nạo. Sau khi gây tê tại chỗ, ung thư được nạo bỏ bằng một
thìa nạo. Vùng bị ung thư cũng có thể được điều trị bằng
phương pháp đốt điện. Một dòng điện từ một máy đặc biệt
sẽ có tác dụng kiểm soát chảy máu và tiêu diệt tất cả tế bào
ung thư còn lại ở mép vết thương. Hầu hết trên bệnh nhân
để lại sẹo phẳng màu trắng.
Phẫu thuật Mohs
Kỹ thuật Mohs là một loại phẫu thuật đặc biệt được sử
dụng để điều trị ung thư da. Mục đích của nó là cắt bỏ toàn
bộ mô ung thư với lượng mô lành bị cắt là ít nhất. Kỹ thuật
này đặc biệt có ích khi bác sĩ không chắc chắn về hình dạng
và độ sâu của khối u. Bên cạnh đó, phương pháp này được
sử dụng để cắt bỏ những khối u lớn, những khối u ở những
vị trí khó điều trị và những khối u tái phát. Bệnh nhân được
gây tê tại chỗ và khối u lần lượt được nạo đi từng lớp mỏng.
Mỗi lớp này được quan sát dưới kính hiển vi cho đến khi
toàn bộ khối u được cắt bỏ. Mức độ để lại sẹo phụ thuộc vào
vị trí và kích thước của vùng được điều trị. Phương pháp
này do bác sĩ chuyên khoa về loại phẫu thuật này thực hiện.
Phẫu thuật lạnh
UNG THƯ DA 209
Nhiệt độ cực lạnh có thể được sử dụng để điều trị các
điều kiện tiền ung thư da, như chứng dầy sừng do quang
hóa cũng như một số ung thư da nhỏ. Trong phẫu thuật
lạnh, người ta phun nitơ dạng lỏng lên mụn để làm đông và
tiêu diệt tế bào bất thường. Sau khi vùng này tan ra thì mô
chết sẽ rụng đi. Có thể phải làm đông nhiều lần để loại bỏ
hoàn toàn khối u. Phẫu thuật lạnh thường không gây ra đau
đớn, nhưng bệnh nhân có thể bị đau hoặc bị sưng sau khi
vùng điều trị tan ra. Sau điều trị có thể để lại một vết sẹo
màu trắng.
Laser liệu pháp
Đây là phương pháp sử dụng một chùm tia sáng hẹp để
loại bỏ hoặc phá huỷ tế bào ung thư. Phương pháp này đôi
khi được sử dụng để điều trị ung thư chỉ ở lớp ngoài của da.
Ghép da
Đôi khi, cần phải tiến hành ghép da để làm lành vết
thương và giảm kích thước sẹo, đặc biệt sau cắt bỏ ung thư
có kích thước lớn. Để thực hiện được điều này, bác sĩ sẽ lấy
một mảnh da lành ở bộ phận khác của cơ thể thay thế cho
phần da đã được cắt bỏ.
Chiếu xạ
Ung thư da đáp ứng tốt với liệu pháp chiếu xạ, liệu pháp
này sử dụng tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung
thư và ngăn không cho chúng phát triển. Bác sĩ thường sử
dụng phương pháp này để điều trị ung thư xuất hiện ở
những vùng khó tiến hành phẫu thuật. Ví dụ, chiếu xạ được
210 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
sử dụng để điều trị ung thư ở mí mắt, đỉnh mũi hoặc ở tai.
Có thể phải tiến hành nhiều biện pháp điều trị để tiêu diệt
toàn bộ tế bào ung thư. Chiếu xạ có thể làm da phát ban
hoặc làm da ở vùng điều trị bị khô hoặc tấy đỏ. Thay đổi về
màu sắc da hoặc thay đổi bề mặt da có thể xuất hiện sau khi
điều trị kết thúc và cũng có thể được nhận ra sau đó nhiều
năm.
Hóa trị liệu khu trú
Hóa trị liệu khu trú là phương pháp sử dụng thuốc điều
trị ung thư dạng kem hoặc nước để bôi ngoài da. Chứng dày
sừng do quang hóa có thể được điều trị hiệu quả bằng
fluorouracil (còn được gọi là 5-FU). Phương pháp điều trị
này cũng có hiệu quả đối với ung thư chỉ giới hạn ở lớp trên
cùng của da. Hàng ngày bôi 5-FU, bôi trong vài tuần. Trong
thời gian điều trị da thường bị viêm nặng nhưng thường
không để lại sẹo.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Mặc dù hầu hết các trường hợp ung thư da đều được
chữa khỏi nhưng căn bệnh này có thể tái phát ở cùng vị trí.
Hơn nữa, những người đã được điều trị ung thư da có nguy
cơ bị ung thư da mới ở bất kỳ vị trí nào khác cao hơn mức
trung bình. Đó là nguyên nhân tại sao bệnh nhân cần phải
thường xuyên tự theo dõi và định kỳ đến bác sĩ khám, cũng
như làm theo các hướng dẫn của bác sĩ về cách làm giảm
nguy cơ ung thư da tái phát.
HỎ I & ĐÁP
về U Vỏ Tuyến Thượng Thận
1. U vỏ tuyến thượng thận là gì?
U vỏ tuyến thượng thận là loại u hiếm gặp. Chúng có thể
gây ra hội chứng Cushing, nam hóa, cường aldosteron, tăng
huyết áp, khối u ổ bụng hoặc không có triệu chứng và được
phát hiện một cách tình cờ.
2. Các yếu tố nguy cơ và tiên lượng của u vỏ tuyến
thượng thận là gì?
Có hai loại u vỏ tuyến thượng thận chính: u tuyến thượng
thận và ung thư biểu mô tuyến thượng thận. Tiên lượng của
bệnh nhân có u tuyến thượng thận rất tốt vì hầu hết các
trường hợp có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật.
Trái lại, tiên lượng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến
thượng thận rất xấu vì hầu hết các trường hợp bị di căn xa
trên vi thể, thường vào gan hoặc phổi ngay tại thời điểm
212 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
chẩn đoán và vì không có một phương pháp điều trị nào có
hiệu quả khi bệnh di căn hoặc tái phát. Dùng chất mitotan có
hiệu quả ở một số bệnh nhân nhưng không làm thay đổi tỷ
lệ sống sót, trừ khi được sử dụng ngay sau phẫu thuật ở
bệnh nhân không có dấu hiệu còn sót tế bào ung thư và tiếp
tục sử dụng không hạn định. Tuy nhiên, các triệu chứng
thừa steroid thường có thể kiểm soát được.
3. Triệu chứng của u vỏ tuyến thượng thận là gì?
Các triệu chứng lâm sàng gồm:
- Khối u ổ bụng kèm theo đau bụng vùng thượng vị, chán
ăn, mệt mỏi, sút cân.
- Khối u có thể sờ thấy được hoặc do tình cờ chụp bụng
phát hiện ra.
Các tổn thương ít gặp của tuyến thượng thận dạng nhân
to và nhỏ có thể gây ra hội chứng Cushing không phải chỉ
là các khối u tuyến thượng thận đơn thuần mà còn là hiện
tượng tăng sản hoặc loạn sản tuyến. Sinh lý bệnh học và
phương pháp điều trị các tổn thương này cũng tương tự
như u tuyến thượng thận đơn độc; tăng năng tuyến thượng
thận không phụ thuộc vào corticotropin (ACTH) và các rối
loạn liên quan được điều trị bằng cách cắt bỏ tuyến thượng
thận.
