VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
PHÒNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC
DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
HÒA BÌNH 12 - 2016
~ 2 ~
Vụ yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, giữa
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoà.
Bị đơn: Chị Trịnh thị Bích Ngọc và anh Đoàn Bá Long.
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm
Vợ chồng chị Trịnh Thị Bích Ngọc anh Đoàn Bá Long, có vay của chị
Nguyễn Thị Hoà 120 triệu đồng, thể hiện tại giấy vay tiền ngày 29/9/2009, chị
Ngọc còn ghi “Tôi thế chấp cho cô Hoà một hợp đồng đất lô số NK1 - B30 khu dự
án dân cư và 3 phiếu thu tiền của hợp đồng”.
Ngày 9/11/2011, vợ chồng chị Ngọc đến Văn phòng Công chứng Hưng
Thịnh, lập hợp đồng tặng cho lô đất này cho ông Trịnh Minh Đức (Bố đẻ chị
Ngọc). Hợp đồng tặng cho này đã được Trưởng Văn phòng Công chứng Hưng
Thịnh thực hiện công chứng.
Chị Hoà cho rằng: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất từ vợ chồng chị
Ngọc cho ông Đức, được ông Đinh Thanh Diễn, Công chứng viên thực hiện Công
chứng, có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị. Nên chị Hoà có đơn
khởi kiện ngày 28/5/2012, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng là vô hiệu. TAND
cấp sơ thẩm đã ra quyết định thụ lý sơ thẩm số 43 cùng ngày.
Tại đơn đề ngày 12/9/2012, chị Nguyễn Thị Hoà gửi TAND cấp sơ thẩm đề
nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ kiện. Ngày 25/2/2013, chị Hoà có đơn đề nghị tiếp
tục giải quyết vụ kiện.
Quá trình giải quyết bị kéo dài do các đương sự liên tục vắng mặt, không
tiến hành phiên hòa giải được, phải hoãn phiên tòa và tạm đình chỉ việc giải quyết
theo đề nghị của các đương sự.
Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2013/DSST ngày 20/12/2013 của Toà án sơ
thẩm đã căn cứ khoản 9 điều 25, điểm a khoản 1 điều 33 điểm m khoản 2 điều 35
BLTTDS; Điều 37, điều 45 Luật công chứng; Điều 129 Luật đất đai; Điều 184
Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất
đai; Điều 27 pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án năm 2009. Xử : Tuyên bố hợp đổng
tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 09/11/2011 giữa bên tặng cho anh Đoàn Bá
Long, chị Trịnh Thị Bích Ngọc với bên nhận tặng cho ông Trịnh Minh Đức, công
chúng tại Văn phòng công chứng Hưng Thịnh vào sổ lưu quyển số 01/CC-HĐGD
số 27 là vô hiệu. Mọi điều khoản ghi trong Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
không có giá trị pháp lý. Ngoài ra quyết định của bản án sơ thấm còn tuyên về án
phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 6/1/2014, chị Trịnh Thị Bích Ngọc và anh Đoàn Bá Long có đơn
kháng cáo: Không đồng ý với nội dung và quyết định của án sơ thẩm, người khởi
kiện không có quyền khởi kiện, yêu cầu vụ án phải được xem xét lại. Do anh Long
~ 3 ~
và chị Ngọc vắng mặt phiên Toà, nhận được bản án sơ thẩm ngày 3/1/2014, nên
đơn kháng cáo được xác định trong hạn luật định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa nêu quan điểm về
nội dung: không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Đoàn Bá Long, chị Trịnh
Thị Bích Ngọc, bà Hòa có quyền khởi kiện theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng
dân sự. Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
không có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa. Đề nghị hủy án sơ thẩm.
Bản án số: 07/2014/DS-PT, ngày 06/05/2014 của TAND tỉnh Hoà Bình
quyết định xử huỷ án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.
2. Nội dung cần rút kinh nghiệm
Trong vụ án này, Toà án sơ thẩm có tiến hành thu thập chứng cứ, nên thuộc
trường hợp Viện Kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên Toà sơ thẩm theo điều 21
khoản 2 Bộ luật TTDS. Đại diện VKSND cấp sơ thẩm thực hiện Kiểm sát việc giải
quyết và tham gia phiên Toà sơ thẩm, có bài phát biểu ý kiến tại phiên Toà, nhưng
án sơ thẩm không ghi nhận sự tham gia tố tụng của VKS tại phiên toà và phát biểu
ý kiến của Kiểm sát viên là vi phạm khoản 3 điều 238 Bộ luật TTDS. Hồ sơ vụ án
không có quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia phiên Toà, không có bản
phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên.
Hội thẩm nhân dân bà Phạm Thị Nga không có tên trong quyết định đưa vụ
án ra xét xử sơ thẩm với tư cách là người tiến hành tố tụng, là vi phạm điều 195
khoản đ Bộ luật TTDS./.
***
Quyết định sơ thẩm bị cấp phúc thẩm quyết định huỷ trong vụ án tranh
chấp chia tài sản sau ly hôn, giữa:
- Nguyên đơn: Anh Lưu Xuân Chương, sinh năm 1964.
- Bị đơn: Chị Hoàng Thị Hương, sinh năm 1973.
Nội dung, quá trình giải quyết vụ án
- Tháng 1/2008, anh Chương có đơn yêu cầu ly hôn chị Hương. Tại bản án
sơ thẩm số 21 ngày 27/9/2011 của Toà án nhân dân cấp huyện đã xét xử: Anh
Chương được ly hôn chị Hương, bác yêu cầu đòi chia tài sản của chị Hương.
- Do chị Hương kháng cáo án sơ thẩm, yêu cầu được chia nhà đất là tài sản
chung của vợ chồng. Án phúc thẩm số 02 ngày 29/2/2012 của Toà án nhân dân
tỉnh Hoà Bình xử có nội dung huỷ phần tài sản, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải
quyết lại theo thủ tục chung.
~ 4 ~
- Ngày 30/3/2012,Toà án nhân dân cấp huyện đã thụ lý vụ án chia tài sản sau
ly hôn giữa anh Chương với chị Hương. Ngày 26/9/2012 anh Chương có đơn đề
nghị tạm ngừng giải quyết vụ án với lý do: Anh làm nghề lái xe nên cuối năm
thường xuyên phải đi công tác dài ngày ở các tỉnh, không có mặt ở nhà, khi nào ổn
định sẽ yêu cầu Toà giải quyết tiếp.
- Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã ban hành Quyết định số 18 ngày
28/9/2012 tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55 ngày 30/3/2012, về việc kiện
chia tài sản sau ly hôn giữa anh Chương và chị Hương.
- Do chị Hương có đơn kháng cáo quyết định tạm đình chỉ của Toà án sơ
thẩm; Ngày 21/11/2012 Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình mở phiên họp phúc thẩm,
chấp thuận với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ra quyết
định huỷ quyết định tạm đình chỉ số 18 ngày 28/9/2012 của Toà án nhân dân cấp
huyện, chuyển hồ sơ về cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết theo qui định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Anh Lưu Xuân Chương là lái xe của Bưu điện tỉnh. Đơn xin tạm ngừng giải
quyết vụ án của anh Chương với lý do cuối năm phải đi công tác dài ngày ở các
tỉnh là không hợp lý. Bưu điện tỉnh có xác nhận “có cử anh Chương đi công tác”
nhưng rất chung chung, không cụ thể từ thời gian nào đến thời gian nào; nên không
thể chấp nhận được. Toà án nhân dân cấp huyện căn cứ khoản 6 điều 189 Bộ luật
Tố tụng dân sự để ra quyết định tạm đình chỉ là không đủ cơ sở.
***
Vụ kiện đòi nhà đất, giữa:
- Nguyên đơn: chị Lê Thị Bình, sinh năm 1972.
- Đồng bị đơn: Ông Vũ Minh Thư và bà Ngô Thị Đào.
- Người liên quan: anh Vũ Ngọc Linh (con trai ông Vũ Minh Thư và bà
Ngô Thị Đào).
Nội dung, quá trình giải quyết vụ kiện:
Từ ngày 15/9/2010 đến ngày 22/2/2011, anh Vũ Ngọc Linh có vay của chị
Lê Thị Bình 800 triệu VNĐ thời hạn trả là tháng 8/2011.
Ngày 14/9/2011, vợ chồng ông bà Vũ Minh Thư và bà Ngô Thị Đào (bố mẹ
đẻ anh Vũ Ngọc Linh) có lập hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền trên đất, cho anh Vũ Ngọc Linh được nhân danh thực hiện các công việc:
~ 5 ~
Chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn, thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
trên đất.
Cùng ngày 14/9/2011, anh Linh đã thực hiện chuyển nhượng toàn bộ nhà đất
mang tên ông Vũ Minh Thư cho chị Lê Thị Bình giá 500 triệu đồng. Tiền mua nhà
đất được đối trừ vào tiền anh Linh vay chị Bình. Ngày 15/9/2011 anh Linh viết
giấy vay nợ chị Bình 300 triệu đồng còn lại. Đồng thời anh Linh đề nghị chị Bình
cho bố mẹ anh Linh được ở lại đến tháng 5/2012. Tháng 6/2012 chị Bình đòi nhà
đất theo thoả thuận, vợ chồng ông Thư không trả, anh Linh tránh mặt, nên chị Bình
có đơn yêu cầu và đã được Toà án thụ lý giải quyết.
Ngày 8/01/2013, ông Vũ Minh Thư có đơn kiện Chủ tịch UBND cấp huyện
về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông cho chị Lê Thị Bình.
Toà án cấp huyện đã ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số
01 ngày 17/01/2013, với lý do đợi kết quả giải quyết vụ án khác liên quan (có ý là
vụ án hành chính).
Đơn kháng cáo ngày 21/01/2013 của chị Lê thị Bình có nội dung cho rằng
Toà án cấp huyện ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ kiện là không đúng với
qui định của Bộ luật TTDS và yêu cầu được xem xét lại.
Ngày 15/3/2013, Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình mở phiên họp phúc thẩm,
đồng ý với ý kiến đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình ra
quyết định huỷ quyết định tạm đình chỉ số 01 ngày 17/1/2013 của Toà án cấp
huyện, chuyển hồ sơ về cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết theo qui định của pháp
luật.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm: Trong vụ kiện này cần phải xác định việc
chuyển nhượng nhà đất giữa anh Linh với chị Bình có đúng qui định của pháp luật
hay không? Trên cơ sở đó chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
chị Bình.
Toà án cấp huyện căn cứ việc vợ chồng ông Vũ Minh Thư khởi kiện Chủ
tịch UBND cấp huyện (án hành chính), để làm cơ sở ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ kiện dân sự này, để chờ kết quả giải quyết vụ kiện hành chính là
không đúng theo khoản 4 điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì không cần đợi kết
quả giải quyết vụ án hành chính trước rồi mới giải quyết án dân sự đòi nhà đất.
***
~ 6 ~
Vụ án dân sự về việc kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản giữa:
- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Quyên, sinh năm 1965 và ông Trần Văn Hào,
sinh năm 1958.
- Bị đơn: Ông Vũ Tuấn Đạt, sinh năm 1971, bà Bùi Thị Thúy Diệu, sinh
năm 1963.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ kiện: Ngày 15/6/2012 anh Vũ Tuấn
Đạt thuê người phá dỡ Kiốt bán hàng của gia đình bà Quyên xây dựng từ năm
2000 trên diện tích 13,5m2 đất được bố đẻ bà cho mượn không kỳ hạn, gây thiệt
hại khoảng 500.000.000 đồng.
Ngày 19/6/2012 bà Quyên gửi đơn tố cáo đến Công an huyện. Ngày
24/8/2012 Công an huyện ban hành Thông báo sổ 37 không khởi tố vụ án hình sự
đối với hành vi của Vũ Tuấn Đạt. Ngày 28/9/2012 bà Quyên khiếu nại Thông báo
số 37 ngày 24/8/2014. Ngày 05/10/2012 Công an huyện ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 01: Đồng ý với thông báo số 37 ngày 24/8/2012 của Công an
huyện. Sau đó bà Quyên, ông Hào còn tiếp tục gửi đơn đến các cơ quan pháp luật
đề nghị được giải quyết.
Ngày 23 tháng 9 năm 2015 Toà án nhân dân huyện đã căn cứ điểm h khoản
1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra Quyết định số 03/2015/QĐ-ST để đình chỉ
việc giải quyết vụ án dân sự kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản.
Bà Quyên, ông Hào có đơn kháng cáo với nội dung cho rằng Toà án cấp
huyện ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ kiện là không đúng với qui định của Bộ
luật TTDS và yêu cầu được xem xét lại.
Ngày 30/12/2015, Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình mở phiên họp phúc thẩm,
đồng ý với ý kiến đề xuất của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình ra
quyết định huỷ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số
03/2015/QĐ-ST ngày 23 tháng 9 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện, giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để điều tra xét xử lại vụ án theo thủ tục chung
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tài liệu có trong hồ sơ thể hiện: Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/7/2015 của
nguyên đơn bà Vũ Thị Quyên và ông Trần Văn Hào bị sửa chữa số của năm; Tại
bút lục số 13 Bản tự khai của các nguyên đơn theo mẫu của Tòa án nhân dân huyện
đề ngày 19/11/2014. Như vậy từ khi xảy ra sự việc (15/6/2012) đến khi nguyên
đơn nộp tiền tạm ứng án phí (23/7/2015) nguyên đơn liên tục đề nghị các cơ quan
pháp luật giải quyết việc quyền lợi bị xâm hại nhưng chưa được giải quyết. Tòa án
cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc bà Quyên, ông Hào nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại của Công an huyện cụ thể vào ngày, tháng, năm nào? lý do bà
Quyên, ông Hào có bản tự khai ngày 19/11/2014. Do đó việc tòa án cấp sơ thẩm
cho rằng vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện là chưa đủ căn cứ pháp luật./.
~ 7 ~
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự “kiện tranh chấp quyền sử dụng
đất” giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đinh Công Mai (đã mất tháng 10/2012)
- Người được ủy quyền, chị Đinh thị Đường (con gái ông Mai).
- Bị đơn: Ông Đinh Công Bết
Theo án sơ thẩm nội dung vụ kiện được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 30/8/2010 và ngày 19/3/2010 và trong quá trình tố
tụng nguyên đơn ông Đinh Công Mai trình bày: Năm 2001 gia đình ông Đinh
Công Mai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0440 ngày 20/4/2001
thửa số 82 tờ bản đồ số 01 diện tích được cấp là 3.130 m2 mang tên ông Đinh Công
Mai, nguồn gốc sử dụng đất là khai hoang.
Do gia đình ông thường xuyên đi làm ăn xa nên không có người sinh sống
diện tích đất trên. Đến năm 2012 bà Đường (là con gái ông Mai) có trồng rau, rào
vườn theo danh giới mà bà ước tính xác định là của gia đình mình nhưng gia đình
ông Bết lại nhổ rau, phá đi và có đơn đề nghị UBND xã giải quyết. Kết quả giải
quyết kết luận diện tích đât của gia đình ông Bết thừa còn đất nhà bà Đường thiếu
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đât. Hai bên gia đình thường xuyên lời qua
tiếng lại mất đoàn kết.
Bị đơn ông Đinh Công Bết trình bày:
Năm 2001 gia đình ông cũng được cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất
1.223 m2 thửa số 76, giáp gia đình ông Mai, mang tên Đinh Công Bết. Ranh giới
giữa hai gia đình là hàng rau ngót, cây chè và gốc tre. Khoảng năm 2005 - 2006 gia
đình ông dỡ nhà sàn xây nhà bếp, chuồng lợn kiên cố tại vị trí đất dỡ ra. Khi gia
đình ông xây thì gia đình bà Đường không có ý kiến gì. Nay bà Đường cho rằng
ông lấn chiếm đất là không đúng vì hiện tại còn mốc ranh giới là gốc hàng chè.
Việc gia đình ông thừa đất so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đât là do lịch sử
để lại, không phải do ông lấn chiếm đất gia đình ông Mai. Gia đình ông Mai thiếu
đất là do biến động, do làm đường, do lịch sử đế lại.
Ông Thế con trai ông Mai lại cho rằng: Ông có chặt hàng tre của gia đình
ông đi để sử dụng nhưng gia đình ông Bết lấn đất của gia đình ông nên ông trồng
lại hàng chè là để gia đình ông Bết không lấn chiếm thêm đất nữa, chứ không phải
là ranh giới cũ giữa hai nhà như ông Bết trình bày.
Kết quả đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ:
- Diện tích đất thực tế của gia đình bà Đường đang sử dụng theo bà Đường
chỉ mốc giới không trừ phần đất đã hiến làm đường là 2.861,2 m2 thiếu 268,9 m
2 so
với sổ đỏ.
~ 8 ~
- Diện tích đất thực tế của gia đình bà Đường đang sử dụng theo bà Đường
chỉ mốc giới trừ phần đất đã hiến làm đường là 2.989,35 m2 thiếu 140,65m
2 so với
sổ đỏ.
- Diện tích đất thực tế của gia đình ông Bết đang sử dụng là 1.389,32 m2:
thừa 166,32 m2 so với sổ đỏ.
Tại phiên tòa sơ thẩm bà Đường khai ông Mai còn có 4 người con riêng ở
Thanh Sơn - Phú Thọ và khẳng định ranh giới của gia đình bà đến đúng vị trí điểm
cọc 29 gióng thẳng lên phía nhà vệ sinh của gia đình ông Bết. Bà cho rằng bà chỉ
hiến đất làm đường ở đầu trên phía nhà ông Hội, từ mép bờ rào nhà ông Hội kéo
xuống khoảng 10 mét, không hiến đất làm đường phía dưới.
Tại ban án dân sự sơ thấm số 06/2013/DSST ngày 01/10/2013 của Tòa án
cấp sơ thẩm: Áp dụng: khoản 1 điều 11, điều 15, khoản 1 điều 105, khoản 1 điều
107 và điều 136 luật đất đai. Khoản 1 điều 141: khoản 2 điều 142 của BLTTDS;
khoản 1 điều 27, khoản 4 điều 27 pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án.
Xử chấp nhận một phần yêu cầu của ông Đinh Công Mai và bà Đinh Thị
Đường. Buộc gia đình ông Đinh Công Bết phải trả lại cho gia đình bà Đinh Thị
Đường 80m2 đất (có bề rộng 1,3m tính từ điểm cọc số 12 đến điểm cọc số 29 và bề
rộng l,8m ở đầu phía nhà vệ sinh (thuộc đất làng phía Tây nhà ông Bết), lấy mốc
của điểm cọc từ số 20 đến 16 làm chuẩn rồi gióng thẳng từ dưới (điểm xác định
1,3m tính từ điểm cọc số 20) lên, không tính phần đất công (theo sơ đồ trích đo
được lưu trong hồ sơ vụ án).
Buộc gia dinh ông Đinh Công Bết phải tháo dỡ toàn bộ phần kiên trúc đã
xây dựng trong diện tích 80m2 nêu trên để trả lại đất cho gia đình bà Đinh Thị
Đường.
Ngoài ra. Quyết định của án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 12/10/2013 bị đơn ông Đinh Công Bết kháng cáo không đồng ý với
bản án sơ thẩm vì ông cho rằng ông không lấn chiếm đất của gia đình ông Mai, yêu
cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.
Án phúc thẩm số 25/2013/DS-PT ngày 31/12/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình đã chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát tỉnh, xử hủy án sơ thẩm để giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm:
Trong vụ án này, ông Mai là người khởi kiện tại tòa án, tháng 7/2012 ông
Mai ủy quyền cho bà Đường tham gia tố tụng nhưng đến tháng 10/2012 ông Mai
chết, bà Đường (con gái ông Mai) là người được ủy quyền tham gia tố tụng. Căn
cứ vào điểm c khoản 2 điều 147 BLDS quy định nếu người ủy quyền chết thì cũng
chấm dứt tư cách của người được ủy quyền, trong trường hợp trên ông Mai chết thì
đương nhiên chấm dứt tư cách dại diện theo ủy quyền của bà Đường, lẽ ra cấp sơ
thẩm phải tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu gia đình ông Mai có ý kiến về việc có tiếp
tục ủy quyền cho bà Đường tham gia tố tụng nữa hay không? nhưng cấp sơ thẩm
~ 9 ~
không lấy ý kiến các con của ông Mai mà vẫn tiếp tục giải quyết vụ án là không
đúng. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Đường khai ông Mai còn có 4 người con riêng ở
Thanh Sơn - Phú Thọ, nhưng án sơ thẩm không điều tra, không có lời khai và xác
định tư cách của họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan là vi phạm thủ tục tố tụng.
Về nội dung vụ án, bà Đường và ông Mai khai có hiến đất làm đường của
xóm. Trong quá trình định giá bà Đường xác định phần đất gia đình bà hiến làm
đường thôn xóm có bề rộng là l,5m dọc theo bờ rào (giáp đường Vó Cối đi UBND
xâ Vĩnh Tiến). Tại phiên tòa bà Đường lại không thừa nhận gia đình bà hiến đất
nhưng sau đó lại thừa nhận là có hiến đất nhưng chỉ hiến từ đầu phía nhà anh
Nguyễn Viết Hội chạy xuôi xuống (hướng UBND xã) khoảng 10m. Cấp sơ thẩm
không xác minh cụ thể việc bà Đường hiến đất làm đường là bao nhiêu mét, hiến
vào thời gian nào để làm cơ sở tính diện tích đất tranh chấp còn lại của hai gia đình
ông Bết và bà Đường là chưa đầy đủ và thiếu sót. Đồng thời ông Mai đã chết trong
quá trình giải quyết vụ án nhưng tòa án cấp sơ thẩm vẫn tuyên quyền kháng cáo
cho ông Mai là không đúng.
***
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất”
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình.
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Quang Minh - Giám đốc
- Bị đơn: Bà Lê Thị Hân, sinh năm 1957
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm: Ngày
20/5/1993, Công ty cổ phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình được UBND huyện
Lương Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích là 210 m2,
nằm trong thửa 208, tờ bản đồ số 06, có tứ cận: phía Bắc dài 29m giáp nhà các bà
Hiền, Hân, Nhung, phía Nam giáp hành lang quốc lộ 6 dài 28m và cách tim đường
25m, phía Đông giáp đường vào bãi chiếu phim dài 9m, chừa 2m rãnh đường, phía
Tây dài 7,5m giáp ranh liền kề nhà ông Vị.
Ngày 20/5/1994, UBND huyện Lương Sơn ra quyết định số 116/ QĐ - UB
về việc thu hồi đất đai, diện tích đất bị thu hồi là 71m2, có tứ cận: Phía Bắc giáp
đất của bà Nhung dài 9,5m, phía Nam giáp hành lang giao thông đường 6 dài 9,5m,
phía Tây giáp nhà ông Vị rộng 7,5m, phía Đông giáp cửa hàng sách nhiếp ảnh rộng
7,5m.
~ 10 ~
Diện tích còn lại Công ty xây dựng 04 quầy bán hàng, phần đất trống (giáp
đất nhà ông Ngô Quang Thư) giao cho bà Hân sử dụng từ năm 1994. Từ năm
2011, Công ty yêu cầu bà Hân trả lại diện tích trên nhưng bà Hân không nhất trí
nên Công ty sách cổ phần văn hóa tổng hợp Hòa Bình khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết, buộc bà Hân phải trả lại diện tích 23m2 đất vì cho rằng diện tích bà Hân
đang sử dụng thuộc quyền quản lý của Công ty. Tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty cổ
phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu bà Hân
trả tiền thuê đất cho Công ty, tiền thương hiệu, thương mại cho Công ty từ năm
2010 đến nay.
Phía bị đơn bà Lê Thị Hân không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất
nhưng bà Hân cho rằng diện tích đất này được bà sử dụng từ năm 1994 đến nay và
đất thuộc quyền quản lý của UBND huyện Lương Sơn. Bả Hân đã xin và đang chờ
UBND huyện Lương Sơn làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bản án sơ thẩm số 01/2015/DS - ST ngày 12/2/2015 của Tòa án nhân dân
cấp sơ thẩm quyết định áp dụng điều 264 Bộ luật dân sự, điều 59 Luật đất đai, điều
131 Bộ luật tố tụng dân sự, pháp lệnh án phí và lệ phí tuyên xử: Bác yêu cầu khởi
kiện của Công ty cổ phần sách -Văn hóa tổng hợp Hòa Bình về việc đòi quyền sử
dụng 32,2m2 đất bà Lê Thị Hân đang chiếm giữ và yêu cầu bà Hân trả tiền thuê đất
cho Công ty, tiền thương hiệu, thương mại cho công ty từ năm 2010 đến nay.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 12/2/2015, Công ty cổ phần sách - Văn hóa tổng hợp Hòa Bình kháng
cáo với nội dung không nhất trí việc Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của
Công ty.
Căn cứ khoản 3 Điều 275, điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc
thẩm: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần sách - Văn hóa tổng hợp
Hòa Bình. Hủy bản án sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 12/2/2015 của cấp sơ thẩm
về việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Công ty cổ phần sách - văn
hóa tổng hợp Hòa Bình và bị đơn Lê Thị Hân. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
2. Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm
Về tố tụng: Trong đơn khởi kiện Công ty cổ phần sách - Văn hóa tổng hợp
Hòa Bình khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hân trả lại diện tích 23m2
đất. Tại phiên tòa sơ thâm, Công ty cổ phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình đề
nghị Tòa án giải quyết yêu cầu bà Hân trả tiền thuê đất cho Công ty, tiền thương
hiệu, thương mại cho Công ty từ năm 2010 đến nay. Mặc dù, Công ty cổ phần sách
văn hóa tổng hợp Hòa Bình chưa có đơn khởi kiện, chưa nộp tiền tạm ứng án phí
nhưng tại phần quyết định, Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu trả tiền thuê đất,
tiền thương hiệu, thương mại từ năm 2010 đến nay của Công ty cổ phần sách văn
hóa tổng hợp Hòa Bình là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vượt quá phạm vi
khởi kiện được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Ngày 10/5/1993, UBND huyện giao cho Công ty cổ phần sách
văn hóa tổng hợp Hòa Bình diện tích 210m2 đất, việc giao nhận đất được lập thành
~ 11 ~
biên bản, bên nhận đất có sự tham gia của ông Ngô Quang Thư, Hà Thị Hằng và bà
Lê Thị Hân đều là cán bộ nhân viên của Công ty. Ngày 20/5/1993, Công ty cổ
phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình được UBND huyện cấp giấy chứng nhận
quvền sử dụng, theo đó Công ty được sử dụng diện tích 210m2. Ngày 20/5/1994,
UBND huyện ra quyết định thu hồi 71m2 đất của Công ty. Căn cứ vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyết định thu hồi thì diện tích đất của Công ty có cạnh
phía Tây trước khi bị thu hồi giáp đất của ông Vị. Sau khi bị thu hồi giáp đất nhà
ông Ngô Quang Thư (đất ông Thư sử dụng được nhận chuyển nhượng từ ông Nhu)
và trên thực tế vị trí diện tích đất đang tranh chấp giữa bà Hân và Công ty nằm ở
giữa, có cạnh phía Tây giáp đất nhà ông Thư và phía Đông giáp đất của Công ty.
Trong hồ sơ vụ án còn thể hiện ngày 02/8/2002, bà Hân có đơn đề nghị Công ty cổ
phần sách văn hóa tổng hợp Hòa Bình cho bà sửa chữa lại quầy hàng, Công ty
không nhất trí cho bà Hân sửa chữa nhưng bà Hân cố tình xây móng. Ngày
06/8/2002 Công ty đã ra quyết định đình chỉ việc làm nhà của bà Lê Thị Hân trên
đất của tập thể. Ngày 07/8/2002, Công ty lập biên bản về việc giao quvết định đình
chỉ làm nhà, bà Hân thừa nhận là có sử dụng đất của tập thể. Ngày 13/8/2002,
Phòng địa chính nông nghiệp huyện tiến hành kiểm tra, xác định bà Hân đã xây
dựng lấn chiếm tổng diện tích là 23m2 đất của Công ty. Ngày 22/8/2002, Tổ thanh
tra huyện đã lập biên bản yêu cầu bà Hân tạm đình chỉ xây dựng móng nhà trên
diện tích đất của Công ty. Ngày 11/7/2005, Công ty lập biên bản kiểm kê diện tích
đất, nhà bán hàng đối với quầy bà Hân đang sử dụng, bà Hân ký với tư cách là
người giữ tài sản của Công ty. Ngoài ra, hàng năm bà Hân nộp thuế đất cho Công
ty, mặc dù bà Hân thừa nhận bà chỉ nộp thuế cho Công ty từ năm 1997 đến năm
2002 nhưng tài liệu Công ty cung cấp đến tháng 12 năm 2010, bà Hân vẫn nộp
thuế cho Công ty. Tại Biên bản hòa giải ở UBND thị trấn, bà Hân thừa nhận diện
tích đất bà đang sử dụng thuộc quyền quản lý của Công ty. Tuy nhiên tất cả các tài
liệu, chứng cứ trên đã không được cấp sơ thẩm xem xét. Quá trình giải quyết vụ
án, bà Hân cho rằng đất bà mượn của UBND huyện, không phải đất của Công ty
và bà đang làm các thủ tục để xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng bà Hân không có một lại giấy tờ gì để chứng minh cho việc sử dụng đất này.
Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã không làm rõ diện tích tranh chấp thuộc
số thửa, tờ bản đồ nào, ai đang quản lý sử dụng diện tích đất đang tranh chấp này.
Ngày 16/6/2015, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xác minh, Phòng tài nguyên môi
trường huyện xác nhận diện tích đất bà Hân đang tranh chấp với Công ty cổ phần
văn hóa tổng hợp Hòa Bình theo tờ bản đồ cũ thuộc số thửa 208, tại thời điểm
kiểm tra thì diện tích tranh chấp thuộc số thửa 213, tờ bản đồ 146A2, đất thuộc
quyền quản lý của Công ty. Như vậy, việc Công ty khởi kiện yêu cầu bà Hân trả lại
đất là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần
sách văn hóa tổng họp Hòa Bình là không đúng.
Quá trình giải quyết vụ án, việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm
không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật tố tụng dân sự: không có
biên bản thẩm định lần 1; lần 2 tiến hành thẩm định nhưng không ra quyết định
xem xét thẩm định. Trong biên bản định giá hai lần đều không xác định được mốc
~ 12 ~
giới đo đạc, không có hộ giáp ranh ký xác nhận, diện tích đất tranh chấp đo đạc của
hai lần khác nhau.
Từ những nhận định trên thấy rằng, Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót khi giải
quyết nội dung vụ án cũng như có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tại phiên
tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Do đó hủy bản án sơ thẩm để
giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
***
Vụ kiện tranh chấp quyền sử dụng đất, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Lắm.
- Bị đơn: Bà Trần Thị Đào.
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Ông Lắm và bà Đào là 2 hộ ở liền kề nhau vào tháng 3/2008, đã được
UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất nhà ông
Lắm có diện tích 53,20 m2, đất nhà bà Đào có diện tích 117,7 m
2. Năm 2010, khi
bà Đào nhận chuyển nhượng nhà đất của bà Kỳ, thì vợ chồng ông Lắm thừa nhận
một phần bếp của nhà ông Lắm lấn sang đất nhà bà Kỳ. Đồng thời có hứa khi nào
bà Đào làm nhà thì ông trả lại. Tháng 01/2012, bà Đào xây nhà trên phần đất tiếp
giáp nhà ông Lắm, đồng thời hỗ trợ ông Lắm tiền tháo dỡ để làm lại bếp. Ông Lắm
khởi kiện bà Đào ra Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm về việc bà Đào xây nhà lấn
chiếm khoảng 01 m2 đất của nhà ông và yêu cầu bà Đào phải trả lại.