4. U vỏ tuyến thượng thận được chẩn đoán như thế
nào?
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 213
Chẩn đoán giai đoạn bệnh:
U vỏ tuyến thượng thận được chẩn đoán khi đã ở giai
đoạn III hoặc IV
Kích thước u 5cm có hạch di căn hoặc xâm lấn tại vùng.
5. U vỏ tuyến thượng thận được điều trị như thế
nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Khi có bằng chứng về sự sản xuất hoóc-môn steroid tự
động thì bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật (phẫu thuật
mở hoặc nội soi) để loại bỏ khối u và để điều chỉnh tình
trạng dư thừa hoóc-môn steroid. Khi tình cờ phát hiện ra
khối u và kích thước u còn nhỏ (<3 hoặc 4cm), đặc biệt là
khi không có dấu hiệu thừa hoóc-môn thì có thể trì hoãn
điều trị.
Ở một số trường hợp, phẫu thuật nội soi có thể mất nhiều
thời gian hơn (mặc dù thời gian phẫu thuật giảm xuống khi
có kinh nghiệm), nhưng bệnh nhân ít bị đau sau phẫu thuật
hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn. Ví dụ, trong một báo
cáo tóm tắt các nghiên cứu công bố gần đây, thời gian nằm
viện trung bình dao động từ 1,5 đến 4 ngày (thời gian trung
bình chung là 2,7 ngày) ở bệnh nhân được điều trị bằng
phẫu thuật nội soi so với 5,3 tới 10 ngày (thời gian trung
bình chung là 7,4 ngày) ở bệnh nhân được phẫu thuật mở.
Phẫu thuật nội soi được tiến hành qua nhiều đường. Một
nghiên cứu tiến hành trên 36 bệnh nhân có u tuyến thượng
thận được phẫu thuật nội soi hoặc qua đường bên xuyên
214 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
thành bụng hoặc qua phúc mạc từ phía sau lưng. Tất cả các
khối u đều được cắt bỏ thành công bằng cả hai đường, trong
đó có 8 khối u có kích thước > 6cm được cắt bỏ bằng đường
bên xuyên thành bụng. Thời gian phẫu thuật của hai cách
này là tương đương nhau và thời gian nằm viện trung bình
cũng tương tự (2,2 ngày so với 1,5 ngày).
Do đó, phẫu thuật nội soi đang trở thành phương thức
phẫu thuật chuẩn đối với bệnh nhân có u tuyến kích thước
nhỏ (đường kính < 6cm). Các khối u tuyến và ung thư có
kích thước lớn thường được cắt bỏ bằng phẫu thuật mở qua
đường cạnh sườn hoặc qua ổ bụng mặc dù u tuyến có kích
thước lớn cũng có thể được cắt bỏ bằng thủ thuật nội soi qua
đường bên xuyên thành bụng.
U tuyến
Hầu như tất cả bệnh nhân có u tuyến thượng thận đều
được chữa khỏi bằng phẫu thuật. Nếu bệnh nhân có hội
chứng Cushing thì thường có hiện tượng teo đét thứ phát
các tế bào bài tiết hoóc-môn giải phóng corticotropin vùng
dưới đồi, các tế bào tiết hoóc-môn hướng vỏ của tuyến yên,
các tế bào vùng lưới và vùng bó không u của tuyến thượng
thận; do vậy bệnh nhân sẽ được điều trị glucocorticoid thay
thế trong vài tháng sau khi cắt khối u hoặc điều trị thay thế
suốt đời sau khi cắt cả hai bên tuyến thượng thận để điều trị
các nhân tuyến hai bên (bệnh nhân cắt cả hai tuyến thượng
thận cũng được điều trị corticoid điều hòa muối-nước thay
thế suốt đời). Các nguyên lý thay thế tương tự như đối với
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 215
bệnh nhân bị bệnh Cushing được chữa bằng cách cắt u
tuyến yên.
Bệnh nhân có u tiết aldosteron cũng gặp những vấn đề
tương tự. Sau khi cắt bỏ khối u, hiện tượng giảm natri máu
và tăng kali máu có thể xảy ra trong một thời gian ngắn và
đây là dấu hiệu cho biết hệ thống renin-angiotensin-
aldosteron đã bị ức chế từ trước. Các bệnh nhân này sẽ tuân
thủ một chế độ ăn có nhiều muối kết hợp hoặc không kết
hợp thuốc corticoid điều hòa muối-nước (ví dụ 0,05 đến 0,1
mg fludrocortison hàng ngày) trong vài tuần hoặc thậm chí
vài tháng. Trái lại, không cần điều trị bổ sung cho bệnh nhân
có u tiết androgen sau phẫu thuật trừ khi cả hai tuyến
thượng thận bị cắt hoàn toàn.
Ung thư biểu mô
Phẫu thuật không phải là biện pháp điều trị hiệu quả đối
với bệnh nhân bị ung thư biểu mô tuyến thượng thận do
bệnh thường sớm di căn trên vi thể; như vậy tác dụng về lâu
dài còn xa vời. Tiên lượng ở nam giới và nữ giới, ở bệnh
nhân có u lớn và u nhỏ, ở bệnh nhân có u chức năng và u
không chức năng và ở bệnh nhân có triệu chứng trong thời
gian ngắn hoặc dài đều xấu. Tuy nhiên, bệnh nhân đã có di
căn xa trên lâm sàng hoặc trên phim X quang khi chẩn đoán
có tiên lượng thời gian sống thêm không bằng một nửa thời
gian sống thêm của bệnh nhân không có di căn.
Thường không cắt bỏ được toàn bộ khối u nhưng cố gắng
cắt bỏ tối đa. Ngay cả khi bác sĩ phẫu thuật cho rằng toàn bộ
216 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
khối u đã được cắt bỏ và không thấy dấu hiệu về khối u sót
lại trên phim X quang hoặc qua định lượng hoóc-môn sau
phẫu thuật nhưng đại đa số các trường hợp đều bị tái phát
(có lẽ là do đã có di căn trên vi thể tại thời điểm phẫu thuật)
ở gan, phổi hoặc các vị trí khác sau vài tháng.
Thời gian sống sót trung bình sau chẩn đoán ở bệnh nhân
trưởng thành bị ung thư biểu mô tuyến thượng thận đã điều
trị bằng phẫu thuật và hóa chất dao động từ 14,5 tháng tới 36
tháng; nếu không điều trị, thời gian sống sót trung bình chỉ là
ba tháng. U ở trẻ em phần nào ít xâm lấn hơn và bệnh nhân ở
tuổi < 40 có thời gian sống sót dài hơn so với bệnh nhân nhiều
tuổi hơn. Việc cắt bỏ các khối u tái phát tại chỗ hoặc khối u di
căn xa có thể kéo dài thời gian sống sót ở một số bệnh nhân và
trong một nghiên cứu tỏ ra hiệu quả hơn dùng chất mitotan.
Mitotan trong điều trị ung thư biểu mô tuyến thượng
thận
Mitotan (một chất tương tự DDT) là một loại thuốc ức chế
vỏ tuyến thượng thận và có một số hiệu quả điều trị đối với
bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng thận.
Điều trị ban đầu
Ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng thận đã
khẳng định trên sinh thiết và không thể phẫu thuật hoặc
chống chỉ định phẫu thuật, sẽ được chỉ định dùng mitotan
để điều trị ban đầu. Thuốc thường được dùng với liều cơ thể
có thể dung nạp được (10-20 g/ngày) sao cho nồng độ
mitotan huyết thanh đạt mức ít nhất 14 - 25 g/ml (44 - 78
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 217
mol/l). Các liều thấp hơn, ví dụ 4g/ngày, có tác dụng ức chế
vỏ tuyến thượng thận bình thường và đôi khi được sử dụng
cho bệnh nhân bị bệnh Cushing, nhưng không có hiệu quả
trong điều trị ung thư biểu mô tuyến thượng thận.
Kết quả điều trị ban đầu cho bệnh nhân ung thư biểu mô
tuyến thượng thận rất khác nhau. Đã có các nghiên cứu công
bố có tới 75% bệnh nhân có đáp ứng với hoóc-môn và giảm
được kích thước khối u ở 30% bệnh nhân, nhưng các nghiên
cứu khác lại công bố các con số thấp hơn nhiều. Hơn nữa, tất
cả các dấu hiệu cải thiện chỉ là tạm thời và hầu như bệnh
không bao giờ chữa khỏi. Theo các nghiên cứu về mitotan có
kết quả tốt nhất thì thời gian sống sót trung bình chỉ được
6,5 tháng, không khác biệt so với nhóm bệnh nhân không
được điều trị. Ngay cả bệnh nhân có đáp ứng khách quan
thường cũng không có khả năng chống lại tác dụng phụ khi
điều trị bằng mitotan liều cao.
Phòng ngừa tái phát
Điều trị bằng mitotan có thể trì hoãn hoặc thậm chí ngăn
ngừa tái phát ở bệnh nhân có u nguyên phát đã cắt bỏ và
không có dấu hiệu di căn. Trong các báo cáo này, mitotan
được sử dụng ngay sau phẫu thuật và tiếp tục điều trị suốt
đời.
− Hai trong số bốn bệnh nhân ở một nghiên cứu không bị
di căn và thời gian sống sót trung bình (ba tháng và 75
tháng theo dõi) dài hơn nhiều so với bệnh nhân không
sử dụng mitotan sau phẫu thuật (9 và 10 tháng).
218 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
− Bốn trong số 11 bệnh nhân ở một nghiên cứu khác sống
sót 4 đến 16 năm không tái phát.
− Năm trong số sáu bệnh nhân ở nghiên cứu thứ ba và
nghiên cứu theo dõi tiếp theo sống thêm một đến sáu
năm không tái phát mặc dù họ được điều trị bằng
mitotan ở liều thấp hơn (1,5 đến 2,0g/ngày).
Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều bị tái phát tại chỗ hoặc
di căn mặc dù đã điều trị bằng mitotan; theo một nghiên
cứu, bệnh nhân được điều trị bổ trợ bằng mitotan lại có tiên
lượng tồi hơn.
Liều lượng
Liều và thời gian điều trị mitotan tối ưu ngay ban đầu
hoặc để bổ trợ chưa được xác định. Tuy nhiên, do ung thư
biểu mô tuyến thượng thận có khả năng gây tử vong cao và
mitotan có thể mang lại hiệu quả nên việc chỉ định mitotan
cho mọi bệnh nhân ngay sau khi cắt bỏ khối u ban đầu là
hợp lý.
Bệnh nhân sẽ được dùng liều cao nhất mà cơ thể có thể
dung nạp được để đạt tác dụng ức chế vỏ tuyến thượng
thận tối đa. Liều khởi đầu là 0,5 g uống khi đi ngủ, bổ sung
thêm các liều đơn 0,5g vào các bữa ăn và khi đi ngủ hàng
tuần để cơ thể dụng nạp được. Để phòng ngừa tái phát, cần
đạt tới liều tối đa 4g/ngày mặc dù liều 2g/ngày có thể đủ và
có lợi thế là mức độ tuân thủ điều trị cao hơn do ít có tác
dụng phụ hơn; khi điều trị u nguyên phát không thể cắt bỏ
hoặc u tái phát thì cần đạt tới liều tối đa 20g/ngày hoặc nếu
không thể đạt tới liều này thì cố gắng đạt tới liều tối đa mà
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 219
bệnh nhân có thể dung nạp được. Liều thuốc mỗi ngày cần
được chia nhỏ, một nửa uống khi đi ngủ và nửa còn lại được
chia nhỏ trong các bữa ăn để giảm thiểu chứng buồn nôn và
chán ăn.
Bệnh nhân phải điều trị kéo dài suốt đời hoặc ít nhất là
sáu năm. Có thể đánh giá hiệu quả điều trị định kì bằng
chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ lồng ngực và ổ bụng
trên và bằng định lượng cortisol bài tiết qua nước tiểu 24 giờ
ở bệnh nhân có u sản xuất cortisol hoặc định lượng các tiền
tố cortisol trong nước tiểu ở bệnh nhân có u sản xuất ra
chúng.
Tác dụng phụ
Mitotan rất đắt và có nhiều tác dụng phụ. Tác dụng
phụ thường gặp nhất là buồn nôn, nôn và chán ăn; ngoài
ra có thể có phát ban ngoài da, ỉa lỏng, ngủ gà, buồn ngủ,
chóng mặt, mất điều hòa cơ, to vú đàn ông, đau khớp và
giảm bạch cầu. Các tác dụng phụ khác bao gồm tăng
cholesterol máu, giảm acid uric máu và độc hại gan được
thể hiện qua sự tăng nồng độ phosphatase kiềm trong
huyết thanh.
Dạng thuốc pha chế từ mitotan là dạng bột tán nhỏ trộn
với cellulose acetylphthalate (Roussel-UCLAF), hiện chưa có
bán ở Mỹ, được dung nạp tốt hơn. Tổng liều dao động từ 3-
20g/ngày, chia làm ba lần.
Một số tác dụng phụ đề cập trên có thể là do thiếu
glucocorticoid hoặc đôi khi là do thiếu corticoid điều hòa
muối-nước, không liên quan trực tiếp đến mitotan. Theo
220 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
một thử nghiệm tiến hành trong một thời gian ngắn,
glucocorticoid ở liều cao hơn có thể làm giảm triệu chứng và
nên tiếp tục dùng mitotan nếu có các tác dụng phụ như vậy.
Liệu pháp thay thế
Khi đạt được tác dụng ức chế vỏ tuyến thượng thận thì
mitotan sẽ làm giảm chức năng thượng thận và gây ra các
triệu chứng và dấu hiệu thiếu cortisol hoặc aldosteron hoặc
cả hai nếu không điều trị thay thế. Mitotan còn làm tăng
tốc độ chuyển hóa dexamethason và fludrocortison, nhưng
không làm tăng tốc độ chuyển hóa của prednisolon hoặc
của hydrocortison.
Không thể dự đoán khi nào bệnh nhân sẽ bị giảm cortisol
huyết sau khi điều trị bằng mitotan. Do đó, khi bắt đầu điều
trị bằng mitotan thì cần dùng glucocorticoid, thông thường
là prednison liều 5mg/ngày. Nếu sử dụng dexamethason
hoặc fludrocortison thì liều điều trị phải cao hơn liều duy trì
bình thường vài lần (tương ứng 0,5-0,75mg và 0,1-
0,2mg/ngày) để làm giảm triệu chứng thiểu năng tuyến
thượng thận và duy trì được điện giải và huyết áp ổn định.