Án Dân sự sơ thẩm số 12 ngày 25/9/2012 của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lắm. Ông Lắm phải chịu 542.000 đồng tiền án
phí dân sự sơ thẩm.
Ngày 5/10/2012, ông Lắm có đơn kháng cáo, yêu cầu xem xét lại toàn bộ án
sơ thẩm, xác định lại mốc giới, ranh giới của 2 hộ, buộc bà Đào trả lại 01 m2 đất.
Tòa án nhân dân tỉnh xét xử phúc thẩm ngày 28/3/2013, đã quyết định sửa
căn bản án sơ thẩm, với nội dung: Buộc bà Đào bồi thường cho ông Lắm giá trị
của 0,79 m2 đất lấn chiếm là 7,9 triệu đồng. Bà Đào phải trả cho ông Lắm
2.668.000 đồng tiền lệ phí đo đạc, thẩm định, định giá.
2. Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm khi tiến hành thẩm định tại chỗ không
xem xét tỷ mỉ, chi tiết cụ thể diện tích và ranh giới tranh chấp. Sau khi cấp phúc
thẩm trưng cầu Trung tâm Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký quyền
~ 13 ~
sử dụng đất kiểm tra xác định lại. Kết quả cho thấy bà Đào làm nhà lấn sang đất
nhà ông Lắm 0,79 m2.
***
Vụ kiện ly hôn giữa:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 1972.
- Bị đơn: anh Nguyễn Đắc Nhượng, sinh năm 1973.
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Chị Hạnh kết hôn với anh Nhượng ngày 28/11/2000 trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký. Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hoa Phượng, sinh ngày 21/6/2001,
và Nguyễn Thanh Bình sinh 26/2/2007. Mâu thuẫn phát sinh từ năm 2006 do anh
Nhượng không quan tâm vợ con, thường xuyên đánh chửi vợ .v… Chị Hạnh có
đơn yêu cầu được ly hôn.
Về tài sản chung: 01 nhà quán cấp 4 diện tích 40 mét vuông, trị giá
33.917.000 đồng, có sân phía trước 60 m2 trị giá 950.000 đồng. Móng nhà xây đá
hộc 5,53 mét khối, 01 bồn nước Tân Mỹ, nhà vệ sinh, 01 máy bơm nước, 01 xe
máy VMVPI, 01 xe máy DREM Trung quốc, 01 tivi SAMSUNG, 01 đầu đĩa, 01
bộ đồ sửa xe.
Án sơ thẩm ly hôn số 10 ngày 7/12/2012 của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
xử có nội dung: Chị Hạnh được ly hôn anh Nhượng. Giao cháu Nguyễn Hoa
Phượng cho chị Hạnh trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nhượng nuôi cháu Nguyễn Thanh
Bình.
Về tài sản: Giao chị Hạnh sở hữu sử dụng 01 nhà quán, 01 sân, 01 móng xây
đá, nhà vệ sinh, bồn nước Tân Mỹ, 01 xe máy VMVIPI; tổng trị giá 42.510.000
đồng.
Anh Nhượng được sở hữu: 01 bộ đồ sửa xe máy, 01 máy lọc nước, 01 tivi
SAMSUNG, 01 đầu đĩa. Tổng trị giá 9.000.000 đồng. Chị Hạnh phải thanh toán
chênh lệch tài sản cho anh Nhượng 16.755.000 đồng.
Ngày 19/12/2012, anh Nhượng có đơn kháng cáo với nội dung: yêu cầu
được đoàn tụ, đất ở do hai vợ chồng tự cải tạo ao bùn và không đồng ý nhận tiền,
vì không có chỗ ở.
Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình xét xử phúc thẩm ngày 27/5/2013, quyết
định: Giữ nguyên án sơ thẩm đã tuyên về tình cảm, con cái. Hủy phần tài sản
chung của vợ chồng, chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm để giải
quyết lại theo qui định chung của pháp luật.
~ 14 ~
2. Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
Anh Nhượng khai toàn bộ diện tích đất, nhà cấp 4, công trình phụ, móng nhà
là tài sản chung của vợ chồng, không liên quan gì đến bà Hương (mẹ chị Hạnh).
Nhưng Tòa án chưa xác minh làm rõ đã cho đó là tài sản chung là không chính
xác. Mặt khác chưa có đủ căn cứ xác định diện tích đất tranh chấp nằm trong hay
ngoài đất của bà Hương. Án sơ thẩm xác định bà Hương là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, nhưng lại không đưa bà Hương tham gia hòa giải, là vi phạm
điều 184 Bộ luật TTDS.
***
Vụ kiện tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, giữa:
- Nguyên đơn: ông Bùi Văn Lượng, sinh năm 1956.
- Bị đơn: Bộ tư lệnh công binh. Do tư lệnh trưởng Phạm Quang Xuân
làm đại diện (người được ông Xuân ủy quyền: đại tá Hoàng Công Khang và Lê
Ngọc Hà).
Nội dung và quá trình giải quyết
Năm 2004, Bộ tư lệnh công binh là chủ đầu tư công trình mở rộng và nâng
cấp tuyến đường liên xã. Công ty xây dựng Lũng Lô III là đơn vị thi công theo hợp
đồng kinh tế với Bộ tư lệnh công binh. Trong quá trình thi công, công ty xây dựng
Lũng Lô đã đổ đất đá vùi lấp vào diện tích đất nông nghiệp của một số hộ dân,
trong đó có diện tích 10.250m2 đất rừng của hộ ông Bùi Văn Lượng.
UBND tỉnh Hòa Bình có quyết định số 3485/QĐ-UB ngày 26/12/2006 về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng công trình
đường liên xã. Theo quyết định này có 380 hộ dân ở 2 xã bị thu hồi đất và tài sản
trên đất, đã được Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng huyện chi trả bồi
thường và hỗ trợ xong từ ngày 3 đến 6/2/2007.
Do không được bồi thường, ông Bùi Văn Lượng có đơn hỏi Hội đồng bồi
thường giải phóng mặt bằng huyện và được trả lời với nội dung: đất và tài sản trên
đất của ông không thuộc diện tích phải thu hồi, nên không được đền bù. Ông
Lượng có đơn đề nghị yêu cầu đơn vị thi công phải bồi thường thiệt hại về đất và
tài sản trên đất do thi công công trình gây ra. Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện
có công văn gửi Ban quản lý dự án thuộc Bộ Tư lệnh Công binh về việc giải quyết
khiếu nại của ông Lượng và 11 hộ dân xóm Bái.
Ban quản lý dự án CT 229 Bộ Tư lệnh Công binh có: công văn số
2308/BTL-BQL ngày 20/9/2009, trả lời công văn số 04 ngày 4/10/2008 của UBND
huyện và Hội đồng giải phóng mặt bằng. Công văn số 17/BTL-BQL ngày 5/1/2010
về việc trả lời đơn của ông Lượng. Theo đó, Ban quản lý dự án CT 229 Bộ Tư lệnh
~ 15 ~
Công binh xác định sẽ phối hợp chặt chẽ với Hội đồng giải phóng mặt bằng giải
quyết để bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Ngày 8/11/2010, UBND huyện có công văn số 164/UBND-TTr gửi Ban
quản lý dự án CT 229 và ông Lượng về việc trả lời khiếu nại của công dân. Theo
đó, đơn vị thi công thuộc Bộ Tư lệnh Công binh đã đổ đất vùi lấp làm ảnh hưởng
10.250 m2 đất lâm nghiệp của hộ gia đình ông Lượng đã được UBND huyện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 2/12/1998. Mục đích sử dụng là rừng sản
xuất, thời hạn sử dụng 50 năm. Đồng thời, UBND huyện kiến nghị CT 229 Bộ Tư
lệnh Công binh bồi thường 43.332.900 đồng.
Phiên làm việc ngày 27/4/2011 giữa ông Bùi văn Lượng với đại diện UBND
huyện, đại diện chủ đầu tư và đại diện nhà thầu thi công về việc giải quyết bồi
thường, không đạt kết quả. Ngày 20/2/2012, ông Lượng có đơn khởi kiện Ban
quản lý dự án CT 229 Bộ Tư lệnh Công binh phải bồi thường thiệt hại.
Án Dân sự sơ thẩm số 04/2013/DSST ngày 10/9/2013 của TAND cấp huyện
xử có nội dung: Buộc Bộ Tư lệnh Công binh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông
Lượng là 124.810.450 đồng. Ngoài ra, án cũng đã tuyên về án phí, quyền kháng
cáo, việc thi hành án.
Ngày 30/9/2013 và 15/10/2013, Bộ Tư lệnh Công binh có đơn kháng cáo với
nội dung: Tòa án huyện xác định Bộ Tư lệnh Công binh là bị đơn và phải bồi
thường cho ông Lượng là không đúng, thời hiệu khởi kiện của ông Lượng đã hết
theo qui định tại điều 607 BLDS, yêu cầu xét xử phúc thẩm, hủy án sơ thẩm của
TAND huyện.
Ngày 15/10/2013, ông Bùi văn Lượng có đơn kháng cáo với nội dung:
không đồng ý mức giá do Tòa án cấp sơ thẩm áp để tính bồi thường thiệt hại cho
gia đình ông. Yêu cầu tính theo quyết định số 43 ngày 20/12/2004 của UBND tỉnh,
với giá 16 nghìn đồng/m2.
Ngày 23/9/2013, Viện kiểm sát nhân dân huyện ban hành Quyết định kháng
nghị phúc thẩm số 212/KN-DSPT với những căn cứ:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết theo qui định tại điều 607 BLDS; Khoản 1 và
khoản 3 điểm a, điều 159 Bộ luật TTDS.
- Tòa án không đưa Công ty xây dựng Lũng Lô tham gia quá trình giải quyết
vụ án, là vi phạm điều 61 Bộ luật TTDS.
- Bộ Tư lệnh Công binh không có trách nhiệm phải bồi thường cho ông
Lượng. Trách nhiệm bồi thường thuộc công ty xây dựng Lũng Lô, do Bộ Quốc
phòng thành lập.
Ngày 26/12/2013, Tòa phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử và bản án phúc thẩm
số 23/2013/PT-DS căn cứ khoản 3 điều 275 và điều 277 Bộ luật TTDS, xử hủy án
sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
1.Về thời hiệu khởi kiện.
~ 16 ~
Phiên làm việc ngày 27/4/2011 giữa ông Bùi Văn Lượng với đại diện UBND
huyện, đại diện UBND xã, đại diện chủ đầu tư và đại diện nhà thầu thi công về
việc giải quyết có nội dung chính là: Đơn vị thi công phải đền bù cho dân và áp giá
năm 2005 để tính tiền đền bù. Song, hai bên không thống nhất được số tiền bồi
thường.
Căn cứ điểm a khoản 1 điều 162 Bộ Luật Dân sự; khoản 6 điều 23 Nghị
quyết số 03 ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, thì thời hiệu
khởi kiện bắt đầu lại của ông Lượng được tính kể từ ngày 27/4//2011, và sẽ hết hạn
khởi kiện vào ngày 27/4/2013.
Khoản 6 điều 23 Nghị quyết số 03 hướng dẫn “Theo qui định tại điều 160
của BLTTDS thì các qui định của BLDS năm 2005 về thời hiệu được áp dụng trong
Tố tụng Dân sự; do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không
tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện,… được thực hiện theo
qui định của BLDS năm 2005”.
Điểm a khoản 1 điêù 162 BLDS qui định:
“1.Thời hiệu khởi kiện vụ án Dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình
đối với người khởi kiện”.
Như vậy: Theo qui định pháp luật nêu trên, thì ông Lượng có quyền khởi
kiện kể từ ngày 27/4/2011, và sẽ hết thời hạn 2 năm theo điều 607 BLDS vào ngày
27/4/ 2013. Đơn khởi kiện của ông Lượng ngày 20/2/2012, nộp dự phí khởi kiện
ngày 8/5/2012, TAND huyện Kim bôi thụ lý sơ thẩm số 19/2012/TLST-DS ngày
8/5/2012; đều trước ngày 27/4/2013. Kháng cáo của Bộ Tư lệnh Công binh, và
kháng nghị của VKS huyện Kim bôi cho là đã hết thời hiệu khởi kiện theo điều
607 BLDS, và điều 159 Bộ luật TTDS là không đúng. Tại phiên Tòa phúc thẩm,
VKSND tỉnh Hòa bình rút kháng nghị của VKSND huyện Kim bôi về thời hiệu
khởi kiện.
2.Về tố tụng
- Xí nghiệp xây dựng công trình - Công ty xây dựng Lũng Lô 3, là đơn vị
chỉ định thầu, ký hợp đồng làm công trình đường liên xã với Bộ Tư lệnh Công
binh. Đồng thời là người trực tiếp có lỗi đổ đất vùi lấp vườn rừng hộ ông Lượng.
Án sơ thẩm không đưa Công ty xây dựng Lũng Lô 3 phải tham gia tố tụng với tư
cách là người liên quan, là vi phạm khoản 4 điều 56 Bộ Luật TTDS. Nội dung
kháng nghị này của VKS huyện là có cơ sở, được chấp nhận.
- Theo điều 75 Luật xây dựng năm 2003, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy
định các quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư với nhà thầu thi công: “…Dừng thi
công xây dựng công trình và yêu cầu khắc phục hậu quả khi nhà thầu thi công xây
dựng công trình vi phạm các quy định về chất lượng công trình, an toàn vả vệ sinh
môi trường. Tổ chức giám sát thi công xây dựng công trình, kiểm tra biện pháp
bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường’'. Việc Bộ tư lệnh công binh (cụ thể là Ban
quản lý dự án CT229- Bộ tư lệnh công binh) không tổ chức giám sát thi công để
~ 17 ~
cho nhà thầu thi công là công ty xây dựng Lũng Lô) san sạt đất đá không đúng với
hồ sơ thiết kế kỹ thuật và hồ sơ thi công gây thiệt hại đến tài sản (đất - cây keo) của
gia đình ông Lượng. Do vậy Bộ tư lệnh công binh phải chịu trách nhiệm đối việc
gây thiệt hại này.
Tại khoản 3 Điêu 56 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “…bị đơn trong vụ án
dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện... ”. Trong vụ án này ban đầu ông Lượng
khởi kiện Ban quản lý dự án CT 229 - Bộ tư lệnh công binh, Công ty xây dựng
Lũng Lô. Sau đó ông Lượng thay đổi nội dung khởi kiện, không kiện Ban quan lý
dự án CT 229- Bộ tư lệnh công bình và công ty xây dựng Lũng Lô mà kiện Bộ tư
lệnh công binh như vậy Tòa án cấp sơ thẩm xác định Bộ tư lệnh công binh là bị
đơn là đúng với quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát huyện kháng nghị về việc Bộ Tư lệnh Công binh không có
trách nhiệm phải bồi thường cho ông Lượng. Trách nhiệm bồi thường thuộc công
ty xây dựng Lũng lô là không đúng. Viện kiểm sát nhân sân tỉnh đã rút nội dung
kháng nghị này của Viện kiểm sát nhân dân huyện.
3.Về mức bồi thường thiệt hại
Việc Tòa án cấp sơ thấm xác định thiệt hại theo biên bản định giá ngày
13/8/2013 của Hội đồng định giá là không có cơ sở vì diện tích đất lâm nghiệp của
gia đình ông Lượng bị vùi lấp không thuộc diện tích đất bị thu hồi, đền bù giải
phóng mặt bằng và cũng không phải đất bị Nhà nước trưng dụng tạm thời nên
không thể vận dụng khoản 3 Điều 8 quyết định số 41/2009/QĐ - UBNĐ ngày
28/12/2009 để áp giá bồi thường thiệt hại là 40% x 10.000 đồng/1m2. Biên bản
định giá tài sản bị thiệt hại ngày 13/8/2012 của Hội đồng định giá tài sản huyện lấy
Quyết định số 40 và 41 năm 2009 của UBND tỉnh để áp dụng tính giá bồi thường
là không đúng. Vì thời điểm xảy ra là năm 2005, phải áp giá năm 2005 để tính tiền
đền bù. Án sơ thẩm áp giá năm 2009 (Có mức đền bù thấp hơn năm 2005) là
không phù hợp, gây thiệt hại cho ông Lượng.
Việc tính thiệt hại một chu kỳ keo là l,7ha là không chính xác. Tại phiên tòa
phúc thẩm ông Lượng khai chỉ mới trồng được 0,7ha cây keo. Bởi vậy tòa án cấp
sơ thẩm cần xác định thiệt hại thực tế xảy ra để ấn định mức bồi thường theo quy
định tại các điều 604, 605và điều 608 của Bộ luật dân sự và các quyết định của Úy
ban nhân dân tỉnh quy định về bảng giá đất và bồi thường tài sản khi Nhà nước thu
hồi đất tại thời điểm thiệt xảy ra để quyết định mức bồi thường theo đúng quy định
của pháp luật.
Vi phạm tố tụng và nội dung của Tòa án sơ thẩm là nghiêm trọng, căn cứ
khoản 3 điều 275 BLTTDS, Tòa phúc thẩm chấp thuận đề nghị của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Hòa Bình xử hủy án sơ thẩm số 04/2013/DSST ngày 10/9/2013 của
TAND huyện để giải quyết lại theo thủ tục chung.
***
~ 18 ~
Vụ kiện tranh chấp hợp đồng Dân sự giữa:
- Nguyên đơn: anh Nguyễn Kiến Tuấn, sinh năm 1965.
- Bị đơn: anh Trần Quang Dũng, sinh năm 1958.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Chu Thanh Tuấn. Sinh năm 1981.
+ Anh Nguyễn Văn Hải. Sinh năm 1968.
Nội dung vụ án và quá trình giải quyết vụ kiện
Anh Nguyễn Kiến Tuấn có nợ anh Trần Quang Dũng tiền vật liệu xây dựng,
gốc + lãi là 780 triệu đồng từ tháng 9/2009. Do anh Nguyễn Kiến Tuấn dây dưa trả
nợ, Ngày 18/8/2010, anh Dũng giữ chiếc xe Ôtô 5 chỗ nhãn hiệu Mercedes BKS
28H - 3519 của anh Nguyễn Kiến Tuấn (mua lại của anh Chu Thanh Tuấn trước
đây). Cùng ngày, tại nhà anh Trần Quang Dũng, anh Kiến Tuấn và anh Dũng thoả
thuận nội dung: anh Kiến Tuấn bán chiếc xe Ôtô này cho anh Dũng và trừ nợ 780
triệu đồng.
Ngày 29/10/2012, anh Nguyễn Kiến Tuấn có đơn khởi kiện anh Trần Quang
Dũng tại TAND huyện với nội dung: anh bị anh Dũng ép phải bán xe trừ nợ. Xe Ô-
tô là tài sản chung của vợ chồng, nên một mình Tuấn không có quyền định đoạt.
Anh Kiến Tuấn yêu cầu anh Dũng trả lại xe Ô-tô do giao dịch vô hiệu và bồi
thường thiệt hại.
Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện quyết định: Tuyên bố các giao
dịch dân sự ngày 18/8/2010 giữa ông Trần Quang Dũng với ông Nguyễn Kiến
Tuấn và giao dịch dân sự ngày 23/1/2011 giữa ông Trần Quang Dũng với ông
Nguyễn Văn Hải về việc mua bán xe ô tô BKS 28H-3519 nhãn hiệu Mercedes vô
hiệu. Buộc các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, cụ thể: Buộc ông
Nguyễn Văn Hải trả lại chiếc xe ô tô BKS 28H-3519 nhãn hiệu Mercedes cho ông
Trần Quang Dũng. Ông Dũng phải trả lại cho ông Hải 500.000.000 đồng tiền ông
Hải đã thanh toán cho ông Dũng qua giao dịch mua xe ngày 23/01/2011 giữa ông
Dũng và ông Hải. Buộc ông Trần Quang Dũng phải trả lại chiếc xe ô tô BKS 28H-
3519 nhãn hiệu Mercedes cho ông Nguyễn Kiến Tuấn. Đình chỉ yêu cầu bồi
thường thiệt hại của ông Nguyễn Kiến Tuấn. Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định
về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 24/9/2013 và 9/11/2013, anh Trần Quang Dũng có đơn đề khiếu nại
án sơ thẩm với nội dung: Anh đã chuyển hộ khẩu ra sinh sống tại xã Sủ Ngòi,
thành phố Hòa Bình, có đề nghị trực tiếp với Tòa án huyện chuyển vụ án ra thành
phố Hòa Bình giải quyết, nhưng Tòa án không chuyển. Tòa án huyện không thông
báo phiên tòa, xét xử vắng mặt anh không đúng pháp luật, làm mất quyền lợi của
anh theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh và Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh xem xét lại án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện.
~ 19 ~
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đơn đề nghị
giám đốc thẩm của anh Trần Quang Dũng đề ngày 23/8/23013 và 09/11/2013. Kết
quả xác minh hộ khẩu thường trú và tạm trú của anh Trần Quang Dũng, xét thấy
bản án Dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện có nhiều vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng Dân sự. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân tỉnh Hòa bình đã ra Quyết
định kháng nghị Giám đốc thẩm đối với bản án Dân sự sơ thẩm số 09/2013/ DSST
ngày 21/5/2013 của Toà án nhân dân huyện để giải quyết lại theo thủ tục chung.
Ngày 26/3/2014 Toà án nhân dân tỉnh xét xử giám đốc thẩm, tuyên án ngày
14/4/2014, quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, xử
huỷ toàn bộ án sơ thẩm số 09/2013/DSST ngày 21/5/2013 của Toà án nhân dân
huyện, giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo qui định của pháp
luật.
Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm
- Tòa án nhân dân huyện thụ lý vụ kiện số 32/2012/TLST-DS ngày
01/11/2012. Xét xử sơ thẩm ngày 21/5/2013. Án sơ thẩm có nhận định “Chiếc xe
Ôtô BKS 28H-3519 là tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn Kiến Tuấn, do đó
một mình ông Kiến Tuấn không có quyền định đoạt”, nhưng bản án lại không ghi
nhận tư cách tham gia tố tụng của chị Nguyễn Thị Chúc, mặc dù chị Chúc có giấy
ủy quyền ngày 10/12/2012 ủy quyền cho chồng tham gia giải quyết vụ kiện. Thiếu
sót này vi phạm: khoản 4 điều 56; điều 61, và khoản 3 điều 238 Bộ Luật Tố tụng
Dân sự.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình qua tiến hành việc xác minh hộ
khẩu cư trú của anh Trần Quang Dũng, kết quả: Công an thị trấn cung cấp, anh
Trần Quang Dũng đã chuyển hộ khẩu toàn bộ gia đình đến nhập và sinh sống tại xã
Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình ngày 22/11/2012. Anh Trần Quang Dũng cũng
không có lần nào đăng ký tạm trú tại thị trấn kể từ sau ngày chuyển hộ khẩu đến
ngày 21/5/2013.
- Tài liệu xác minh của Tòa án nhân dân huyện ngày 19/4/2013 về hộ khẩu
anh Trần Quang Dũng do phó chủ tịch UBND thị trấn cung cấp chưa chuyển đi nơi
khác là vừa không chính xác, vừa không đúng, vì Hộ khẩu thuộc Công an các cấp
quản lý theo qui định của pháp luật.
- Anh Trần Quang Dũng (Bị đơn) có trình báo bằng miệng với Thư ký Toà
án ngay từ lần đầu tiên đến làm việc với Toà án, về việc anh và gia đình đã chuyển
ra thành phố Hoà Bình cư trú và sinh sống. Tòa án nhân dân huyện không lập biên
bản hoặc hướng dẫn Bị đơn viết đơn gửi cho Toà án; Không xem xét chuyển hồ sơ
vụ kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình để giải quyết theo thẩm quyền,
hoặc báo cáo Chánh án TAND tỉnh quyết định theo khoản 2 điều 137 Bộ luật
TTDS là vi phạm: điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự; Các điều: 1 và
12 Luật Cư trú ngày 29/11/2006 của Quốc hội.
Điều 1 Luật cư trú qui định: “Cư trú là việc Công dân sinh sống tại một địa
điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú”.
~ 20 ~
Điều 12 khoản 1 Luật Cư trú qui định “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở
hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống…”.
- Giấy triệu tập anh Dũng, quyết định định giá tài sản, quyết định đưa vụ án
ra xét xử, bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện niên yết tại Ủy ban nhân dân
thị trấn không đúng nơi cư trú của bị đơn, vi phạm khoản 2 điều 154 Bộ luật Tố
tụng Dân sự, làm mất quyền kháng cáo của bị đơn (do vắng mặt phiên Tòa).
***
Vụ tranh chấp đòi tài sản giữa:
- Nguyên đơn: ông Bùi Văn Cắn, sinh năm 1939
- Bị đơn: anh Bùi Mộng Cương (tức Bùi Văn Mơ), sinh năm 1965
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Bùi Thị Vĩ, sinh năm 1972.
+ Chị Bùi Thị Mão, sinh năm 1975.
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Ngày 07/10/1999, ông Bùi Văn Cắn được UBND huyện cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 585223 với tổng diện tích là 29.000 m2 loại đất lâm
nghiệp thời hạn sử dụng đến năm 2044. Ngày 03/12/2008, ông Bùi Văn Cắn ủy
quyền cho anh Bùi Mộng Cương(con trai cả ông Cắn) được sử dụng giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; diện tích là 29.000m2, số thửa 144 = 23.000m
2; thửa 160
= 6.000m2, thời hạn ủy quyền đến năm 2044. Ngày 04/11/2013, ông Cắn đơn
phương làm đơn xin chấm dứt ủy quyền đối với anh Cương. Với lý do thửa đất lâm
nghiệp trên đã được ủy quyền cho anh Bùi Văn Vị (anh Vị là con trai thứ 2 của ông
Cắn) được sử dụng toàn bộ. Anh Vị đã đòi nhưng anh Cương không trả đất, sự việc
đã được UBND xã tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do anh Cương vẫn cố
tình không trả đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ngày 06/6/2015, ông
Cắn ủy quyền cho anh Bùi Văn Vị khởi kiện ra Tòa án. Ngày 12/6/2015, anh Vị
làm đơn khởi kiện, tại mục người khởi kiện cũng như phần cuối đơn đều ghi tên
Bùi Văn Vị, anh Vị đề nghị Tòa giải quyết buộc anh Bùi Mộng Cương phải trả lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và diện tích đất 29.000m2 đất lâm nghiệp.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/9/2015, ông Bùi Văn cắn trình bày: Do sức
khỏe yếu, ông Cắn không trồng rừng được nên đã cho anh Cương mượn đất để
canh tác. Giữa ông và anh Cương đã lập hợp đồng ủy quyền ngày 03/12/2008, hợp
đồng có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Tuy nhiên khi được hỏi về nội dung ủy
quyền thì ông Cắn lại cho rằng ông không ủy quyền cho anh Cương sử dụng đất để
trồng keo, sắn nhưng do anh Cương là con trai của ông nên việc anh Cương sử
~ 21 ~
dụng đất để canh tác ông cũng không có ý kiến gì vì diện tích đất cũng để không.
Nhưng do thời hạn ủy quyền đến năm 2044 lúc đó ông đã chết nên ông không thể
chờ được. Ông đã ủy quyền cho anh Vị khởi kiện đòi lại đất lâm nghiệp và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định của anh Vị cũng là ý chí quyết định của
ông.
Bị đơn anh Bùi Mộng Cương trình bày: Ông Cắn và bà Dưởi sinh được 04
người con, anh là con trai trưởng trong gia đình. Ban đầu anh Cương khai ngày
03/12/2008, ông Cắn đến nhà anh và nói là cho mượn đất lâm nghiệp, đưa cho anh
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bố con đã ra ủy ban nhân dân xã để lập
hợp đồng ủy quyền. Sau khi mượn đất anh đã trồng cây sắn, cây keo từ đó cho đến
này, và đã thu hoạch nhiều vụ. Sau này anh Cương lại khai ông Cắn cho anh diện
tích đất trên Hiện nay đất tranh chấp đang được anh trồng keo, sẳn trên diện tích
khoảng 2000m2, trồng từ thời điểm tháng 2,3/2015 dự kiến đến tháng 11/2015 sẽ
thu hoạch, khi canh tác trên đất ông Cắn không có ý kiến gì phản đối. Anh không
hiểu giữa hai bố con không có mẫu thuẫn gì nhưng lại thấy ông Cắn làm đơn kiện
đòi đất. Quan điểm của anh không đồng ý trả lại đất với lý do vì anh là con trai
trưởng, anh có quyền chia đất, anh sẽ chia đất làm 04 phần mỗi anh em một phần.
Và đề nghị Tòa án làm rõ việc đòi đất này không phải là do ông Cắn mà là do anh
Vị xúi giục, ông Cắn được giao đất nhưng không sử dụng đất trong khi anh lại
đang rất cần để canh tác, hợp đồng ủy quyền vần còn thời hạn. Khi ông Cắn làm
đơn xin chấm dứt ủy quyền chỉ có một mình không báo trước cho anh. Việc ông
Cắn, anh Vị khởi kiện anh là sai, yêu cầu ông Cắn, anh Vị phải bồi thường cho
anh.
Người có nghĩa vụ quyền lợi liên quan là chị Bùi Thị Vĩ cho rằng đất ông
Bùi văn Cắn (là bố đẻ chị đã cho anh Cương, có giấy ủy quyền, đòi lại là không
đúng. Chị Bùi Thị Mão cho rằng đất của bố đẻ chị là ông Cắn, hiện nay ông đòi lại
sau này ông cho ai thì cho chị không có ý kiến gì.
Bản án số 07 ngày 30/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện đã quyết định: Áp
dụng các điều 581, 588 và khoản 3 điều 589 và điều 256 cua Bộ luật dân sự, điều
131 của Bộ luật tố tụng dân sự tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Bùi
Văn Vị về việc đòi lại tài sản (đất lâm nghiệp) với anh Bùi Mộng Cương. Buộc anh
Bùi Mộng Cương phải trả cho ông Bùi Văn Cắn 29.000m2 đất lâm nghiệp, kèm
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 585223 cấp ngày 07/10/1999 mang tên
ông Bùi Văn Cắn. Anh Bùi Mộng Cương phải thu hoạch sắn, keo trong thời hạn 3
tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Về án phí: Anh Bùi Mộng Cương phải nộp 17.400.000đ (mười bảy triệu
bốn trăm ngàn đồng chẵn) án phí dân sự sơ thẩm. Anh Bùi Văn Vị không phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) đã
nộp tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu tiền số 07697 ngày 10/8/2015 tại Chi
cục thi hành án huyện.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
~ 22 ~
Ngày 12/10/2015 anh Bùi Mộng Cương đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm số 07 ngày 30/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện. Ngày 19/10/2015
VKSND huyện đã có báo cáo đề nghị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Ngày
26/10/2015 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đã ban hành kháng nghị số 01/
QĐ-KNPT đối với bản án DSST số 07 ngày 30/9/2015.
Bản án số 23/2015/DS-PT ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa
Bình đã quyết định chấp nhận kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình. Căn cứ khoản 3 điều 275, 277 BLTTDS hủy bản
án số 07 ngày 30/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện để giải quyết lại vụ án theo
thủ tục chung.
2. Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
* Vi phạm về thủ tục tố tụng
Theo tài liệu có trong hồ sơ thể hiện: Đơn khởi kiện và các trình tự tố tụng
tại cấp sơ thẩm ông Bùi Văn Vị được xác định với tư cách là nguyên đơn, nhưng
nội dung trong đơn và các lời khai yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị ông Bùi
Mộng Cương phải trả giấy chứng nhận và diện tích đất cho ông Bùi Văn Cắn. Như
vậy trong vụ kiện này ông Cắn phải được xác định với tư cách là nguyên đơn, ông
Vị là Người được nguyên đơn ủy quyền tham gia tố tụng. Tại điểm 1.1. mục I Nghị
quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối
cao hướng dẫn về Điều 161 BLTTDS quy định: Đối với cá nhân có đầy đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn
khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ
tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên
hoặc điểm chỉ.
Ông Bùi Văn Cắn là người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, do đó
ông Cắn phải là người ký tên hoặc điểm chỉ trong mục người khởi kiện, việc tòa
án huyện Kim bôi xác định ông Bùi Văn Vị là nguyên đơn và là sai, đã vi phạm
Điều 161 BLTTDS và điểm 1.1. mục I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.
* Vi phạm về việc thu thập chứng cứ
Trong hồ sơ và tại phiên tòa phúc thẩm lời khai của ông Bùi Mộng Cương
khai trên diện tích đất lâm nghiêp (29.000 m2) ông đã trồng 8.000 - 9.000 cây keo
và sắn chưa đến thời kỳ thu hoạch, nhưng tòa sơ thẩm khi đi thẩm định tại chỗ
không xem xét định giá cây cối hoa màu trên đất, cụ thể là số cây keo anh Cương
trồng đúng như anh khai không, đã đến chu kỳ khai thác và được nhà nước cho
phép khai thác hay chưa, đồng thời trong quá trình sử dụng đất anh Cương có cải
tạo để làm tăng giá trị đất lên không, có yêu cầu đòi bồi thường không ? Tòa cấp
sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này nhưng lại tuyên trong phần quyết định của bản án
buộc: “Anh Bùi Mộng Cương phải thu hoạch sắn keo trong vòng 3 tháng kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm” là chưa đảm bảo được quyền lợi của đương sự. Do đó tòa
~ 23 ~
án cấp sơ thẩm đã vi phạm điều 85 và điều 96 BLTTDS về thu thập và đánh giá
chứng cứ.
* Vi phạm về tính án phí
Tại khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ - HĐTP ngày 13 tháng 6
năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định:
2. Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu tài sản mà Tòa án không xem xét
giá trị, chỉ xem xét quyền sở hữu tài sản của ai thì đương sự phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch;
Như vậy: Tranh chấp quyền sử dụng (QSD) đất mà bản án Dân sự sơ thẩm
số 07/2015/DSST ngày 30/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi tuyên buộc
anh Bùi Mộng Cương phải trả lại cho ông Bùi Văn Cắn 29.000m2 đất lâm nghiệp
rõ ràng trường hợp này Toà án chỉ cần xem xét QSD đất thuộc về ai nên không cần
phải xác định giá trị QSD đất đang tranh chấp.
Do đó, bản án tuyên anh Bùi Mộng Cương (Mơ) phải chịu số tiền án phí sơ
thẩm theo quy định của pháp luật: 348.000.000đ x 5% = 17.400.000đ, là trái với
điểm a khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ - HĐTP ngày 13 tháng 6 năm
2012 và đã gây thiệt hại đến quyền lợi của bị đơn anh Bùi Mộng Cương (Mơ).
Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cũng như nội
dung trong quá trình giải quyết vụ án. Viện kiểm sát cấp huyện đã kịp thời phát
hiện và báo cáo đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm./.
***
Vụ tranh chấp: Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến Dũng - sinh năm 1974
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn Thu và chị Nguyễn Thị Thu Hằng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Chị Hà Thị Trung Thu. Anh Lê Đắc Hòe.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Anh Nguyễn Thiện
Hiệp - Luật sư Công ty luật TNHH Việt Tâm thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà
Nội.
Người làm chứng: Ông Phạm Văn Long
Nội dung, quá trình giải quyết vụ án
~ 24 ~
Vào tháng 11/2010 Anh Hoàng Văn Thu có vay của anh Phạm Tiến Dũng số
tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng). Anh Thu thế chấp một giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (diện tích 90,6m2 thửa 164, tờ bản đồ số 07) mang tên hộ bà Hà
Thị Trung Thu (mà vợ chồng anh đã mua của vợ chồng bà Thu, ông Hòe, nhưng
chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng). Anh Dũng yêu cầu anh Thu phải làm thủ
tục chuyến nhượng đất sang tên cho anh Dũng thì anh mới đồng ý cho vay tiền. Do
vậy anh Thu đã dấu vợ và đến nhờ nhà ông bà Thu, Hòe ký hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất 164 tờ bản đồ số 07 cho anh Dũng vào ngày 05/11/2010 tại phòng
công chứng nhà nước số 01 tỉnh Hòa Bình.
Đến ngày 16/3/2012 do chưa trả được hết tiền gốc và lãi giữa anh Dũng và
anh Thu đã chốt nợ là anh Thu còn nợ số tiền 350.000.000d (ba trăm năm mươi
triệu đồng). Hai bên đã lập 1 hợp đồng thế chấp tài sản (Lô đất) anh Thu đồng ý
trong thời gian 6 tháng nếu không trả được thì số tiền vay chuyển thành số tiền
chuyển nhượng lô đất. Hết thời hạn anh Thu chưa trả được nên anh Dũng đã làm
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất sang tên anh Dũng vào tháng 7/2012. Sau đó anh
Dũng đã bán lô đất đó cho anh Đông. Khi anh Dũng đưa người đến để giao đất và
giao mặt bằng xây dựng tại lô đất đang tồn tại 01 cổng trụ hai vòm. Vợ chồng chị
Hằng, anh Thu không nhất trí giao đất và cho rằng vợ chồng anh chị không bán đất
cho anh Dũng.
Ngày 01/10/2013 Anh Dũng đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng chị Hằng, anh
Thu phải tháo dỡ cổng trụ xây trên đất của anh.
Ngày 03/01/2014 anh Dũng có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu tiếp tục thực
hiện hợp đồng thế chấp tài sản ngày 16/3/2012.
Ngày 10/3/2014 anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện về tháo dỡ tài sản công
trình trên đẩt.
Anh Thu, chị Hằng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Dũng mà
yêu cầu anh Dũng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà anh chị đã mua
của bà Hà Thị Trung Thu. Số tiền vay nợ 400.000.000d anh Thu đã trả cho anh
Dũng được nhiều lần cả gốc và lãi. Theo anh Thu kê khai là 642.000.000 đồng.
Nay chỉ đồng ý trả cho anh Dũng nốt số tiền 150.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/DSST ngày 16/07/2014 quyết định:
Áp dụng Điều 129,410,472,474,476 BLDS; điều 109,131,243 BLTTDS và
điều 27 pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án tuyên xử
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến Dũng đối với anh Hoàng
Văn Thu, chị Nguyễn Thị Thu Hằng về việc tháo dỡ công trình xây dựng trên đất.
- Tuyên bố Hợp đồng thỏa thuận thế chấp quyền sử dụng đất ngày
16/03/2012 giữa anh Hoàng Văn Thu và anh Phạm Tiến Dũng vô hiệu.
Buộc anh Hoàng Văn Thu, chị Nguyễn Thị Thu Hằng phải thanh toán cho
anh Phạm Tiến Dũng tổng số tiền 399.000.000 đồng. Cấm chuyển dịch lô đất diện
tích 90,6m2, thửa 164, tờ bản đồ 07 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK
529817 mang tên Phạm Tiến Dũng để bảo đảm thi hành án. Anh Phạm Tiến Dũng
~ 25 ~
có nghĩa vụ trả lại cho anh Hoàng Văn Thu, chị Nguyễn Thị Thu Hằng lô đất diện
tích 90,6m2, thửa 164, tờ bản đồ 07 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK
529817 mang tên Phạm Tiến Dũng khi anh Thu, chị Hằng thanh toán xong số tiền
399.000.000 đồng. Ngoài ra, quyết định của án sơ thấm còn tuyên về án phí và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 21/7/2014 anh Hoàng Văn Thu và chị Nguyễn Thị Thu Hằng có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/DSST ngày 16/7/2014.
Ngày 20/11/2014, Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình đã đưa vụ án trên để tiến
hành xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 3 Điều 275, Điều 277 BLTTDS hủy bản án
dân sự sơ thẩm số 12/2014/DSST ngày 16/7/2014 chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2013, anh Dũng yêu cầu vợ chồng chị Hằng,
anh Thu tháo dỡ cổng trụ xây dựng trên phần đất của anh. Ngày 03/01/2014 anh
Dũng có đơn yêu cầu bố sung đơn khởi kiện với nội dung tiếp tục thực hiện hợp
đồng thế chấp tài sản (quyền sử dụng đất) ngày 16/3/2012. Đây là hai mối quan hệ
pháp luật tranh chấp hoàn toàn độc lập không có quan hệ với nhau nhưng tòa án
cấp sơ thẩm lại thụ lý và giải quyết trong cùng một vụ án là không đúng quy định
pháp luật. Ngày 10/3/2014 anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện về tháo dỡ công trình
trên đất. Ngày 11/3/2014 Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết 1
phần vụ án dân sự. Tại bản án số 12/2014/DSST ngày 16/7/2014 Tòa án cấp sơ
thẩm lại tuyên trong phần quyết định là đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh Phạm
Tiến Dũng đối với anh Hoàng Văn Thu và chị Nguyễn Thị Thu Hằng về việc tháo
dỡ công trình xây dựng trên đất. Đây là những sai sót nghiêm trọng của cấp sơ
thẩm.
Xét yêu cầu đề nghị tiếp tục thực hiện Họp đồng thỏa thuận thế chấp tài sản
ngày 16/3/2012 thấy: Hợp đồng vi phạm cả về hình thức lẫn nội dung. Không tuân
thủ theo đúng quy định của pháp luật, không có chữ ký của chị Hằng, không qua
công chứng.
Nội dung của hợp đồng thế chấp nhằm che đậy giao dịch vay tiền giữa anh
Thu và anh Dũng. Đồng thời nhằm hợp lý hóa cho hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất được lập ngày 05/11/2010 tại phòng công chứng nhà nước số 01 tỉnh
Hòa Bình giữa anh Dũng và vợ chồng bà Thu, ông Hòe. Do anh Thu nhờ vợ chồng
bà Thu, ông Hòe ký chuyển nhượng để anh vay 400.000.000 đồng của anh Dũng.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày
16/3/2012 giữa anh Hoàng Văn Thu và anh Phạm Tiến Dũng là vô hiệu là có căn
cứ, đúng pháp luật. Nhưng lại không tuyên anh Dũng phảỉ trả lại cho anh Thu bìa
đất mang tên hộ bà Hà Thị Trung Thu và kiến nghị UBND thành phố thu hồi và
hủy bìa đất số BK529817 mang tên Phạm Tiến Dũng là chưa đầy đủ, chính xác.
Tòa án cấp sơ thẩm chuyển sang giải quyết việc vay nợ giữa anh Thu và anh
Dũng trong khi đơn khởi kiện của anh Dũng không yêu cầu giải quyết việc vay nợ.
Do vậy việc giải quyết là vượt quá phạm vi khởi kiện quy định tại Điều 5
~ 26 ~
BLTTDS. Đồng thời việc xác định số tiền 350.000.000 đồng (tiền chốt nợ vào
ngày 16/3/2012) để tính là tiền gốc là chưa chính xác. Tòa án cấp sơ thấm phải lấy
số tiền gốc vay ngày 5/11/2010 là 400.000.000 đồng trừ đi các lần anh Thu đã trả
cho anh Dũng thông qua các giấy trả nợ có chữ ký anh Dũng xác nhận và tính theo
lãi xuất cơ bản của ngân hàng nhà nước quy định là 9%/ năm x 150% theo quy
định tại điều 476 BLDS mới chính xác.
Việc tòa án cấp sơ thẩm buộc anh Thu, chị Hằng phải trả nợ cho anh Dũng
là không đúng vì chị Hằng không biết và không tham gia vào việc vay nợ giữa anh
Thu và anh Dũng.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong phần quyết
định của bản án: cấm chuyển dịch lô đất để đảm bảo thi hành án là không đúng quy
định của pháp luật. Vì biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được áp dụng theo trình
tự, thủ tục riêng. Đó là những quyết định cá biệt mang tính tạm thời và được áp
dụng khi đương sự có đơn yêu cầu và phải nộp 1 khoản tiền đế đảm bảo và tương
xứng với yêu cầu của mình.
Việc xác định tư cách người tham gia tố tụng là chưa đúng và chưa đầy đủ
của tòa án cấp sơ thấm đó là xác định anh Bùi Văn Đông tham gia phiên tòa với tư
cách là người liên quan là không chính xác vì anh Đông không có liên quan gì đến
việc kiện yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày
16/3/2012. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND thành phố tham gia tố tụng là
thiếu sót./.
***
Vụ chia tài sản trong vụ kiện ly hôn sơ thẩm, bị cấp phúc thẩm xử huỷ
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn văn Hải, sinh năm 1976.
- Bị đơn: Chị Nguyễn thị Thu Hà, sinh năm 1981.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện.
2. Chị Nguyễn Thị Tâm, sinh năm 1977.
3. Bà Quách thị Nhung, sinh năm 1956.
4. Anh Hoàng Việt Đức.
Nội dung, quá trình giải quyết vụ án
Án sơ thẩm số 03/2014/HNGĐ-ST ngày 22/4/2014 của Tòa án nhân dân cấp
sơ thẩm quyết định xử có nội dung:
- Anh Hải được ly hôn chị Hà.
~ 27 ~
- Về tài sản chung: Anh Hải được sở hữu và sử dụng gồm: Thửa đất số 20
diện tích 352m2 trị giá 281.000.000 đồng. Thửa đất số 19 chưa tách bìa có diện
tích 1.213m2 trị giá 66.715.000 đồng. Hai thửa đất sát nhập vào thửa đất đã xây
móng và kè đá, có tổng giá trị 22.684.800 đồng, trên đất có 17 cây keo lấy gỗ.
Thửa đất số 15 có trước khi kết hôn, diện tích 1.120m2, trên đất có 1 nhà cấp 4, nhà
bếp và 2 cây nhãn, không định giá. Tài sản có sau khi kết hôn gồm: móng và tường
bao, cổng xây và cánh cổng sắt trị giá 26.915.000 đồng. Chuồng lợn xây trị giá 3,8
triệu đồng. Bể nước, nhà tắm và thiết bị trị giá 13 triệu đồng. Nhà kho + cửa sắt trị
giá 7 triệu đồng. 1 Ti-vi + đầu thu trị giá 3 triệu đồng. 1 Mô-tơ TQ + 2 máy cắt trị
giá 500.000 đồng. 1 bình nóng lạnh 1,5 triệu đồng. 1 máy rửa xe 1 triệu đồng. Ván
và cây chống cốt pha trị giá 6 triệu đồng. Cây cảnh + Chậu trị giá 2.500.000 đồng.
Tổng trị giá anh Hải được sử dụng là 438.305.000 đồng. Trả nợ Ngân hàng chính
sách 15 triệu đồng.
Chị Hà được sử dụng: Thửa đất số 07, diện tích 157m2. 4,3 vạn viên gạch
đỏ. 50 cây sắt phi 16. 1 tủ lạnh PANASONIC. 1 xe máy; 1 két sắt, 8 bộ giàn giáo
sắt và máy trộn bê tông. Tổng trị giá 435.800.000 đồng. Trả nợ cho bà Nhung 29
triệu đồng.
Anh Hải có đơn kháng cáo về việc chia tài sản chung không đồng ý chia các
thửa đất số 19 + 20 và thửa đất mang tên Đào Anh Dân, vì đây là tài sản riêng. Về
công nợ, chị Hà phải trả cho bà Quách Thị Nhung 29 triệu đồng là không có cơ sở.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh thực hiện kiểm sát và tham gia phiên toà phúc
thẩm, xét thấy:
- Thửa đất số 15 và 19, anh Hải khai là tài sản riêng, chị Hà không tranh
chấp. Toà sơ thẩm lại nhận định là tài sản chung và đưa ra chia là trái pháp luật.
Song, chị Hà có đề nghị giải quyết các tài sản trên thửa đất số 15 và 19 là tài
sản chung, gồm có: nhà xây cấp 4, nhà bếp, 2 cây nhãn, 17 cây keo. Được tính trị
giá 5,1 triệu đồng, song lại không tính vào tổng giá trị tài sản chung, là vi phạm
quyền lợi của chị Hà.
- Thửa đất số 20 và thửa đất mua của anh Đào Anh Dân: Anh Hải cho rằng
là tài sản riêng, chị Hà cho là tài sản chung. Án sơ thẩm xác định là tài sản chung,
nhưng không xem xét thẩm định tại chỗ để xác định vị trí ranh giới của thửa đất có
diện tích 845m2 và thửa 368m
2, không định giá thửa đất 845m
2 (Do có tranh chấp
chung - riêng) là không đúng.
- Thửa đất số 07 và 08 do vợ chồng mua chung với chị Nguyễn Thị Tâm, tỉ
lệ 50/50, diện tích 200m2, nhưng Toà sơ thẩm xác định là 315m
2 là vượt quá
115m2 chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không xác minh làm rõ diện
tích tăng lên 115m2 so với diện tích chuyển nhượng 200m
2. Nếu không có tranh
chấp thì chỉ tạm giao diện tích tăng lên mới đúng.
- Về công nợ: Án sơ thẩm tuyên chị Hà phải trả cho bà Quách Thị Nhung 29
triệu đồng là chưa đủ cơ sở; vì Toà sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai và giấy chị Hà xác
nhận các lần vay của bà Nhung, không có tài liệu nào chứng minh cả 2 vợ chồng
chị Hà và anh Hải ký vay. Mặt khác, bà Nhung chưa có đơn yêu cầu và chưa nộp
~ 28 ~
tiền tạm ứng án phí. Do đó, án sơ thẩm tuyên chị Hà trả cho bà Nhung 29 triệu
đồng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Từ những sai sót và vi phạm nêu trên của Toà sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hoà Bình đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm phúc xử huỷ án sơ thẩm
phần tài sản và công nợ để giải quyết lại theo qui định của pháp luật.
Án phúc thẩm số 04 ngày 25/9/2014 của Toà án nhân dân tỉnh đã chấp thuận
đề xuất của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, xử huỷ phần tài sản và công nợ để giải
quyết lại theo thủ tục chung.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về tố tụng:Trong vụ kiện dân sự nói chung, chia tài sản khi ly hôn nói riêng,
trường hợp người liên quan có yêu cầu thanh toán công nợ, thì phải có đơn yêu cầu
giải quyết, đồng thời phải nộp tiền tạm ứng án phí theo điều 25 Pháp lệnh án phi, lệ
phí Toà án; thì Toà án mới thụ lý theo qui định tại điều 171 BLTTDS. Nếu người
liên quan không có đơn yêu cầu, không nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án chỉ xác
nhận nợ (nếu có căn cứ). Sau này nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng một vụ
kiện khác.
Về nội dung: Chia tài sản chung khi ly hôn phải thực hiện đúng qui định tại
điều 95 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000. Về nguyên tắc thì không chia tài sản
riêng. Tài sản chung trước khi chia phải xác minh thẩm định rõ, và phải định giá để
tính nộp án phí chia tài sản.
Về chia đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án chỉ tạm
giao cho đương sự sử dụng. Việc giao đất (cấp đất) thuộc thẩm quyền của UBND
các cấp theo qui định của luật Đất đai./.
***
Vụ án tranh chấp lối đi chung, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đào, sinh năm 1942.
- Bị đơn: Chị Vũ Thị Đào. sinh năm 1974.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Bùi Thị Phượng, sinh năm 1970. Địa chỉ: số nhà 110, đường Lạc
Trung, ngõ 325, phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
+ Anh Bùi Văn Lợi. sinh năm 1975. Hiện đang thi hành án phạt tù tại
Trại giam Thanh Phong, tỉnh Thanh Hóa.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm: Bà
Nguyễn Thị Đào có 01 mảnh đất với diện tích 4.127m2. Năm 2010, bà Đào cho các
con một phần diện tích đất, cụ thể cho: chị Bùi Thị Phượng diện tích 79,7m2, chị
~ 29 ~
Bùi Thị Vân diện tích 36,9m2, anh Bùi Văn Lợi diện tích 90,9m
2. Gia đình bà Đào
họp thống nhất mở cổng phụ, để đường đi chung có chiều rộng là l,6m, lối đi
chung này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dựng đất mang tên bà Nguyễn Thị
Đào. Diện tích đất bà Đào cho các con đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên Bùi Thị Phượng, Bùi Thị Vân, Bùi Văn Lợi. Tháng 5 năm
2010, anh Bùi Văn Lợi chuyển nhượng cho chị Vũ Thị Đào toàn bộ diện tích đất
mà bà Đào cho. Việc chuyển nhượng này bà Đào biết nhưng không có ý kiến gì.
Sau khi nhận chuyển nhượng, chị Đào đã xây nhà cấp IV để ở và sử dụng đất nhà
bà Đào làm đường đi chung. Thời gian đầu bà Đào không có ý kiến, về sau bà Đào
không cho chị Đào đi lối đi chung vì theo bà Đào là do chị Đào không giữ gìn vệ
sinh chung làm bẩn đường đi, gây ô nhiễm, có những hành xử không tốt với bà.
Tháng 7 năm 2014, bà Đào khởi kiện, yêu cầu chị Vũ Thị Đào không được sử
dụng lối đi chung.
Bị đơn chị Vũ Thị Đào trình bày: Chị nhận chuvển nhượng diện tích 90,9 m2
đất của anh Bùi Văn Lợi, giá thỏa thuận là 50.000.000 đồng, có tứ cận phía Đông
giáp đường đi chung, phía Tây và phía Nam giáp trường tiểu học thị trấn, phía Bắc
giáp đất chị Bùi Thị Phượng. Khi mua đất, anh Lợi và bà Đào có thỏa thuận là gia
đình chị được sử dụng lối đi chung có diện tích là 57,5m2, diện tích này nằm trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Đào. Diện tích đất anh Lợi chuyển
nhượng cho chị đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Vũ Thị
Đào. Nay bà Đào khởi kiện không cho gia đình chị sử dụng lối đi chung, chị không
đồng ý vì khi mua của anh Lợi, bà Đào đã thỏa thuận cho sử dụng lối đi chung, nếu
không cho chị sử dụng thì chị đã không mua đất.
Anh Bùi Văn Lợi trình bày: Năm 2010, anh có chuyển nhượng diện tích đất
90,9m2 cho chị Vũ Thị Đào, nguồn gốc của mảnh đất là do mẹ anh là bà Nguyễn
Thị Đào cho, khi chuyển nhượng có thỏa thuận chị Đào được sử dụng lối đi chung,
việc thỏa thuận này có ghi rõ trong đơn xin chuyến nhượng quyền sử dụng đất ở,
có ký nhận của UBND thị trấn, việc chuyển nhượng đã làm đúng thủ tục theo quy
định của pháp luật, bà Đào không có thắc mắc gì. Nay mẹ anh kiện không cho chị
Đào sử dụng lối đi chung, anh không có ý kiến chỉ đề nghị pháp luật xem xét cách
hành xử của chị Đào đôi với bà Nguyễn Thị Đào.
Chị Bùi Thị Phượng trình bày: Năm 2010, bà Đào cho chị 79,7m2, diện tích
đất này giáp nhà bà Đào và tường nhà chị Đào, hiện đất vẫn để không, trên đất
chưa có tài sản hay hoa màu, đất bà Đào cho chị đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đề nghị Tòa án giải quyết đúng quy định của pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 02/2/2015 của Tòa án nhân
dân huyện quyết định: Áp dụng điều 273, điều 275 Bộ luật dân sự và điều 131 Bộ
luật tố tụng dân sự tuyên xử: Bác đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đào về việc
không cho hộ gia đình chị Vũ Thị Đào được sử dụng lối đi chung. Hộ gia đình chị
Vũ Thị Đào được sử dụng lối đi chung với gia đình bà Nguyễn Thị Đào và bà Bùi
Thị Phượng. Lối đi chung nằm trong diện tích đất của gia đình bà Nguyễn Thị Đào
có tổng diện tích là 57, 5m2. Chị Vũ Thị Đào phải thanh toán cho bà Nguyên Thị
~ 30 ~
Đào số tiền là 28.750.000 đồng. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi xuất
chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 08 tháng 2 năm 2015, chị Vũ Thị Đào kháng cáo với nội dung không
nhất trí với bản án sơ thẩm về việc yêu cầu chị phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị
Đào 28.750.000 đồng, vì giữa các bên đã thỏa thuận thống nhất cho chị được sử
dụng lối đi chung, sự thỏa thuận này có sự đồng ý của bà Đào. Ngày 09/7/2015,
Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình đã đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 3
Điều 275, Điều 277 BLTTDS, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn chị Vũ Thị
Đào, hủy bản án sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 02/2/2015 của Tòa án nhân dân
huyện và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo
đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tháng 5 năm 2010, anh Lợi chuyển nhượng lại cho chị Vũ Thị Đào toàn bộ
diện tích đất bà Đào cho. Trong đơn xin chuyến quyền sử dụng đất ở ghi rõ thống
nhất đường đi chung của ba hộ gia đình nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của bà Đào là 57,5m2, bà Đào nhất trí và ký xác nhận với tư cách là người
chứng kiến. Khi nhận chuyển nhượng chị Đào vẫn sử dụng lối đi chung nhưng do
mâu thuẫn giữa hai bên, bà Đào không cho chị Đào đi lối đi chung nên đã khởi
kiện đến Tòa án. Căn cứ Điều 275 Bộ luật dân sự, Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi
bác yêu cầu khởi kiện của bà Đào là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên trong phần quyết định Tòa án cấp sơ thẩm khi tuyên bác đơn khởi
kiện của bà Đào, hộ gia đình chị Đào được sử dụng lối đi chung nhưng lại tuyên
buộc chị Đào phải thanh toán cho bà Đào số tiền 28.750.000 đồng là không đúng.
Vì trong đơn khởi kiện bà Đào chỉ khởi kiện không cho chị Vũ Thị Đào sử dụng
lối đi chung, quá trình giải quyết bà Đào không có đơn khởi kiện bổ sung về việc
yêu cầu chị Đào phải thanh toán tiền nhưng trong quyết định Tòa án cấp sơ thẩm
đã buộc chị Đào phải có trách nhiệm thanh toán số tiền 28.750.000 đồng là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vượt quá phạm vi khởi kiện được quy định tại
Điều 5 BLTTDS./.
***
Vụ kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, giữa:
- Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1968.
- Bị đơn: ông Trần Quang Dũng, sinh năm 1958.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Chu Thanh Tuấn, sinh
năm 1981. Ông Nguyễn Kiến Tuấn, SN: 1965 và bà Nguyễn Thị Chúc, sinh năm
1967.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Ngày 23/1/2011, ông Nguyễn Văn Hải và ông Trần Quang Dũng tự nguyện
xác lập giao dịch mua bán xe ô tô biển kiểm soát 28H - 3519, nhãn hiệu
~ 31 ~
MERCEDER - BENZ, loại xe con 4 chỗ ngồi, màu sơn đen, số máy 30327904, số
khung 5A634264 đăng ký ô tô mang tên Chu Thanh Tuấn. Theo giá thỏa thuận là
500.000.000 đồng, ông Dũng đã nhận đủ tiền, giao xe ô tô và toàn bộ giấy tờ hồ sơ
xe, kèm theo giấy mua bán xe giữa ông Chu Thanh Tuấn và ông Nguyễn Kiến
Tuấn cho ông Hải. Quá trình sử dụng ông Hải đã thay thế lốp, bảo dưỡng, sửa chữa
hết số tiền 120.000.000 đồng. Tổng số tiền ông Hải chi hết 620.000.000 đồng.
Hiện chiếc xe trên đang có tranh chấp giữa ông Trần Quang Dũng và ông Nguyên
Kiến Tuấn được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý, ông Hải tham gia tư cách
người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Ngày 08/9/2014 ông làm đơn đề nghị tách vụ án ra giải quyết, ngày
18/9/2015, Tòa án nhân dân cấp huyện đã tách vụ án và thụ lý giải quyết theo đơn
khởi kiện của ông Hải thành một vụ án riêng biệt, theo đó ông Hải khởi kiện yêu
cầu tuyên bố giao dịch mua bán xe giữa ông và ông Dũng vô hiệu, yêu cầu ông
Dũng phải hoàn lại cho ông số tiền 500.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại theo
quy định, ông sẽ trả lại xe ô tô và toàn bộ giấy tờ xe cho ông Dũng. Ngày
02/10/2014, ông Hải không yêu cầu ông Dũng phải bồi thường tiền sửa chữa bảo
dưỡng chiếc xe.
Bị đơn Trần Quang Dũng trình bày: Việc ông Tuấn làm đơn tố cáo ông tới
cơ quan điều tra, cơ quan điều tra đã có kết luận không đủ căn cứ để khởi tố vụ án
hình sự, ông Nguyễn Kiến Tuấn khởi kiện yêu cầu hủy giao dịch mua bán xe ô tô
được xác lập ngày 18/8/2010 giữa ông và ông Tuấn, Tòa án nhân dân cấp huyện đã
thụ lý và đang giải quyết. Để thuận lợi cho việc giải quyết ông đồng ý trả lại cho
ông Hải số tiền 500.000.000 đồng, ông Hải trả lại xe cho ông, đề nghị ông Hải
không yêu cầu ông bồi thường nữa vì đây là do lỗi khách quan. Tòa án đã tiến hành
hòa giải, ông Hải và ông Tuấn nhất trí theo ý kiến của ông Dũng. Tuy nhiên ngày
07/10/2014, ông Nguyễn Kiến Tuấn có đơn không chấp nhận sự thỏa thuận trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Dũng cũng thay đổi thỏa thuận không đồng ý hoàn trả
lại cho ông Hải số tiền 500.000.000 đồng vì chiếc xe đã được ông Hải sử dụng và
không còn nguyên giá trị như thời điểm xác lập giao dịch.
Ông Nguyễn Kiến Tuấn trình bày: đề nghị xử buộc ông Dũng trả tiền cho
ông Hải, ông Hải trả lại xe cho ông, ông mới là chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe ô tô
trên vì giao dịch mua bán xe ô tô giữa ông Hải và ông Dũng là trái pháp luật, đối
tượng giao dịch đang có tranh chấp.
Tại đơn đề nghị ngày 02/10/2014, anh Chu Thanh Tuấn đã thừa nhận ngày
01/6/2010 anh bán cho ông Nguyễn Kiến Tuấn xe ô tô biển kiểm soát 28H - 3519,
nhãn hiệu nhãn hiệu MERCEDER - BENZ, loại xe con 4 chỗ ngồi, màu sơn đen,
số máy 30327904, số khung 5A634264 đăng ký ô tô mang tên Chu Thanh Tuấn,
ông Nguyễn Kiến Tuấn được toàn quyền sử dụng, anh không tranh chấp gì. Anh
Tuấn từ chối tham gia tố tụng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2015/DSST ngày 03/6/2015 quyết định: Áp
dụng điểm b, khoản 1 điều 122, 127, 128, 137, 192, 439 Bộ luật dân sự, điều 131
Bộ luật tố tụng dân sự, điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí. Tuyên xử: Chấp nhận đơn
khởi kiện của ông Nguyễn Văn Hải. Tuyên bố giao dịch mua bán xe ô tô biển kiểm
~ 32 ~
soát 28H - 3519 giữa ông Trân Quang Dũng và ông Nguyễn Văn Hải được xác lập
ngày 23/1/2011 là vô hiệu. Buộc ông Trần Quang Dũng hoàn trả lại cho ông
Nguyễn Văn Hải số tiền 500.000.000 đồng, ông Nguyễn Văn Hải phải trả lại cho
ông Trần Quang Dũng chiêc xe ô tô BKS 28H - 3519, nhãn hiệu MERCEDER -
BENZ, loại xe con 4 chỗ ngồi, màu sơn đen, số máy 30327904, số khung 5A
634264 đăng ký mô tô mang tên Chu Thanh Tuấn và toàn bộ giấy tờ xe. Ngoài ra
bản án còn tuyên vê lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 15/6/2015, ông Trần Quang Dũng kháng cáo với nội dung: không nhất
trí nội dung quyết định của bản án dân sự sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 19/2015/DS-PT, ngày 25/9/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Hòa Bình đã căn cứ khoản 3 Điều 275, điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Trần Quang Dũng. Hủy bản án dân sự sơ thẩm
số 08/2015/DS - ST ngày 03/6/2015 về việc yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy
định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về tố tụng: Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 28H - 3519, có nguồn gốc là của
ông Chu Thanh Tuấn. Ngày 01/6/2010, ông Tuấn bán cho ông Nguyễn Kiến Tuấn.