Nếu bệnh nhân điều trị bằng prednison vẫn có triệu chứng
thiểu năng tuyến thượng thận và triệu chứng không giảm
khi tăng liều cao hơn, thì bác sĩ sẽ tìm các cách lý giải khác
cho các triệu chứng này và cho dùng lặp lại liều prednison
trước đây. Ngược lại, nếu bệnh nhân phát triển các dấu hiệu
của hội chứng Cushing thì bác sĩ sẽ giảm liều prednison.
Mitotan làm thay đổi quá trình chuyển hóa cortisol ở gan
từ con đường tetrahydro thông thường thành 6-beta-
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 221
hydroxyl hóa. Do vậy lượng 17 hydroxycorticosteroid bài
tiết qua nước tiểu sẽ thấp và do đó đây là một chỉ số không
đáng tin cậy cho quá trình sản xuất cortisol. Mặt khác, nồng
độ cortisol huyết thanh và lượng cortisol bài tiết qua nước
tiểu không bị ảnh hưởng. Một số xét nghiệm cortisoi hiện có
trên thị trường có phản ứng chéo mạnh với prednisolon -
một chất chuyển hóa mạnh của prednison và làm cho nồng
độ cortisol tăng cao; việc lặp lại xét nghiệm này 1 hoặc 2
ngày sau khi tạm thời chuyển sang liệu pháp thay thế bằng
dexamethason sẽ phát hiện ra điều này. Định lượng cortisol
chủ yếu là để phát hiện chức năng khối u còn sót lại ở bệnh
nhân ung thư biểu mô gây ra hội chứng Cushing.
Cần nghĩ đến thiếu corticoid điều hòa muối nước nếu
bệnh nhân bị tụt huyết áp tư thế hoặc tăng kali huyết và tăng
hoạt tính renin huyết tương. Điều này có thể là do bài tiết
aldosterone thiếu hoặc có thể là do tăng quá trình chuyển hóa
fludrocotison ở bệnh nhân đã điều trị bằng fludrocotison.
Các hóa chất khác
Trong hầu hết các nghiên cứu, không có loại thuốc nào,
dù là đơn độc hay dùng phối hợp với mitotan, tỏ ra có hiệu
quả cao hơn mitotan đơn độc. Tuy nhiên, mitotan làm tăng
hoạt tính độc tế bào của các loại hóa chất khác đối với các tế
bào ung thư biểu mô tuyến thượng thận trên cơ thể làm thí
nghiệm. Theo một nghiên cứu, hai trong số 28 bệnh nhân
ung thư biểu mô tuyến thượng thận nặng (không thể phẫu
thuật, còn sót hoặc tái phát) được điều trị bằng chế độ phối
hợp có mitotan (1-4 g/ngày), etoposid, doxorubicin và
222 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
cisplatin có đáp ứng hoàn toàn, 13 bệnh nhân khác có đáp
ứng đáng kể. Thời gian đáp ứng trung bình là 24,4 tháng. Sự
bài tiết hoóc-môn trở lại bình thường ở 9 trong số 16 bệnh
nhân được đánh giá.
Ba trong số 17 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến thượng
thận di căn có bệnh tiến triển mặc dù đã được điều trị bằng
mitotan đáp ứng một phần với Gossypol dạng uống, một
spermatotoxin được chiết xuất từ dầu hạt bông thô, trong 6
đến 12 tháng.
Tia xạ trị liệu
Tia xạ trị liệu ít khi có hiệu quả đối với bệnh nhân ung
thư biểu mô tuyến thượng thận. Một nghiên cứu đã công bố
ba trong số chín bệnh nhân được chiếu xạ nền tuyến thượng
thận hoặc toàn bộ vùng bụng sau phẫu thuật sống thêm
được 10 năm; tuy nhiên, hai trong số ba bệnh nhân này sau
đó bị tử vong vì các loại ung thư khác do chiếu xạ gây ra.
Kiểm soát hội chứng Cushing bằng phương pháp nội
khoa
Để đề phòng cho bệnh nhân ung thư biểu mô vỏ tuyến
thượng thận không bị thiểu năng hoặc cường tuyến thượng
thận các bác sĩ sẽ giám sát chặt chẽ chức năng tuyến thượng
thận. Những bệnh nhân này có thể bị thiểu năng tuyến
thượng thận (do phẫu thuật hoặc do dùng mitotan) hoặc tiết
thừa cortisol (do có u tồn tại dai dẳng hoặc u tái phát).
Ngoài các đặc tính ức chế vỏ tuyến thượng thận, mitotan có
thể làm giảm tiết cortisol, nhưng thường cần phải điều trị
U VỎ TUYẾ N T HƯỢNG T HẬN 223
bằng một chất ức chế enzym tuyến thượng thận đặc hiệu
hơn.
Các loại thuốc hiện có để đạt mục đích này là ketoconazol
(Nizoral), metyrapon (Metopirone) và aminoglutethimid
(Cytadren). Các loại thuốc này, đơn độc hoặc phối hợp, sẽ
được dùng đủ liều để gây thiểu năng tuyến thượng thận, do
khó có thể đạt được hoặc duy trì nồng độ cortisol huyết
thanh bình thường. Vì vậy mọi bệnh nhân sẽ được sử dụng
glucocorticoid thay thế.
Sử dụng một chất kháng glucocorticoid, ví dụ như
mifepriston, là không có lợi ích ích gì do các chất ức chế
enzym rẻ hơn và sẵn có hơn, lại dễ sử dụng hơn. Liều
antiglucocorticoid được xác định dựa trên biểu hiện lâm
sàng của tình trạng thiếu hoặc thừa cortisol chứ không phải
là dựa vào việc định lượng nồng độ cortisol huyết thanh
hoặc nước tiểu.
Những bệnh nhân bị tăng quá trình sinh tổng hợp steroid
và đang được điều trị bằng metyrapon có thể có tình trạng
giữ muối và tăng huyết áp do tăng quá trình sản xuất
deôxycorticosteron. Nếu không thể kiểm soát được tình
trạng tăng cortisol bằng các loại thuốc khác, bệnh nhân sẽ
được tiếp tục sử dụng metyrapon và điều trị các tác dụng
phụ về tim mạch của thuốc bằng lợi tiểu hoặc các thuốc hạ
áp phù hợp.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
224 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Bệnh nhân u vỏ tuyến thượng thận nên khám theo dõi
định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan
trọng trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm
bảo việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay
đổi nào về sức khỏe cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc
ung thư tái phát có thể được phát hiện và điều trị sớm nhất.
Giữa các đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u vỏ tuyến
thượng thận nên thông báo ngay với bác sĩ về tất cả những
vấn đề sức khỏe mới xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Dương Vật
1. Ung thư dương vật là gì?
95% các trường hợp ung thư dương vật là ung thư biểu
mô tế bào vẩy (SCC) nguyên phát. Các tuýp mô học khác
bao gồm sác-côm mô mềm nguyên phát, u niệu đạo, ung
thư biểu mô tế bào vẩy, u lymphô, ung thư biểu mô tế bào
đáy và ung thư dương vật di căn thứ phát là các dạng ung
thư dương vật hiếm gặp.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật là
gì?