Ngày 18/8/2010, ông Nguyễn Kiến Tuấn bán cho ông Trần Quang Dũng. Ngày
23/1/2011, ông Trần Quang Dũng bán xe ô tô cho ông Nguyễn Văn Hải. Các giao
dịch mua bán trên đều có chữ ký của các bên và xác nhận của chính quyền địa
phương. Ngày 30/6/2014, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của
ông Nguyễn Kiến Tuấn với nội dung yêu cầu tuyên bố giao dịch mua bán giữa ông
và ông Trần Quang Dũng vô hiệu, ông Nguyễn Văn Hải tham gia với tư cách
người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ngày 08/9/2014, ông Hải làm đơn đề nghị
tách vụ án ra giải quyết, theo quy định tại điều 163 Bộ luật tố tụng dân sự, cấp sơ
thẩm vẫn có thể giải quyết yêu cầu của ông Hải trong vụ án giữa ông Nguyễn Kiến
Tuấn và ông rần Quang Dũng, song Tòa án cấp sơ thẩm đã tách vụ án và thụ lý giải
quyết đơn của ông Hải thành một vụ án riêng biệt. Do vậy sau khi tách, cấp sơ
thẩm phải tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 4 điều 189 BLTTDS. Nhưng
câp sơ thẩm vẫn giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Về nội dung: Giao dịch mua bán giữa ông Hải và ông Dũng là tự nguyện,
(ông Dũng đã nhận đủ tiền và bàn giao xe và giấy tờ hồ sơ xe ô tô cho ông Hải.
Ông Hải quản lý và sử dụng xe ô tô từ ngày 23/1/2011 cho đến ngày xảy ra tranh
chấp. Nay ông Hải khởi kiện, cấp sơ thẩm tuyên giao dịch mua bán xe ô tô giữa
ông Hải và ông Dũng vô hiệu với lý do giữa các bên chưa hoàn thành thủ thủ tục
đăng ký quyền sở hữu tài sản (ông Hải chưa được chuyển giao quyền sở hữu) và
đối tượng chuyển nhượng đang có tranh chấp là không đúng. Vì đối với việc mua
bán tài sản là ô tô, pháp luật không quy định phải đăng ký quyền sở hữu, ông Hải
được quyền sở hữu kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao theo quy định tại
khoản 1 điều 439 Bộ luật dân sự, ông Hải vẫn làm được thủ tục đăng ký sang tên
xe theo quv định tại khoản 1 điều 24 thông tư số 15/2014/TT- BCA ngay
~ 33 ~
04/4/2014 mặc dù người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe không phải
của ông Trần Quang Dũng. Hơn nữa, tranh chấp giữa ông Nguyễn Kiến Tuấn và
ông Trần Quang Dũng chưa dược giải quyếl nên chưa có dủ căn cứ để tuyên bố
giao dịch mua bán giữa ông Trần Quang Dũng và ông Nguyễn Văn Hải là vô hiệu.
Về chiếc xe ô tô biển kiếm soát 28H - 3519 được Hội đồng định giá xác định
giá trị là 400 triệu nhưng khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, cấp sơ thẩm
chưa làm rõ lỗi của các bên mà buộc ông Dũng phải hoàn trả cho ông Hải số tiền
500 triệu trong khi chiếc xe ô tô dã được ông Hải sử dụng gần 5 năm là chưa chính
xác./.
***
Vụ kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa:
- Nguyên đơn: Bà Quách thị Biền và ông Nguyễn Danh Hơn (người được
ông Hơn ủy quyền: ông Quách Văn Hải).
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Sơn và ông Hoàng Đình Hiệp.
- Người liên quan: Ông Nhan Hữu Sinh.
1. Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Ngày 26/4/2004, bà Biền và ông Hơn chuyển nhượng cho bà Dương Thị
Thanh 90 m2 đất thổ cư với giá 50 triệu đồng. Sau đó bà Thanh chết năm 2007, ông
Sinh (chồng bà Thanh) chuyển nhượng diện tích đất này cho bà Sơn ông Hiệp giá
130 triệu đồng. Bà Biền cùng chồng cam kết có nội dung: khi nào hoàn chỉnh thủ
tục giấy tờ sẽ tách bìa đất cho gia đình bà Sơn. Bà Sơn nhận đất, dựng một ngôi
nhà ghép cột sắt, mái tôn, sử dụng từ đó đến nay.
Ngày 30/11/2010, bà Biền được UBND cấp có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ
với diện tích 162,6 m2 (trong đó có 90 m
2 đã chuyển nhượng cho bà Sơn).
Bà Biền khởi kiện, yêu cầu hủy việc chuyển nhượng đất giữa ông Sinh với
bà Sơn. Vợ chồng bà Sơn phải thanh toán cho bà số tiền thực tế chuyển nhượng
810 triệu đồng (Giá 9 triệu/1m2).
Vợ chồng bà Sơn cho rằng việc chuyển nhượng đã hoàn tất, nên không chấp
nhận yêu cầu của bà Biền, yêu cầu bà Biền phải tách bìa cho gia đình bà.
Ông Sinh yêu cầu Tòa giải quyết theo pháp luật.
Bản án Dân sự sơ thẩm số 06 ngày 13/3/2013 của TAND sơ thẩm xử có nội
dung: Tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông Sinh với bà Sơn và cam kết
giữa vợ chồng bà Biền với vợ chồng bà Sơn là vô hiệu. Buộc ông Sinh trả lại cho
bà Sơn 130 triệu đồng; bà Biền trả lại cho ông Sinh 50 triệu đồng và 10 triệu đồng
tiền hỗ trợ bà Biền di dời công trình phụ.
~ 34 ~
Bà Biền trả bà Sơn 30 triệu đồng tiền hỗ trợ di dời công trình phụ và 150
triệu đồng tiền nhà và các công trình do bà Sơn đang sử dụng. Bà Sơn trả cho vợ
chồng bà Biền 90 m2 đất.
VKSND cấp sơ thẩm quyết định kháng nghị phúc thẩm số 49 ngày
27/3/2013, về việc: Án sơ thẩm không xác định lỗi của bên bán, không tính giá trị
trượt giá tài sản để buộc bên bán phải bồi thường và đề nghị hủy án sơ thẩm.
Ngày 22/3/2013, vợ chồng bà Sơn có đơn kháng cáo với nội dung: Tòa án
không đề cập trách nhiệm bồi thường của bà Biền, gây thiệt hại quyền lợi của gia
đình bà. Gia đình bà mua đất đã sử dụng 5 năm. Bà Biền đã nhận đủ tiền, yêu cầu
bà Biền phải tách bìa đất cho gia đình bà.
Ngày 9/01/2014, TAND tỉnh đã đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, chấp nhận
đề nghị của VKS và xử hủy án sơ thẩm để giải quyết lại theo qui định của pháp
luật.
2. Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
- Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải tuân thủ điều 50 của Luật
Đất đai qui định về điều kiện chuyển nhượng và các qui định của BLDS có liên
quan. Trong vụ án Dân sự này, các bên chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng
đều không tuân thủ điều 50 Luật Đất đai; các điều 689 và 698 BLTTDS, hợp đồng
không tuân thủ các quy định nên bị coi là không hợp pháp và bị bị vô hiệu.
- Diện tích chuyển nhượng theo theo thuận là 90 m2, nhưng kết quả thẩm
định tại chỗ thì gia đình bà Sơn đang sử dụng 100,17 m2. Số đất chênh lệch này
chưa được cấp sơ thẩm làm rõ.
- Xét về lỗi: Bà Sơn, ông Hiệp, bà Biền, ông Hơn và ông Sinh đều có lỗi
trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi chuyển nhượng và khi nhận
chuyến nhượng các bên buộc phải biết đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng
thì các giao dịch về đất đó là không hợp pháp, cần phải xác định lỗi của các bên đế
tính giá trị thiệt hại cho gia đình bà Sơn khi buộc bà Sơn phải trả lại đất cho gia
đình bà Biền như kháng nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Tại bản cam kết ngày 17/7/2009 ghi: Số diện tích đất vườn và công trình phụ
dài 15m, rộng 6m. Tổng diện tích là 6 x 15 = 90m2. Kết quả đo đạc thẩm định tại
chỗ thì gia đình bà Sơn, ông Hiệp đang sử dụng là 100,17m2, số đất chênh lệch
chưa được làm rõ. Trường hợp gia đình bà Sơn phải trả đất cho gia đình bà Biền
thì diện tích đất không thuộc thửa 274 phải được tính thành tiền, buộc gia đình bà
Biền phải trả cho gia đình bà Sơn mới đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà Sơn.
Ngoài ra: Tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Sinh xuất trình sổ ghi chép của bà
Dương Thị Thanh có ghi và chữ kí nhận của bà Biền về việc bà Biền đã nhận tiền 2
lần của bà Thanh, tổng cộng là 60 triệu đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Nhan
Hữu Sinh khai ông và bà Thanh có hai người con chung là Nhan Hữu Sắc và Nhan
Thanh Huyền. Tòa án cấp sơ thầm đã không đưa anh Sắc, chị Huyền vào tham gia
tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng./.
~ 35 ~
Vụ kiện tranh chấp kiện chia thừa kế, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Lê Xuân Chuật, sinh năm 1956.
2. Bà Lê Thị Nguyệt, sinh năm 1966.
3. Anh Lê Thanh Tuấn, sinh năm 1989.
- Bị đơn: Ông Lê Văn Lương, sinh năm 1964.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị Huyến, sinh năm 1966.
2. Anh Lê Thanh Điệp, sinh năm 1987.
3. Chị Lê Thị Hồng Trang, sinh năm 1994.
Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Ỏng Lê Xuân Chuật trình bày: Bố ông là Lê Xuân Khoang và mẹ ông là bà
Lê Thị Chè, sinh được 05 người con gồm: Bà Lê Thị Tuyết, Lê Xuân Chuật, Lê
Văn Long, Lê Văn Lương và Lê Thị Nguyệt. Cụ Khoang chêt năm 2000, cụ Chè
chết năm 2013. Khi còn sống bố mẹ ông tạo lập được khối tài sản là 1.796m2 đất
thổ cư, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lê Xuân Khoang do UBND
huyện cấp ngày 27/09/1990. Hai cụ chết không để lại di chúc. Hiện nay số di sản
này do ông Lê Văn Lương cùng vợ là bà Trần Thị Huyến trực tiếp quản lý và sử
dụng. Trong các năm 2009 và 2010 ông Lương và cụ Chè đã chuyển nhượng
325m2 trong tổng số diện tích đât nói trên cho bà Bùi Thị Bàng và ông Đỗ Hữu
Hòa. Nay Ông Chuật và các đồng nguyên đơn bà Nguyệt, anh Tuấn yêu cầu Tòa án
phân chia diện tích còn lại thành 05 kỷ phần cho những người sau: Bà Tuyết, ông
Chuật, ông Lương, bà Nguyệt, ông Long.
Do bà Lê Thị Tuyết đã chết (năm 1991) không có người thừa kế thế vị nên
phần di sản mà cụ Khoang, cụ Chè để lại sẽ được chia làm 04 kỷ phần bằng nhau.
Phần của ông Long (đã chết năm 2004) sẽ được thừa kế lại cho Lê Thanh Tuấn là
con trai của ông Long. Ngoài ra các đồng nguyên đơn không yêu cầu phân chia di
sản nào khác nữa.
Đồng nguyên đơn bà Lê Thị Nguyệt trình bày: Thống nhất như lời khai của
ông Chuật về thời điểm bố mẹ chết, về hàng thừa kế thứ nhất. Nay bà cũng yêu cầu
chia diện tích đất còn lại của bố mẹ bà là 1.471 m2 đất theo quy định của pháp luật.
Người đại diện cho đồng nguyên đơn Lê Thanh Tuấn là chị Lê Thị Hồng
Trang trình bày: Anh Tuấn là con trai của ông Lê Văn Long. Ông Long chết năm
2004, Bà nội là bà Lê Thị Chè chết năm 2013, ông nội là Ông Lê Xuân Khoang
chết năm 2000, khi chết không đê lại di chúc. Khi ông bà mất có để lại diện tích
đất hiện nay là 1.471 m2. Đề nghị tòa xem xét được hưởng phần di sản của ông bà
nội để lại theo quy định của pháp luật.
~ 36 ~
* Bị đơn ông Lê Văn Lương trình bày: Cụ Lê Xuân Khoang chết năm 2000
do bị tai nạn giao thông, cụ Lê Thị Chè chết năm 2013 do bị bệnh hiểm nghèo. Khi
chết hai cụ không để lại di chúc. Diện tích 1.471 m2 đất thổ cư (giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên Lê Xuân Khoang do UBND huvện cấp ngày
27/09/1990) là tài sản của cụ Khoang và cụ Chè. Các cụ đã cho ông tài sản trên.
Diện tích đất này ông đã cùng cụ Khoang và cụ Chè sử dụng ổn định từ năm 1987
cho đến nay đồng thời ông cũng thực hiện việc đóng thuế sử dụng đất hàng năm.
Nay ông không nhất trí phân chia đất cho các anh chị em. Bởi lẽ. khi còn sống bố
mẹ ông đã chia đất cho ông Chuật, ông Long và bà Nguyệt mỗi người một thửa đất
ở chỗ khác. Hơn nữa ông cũng là người trực tiếp chăm sóc, phụng dưỡng cụ
Khoang, cụ Chè từ năm 1986 cho đến khi hai cụ chết. Ông Chuật và những người
khác không quan tâm chăm sóc gì. Đồng thời ông Lương cũng xuất trình các
chứng cứ chứng minh quyền sở hữu đất của mình: "biên bản họp gia đình đề ngày
09/01/2000 âm lịch”, “ biên bản hiện trường’’ đề ngày 10/09/2008, “đơn tường
trình” có xác nhận của UBND xã ngày 09/02/2015, ‘‘đơn đề nghị” có xác nhận của
UBND xã ngày 23/09/2015.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bà Trần Thị Huyên trình bày: Không
nhất trí phân chia diện tích đất mà vợ chồng bà (với ông Lê Văn Lương) đang trực
tiếp quản lý và sử dụng vì diện tích đất này vợ chồng bà được ông Lê Xuân
Khoang và bà Lê Thị Chè để lại toàn quyền sử dụng cho vợ chồng bà.
Chị Lê Thị Hồng Trang trình bày: Chị là con ruột của ông Lê Văn Long.
Nay ông Long đã chết, chị là một trong những người thừa kế thế vị, đồng thời là
người đại diện theo ủy quyên của các anh ruột Lê Thanh Điệp và Lê Thanh Tuấn,
chị yêu cầu Tòa án phân chia di sản của ông bà nội để lại theo quy định của pháp
luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2015/DSST ngày 30/ 9/2015 của Tòa án nhân
dân huyện, quyết định: Áp dụng: Các điều 674,675, 676, 677 Bộ luật dân sự; Điều
25; Điều 131 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011;
pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế theo pháp luật của các ông,
bà: Lê Xuân Chuật, Lê Thị Nguyệt và Lê Thanh Tuấn.
Chia di sản là quvền sử dụng đất 1.605m2 đất thổ cư (giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên Lê Xuân Khoang) cho các đương sự, cụ thể như sau:
+ Ông Lê Xuân Lương được quyền sử dụng 553,8 m2 đất có tứ cận như sau:
- Nam: Giáp đường quốc lộ 12 B dài 15m
- Tây: Giáp đất ông Phạm Bá Năm dài 31,24m
- Bắc: Giáp đất ông Trần Công Lợi dài 29,79m
- Đông: Giáp đất bà Bùi Thị Bàng và ông Lê Xuân Chuật; dài 31,65m và
7,15m.
+ Ông Lê Xuân Chuật được quyền sử dụng 351.0 m2 đất có tứ cận như sau:
~ 37 ~
- Nam: Giáp đường Quốc lộ 12B dài 11 m
- Tây: Giáp đất bà Bùi Thị Bàng và Lê Văn Lương: dài 28,13 và 7,15m
- Bắc: Giáp đất ông Trần Công Lợi dài 8,80m
- Đông: Giáp đất bà Lê Thị Nguyệt dài 36,51 m
+ Bà Lê Thị Nguyệt được quyền sử dụng 348,2m2 đất có tứ cận như sau:
- Nam: Giáp đường quốc lộ 12 B dài 11 m
- Tây: Giáp đất ông Lê Xuân Chuật dài 36,5m
- Bắc: Giáp đất ông Trần Công Lợi dài 7.80m
- Đông: Giáp đất ông Lê Thanh Tuấn, Lê Thanh Điệp, bà Lê Thị Hồng
Trang; dài 37,85m.
+ Ông Lê Thanh Tuấn, Lê Thanh Điệp và bà Lê Thị Hồng Trang được
quyền sử dụng 351,9m2 đất có tứ cận như sau:
- Nam: Giáp đường quốc lộ 12 B dài 11m
- Tây: Giáp đất bà Lê Thị Nguyệt dài 37,85m.
- Bắc: Giáp đường Liên xóm Đồng Tâm 2: dài 12,15 m
- Đông: Giáp đường liên xóm Đồng Tâm 2: dài 30,29m
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo cho
các đương sự.
Ngày 06/10/2015 bị đơn ông Lê Văn Lương kháng cáo với nội dung xem xét
lại phần quyết định chia đất, án sơ thẩm chưa xác định rõ nguồn gốc đất, di sản
chung, di sản riêng tách biệt cụ thể như thế nào theo điều 674, điều 676 BLDS.
Ngày 29/10/2015 Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình quyết
định kháng nghị số 02 với nội dung: Kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, hủy bản
án giao cho cấp sơ thấm thụ lý giải quyết theo thủ tục chung, cụ thể:
+ Về tố tụng: Đơn khởi kiện của các đồng nguyên đơn yêu cầu chia 1.471
m2 đất, án sơ thẩm có nhận định là chia diện tích đất trên nhưng trong phần quyết
định lại chia 1.605m2 diện tích đất đo thực tế cho các đương sự là vượt quá phạm
vi khởi kiện của đương sự, vi phạm khoản 1 điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Án sơ
thẩm xác định các thừa kế thế vị nhưng không được điều tra, xác minh cụ thể
(không có giấy khai sinh, không có lời khai của anh Tuấn, anh Điệp, sổ hộ khẩu
chỉ có hai người con là anh Tuấn và chị Trang), không lấy lời khai của các thừa kế
thế vị là vi phạm điều 677 BLDS.
+ Về nội dung: Biên bản thẩm định tại chỗ còn sơ sài, không xác định cụ thể
mốc giới diện tích đo, khi đo không có các hộ liền kề tham gia chỉ mốc giới. Án sơ
thẩm không chú trọng công tác hòa giải: chỉ hòa giải một lần nhưng không đủ các
thành phần đương sự tham gia. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyệt, chị Trang nhận
5m đất kéo dài, còn lại để cho ông Lương sử dụng nhưng cấp sơ thẩm không cho
~ 38 ~
các đương sự hòa giải mà nhận định sẽ giải quyết bằng giao dịch khác là chưa
chính xác, chưa đảm bảo xem xét các tình tiết tài liệu có trong hồ sơ.
Bản án phúc thẩm số 01/2016/DS-PT, ngày 07/01/2016 của Tòa án nhân dân
tỉnh Hòa Bình đã căn cứ khoản 3 Điều 275, điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và kháng nghị của VKSND tỉnh Hòa Bình.
Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 15/2015/DS-ST ngày 30/9/2015 của Toà án nhân
dân huyện về việc kiện chia thừa kế và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về thủ tục tố tụng: Các căn cứ pháp lý cần và đủ để xác định anh Lê Thanh
Tuấn và anh Lê Thanh Điệp, chị Lê Thị Hồng Trang là con đẻ của ông Lê Văn
Long, không được điều tra, xác minh rõ ràng cụ thể (không có giấy khai sinh,
không có lời khai của anh Tuấn, anh Điệp, sổ hộ khẩu chỉ có hai người con là anh
Tuấn và chị Trang) là vi phạm điều 677 Bộ luật dân sự và điều 56, 58 Bộ luật tố
tụng dân sự.
- Trong đơn khởi kiện các đồng nguyên đơn yêu cầu chia di sản là 1.471m2
đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lê Xuân Khoang nhưng
trong bản án sơ thâm lại chia 1.605m2 đất là vượt quá phạm vi khởi kiện đã vi
phạm khoản 1 điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Án sơ thẩm không phân định rõ phần di sản của cụ Lê Xuân
Khoang là 1/2 của quyền sử dụng diện tích đất 1.796m2 là tài sản chung chưa chia,
phần di sản này phải được chia làm 5 phần. Phần di sản của cụ Chè là: quyền sử
dụng đất 1.796m2 đã bán 325m
2, như vậy di sản của cụ Chè còn là 573m
2 đất +
một phần được chia từ di sản của cụ Khoang. Di sản thừa kế của cụ Chè được chia
làm 4 phần. Xong cấp sơ thẩm gộp chung di sản của hai cụ lại để chia chung là
không đúng với quy định của pháp luật.
- Cấp sơ thẩm tiến hành thẩm định và đo đạc đất không đảm bảo đúng quy
định của pháp luật: khi tiến hành đo đất không có các hộ liền kề tham gia đế xác
định rõ mốc giới. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lô đất có diện tích là
1.471m2, khi đo thực tế diện tích lô đất là 1.605m
2. Diện tich đất thừa so với giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được làm rõ nhưng cấp sơ thẩm lại chia toàn
bộ diện tích đất 1.605m2 là không đảm bảo chính xác và đúng quy định của pháp
luật.
- Trong quá trình giải quyết vụ kiện, cấp sơ thẩm không chú trọng công tác
hòa giải: tiến hành hòa giải được một lần nhưng không đầy đủ thành phần các bên
đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm khi bà Nguyệt, chị Trang có yêu cầu chỉ chia cho
5m đất mặt đường kéo dài còn để lại cho ông Lương nhưng tòa không xem xét mà
lại nhận định tách ra giải quyết sau là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, ông Lương đều đề nghị xem xét về
biên bản họp gia đình ngày 09/01/2000, ông Chuật, ông Long, bà Nguyệt đều được
bố mẹ phân chia nhà đất khi xây dựng gia đình riêng, chỉ còn ông sống cùng bố mẹ
từ năm 1986 đến khi các cụ chết, vợ chồng ông là người trực tiếp chăm sóc, phụng
~ 39 ~
dưỡng bố mẹ. Ngoài tài sản quyền sử dụng đất 1.471m2 đất trên ông đang quản lý
sử dụng thì ông không được bố mẹ cho một thứ tài sản gì khác, về ngôi nhà 33m2
tại chợ Ốc (Tài sản của cụ Khoang và cụ Chè) ông Chuật, ông Lương và bà Nguyệt
chiếm lấy sử dụng riêng ông không biết. Những vấn đề nêu trên cấp sơ thẩm không
xác minh làm rõ./.
***
Vụ kiện xin ly hôn, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thanh Hường, sinh năm 1980.
- Bị đơn: anh Nguyễn Quang Huy, sinh năm 1978.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
+ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Chi nhánh
Sông Đà - Hòa Bình.
+ Ông Nguyễn Văn Ấm, bà Nguyễn Thị Dìn.
+ Anh Trần Công Tuấn, chị Nguyễn Thị Hoa.
+ Chị Nguyễn Thị Vinh.
+ Chị Nguyễn Thị Xuân.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm: Năm 2008,
chị Nguyễn Thanh Hường và anh Nguyễn Quang Huy đăng ký kết hôn tại UBND
cấp xã trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc được khoảng 1
năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hiểu nhau, bất đồng
quan điểm sống dẫn đến cãi cọ, xúc phạm nhau. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm
2014 cho đến nay. Xét thấy tình cảm không còn, chị Hường làm đơn đề nghị xin
được ly hôn anh Huy. Về con chung: có 01 con chung là cháu Nguyễn Khánh
Huyền, sinh ngày 05/12/2009, chị Hường có nguyện vọng được nuôi con, anh Huy
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000đ/tháng. Về tài sản chung: Các đồ vật
dụng trong sinh hoạt (gồm: 01tivi Samsung 32 inh mua năm 2008, 01 tủ lạnh
Samsung mua năm 2010, 01 máy điều hòa không khí mua năm 2009, 01 giặt LG
mua năm 2010, 01 bình nóng lạnh mua năm 2009, 01 bộ bàn ghế salong nan mua
năm 2008, 02 giường 2m x 2 cùng chăn màn đệm đầy đủ, 01 bộ đồ dùng nhà bếp,
01 quạt bàn cũ); 01 thửa đất, diện tích 67,50m2 tại khu dân cư Bắc Trần Hưng Đạo,
đất mua năm 2009 với giá 275.000.000 đồng. Các vật dụng kinh doanh đồ câu và
chăn nuôi cá, trồng trọt tại hồ Đồng Gạo; 01 chiếc xe bán tải. Về nợ chung: vay
Ngân hàng 400 triệu, ông bà Ẩm, Dìn (bố mẹ đẻ chị Hường) số tiền vay
72.000.000đ và 90.000.000 đồng để mua lô đất chung. Khi ly hôn chị đề nghị anh
Huy có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ Ngân hàng và ông bà ngoại. Ngoài ra chị yêu
~ 40 ~
cầu anh Huy thanh toán cho chị 01 cây vàng, 20 triệu cho anh Huy vay để trả anh
Tú.
Bị đơn Nguyễn Quang Huy trình bày: Về phần hôn nhân, con chung anh
nhất trí ý kiến của chị Hường, về tài sản chung anh nhất trí phần chị Hường khai về
mảnh đất, các đồ dùng sinh hoạt gia đình. Còn về kinh doanh đồ câu theo anh Huy
chỉ còn 02 tủ đồ câu kèm theo một số đồ câu đã hết hạn, không còn giá trị sử dụng.
Việc nuôi trồng thủy hải sản ở hồ Đồng Gạo, vợ chồng đầu tư thua lỗ hiện chỉ còn
lại tài sản là trang thiết bị phục vụ chăn nuôi và cây trồng, về phần vay nợ: vợ
chồng anh vay nợ Ngân hàng 400.000.000 đồng, nợ chị Nguyễn Thị Vinh 01 cây
vàng và 212.000.000đ, chị Nguyễn Thị Hoa 02 cây vàng, chị Nguyễn Thị Xuân 2
cây vàng, nợ Trần Công Tuấn (Tuấn Thao) 200.000.000 đồng, nợ chị Nhi
50.000.000 đồng, nợ anh Nguyễn Thanh Tú 30.000.000 đồng, vay ông bà Ấm Dìn
70.000.000 đồng. Theo anh Huy, chiếc xe bán tải là của Công ty trách nhiệm hữu
hạn Thu Phương, không phải là tài sản chung của vợ chồng.
Ngân hàng nông nghiệp phát triển và nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Sông
Đà không có bản tự khai. Tại buổi hòa giải ngày 28/01/2015, phía Ngân hàng có ý
kiến: hộ anh Nguyễn Quang Huy thế chấp 01 thửa đất để vay 400 triệu. Đây là hợp
đồng vay vốn ngắn hạn do anh Huy đứng tên, chị Hường là người thừa kế và vẫn
còn đang trong hạn vay. Đề nghị xử lý khoản nợ cho Ngân hàng trước, sau khi xử
lý xong nợ Ngân hàng sẽ trả tài sản thế chấp.
Bà Nguyễn Thì Dìn trình bày: Từ năm 2012 đến năm 2014, anh Huy có
xuống nhà vay tiền nhiều lần trong đó vay 30 triệu để kinh doanh đồ câu, 25 triệu
để đảo nợ Ngân hàng, 05 triệu để làm bìa đất, vay 6 triệu đi học lóp cao cấp chính
trị, 6 triệu tiền mua thức ăn chăn nuôi gia súc. Quá trình hòa giải, ông Nguyễn Văn
Ấm trình bày: anh Huy vay ông tổng số tiền 72 triệu như lời khai của bà Dìn, ông
Ấm đề nghị anh Huy trả lại số tiền trên để ông bà tiếp tục hỗ trợ cho chị Hường
sau khi ly hôn. Ngoài ra ông bà còn cho vay 90 triệu để mua đất. Nay không yêu
cầu anh Huy, chị Hường hoàn trả.
Chị Nguyễn Thị Vinh trình bày: Chị có cho anh Nguyễn Quang Huy vay 01
cây vàng và 200 triệu cùng đàn lợn giống trị giá 12 triệu. Tại bản tự khai, chị Vinh
đề nghị Tòa yêu cầu anh Huy phải hoàn trả. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Vinh yêu
cầu anh Huy, chị Hường cùng có trách nhiệm trả chị khoản nợ trên.
Anh Trần Công Tuấn trình bày: Ngày 01/4/2013, anh cho anh Nguyễn
Quang Huy vay số tiền 200 triệu, lãi suất theo thỏa thuận. Nay vợ chồng anh Huy
ly hôn, anh đề nghị anh Huy, chị Hường phải hoàn trả cho anh số tiền vay.
Chị Nguyễn Thị Xuân trình bày: Ngày 03/2/2009, chị cho vợ chồng anh Huy
vay 02 cây vàng đế mua đất. Nay có việc gia đình cần sử dụng số vàng trên nên đề
nghị Tòa giải quyết buộc anh Huy, chị Hường phải có trách nhiệm trả lại chị 02
cây vàng.
Chị Nguyễn Thị Hoa trình bày: Tháng 2/2009 chị cho anh Huy, chị Hường
vay 02 cây vàng đế mua đất. Nay đề nghị Tòa giải quyết yêu cầu anh Huy, chị
Hường phải hoàn trả cho chị 02 cây vàng.
~ 41 ~
Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 07/2015/ITNGĐ - ST ngày 06/5/2015
của Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định: Áp dụng điều 51, 55, 58, 59, 62, 81,
82,83 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 108, 127, 129 của Bộ luật dân sự. Về quan
hệ hôn nhân, Xử: công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn
Thanh Hường và anh Nguyễn Quang Huy. Về con chung, Xử: công nhận sự thỏa
thuận: giao cháu Nguyễn Khánh Huyền, sinh ngày 05/12/2009 cho chị Nguyễn
Thanh Hường nuôi dưỡng, giáo dục. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Huy đóng
góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hường với mức 2.000.000đ/tháng cho đến
khi cháu Nguyễn Khánh Huyền trưởng thành. Quyền thăm nom con chung được
đảm bảo theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Xử công nhận sự thỏa
thuận: Anh Nguyễn Quang Huy để lại cho chị Nguyễn Thanh Hường sử dụng vật
dụng sinh hoạt gia đình: 01 tivi Samsung 32 inh, 01 tủ lạnh Samsung, 01 máy điều
hòa không khí, 01 giặt LG, 01 bình nóng, 01 bộ bàn ghế salong nan, 02 giường 2m
x 2 cùng chăn màn đệm, 01 bộ đồ dùng nhà bếp, 01 quạt bàn cũ. Xử: giao phần đất
67,50m2 tại số thửa 94, tờ bản đồ số 00, khu dân cư đường Trần Hưng Đạo, có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số H000981 mang tên Nguyễn Quang Huy và
Nguyễn Thanh Hường do Uy ban nhân dân cấp ngày 31/7/2009 cho anh Nguyễn
Quang Huy sử dụng và anh Huy có trách nhiệm thanh toán trả cho Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chi nhánh Sông Đà 400.000.000đ cũng lãi
suất, về công nợ chung: xử buộc anh Nguyễn Quang Huy phải có trách nhiệm
thanh toán cho ông Nguyễn Văn Ấm, bà Nguyễn Thị Dìn 72.000.000đ. Buộc chị
Nguyễn Thanh Hường phải thanh toán cho anh Nguyễn Quang Huy 17.000.000đ
đã thanh toán trả Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Sông Đà. Ngoài
ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 20/5/2015, chị Nguyễn Thanh Hường kháng cáo về phần tài sản, chia
tài sản sau ly hôn tại bản án số 07/2015/DS - LHST của Tòa án cấp sơ thẩm. Cùng
ngày, ông Nguyễn Văn Ấm kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã không
đề cập giải quyết khoản tiền 90.000.000đ mà anh Huy, chị Hường vay của vợ
chồng ông. Đề nghị cấp phúc thẩm giải quyết buộc anh Huy, chị Hường phải có
trách nhiệm trả nợ cho vợ chồng ông. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nguyễn Thanh
Hường và ông Nguyễn Văn Ấm vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Ngoài ra, chị
Hường đề nghị xem xét thêm phần công nợ.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình có ý kiến phát biếu về nội dung vụ
án: Tòa án cấp sơ thấm không đưa anh Tú, chị Nhi, Ủy ban nhân dân xã tham gia
vụ án với tư cách là người có liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Về nội dung: chưa thu thập, điều tra xác minh. Việc giải quyết và quyết định của
bản án chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Do vậy đề nghị
hủy toàn bộ phần tài sản và công nợ.
Bản án phúc thẩm số 09/2015/HNGĐ - PT, ngày 28/8/2015 của Tòa án nhân
dân tỉnh Hòa Bình đã căn cứ khoản 2, khoản 3 điều 275, điều 276, điều 277 Bộ luật
tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thanh Hường, ông
Nguyễn Văn Ấm. Sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm về thời gian cấp dưỡng
nuôi con chung. Hủy phần chia tài sản chung và công nợ. Giao hồ sơ vụ án cho
~ 42 ~
Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp
luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thanh Hường và anh Nguyễn Quang Huy là hợp
pháp. Nay các bên thỏa thuận nhất trí ly hôn, con chung giao cho chị Hường nuôi
dưõng, anh Huy cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/ tháng. Tòa án cấp sơ thẩm đã
công nhận sự thỏa thuận và giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên
cấp sơ thẩm đã không đề cập đến thời điểm cấp dưỡng là không đúng, cần sửa lại:
anh Huy cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 2.000.000đ, kể từ tháng 5 năm
2015.
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có kê khai tài sản liên
quan đến việc đấu thầu hồ Đồng Gạo, vay nợ đối với anh Nguyễn Thanh Tú, chị
Nhi. Nhưng cấp sơ thẩm đã không đưa Ủy ban nhân dân xã, anh Tú, chị Nhi vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cấp sơ thẩm xác định tư cách tham gia tố tụng đối với
Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Sông Đà, là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng mà phải là Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam. Việc ủy quyền của chi nhánh Sông Đà, cho cán
bộ tín dụng tham gia tố tụng là không đúng với quy định công văn số 1069/QĐ -
HĐQT-PC ngày 13/7/2011 của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam.
Về nội dung: Đối với tài sản chăn nuôi, trồng trọt tại hồ Đồng Gạo, chị
Hường, anh Huy đều xác nhận là tài sản chung, Hội đồng định giá đã tiến hành
định giá các tài sản trên đất trong hồ Đồng Gạo trong đó có cả tài sản là cây cối
hoa màu, rào vây và rau màu, lưới chắn cá, đầu đăng nhưng trong kết luận định
giá, giá trị tài sản trên không được tính (thiếu 17.200.000 đồng). Tại phiên tòa sơ
thẩm, chị Hường có ý kiến để anh Huy sử dụng các tài sản tại hồ Đồng Gạo và có
trách nhiệm trả các khoản nợ đầu tư vào hồ cá. Anh Huy chấp nhận, Tòa án cấp sơ
thẩm đã không đề cập giải quyết trong quyết định là thiếu sót. Các tài sản để kinh
doanh đồ câu, chị Hường khai khi vợ chồng ly thân, chị đã bàn giao lại tài sản trên
cho anh Huy. Anh Huy thừa nhận đã thanh lý một phần còn lại 02 tủ đồ và một số
đồ câu đã hỏng không có giá trị. Cấp sơ thẩm đã không điều tra xác minh, thẩm
định xem xét tại chỗ đối với tài sản còn lại và không đề cập giải quyết trong vụ án
là không đúng.
Về phần nợ chung, cấp sơ thẩm tuyên chị Hường phải chịu 1/2 khoản tiền lãi
90 triệu mà anh Huy đã trả cho Ngân hàng là không đúng vì số tiền 90 triệu anh
Huy trả trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Khoản nợ chị
Nguyễn Thị Vinh, chị Nguyễn Thị Xuân, anh Trần Công Tuấn, chị Nguyễn Thị
Hoa, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm các đương sự đều
yêu cầu vợ chồng anh, chị Hường Huy trả nợ nhưng cấp sơ thẩm đã không làm rõ
khoản nợ chung hay nợ riêng từ dó phân chia trách nhiệm trả nợ của hai vợ chồng
và phải được ghi trong quyết định.
~ 43 ~
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn Ấm: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ấm
có ý kiến quá trình giải quyết tại cấp sơ thấm chưa lần nào đề cập là cho, ông chỉ
xác nhận là anh Huy, chị Hường vay khoản nợ 90 triệu và 72 triệu. Tại phiên tòa
sơ thẩm, ông Ấm vắng mặt, chị Hường đề nghị hai vợ chồng phải có trách nhiệm
trả cho bố chị là ông Ấm nhưng cấp sơ thẩm không xem xét là không đúng, cần
chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của ông Ấm.
Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án đối với các tài sản là các đồ vật dụng
trong sinh hoạt gia đình, giữa anh Huy và chị Hường thỏa thuận giao cho chị
Hường sử dụng, Tòa cấp sơ thấm công nhận thỏa thuận trên là đúng. Tuy nhiên
theo quy định của pháp luât các đương sự vẫn phải chịu án phí nhưng cấp sơ thẩm
lại không tính án phí đối với phần tài sản này là sai. Việc tính án phí về chia tài sản
chung, công nợ của cấp sơ thẩm là chưa chính xác và chưa đúng quy định của pháp
luật./.
***
Vụ việc kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Kim Minh- sinh năm 1973
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy - sinh năm 1980
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Trần Văn Nguyên - sinh năm 1981
- Bà Nguyễn Thị Huần - sinh năm 1945
Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Hà - sinh năm 1971.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Theo án sơ thẩm nội dung vụ kiện được tóm tắt như sau: Ngày 25/6/2012 chị
Nguyễn Thị Thúy có đến văn phòng giao dịch bất động sản Nam Hải để hỏi vay số
tiền 50.000.000 đồng, chị Vũ Thị Kim Minh thay mặt giám đốc công ty trách
nhiệm hữu hạn xây dựng và du lịch vận tải Nam Hải đưa tiền cho chị Thúy vay.
Hai bên có lập hợp đồng vay tiền, cùng ký xác nhận.
Ngày 05/7/2012, giữa chị Minh và chị Thúy có lập giấy bán đất, thửa đất số
15, tờ bản đồ số 8. Giá bán thỏa thuận: Tám trăm triệu đồng. Chị Thúy và chị Minh
đều ký vào giấy bán đất. Cùng ngày (05/7/2012) giữa chị Vũ Thị Kim Minh và chị
Nguyễn Thị Thúy có giao kết họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội
dung: chị Thúy chuyển nhượng cho chị Minh thửa đất số 15, tờ bản đồ số 8, diện
tích 73,2m2 và nhà xây 2 tầng trên đất, chị Minh có trách nhiệm thanh toán cho chị
Thúy số tiền 800.000.000đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được
công chứng tại Văn phòng công chứng Đại Nam.
~ 44 ~
Khi chị Minh làm thủ tục sang tên, chị Thúy đã làm đơn gửi Ủy ban nhân
dân phường cho rằng chị Minh đã lừa dối, đề nghị ủy ban nhân dân phường dừng
thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Minh. Chị Minh khởi
kiện yêu cầu Tòa án công nhận họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, buộc
chị Thúy phải giao tài sản cá nhân là nhà đất của chị Thúy cho chị Minh.
Chị Thúy không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Minh, cho rằng chị
không được giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chị không được
đến Văn phòng công chứng Đại Nam. Chị chỉ được vay số tiền 50.000.000 đồng,
không được vay số tiền 800.000.000 đồng. Giấy bán đất mà chị ký nội dung chị đã
nhận của chị Minh số tiền 800.000.000 đồng, khi ký giấy chị Minh nói đây là thủ
tục vay tiền của Công ty nên chị tin và điền các thông tin cá nhân, chị có đưa giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để vay 50.000.000 đồng chứ không có việc chị bán
đất cho chị Minh. Phần ghi giá bán theo thỏa thuận: Tám trăm triệu đồng là chị
Minh tự ý ghi thêm vào giấy bán đất. Nay chị Minh khởi kiện chị không đồng ý, đề
nghị tòa án xem xét bảo vệ quyền lợi cho chị.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn Nguyên, bà Nguyễn
Thị Huần đều xác nhận: Không biết việc chị Thúy vay tiền cũng như bán nhà đất
cho chị Minh và đều khẳng định ngôi nhà 2 tầng nằm trên thửa đất số 15 tờ bản đồ
số 08 có diện tích 73,2 m2 là tài sản chung của vợ chồng anh Nguyên, chị Thúy.
Chị Thúy không có quyền tự ý bán. Sự việc trên anh Nguyên không đồng ý và đề
nghị tòa giải quyết theo pháp luật.
Theo kết luận định giá tài sản ngày 23/5/2013 của Hội đồng định giá tài sản,
giá trị quyền sử dụng đất là 73,2m2 x 3.000.000 đồng = 219.600.000 đồng; Trị giá
nhà 436.667.468 đồng. Tổng giá trị nhà đất là 656.267.468 đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2013/DSST ngày 31/7/2013 của Tòa án nhân
dân cấp huyện áp dụng điều 410, 122, 132, 137 Bộ luật dân sự, Xử: không chấp
nhận yêu cầu chị Vũ Thị Kim Minh về việc công nhận Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị Nguyễn Thị Thúy và chị Vũ Thị Kim Minh. Tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Vũ Thị Kim Minh và chị
Nguyễn Thị Thúy được Văn phòng công chứng Đại Nam công chứng ngày
05/7/2012 vô hiệu. Buộc chị Nguyễn Thị Thúy phải trả lại cho chị Vũ thị Kim
Minh số tiền 800.000.000 đồng, chị Minh phải trả lại cho chị Thúy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BB 652371 do Ủy ban nhân dân cấp cho chị Nguyễn
Thị Thúy ngày 25/5/2010. Bảo thủ ngôi nhà 2 tầng diện tích xây dựng 73,2m2, tích
sàn 164,4m2 và quyền sử dụng 73,2m
2 đất tại thửa số 15, tờ bản đồ số 8, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đât mang tên chị Nguyễn Thị Thúy để hỗ trợ việc thi
hành án. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 12/8/2013, chị Nguyễn Thị Thúy có đơn kháng cáo, đơn bổ sung đơn
kháng cáo, đon kêu cứu khẩn cấp không nhất trí với bản án sơ thẩm buộc chị phải
trả cho chị Minh số tiền 800.000.000 đồng và quyết định của Tòa án về bảo thủ
ngôi nhà. Chị chỉ được vay chị Minh 50.000.000 đồng. Chị chưa một lần đến văn
phòng công chúng Đại Nam, chữ ký trong hợp đổng được công chứng là chữ ký
~ 45 ~
phô tô. Đề nghị giám định lại chữ ký trong họp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đã công chứng mà chị Minh xuất trình.
Bản án dân sự phúc thẩm số 09/2014/DS - PT ngày 13/6/2014 của Tòa án
nhân dân tỉnh Hòa Bình căn cứ khoản 3 Điều 275 và 277 Bộ luật tố tụng dân sự
xử:
Hủy bản án sơ thẩm số 19/2013/DSST ngày 31/7/2013, giao hồ sơ cho Tòa
án nhân dân cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp
luật.
Bản án phúc thẩm trên đã chỉ rõ nguyên nhân chính dẫn đến việc hủy án đó
là: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng mà nguyên đơn
xuất trình là họp đồng giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay tiền, cấp sơ thẩm chưa
xác minh làm rõ việc vay tiền giữa chị Thúy và chị Minh và áp dụng các điều luật
về việc vay tài sản để giải quyết, mà xác định quan hệ tranh chấp về hợp đồng là
chưa đúng pháp luật
Ngày 16/7/2014 Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Chị Vũ Thị Kim Minh xin thay đổi nội dung khởi kiện: Chị không yêu cầu
tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị và chị
Thúy đã được công chứng tại văn phòng công chứng Đại Nam. Chị không yêu cầu
chị Thúy phải bàn giao nhà và đất cho chị Minh. Căn cứ vào điều 137 BLDS chị đề
nghị tòa xem xét buộc chị Thúy phải trả lại cho chị 800.000.000 đồng và chị phải
trả lại chị Thúy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong quá trình giải quyết lại
vụ án cấp sơ thẩm không thu thập điều tra xác minh thêm một vấn đề gì khác (Phần
định giá tài sản Tòa đã tiến hành các thủ tục để định giá song bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan không hợp tác không tiến hành được nên hội đồng
định giá quyết định lấy kết quả định giá trước để làm căn cứ giải quyết vụ án).
Tại bản án sơ thẩm số 06/2015/DSST ngày 17/4/2015 của Tòa án sơ thẩm áp
dụng: Điều 410, điều 122, điều 132, điều 137 Bộ luật dân sự xử: Không chấp nhận
yêu cầu của chị Vũ Thị Kim Minh về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị Nguyễn Thị Thúy và chị Vũ Thị Kim Minh. Tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đụng đất giữa chị Nguyễn Thị Thúy và chị Vũ
Thị Kim Minh được văn phòng công chứng Đại Nam công chứng ngày 05/7/2012
vô hiệu
Buộc chị Nguyễn Thị Thúy phải hoàn trả cho chị Vũ Thị Kim Minh
800.000.000 đồng. Chị Minh phải trả cho chị Thúy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BB652371 do UBND cấp cho bà Nguyễn Thị Thúy ngày 25/5/2010.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/4/2015 chị Nguyễn Thị Thúy có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ
thẩm số 06/2015/DSST ngày 17/4/2015 của Tòa án cấp sơ thẩm với nội dung:
không nhất trí việc tòa án cấp sơ thẩm kết luận chị đã nhận của chị Minh
800.000.000 đồng tiền bán đất và buộc chị phải hoàn trả cho chị Minh số tiền như
trong giấy bán đất đề ngày 05/7/2012.
~ 46 ~
Bản án phúc thẩm số 17/2015/DS-PT, ngày 11/9/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Hòa Bình đã căn cứ vào khoản 3 Điều 275 BLTTDS, Điều 277 BLTTDS, Xử:
Chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thúy. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số
06/2015/DSST ngày 17/4/2015 để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Trong quá trình thụ lý lại và tiếp tục giải quyết vụ án cấp sơ thẩm không
nghiên cứu xem xét kỹ đơn khởi kiện lại của chị Minh, không xem xét và đánh giá
đúng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không xem xét những vấn đề mà
bản án phúc thẩm số 09/2014/DSPT ngày 13/6/2014 của TAND tỉnh Hòa Bình đã
xem xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 19/2013/DSST ngày 31/7/2013 của Tòa án
cấp sơ thẩm (khi xem xét đơn khởi kiện lại của chị Minh lẽ ra tòa phải phân tích
hướng dẫn cho đương sự, nếu đương sự vẫn khởi kiện về nội dung khởi kiện trước
thì tòa xử bác đơn) mà lại tiếp tục thụ lý và giải quyết lại yêu cầu khởi kiện của chị
Minh (yêu cầu đã được giải quyết và bị cấp phúc thấm hủy án). Như vậy cho thấy
một lần nữa cấp sơ thẩm lại xác định sai mối quan hệ pháp luật cần giải quyết
trong vụ án này.
Quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết là quan hệ vay tiền giữa chị
Minh và chị Thúy cần phải được xác định làm rõ đây là vấn đề chính của vụ án,
nhưng tại cấp sơ thẩm không hề đề cập đến. Những sai sót trên tại phiên tòa phúc
thẩm không thể khắc phục được chị Thúy kháng cáo là có căn cứ nên chấp nhận./.
***
Vụ tranh chấp kiện đòi nhà giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Nguyễn Hữu Tương.
2. Các bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Cầu; Ông Nguyễn Hữu Kỳ; Ông Nguyễn
Hữu Kỷ; Ông Nguyễn Hữu Cương; Ông Nguyễn Hữu Tháu; Bà Nguyễn Thị
Hòa.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Vợ chồng cụ Nguyễn Hữu Đảo và cụ Dương Thị Má có 7 người con gồm:
Ông Nguyễn Hữu Cầu; sinh năm 1949. ông Nguyễn Hữu Kỳ; sinh năm 1954, ông
Nguyễn Hữu Kỷ; sinh năm 1956. ông Nguyễn Hữu Cương; sinh năm 1960. ông
Nguyễn Hữu Tháu; sinh năm 1962, ông Nguyễn Hữu Tương; sinh năm 1966. bà
Nguyễn Thị Hòa sinh năm 1969.
Ông Cầu, ông Kỳ, ông Kỷ, ông Cương, ông Tháu, bà Hòa khi trưởng thành
lập gia đình ở riêng, ông Tương lập gia đình làm nhà, ở riêng trên cùng mảnh đất
với cụ Đảo và cụ Má.
~ 47 ~
Ngày 18/3/1995 cụ Đảo chết, không để lại di chúc, cụ Má ở một mình. Năm
2000 ông Tương kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với
1.690m2 đất tại tờ bản đồ số 11, thửa số 94, trên đất có ngôi nhà cụ Má đang ở.
Năm 2005 giải phóng mặt bằng đường Hồ Chí Minh ông Tương đứng ra kê
khai và nhận tiền đền bù đất, công trình, cây cối hoa mầu trên đất số tiền
171.713.440 đồng. Giữa cụ Má và ông Tương xảy ra tranh chấp số tiền đền bù.
Tại biên bản làm việc ngày 13/10/2005 UBND xã giải quyết đề nghị của cụ
Má yêu cầu ông Tương trả lại số tiền đền bù giải phóng mặt bằng, hai bên đã thống
nhất về họp gia đình để quyết định ai là người quản lý số tiền. Tại bản kê kèm biên
bản làm việc, Cụ Má và ông Tương nhất trí xác định số tiền của cụ Má được đền
bù 40.396.627 đồng. tiền hỗ trợ di dời 8.000.000 đồng; tổng cộng 48.396.625đ,
ông Tương đã đưa cụ Má 4.000.000đ; còn lại ông Tương đang giữ 44.396.625,
trong đó có số tiền móng là 3.757.371 đ chưa xác định rõ là của ông Tương hay cụ
Má.
Tại biên bản thỏa thuận có nội dung: Hồi 17 giờ 30 ngày 16/11/2005 tại nhà
ông Kỷ gồm có cụ Má, ông cầu, ông Kỳ, ông Kỷ, ông Cương, ông Tháu, ông
Tương trước sự chứng kiến của ông Trần Quốc Cường (cán bộ tư pháp xã) đi đến
thỏa thuận: về tiền mặt ông Tương trả cụ Má số tiền đền bù 44.000.000đ đã trả đủ
dưới sự chứng kiến của mọi người có mặt. Về làm nhà cho bà (cụ Má), đất theo
quy hoạch của ông Tương với điều kiện vuông thẳng ra đường. Khoán thẳng cho
thợ với phương thức chìa khóa trao tay nhưng phải chắc chắn hợp lý để sau này
còn sử dụng được, to nhỏ do cụ Má quyết định, công trình phụ đảm bảo nhu cầu
sinh hoạt cho cụ Má. Toàn bộ tài sản, đất của cụ Má sau náy cụ Má chết, sau giỗ
đầu sẽ bàn giao lại cho ông Tương sử dụng. Biên bản thỏa thuận có chữ ký của ông
Cương, ông Kỳ, ông Kỷ, ông Tháu, ông Tương, cụ Má và chữ ký của người làm
chứng anh Trần Quốc Cường. Văn bản có đóng dấu của chủ tịch UBND xã là ông
Bùi Văn Thiển. Ông Cầu có mặt nhưng không ký biên bản, bà Hòa vắng mặt.
Thực hiện thỏa thuận, cụ Má đã đã thuê khoán thợ xây ngôi nhà cấp 4 diện
tích 32m2 để cụ Má ở, toàn bộ tiền xây dựng do cụ Má chi trả, không ai phải đóng
góp tiền, sau khi xây dựng nhà cụ Má ở. Ngày 19/12/2009 Cụ Má chết không để
lại di chúc.
Ngày 22/4/2013 ông Tương khởi kiện cho rằng ngôi nhà cụ Má xây dựng là
tài sản của cụ Má, sau khi cụ Má chết hơn 1 năm, các bị đơn không giao trả nhà
cho ông Tương theo thỏa thuận ngày 16/11/2005. Đề nghị Tòa án buộc các bị đơn
giao trả nhà.
Các ông Cầu, Kỳ, Kỷ, Cương, Tháu và Bà Hòa cho rằng ngôi nhà là tài sản
chung của tất cả anh em và cụ Má, khi thỏa thuận ông Cầu không ký và bà Hòa
không có mặt. Việc những người ký vào văn bản này chẳng qua để lừa ông Tương
trả lại tiền để cụ Má xây nhà, nên văn bản thỏa thuận ngày 16/11/2005 không có
giá trị. Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của ông Tương.
Quá trình giải quyết các đương sự thống nhất trị giá ngôi nhà 20.000.000đ.
~ 48 ~
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2013/DSST ngày 17/9/2013 của Tòa án cấp sơ
thẩm đã áp dụng các điều 112, 127, 128, 164 Bộ luật dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ
phí Tòa án xử: Tuyên bố giao dịch dân sự giữa ông Nguyền Hữu Tương với cụ
Dương Thị Má, ông Nguyễn Hữu cầu, ông Nguyễn Hữu Kỳ, ông Nguyễn Hữu Kỷ,
ông Nguyễn Hữu Cương, ông Nguyễn Hữu Tháu xác lập ngày 16/11/2005 về việc
phân chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Hữu Đảo vô hiệu. Bác yêu cầu kiện “đòi
nhà” của ông Nguyễn Hữu Tương đối với các ông Cầu, Kỳ, Kỷ, Cương, Tháu và
bà Hòa. Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 20/9/2013 nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Tương kháng cáo đề nghị
Tòa phúc thấm tuyên buộc các bị đơn trả nhà theo văn bản thỏa thuận ngày
16/11/2005.
Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm về nội dung vụ án: Việc ông
Tương khởi kiện đòi nhà theo văn bản thỏa thuận ngày 16/11/2005 là không có căn
cứ vì ngôi nhà là tài sản chung chưa phân chia. Việc cấp sơ thẩm tuyên văn bản
thỏa thuận ngày 16/1 1/2005 vô hiệu là chưa chính xác, đề nghị Hội đồng phúc
thẩm sửa lại cách tuyên của án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 24/2013/DS-PT, ngày 30/12/2013 của TAND tỉnh Hòa
Bình đã căn cứ căn cứ vào khoản 2 Điều 275 của Bộ luật tố tụng dân sự. Sửa bản
án dân sự sơ thẩm số 02/2013/DSST ngày 17/9/2013 của Tòa sơ thẩm. Cụ thể: Áp
dụng các điều: 170, 465; 216, 217, 645 của Bộ luật dân sự. Bác yêu cầu khởi kiện
giữa ông Nguyễn Hữu Tương đối với Ông Nguyễn Hữu Cầu; Ông Nguyễn Hữu
Kỳ; Ông Nguyễn Hữu Kỷ; Ông Nguyễn Hữu Cương; Ông Nguyễn Hữu Tháu; Bà
Nguyễn Thị Hòa về việc đòi lại ngôi nhà cấp 4 diện tích 32m2 được xây dựng trên
thửa đẩt sổ 321, tờ bản đồ số 11.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Theo giấy chứng tử. Cụ Đảo chết hồi 7 giờ ngày 18/3/1995. Cụ Đảo chết
không có di chúc, tính đến thời điểm 16/11/2005 thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã
hết. Di sản của cụ Đảo là tài sản chung của các đồng thừa kế, nếu các đồng thừa kế
có nhu cầu chia tài sản của cụ Đảo, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện
theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
Các bên đương sự đều thừa nhận, ngôi nhà của cụ Đảo và cụ Má xây dựng
năm 1969 đã được phá bỏ khi giải phóng mặt bằng đường Hồ Chí Minh, toàn bộ số
tiền đền bù do cụ Má quản lý, sử dụng để xây dựng ngôi nhà đang có tranh chấp,
không ai phải đóng góp. Do vậy phần di sản của cụ Đảo được chuyển thành trị giá
một phần ngôi nhà đang tranh chấp. Như vậy ngôi nhà này thuộc sở hữu chung
theo phần của nguyên đơn và các bị đơn. Biên bản thỏa thuận ngày 16/11/2005 cụ
Má chỉ cho ông Tương sử dụng tài sản, đất của cụ Má sau khi cụ Má chết, sau giỗ
đầu của cụ Má.
Án sơ thẩm cho rằng biên bản họp gia đình 16/11/2005 để phân chia di sản
thừa kế của cụ Đảo là vô hiệu vì thiếu bà Hòa và ông Cầu là chưa chính xác. Văn
bản này không thể hiện việc chia di sản của cụ Đảo, văn bản thể hiện 3 nội dung,
các đương sự đã thực hiện hai nội dung không ai có ý kiến gì. Đối với nội dung thứ
~ 49 ~
3 thể hiện sau khi cụ Má chết sau giỗ đầu (1 năm) tài sản, đất của cụ Má sẽ giao lại
cho ông Tương sử dụng. Như vậy đây là quyền tự định đoạt của cụ Má đối với tài
sản của cụ Má, không liên quan đến tài sản của cụ Đảo. Hơn nữa yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn không đề nghị xem xét tính có hiệu lực văn bản này, cần phải sửa
lại tuyên./.
***
Vụ tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn kiền với đất giữa:
- Nguyên đơn: ông Vũ Văn Tấn, sinh năm 1920
Người đại diện theo ủy quyền: anh Vũ Tiến Thuật và chị Vũ Thị Mơ
- Bị đơn: anh Vũ Văn Chính, SN 1964, chị Nguyễn Thị Mỹ, sinh năm
1964
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Vũ Thị Mơ, sinh năm 1952
2. Anh Vũ Tiến Thuật, sinh năm 1957
3. Chị Vũ Thị Tho, sinh năm 1962
4. Chị Vũ Thị Đào, sinh năm 1955
5. Chị Vũ Nguyễn Mỹ Linh, sinh năm 1990
6. Anh Vũ Nguyễn Thanh Tùng. Sinh năm 1993
- Người bảo vệ quyền và lợi ích của hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị Mỹ:
ông Hoàng Văn Thạch - Luật sư Văn phòng luật sư Trí Minh thuộc Đoàn luật
sư thành phố Hà Nội.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại Cấp sơ thẩm: Năm
1962, ông Vũ Văn Tấn và bà Nguyễn Thị Thơm từ Nam Định lên Hòa Bình khai
hoang được chính quyền xã cho quản lý, sử dụng hơn 2000 m2 đất. Năm 1984, ông
bà Tấn, Thơm đã xây dựng 01 ngôi nhà 3 gian mái bằng một tầng trên một phần
khu đất, phần đất còn lại ông bà chia cho các con là Thuật, Mơ, Đào dựng nhà ra ở
riêng, anh Chính là con út, chưa lập gia đình nên sống cùng ông bà tại ngôi nhà 3
gian. Năm 1989 anh Chính kết hôn với chị Mỹ và vẫn sống cùng ông bà. Năm
2000 thực hiện chỉ thị 18 của Thủ tướng chính phủ, Uy ban nhân dân xã đã hướng
dẫn các hộ tự kê khai diện tích đất đang sử dụng để tiến hành cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Khi nhận được thông báo này, ông Tấn đã để anh Chính đứng
tên phần nhà đất của ông bà vì nghĩ rằng anh chị Chính, Mỹ sẽ chăm sóc phụng
dưỡng bố mẹ khi về già. Năm 2007, bà Thơm chết, năm 2012 gia đình phát sinh
mẫu thuẫn, ông Tấn cho rằng anh chị Chính, Mỹ đã thiếu trách nhiệm, đuổi ông ra
~ 50 ~
khỏi nhà với lý do nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên Vũ Văn Chính. Nay ông Tấn khởi kiện yêu cầu anh Chính, chị Mỹ trả lại ngôi
nhà ba gian mái bằng và diện tích đất 510m2 mà ông bà Tấn, Thơm có công khai
phá và xây dựng mà ông bà đã cho anh Chính đứng tên.
Anh Vũ Văn Chính, chị Nguyễn Thị Mỹ trình bày: xác nhận thửa đất được
cấp giấy chứng nhận mang tên Vũ Văn Chính có nguồn gốc của ông bà Tấn, Thơm
khai phá năm 1962. Năm 1984, ông Tấn, bà Thơm xây dựng nhà, tiền lương đi lao
động anh Chính đưa cho mẹ để phụ vào việc xây nhà. Tháng 10 năm 1989 anh
Chính kết hôn với chị Mỹ và ở cùng ông bà Tấn, Thơm. Năm 2000, khi được
thông báo làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lúc đó anh Chính
không có ở nhà nên ông Tấn đã đưa cho chị Mỹ tờ đơn xin cấp giấy chứng nhận,
chị Mỹ đã viết đơn và ký tên anh Chính. Năm 2001, ông Tấn đưa cho chị Mỹ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Vũ Văn Chính. Năm 2003, anh Chính, chị
Mỹ cải tạo sửa chữa ngôi nhà ba gian mái bằng, xây tường bao quanh khu đất. Do
ông bà Tấn, Thơm mâu thuẫn nên gia đình họp, quyết định bà Thơm ăn cùng với
vợ chồng Chính, Mỹ, ông Tấn ăn cùng với anh Thuật, hai ông bà vẫn ở tại nhà với
vợ chồng Chính Mỹ. Năm 2007 bà Thơm chết, ông Tấn vẫn sống với anh chị cho
đến tháng 6 năm 2012 phát sinh mâu thuẫn giữa bố chồng và con dâu nên ông Tấn
đã sang ở với anh Thuật. Nay ông Tấn khỏi kiện đòi trả lại nhà và đất, anh Chính,
chị Mỹ không nhất trí vì cho rằng ngôi nhà ba gian anh Chính có công lớn trong
việc xây dựng, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ
Vũ Văn Chính, ông Tấn không có quyền đối với tài sản này.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Thuật, chị Mơ, chị Đào, chị
Tho trình bày: Nhà đất đang tranh chấp là thuộc quyền sở hữu của ông Tấn. Ông
Tấn để cho anh Chính đứng tên là để anh Chính, chị Mỹ thực hiện nghĩa vụ Nhà
nước và chăm sóc phụng dưỡng bố mẹ già nhưng vợ chồng Chính, Mỹ là kẻ bất
hiếu, đuổi ông ra khỏi nhà nay đề nghị Tòa án buộc anh Chính, chị Mỹ trả lại ngôi
nhà ba gian và 510 m2 đất cho ông Tấn.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Tùng, chị Linh trình bày: Bố
mẹ anh chị đã cùng ông bà kiến tạo, xây dụng, sửa chữa, trồng trọt và thu hoạch
trên phần nhà đất đã ổn định từ lâu. Hiện đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên Vũ Văn Chính, việc ông Tấn đòi lại quyền sử dụng đất và nhà trên
đất là không có căn cứ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2014/DSST ngày 05/11/2014 của Tòa án nhân
dân cấp sơ thẩm quyết định: Áp dụng điều 183, 189, khoản 1 Điều 247, điều 256,
điều 631, 632, 633, 634, 635, 645 và điều 733 Bộ luật dân sự; Điều 135, khoản 1
Điều 136 Luật đất đai; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội, tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn Tấn. Giao cho ông Vũ
Văn Tấn được quyền sử dụng một phần diện tích đất tại thửa đất số 80, tờ bản đồ
số 11 có giấy chúng nhận quyền sử dụng đất số R681549 do UBND cấp ngày
10/9/2001 tại số nhà 61, có tứ cận như sau: Đông: Giáp đường Thịnh Minh dài
6,31m, Tây: giáp đất hộ anh Thích, chị Mơ dài 7,77m. Nam: giáp đường ngách
59/50, ngõ 50 dài 39,46m. Bắc giáp hộ anh Chính, chị Mỹ dài 39,5m. Phần đất có
~ 51 ~
diện tích 277,3m2 trong đó diện tích đất ở là 200m
2 trị giá 400.000.000 đồng, diện
tích đất vườn là 77,3m2 trị giá 4.251.000 đồng. Giao cho ông Tấn được quyền sở
hữu 02 gian nhà xây mái bằng có diện tích dài 7,4m x rộng 5,6m = 41,44m2 trên
diện tích đất 277,3m2 đã được được chia. Giá trị xây dựng cụ thể: 02 gian nhà =
60.920.000 đồng, phần tường xây bao quanh đất (6,31m + 7,77m + 39,46m) =
53,54 = 5.778.700 đồng (1 mái bán tôn hè = 1.809.780đ, mái prôximang chống
nóng = 1.768.659, cổng sắt = 945.000đ, móng = 4.843.000đ, sân = 876.850đ, câv
cối = 5.100.000đ. Tổng giá trị tài sản ông Vũ Văn Tấn được quyền sở hữu và sử
dụng là 486.192.520 đồng.