Hiện đã có các bằng chứng thuyết phục cho thấy các yếu
tố như độ tuổi, hút thuốc lá, cắt bao quy đầu lúc mới sinh,
hẹp bao quy đầu và nhiễm virút papilloma người (HPV), có
ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ung thư biểu mô tế bào vẩy
dương vật. Các yếu tố nguy cơ có thể khác bao gồm tiền sử
có sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím (PUVA), có
226 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
nhiều bạn tình, tiền sử rách hoặc xước dương vật, các yếu tố
di truyền và chủng tộc.
Độ tuổi
Tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật.
Ung thư dương vật hiếm gặp trước tuổi dậy thì, tần suất
mắc bệnh bắt đầu tăng ở tuổi trưởng thành và sau đó tiếp
tục tăng. Trong một nghiên cứu trên 4000 trường hợp, độ
tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh là 60 tuổi.
Hút thuốc lá
Những người hút thuốc lá có nguy cơ ung thư dương
vật cao hơn. Trong một nghiên cứu có đối chứng tiến
hành trong cộng đồng, người hút thuốc có nguy cơ mắc
bệnh cao gấp ba lần so với người không hút thuốc. Lượng
thuốc lá sử dụng liên quan tới ung thư dương vật là một
yếu tố độc lập, không phụ thuộc vào các yếu tố khác như
tiền sử tình dục.
Người ta cho rằng khói thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ
phát triển ung thư dương vật qua việc ức chế chức năng
các tế bào Langerhans trình diện kháng nguyên, hậu quả là
gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống cảnh báo miễn dịch. Một
số khác lại cho rằng tình trạng nhiễn HPV, kích thích
dương vật mạn tính hoặc hẹp bao quy đầu có thể có tác
dụng hiệp đồng với hút thuốc lá để thúc đẩy quá trình
chuyển dạng ác tính. Mặc dù có bằng chứng cho thấy các
chất gây ung thư trong thuốc lá tập trung ở bựa sinh dục,
việc điều trị hẹp bao quy đầu đơn độc không loại bỏ được
nguy cơ do hút thuốc gây ra.
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 227
Cắt bao quy đầu
Tác dụng có lợi của việc cắt bao quy đầu lúc mới sinh đối
với sự phát triển ung thư dương vật đã được đánh giá cao từ
lâu. Dưới đây là các số liệu chứng minh:
− Ung thư dương vật hầu như không tồn tại ở cộng đồng
người Do thái và người theo đạo Hồi, là những người
có tục lệ cắt bao quy đầu cho nam giới khi mới sinh.
− Trong một nghiên cứu so sánh trực tiếp tiến hành ở
Uganda, các bộ lạc có tục lệ cắt bao quy đầu có tỷ lệ
ung thư dương vật là 0,5/100.000 nam giới, trong khi
đó tỷ lệ này ở các bộ lạc không có tục lệ cắt bao quy
đầu cao hơn gần sáu lần, tới 2,9/100.000 nam giới.
− Với những người không cắt bao quy đầu, tỷ lệ phát
triển ung thư dương vật trong cả cuộc đời có thể lên tới
1/600, trong khi đó tỷ lệ trong cộng đồng chung là
0,2/100.000 nam giới. Trong một báo cáo tổng quan trên
50.000 trường hợp bị ung thư biểu mô tế bào vẩy
dương vật, chỉ có 11 người được cắt bao quy đầu lúc
mới sinh, mặc dù một báo cáo tổng quan khác đưa ra
con số đối lập, trong đó 20% bệnh nhân ung thư dương
vật đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh.
− Phần lớn tác dụng có lợi của cắt bao quy đầu mất đi
nếu không được tiến hành khi còn là trẻ nhỏ. Trong
một nghiên cứu có đối chứng bao gồm 110 bệnh nhân
ung thư dương vật và 355 người chứng, so với những
người đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, nguy cơ
ung thư dương vật tương đối ở đối tượng không cắt
228 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
bao quy đầu và đối tượng cắt bao quy đầu sau giai
đoạn sơ sinh tương ứng là 3,0 và 3,2. Các nhà nghiên
cứu đưa ra giả thuyết là tác dụng bảo vệ của việc cắt
bao quy đầu xuất phát từ việc không tồn đọng bựa sinh
dục và không bị hẹp bao quy đầu về sau khi dương vật
bị kích thích mạn tính, đặc biệt là khi vệ sinh cá nhân
không tốt. Hiện vẫn chưa xác định được mối liên hệ
giữa việc cắt bao quy đầu và nguy cơ lây nhiễm hoặc
lan truyền HPV.
Bựa sinh dục
Bựa sinh dục bắt đầu hình thành vào những ngày đầu
tiên của cuộc sống do bong tế bào biểu mô trong bao quy
đầu; dịch bài tiết từ các tuyến bao quy đầu cũng đóng góp
một phần. Bựa sinh dục có khả năng gây ung thư ở các mô
hình nghiên cứu trên súc vật, mặc dù thành phần đặc hiệu
gây chuyển dạng ác tính ở nam giới chưa được xác định. Vi
khuẩn Mycobaterium có trong bao quy đầu ở khoảng một
nửa đối tượng không cắt bao quy đầu, có thể chuyển đổi
sterol trong bựa sinh dục thành hợp chất gây ung thư. Ở
nam giới không cắt bao quy đầu, sự tồn đọng bựa sinh dục,
đặc biệt là khi bị hẹp bao quy đầu, có thể thúc đẩy quá trình
chuyển dạng ác tính do sự tiếp xúc trực tiếp với biểu mô bị
kích thích mạn tính.
Hẹp bao quy đầu
Hẹp bao quy đầu khiến cho bao quy đầu không thể co lại
được, là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất.
Theo một báo cáo tổng quan các nghiên cứu có đối chứng đã
công bố, hẹp bao quy đầu làm tăng nguy cơ phát triển ung
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 229
thư dương vật nói chung lên hơn 10 lần. Hẹp bao quy đầu là
một bất thường hay đi kèm với ung thư dương vật nhất và
nó liên quan tới tình trạng không biệt hóa biểu mô. Trong
một thông báo, xét nghiệm mô học bao quy đầu ở nam giới
cho thấy tỷ lệ có tình trạng không biệt hóa biểu mô ở nam
giới có hẹp bao quy đầu là 35%, còn tỷ lệ đó ở nam giới
không bị hẹp bao quy đầu là 0%. Tình trạng tồn đọng bựa
sinh dục mạn tính, xảy ra khi vệ sinh cá nhân không tốt, có
thể thúc đẩy quá trình hình thành chứng hẹp bao quy đầu.
Nhiễm virút papilloma người
Giống như các loại ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng hậu
môn-sinh dục khác, tình trạng nhiễm virút papilloma người
(HPV) liên quan chặt chẽ với ung thư dương vật và có thể là
nguyên nhân gây ra loại ung thư này.
Tần suất nhiễm HPV ở bệnh nhân ung thư dương vật dao
động từ 27% tới 71%; hầu hết các trường hợp có liên quan
tới dưới tuýp 16 hoặc 18. Trái lại, tần suất nhiễm HPV ước
tính trong bao quy đầu của đối tượng khỏe mạnh không bị
ung thư dương vật và ở trẻ mới sinh tương ứng là 0 - 6% và
4%. Tình trạng nhiễm HPV dường như không ảnh hưởng tới
tiên lượng của bệnh nhân ung thư dương vật.