Chia phần tài sản anh Chính, chị Mỹ được hưởng: Giao cho anh Vũ Văn
Chính và chị Nguyễn Thị Mỹ được quyền sử dụng một phần diện tích đất tại thửa
đất số 80, tờ bản đồ số 11 có giấy chúng nhận quyền sử dụng đất số R681549 do
ủy ban nhân dân cấp ngày 10/9/2001 tại số nhà 61, có tứ cận như sau: Đông: Giáp
đường Thịnh Minh dài 6,34m, Tây: giáp đất hộ anh Thích, chị Mơ dài 5,38m.
Nam: Giáp đất ông Tấn dài 39,5m. Bắc giáp hộ anh Thuật, Miên dài 40 m. Phần
đất có diện tích 232,7m2 trong đó diện tích đất ở là 200m
2 trị giá 400.000.000
đồng, diện tích đất vườn là 32,7m2 (đã trừ 15m
2 nằm ngoài giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất) trị giá 1.798.000 đồng. Giao cho anh Chính, chị Mỹ được quyền sở
hữu 01 gian nhà xây mái bằng có diện tích: dài 7,4m x rộng 3,9m = 28,86m2; 01
gian bếp có diện tích 3,9 x 2,2 = 8,58m2 và phần cơi nới năm 2003 gồm: Bếp + nhà
tắm + WC = 5,9 x 2,7 = 15,9m2. Tổng diện tích xây dựng là 53,37m
2 trên diện tích
đất 232,7m2 đã được chia ở trên. Giá trị xây dựng cụ thể 01 gian nhà xây =
40.420.000 đồng, phần tường xây bao quanh đất (6,34m + 5,38m + 40m) = 51,72m
= 5.582.263 đồng, mái bán tôn = 1.200.382đ, mái prôximang = 792.141 đ, bếp +
nhà tắm + WC = 11.693.261 đồng, móng = 3.375.000đ, sân = 424.580 đồng, cây
cối = 5.100.000đ. Tổng giá trị tài sản anh Vũ Văn Chính, chị Nguyễn Thị Mỹ được
quyền sở hữu và sử dụng là 473.609.220 đồng. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuvên
về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10/11/2014 anh Vũ Văn Chính, chị Nguvễn Thị Mỹ kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm, không nhất trí việc Tòa án cấp sơ thấm cho rằng tài sản đất và nhà
anh chị đang sử dụng là tài sản thừa kế, đây là tài sản của hộ anh Vũ Văn Chính,
anh chị đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chính sách đất đai với Nhà nước.
Ngày 11/11/2014, ông Vũ Văn Tấn kháng cáo không nhất trí việc Tòa án
cấp sơ thẩm chia cho tài sản là nhà và đất cho anh Chính, chị Mỹ.
Ngày 11/11/2014, chị Vũ Thị Mơ, ông Vũ Tiến Thuật, bà Vũ Thị Tho, bà
Vũ Thị Đào kháng cáo với nội dung: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xử lại theo
hướng không chia cho Chính, Mỹ bất cứ thứ gì.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Tấn, bà Mỹ, ông Chính, chị Mơ, anh Thuật, chị
Tho, chị Đào vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Ý kiến của Luật sư: cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, về
nội dung cấp sơ thẩm thu thập chưa đầy đủ. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
~ 52 ~
Đại diện Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình có ý kiến: Tòa án cấp sơ
thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện,
vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Hợp đồng tặng cho vô hiệu nhưng
không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, về nội dung cấp sơ thẩm thu thập
chưa đầy đủ, giải quyết chồng chéo các mối quan hệ. Đề nghị Hủy án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 06/2015/DS-PT, ngày 06/5/2015 của TAND tỉnh Hòa
Bình đã căn cứ khoản 3 Điều 275, điều 277 BLTTDS, chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của các đương sự ủy bản án dân sự sơ thẩm số 17/2014/DS-ST ngày
05/11/2014 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp
luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Tấn chỉ khởi kiện đòi lại tài sản là
quyền sử dụng đất (510m2) và tài sản trên đất (3 gian nhà). Tại phiên tòa sơ thẩm,
các chị Mơ, Đào, Tho và anh Thuật có đề cập đến việc chia di sản thừa kế của bà
Thơm để lại. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải yêu cầu các đồng thừa kế phải có đơn
yêu cầu chia thừa kế và phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật,
cấp sơ thẩm phải yêu cầu các đồng thừa kế cung cấp chứng cứ tại thời điểm mở
thừa kế, di sản của bà Thơm để lại là những tài sản gì? trị giá bao nhiêu? ai là
người đang quản lý khối di sản đó? khối tài sản đó chưa chia? Nhưng tất cả các
đồng thừa kế chưa có đơn khởi kiện, chưa nộp tạm ứng án phí. Cấp sơ thẩm chưa
xác định được di sản thừa kế là bao nhiêu lại giải quyết cả quan hệ pháp luật chia
thừa kế, áp dụng các điều luật quyết định chia thừa kế nhưng không chia rõ kỷ
phần của từng người được hưỏng là bao nhiêu. Như vậy cấp sơ thẩm đã vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng vượt quá phạm vi khởi kiện được quy định tại Điều 5
Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung cấp sơ thẩm chưa thu thập, điều tra đầy đủ.
Bản án sơ thẩm đề cập đến ba mối quan hệ pháp luật: kiện đòi lại đất và tài
trên đất, chia thừa kế và hợp đồng tặng cho. Cấp sơ thấm xác định việc ông Tấn, bà
Thơm cho anh Chính đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hình
thức tặng cho tài sản có điều kiện nhưng không được thành lập thành văn bản,
không có công chứng, chứng thực của cấp có thẩm quyền, không đăng ký. Đây là
hợp đồng vi phạm hình thức nên không công nhận nhưng trong quyết định không
giải quyết hậu quả của hợp đồng tặng cho tài sản vô hiệu./.
***
~ 53 ~
Vụ kiện đòi tài sản, bồi thường thiệt hại về tài sản, giữa:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Hòa
Bình (người đại diện theo pháp luật của công ty: ông Đinh Công Sơn).
- Bị đơn:
+ Bà Nguyễn Thị Thanh Xuân. Địa chỉ: phòng 207 nhà A3, sổ nhà 234.
+ Bà Nguyễn Thị Điền. Địa chỉ: phòng 208 nhà A3.
+ Bà Bùi Thị Thoa, sinh năm 1975. Địa chỉ: phòng 306 nhà A3.
+ Bà Nguyễn Thị Hải Vân, sinh năm 1982. Địa chỉ: phòng 307 nhà A3.
+ Bà Lê Thị Mỹ Huyền, sinh năm 1974. Địa chỉ: phòng 305 nhà A3.
+ Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, sinh năm 1980. Đại diện theo ủy quyền
của chị Thủy: ông Nguyễn Viết Thành. Cùng địa chỉ: phòng 405 nhà A3.
Người kháng cáo: Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Điền, Bùi Thị
Thoa, Nguyễn Thị Hải Vân, Lê Thị Mỹ Huyền, Nguyễn Thị Thanh Thủy.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm: Năm 1998,
UBND tỉnh Hòa Bình giao toàn bộ nhà A3 và nhà cầu cho Trung tâm giáo dục
thường xuyên tỉnh Hòa Bình quản lý để làm nơi giảng dậy và học tập, một số cán
bộ công chức của Trung tâm như bà Xuân, Điền, Thoa, Huyền,Thủy, Hạnh (sau
cho chị Vân ở), không có nhà đã được Trung tâm cho mượn một số phòng không
sử dụng đến. Ngày 10/6/2008 UBND tỉnh Hòa Bình đã ra quyết định số 1241, thu
hồi nhà A3 và nhà cầu để bàn giao toàn bộ phần đất, nhà A3, nhà cầu và các công
trình vật kiến trúc cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đầu tư phát
triển nhà và đô thị Hòa Bình (nay là Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây
dựng Hòa Bình) quản lý, sử dụng. Ngày 26/5/2009 giữa Trung tâm giáo dục
thường xuyên tỉnh Hòa Bình và Công ty cổ phần đầu tư phát triển và xây dựng Hòa
Bình thực hiện việc bàn giao theo quyết định 1241 của Úy ban nhân dân tỉnh Hòa
Bình, Công ty vẫn cho các hộ bà Xuân, Thoa, Điền, Thủy, Huyền, Vân ở. Ngày
06/4/2010 Công ty được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh nên từ năm 2010
công ty đã yêu cầu các hộ phải di dời để công ty sửa chữa nâng cấp nhà A3 để đưa
vào hoạt động kinh doanh. Các hộ bà Xuân, Thoa, Điền, Thủy, Vân, Huyền không
di dời, Công ty không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngày 15/6/2011,
UBND tỉnh Hòa Bình đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 668347
cho Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xâý dựng Hòa Bình. Ngày 18/7/2012
Công ty có thông báo số 39/TB - PTN & XDHB về việc hợp đồng thuê nhà với nội
dung: Các hộ dân hiện đang chiếm giữ tài sản trái phép và cư trú bất hợp pháp tại
33 căn hộ nhà A3 nếu có nhu cầu về nhà ở, đến Văn phòng của Công ty để làm thủ
tục thuê nhà ở theo quy định, nếu hộ nào không làm thủ tục thuê nhà, phải di
chuyển đến nơi ở khác trước ngày 15/8/2012, trả lại căn hộ cho Công ty. Ngày 23
~ 54 ~
tháng 7 năm 2012, công ty ra quyết định số 15/QĐ - PTN & XD Hòa Bình về việc
ban hành bảng đơn giá thuê cho nhà đối với các căn hộ tại nhà A3 theo từng tầng
và m2 sử dụng.
Bảng giá này đã được niêm yết công khai tại trụ sở của công ty. Tuy nhiên
các hộ Xuân, Thoa, Điền, Thủy, Huyền, Vân không làm thủ tục thuê nhà với Công
ty. Ngày 29/8/2012, Công ty cổ phần tiếp tục ra thông báo đối với các hộ này với
nội dung: yêu cầu các hộ phải trả lại nhà trước ngày 10/9/2012, sau thời hạn này
công ty sẽ tổ chức thu hồi căn nhà do các hộ chiếm giữ trái phép. Hết thời gian trên
các hộ vẫn không di dời, để đảm bảo hoạt động kinh doanh, ngày 12/9/2013 Công
ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Hòa Bình có đơn khởi kiện đến Tòa
án, yêu cầu giải quyết buộc bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, Bùi Thị Thoa, Nguyễn
Thị Điền, Nguyễn Thị Hải Vân, Lê Thị Mỹ Huyền, Nguyễn Thị Thanh Thủy trả lại
các căn hộ 207, 208, 306, 307, 305, 405, tự tháo dỡ các hạng mục công trình cơi
nới để giữ nguyên hiện trạng của căn hộ và bồi thường thiệt hại cho công ty là
108.468.360 đồng tính từ thời điểm tháng 7/2011 đến tháng 8/2013.
Về phía các bị đơn trình bày: Công ty kiện đòi lại nhà và tiền bồi thường
thiệt hại về tài sản các hộ không nhất trí. Các hộ không phải chiếm đoạt tài sản trái
pháp luật, các hộ đến đây ở đều được sự đồng ý của Trung tâm giáo dục thường
xuyên, khi đến ở các hộ đã phải cơi nới, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhà mới sử
dụng được. Các hộ không nhất trí bồi thường vì các hộ không được ký hợp đồng
thuê nhà với Công ty. Đề nghị Công ty giải quyết nhà ở theo chủ trương, chính
sách của Nhà nước. Nguyện vọng của các hộ đề nghị được thanh lý nhà hoặc cho
thuê với giá hợp lý.
Bản án sơ thẩm số 08/DS-ST ngày 17/6/2014 của Tòa án sơ thẩm quyết định
áp dụng điều 164, 167, khoản 1 điếu 168, khoản 1, 2 điều 169, khoản 2 điều 170.
Tuyên bố Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Hòa Bình có quyền
sở hữu nhà A3, số nhà 234, tổ 13. Áp dụng điều 255, 256, 260, 280 khoản 4, điều
281, Điều 604, 605, 606, khoản 3 Điều 608 Bộ luật dân sự, pháp lệnh án phí, lệ
phí Tòa án . Xử:
Buộc hộ bà Nguyễn Thị Thanh Xuân phải trả lại căn hộ 207, số nhà 234, tổ
13 và có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây
dựng Hòa Bình số tiền 27.585.360 đồng. Buộc hộ bà Nguyễn Thị Điền phải trả lại
căn hộ 208… và có trách nhiệm thanh toán … số tiền 27.585.360 đồng. Buộc hộ
bà Bùi Thị Thoa phải trả lại căn hộ 306 và có trách nhiệm thanh toán số tiền
24.520.320 đồng. Buộc hộ bà Nguyễn Thị Hải Vân phải trả lại căn hộ 307 và có
trách nhiệm thanh toán số tiền 24.520.320 đồng. Buộc hộ bà Lê Thị Mỹ Huyền
phải trả lại căn hộ 305 và có trách nhiệm thanh toán số tiền 24.520.320 đồng.
Buộc hộ bà Nguyễn Thị Thanh Thủy phải trả lại căn hộ 405 và có trách nhiệm
thanh toán số tiền 21.45 5.280 đồng. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, lãi suất
chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 19/6/2014, bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, Bùi Thị Thoa kháng cáo,
ngày 20/6/2014 bà nguyễn Thị Điền, Lê Thị Mỹ Huyền, Nguyễn Thị Thanh Thủy
kháng cáo, ngày 23/6/2014 chị Nguyễn Thị Hải Vân kháng cáo. Các đương sự
~ 55 ~
kháng cáo đều với nội dung: không chấp nhận việc đòi lại nhà của Công ty vì khi
được Ủy ban nhân dân tỉnh giao cho quyền quản lý nhưng không giải quyết nhà ở
theo quy định của Chính phủ; không nhất trí tiền bồi thường vì khi giao nhận nhà
không có biên bản giao hiện trạng nhà, các hộ sửa chữa cải tạo nhưng không làm
ảnh hưởng kết cấu của nhà, các hộ không có họp đồng nào thỏa thuận giá thuê nhà.
Vì vậy căn cứ vào bảng giá cho thuê tính bồi thường là vô lý. Đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Hòa Bình bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biếu ý kiến: Về tố tụng:
đây là vụ kiện tranh chấp nhà và do Tòa án thu thập chứng cứ nhưng tại phiên tòa
sơ thẩm không có sự tham gia Viện kiểm sát là trái với quy định tại khoản 2 Điều
21 bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Việc điều tra, thu thập chứng cứ của Tòa
cấp sơ thẩm chưa đẩy đủ dẫn đến việc giải quyết vụ kiện chưa khách quan, triệt để
cụ thế Tòa cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh làm rõ và không công nhận đối
với các chi phí cải tạo, sửa chữa nhà cho các bị đơn kể từ khi đến ở cho đến khi
dãy nhà A3 thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty; Tòa cấp sơ thẩm căn cứ đơn giá
do Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Hòa Bình đưa ra để buộc các
bị đơn bồi thường là chưa khách quan; khi buộc các bị đơn trả nhà nhưng không
gia hạn thời gian lưu cư cho các bị đơn là không đúng quy định của pháp luật. Đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thấm tuyên hủy bản án sơ thẩm số 08/2014/DSST ngày
17/6/2014 của Tòa sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm số 14/2014/DS - PT, ngày 15/10/2014 của TAND tỉnh
Hòa Bình đã căn cứ khoản 3 Điều 275, điều 277 BLTTDS, chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của các đương sự và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát tỉnh Hòa Bình
hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/DS-ST ngày 17/6/2014 về việc kiện đòi tài sản,
bồi thường thiệt hại về tài sản để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Về tố tụng: Vụ án được thụ lý ngày 11/10/2013 về việc kiện đòi tài sản (là
nhà ở), đòi bồi thường thiệt hại về tài sản. Quyết định đưa vụ án ra xét xử này
12/4/2014. Bản án dân sự sơ thẩm xét xử ngày 17/6/2014. Căn cứ vào Bộ luật tố
tụng dân sự được sửa đổi có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012 và văn bản hướng dẫn
thi hành thì vụ án thuộc trường hợp phải có Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên
tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự. Nhưng Viện kiểm sát
lại không tham gia phiên tòa để thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Về nội dung: Theo quyết định số 1241 ngày 10/6/2008 của UBND tỉnh Hòa
Bình đã thu hồi nhà A3 và nhà cầu để bàn giao toàn bộ phần đất, nhà A3, nhà cầu
và các công trình vật kiến trúc cho Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây
dựng Hòa Bình quản lý, sử dụng. Ngày 26/5/2009 giữa Trung tâm giáo dục thường
xuyên tỉnh Hòa Bình và Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Hòa
Bình thực hiện việc bàn giao. Ngày 15/6/2011, UBND tỉnh Hòa Bình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 668347 cho người sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và các tài sản gắn liền với đất là Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và
~ 56 ~
xây dựng Hòa Bình. Như vậy nhà A3, nhà cầu tại đại lộ Thịnh Lang, tổ 13 phường
Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thuộc quyền sử dụng của Công ty
cổ phần đầu tư phát triển và xây dựng Hòa Bình, là tài sản hợp pháp. Công ty có
quyền khai thác sử dụng trong lĩnh vực kinh doanh nhà ở. Các hộ hiện tại đang ở
trong các căn hộ đó không tiếp tục ký họp đồng thuê nhà. Do vậy Công ty đã khởi
kiện yêu cầu các hộ phải trả lại tài sản (nhà). Tòa án cấp sơ thấm đã xử buộc các
hộ phải trả lại nhà cho Công ty là có căn cứ, đúng pháp luật. Nhưng lại không
tuyên quyền lưu cư trong thời hạn nhất định cho các hộ là chưa bảo đảm quyền lợi
cho các đương sự.
Đối với yêu cầu buộc các hộ tự tháo dỡ các hạng mục sửa chữa, cơi nới trả
lại nguyên trạng các căn hộ. Tòa cấp sơ thẩm chưa làm rõ hiện trạng các căn hộ đã
cơi nới, sửa chữa những phần nào trong thời gian Trung tâm giáo dục thường
xuyên cho mượn nhà để ở, những phần nào và hộ nào cơi nới sau khi trung tâm
giáo dục thường xuyên bàn giao nhà cho Công ty. Đồng thời khi bàn giao giữa
Trung tâm giáo dục thường xuyên với Công ty, các bên có đến từng căn hộ để
kiểm đếm việc sửa chữa hay không? hay chỉ bàn giao trên giấy tờ sổ sách.Theo lời
khai của các bị đơn khi trung tâm giáo dục thường xuyên cho mượn nhà để ở các
hộ đến phải sửa, cải tạo nâng cấp mới sử dụng. Tòa án cấp sơ không tiến hành xem
xét lại buộc các hộ phải tháo dỡ các hạng mục cới nới, sửa chữa trả lại nguyên
trạng các căn hộ nhưng không đưa vào phần quyết định của bản án là hộ nào tháo
dỡ và tháo dỡ phần nào là thiếu sót.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại: Các bị đơn đều được Trung tâm giáo dục
thường xuyên cho mượn nhà để ở chứ không phải tự ý chiếm dụng trái phép, năm
2009 thực hiện quyết định của UBND tỉnh, Trung tâm giáo dục thường xuyên đã
bàn giao tài sản cụ thể là nhà, vật kiến trúc và các tài sản gắn liền với nhà, đất cho
Công ty. Vì vậy các căn hộ mà các bị đơn sử dụng không còn sự quản lý của Trung
tâm, việc Trung tâm trước đây cho các hộ ở nhờ không còn giá trị. Từ năm 2009
Công ty đã thực hiện quản lý tài sản nhà A3, Công ty vẫn cho các hộ ở nhờ, không
thu tiền. Đến năm 2010, Công ty được cấp giấy chứng nhận kinh doanh trong đó
có hoạt động kinh doanh bất động sản. Do vậy công ty yêu cầu các hộ di dời để
công ty cải tạo, sửa chữa các căn hộ mục đích sau này để cho thuê. Các hộ trên
không di dời. Ngày 23/7/2011, Công ty đã ra quyết định số 15/QĐ-PTN & XDHB
về việc ban hành bảng đơn giá cho thuê nhà ở. Các hộ không nhất trí với giá thuê
vì cho rằng giá quá cao xong các hộ cũng không trả lại nhà để Công ty cho người
khác thuê dẫn đến thiệt hại về tài sản cho Công ty, Tòa án buộc các bị đơn phải bồi
thường cho Công ty là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời
điểm tính bồi thường từ tháng 7/2011 là chưa chính xác vì trong hồ sơ thể hiện
Công ty yêu cầu các hộ di dời để Công ty sửa chữa, các hộ không di dời; Sau đó
Công ty yêu cầu các hộ ký họp đồng thuê nhà nhưng các hộ không ký. Công ty
không đề nghị đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngày 29/8/2012, Công ty cổ
phần ra thông báo yêu cầu các hộ phải trả lại nhà trước ngày 10/9/2012. Đây là
thông báo cuối cùng như vậy thời điểm phát sinh tranh chấp, quyền lợi của Công ty
bị xâm phạm phải tính từ ngày 10/9/2012. Tòa cấp sơ thấm căn cứ bảng đơn giá
cho thuê của công ty đưa ra để tính bồi thường chưa đủ căn cứ vì khi các hộ đến ở
~ 57 ~
phải tự sửa chữa, cải tạo chứ không phải do Công ty sửa chữa cải tạo. Do vậy phải
căn cứ vào bảng giá cho thuê đối với nhà ở chưa được cải tạo theo quyết định số
17/2008/QĐ-TTg ngày 28/01/2008 của Thủ tướng chính phủ và giá thuê nhà thực
tế tại địa bàn vào thời điểm đó mới đúng./.
***
Vụ tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Đình Thắng, sinh năm 1974 và chị Nguyễn
Thu Hương, sinh năm 1977.
2. Bị đơn:
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện (đại diện theo ủy quyền bà Hà Thị
Trang- Thẩm tra viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện).
- Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc, đại diện theo pháp luật giám đốc ông
Nguyễn Văn Thăng. Địa chỉ: Số 251 đường Nguyễn Cao, Võ Cường, thành phố
Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Đại diện
theo ủy quyền ông Nguyễn Hồng Trường- Giám đốc chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện.
- Chị Lê Thị Thanh Thủy, sinh năm 1969;
- Anh Nguyễn Nam Đức, sinh năm 1980.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án
Tại các quvết định thi hành án số: 38, 39 ngày 05/12/2011 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện, thì nghĩa vụ phải thi hành án dân sự của vợ chồng anh
Hoàng Đình Thắng và chị Nguyễn Thu Hương là 390.000.000 đồng. Hết thời hạn
tự nguyện thi hành án, anh Thắng và chị Hương không thực hiện nghĩa vụ thi hành
án. Ngày 05/01/2012, Chi cục Thi hành án dân sự huyện ra quyết định kê biên tài
sản số: 03/QĐTHA. Tại biên bản kê biên, xử lý tài sản ngày 11/01/2012 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện thì tài sản kê biên của vợ chồng anh Thắng, chị
Hương ước tính là 8.000.000.000 đổng (tài sản là 07 thửa đất và tài sản gắn liền
vói đất).
Ngày 03/5/2012, Chi cục thi hành án dân sự huyện có hợp đồng ủy quyền
bán đấu giá tài sản số: 28/2012/HĐUQ với Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc.
Ngày 14/6/2012, Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc đã tiến hành bán đấu giá
tài sản gồm toàn bộ tài sản kê biên, được ghi trong biên bản kê biên, xử lý tài sản
và người trúng đấu giá tài sản bà Lê Thị Thanh Thủy. Cùng ngày 14/6/2012 Công
~ 58 ~
ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc ký 07 Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá có số
134/2012/HĐ-DKB,135/2012/HĐ-DKB, 136/2012/HĐ-DKB... 140/2012/HĐ-
DKB với chị Lê Thị Thanh Thủy. Tài sản là 07 thửa đất và tài sản gắn liền với đất,
với giá 6.858.200.000 đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2014/DSST ngày 16/01/2014 của Tòa án nhân
dân huyện đã áp dụng: Khoản 1, Điều 199, khoản 1 Điều 202, BLTTDS ; Điều 90,
điểm b khoản 2 Điều 47 Luật thi hành án dân sự; Điều 280, 287, 305, 456, 459,
689, 698 Bộ luật Dấn sự; Điều 25, 35 và Điều 41 Nghị định số: 17/2010/NĐ- CP,
ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, xử: Bác các yêu cầu của vợ
chồng anh Hoàng Đình Thắng và chị Nguyễn Thu Hương về: Hủy Quyết định kê
biên quyền sử dụng đất số: 03/QĐ-THA ngày 05/01/2012 và biên bản kê biên, xử
lý tài sản ngày 11/01/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện và hủy yêu cầu
tuyên vô hiệu Hợp đồng bán đấu giá tài sản số: 28/2012/HĐLQ ngày 03/5/2012
giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện với Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc và
07 Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số từ 134/2012/QĐ-DKB đến
140/2012/HD-DKB, ngày 14/6/2012, giữa Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc, Chi
cục thi hành án dân sự huyện với bà Lê Thị Thanh Thủy. Ngoài ra bản án sơ thẩm
còn tuyên về án phí và quyển kháng cáo của các đương sự.
Ngày 22/01/2014, anh Hoàng Đình Thắng và chị Nguyễn Thu Hương có
đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thâm giải quyết các nội dung sau:
1. Đề nghị hủy quyết định kê biên tài sản số 03/QĐ- THA, ngày 05/01/2012
của Chi cục thi hành án dân sự huyện và biên bản kê biên, xử lý tài sản ngày
11/01/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện.
2. Đề nghị hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản đối với 7 loại tài sản của gia
đình anh Thắng mà công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc đã lập với chị Lê Thị Thanh
Thủy.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về nội dung vụ án: Việc kê biên
07 lô đất và tài sản trên đất (anh Thắng, chị Hương đang thế chấp tại Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện) của Chi cục thi hành án dân sự huyện
là đúng quy định của pháp luật theo khoản 1 Điều 90 Luật thi hành án dân sự. Việc
lập họp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản 7 lô đất trên giữa Chi cục thi hành án
dân sự huyện với Công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc không được sự đồng ý của
anh Thắng, chị Hương và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là
trái quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử: Hủy bản án sơ thẩm số
01/2014/DSST, ngày 16/01/2014 của Tòa án nhân dân huyện để giải quyết lại vụ
án theo thủ tục chung.
Bản án phúc thẩm số 08/2014/DSPT ngày10/6/2014 của TAND tỉnh Hòa
Bình đã căn cứ khoản 3 Điều 275 và khoản 1 Điều 277 BLTTDS, chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của các đương sự và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát tỉnh hủy bản
án dân sự sơ thẩm số 01/2014/DSST ngày 16/01/2014 để giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
~ 59 ~
Về nội dung đề nghị hủy quyết định quvết định kê biên tài sản số 03/QĐ-
THA, ngày 05/01/2012 và biên bản kê biên, xử lý tài sản ngày 11/01/2012 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện: Cấp sơ thẩm bác đơn của anh Hoàng Đình Thắng và
chị Nguyễn Thu Hương về nội dung đề nghị hủy quvết định kê biên tài sản số
03/QĐ- THA, ngày 05/01/2012 và biên bản kê biên, xử lý tài sản ngày 11/01/2012
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mai Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, về nội dung đề nghị hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản đối với 7
loại tài sản của gia đình anh Thắng mà công ty cổ phần đấu giá Kinh Bắc đã lập
với chị Lê Thị Thanh Thủy: Tại thời điểm ngày 11/01/2012 (thời điểm kê biên tài
sản); 7 lô đất của anh Thắng, chị Hương là tài sản đang được công ty TNHH một
thành viên Toàn Thắng (đại diện là anh Hoàng Đình Thắng) và anh Nguyễn Nam
Đức thế chấp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện để đảm
bảo cho các khoản vay có tổng trị giá là 3.600.000.000 đồng (tính cả lãi phát sinh
là 3.704.445.555 đồng). Theo hợp đồng tín dụng không ghi số, ngày 28/3/2012
giữa ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện và công ty TNHH một
thành viên Toàn Thắng (đại diện là anh Hoàng Đình Thắng) thì thời hạn thanh toán
hạn mức tín dụng 3.000.000.000 đồng của công ty TNHH một thành viên Toàn
Thắng là 12 tháng kể từ ngày 28/3/2012.
Việc chi cục thi hành án dân sự huyện Mai Châu chưa được sự đồng ý của
cả Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện và anh Hoàng Đình
Thắng, chị Nguyễn Thu Hương đã tiến hành việc bán đấu giá tài sản là không đúng
quy định của pháp luật. Nên kháng cáo của anh Thắng, chị Hương là có căn cứ.
Ngoài ra khi tiến hành giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã không tiến hành điều tra,
lấy lời khai về nội dung Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện và
anh Hoàng Đình Thắng, chị Nguyễn Thu Hương có đồng ý để Chi cục thi hành án
dân sự huyện tiến hành bán toàn bộ hay một phần tài sản (7 lô đất) mà ngân hàng
đang nhận thế chấp cho các khoản nợ chưa đến hạn của anh Thắng, chị Hương là
chưa thực hiện đầy đủ việc chứng minh, thu thập chứng cứ./.
***
Vụ kiện “tranh hợp chia tài sản chung sau ly hôn” giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc Thư, SN 1953.
2. Bị đơn: bà Kiều Thị Hương, SN 1962.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Kiều Thanh Tuấn; Ông
Vũ Văn Khiêm, bà Nguyễn Thị Làn; Ông Quách Văn Hùng.
4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
Ông: Nguyễn Hữu Doan, trợ giúp viên pháp lý nhà nước tỉnh Hòa Bình
* Nội dung vụ kiện và quá trình giải quyết của Tòa án các cấp:
Ông Thư và bà Hương kết hôn năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xã. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng gia đình bà Hương một thời
~ 60 ~
gian thì chuyển ra thuê nhà ở chợ Thanh Nông để làm ăn, buôn bán; tháng 3/2008
mua nhà, đất của vợ chồng ông Vũ Văn Khiêm và bà Nguyễn Thị Làn tại thôn
Quyết Tiến và cùng chuyển về đó sinh sống. Đầu năm 2010, vợ chồng phát sinh
mâu thuẫn và sống ly thân. Ngày 20/5/2010, ông Thư có đơn xin được ly hôn bà
Hương, bà Hương cũng đồng ý ly hôn.
Về con chung: Không có.
Về tài sản: Trước khi ly hôn, ông Thư và bà Hương cùng sinh sống tại ngôi
nhà mái bằng diện tích 47,16m2, bếp, công trình phụ xây trên diện tích đất 2.856m
2
(trong đó có 400m2 đất thổ cư, 2.456m
2 đất vườn), đã được cấp GCNQSDĐ năm
1999 mang tên hộ ông Vũ Văn Khiêm. Các bên đều khai thống nhất là: nhà, đất và
một số cây trồng trên đất do ông Thư mua của vợ chồng ông Khiêm tháng 3/2008
với giá 210.000.000 đồng nhưng chỉ có giấy tờ viết tay không có xác nhận của
chính quyền địa phương; trong quá trình sử dụng, ông Thư và bà Hương đã sửa
chữa công trình phụ, làm sân, chuồng lợn và trồng thêm một số cây keo.
Theo ông Thư: Toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất là tài sản riêng của
ông do ông mua bằng nguồn tiền bán nhà riêng của ông ở Đinh Xuyên, ứng Hòa,
Hà Nội (nhà đất này ông được Tòa án chia từ vụ án ly hôn với vợ cũ của ông) được
240.000.000đ.
Theo bà Hương: Tiền mua nhà do vợ chồng tích cóp được trong quá trình
sống chung. Nay ly hôn bà đề nghị được chia 1/3 tổng giá trị tài sản, trong đó bà
xin được nhận một phần đất đế trồng cây.
Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá cấp sơ thẩm thì tổng giá trị nhà,
đất, công trình, cây trồng trên đất là 449.911.200 đồng (trong đó: giá trị đất ở là
86.000.000 đồng, giá trị đất vườn là 135.080.000 đồng, giá trị các công trình trên
đất là 217.155.363 đồng, giá trị các cây trồng là 11.676.000 đồng)
Ngoài ra, ông Thư và bà Hương còn thống nhất về một số tài sản chung khác
như sau: Khi ở chung với gia đình bà Hương, vợ chồng có đóng góp 12.000.000
đồng vào việc sửa chữa nhà và có công sức trồng và chăm sóc 170 cây keo (được
xác định là 2.000.000 đồng); tiền mặt ông Thư giữ tổng cộng 35.000.000 đồng
(bao gồm tiền bán xe máy và tiền thu hồi nợ).
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Thư còn khai tài sản chung của vợ
chồng là một số con gia súc và gia cầm, bà Hương còn khai tài sản chung của vợ
chồng là một số tiền đã đưa cho ông Thư và cho người khác vay, nhưng cả ông
Thư và bà Hương không có chứng cứ chứng minh về những yêu cầu này nên đã đề
nghị Tòa án không xem xét, giải quyết.
Anh Kiều Thanh Tuấn (con riêng của bà Hương) khai: Trong quá trình ông
Thư và bà Hương sống cùng với bà ngoại và anh, hai người có đóng góp công sức
vào khối tài sản chung của bà ngoại anh mà hiện nay anh đang quản lý sử dụng.
Anh đồng ý trích chia công sức cho ông Thư và bà Hương trong khối tài sản này.
~ 61 ~
Tại Bản án sơ thẩm số 4/2010/DSST ngày 19/11/2010, Tòa án nhân dân
huyện đã quyết định: Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa
ông Thư và bà Hương
- Về tài sản:
+ Chia cho ông Thư được sử dụng: 400m2 đất thổ cư, 1.456m
2 đất trồng cây
(có ghi tứ cận) cùng toàn bộ các công trình và cây trồng trên đất được chia; tiền
mặt ông Thư giữ 35.000.000 đồng; tiền anh Tuấn trả công trồng cây keo 1.000.000
đồng. Tổng giá trị tài sản ông Thư được sử dụng cùng tiền mặt là 428.911.700
đồng. Ông Thư có trách nhiệm thanh toán cho bà Hương số tiền chênh lệch tài sản
là 96.637.200 đồng.
+ Chia cho bà Hương được sử dụng: 1.000.000 m2 đất trồng cây lâu năm (có
ghi tứ cận) và 400 cây keo trên đất, tổng cộng là 57.000.000 đồng; phần công trình
sửa chữa nhà bà Hương 12.000.000 đồng; tiền anh Tuấn trả công trồng cây keo
1.000.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản bà Hương được sử dụng là 70.000.000
đồng. Bà Hương được ông Thư thanh toán tiền chênh lệch tài sản là 96.637.200
đồng.
+ Anh Tuấn được hưởng 170 cây keo đang trồng trên đất đi mượn của bà
ngoại và phải trả cho ông Thư, bà Hương mỗi người l.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm thi hành án và
quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 23/11/2010, ông Thư có đơn kháng cáo về phần tài sản.
Tại Bản án phúc thẩm số 03/2011/ HNGĐ-PT ngày 28/3/2011, Tòa án nhân
dân tỉnh Hòa Bình đã quyết định: Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm nói
trên.
Ngày 18/4/2011 và ngày 03/12/2012 ông Thư có đơn khiếu nại giám đốc
thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 55/2014/KN-DS ngày 28 tháng 02 năm 2014
của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao đã kháng nghị đối với Bản án hôn nhân gia
đình phúc thẩm số 03/2011/HNGĐ-PT ngày 28/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh
Hòa Bình về phần tài sản. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử
giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số
03/2011/HNGĐ-PT ngày 28/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh Hòa Bình và Bản án
sơ thẩm số 4/2010/DSST ngày 19/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện về phần tài
sản; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện xét xử sơ thẩm lại theo quy định
của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thấm chấp nhận kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc
thẩm số 03/2011/HNGĐ-PT ngàỵ 28/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh Hòa Bình
và Bản án sơ thẩm số 4/2010/DSST ngày 19/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện
về phần tài sản đối với vụ án “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Khắc
~ 62 ~
Thư với bị đơn là bà Kiều Thị Hương và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm:
Do cán bộ địa chính cấp xã, cấp huyện xác định sai hướng của thửa đất có
diện tích 2.865m2 thuộc thửa số 23 tờ bản đồ số 01 tại thôn Quyết Tiến, nên khi
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phân chia 2.865m2 đất cho bà
Hương, ông Thư thì diện đất 1.000 m2 bà Hương được chia trong bản án nằm ngoài
diện tích đất 2.865m2 nêu trên, nên Bản án phúc thẩm số 03/2011/HNGĐ-PT ngày
28/3/2011 của Toà án nhân dân tỉnh không thi hành được.
Mặt khác, diện tích đất thực tế mà hộ gia đình ông Thư đang quản lý sử
dụng là 6.432m2, trong đó có 2.865m
2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do vậy, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác minh, làm rõ diện tích đất thực
tế của gia đình ông Thư là bao nhiêu, phần diện tích đất không được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có tranh chấp và nằm trong quy hoạch hay không
để xem xét, giải quyết trong cùng vụ án./.
***
Vụ kiện tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản trên đất có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện và kháng cáo của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Chanh, sinh năm 1970.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Đàm Thị Hưong.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 1983.
Nguời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Bình Dương.
2. Anh Hoàng Văn Thành.
3. Chị Trịnh Thị Thảo, sinh năm 1968.
4. Chị Trịnh Thị Thắm (người đại diện theo ủy quyền của chị Thắm: Anh
Hoàng Văn Đồng, sinh năm 1965).
5. Anh Bùi Văn Hợi, sinh năm 1966 (người đại diện theo ủy quyền của
anh Hợi: Anh Nguyễn Văn Trịnh, sinh năm 1982).
6. Công ty TNHH một thành viên Cao Phong (người đại diện theo pháp
luật: Ồng Nguyễn Văn Ánh. Chức vụ Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền:
ông Nguyễn Khắc Ân. Chức vụ: trưởng Phòng Kế hoạch).
7. Ông Nguyễn Mạnh Tùng.
8. Bà Dương Ngọc Mùi.
9. Bà Nguyễn Thị Hồi.
~ 63 ~
Theo án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Chanh trình bày: Chị Chanh và anh Hợi đăng
ký kết hôn năm 1994. Năm 2009 anh chị mua 3.300 m2 đất vườn của hộ ông Trần
Quang Cảnh giá tiền là 155.000.000 đồng. Năm 2010 anh chị mua 3.300 m2 đất
vườn của bà Trần Thị Thanh Thúy giá tiền là 185.000.000 đồng. Hai mảnh vườn
này khi mua vườn đã có cây cam trồng được 4 năm, anh chị đã làm thủ tục giao
khoán với Công ty TNHH một thành viên Cao Phong, đứng tên anh Bùi Văn Hợi
theo Hợp đồng số 61/2004 ngày 16/3/2009 và Hợp đồng số 62/2004 ngày
18/01/2010. Ngoài ra anh chị còn mua 03 mảnh đất của hộ ông Nguyễn Mạnh
Tùng giá tiền 19.000.000 đồng, hộ bà Dương Ngọc Mùi giá tiền 27.000.000 đồng,
hộ bà Nguyễn Thị Hồi giá tiền 120.000.000 đồng, tổng diện tích là 11.839,9 m2,
nguồn gốc đất khai hoang, khi mua 3 mảnh vườn trên anh chị nhổ hết cây cam cũ
và trồng lại cây cam mới.
Cuối năm 2012 chị Chanh mới biết ngày 23/9/2012 anh Hợi tự ý chuyển
nhượng cho chị Hạnh 05 vườn cam trên. Chị Chanh đã nhiều lần đề nghị UBND
thị trấn giải quyết, sau nhiều lần hòa giải không thành, chị Chanh khởi kiện tại Tòa
án nhân dân huyện Cao Phong đề nghị: Hủy Hợp đồng mua bán chuyển nhượng
vườn cam giữa anh Hợi và chị Hạnh ngày 23/9/2012. Buộc chị Hạnh trả Chị
Chanh 11.839,9m đất và 02 thửa đất giao khoán với Công ty TNHH một thành
viên Cao Phong. Buộc chị Hạnh trả chị Chanh sản lượng cam không thu hoạch
được từ 23/9/2011 đến 13/9/2013 số tiền 1,5 tỷ đồng.
Bị đơn chị Nguyễn Thị Hạnh trình bày:
Ngày 23/9/2012 chị Hạnh ký kết hợp đồng mua 05 vườn cam với anh Bùi
Văn Hợi, đã giao 2 tỷ đồng cho anh Hợi còn anh Hợi giao chị Hạnh: 02 Hợp đồng
giao khoán và 03 giấy chuyển nhượng 3 thửa đất. Sau khi mua đất do cam xấu nên
chị Hạnh nhổ cam đi đầu tư trồng lại. Sau khi ký kết hợp đồng chị Hạnh đến Công
ty TNHH một thành viên Cao Phong để làm thủ tục chuyển đổi hợp đồng giao
khoán thì mới biết anh Hợi đã lừa Công ty lấy bản Hợp đồng giao khoán (bản lưu)
của Công ty để bán cho chị Hạnh, hiện nay Công ty không còn bản lưu Hợp đồng
giao nhận khoán giữa anh Hợi và Công ty, do vậy chị Hạnh không chuyển nhượng
được Hợp đồng. Chị Hạnh yêu cầu anh Hợi trả lại bản Hợp đồng, anh Hợi trình
bày 02 hợp đồng gốc anh đang cầm cố chưa lấy được về, khi nào lấy được sẽ trả lại
02 bản hợp đồng gốc cho chị Hạnh và trả Công ty hai bản lưu. Chị Chanh khởi
kiện đề nghị hủy Hợp đồng chuyển nhượng mua bán vườn cây giữa anh Hợi và
chị, chị Hạnh không đồng ý hủy Hợp đồng vì: Sau khi giao kết họp đồng ngày
28/9/2012 chị Chanh cùng một số người làm chứng có đến vườn dọn đồ đạc, vì
vậy chị Chanh phải biết việc ký kết Hợp đồng. Việc ký kết họp đồng và giao nhận
tiền có người làm chứng. 02 Hợp đồng giao khoán với Công ty Cao Phong, người
ký Họp đồng là anh Hợi, chị Chanh chỉ là người thừa kế. Chị Chanh không có hộ
khẩu tại địa phương vì vậy chị Chanh không được mua đất tại địa phương, chỉ có
anh Hợi đứng ra mua, vì vậy chị Chanh không phải là đồng sở hữu. Sau khi giao
kết họp đồng với anh Hợi, hàng năm chị Hạnh nộp sản lượng cho Công ty. Đề nghị
~ 64 ~
tòa triệu tập người làm chứng: Bùi Văn Thắng, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Mạnh
Tùng.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía bị đơn gồm: anh Nguyễn
Bình Dương, anh Hoàng Văn Thành, chị Trịnh Thị Thảo, chị Trịnh Thị Thắm trình
bày: Anh Dương, Anh Thành, chị Thảo, chị Thắm mỗi người góp với chị Hạnh
400.000.000 đồng để mua vườn cam của anh Hợi trị giá 2 tỷ đồng, Anh Dương,
Anh Thành, chị Thảo, chị Thắm là đồng sở hữu vườn cam và ủy quyền toàn bộ cho
chị Hạnh tham gia tố tụng giải quyết theo yêu cầu khởi kiện của chị Chanh.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Bùi Vãn Hợi trình bày: Anh
nhất trí như lời trình bày của chị Chanh. 05 mảnh vườn chuyến nhượng cho chị
Hạnh là tài sản chung của chị Chanh, anh Hợi. Sau khi anh Hợi chuyển nhượng
cho chị Hạnh khoảng 02 tháng anh Hợi mới nói cho chị Chanh biết, số tiền 2 tỷ
đồng nhận chuyển nhượng vườn cam từ chị Hạnh, anh Hợi đã chi tiêu cá nhân hết.
Nay chị Chanh khởi kiện yêu cầu chị Hạnh trả lại 05 vườn cam anh Hợi đồng ý trả
lại chị Hạnh số tiền 2 tỷ đồng đã nhận để vợ chồng anh Hợi tiếp tục sử dụng vườn
cam.
Người cỏ quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - công ty TNHH một thành viên
Cao Phong trình bày:
Toàn bộ diện tích đất hộ anh Hợi đang nhận khoán, sử dụng tại thửa 11, 13
tờ bản đồ 18 (bản đồ của công ty rau quả nông sản Cao Phong) có tổng diện tích là
15.260,7m2 thuộc đất do Công ty TNHH MTV Cao phong quản lý, trong đó giao
khoán 6.600 m2 cho ông Hợi, phần còn lại Công ty chưa giao khoán. Anh Hợi tự ý
chuyển nhượng 02 Hợp đồng giao khoán là trái với quy định của Công ty. Công ty
chưa nhận được thủ tục giấy tờ liên quan đến việc chuyển nhượng theo đúng quy
định của Công ty. Năm 2012, 2013 bà Thắm, bà Thảo nộp sản cho công ty theo hai
Họp đồng số 61, 62 đứng tên ông Hợi.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Mạnh Tùng, bà Dương
Ngọc Mùi, bà Nguyễn Thị Hồi: xác nhận có chuyển nhượng vườn cam cho anh
Hợi như lời khai anh Hợi trình bày, khi chuyển nhượng có cây cam trên đất, việc
chuyển nhượng chỉ có anh Hợi ký kết và không có ý kiến về việc đã bán vườn cam
cho anh Hợi.
Bản án sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 15/4/2015 Toà án nhân dân huyện
quyết định:
Áp dụng: Điều 25; 33 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 127, Điều 136, Điều 137,
khoản 2 Điều 223, Điều 428, khoản 2 Điều 689, Điều 691, Điều 694 Bộ luật dân sự
năm 2005; Điều 127 Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi bổ sung năm 2009;
Khoản 1,3 Điều 131 của BLTTDS; khoản 3 điều 14, khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh án
phí, lệ phí Tòa án ngày 27 tháng 02 năm 2009 của UBTV Quốc hội, Nghị quyết
01/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 13/6/2012; Điều
24 Nghị định 75/NĐ - CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và mua bán tài sản của anh Bùi Văn Hợi và chị Nguyễn Thị Hạnh.
~ 65 ~
- Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua bán tài sản
giữa anh Bùi Văn Hợi và chị Nguyễn Thị Hạnh ngày 23/09/2012 là hợp đồng vô
hiệu toàn bộ.
- Buộc chị Nguyễn Thị Hạnh, anh Nguyễn Bình Dương, anh Hoàng Văn
Thành, chị Trịnh Thị Thảo, chị Trịnh Thị Thắm trả lại cho các đồng sở hữu là anh
Bùi Văn Hợi, chị Nguyễn Thị Chanh toàn bộ diện tích đất với tổng diện tích là
15.260,7m2 và toàn bộ tài sản trên đất. Trong đó: đất trong Hợp đồng 61, 62 thuê
khoán của Công ty TNHH một thành viên Cao Phong là 6.600m2, đứng tên anh
Bùi Văn Hợi và đất ngoài hợp đồng là 8.660,7m2 (thuộc tờ bản đồ số bản đồ sổ 18
do Công ty TNHH một thành viên Cao Phong quản lý) và toàn bộ tài sản ngay sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Cụ thể tài sản trên đất gồm:Cam canh 116 cây; Cam lòng vàng 128 cây;
Cam trong lô 27(Họp đồng 61) 166 cây; cam ngoài họp đồng lô 27 56 cây; Chanh
ngoài hợp đồng lô 27: 62 cây; Chanh 1 tuổi 143 cây, Na 5 cây, Lộc vừng 6 cây,
Cây sang 2 cây, Cây sung 1 cây, Cây quế 1 cây, Cây đa 1 cây, Hoa sữa 1 cây, Cây
cau 6 cây, Cây hoa trà 1 cây, Cây lúc lắc 1 cây, Cây xanh 3 cây, Cây móc 3 cây.
- 01 Nhà lợp ngói 55 m2; 01 Nhà kho 1 tầng cấp 4=16 m2, xây gạch lợp mái
Pro; 01 giếng sâu 30 m.
- 01 bể tường 5cm đáy gạch, trát 2 mặt + đáy, không nắp, không vách ngăn,
Bề 2 tường l0 cm đáy gạch, trát 2 mặt + đáy, không nắp, không vách ngăn. Bể 3
tường 5cm đáy gạch lcm, trát 2 mặt + đáy, không nắp. Bể 4 tường l0 cm, đáy gạch
lcm, trát 2 mặt + đáy, không nắp, không vách ngăn.
- Đường dây diện khoảng 200m và cột.
Tạm giao cho chị Nguyễn Thị Chanh và anh Bùi Văn Hợi quản lý sử dụng
đất ngoài hợp đồng có diện tích là 8.660,7m2 (theo công văn số 49/CV-CT ngày 02
tháng 03 năm 2015 của Công ty TNHH MTV Cao Phong và công văn sổ 79/CV-
VPĐKQSDĐ ngày 30 thảng 01 năm 2015 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất huyện diện tích đất 8.660,7m2 là do Công ty TNHH một thành viên Cao Phong
đang quản lý).
Toàn bộ diện tích đất 15.260,7m2 có các mặt tiếp giáp là: Phía bắc tiếp giáp
đường lô đi vào khu vực sản xuất; Phía đông tiếp giáp thửa đất số 14 do hộ ông
Phạm Văn Quý nhận khoán trồng cam; Phía nam tiếp giáp thửa đất số 22 và thửa
số 19 do hộ ông Nguyễn Đạo Bình và hộ ông Nguyễn Văn Cường nhận khoán;
Phía tây tiếp giáp đường lô cụt đi vào khu đất nhận khoán của anh Hợi.
Buộc chị Nguyễn Thị Hạnh, anh Nguyễn Bình Dương, anh Hoàng Văn
Thành, chị Trịnh Thị Thảo, chị Trịnh Thị Thắm trả lại cho anh Bùi Văn Hợi và chị
Nguyễn Thị Chanh hai Hợp đồng số 61, 62 thuê khoán của Công ty TNHH một
thành viên Cao Phong.
Buộc anh Bùi Văn Hợi phải hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hạnh, anh Nguyễn
Bình Dương, anh Hoàng Văn Thành, chị Trịnh Thị Thảo, chị Trịnh Thị Thắm số
~ 66 ~
tiền đã nhận 2.000.000.000đ + 1.368.984.932đ = 3.368.984.932đ (Ba tỷ, ba trăm
sáu mươi tám triệu, chín trăm tám mươi bốn nghìn, chỉn trăm ba hai đồng)
Cụ thể : Anh Bùi Văn Hợi phải hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hạnh
673.796.986 đồng, anh Nguyễn Bình Dương 673.796.986 đồng, anh Hoàng Văn
Thành 673.796.986 đồng, chị Trịnh Thị Thảo 673.796.986 đồng, chị Trịnh Thị
Thắm 673.796.986 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Chanh đòi bồi thường tiền
sản lượng cam đối với chị Nguyễn Thị Hạnh.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Chanh phải chịu 200.000đ án phí dân sự sơ
thẩm và 57.000.000đ án phí có giá ngạch đối với yêu cầu chị Hạnh bồi thường do
Tòa án không chấp nhận, tổng cộng án phí chị Chanh phải nộp là: 57.200.000đ
(Năm mươi bảy triệu hai trăm nghìn đồng), được trừ 19.067.000đ (Tiền được miễn
án phỉ), còn phải nộp 38.133.000đ, đã nộp 25.000.000đ theo biên lai số 03188
ngày 13/3/2014 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Phong, còn phải nộp
tiếp 13.133,000đ (Mười ba triệu một trăm ba mươi ba nghìn)
Anh Bùi Văn Hợi phải chịu 99.379.698đ (Chín mươi chín triệu, ba trăm bảy
mươi chín nghìn, sáu trăm chín tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Chị Nguyễn Thị Hạnh, anh Nguyễn Bình Dương, anh Hoàng Văn Thành, chị
Trịnh Thị Thảo, chị Trịnh Thị Thắm mỗi người phải chịu 4.222.462đ (Bổn triệu
hai trăm hai mươi hai nghìn bổn trăm sáu hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất chậm trả và quyền kháng cáo
cho các đương sự
Quyết định kháng nghị số 01/QĐ- KNPT ngày 24/4/2015 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện: Đề nghị hủy bán án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 15/4/2015
của Tòa án nhân dân huyện, vì các lý do: Ngày 29/9/2014 Tòa án cấp sơ thẩm
không thẩm định sản lượng cam nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu của chị Chanh về khoản mất thu nhập 1,5 tỷ đồng đã làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của chị Chanh. Việc thu thập chứng cứ không đúng quy định. Án sơ
thẩm xét về lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu là do anh Hợi và chị Hạnh gây ra; hội
đồng xét xử nhận định lỗi 80% thuộc anh Hợi; 20% thuộc chị Hạnh là không khách
quan, toàn diện chính xác cần xem xét đánh giá lỗi của anh Hợi và chị Hạnh là
ngang bằng nhau và phải chia tỷ lệ lỗi là 50/50.
Ngày 27/4/2015 anh Bùi Văn Hợi kháng cáo không đồng ý chia lỗi tỷ lệ
20/80 như án sơ thẩm đã tuyên.
Ngày 27/4/2015 chị Nguyễn Thị Chanh kháng cáo yêu cầu chị Hạnh và các
đồng sở hữu bồi thường cho chị Chanh số tiền mất thu nhập 1,5 tỷ đồng.
Ngày 25/4/2015 chị Hạnh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không công
nhận kết quả định giá tài sản và đề nghị hủy bản án sơ thấm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự: anh Hợi giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo. chị Hạnh giữ nguyên nội dung kháng cáo bổ sung đề nghị xem xét khoản tiền
~ 67 ~
đầu tư vào vườn cam từ tháng 9/2012 đến khi xét xử phúc thẩm. Đại diện theo ủy
quyền của Chị Chanh rút toàn bộ kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh rút một phần Quyết định kháng nghị,
cụ thể: rút nội dung kháng nghị về xem xét khoản mất thu nhập của chị Chanh;
thiếu sót về thu thập đánh giá chứng cứ; giữ nguyên nội dung kháng nghị về cách
tính lỗi của các bên dẫn tới hợp đồng vô hiệu và bồi thường khi giải quyết hậu quả
hợp đồng vô hiệu.
Bản án phúc thẩm số 18/2015/DSPT ngày 25/9/2015 của tòa phúc thẩm
quyết định: Chấp nhận một phần kháng nghị số 01/QĐKNPT ngày 24/4/2015 của
Viện kiểm sát nhân dân huyện và kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan anh Bùi văn Hợi. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 01 ngày 15/4/2015 của Tòa
án nhân dân cấp sơ thẩm. Cụ thể:
Áp dụng: Điều 25; 33 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 127, Điều 136, Điều 137,
khoản 2 Điều 223, Điều 428, khoản 2 Điều 689, Điều 691, Điều 694 Bộ luật dân sự
năm 2005; Điều 127 Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi bổ sung năm 2009;
Khoản 1, 3 Điều 131 của BLTTDS; khoản 3 điều 14, khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh
án phí, lệ phí Tòa án ngày 27 tháng 02 năm 2009 của UBTV Quốc hội, xử:
Chấp nhận yêu cầu xin huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
mua bán tài sản giữa anh Bùi Văn Hợi và chị Nguyễn Thị Hạnh của chị Nguyễn
Thị Chanh.
Tuyên bố giao dịch dân sự chuyển nhượng vườn cam giữa anh Bùi Văn Hợi
và chị Nguyễn Thị Hạnh ngày 23/09/2012 vô hiệu toàn bộ. Buộc chị Nguyễn Thị
Hạnh, (anh Nguyễn Bình Dương, anh Hoàng Văn Thành, chị Trịnh Thị Thảo, chị
Trịnh Thị Thắm) trả lại cho anh Bùi Văn Hợi, chị Nguyễn Thị Chanh, tổng diện
tích đất là 15.260,7m2 và toàn bộ tài sản trên đất. Tạm giao cho chị Nguyễn Thị
Chanh và anh Bùi Văn Hợi quản lý sử dụng đất ngoài hợp đồng có diện tích là
8.660,7m2 (theo công văn số 49/CV-CT ngày 02 tháng
Buộc chị Nguyễn Thị Hạnh trả lại cho anh Bùi Văn Hợi và chị Nguyễn Thị
Chanh hai Hợp đồng số 61, 62 thuê khoán của Công ty TNHH một thành viên Cao
Phong. Buộc anh Bùi Văn Hợi phải hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Hạnh, số tiền đã
nhận 2.000.000.000 đồng + 1.062.738.670. đồng. Tổng cộng anh Hợi trả chị Hạnh
3.062.738.670 đồng.
Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm
Xét kháng nghị của VKSND huyện và kháng cáo của anh Hợi về lỗi của các
bên dẫn tới Hợp đồng vô hiệu, hội đồng xét xử nhận thấy: Vườn cam là tài sản
chung của vợ chồng, anh Hợi tự ý chuyến nhượng không có sự thỏa thuận của chị
Chanh ; Phía chị Hạnh khi nhận chuyến nhượng vườn cam của anh Hợi biết chị
Chanh, anh Hợi là vợ chồng không có ủy quyền hoặc chữ ký của chị Chanh vợ anh
Hợi nhưng vẫn giao kết là cả hai bên đều có lỗi, tuy nhiên phía anh Hợi mang tài
sản chung của vợ chồng đi chuyển nhượng khi không bàn bạc, thỏa thuận với chị
Chanh. Án sơ thẩm xác định anh Hợi chịu phần lỗi nhiều hơn chị Hạnh là có căn
cứ; Hợp đồng sau khi ký kết không công chứng và xác nhận đồng ý bằng văn bản
~ 68 ~
của công ty TNHH một thành viên Cao Phong dẫn đến hợp đồng vô hiệu là do lỗi
của cả anh Hợi, chị Hạnh, tỷ lệ lỗi của hai bên ngang bằng nhau nên mỗi bên phải
chịu thiệt hại tương ứng phần lỗi khi giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu. Án sơ
thẩm buộc anh Hợi chịu 80% lỗi, chị Hạnh chịu 20% là chưa đúng với thực tế
khách quan. Trong vụ án này cần xác định phía anh Hợi chịu tỷ lệ lỗi 60%, chị
Hạnh chịu phần lỗi 40% dẫn đến hợp đồng vô hiệu là tương ứng với mức độ lỗi
của các bên nên có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của anh Hợi và kháng
nghị của VKSND huyện.
Theo kết quả định giá của hội đồng định giá tài sản huyện Cao phong kết
luận thì toàn bộ vườn cam có giá trị là 3.771.231.166 đồng; Anh Hợi có nghĩa vụ
thanh toán trả chị Hạnh 2 tỷ đồng là số tiền anh Hợi nhận khi chuyển nhượng vườn
cam cho chị Hạnh. Số tiền chênh lệch 1.771.231.166 đồng anh Hợi có nghĩa vụ
thanh toán trả chị Hạnh tương ứng tỷ lệ 60% lỗi = 1,062.738.670 đồng, tổng cộng
anh Hợi trả chị Hạnh 3.062.738.670 đồng.
Án sơ thẩm còn có thiếu sót: Họp đồng mua bán vườn cam được giao kết
giữa anh Hợi, chị Hạnh nhưng án sơ thẩm lại tuyên buộc anh Hợi phải thanh toán
trả tiền bồi thường do hợp đồng vô hiệu cho cả anh Dương, anh Thành, chị Thắm,
chị Thảo là chưa đúng. Việc thanh toán trả cho những người có quyền lợi liên quan
phía bị đơn thuộc trách nhiệm của chị Hạnh với anh Dương, anh Thành, chị Thắm,
chị Thảo./.
***
Vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
giữa:
- Nguyên đơn: ông Phạm Huy Nam, sinh năm 1962
- Bị đơn: Ông Bùi Văn Chính, SN 1963. Bà Bùi Thị Huơng, SN: 1971.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn: Ông Lỗ Hữu Thạch
- Luật sư, Văn phòng luật sư Lỗ Hữu Thạch thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Xuân, SN 1961.
- Người làm chứng:
1. Bà Bùi Thị Thanh Hà - Cán bộ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
huyện.
2. Ông Bùi Văn Vân - Cán bộ địa chính xã.
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm
Nguyên đơn ông Phạm Huy Nam trình bày: Gia đình ông Phạm Huy Nam,
bà Lê Thị Xuân và gia đình ông Bùi Văn Chính và bà Bùi Thị Hương có mối quan
hệ quen biết làm ăn kinh doanh với nhau từ năm 2008.
~ 69 ~
Năm 2010 do vợ chồng ông Chính, bà Hương vay Ngân hàng NN&PTNT
huyện số tiền là 500.000.000 đồng, tháng 9/2013 đến hạn trả mà không trả được.
Ông Chính hỏi vay ông Nam khoản tiền trên. Do trước đó ông Chính đã vay tiền
của ông Nam và còn nợ 258.000.000 đồng nên ông Nam không cho vay thêm nữa.
Vì vậy, vợ chồng ông Chính, bà Hương đã thống nhất với nhau chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của vợ chồng cho ông Nam để lấy
khoản tiền 500.000.000 đồng trả cho Ngân hàng. Ông Nam đồng ý mua. Hai bên
đã tự nguyện ký kết hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 29/8/2013 tại gia đình ông
Chính, với nội dung gia đình ông Chính chuyển nhượng cho ông Nam 2.200 m2
đất; trong đó có 400 m2 đất ở và 1.800 m
2 đất vườn cùng toàn bộ tài sản gắn liền
với đất cho ông Nam với giá chuyển nhượng tổng là 500.000.000 đồng. Ông Nam
có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục và nghĩa vụ thuế chuyển nhượng. Ồng Nam
cầm theo số tiền 500.000.000 đồng và cùng ông Chính đến Chi nhánh ngân hàng
NN&PTNT huyện để trả số nợ cho ông Chính, ông Chính giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của gia đình mình cho ông Nam tại trụ sở Phòng giao dịch. Ông
Nam hoàn tất mọi thủ tục mua bán, ngày 30/9/2013 ông Nam có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên, mang tên ông Phạm Huy Nam,
theo đó tổng diện tích đất đo thực tế và ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là 2.349,1 m2, trong đó đất ở là 400m
2, đất vườn là 1.949,1 m
2. Ông Nam đồng
ý cho ông Chính ở nhờ qua tết âm lịch năm 2014, hết thời hạn đã nêu nhưng ông
Chính vẫn không chuyển giao đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Nam.
Vì vậy, ông Phạm Huy Nam khởi kiện yêu cầu ông Chính, bà Hương thực
hiện đúng hợp đồng chuyển nhượng và chuyển giao lại toàn bộ diện tích đất và tài
sản gắn liền với đất cho ông Nam.
Bị đơn trình bày: Vợ chồng ông Chính xác nhận 2 gia đình có mối quan hệ
như ông Nam khai là đúng, đồng thời trình bày thêm: tháng 9/2013 vợ chồng ông
Chính bà Hương vay ông Nam khoản tiền 500.000.000 đồng để trả ngân hàng. Ông
Nam đồng ý (không có giấy biên nhận nợ) và ngày 03/9/2013 ông Nam mang theo
số tiền 500.000.000 đồng và cùng ông Chính đến ngân hàng trả nợ, ông Chính giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình mình cho ông Nam ngay tại trụ sở
Phòng giao dịch với mục đích đưa để ông Nam cầm làm tin cho hai khoản vay
trên. Vào cuối năm 2013 ông Nam còn cho gia đình ông Chính vay thêm
200.000.000 đồng, do vậy vợ chồng ông Chính, bà Hương vay của ông Nam tổng
số tiền 01 tỷ đồng chưa tính lãi.
Sau khi cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Chính vì
ông Nam thấy thửa đất đang ở thực tế của gia đình ông Chính là 22m theo chiều
mặt đường QL6 nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ thể hiện có
20m nên ông Nam nói với vợ chồng ông Chính để ông Nam làm lại giấy chứng
nhận cho đúng đất thực tế, mọi thủ tục ông Nam lo. Ông Chính, bà Hương do hoàn
toàn tin tưởng nên để ông Nam làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và đưa cả giấy chứng minh thư của vợ chồng cho ông Nam; ký vào các giấy tờ
do ông Nam đưa cho mà không xem xét kỹ nội dung, mẫu giấy tờ gì, khi ông Nam
có đơn khởi kiện đến tòa án thì vợ chồng ông Chính mới biết là nội dung không
phải như thống nhất giữa hai bên. Do vậy ông Chính, bà Hương không công nhận
~ 70 ~
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản cho ông Nam, không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Huy Nam.
Luật sư Lỗ Hữu Thạch bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình
bày: Việc giao dịch giữa ông Chính và ông Nam, bà Hương thực chất là quan hệ
vay tiền 500.000.000 đồng, không có Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất như ông Nam đã trình bày. Lời chứng của ông chủ tịch
UBND xã ngày 04/9/2013 vào hợp đồng khi không có mặt ông Chính bà Hương là
vi phạm về mặt hình thức của hợp đồng, hợp đồng cũng chưa thể hiện ý chí của
con trai ông Chính, bà Hương là Bùi Văn Kiên sinh năm 1996. Do vậy đề nghị Tòa
án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Xuân trình bày: Sự việc
ông Nam đứng tên thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất, ông Nam có bàn bạc với bà Xuân và dùng tiền của gia đình để
mua là tài sản chung của vợ chồng, bà Xuân yêu cầu ông Bùi Văn Chính, bà Bùi
Thị Hương thực hiện nghĩa vụ chuyển giao đất và và tài sản gắn liền với đất theo
hợp đồng hai bên đã ký kết.
Kết quả định giá của Hội đồng định giá ngày 17/6/2015: toàn bộ giá trị
quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất tranh chấp giữa ông Bùi Văn
Chính, bà Bùi Thị Hương với ông Phạm Huy Nam là 1.266.122.242 đồng. Trong
đó: Giá trị quyền sử dụng đất là: 465.946.000 đồng. Tài sản trên đất giá là:
800.176.242 đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2015/DSST ngày 28/10/2015 của Tòa án nhân
dân huyện, quyết định: Áp dụng Điều 439, 697; khoản 1 Điều 699; điều 702 Bộ
luật dân sự; Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Huy Nam:
Buộc ông Bùi Văn Chính, bà Bùi Thị Hương chuyển giao cho ông Phạm
Huy Nam toàn bộ diện tích đất 2.349,1 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BN 478880 được UBND huyện cấp cho ông Phạm Huy Nam ngày 30/9/2013 và
toàn bộ các tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất ngày 04/9/2013 giữa ông Bùi Văn Chính, bà Bùi Thị
Hương với ông Phạm Huy Nam.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, điều kiện thi hành án và thông báo
quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 05/11/2015 bị đơn ông Bùi Văn Chính kháng cáo với nội dung đề nghị
Tòa án tỉnh Hòa bình xem xét hủy hợp đồng mua bán nhà và đất giữa ông Nam và
vợ chồng ông, thực chất vợ chồng ông nợ tiền ông Nam chứ không bán nhà và đất.
Tại phiên toà phúc thẩm ông Chính giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không
cung cấp thêm tài liệu chứng cứ gì.
Trước phiên tòa phúc thẩm, luật sư Lỗ Hữu Thạch có ý kiến: Tòa sơ thẩm đã
xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Huy Nam là thiếu căn cứ. Thực
chất của vụ kiện là có sự vay tiền chứ không có việc mua bán nhà và đất. Việc mua
bán nhà và đất có vi phạm về hình thức và nội dung. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
~ 71 ~
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Về
nội dung: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Huy Nam
và vợ chồng ông Bùi Văn Chính, bà Bùi Thị Hương được ký kết là sự thực, song
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã vi phạm
về hình thức và nội dung. Đề nghị: hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân huyện xét xử lại.
Bản án số 06/2016/DS-PT ngày 16/03/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa
Bình đã căn cứ vào khoản 3 điều 275; khoản 1 điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuyên xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2015/DS-ST ngày 28/10/2015 của
Tòa án nhân dân huyện, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện để giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
Những thiếu sót cần rút kinh nghiệm
Về tố tụng: Ngày 24/6/2014 ông Phạm Huy Nam có đơn khỏi kiện yêu cầu
gia đình ông Bùi Văn Chính bà Bùi Thị Hương tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên với đất, bàn giao đất và nhà theo hợp
đồng đã ký (ông Nam đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
30/9/2013). Tòa án nhân dân huyện đã thụ lý và xác định đây là vụ kiện tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và thông
báo ông Nam phải nộp 12.000.000 đồng dự phí án phí là không chính xác. Với yêu
cầu khởi kiện trên của ông Nam, cấp sơ thẩm phải xác định đây là vụ kiện yêu cầu
buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự đã ký kết và chỉ phải nộp dự phí 200.000
đồng.
Khi ông Nam khởi kiện thì phía bị đơn ông Chính, bà Hương không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nam với lý do: không có việc mua bán nhà đất, vợ
chồng ông bà chỉ vay tiền của ông Nam, ông Nam đã lợi dụng sự tin tưởng để lừa
dối chúng tôi. Đề nghị trên của ông Chính, bà Hương là yêu cầu phản tố. Với yêu
cầu phản tố trên Tòa án nhân dân huyện không yêu cầu ông Chính, bà Hương làm
đơn yêu cầu phản tổ và tiến hành thu dự phí án phí là không đảm bảo đúng quy
định tại điều điều 176, điều 178, điều 130 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Yêu cầu kháng cáo của ông Chính, bà Hương cho rằng: Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không đúng với
sự tự nguyện của gia đình ông bà, ông bà nợ vợ chồng ông Chính chứ không bán
nhà và đất, là không có căn cứ để chấp nhận.
Tuy nhiên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất giữa ông Nam và vợ chồng ông Chính, bà Hương giao kết ngày 04/9/2013
và sau đó các bên tiến hành các thủ tục hoàn tất việc chuyển nhượng nhà và đất có
những vi phạm sau:
- Về hình thức hợp đồng: Việc chứng thực hợp đồng có vi phạm, do chỉ có
một bên trực tiếp tham gia.
- Về nội dung của hợp đồng: Ông Chính được nhà nước cấp quyền sử dụng:
2.000m2 đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00239/QSDĐ-TL do UBND
huyện cấp ngày 14/2/2001, nhưng ông Chính, bà Hương lại thỏa thuận bán cho ông
~ 72 ~
Nam 2.200m2 (200m
2 không thuộc quyền sử dụng của mình nhưng lại mang bán)
là vi phạm điều cấm của hợp đồng dân sự. Sau khi hợp đồng được ký kết các bên
tiến hành làm các thủ tục hoàn tất việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật. Nhưng trong quá trình thực hiện
lại phát sinh những bât cập, đó là: Tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa
đất do đại diện UBND xã lập ngày 04/9/2013 thì hiện trạng sử dụng đất tại thửa số
88, 89 tờ bản đồ số 20 của ông Bùi Văn Chính có diện tích 2.200m2. Tại biên bản
thẩm định hồ sơ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất do cán bộ thuộc Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, phòng Tài nquyên môi
trường huyện lập ngày 10/ 9/2013, kết quả thẩm tra: về đất đai: diện tích đất
chuyển nhượng 2.349m2 sự khác biệt về diện tích tại hai văn bản trên và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không có lý giải cụ thể của cơ quan có thẩm quyền
và cũng không có ý kiến của ông Chính, bà Hương. Ngày 30/9/2013 ông Phạm
Huy Nam được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Thửa đất số 116, tờ bản đồ số 20, có
diện tích 2.349m2. Như vậy cho thấy ông Chính, bà Hương được nhà nước cấp
quyền sử dụng 2.000m2 đất, ông Chính bà Hương chuyển nhượng cho ông Nam
2.200m2 đất và khi thẩm định đến khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới
cho ông Nam diện tích đất là 2.349m2. Sự bất cập về diện tích đất chuyển nhượng
giữa hai bên không được phân tích, giải thích làm rõ điều đó, chứng tỏ đã vi phạm
các quy định về luật đất đai, vi phạm nguyên tắc của hợp đồng dân sự. Án sơ thẩm
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
giữa ông Phạm Huy Nam và vợ chồng ông Bùi Văn Chính, bà Bùi Thị Hương là
thiếu căn cứ, không đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra: Trong quá trình tiến hành thẩm định và định giá tài sản tranh chấp
cấp sơ thẩm có thiếu sót khi xác định mốc giới và đo đạc diện tích đất không có
các hộ liền kề tham gia và chứng kiến, khi định giá không bóc tách từng phần cụ
thể như diện tích 2.000m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích
2.200m2 theo thỏa thuận mua bán giữa hai bên, diện tích đất dư dôi (2.349m
2 -
2.200m2) mà gộp chung cả diện tích là 2.349m
2 là không chính xác.
Vụ tranh chấp quyền sử dụng đất:
- Nguyên đơn: ông Lường Văn Sản.
- Bị đơn: ông Hà Văn Yên.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hà Văn Quang
Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm
Ngày 13/4/2015 ông Lường Văn Sản khởi kiện tại TAND huyện đề nghị
giải quyết việc gia đình ông bị gia đình ông Hà Văn Yên lấn chiếm đất lâm nghiệp.
Diện tích lấn khoảng 300m2. Theo ông Sản toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp tại
~ 73 ~
thửa số 112, và đất thổ cư giáp thửa đất số 112, là gia đình ông đổi đất của UBND
xã từ năm 1988. Đến năm 1990 ông Sản cho ông Hà Tiến Sáng dựng 01 ngôi nhà
trên một phần đất lâm nghiệp của ông, ước chừng khoảng 50 – 60m2. Đây là ngôi
nhà ông Sáng cho con trai là Hà Văn Hương và con dâu là Lường Thị Dương ở.
Các cháu ở được một năm thì chuyển đi ở chỗ khác. Năm 1994 ông Hà Tiến Sáng
chuyển nhượng nhà và đất nêu trên cho ông Hà Văn Yên.
Năm 1999 khi Nhà nước có chủ trương đo đất để giao đất, giao rừng và cấp
sổ đỏ, ông Yên đã đo lấn sang đất lâm nghiệp của gia đình ông. Khi biết, ông đã
kịch liệt phản đối, diện tích đất ông Yên đề nghị được cấp là 250m2. Ông đã gửi
đơn đến UBND xã đề nghị được giải quyết đồng thời khiếu nại việc cấp số đỏ cho
ông Yên.
Ngày 16/6/2011 UBND xã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Ngày 01/01/2014 Anh Hà Văn Quang (con trai ông Yên) cho máy xúc lên
san ủi khu đất. ông đã báo cáo chính quyền xóm và xã. Khi cán bộ xóm, xã đến
giải quyết thì ông mới được biết một phần diện tích đất lâm nghiệp tại thửa số 112
của ông đã được UBND huyện cấp sổ đỏ mang tên Hà Văn Quang và vợ là Lường
Thị Khâm (cấp ngày 13/8/2013, diện tích 555m2). Ông khởi kiện đề nghị ông Yên
phải trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm của ông.
Phía bị đơn, ông Hà Văn Yên và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh
Hà Văn Quang không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Sản. Theo ông
Yên và anh Quang thì diện tích đất đó có nguồn gốc gia đình ông đã nhận chuvển
nhượng từ ông Hà Tiến Sáng năm 1994.
Năm 1999 được UBND xã đo đạc (khi đo diện tích là 750m2), và năm 2000
đã được cấp sổ đỏ, diện tích 250m2. Hiện gia đình ông đã làm mất sổ đỏ nhưng
trong bản đồ địa chính vẫn có tên và diện tích đất của gia đình ông. Năm 2013 ông
Yên chuyển nhượng cho con là Quang. Khi đo để cấp sổ, cán bộ địa chính đã đo
toàn bộ diện tích đất thực tế gia đình đang sử dụng. Do đó diện tích tăng lên là
555m2.
Tại bản án sơ thẩm số 02/2015/DSST ngày 29/9/2015 của Tòa án nhân
dân huyện xử:
Áp dụng Điều 165 và điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự xử:
Không chấp nhận đon yêu cầu khởi kiện của ông Lường Văn Sản về việc
tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Hà Văn Yên.
Ngoài ra, quyết định của án sơ thấm còn tuyên về án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 12/10/2015 ông Lường Văn Sản có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung
của bản án sơ thẩm
Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
* Vi phạm về thủ tục tố tụng
Ồng Lường Văn Sản khởi kiện ông Hà Văn Yên và người có quyền lợi
~ 74 ~
nghĩa vụ liên quan anh Hà Văn Quang đề nghị giải quyết việc ông Yên lấn đất. Tòa
án cấp sơ thẩm xác định ông Sản là nguyên đơn, ông Yên là bị đơn, anh Quang là
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng pháp luật. Tại giấy chúng nhận
quyền sử dụng đất do UBND huyện cấp ngày 21/8/2013 ghi rõ: Người sử dụng đất
ông Hà Văn Quang và bà Lường Thị Khâm (Bà Khâm là vợ ông Quang), cấp sơ
thẩm không đưa bà Khâm vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Vi phạm về nội dung giải quyết:
Diện tích đất 555m2 mà anh Quang và chị Khâm hiện đang có giấy chứng
nhận quyền sử dụng nguồn gốc nhận chuyển nhượng từ ông Hà Tiến Sáng năm
1994. Ông Sáng khi còn sống có xác nhận thời điểm năm 1994 ông chuyển nhượng
cho ông Yên 01 ngôi nhà trên diện tích đất khoảng 50 – 60m2. Ông Yên khai năm
2000 ông được cấp sổ đỏ, diện tích 250m2. Tại sổ mục kê luu giữ tại UBND xã và
bản đồ giải thửa, tờ bản đồ 04 thì diện tích hộ ông Yên là 250m2 (thửa 56). Cấp sơ
thẩm chưa làm rõ việc diện tích tăng thêm từ 50m2 lên đến 250m
2 và 555m
2 của hộ
ông Yên, anh Quang, chị Khâm.
Kết quả xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất của
UBND huyện thì ông Hà Văn Yên có tên trong danh sách đề nghị cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất diện tích 250m2 nhung trong sổ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ban hành kèm theo quyết định số 47/QĐ – UBND ngày
02/3/2000 của UBND huyện không có tên ông Hà Văn Yên. Điều này phù hợp với
lời khai của ông Sản khi làm thủ tục cấp đất đã khiếu nại, đất đang có tranh chấp
nên UBND huvện không cấp cho ông Yên. Phù hợp với lời khai của ông Kiều
Khuyên nguyên cán bộ địa chính xã.
Nguyên đơn cung cấp 02 trích lục bản đồ đất lâm nghiệp; 01 trích lục theo
nghị định số 02 và 01 trích lục theo quyết định 672 ngày 25/4/2014 của Thủ tướng
chính phủ. Theo 02 trích lục bản đồ này thì diện tích đất lâm nghiệp thửa số 112
của hộ ông Sản không khớp nhau, có sự thay đổi về diện tích và hình thể. Ông Sản
khai không có việc mua bán thêm, cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ lý do của sự thay
đổi.
Ông Sản khiếu nại suốt quá trình cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Yên nhưng UBND huyện vẫn tiến hành cấp cho ông Yên sau đó cho anh
Quang và vợ đứng tên và ghi đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch là
không chính xác. Do đó cần phải đề nghị UBND huyện trả lời rõ vấn đề này và đề
nghị UBND huyện cung cấp quy hoạch sử dụng đất tại xóm để làm chứng cứ giải
quyết vụ án.
Cần đo đạc, thẩm định toàn bộ diện tích khu đất, đối chiếu với các tờ bản đồ
02; bản đồ 672 và bản đồ giải thửa đất thổ cư, xác minh nguồn gốc đất nhận
chuyển nhượng và chuyển đổi của các bên đưong sự mới có căn cứ vững chắc để
giải quyết vụ án.
Trong giấy CNQSDĐ của ông Sản cấp ngày 10/11/1996 ghi tên ông Lường
Đức Sản. Tên đệm khác tên trong đơn khởi kiện, trong sổ cấp GCNQSDĐ cho các
~ 75 ~
hộ tại xã Tân Pheo ghi tên ông Lương Văn Xẳm, nên cần làm rõ có phải cùng một
người hay không.
***
Vụ yêu cầu hủy hợp đồng vô hiệu:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Hoa, sinh năm 1982
Bị đơn: - Anh Trần Công Binh, sinh năm 1968
- Anh Trần Văn Công, sinh năm 1961
Nội dung vụ kiện, quá trình giải quyết án ở cấp sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên
đơn Nguyễn Thị Kim Hoa trình bày: Chị và anh Trần Công Binh từng là vợ chồng,
trong thời gian hôn nhân còn tồn tại, anh chị có tài sản chung là 6 suất góp vốn
vào chợ rau Nghĩa Phương. Anh Binh đã tự ý chuyển nhượng cho anh Trần Văn
Công mà không bàn bạc với chị. Năm 2011, anh Trần Công Binh làm đơn xin ly
hôn, chị Hoa mới biết việc chuyển nhượng này. Năm 2014, Tòa án đã xử cho anh
Trần Công Binh được ly hôn chị, theo sự tự nguyện của đương sự, Tòa án đã tách
phần tranh chấp 6 ki ốt tại chợ rau Nghĩa Phương ra giải quyết sau. Nay chị Hoa
làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án xử hủy hợp đồng chuyển nhượng ki ốt giữa anh
Trần Văn Công và anh Trần Công Binh. Quá trình giải quyết vụ án, chị Hoa khai:
Năm 2008, chị, anh Binh và gia đình anh Trần Văn Công cùng chung mua quyền
góp vốn đầu tư xây dựng chợ Nghĩa Phương. Sau khi chợ xây xong, tống số là mua
11 ki ốt, chị và anh Binh được chia 6 ki ốt gồm có ki ốt số 20, 83,104, 191, 211,
75. Sau đó chị là người trực tiếp cho các tiểu thương thuê lại bốn ki ốt: 104, 75,
211 và 191, còn ki ốt 20 anh Công đề nghị đổi lấy ki ốt số 22, riêng ki ốt 83 anh
Công đang sử dụng. Một suất góp vốn vào chợ rau Nghĩa Phương là 30.170.000đ.
Chị và anh Binh đưa tiền cho anh Công nộp vào Hợp tác xã để về sau có sổ góp
vốn thì chia, chị và anh Binh đã được chia 6 sổ góp vốn. Chị khẳng định 6 sổ góp
vốn là tài sản chung của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chị
không chấp nhận các hơp đồng mua bán, chuyển nhượng phần góp vốn 3 ki ốt giữa
anh Trần Công Binh và anh Trần Văn Công. Anh Binh và anh Công giả mạo để
hợp thức hóa 03 ki ốt là tài sản của anh Công. Chị Hoa đề nghị hủy hợp đồng
chuyển nhượng 3 ki ốt và trả lại nguyên trạng ki ốt số 20, 83 (kèm theo đơn khởi
kiện chị Hoa xuất trình hai hợp đồng là Họp đồng góp vốn mua suất đầu tư xây
dựng chợ Nghĩa Phương lập ngày 20/6/2010 và hợp đồng chuyển nhượng suất đầu
tư xây dựng chợ Nghĩa Phương lập ngày 01/4/2011).
Bị đơn Trần Công Binh trình bày: Năm 2009, anh và anh Công cùng chung
tiền mua suất xây dựng chợ Nghĩa Phương, mỗi người ba suất, tổng chi phí một
suất khoảng 70 triệu, anh Binh đã đi vay mượn bạn bè đưa cho anh Công 200 triệu,
đưa 4 lần mới đủ góp cho anh Công. Sau khi nhận được 3 suất ki ốt để kinh doanh,
~ 76 ~
anh cũng đã bảo chị Hoa là chung với anh Công ba suất, chị Hoa đã cho thuê 3 suất
ki ốt. Đến tháng 6 năm 2010 giữa anh và anh Công có lập Hợp đồng về việc góp
vốn chung tại chợ rau Nghĩa Phương. Đến tháng 4 năm 2011 anh có thỏa thuận bán
toàn bộ quyền góp vốn cho anh Công, hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng có
công chứng, anh Công đã trả 200 triệu tiền anh và chị Hoa nợ Ngân hàng đầu tư
phát triển tỉnh Hòa Bình, đây chính là khoản tiền anh Công trả phần góp vốn 3 ki
ốt tại chợ rau Nghĩa Phương. Việc chuyển nhượng đã hoàn tất, đây không phải là
tài sản của chị Hoa.
Bị đơn Trần Văn Công trình bày: Năm 2008, anh Binh có đưa tiền để góp
vốn xây dựng chợ rau Nghĩa Phương, cụ thể mỗi người ba suất, lúc mua của xã
viên là hơn 30 triệu/suất, tính hoàn thiện khoảng 70 triệu/1 suất, anh Binh góp 200
triệu đưa cho anh. Năm 2009 được cấp sổ góp vốn, đến tháng 6 năm 2010 tình
hình đầu tư vào chợ rau hoàn thành nên giữa anh và anh Binh có lập Hợp đồng để
xác định rõ chủ sở hữu của các ki ốt. Đến tháng 4 năm 2011, anh Binh có thỏa
thuận bán toàn bộ quyền góp vốn, hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng, có
công chứng nhưng khi đến Hợp tác xã để ghi danh sang tên, hợp tác xã không
đồng ý, đến tháng 8 năm 2011, để có tiền trả nợ Ngân hàng đầu tư phát triển tỉnh
Hòa Bình số tiền gần 200 triệu, anh Binh có thỏa thuận anh sẽ trả tiền cho Ngân
hàng, số tiền này coi như tiền anh mua lại các suất góp vốn chung tại chợ rau
Nghĩa Phuơng. Nay chị Hoa yêu cầu hủy hợp đồng chuyên nhượng anh không nhất
trí.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Hợp tác xã rau Nghĩa Phương
trình bày: Theo quản lý hồ sơ, số sách góp vốn của Hợp tác xã rau Nghĩa Phương
thì ki ốt 20, 83,104, 191, 211, 75 đều mang tên anh Trần Công Binh, không có văn
bản nào liên quan đến việc thỏa thuận góp vốn giữa anh Công và anh Binh. Thời
điểm chị Hoa và anh Binh đang giải quyết ly hôn, chị Hoa có đơn đề nghị hoãn
việc phát tiền lợi nhuận cho anh Binh. Đến ngày 9/3/2013, anh Binh có đơn yêu
cầu rút tiền lợi nhuận, Hợp tác xã báo chị Hoa, chị Hoa nhất trí để anh Binh rút tiền
lợi nhuận. Có việc anh Binh và anh Công đến hợp tác xã yêu cầu xác nhận việc
chuyển nhượng góp vốn nhưng Hợp tác xã đã không xác nhận vì anh Binh và anh
Công không phải là xã viên, 6 ki ốt này là tài sản của Hợp tác xã. Việc chuyến
nhượng giữa anh Binh và anh Công là không hợp pháp, đề nghị Tòa án hủy hợp
đồng chuyển nhượng vốn góp có công chứng của văn phòng công chứng Hưng
Thịnh.
Bản án số 03/2016/DS - ST ngày 29/3/2016 của Tòa án nhân dân cấp sơ
thẩm quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35
Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 37, Điều 45 Luật công chứng. Điều 27, điều 28 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, điều 121, 122, 127, 128, 137 Bộ luật dân sự. Điều
27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vốn
góp giữa anh Trần Công Binh và anh Trần Văn Công lập ngày 01/4/2011, có công
chúng chứng thực tại Văn phòng công chứng Hưng Thịnh vào sổ lưu quyển số
01/CC - HĐGD số 78 là vô hiệu. Mọi điều khoản ghi trong Hợp đồng chuyển
~ 77 ~
nhượng vốn góp không có giá trị pháp lý. Anh Trần Công Binh có nghĩa vụ hoàn
trả cho anh Trần Văn Công số tiền 199.983.713d. Ngoài ra bản án còn tuyên về án
phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 07/4/2016, anh Trần Công Binh kháng cáo, ngày 11/4/2016 anh Trần
Văn Công kháng cáo cùng nội dung không nhất trí bản án dân sự sơ thẩm
Những vi phạm thiếu sót của bản án sơ thẩm
* Vi phạm về thủ tục tố tụng
Chị Hoa khởi kiện cho rằng trong thời gian hôn nhân còn tồn tại chị và anh
Trần Công Binh có tài sản chung là 6 suất góp vốn vào chợ rau Nghĩa Phương.
Anh Binh đã tự ý chuyển nhượng cho anh Trần Văn Công mà không bàn bạc với
chị nên yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng nhượng ki ốt giữa anh Trần Văn
Công và anh Binh. Trong biên bản hòa giải tại cấp sơ thẩm, chị Hoa yêu cầu hủy
hợp đồng chuyển nhượng 3 ki ốt và trả lại nguyên trạng ki ốt số 20, 83. cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu chị Hoa, tuyên hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa
anh Công và anh Binh lập ngày 01/4/2011 là vô hiệu, các bên trả lại nguyên trạng
như ban đầu (6 ki ốt được trả về cho anh Binh, chị Hoa). Tuy nhiên căn cứ lời khai
của anh Công, anh Binh và hợp đồng chuyển nhượng vốn góp lập ngày 01/4/2011
giữa anh Công và anh Binh chỉ thế hiện anh Binh và anh Công chuyến nhượng là
03 suất góp vốn, còn 3 suất là của anh Công mua chung từ trước. Như vậy, cấp sơ
thẩm chưa xác định được phạm vi khởi kiện.
* Vi phạm về nội dung:
Năm 2008, anh Binh và anh Công cùng chung tiền để mua các suất góp vốn
xây dựng tại chợ rau Nghĩa Phương. Năm 2009, 6 suất góp vốn chung tại chợ rau
Nghĩa Phương được cấp sổ, mang tên anh Trần Công Binh. Đến tháng 6 năm 2010,
anh Binh và anh Công lập Hợp đồng về việc góp vốn chung trong đó anh Binh sở
hữu 3 suất góp vốn, anh Công 03 suất góp vốn. Đến tháng 4 năm 2011, anh Binh
có thỏa thuận bán toàn bộ quyền góp vốn chung, hai bên lập hợp đồng chuyển
nhượng tại Văn phòng công chứng Hưng Thịnh. Thanh toán tiền bằng hình thức
anh Công sẽ trả tiền nợ thay cho anh Binh, chị Hoa tại Ngân hàng BIDV tỉnh Hòa
Bình với số tiền 199.983.713đ. Tòa cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu và buộc
anh Binh phải trả lại cho anh Công đúng số tiền anh Công nhận chuyển nhượng
năm 2011 là không đúng. Bởi quá trình giao dịch mua quyền góp vốn, chị Hoa
không tham gia vào việc mua bán mà chỉ biết giá 1 suất góp vốn tại Hợp tác xã là
30.170.000d, trong khi đó anh Công là người trực tiếp đi giao dịch đã khai rõ giá
mua một suất góp vốn gần 70 triệu (bao gồm cả tiền sửa chữa), anh Binh cũng thừa
nhận để mua một suất góp vốn phải hết số tiền gần 70 triệu. Nhưng cấp sơ thấm đã
không tiến hành điều tra, xác minh và xác định giá trị để có được 01 suất góp vốn
tại thời điểm mua bán cũng như thời điểm xét xử sơ thẩm là bao nhiêu. Tòa án cấp
sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của chị Hoa để xác định giá trị các suất góp vốn là
chưa đảm bảo được quyền lợi cho anh Trần Văn Công.
Anh Binh kháng cáo cho rằng khoản tiền anh Công trả cho anh tại Ngân
hàng là nợ chung của anh và chị Hoa nếu Tòa án tuyên bố họp đồng vô hiệu thì cả
~ 78 ~
hai cùng phải có trách nhiệm trả tiền cho anh Công. Hội đồng xét xử, xét thấy: số
tiền 199.983.713d tại Ngân hàng BIDV tỉnh Hòa Bình là nợ chung của anh Binh,
chị Hoa trong thời kỳ hôn nhân, số tiền này anh Binh lấy danh nghĩa của Công ty
TNHH MTV sản xuất vật liệu xây dựng 557 đứng ra vay, chị Hoa cùng ký vào khế
ước, thời điểm giải quyết ly hôn, chị Hoa cũng đã xác nhận khoản nợ này là nợ
chung của vợ chồng. Anh Công đã trả số tiền 199.983.713 vào tài khoản Công ty
với nội dung trả nợ hết gốc, lãi và lãi quá hạn cho công ty. Tại cấp phúc thẩm, chị
Hoa, anh Binh thừa nhận đây là công ty của gia đình, chị Hoa cũng đang khởi kiện
tại Tòa án nhân dân huyện Đà Bắc yêu cầu chia các tài sản còn lại sau khi Công ty
557 giải thể, số tiền anh Công trả cho anh Binh để mua 03 suất góp vốn chính là
tiền anh Công đã thanh toán cho khoản nợ chung tại Ngân hàng BIDV khi anh
Binh, chị Hoa còn là vợ chồng. Vì vậy khi tuyên họp đồng vô hiệu thì chị Hoa
cũng phải có trách nhiệm cùng anh Binh trả tiền cho anh Công.