Các yếu tố khác. Các yếu tố khác cũng được cho là có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ung thư
dương vật.
Liệu pháp PUVA
230 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Tiền sử sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím và
psoralen (PUVA) có liên quan tới sự phát triển ung thư
dương vật về sau.
Quan hệ tình dục bừa bãi
Quan hệ tình dục bừa bãi có thể thúc đẩy quá trình phát
triển ung thư dương vật. Trong một nghiên cứu, nam giới có
hơn 30 bạn tình trong cả cuộc đời có nguy cơ phát triển ung
thư dương vật cao hơn những người có một đến bốn hoặc
năm đến 29 bạn tình (tương ứng gấp 3,4 và 2,6 lần). Tuy
nhiên, tần suất nhiễm HPV cao hơn ở những người có quan
hệ tình dục bừa bãi có thể giải thích cho mối liên hệ này.
Tổn thương dương vật
Trong một thông báo, nguy cơ phát triển ung thư dương
vật ở những người bị các vết rách nhỏ hoặc xây xước dương
vật tăng 3,9 lần so với người không có các tổn thương này.
Chủng tộc và tiền sử gia đình
Mối liên hệ giữa chủng tộc và ung thư dương vật hiện còn
đang bị nghi ngờ. Theo một nghiên cứu, người Mỹ gốc Phi có
nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao gấp hai lần người
da trắng, nhưng các nghiên cứu khác lại không thấy sự khác
biệt này. Một hội chứng gia đình hiếm gặp cũng đã được mô
tả.
Nhiễm HIV
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV và ung thư
dương vật chưa rõ ràng. Chỉ có một số ít trường hợp bị ung
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 231
thư dương vật trong số những người nhiễm HIV được công
bố, thường là ở các trường hợp có nhiễm HPV. Tần suất mắc
ung thư dương vật thấp khi bị nhiễm HIV khiến cho người
ta ngạc nhiên vì các loại ung thư hậu môn-sinh dục liên
quan tới HPV khác tăng lên khi bị nhiễm HIV.
Các tổn thương dương vật tiền ung thư
Một số tổn thương dương vật hiện nay được coi là tiền
ung thư do có khả năng thúc đẩy hoặc phát triển trực tiếp
thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Các tổn thương
này bao gồm viêm quy đầu khô tắc (BXO), bạch sản, sừng
hóa da quy đầu, sùi mào gà, condilom Buschke-Lowenstein
khổng lồ, viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)
và ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) gồm các thể bệnh
Bowen (BD), hồng sản Querat (EQ) và sẩn dạng Bowen (PB).
Không xác định được phạm vi của tổn thương có trước
khi hình thành ung thư dương vật xâm lấn; các bằng chứng
hiện có gợi ý đa số các trường hợp ung thư biểu mô tế bào
vẩy dương vật phát triển tự nhiên. Ví dụ, trong một nghiên
cứu, chỉ có 39 người (8%) trong số 511 bệnh nhân ung thư
dương vật có tổn thương dương vật trước đó hoặc có tổn
thương đồng thời. Tuy nhiên, trong nghiên cứu thứ hai, 19
(42%) trong số 45 bệnh nhân công bố có tổn thương từ trước.
Do đó, vai trò chính xác của tổn thương dương vật có từ
trước đối với quá trình hình thành ung thư còn đang được
tiếp tục nghiên cứu.
Viêm bao quy đầu khô tắc
232 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
BXO là một căn bệnh ở vùng sinh dục tương tự lichen thể
xơ hóa và teo đét, được đặc trưng bởi các mảng trắng ở quy
đầu hoặc ở bao quy đầu. Các mảng trắng này cuối cùng to
lên và kết hợp thành khối u xơ cứng gây dính, hẹp bao quy
đầu và chít hẹp miệng sáo. Mặc dù thường được coi là lành
tính nhưng BXO có liên quan tới ung thư biểu mô tế bào vẩy
ở khoảng hơn chục trường hợp, không có ai trong số này
được cắt bao quy đầu lúc mới sinh. Trong một nghiên cứu
có 86 bệnh nhân bị lichen xơ cứng vùng sinh dục, các biểu
hiện mô học tiền ung thư hoặc ung thư phát triển ở 5 bệnh
nhân (6%), 4 trong 5 bệnh nhân này có nhiễm HPV. Khoảng
thời gian trung bình từ lúc lichen xơ cứng khởi phát cho tới
khi phát triển ung thư dương vật là 17 năm (dao động từ 10
đến 2-3 năm).
Bạch sản
Tình trạng kích thích hoặc viêm mạn tính được coi là đóng
vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bạch sản, đó là
một tình trạng bệnh hiếm gặp thường có một hoặc nhiều
mảng trắng dạng vẩy ở miệng sáo. Mặc dù mối liên quan
chính xác với ung thư dương vật chưa được xác định rõ
nhưng bạch sản thường được phát hiện ở gần hoặc sát vùng
có ung thư biểu mô tế bào vẩy. Bản chất tiền ung thư của
bạch sản được gợi ý do có biểu hiện loạn sản ở 10 - 20% các
trường hợp nếu để bệnh tiến triển tới mức độ loét, xước hoặc
nứt.
Sừng hóa da quy đầu
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 233
Sừng hóa da quy đầu là một tổn thương dày sừng lồi
được tạo thành do sự quá phát và sừng hóa biểu mô. Sừng
hóa da thường được tạo thành trên bề mặt của tổn thường
có từ trước như mụn ruồi, hạt cơm hoặc vết trầy xước và
chúng được coi là một đáp ứng với tình trạng viêm bao quy
đầu mạn tính. Sự thoái hóa ác tính đã được ghi nhận ở một
số trường hợp bệnh tái phát và hiếm khi sừng hóa phát triển
hoặc tạo thành từ ung thư xâm lấn.
Sùi mào gà
Sùi mào gà hay còn gọi là mụn cơm sinh dục là các u nhú,
mềm đi kèm tình trạng nhiễm HPV. Mặc dù u sùi thường có
diễn biến lành tính nhưng cũng có thể chuyển dạng ác tính,
đặc biệt khi đi kèm với một số dưới tuýp HPV nhất định (16,
18, 31, 33, 35 và 39). Tần suất mắc ung thư dương vật tăng ở
những người có sùi mào gà được minh họa trong một
nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng trên 110
bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người làm chứng,
trong đó nguy cơ ung thư dương vật ở người có tiền sử u sùi
mào gà cao hơn 5,9 lần so với người không có u sùi.
Condyloma Buschke-Lowenstein khổng lồ (ung thư biểu
mô dạng hạt cơm)
Đây thường là u lồi trông giống súp lơ ở quy đầu và bao
quy đầu của dương vật và là một dạng ung thư biểu mô tế
bào vẩy hậu môn-sinh dục biệt hóa cao, chiếm khoảng 5 -
24% các trường hợp ung thư dương vật tuỳ thuộc vào nhóm
đối tượng được nghiên cứu. HPV được cho là có liên quan
tới sinh bệnh học của ung thư biểu mô dạng hạt cơm; HPV
234 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
dưới tuýp 6 và 11 thường được phân lập và dưới tuýp 16 và
18 có liên quan tới sự phát triển xâm lấn.
Ung thư biểu mô dạng hạt cơm có tiên lượng tốt hơn các
ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật khác. Trong một
nghiên cứu so sánh 60 trường hợp ung thư biểu mô tế bào
vẩy dương vật và 11 trường hợp ung thư biểu mô dạng hạt
cơm, ung thư biểu mô dạng hạt cơm có khả năng di căn
hạch thấp hơn (18% so với 57%) và tỷ lệ sống sót sau năm
năm cao hơn (100% so với 60%). Ung thư biểu mô dạng hạt
cơm còn có tần suất kết hợp với HPV ADN cao hơn (46% so
với 27%).
Viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)
PKMB là một tổn thương ít gặp, biểu hiện lâm sàng là
một mảng đơn độc màu trắng dày sừng phân thành lớp ở
quy đầu; nó thường xuất hiện ở người cao tuổi và được cắt
bao quy đầu muộn. Nguyên nhân chính xác gây ra căn bệnh
này vẫn chưa được xác định rõ, sự chuyển dạng ác tính
PKMB thành ung thư biểu mô tế bào vẩy đã được công bố;
dấu hiệu chuyển dạng là sự phát triển một tổn thương lồi
dạng nhân trong mảng trắng tồn tại từ trước.
Bệnh Bowen
Bệnh Bowen (BD) là một ung thư biểu mô nông tại chỗ
(CIS) trong biểu mô sinh nang, ví dụ trên thân dương vật.
Nó thường là đám đỏ nhạt đơn độc với các vùng có vỏ cứng
và rỉ nước. Trong một nghiên cứu, HPV-16 có ở 4 trong 5
tiêu bản sinh thiết BD sinh dục. Nếu không điều trị, ung thư
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 235
biểu mô tế bào vẩy sẽ phát triển ở khoảng 5% các trường
hợp.
Hồng sản Querat
Hồng sản Querat (EQ) là một loại ung thư biểu mô nông
tại chỗ phát triển trong lớp biểu mô niêm mạc-da của dương
vật tức là quy đầu và bao quy đầu. Nó thường có màu đỏ
nhung, ranh giới rõ. Các tổn thương này thường đơn độc và
đôi khi bị xước hoặc bị loét nhưng ít khi bị đau. EQ thường
gặp ở người cao tuổi và không cắt bao quy đầu. Nó có xu
hướng thoái hóa thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn
cao hơn so với bệnh Bowen; tần suất chuyển dạng ác tính
dao động trong khoảng 10 - 33%. Sự phát triển loét và/hoặc
u nhú có liên quan tới sự tiến triển của bệnh. Người ta đã
mô tả mối liên hệ của bệnh với HPV 8 và 16.
Sẩn dạng Bowen
Sẩn dạng Bowen (BP) là dạng ung thư biểu mô nông tại
chỗ thứ ba, được đặc trưng bởi nhiều mụn sẩn hơi lồi có
màu từ đỏ tới tím. Các mụn này thường tạo thành trên thân
dương vật mặc dù quy đầu và bao quy đầu cũng có thể bị
tổn thương. Người ta cho là HPV có liên quan đến sinh bệnh
học của sẩn dạng Bowen. Diễn biến lâm sàng của sẩn dạng
Bowen thường là lành tính, nhưng cũng đã có một số ít
trường hợp tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm
lấn. Tuổi cao và tình trạng ức chế miễn dịch có thể làm tăng
nguy cơ tiến triển.
236 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
3. Ung thư dương vật được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư dương vật là gì?
Ung thư dương vật có các biểu hiện lâm sàng rất khác
nhau, từ tổn thương có vẻ lành tính tới ung thư biểu mô
xâm lấn kèm với rụng dương vật. Có sự khác biệt lớn như
vậy một phần là do người ta thường đến khám muộn.
Khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân bắt đầu nhận thấy tổn
thương cho tới khi người bệnh đến khám bác sĩ trung bình
là 10 tháng và đến một nửa số bệnh nhân này có thể có tổn
thương trên một năm trước khi đến khám bác sĩ.
Dấu hiệu và triệu chứng của tổn thương nguyên phát
Trong một báo cáo tổng quan của trên 4000 bệnh nhân
ung thư dương vật, 47% có u, cục hoặc nhân ở dương vật;
35% bị đau hoặc loét và 17% bị tổn thương viêm. Khi đến
khám, 43% tổn thương có kích thước < 2cm và 57% có tổn
thương với kích thước lớn hơn. Trong nghiên cứu thứ hai,
48% các trường hợp có tổn thương quy đầu, thứ tự tiếp đó là
tổn thương bao quy đầu (21%), tổn thương cả quy đầu và
bao quy đầu (9%) tổn thương vành quy đầu (6%) và tổn
thương thân dương vật (< 2%); trong 14% các trường hợp,
ung thư đã xâm lấn vào trong thân dương vật từ các vị trí ở
xa hơn.
Ung thư dương vật có cả dạng nhú và dạng phẳng. U
nhú thường phát triển từ một tổn thương dạng hạt cơm lồi
ở quy đầu và da quy đầu, tổn thương này về sau có thể
rộng ra và kết hợp lại tạo thành một khối u dạng nấm kèm
hoại tử và huỷ hoại dương vật. Ngược lại, u phẳng thường
UNG THƯ DƯƠNG VẬT 237
xâm lấn vào các cấu trúc sâu hơn của dương vật, đồng thời
lan rộng ra hai bên lên bề mặt dương vật làm cho bề mặt
thay đổi chút ít. Các tổn thương này thường là vết loét hình
tròn, nông và nhỏ trên nền hơi lồi. Cả hai loại tổn thương
đều có thể dẫn tới tình trạng nhiễm khuẩn thứ phát và
thường rỉ mủ có mùi hôi.
Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể thấy ngứa và nóng
rát ở dưới bao quy đầu và chỉ hơi bị đau vì bệnh ít khi gây
huỷ hoại lan rộng vào mô. Các triệu chứng thường gặp như
giảm cân và mệt mỏi có thể đi kèm sự tiến triển bệnh. Chảy
máu, rò niệu đạo và tắc niệu đạo là các biến chứng muộn
báo hiệu bệnh đã lan rộng; đây là các dấu hiệu hiếm khi xuất
hiện. Trong các trường hợp nghiêm trọng, khối u có thể
chiếm toàn bộ dương vật hoặc dương vật có thể rụng.
4. Ung thư dương vật được điều trị như thế nào?
Phẫu thuật là phương pháp cơ bản để điều trị ung thư
dương vật. Đối với những tổn thương dương vật được coi
là tiền ung thư như như viêm quy đầu khô tắc, bạch sản,
sừng hóa da đầu, viêm quy đầu giả u biểu mô dày sừng và
ung thư biểu mô nông tại chỗ gồm các thể bệnh Bowen,
hồng sản Querat và sẩn dạng Bowen thì sử dụng phẫu
thuật laser là tốt nhất.
Khi ung thư có kích thước lớn, tuỳ vào độ rộng của thâm
nhiễm và mức độ phá huỷ của ung thư đối với tổ chức bình
thường mà cắt cụt một phần dương vật hy có thể phối hợp
với cắm kim phóng xạ điều trị tại chỗ bằng Iridium192.
238 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Khi tổn thương đã lan rộng, ngoài việc cắt cụt dương vật
kèm theo vét hạch bẹn chậu hai bên triệt để, nếu cần thiết thì
bậnh nhân được chiếu tia xạ sau mổ vào vùng bẹn chậu.
Hóa chất có vai trò điều trị tạm thời khi bệnh ở giai
đoạn muộn.
5. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân ung thư dương vật nên khám theo dõi định kỳ
sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng
trong phác đồ điều trị. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc
bệnh nhân được giám sát cẩn thận, và bất kỳ thay đổi về sức
khỏe cũng được thảo luận để phát hiện và điều trị sớm ung
thư mới hoặc ung thư tái phát. Giữa các đợt khám theo dõi
định kỳ, bệnh nhân ung thư dương vật nên thông báo ngay
với bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe mới xuất hiện.
HỎ I & ĐÁP
về Ung Thư Tuyến Tuỵ
1. Ung thư tuyến tụy là gì?
Ung thư tuyến tụy thường khó phát hiện ở giai đoạn sớm
vì triệu chứng không điển hình bệnh có nguy cơ tử vong
cao.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến tụy là gì?
Các dữ liệu về môi trường cho thấy nguy cơ mắc ung thư
tuyến tuỵ có thể giảm xuống khi dừng hoặc bỏ hút thuốc,
giảm lượng thịt cá và tăng lượng rau xanh trong chế độ ăn.
3. Ung thư tuyến tụy được phát hiện như thế nào?
Triệu chứng của ung thư tuyến tụy là gì?
Cần bắt đầu khám sàng lọc 10 năm trước độ tuổi mà ung
thư tuyến tuỵ được chẩn đoán đầu tiên ở những gia đình có
hội chứng lâm sàng và sau 35 tuổi ở bệnh nhân viêm tuyến
tuỵ di truyền.
240 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
Không có chiến lược khám sàng lọc nào tỏ ra có khả
năng phát hiện sớm ung thư tuyến tuỵ ở bệnh nhân có
nguy cơ cao, và không có một phương pháp khám đặc
hiệu nào. Hiện nay, có lẽ chiến lược có hiệu quả tốt nhất
là chụp cắt lớp xoắn ốc, sau đó là siêu âm nội soi nếu kết
quả chụp cắt lớp không chẩn đoán được bệnh và định
lượng CA 19-9 huyết thanh. Tuy nhiên, phương pháp này
có thể không phát hiện dược “các tổn thương sớm” có thể
chữa khỏi.
4. Ung thư tuyến tụy được chẩn đoán như thế
nào?
Hiện nay chụp cắt lớp thường quy hoặc chụp cắt lớp
xoắn ốc một pha là xét nghiệm ban đầu để chẩn đoán khối u
tuyến tuỵ. Tuy nhiên, chụp cắt lớp xoắn ốc hai pha là xét
nghiệm tốt nhất để chẩn đoán và phân giai đoạn u tuyến tuỵ
và trở thành phương pháp chuẩn. Siêu âm nội soi là phương
pháp tốt nhất để tìm các khối u nhỏ có thể cắt bỏ nhưng
không phát hiện được bằng chụp cắt lớp. Phân tích kết quả
xét nghiệm hình ảnh thường thiên về khả năng cho rằng
khối u có thể cắt bỏ, vì có thể tiến hành phẫu thuật xâm lấn
một cách an toàn nếu bác sĩ có kinh nghiệm.
Soi ổ bụng được chỉ định khi khối u có thể không cắt bỏ
được nhưng điều này chưa được xác nhận bằng các thăm dò
hình ảnh. Ví dụ khi chụp cắt lớp thấy có di căn gan hoặc tới
các bộ phận khác nhưng kết quả chọc hút tế bào âm tính,
ung thư ở thân hoặc đuôi tuỵ và cổ trướng.
VỀ UNG TH Ư TUYẾ N T UỴ 241
5. Ung thư tuyến tụy được điều trị như thế nào? Tác
dụng phụ của điều trị là gì?
Phẫu thuật
Bệnh nhân có khối u cắt bỏ được cần được chuyển tới các
trung tâm có bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tuyến tuỵ để
thăm dò thêm.
Có thể tiến hành phương pháp phẫu thuật Whipple
chuẩn hoặc phương pháp phẫu thuật Whipple bảo tồn
môn vị. Phương pháp phẫu thuật Whipple chuẩn thường
được áp dụng cho các khối u có kích thước lớn hơn và lan
rộng hơn.
Nếu không cắt được u nguyên phát, bác sĩ phẫu thuật
phải quyết định có cần can thiệp làm giảm nhẹ triệu chứng
tắc mật hoặc tắc tá tràng hay không.
Điều trị triệu chứng
Bệnh nhân tắc mật nhưng không thể phẫu thuật triệt để
được cần được đặt stent (giá đỡ) nong rộng bằng kim loại
qua nội soi.
Khi khối u gây tắc tá tràng (thường ở giai đoạn muộn),
cần phải thực hiện nối dạ dày-ruột bằng phẫu thuật hoặc
qua nội soi. Phương pháp đặt dụng cụ nong rộng bằng kim
loại qua nội soi cần được đánh giá thêm.
Có thể giảm đau bằng cách dùng hóa chất phong bế dây
thần kinh tạng trong phẫu thuật, phong bế đám rối dương
qua da, hoặc dùng thuốc giảm đau opiod tác dụng kéo dài
242 HÃY CẢNH GIÁC VỚI B Ệ NH UNG THƯ
phù hợp. Phong bế dây thần kinh tạng và phong bế qua da
giúp bệnh nhân tránh được tác dụng phụ của opioid.
Cần điều trị thiểu năng tuyến tuỵ ngoại tiết bằng enzym
tiêu mỡ liều 10% lượng hoạt tính tiêu mỡ sau ăn (30.000 đơn
vị quốc tế hoặc 90.000 đơn vị USP), thuốc dùng kèm với bữa
ăn được chia nhỏ: 1/3 liều sau khi ăn vài miếng, 1/3 liều
trong bữa ăn, và 1/3 liều vào cuối bữa ăn.
Hóa chất hoặc chiếu xạ
Tia xạ và hóa chất bổ sung có 5-fluouracil được chỉ định
sau phẫu thuật.
Hóa chất-tia xạ bổ trợ từ đầu là một phương pháp được
chấp nhận có thể thay thế cho hóa chất-tia xạ sau phẫu
thuật. Trước khi tiến hành liệu pháp bổ trợ, nên tiến hành
chụp cắt lớp xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang để phân giai
đoạn khối u một cách kĩ càng. Ngoài ra có thể tiến hành soi
ổ bụng để loại trừ di căn phúc mạc và di căn nội tạng tiềm
ẩn.
Bệnh nhân có u tại chỗ không thể cắt bỏ hoặc đã bị di căn
cần được xem xét để tham gia thử nghiệm thăm dò nếu họ
có tình trạng sức khỏe tốt (có khả năng thực hiện được các
hoạt động bình thường).
Thay cho nghiên cứu thăm dò, phương pháp điều trị
chuẩn cho bệnh nhân có u không thể cắt bỏ được là chiếu xạ
phối hợp đồng thời với 5-fluorouracil hoặc gemcitabin đơn
độc. Gemcitabin là lựa chọn điều trị cho tất cả bệnh nhân có
VỀ UNG TH Ư TUYẾ N T UỴ 243
tình trạng sức khỏe yếu và/hoặc bị đau hoặc để xử trí tổn
thương di căn.
6. Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến tụy là rất
quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân,
chụp X quang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ.