và Tự Do Tôn Giáo
Thanh
Niên
TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Sự thật chưa hẳn là những gì tận mắt chứng kiến
Web : tapchiphiatruoc.net
Blog : phiatruoc.wordpress.com
BAN BIÊN TẬP
Khương Duy-Võ Thụy Nhu-Phan
Thái Dương-Việt Quốc-Thanh
Nguyên
THIẾT KẾ TRÌNH BÀY
Nhẫn Lam-Hậu Phú-Khương Duy-
Tín Nghĩa
CỘNG TÁC VIÊN
Hoàng Lan-Mai Minh-Đông A-Elbi-
Anh Thư
QUẢNG CÁO-AUDIO
Quốc Bình-Chinh Nhân-Tâm Kiên
WEBSITE
Kế Vũ
Châu Mỹ
Tap Chi Phia Truoc
PO Box 462220 Escondido, CA 92046 USA
Châu Âu, Châu Á
Tap Chi Phia Truoc 10 rue Louis Rossel
35000 Rennes FRANCE
Lời mở đầu,
Đời sống tâm linh đã luôn gắn liền với dân tộc Việt Nam từ các đời vua
Hùng và là yếu tố tất yếu trong cuộc
sống của nhiều người dân. Bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
cũng đã nêu rõ “Mỗi người có
quyền tự do tư tưởng, lương tâm, và tín ngưỡng”. Chính vì sự cần
thiết và là quyền cơ bản của con
người, tự do tôn giáo cần phải được tôn trọng và bảo vệ chính đáng.
Tiếc rằng vẫn còn có những quốc gia chỉ vì lợi ích cá nhân hoặc của một
nhóm người mà chẳng những họ đã không bảo vệ, lại còn ngang nhiên
bẻ cong các quyền cơ bản ấy. Nhà
nước Việt Nam luôn tự hào là quyền tự do tín ngưỡng của người dân luôn
được bảo vệ theo hiến pháp và pháp
luật. Nhưng theo Báo cáo Thường niên năm 2009 do Ủy Ban Tự Do Tôn
Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ (USCIRF) thực hiện cho thấy, tôn giáo tại Việt
Nam đã bị nhiều ngược đãi và trở nên tồi tệ hơn trong năm 2008 và 2009 vừa qua.
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Luật và Sắc lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng, đặt ra những quy định vi hiến nhằm kiểm soát nhiều tôn
giáo khác nhau. Các Giáo xứ như Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, Tòa Khâm Sứ Hà Nội đã liên tiếp bị nhà nước sách nhiễu. Các nhóm Phật
giáo Hòa Hảo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Cao Đài
và Tin Lành vẫn thường xuyên bị nhà nước ngăn cản và hạn chế hoạt động. Tệ hại nhất, gần đây tôn giáo tại Việt Nam đã bị chính trị hóa và
lồng ghép để nhào nặng thành “Tôn giáo theo định hướng XHCN”
tức mang chính sách của Đảng pha lẫn vào các giáo điều. Đây là một thái độ trịch thượng đối với các bậc tiền nhân tôn giáo; là một sự
vụng về trơ trẽn hòng bóp nát những lý luận đạo đức của tôn giáo đã có
từ lâu đời. Những nước như Việt Nam qua sự đào thải của bánh xe lịch sử hiện không còn nhiều trên thế giới. Lịch sử sẽ là bằng chứng công
bằng để ghi chép tất cả những hành động sai trái, chính sách kém văn
minh và những con người luôn đi ngược thời đại và lợi ích dân tộc.
Tạp chí Thanh niên Phía Trước chủ đề Thanh Niên và Tự Do Tôn Giáo số 27 giới thiệu đến bạn đọc những cây bút trẻ nhưng không kém phần
sâu sắc. Với tiêu điểm là những bài viết sắc sảo và thực tế về tôn giáo,
Tạp Chí Thanh Niên Phía Trước chia sẻ một cách nhìn rất thanh niên về tôn giáo tại Việt Nam. Đó là một cái nhìn mạnh dạn và đầy sĩ khí.
Quan trọng hơn, đó là một cách nhìn rất trung thực.
Tạp chí Thanh niên Phía Trước luôn mong muốn được góp sức chung với thanh niên cất lên tiếng nói chính nghĩa để đánh thức sĩ khí Việt Nam
và đánh tan sự lạc hậu toàn trị.
Khi mục đích của chúng ta là mưu cầu hạnh phúc chân chính thì chúng ta sẽ không lẽ loi. Vì chân lý luôn ở bên chúng ta!
Võ Thụy Nhu - Phó Tổng Ban Biên Tập Tạp chí Phía Trước
Tháng 10/2009
Sự thật chưa hẳn là những gì tận mắt chứng kiến
Mục lục
Cái Chết Oan Khiên của Hiến Pháp 1946
Tiến Trung ơi ! Chúng tôi luôn ở bên
bạn !
Chính trị
Xã hội
4
-
8
Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hồi Giáo
Tam Giáo & Việt Nam hôm nay
Việt Nam và “Separation of Church and
State”
Tu Viện Bát Nhã Quán Niệm “Hơi Thở Để
Khắc Chế Khổ Hạnh”
Tuổi Trẻ & Tôn Giáo tại Việt Nam
Tiêu điểm
Thanh
Niên và
Tự Do
Tôn giáo
9
-
28
Tin Việt Nam
Tin Thế Giới
Chuyên
mục
35
-
38
Cúm A - Influenza A (Phần 2)
Sinh viên đi làm thêm tại Pháp
Văn hóa 29
-
33
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 4
Hiến pháp 1946 là hiến pháp đầu tiên của dân tộc
ta đưọc thành hình sau khi cách mạng tháng Tám
thành công. Đó là hiến pháp nền tảng để xây dựng
một thể chế tự do dân chủ cho một nưóc Việt Nam mới được độc lập sau 80 năm Pháp thuộc.
Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu
lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu đầu tiên
của đất nước ta. Sau đó, trong tinh thần đoàn kết
dân tộc, quốc hội được bổ xung thêm một số dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống
Pháp không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên tập hợp
được nhiều thành phần xã hội và đảng phái chính
trị có những xu hưóng khác nhau. Ngoài các nhà cách mạng tả phái đại diện là các ông Hồ chí Minh,
Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, còn có sự tham
dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời Phan Bội
Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần,
Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam,
Trần Trung Dung, và cựu hoàng Bảo Đại v.v…
Sau đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người, thuộc mọi thành
phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính
trị và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ
Chí Minh chủ trì.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã
thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt
Nam độc lập.
Hiến pháp 1946 do đó là kết tinh lòng yêu nước
thiêng liêng của các nhà cách mạng dân tộc từ Trưong Định, đến Nguyễn Thiện Thuật, đến Hoang
Hoa Thám, cho đến thời kỳ Phan Bội Châu, Cường
Để, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Việt nam
Quốc dân Đảng ở Yên Bái, và phong trào Cộng Sản yêu nước chân chính.
Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định
những quyền căn bản của công dân trong đó có
quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7),
quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân
có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến
pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân
chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt
nam (điều 16).
Quan trọng nhất là không có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ
là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các
bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam.
Cái Chết
Oan Khiên của
Hiến
Pháp 1946 LS Nguyễn Xuân
Phước (Trích Giá Trị Chính Thống
của Hiến Pháp Hiện Nay
trên Cơ Sở Hiến Pháp 1946 )
Hiến pháp
1946 còn đi xa
hơn bằng cách
cho phép
những người
ngoại quốc
tranh đấu cho
tự do dân chủ
mà phải trốn
tránh được cư
ngụ trên đất
Việt nam
(điều 16).
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 5
Đứng trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là
cơ sở pháp lý khai sinh nước Việt Nam độc lập sau
hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân
Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp
1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng
tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành.
Tuy nhiên, theo tài liệu của Đảng Cộng sản thì
chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều
hành mọi hoạt động trong nước. Và hiến pháp đó có
giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được
ban hành.
Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:
Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc
chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó
là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện
Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo
thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và
những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi
phạm. Chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ hiện đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước
hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền
đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị
căn bản về văn hoá, chính trị và kinh tế và biến
những giá trị trị đó thành những lý tưởng và ước vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương
máu để chiến đấu và bảo vệ. Đồng thời nó xác định
nhân dân là chủ nhân ông tuyệt đối của đất nước.
Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để
xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc
lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay
đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.
Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến
pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và
nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm
1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội
dung của hiến pháp 1946.
Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ĐCSVN viết
như sau:
“Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của
hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng
Việt Nam.”
Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự
ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm
1960, 1980 và 1992.
Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa trực tiếp
bản hiến pháp 1946, như sau:
"Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của
nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng
so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần
được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần
thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng
hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi".
Những trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý
tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã "hoàn thành sứ
mệnh" của nó mà không nói rõ ràng thế nào là "sứ
mệnh của hiến pháp" và thế nào là "hoàn thành". Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào
xác định "sứ mệnh của hiến pháp" và ấn định rằng
khi hiến pháp "hoàn thành" sứ mệnh của nó thì giá
trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.
Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô
căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết
oan khiên. Hiến pháp 1946 đã bị ĐCSVN xé bỏ một
cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp
1946.
Vì những lý do đó, việc các hiến pháp sau này phải
được thông qua hoặc tu chỉnh theo quy trình quy
định bởi Hiến pháp 1946 là điều cần thiết: nhân dân
phúc quyết thông qua qua trưng cầu dân ý. Đó là
điều kiện không thể thiếu cho tính chính danh của
một Nhà nước Của dân, Do dân.
Những trích dẫn kể
trên cho thấy nhà nước
tự ý tuyên bố là Hiến
Pháp 1946 đã "hoàn
thành sứ mệnh" của nó
mà không nói rõ ràng
thế nào là "sứ mệnh
của hiến pháp" và thế
nào là "hoàn thành".
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 6
Tiến Trung ơi ! Chúng tôi luôn ở bên bạn ! Ủy ban vận động trả tự do cho Nguyễn Tiến Trung
Ngày 26/9/2009 vừa qua, chúng tôi đã tiến hành cuộc vận động thứ 2 tại quảng trường Nhân Quyền để
bày tỏ sự ủng hộ đối với Nguyễn Tiến Trung, đang được giam giữ một cách bất công bởi nhà cầm quyền
Việt Nam từ ngày 7/7/2009.
Bằng tấm lòng của mình, hơn 50 người đã tụ họp lại trước quảng trường Trocadéro để thể hiện sự ủng hộ
của mình đối với Trung. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn rất bàng hoàng về việc Trung bị bắt giữ một cách vô
căn cứ và chúng tôi hoàn toàn không có tin về Trung cho đến nay. Sau gần 3 tháng không tin tức, không
biết Trung còn sống hay đã chết, chúng tôi giờ đây đã có thể nhìn thấy được gương mặt mệt mỏi của anh
trong một cuộc «phỏng vấn cưỡng bức» được phát trên các kênh Việt Nam. Trung có vẻ kiệt sức, nhưng
chúng tôi có thể đọc được trong ánh mắt của Trung một quyết tâm không gì ngăn cản nổi. Mong sao đó
không phải là sự tuyệt vọng! Không, chúng tôi tin. Trung là một trong những người có quyết tâm cao độ
nhất mà chúng tôi từng biết. Anh lấy sức mạnh từ trong đáy lòng mình, từ niềm tin và lý tưởng vốn đã
hằng sâu trong anh.
Cuộc vận động diễn ra ngày 26 tháng 9 vừa qua với mục đích là tiếp tục gây tiếng vang đến mọi người, để
người dân biết đến câu chuyện về Trung cũng như việc đấu tranh để có được tự do ngôn luận ở Việt Nam
qua bài diễn văn về sự dấn thân của anh vào con đường dân chủ. Xen kẽ vào buổi vận động là các đoạn
phỏng vấn những người tham gia, những người quan tâm đến sự kiện, và mọi người đã cùng nắm tay
nhau đi một vòng khắp quảng trường Trocadero kêu vang «Tự do cho Trung !». Với những lời cám ơn chân
thành của Nam, (em trai Trung-một người trong ban chỉ đạo Uỷ Ban Yểm trợ Nguyễn Tiến Trung), gửi đến
toàn thể người tham gia, buổi mít tinh đã kết thúc thành công.
PHÓNG SỰ HÌNH ẢNH Anh Nguyễn Tiến Trung, sau khi tốt nghiệp kỹ sư Tin Học tại Pháp, trở về nước làm
việc đã bị chính quyền Việt Nam liên tục quấy nhiễu và bắt giam. Anh đã dũng cảm
kêu gọi nhà nước hãy có trách nhiệm hơn trong công việc lãnh đạo đất nước, cần
phải thay đổi thật sự trong chương trình giáo dục, đào tạo...cũng như xây dựng
một nhà nước pháp quyền, dân chủ, phục vụ cho nhân dân.
Mặc dù đang theo học chương trình sau Đại học nhưng vẫn bị gọi đi Nghĩa Vụ Quân
Sự. Sau khi loại ngũ, anh đã bị chính quyền bắt ngày 7/7/2009 theo Điều 88 Bộ
luật Hình sự về hành vi chống Nhà nước .
Ủy ban vận động trả tự do cho Nguyễn Tiến Trung (UBVĐ NTT) bao gồm các bạn sinh viên cùng trường INSA và trí thức
người Pháp gốc Việt đã được thành lập ngay sau đó. Giáo sư Philippe Echard phụ trách Chủ tịch của UBVĐ NTT.
Ngày 26/09/2009, UBVĐ NTT đã tổ chức một cuộc biểu tình (lần thứ hai) tại quảng trường Trocadéro Paris Pháp, nhằm
lên tiếng với dư luận về một sinh viên của trường đang bị bắt vì đã bày tỏ những chính kiến của mình. Bài và hình ảnh do
do UBVĐ NTT, Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ cung cấp.
<<Giáo sư Philippe Echard, thầy của Tiến
Trung, vừa đáp máy bay tại Orly, đã vội vã đến
nơi biểu tình để động viên mọi người với tư cách
Chủ tịch Ủy Ban Vận Động thả tự do cho Tiến
Trung.
<<Đứng cạnh bên là Bác sĩ Nguyễn Quốc
Nam, Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Chủ, phụ
trách Châu Âu, người luôn góp phần hỗ trợ các
hoạt động của các cộng đoàn người Việt tại Pháp
<< Nguyễn Hoài Nam, em trai của Trung, Kỹ sư
cơ khí, cùng trường INSA với anh của mình
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 7
Luật sư Trần thanh Hiệp sinh năm 1927 tại Hà Tĩnh. Ông tốt nghiệp
Cao Đẳng Công Pháp, Đại Học Aix Marseille và Cao Đẳng Chính Trị
Học, Đại Học Paris II. Ông từng là luật sư Tòa Thượng Thẩm Saigon
và Tòa Thượng Thẩm Paris, đã đến tham dự cuộc biểu tình
Bạn trẻ Pháp ký tên đòi thả tự do Tiến Trung vô điều kiện
Không ít khách du lịch đã đứng lại xem những hình ảnh trưng bày
tại cuộc biểu tình cũng như xem các bạn trẻ đi vòng quang quảng
trường hô to : Trả tự do cho Trung ! Trả tự do cho Trung
Một thiếu nữ Pháp sau khi xem hình ảnh và nghe câu
chuyện về Trung đã tỏ ý không đồng tình về thái độ của
chính quyền Việt Nam, mà cô cho đó là quá lỗi thời.
Bác Vũ Thư Hiên, tác giả của quyển sách « Đêm giữa ban
ngày », cũng đến tham gia cuộc xuống đường.
Cuộc biểu
tình cũng
đã được
truyền đi
trực tiếp
đến diễn
đàn Pal-
talk, nơi
quy tập
nhiều các
nhân hội
đoàn quan
tâm đến
sự kiện
này.
Hướng
dẫn
chương
trình Chị
Ca Dao,
Bác sĩ
Quốc Nam
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 8
Severine, bạn đồng môn của Tiến Trung tại INSA, thành viên Tập
Hợp Thanh Niên Dân Chủ, là một trong những người hoạt động tích
cực nhất trong Ủy Ban Vận Động trả tự do cho Nguyễn Tiến Trung
Phải chi Trung thấy được những hình ảnh này ! Họ là những bạn trẻ Pháp, chưa bao giờ gặp Trung, họ tụ tập tại đây để
vui chơi vào buổi chiều cuối tuần. Sau khi nghe kể về một trí thức trẻ đã từng học tại Pháp đang bị bắt giữ tại Viêt Nam,
họ vô cùng bất bình và đã rồng rắn cùng với Séverine đi 1 vòng quảng trường vừa nhảy múa, vừa hô vang : « Trả tự do
cho Tiến Trung ! Trả tự do cho Tiến Trung ! »
Xem video tại http://www.youtube.com/watch?
v=h6gZKaHGMKI&feature=player_embedded#t=29
THANH NIÊN &
tự do TÔN GIÁO
Tiêu điểm
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 10
Phật Giáo
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc vào Việt
Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật
giáo của các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt
Nam. Theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy
y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh
xá, tịnh thất, niệm Phật đường...
Lịch sử
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm,
ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử
Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ, nên từ
Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt”. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu
sắc của Tiểu thừa. Vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh
hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc được thay
thế bởi từ "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm.
Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực
thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả
mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê
thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi
vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua
Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh
đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này
không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù
ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các
đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của
các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc
là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn
suy thoái;
từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục
hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam
là Thiền tông, Tinh Độ tông và Mật tông.
Thiền tông (còn được biết là Zen hay Ch'an) là
một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề
Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc
vào đầu thế kỷ thứ 6. "Thiền" là cách gọi tắt của
"Thiền na" (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ
trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền)
nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo
Thiền tông, "thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy
nghĩ là "tâm vọng tưởng", làm phân tâm và mầm
mống của sanh tử luân hồi.
CHÍNH TRỊ– XÃ HỘI Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 11
Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn
của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ, xuất gia và lên
tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí, Quảng Ninh,
thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập
nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền
phái khác xuất hiện dưới những triều đại khác nhau.
Thiền tông Việt Nam đề cao cái "tâm": "Phật ở tại
tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật.
Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ
trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà. Tha
lực này rất quan trọng đối với căn cơ con người
thời nay. Trong Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi
Phật cụ thể, gọi là Thế giới Cực Lạc do đức Phật A
Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) làm giáo chủ. Việc
tu hành được mở rộng ra những hành động đơn
giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà.
Nhờ cách như vậy mà Tịnh Độ tông là tông phái
phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng
gặp người dân tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà
Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy theo đức Phật A Di
Đà"). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp
mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời.
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử
dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt
đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông,
Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất
thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác pháp
của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi
thức này là lễ Quán Đỉnh (Abhiseka) do một vị sư
cả (guru hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử
được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể
bằng cách đọc chân âm (mantra), suy niệm đồ hình
Mạn đà la (mandala) và thực thi ấn quyết (mudra)
để đạt đến độ thăng hoa loại bỏ ý niệm nhị nguyên
(duality) đặng nhập vào Chân Như, tức cõi không.
Trạng thái đó được biểu tượng bằng Kim cương chử
(Vajra). Để làm chủ được các nghi thức tác pháp
của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa - Vajra-
yana) thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo
nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita)
của Long Thọ và Vo Trước. Mật tông có hai bộ kinh
cơ bản là Đại Nhật Kinh và Kim cương Bát-nhã-đa-
la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ
thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa
Tam luân tông của Long Thọ, mà đặc biệt là tư
tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thọ và Vô
Trước.
Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập
như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn
vào dòng tính ngưỡng nhân gian với những truyền
thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma,
chữa bệnh,…
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo
luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và
khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật
giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Khế lý là nói
về mặt tư tưởng và Khế cơ thiên trọng về mặt lịch
sử.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các
v ị
thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa
mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt
của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng
dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những
thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý
Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành
hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng
trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện
mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển
Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt
hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh
hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến;
bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy
thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu,
giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 12
vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật.
Tổ chức Giáo hội Phật giáo và Chính sự
Phật giáo Việt Nam có vai trò chính sự qua nhiều
triều đại. Thời nhà Đình, nhà tiền Lê, nhà Lý, và nhà
Trần đã nhiều vị cao tăng được triều đình trọng
dụng như thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt, Pháp
Loa, v.v. giúp tham chính và cố vấn.
Vào cuối thời Pháp thuộc năm 1951 Tổng hội Phật
giáo Việt nam ra đời. Đây là tổ chức đầu tiên với ý
định thống nhất các tổ chức rời rạc. Tổng hội thành
công trong việc liên kết tất cả các thành phần Phật
giáo Đại thừa khắp ba miền Nam, Trung Bắc. Tuy
nhiên Tổng hội không có cơ cấu điều hành ngoài
việc mở đường liên lạc. Khoảng thập niên 1960 Phật
giáo lại có mặt trên chính trường Việt nam Cộng
hòa.
Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo
Đức Phật khi dạy chúng sinh tìm quy y Phật, Pháp,
Tăng là nhắm giúp chúng sinh mở mang trí tuệ và
đồng thời hiểu rõ được bốn chân lý mầu nhiệm mà
thoát khổ. Bốn chân lý đó gọi là "Tứ Diệu
Đế" (Cattàri Ariyasaccàni)
"Tứ Diệu" là bốn điều huyền diệu, mầu nhiệm, cao
quý. "Ðế" là sự thật, là chân lý. Bốn Chân lý cao cả
ấy gồm:
1. Khổ (Dukkha) bản chất của khổ
2. Tập (Samudaya), sự phát sinh hay nguồn gốc của
khổ.
3. Diệt (Nirodha) sự chấm dứt khổ.
4. Đạo (Magga), con đường đưa đến sự chấm dứt
khổ.
Bát Chánh Ðạo là con đường "Trung Ðạo" mà Ðức
Phật đã tìm ra để chứng ngộ Niết Bàn. Bát chánh
đạo gồm tám điều chân chính, tám phương tiện mầu
nhiệm mà người Phật tử phải làm:
"Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm
và Chánh Ðịnh".
Theo Đức Phật thời "Bát Chánh Đạo," đâ là con
đường giác ngộ duy nhất để chấm dứt mọi đau khổ.
Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo, hay còn gọi là Đạo Hòa Hảo,
là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập
năm 1939, lấy pháp môn Tinh Độ tông làm căn bản
và chủ trương tu hành tại gia. Phật giáo Hòa Hảo
thể hiện rất rõ tính tổng hợp và tính linh hoạt của
Phật giáo Việt Nam. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính
khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở đồng
bằng Nam bộ.
Thực chất Phật giáo Hòa Hảo là tiếp nối của một tông
phái Phật giáo có từ gần một trăm năm trước ở đồng
bằng Nam bộ có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật
Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) sáng lập vào năm
1849 tại vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang). Tiếp sau Phật
Thày Tây An là Phật Trùm, Ngô Lợi (Đức Bổn Sư) rồi
đến Huỳnh Phú Sổ. Thời kỳ Huỳnh Phú Sổ là thời kỳ
phát triển rực rỡ nhất của Phật giáo Hòa Hảo.
Giáo lý là sự kết hợp của Tịnh Độ tông với Đạo Ông
Bà. Tôn chỉ là "Học Phật Tu Nhân", noi theo giáo lý
Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành
thuyết "Tứ ân (ơn)": cha mẹ, đất nước, tam bảo (Phật
-Pháp-Tăng), nhân loại.
Cách thức tu hành của Phật giáo Hòa Hảo rất đơn
giản là "tu hành tại gia". Người "cư sĩ tại gia" cúng lạy
vào hai buổi sớm mai và chiều tối với 16 lạy như một
bài thể dục toàn thân ở "bàn thông thiên", ăn chay
một tháng 4 ngày để cơ thể khỏe mạnh; thờ trần đỏ
hoặc trần dà với ý nghĩa hòa hợp; không chấp nhận
mê tín dị đoan (không đốt vàng mã, không cúng tà
thần...); thực hành tiết kiệm triệt để như không dâng
cúng thực phẩm cho Phật chỉ cúng bông hoa nước
sạch, không ăn thịt trâu, chó, bò để giữ sức kéo...;
không hình thức: không đúc tượng, không chuông
mõ, "tử thì táng", không có hàng giáo phẩm và không
có tổ chức đạo (trước năm 1947).
Theo vn.wikipedia.org
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 13
Công Giáo
Công giáo tại Việt Nam được bắt đầu từ khi các nhà truyền giáo phương tây đầu tiên đến Việt
Nam từ thế kỷ 16 để rao giảng đạo Công giáo, khi ấy còn gọi là Đạo Gia-tô. Trải qua nhiều
thăng trầm và biến đổi lịch sử, cho đến năm 2005, Công Giáo tại Việt Nam hiện có 5 triệu 700
ngàn tín hữu trong tổng số dân 82 triệu, với 3.100 linh mục, 14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh
và 53.800 giáo lý viên.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng dể dịch chữ καθολικος, Catholica
(Catholique), với ý nghĩa đó là đạo chung, đạo phổ quát, đạo công cộng đón nhận mọi người,
chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Vì thế cộng đồng hoặc đoàn thể Công giáo Việt
Nam còn được gọi là Công đoàn hoặc Cộng đoàn.
Thời kỳ khai sinh (1533
-1659)
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17,
Việt Nam bắt đầu giao thương
với các nước phương Tây như
Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp
và cả Nhật Bản ở châu Á để
trao đổi hàng hóa và vũ khí
quân sự. Thời gian này, Công
giáo cũng phát động cuộc
truyền giáo quy mô lớn đi đến
khắp nơi trên thế giới, trong đó
có miền Viễn Đông Á châu.
Trong bộ Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục được
soạn thảo dưới triều Tự Đức có
nói đến chỉ dụ cấm đạo Thiên
Chúa (hay đạo Gia-tô, phiên
âm từ Giêsu của chữ Hán).
Tiếp tục công cuộc truyền giáo
của các vị truyền giáo đầu tiên,
đã có rất nhiều nhà truyền giáo
thuộc nhiều dòng tu và hội
thừa sai khác đã đến Việt Nam.
Vì thế, nhiều nhà sử học Công
giáo Việt Nam đã chọn năm
1533 là năm khởi đầu cho đạo
Công giáo tại Việt Nam.
Những nỗ lực truyền giáo đầu
tiên thực tế chỉ là những sự dọ
dẫm, chuẩn bị cho giai đoạn
khai phá chính thức. Giai đoạn
này kéo dài từ năm 1615-1665
với các vị thừa sai Dòng Tên,
cùng thời điểm, lãnh thổ Việt
Nam chị chia cắt thành hai
miền Nam Bắc, lấy sông Gianh
làm ranh giới. Phía Nam gọi là
Đàng Trong, do các chúa
Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi
là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa
Trịnh nắm quyền.
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 14
Năm 1615, linh mục Alexandre
de Rhodes (Đắc Lộ) đến Cửa
Bạng, Thanh Hóa. Từ đó phát
triển sự nghiệp truyền đạo không
những bằng mục vụ thường
xuyên, nhưng nhất là bằng cách
hoàn thiện việc thành lập chữ
quốc ngữ để phổ biến sự truyền
bá Đức Tin và tổ chức Nhà Đức
Chúa Trời (1629). Việc truyền
đạo được vua chúa Việt Nam cho
phép trong một số nơi với nhiều
hạn chế của các quan lại địa
phương, nên các tín đồ gặp
nhiều khó khăn trong việc giữ
đạo.
Thời kỳ hình thành
(1659-1802)
Ngày 3 tháng 7 năm 1645 linh
mục Alexandre de Rhodes rời
Việt Nam về Roma để báo cáo
cho Tòa Thánh về những tiến
triển mau chóng trong việc
truyền đạo tại Việt Nam, nhất là
xin gửi một số giám mục đến
truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà
ông gọi là "cánh đồng truyền
giáo phì nhiêu" để củng cố nền
móng cho Giáo hội.
Ngày 9 tháng 9, 1659, Giáo
hoàng Alexander VII, qua Sắc chỉ
Super Cathedram, quyết định
thiết lập ở Việt Nam hai giáo
phận và chọn hai vị thừa sai
thuộc Hội Thừa sai Paris
(Missions Étrangères de Paris)
làm đại diện Tông tòa. Giáo phận
Đàng Trong từ sông Gianh trở
vào Nam, gồm cả phần đất
Chiêm Thành, Chân Lạp do Giám
mục Pierre Lambert de la Motte
cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài
từ sông Gianh trở ra Bắc, bao
gồm cả Lào và 5 tỉnh miền Nam
Trung Quốc do Giám mục Fran-
çois Pallu cai quản.
Giáo phận lúc này: Giáo phận
Đàng Trong và Giáo phận Đàng
Ngoài.
Hội Thừa sai Paris có công lớn
với giáo hội Việt Nam bằng cách:
Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu
tiên: ngày 14 tháng 2 năm 1670
tại Đình Hiến tỉnh Nam Định,
Giám mục Lambert de la Motte
đã qui định thể chế nhà Đức
Chúa Trời, và thành lập Dòng
Mến Thánh giá, các chị em nữ tu
là những cộng tác viên rất đắc
lực của hàng giáo phẩm trong
việc truyền đạo bên cạnh giáo
dân, nhất là trong các vùng thôn
quê.
Đã xây dựng Đại chủng viện
Penang (1870) để đào tạo các
linh mục bản xứ Á Châu và Việt
Nam: các thánh linh mục tử đạo
miền Nam đều xuất thân từ đây;
và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với
giáo hội địa phương cho tới sáng
ngày 12 tháng 8 năm 1975,
ngày mà các vị thừa sai ngoại
quốc sau cùng được mời ra khỏi
Việt Nam.
Năm 1679 Giáo hoàng Inno-
cenxio XI lại chia giáo phận Đàng
Ngoài thành hai, do hai giám
mục cai quản. Đồng thời, linh
mục Tổng quyền Dòng Anh Em
Thuyết Giáo sát nhập các cơ sở
truyền giáo của Hội Dòng tại
miền Bắc vào Tỉnh dòng Đức Mẹ
Mân Côi tại Phi Luật Tân.
Giáo phận lúc này: Giáo phận
Đàng Trong, Giáo phận Tây Đàng
Ngoài, Giáo phận Đông Đàng
Ngoài.
Giám mục Pigneau de Béhaine,
quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện
Tông tòa Đàng Trong (1771-
1799), đã hết lòng giúp đỡ
Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang
bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm
của quân Tây Sơn. Giám mục
này đã đưa hoàng tử Nguyễn
Phước Cảnh (lúc bấy giờ mới lên
4 tuổi) sang Pháp và vận động
người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ
khí để Nguyễn Phúc Ánh chống
Tây Sơn và chúa Trịnh. Tâm định
của các vị thừa sai và của giám
mục Bá Đa Lộc là muốn cho
người Công giáo Việt Nam được
an thân giữ đạo và đạo Chúa
được mở rộng. Bá Đa Lộc chết
ngày 9 tháng 10, 1799 và hoàng
tử Cảnh chết năm 1801 làm dập
tắt hi vọng của người Công giáo
Việt Nam về một thời kì tự do
truyền đạo.
Thời kỳ thử thách (1802-
1885)
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên
ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long,
triều đại đầu tiên của nhà
Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân,
Huế. Nhớ ơn Bá Đa Lộc, Gia Long
cho phép tự do truyền bá đạo
Công giáo. Người Công giáo bắt
đầu gặp nhiều cuộc cấm đạo kể
từ triều vua Minh Mạng. Đặc
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 15
biệt là Phong trào Văn Thân
với khẩu hiệu “Bình Tây sát
Tả” vào những năm 1867-
1868, 1873-1874 và 1883-
1885.
Năm 1844, Giáo hoàng
Gregorius XVI chia giáo phận
Đàng Trong và Đàng Ngoài và
Tòa Thánh tiếp tục chia các
giáo phận vào những năm
1848, 1850 và 1883.
Các giáo phận lúc này: ở
Đàng Trong: Tây Đàng Trong
(Sài Gòn), Đông Đàng Trong
(Quy Nhơn), Bắc Đàng Trong
(Huế), Nam Vang (Cần Thơ).
Ở Đàng Ngoài: Tây Đàng
Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng
Ngoài (Vinh), Đông Đàng
Ngoài (Hải Phòng), Trung
Đàng Ngoài (Bùi Chu) và Bắc
Đàng Ngoài (Bắc Ninh).
Thời kỳ phát triển (1885-
1960) và trưởng thành
(1960 đến nay)
Khi triều đình Huế ký Hiệp ước
Giáp Thân 1884 với Pháp,
công nhận sự đô hộ của Pháp
thì Công giáo Việt Nam lúc đó
mới thật sự được tự do, công
khai hoạt động. Giáo dân tăng
nhanh, cơ sở tôn giáo như:
nhà thờ, tu viện, tòa giám
mục, trường học, viện dưỡng
lão, viện cô nhi được xây dựng
khắp nơi. Các giáo phận được
chia nhỏ lại tổng cộng là 12
giáo phận. Năm 1925, Tòa
Thánh lập Toà khâm sứ ở
Đông Dương, đặt tại Phủ Cam
(Huế).
Sau Cuộc di cư Việt Nam
1954, Công giáo Miền Bắc bị
xáo trộn và Công giáo Miền
Nam bị thay đổi cấu trúc. Giáo
phận Cần Thơ thành lập, tách
ra từ giáo phận Nam Vang;
giáo phận Nha Trang thành
lập, tách ra từ giáo phận Quy
Nhơn.
Ngày 24 tháng 11, 1960, giáo
hoàng Gioan XXIII thiết lập
Hàng Giáo phẩm Công giáo
Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà
Nội, Huế và Sài Gòn. Năm
1975, tại Việt Nam có 3 Giáo
tỉnh: Hà Nội, Huế, Sài Gòn với
25 giáo phận. Và cho đến năm
2005, Công Giáo tại Việt Nam
hiện có 5 triệu 700 ngàn tín
hữu trong tổng số dân 82
triệu, với 3.100 linh mục,
14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng
sinh và 53.800 giáo lý viên.
Theo vn.wikipedia.org
Tòa Khâm Sứ Hà Nội
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 16
Đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài được khai sinh bởi Đức Chí Tôn thông
qua Cơ Bút và giảng truyền Chân Đạo cũng qua Cơ
Bút. Cơ Bút là một nền tảng căn bản của Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ. Đạo Cao Đài chính thức ra đời vào
đêm Giáng sinh năm 1925. Ba nhân vật trọng yếu đã
góp phần cho sự ra đời của đạo Cao Đài là:
- Ngô Văn Chiêu (có tài liệu ghi là Ngô Minh Chiêu -
là tên Pháp Danh) sinh năm 1878 tại Bình Tây, Chợ
Lớn.
- Lê Văn Trung sinh năm 1876 tại Chợ Lớn, là người
lãnh nhiệm vụ lãnh đạo Cao Đài thay ông Ngô Minh
Chiêu.
- Phạm Công Tắc sinh năm 1890 tại Tân An trở thành
lãnh đạo hữu hình tối cao của đạo Cao Đài sau khi
ông Lê Văn Trung mất năm 1934.
Quan niệm về nguồn gốc của Thượng Đế và vũ trụ
Theo đạo Cao Đài, trước khi Thượng Đế tồn tại, đã có
Đạo. Đó là Đạo, Đạo vĩnh cữu, không hình dáng,
không có tên gọi, không thay đổi; như được đề cập
tới trong Đạo Đức Kinh. Đến một thời điểm nhất
định, hiện tượng Big Bang đã xảy ra, chính từ đây
Thượng Đế đã xuất hiện. Vũ trụ lúc này còn là 1 mớ
hỗn độn, và để tạo nên sự cân bằng, hài hòa, đa
dạng, Thượng Đế đã tạo ra Âm Dương. Thượng Đế
cai quản Dương và phân thân tạo ra "Diêu Trì Kim
Mẫu" để cai quản Âm. Nhờ có Âm Dương, vũ trụ đã
được định hình. "Thánh Mẫu" là mẹ của hằng hà sa
số sinh linh, sự vật trong vũ trụ. Do đó, tín đồ Cao
Đài không chỉ thờ phụng Thượng Đế, (còn được gọi là
"Thầy") mà còn thờ "Diêu Trì Kim Mẫu" (còn được gọi
với nhiều danh hiệu khác nhau như Cửu Thiên Huyền
Nữ, Tây Vương Mẫu, Thiên
Theo Đạo Cao Đài, có 36 tầng trời và Tứ Đại Bộ Châu
nơi đây thuộc về vô hình, 3000 thế giới và 72 hành
tinh thuộc về hữu hình, có sự sống bậc cao, trong đó
Cao Đài là một tôn giáo độc thần, tương đối mới, có tính dung hợp, được chính thức thành lập ở Việt
Nam, vào năm 1926. Đạo Cao Đài là tên ngắn gọn, tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Danh từ
"Cao Đài" theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao". Theo nghĩa bóng, được hiểu là nơi cao nhất ở đó Thượng
Đế ngự trị; cũng là tên viết tắt dành cho Thượng Đế, người sáng lập ra toàn vũ trụ, có danh xưng đầy
đủ là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát". Những đệ tử đầu tiên của Cao Đài như Ngô Văn Chiêu,
Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, và Cao Hoài Sang đã xác nhận rằng họ đã nhận được sự "Thông
Công" (liên lạc) trực tiếp từ Thượng Đế, người đã ban cho họ những chỉ dẫn cụ thể để thành lập một
tôn giáo mới, khởi đầu cho Kỳ Phổ Độ Thứ Ba. Các ước lượng về số tín đồ Cao Đài có khác nhau,
nhưng đa số các nguồn cho rằng con số đó là hai đến ba triệu (tư liệu vào khoảng năm 2000 - 2003).
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 17
hành tinh số 1 là phát triển nhất và hành tinh thứ 72
kém phát triển nhất. Trái Đất là hành tinh số 68.
Vũ trụ quan Cao Đài là quan niệm "Nhất thể nhất
nguyên" về vũ trụ. Nhất thể là khí Hư Vô, nhất nguyên
là Thái Cực. Thế nên nơi vạn vật đều có tiềm tàng bản
chất ban đầu của trời đất (Khí tiên thiên) và động năng
sinh thành của vũ trụ (Thái Cực). Đó là nguyên lý "Thiên
địa vạn vật đồng nhất thể" trong giáo lý Cao Đài, là cơ
sở của cứu cánh "Thiên nhân hiệp nhất".
Nhân sinh quan
Nêu lên quan điểm về nhân sinh ở giữa nguồn gốc và
cùng đích con người là nhân sinh quan Cao Đài gồm có:
Quan niệm về công dụng cõi đời, Quan niệm về nghĩa
vụ làm người, Quan niệm về lý tưởng cuộc sống loài
người. Cao Đài Giáo nêu một xã hội loài người lý tưởng
là xã hội "thánh đức" bao gồm đời sống an lạc, xây
dựng trên tinh thần nhân bản và có hiệu năng tiến bộ.
Giáo lý căn bản
Giáo lý Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn
bản là thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Thứ hai là nhất
bản tán vạn thù, vạn thù quy nhất bản. Một gốc phân
tán ra vạn hình thức (sai biệt), vạn hình thức (sai biệt)
quay về một gốc. Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý Cao
Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có thể
tương thông tương ứng và hợp nhất được. Từ nguyên lý
thứ hai, giáo lý Cao Đài quan niệm vũ trụ là một trường
tiến hóa có khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức
Thượng Đế, phóng phát các điểm linh quang tiềm tàng
trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, đến thảo mộc,
thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc
Thiêng liêng Thần Thánh Tiên Phật để trở về hợp nhất
với Thượng Đế. Do đó cứu cánh của con người là tiến
hóa trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình mà
cũng là của vũ trụ. Giáo lý Cao Đài gọi đó là "Phản bổn
hoàn nguyên".
Tôn chỉ Cao Đài là "Tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục
nhất". Tam giáo tức là Tam giáo đạo gồm Phật giáo, Lão
giáo và Nho giáo. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ xây dựng một
nền giáo lý toàn diện tức là giáo lý Đại Đạo trên nền
tảng tổng hợp giáo lý Tam giáo đạo. Ngũ chi phục nhất
gồm Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật
đạo. Đó là đường lối tu hành tuần tự như lên năm nấc
thang.
Mục đích của đạo Cao Đài nhằm hoàn thiện hóa con
người và xây dựng xã hội bình đẳng. Về mặt tâm linh,
đạo Cao Đài có mục đích giải thoát luân hồi sanh tử. Thế
đạo đại đồng theo đạo Cao Đài lấy Nhân Bản làm nền
tảng, trong đó nhân vị nhân quyền được tôn trọng, nhân
tính được phát huy để xây dựng một thế giới văn minh
đạo đức hòa bình mà người Cao Đài thường gọi là đời
Thánh đức. Theo nghĩa rộng đó còn là tình bác ái đối với
muôn loài vạn vật. Thiên đạo là Đạo pháp, là đường lối
tu hành để người tu đạt được sự giải thoát toàn diện,
không còn đau khổ phần thể xác hay phiền não tâm hồn
tại thế gian, và xa hơn nữa được giải thoát tâm linh,
sống vĩnh viễn trong cõi thiên đường cực lạc không còn
bị luân hồi trở lại phàm trần nữa. Muốn thế, người tu
Thiên đạo phải học đạo đại thừa, tu luyện thân tâm và
thực hành sứ mạng cứu độ tha nhân.
Nguồn: vn.wikipedia.org
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 18
Hồi Giáo
Hồi giáo (tiếng Ả Rập: اإلسالم al-'islām), còn gọi đạo Hồi, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn
giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển
nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,3 tỷ.
Nguồn gốc
Đối với người ngoài, đạo Hồi ra đời vào thế kỷ
thứ 7 tại bán đảo Ả Rập, do nhà tiên tri Muham-
mad sáng lập. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng
Tối Cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: هللا Allāh).
Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối
cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur'an
(còn viết là Koran) qua Thiên thần Gabriel. Điều
đầu tiên chúng ta nên biết và hiểu rõ về Islam
là từ “Islam” có nghĩa là gì. Tên Islam không
được đặt theo tên người như trong trường hợp
Cơ đốc giáo, được đặt tên theo Giê-su, Phật
giáo được đặt tên theo Đức Phật Gotama, đạo
Khổng được đặt tên theo Khổng Tử, và chủ
nghĩa Mác được đặt tên theo Các Mác.
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn
giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi
giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Cơ đốc
giáo và Do Thái giáo. Thể hiện rõ trong kinh
Koran. Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi
chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur'an,
gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín
đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur'an là một vật linh
thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng
Toàn Năng.
Đạo Hồi tại Việt Nam
Người Chăm ở Việt Nam theo ba tôn giáo chính:
Ấn Độ giáo, đạo Hồi, đạo Phật. Othman bin Af-
fan, vị khalip thứ ba của của đạo Hồi, đã cử tín
đồ đạo Hồi đại diện đầu tiên đến Việt Nam và
nhà Đường ở Trung Quốc vào năm 650. Có lẽ
trong những năm đầu tiên sau khi đạo Hồi khai
sáng, thương nhân Ả Rập đi đường biển đã
dừng chân tại vương quốc Champa trên đường
đến Trung Quốc. Tuy nhiên chứng cớ trong văn
tịch chỉ có từ thời nhà Tống. Theo đó ta biết
rằng người Chăm bắt đầu tôn sùng đạo Hồi từ
cuối thế kỷ 10 sang đầu thế kỷ 11. Số tín đồ
tăng dần qua liên hệ với vua Hồi xứ Malacca
nhưng phải đến thế kỷ 17 sau khi Champa bị
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 19
Việt Nam thôn tính thì đạo Hồi mới trở nên thịnh
hành với người Chăm. Vào giữa thế kỷ 19, nhiều
tín đồ đạo Hồi người Chăm đã di cư từ Cao Miên
vào vùng Đồng bằng sông Mekong, phát triển cộng
đồng Hồi giáo ở Việt Nam.
Hồi giáo Mã Lai có ảnh hưởng lớn với cộng đồng
người Chăm qua những bài khutba soạn bằng tiếng
Mã Lai. Người Chăm cũng thường tìm sang Malay-
sia tu học giáo lý và tiếp nhận tư tưởng đạo Hồi
qua sự diễn dịch của người Hồi Mã Lai.
Sau năm 1975 với cuộc chiến Việt Nam kết thúc,
trong số 55.000 tín đồ đạo Hồi người Chăm nhiều
người đã trốn sang Malaysia. Ở Yemen cũng có
1.750 người tỵ nạn Việt Nam gốc Chăm, hầu hết
định cư ở Ta'izz. Những người ở lại Việt Nam hoàn
toàn không chịu bất kì sự khủng bố nào, cho dù
những nhà thờ Hồi giáo của họ bị đóng cửa bởi các
cơ quan chính phủ. Tuy nhiên, khách nước ngoài
đến Việt Nam vẫn được nói và cầu nguyện bằng
tiếng bản xứ của họ. Năm 1985, tổ chức có tên
Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh đã
được thành lập. Bên cạnh người Chăm, cũng có
những Người Indonexia, Mã Lai, Pakistan, Yemen,
Oman, và người Nam Phi; với khoảng 10000 người
vào thời điểm đó. Tuy nhiên, những người theo đạo
Hồi ở Việt nam vẫn còn cô lập với thế giới Hồi giáo,
và sự cô lập này, cùng với việc thiếu các trường
đạo Hồi, khiến cho đạo Hồi ở Việt Nam ngày càng
trở nên cô lập.
Nguồn: vn.wikipedia.org
Thiếu nữ Chăm
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 20
A. Khổng Giáo
Ý nghĩa
Khổng Giáo cùng với chữ Hán theo
sau với sự đô hộ của nhà Hán đã
truyền vào đất Lạc Việt từ thế kỷ
thứ I sau Công Nguyên. Khổng giáo
cũng được tiếp thu và thưc hành
phát triển theo những cách rất
riêng ở Nhật Bản và Đại Hàn. Trước
tiên ta hãy nói vể những giá trị tốt
đẹp của Khổng giáo tác động vào
nền văn minh của dân Việt.
Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình
Thiên Hạ: cốt lõi của thực hành
Khổng Giáo đó là tu thân. Việc tu
thân có thể được rút gọn trong sự
thực hành, biến cải con người trở
nên có “Nhân-Trí-Dũng”. Cũng như
trong quan hệ đối xử giữa người với
người là: “Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín”,
chúng ta thấy cái NHÂN luôn luôn
được coi là cốt lõi và đặt lên phía
trước tiên. Nhân là lòng nhân, lòng
bao dung, độ lượng, tương đương
với Từ bi trong Đạo Phật và Tình
yêu thương trong Thiên Chúa giáo.
Người Việt ta hay nói lễ nghĩa đi đội
với nhau, nhưng ở đây là nói đến
hai đức tính riêng biệt. Lễ là nghi
lễ, lễ phép như cái lễ nghi của
người Việt thường nói, là đi thưa về
trình, nói năng phải cho lễ phép.
Còn Nghĩa là chỉ đến đức tính nghĩa
khí, ăn ở cho có nghĩa có tình, tức
là có nhớ đến những nghĩa cử mà
mình đã được nhận. Nghĩa cũng là
sự trung thành của người chịu ơn.
Ngoài ra còn một yếu tố quan trọng
trong Khổng Giáo là Hiếu nghĩa. Sự
hiếu thảo của con cái với cha mẹ là
gốc trong đạo hiếu nghĩa.
Trí là trí tuệ, sự khôn ngoan sáng
suốt biết phân biệt giả chân, tốt xấu.
Đó có thể coi như bản lĩnh, tài trí hay
sức mạnh của tri thức chẳng hạn.
Khổng Giáo rất coi trọng việc giáo
dục, và đây là đức hạnh cho người
cầm quyền. Quyền lực cai trị chỉ nên
nằm trong tay những người có giáo
dục và có trí thức, mới có đủ khả
năng và đức độ trong việc thực thi
những chánh sách chính đáng ích
nước lợi dân. Đây là ý nghĩa gốc của
chữ chánh trị hay chính trị, có nghĩa
là dùng chánh đạo, chính nghĩa để trị
nước (Colin Mackerras trang 83 dòng
Phần I
Mỗi dân tộc đều có nền
văn hoá, vẻ đẹp và niềm
tự hào riêng. Ngô Quyền
xưng vương năm 939,
dựng kinh đô tại Cổ Loa
mở ra thời kỳ độc lập tự
chủ hòan toàn cho nước
ta sau hơn 1000 năm đô
hộ bởi phong kiến phương
Bắc. Những nền văn minh
chúng ta tiếp thu được
qua nhiều thế hệ hàng
nghìn năm đã tự biến
thành nền văn hoá riêng,
cụ thể là ảnh hưởng của
Tam Giáo vào văn hóa phong tục tập quán của dân Việt. Ba
tôn giáo lớn của Tam Giáo là Khổng, Lão và Phật giáo đã
thấm sâu vào hệ tư tưởng của nhân sĩ cho đến đời sống hằng
ngày của mọi tầng lớp dân chúng từ hàng nghìn năm trôi
qua.
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc
Tây…” bản nhạc Gia Tài Của Mẹ như một chất vấn của cố
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho đất nướcViệt Nam hôm nay khi
chúng ta sửa soạn đi tới năm cuối của thập kỷ đầu của năm
2000. Ôi! Gia tài của mẹ Việt Nam hôm nay còn lại những gì?
Tam
Giáo &
Việt
Nam
hôm
nay
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 21
7).
Tín là biết giữ chữ tín, nói phải giữ
lời, tức là không nói láo hay lật lọng.
Tín ở đây cùng với thực hành chữ
Dũng là dũng khí, kiên cường đứng
vững đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Tín cùng với tất cả những đức tính kể
trên mới đủ để xây dựng nên một
con người có nhân cách lớn, mà
người xưa thường gọi là quân tử. Đối
nghịch với quân tử là tiểu nhân hay
là kẻ không có tư cách, là kẻ thiếu
một trong những đức tính kể trên, và
quan trọng là lòng NHÂN.
Những giá trị của Đạo Khổng ở
Việt Nam xưa và nay
Tổ tiên dân Việt ta có truyền thống là
lĩnh hội những cái hay của ngoại
nhân và biến nó thành của mình, để
rồi khi thời cơ đến dùng chính thứ
học được của kẻ thù làm vũ khí vùng
lên giành lại độc lập. Giành được độc
lập rồi các vị minh vương vẫn giữ lấy
những lề lối giá trị tôt đẹp ấy để tiếp
tục phát triển giang san. Thực tế lịch
sử đã chứng minh cái sức mạnh của
cơ chế tuyển lựa nhân tài bằng thi cử
cho các vị trí then chốt điều hành của
đất nước. Cơ chế đó đã tồn tại và
tiếp tục sử dụng đến thế kỷ XXI hiện
nay, tại tất cả các nước đã và đang
phát triển bằng hệ thống thi cử vào
các đại học & cao đẳng để đào tạo
đội ngũ kế thừa, nhằm cung cấp đào
tạo nguyên khí cho quốc gia. Số
lượng người tài đức chính là nguyên
khí phát triển của một quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay vẫn áp dụng hệ
thống thi cử để bồi bổ nguyên khí mà
sao cứ như là hết hơi vậy. Sự bổ
nhiệm nắm các vị trí then chốt được
dựa trên tiêu chuẩn người hiền tài thì
ít, mà căn cứ trên lý lịch và Đảng tịch
thì nhiều. Chính cái cơ chế này đã
bóp chết nguyên khí quốc gia. Xét lý
lịch thành phần gia đình vẫn tiếp tục
được duy trì để ưu đãi cho các con
ông cháu cụ sau hơn 30 năm hòa
bình lập lại. Sự áp dụng phân biệt đối
xử phi lý đã xua đuổi nguyên khí
quốc gia rời bỏ đất nước. Số ở lại thì
kẻ có tài chạy qua khu vực tư nhân,
hay do chủ có nguồn vốn nước ngoài.
Sự phân chia giai cấp, thành phần
gia đình, giới tính cũng là những điển
hình trục lợi biến thái từ Khổng giáo
chân chính. Khổng Tử chủ chương cơ
hội học hỏi tiến thân bình đẳng cho
tất cả mọi con dân, không phân biệt
ưu đãi cho riêng thành phần thứ dân
nào (Colin Mackerras trang 83 dòng
1). Sự biến thái từ gốc rễ ăn sâu vào
trong xã hội Việt Nam, từ sự hành
xử của người dân cho đến thái độ của
Đảng và những người cầm quyền.
Người dân theo thói quen phục tùng
thế quyền, vâng lệnh răm rắp mệnh
lệnh từ trên ban xuống, xem tất cả
những gì báo đài đưa tin là chân lý.
Sự trung thành tuyệt đối không được
quyền chất vấn với Đảng, thực chất
là áp dụng giá trị Khổng giáo của đức
trung nghĩa. Thế nhưng Đảng từ
Cách mạng mùa Thu đến nay xem
như đã kiên quyết đánh đổ và xóa
sạch phong kiến từ lâu rồi. Lề thói
gia trưởng trong các gia đình trẻ Việt
Nam nơi thành thị đã gần như không
còn, nhưng vẫn tồn tại trong thái độ
của Đảng và nhà nước trong công
việc trị dân, như cha như mẹ ban
phát phép tắc cho con cái.
Đó là sự băng hoại đạo đức, nhổ toẹt
vào công sức của cha ông ta ngày
trước. Ôi, thương thay cho dân Việt
với truyền thống “Nhân-Trí-Dũng” đã
lụi tàn chỉ sau 35 năm đảng lãnh
đạo. Thử hỏi thành phần đã ngang
nhiên xổ toẹt Hiệp định Paris được ký
kết trước quốc tế thì làm sao có đủ
đức thể làm gương hay lãnh đạo đất
nước?
Mai Minh
Mời các bạn theo dõi Phần II – Lão &
Phật Giáo - trong số tới.
Nguồn trích dẫn:
http://lichsuvietnam.info/index.php?
op-
tion=com_content&task=view&id=2&
Itemid=3
http://www.saigoninfo.com/vanhoa/
religions.php
Eastern Asia an Introductory His-
tory, biên tập bởi Colin Mackerras,
Longman Cheshire 1994
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 22
Tự do tôn giáo xưa nay luôn là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, song song với
quyền tự do ngôn luận và bày tỏ chính kiến.
“Separation of church and state,” tạm dịch “sự cách ly giữa tôn giáo và chính quyền,” là khái niệm
luôn đi đôi với quyền “tự do hành đạo” để trở thành tự do tôn giáo (TDTG). Tự do hành đạo là
những quyền bao gồm như cúng bái, tế lễ, thờ phượng, truyền giáo và phát hành tài liệu tôn giáo
không có sự can thiệp của nhà nước. Bài viết này xin giới thiệu đến qúy độc giả khái niệm “cách ly
Việt Nam và “Separation
of Church and State” Ý kiến và quan điểm về tự do tôn giáo tại Việt Nam
Trần Quốc Tuấn
1. Nguồn Gốc
Khái niệm trên khởi nguồn từ thế kỷ
XV, khi giáo sĩ Martin Luther1 xuất
bản tác phẩm “Doctrine of the Two
Kingdom of God” trong đó đoạn nổi
bật là: “Civil government has no busi-
ness in enforcing spiritual laws” (xin
tạm dịch: “Chính quyền dân sự không
thi hành luật tâm linh”). Đây nêu rất
rõ rằng chính quyền không nên xen
vào những vấn đề nội bộ tôn giáo.
Sau Martin Luther, John Calvin2 tiếp
nối và mở rộng khái niệm trên khi ông
xuất bản tác phẩm “Institutes of the
Christian Religion” năm 1536.
2. Thực thi “Seperation of Church
and State”
Khái niệm “separation of church and
state” đã thành hiện thực tại Hoa Kỳ
khi những nhà lập quốc học được bài
học lịch sử cay đắng của Châu Âu. Họ
hiểu và biết được rằng khi chính
quyền hay tôn giáo xen vào việc của
nhau thì thảm hoạ sẽ xảy ra. Điển
hình là chín cuộc Crusades3 (Thập Tự
Chinh) kéo dài gần 200 năm làm hàng
triệu người phải hy sinh oan uổng.
Đấy là chưa kể đến những cuộc nội
chiến hoặc bất ổn chính trị tại Anh,
Pháp, Tây Ban Nha và nhiều nước
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 23
khác. Vì vậy, Hiến pháp Hoa Kỳ vào
năm 1791 đã hiến định: “Congress
shall make no law respecting an es-
tablishment of religion, or prohibiting
the free exercise thereof4.” Nghĩa là
“Quốc hội không làm luật để tôn trọng
sự hình thành của tôn giáo, hoặc cấm
tự do hành đạo.” Qua đây, chính phủ
không được thành lập tôn giáo quốc
doanh, bợ đỡ một tôn giáo, ghét bỏ
một tôn giáo, hoặc xen vào chuyện
thường ngày của một tôn giáo nào.
Điều đó cũng không có nghĩa là cá
nhân tín đồ, lãnh đạo tôn giáo không
bị pháp luật trừng trị khi phạm tội.
Brazil5 đã theo gương này của Mỹ năm
1890. Úc nối bước năm 1901 và kế
đến là Pháp năm 1905. Anh Quốc là
trường hợp cá biệt vì vua Henry VIII
tự dựng lên giáo hội Anh Quốc vào đầu
thế kỷ XVI, tách chính quyền ra khỏi
sự khống chế của Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mã. Anh Quốc đến nay có hiến
định tôn giáo chưa thành văn
(unwritten Constitution), và tôn giáo
đều dựa theo phong tục, truyền thống
của nước này. Khái niệm “separation
of church and state” cũng đã hiện
hành ở các nước Châu Á như Ấn Độ
(1949), Nhật Bản (1947), Singapore
(1963), Philippines (1987), Nam Hàn
(1987), Mông Cổ (1992), Thái Lan và
Đài Loan (không rõ năm).
3. Việt Nam có thực thi
“Seperation of Church and state”?
Tuy điều 70 Hiến pháp Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam5 có hiến định
“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào”, nhưng lại có nhiều mâu
thuẩn, chồng chéo, không rõ ràng. Vì
đoạn cuối của điều 70 cũng hiến định
“Không ai được lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước”. Năm 2004,Quốc
Hội Việt Nam ban hành Pháp lệnh Tín
ngưỡng-Tôn giáo6 (PLTNTG) và hầu
hết những điều trong đó đã tạo bàn
đạp pháp lý để chính quyền xen vào
chuyện thường ngày của tôn giáo khi
cần. Một số điều luật và quy luật đáng
quan tâm:
Điều 12 ghi rằng: “Người phụ trách tổ
chức tôn giáo cơ sở có trách nhiệm
đăng ký chương trình hoạt động tôn
giáo hàng năm và [phải được] thẩm
quyền chấp thuận việc tổ chức lễ hội
tín ngưỡng do Chính phủ quy định”.
Điều 16 đòi hỏi hàng loạt điều kiện để
nhà nước “công nhận” một cơ sở tôn
giáo.
Điều 22 thì quy định khi một cơ sở tôn
giáo “phong chức, phong phẩm, bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn giáo”
phải hội đủ những điều kiện như “công
dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt,
có tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân
tộc” và cũng phải thông báo và đăng
ký với chính quyền.
Điều 23 quy định khi di chuyển để
truyền giáo, các nhà tu phải thông báo
và đăng ký với Ủy ban Nhân dân cấp
huyện.
Điều 24 quy định “Việc thành lập
trường đào tạo những người chuyên
hoạt động tôn giáo phải được sự chấp
thuận của Thủ tướng Chính phủ”.
Thực tế cho thấy Nhà nước Việt Nam
có quá nhiều điều khoảng và quy định
dành riêng cho tôn giáo. Đây rõ ràng
chính phủ muốn kềm chế và quản thúc
tôn giáo. Và điều này là sự xâm phạm
trắng trợn đến tự do tôn giáo, đi
ngược lại công ước quốc tế mà Việt
Nam đã cam kết.
4. Thay lời kết
Qua điều 70 Hiến pháp CHXHCN Việt
Nam và những quy định trong Pháp
Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo, chính
quyền có thể xen vào chuyện nội bộ
tôn giáo bất cứ lúc nào bằng cách
chụp mũ cho tôn giáo đó phạm vào
điều này, luật kia. Và vì việc hành đạo
còn bị hạn chế bởi quá nhiều quy định
nhà nước, từ cấp tỉnh lên đến Thủ
tướng!
Do dó, Viêt Nam vẫn chưa thật sự,
đúng hơn là chưa bao giờ có sự cách ly
giữa chính quyền và tôn giáo. Thiết
nghĩ nếu tín ngưỡng không bị ảnh
hưởng và khống chế tại Việt Nam, có
lẽ những xung đột đáng tiếc giữa tôn
giáo và chính quyền đã không xảy ra
và gây cho thế giới nhiều bất bình đến
như hiện nay.
Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã từng bị kết
án nhiều năm tù vì hoạt động tôn giáo .
Tài liệu tham khảo
1.Giáo sĩ Martin Luther và tác phẩm Doctrine of
the two Kingdoms of God http://
en.wikipedia.org/wiki/
Doctrine_of_the_two_kingdoms
2. Giáo sĩ John Calvin và tác phẩm Institutes of
the Christian Religion
http://en.wikipedia.org/wiki/
Institutes_of_the_Christian_Religion
3. Những cuộc Thập Tự Chinh từ năm 1095-1291
http://en.wikipedia.org/wiki/Crusade
4. Amendment I trong Hiến Pháp Hoa Ky, được
phê chuẩn năm 1791
http://www.archives.gov/exhibits/charters/
constitution_transcript.html
5. Điều 70 Hiến Pháp Việt Nam hiện hành
http://
laws.dongnai.gov.vn/1991_to_2000/1992/19920
4/199204180001
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 24
Tu Viện Bát Nhã Quán Niệm
“Hơi Thở Để Khắc Chế Khổ Hạnh” Gần đây vấn đề tu viện Bát Nhã đã gây rất nhiều chú ý cho dư luận, đặc biệt các báo chí
quốc tế. Nhóm tu theo Pháp Môn Làng Mai của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã bị gây khó
dễ, cách ly và đỉnh điểm là gần 400 tăng ni đã bị trục xuất ra khỏi tu viện ngày 27-9-
2009. Tuy nhiên, các vị tăng ni vẫn không hề phản kháng.
Khởi nguồn của pháp nạn
Theo thầy Thích Trung Hải nói với
RFA thì “sau khi nghe theo sự kêu
gọi của thượng tọa Đức Nghi, có
công văn chấp thuận của giáo hội
Phật giáo Việt Nam và ban Tôn
giáo chính phủ thì chúng tôi xuất
gia tu học tại tu viện Bát Nhã
theo pháp môn Làng Mai”. Tăng
Ni ở tu viện gần 400 người đã ở
đây tu tập đã lâu. Gần đây
Thượng tọa Thích Đức Nghi, trụ
trì của viện đã bãi bỏ việc bảo
lãnh này và ông đã phối hợp với
chính quyền để trục xuất các tăng
ni. Cũng theo thầy Thích Trung
Hải (đã từng tu tập tại viện Bát
Nhã và hiện đang tu tập tại Pháp)
trong một cuộc phỏng vấn với
RFA thì nguyên nhân khiến
Thượng Toạ Thích Đức Nghi thay
đổi là vì “định hướng của những
người tu tập theo pháp môn Làng
Mai và định hướng của Thượng
Toạ Đức Nghi có sự khác biệt”.
Tuy nhiên theo nguồn tin từ AP
(hãng thông tấn xã của Pháp),
việc chính quyền gây áp lực cho
tu viện bởi họ muốn hạn chế sự
ảnh hưởng đang ngày càng mạnh
mẽ của Thiền Sư Nhất Hạnh đối
với giới trẻ. Cũng cần nhắc lại
rằng thiền sư Thích Nhất Hạnh đã
được thế giới đánh giá là người có
đạo hạnh cao thâm. Và Ngài cũng
đã từng kêu gọi chính quyền mở
rộng quyền tự do tôn giáo và ủng
hộ Đức Đạt La Lạt Ma của Tây
Tạng.
Pháp Nạn
Tháng 8 vừa qua nhà nước đã có
công văn buộc các tăng ni ở tu
viện đến hết ngày 2 tháng 9 thì họ
phải rời khỏi tu viện. Lý do của
việc trục xuất này được cho là tu
viện không xin phép Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam. Tuy nhiên, theo lời
của ông Trần Kiến Đoàn (đã từng
giữ chức vụ liên đoàn trưởng Phật
Tử ở Việt Nam) thì Làng Mai Bát
Nhã là hợp pháp vì “vào năm
2006, bằng công văn số 525 cuả
TGCP ( tôi còn nhớ như thế) thì
Ban Tôn giáo Chính phủ đồng ý
cho Làng Mai Bát Nhã tu học theo
pháp môn Làng Mai”.
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 25
Từ tháng 7, 2009, tu viện bị cúp
điện nước. Các tăng ni của cả ba
xóm phải sử dụng đèn cầy và dùng
nước lấy ở suối. Từ ngày 20 tháng
9, tình hình Bát Nhã bắt đầu nóng
lên khi các nhóm thanh niên bên
ngoài đến quậy phá tu viện.
Đến ngày 27 tháng 9 thì công an,
côn đồ, Thượng tọa Thích Đức Nghi
và đệ tử cùng với nhóm phật tử tu
tại gia đã xong vào tu viện đánh
đập tăng ni và đập phá thiền viện.
Theo Người Việt thì số người này
khoảng 400 người và nhân viên an
ninh được trang bị cả máy quay
phim hiện đại. “Họ đi cạy cửa từng
phòng rồi đuổi các thầy, các sư chú
ra ngoài giữ lúc trời mưa rất lớn,”
một tăng sinh giấu tên cho báo
Người Việt biết. Họ bắt nhóm tu
học này ra khỏi tu viện và lôi các
tăng sĩ lên xe chở đi và bỏ xuống
giữa đường. Các thầy lớn thì bị
đánh đập nhiều nhất, đến đổ máu
vì họ cho rằng các thầy chính là
chỗ dựa tin thần cho các môn đồ.
Cũng theo Người Việt thì hiện nay
thầy Pháp Hội và thầy Pháp Sĩ đã
bị công an bắt đưa về địa phương.
Thảm hại hơn, có các tu sĩ trẻ vì
thấy thầy của mình bị bắt lên taxi
thì đã đưa đầu của mình vào bánh
xe để ngăn không cho xe chạy. Vị
tu sĩ trẻ đó cũng bị đánh đến túa
máu và ngất xỉu. Chỉ trong vòng
một ngày, tất cả gần 400 tăng ni
đã bị ép ra đi trong mưa gió và
phải đi bộ đến chùa Phước Huệ
cách đó hơn 17 cây số trú tạm qua
đêm. Hiện tại các tăng ni rất lạnh
và đói.
Tuy nhiên, cũng theo RFA thì tại
chùa Phước Huệ, thượng toạ trụ trì
Thích Thái Thuận được công an ra
lệnh là “chỉ cho phép bảo lãnh
trong vòng 24 giờ”. Nghĩa là đến
ngày 28 thì các vị này phải đi tìm
cho ra một nơi khác! Công an còn
cho rãi truyền đơn nói chùa Phước
Huệ chứa chấp “phản động” và
buộc họ đuổi các vị tăng ni Làng
Mai đi.
Lấy tĩnh khắc động
Được biết khi bị đánh và bị lôi kéo
thì các vị tăng ni vẫn ngồi cùng
nhau theo kiểu hoa sen. Họ đã
được dạy là dùng hơi thở chánh
niệm để giữ vững tinh thần. Theo
lời của vị tăng sĩ trẻ giấu tên trong
bài phỏng vấn với Người Việt thì
tinh thần của Sư Ông Thích Nhất
Hạnh là bất bạo động. Chính vì
thế, Ngài chưa có phản ứng chính
thức nào mặc dù sự việc tu viện
Bát Nhã đã bị nạn hơn 2 tháng.
Điều này rất dễ hiểu vì Thiền Sư
đã khẳng định dùng sự hiểu biết và
lòng yêu thương để chế ngự đau
khổ. Xin được trích một đoạn trong
Đường Xưa Mây Trắng của Thiền
Sư như thay cho lời kết:
Biết tâm ý của Rahula đã đến lúc
có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát.
Bụt dạy:
- Này Rahula, con học theo hạnh
của đất. Dù người ta đổ và rải lên
những thứ tinh sạch và đẹp đẽ như
hoa, nước thơm, sữa thơm, hoặc
người ta đổ lên đất những thứ dơ
dáy hôi hám như phân, nước tiểu
và máu mủ, hoặc người ta khạc
nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp
nhận tất cả những thứ ấy một cách
thản nhiên, không vui vẻ mừng rỡ
mà cũng không chán ghét tủi nhục.
Cũng như thế, khi những cảm thọ
khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh,
con đừng để cho chúng làm nhiễu
loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.
Con hãy học theo hạnh của nước.
Khi người ta giặt rửa những thứ dơ
bẩn trong nước, nước cũng không
vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn
khổ và chán chường. Con lại nên
học hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi
thứ, kể cả những thứ dơ bẩn, vậy
mà lửa cũng không vì thế mà cảm
thấy tủi nhục, buồn khổ và chán
chường. Con lại cũng nên học hạnh
của không khí. Không khí thổi đi
các thứ mùi, mà vẫn không cảm
thấy tủi nhục, buồn khổ và chán
chường. Rahula, con hãy tu tập
lòng Từ để đối trị giận hờn. Lòng
Từ là lòng thương yêu được thực
hiện bằng cách đem lại niềm vui
cho kẻ khác. Từ là thứ tình thương
không có điều kiện và không chờ
đợi sự đền trả.
Con hãy tu tập lòng Bi để đối trị
tàn ác. Lòng Bi là lòng thương yêu
được thực hiện bằng cách làm vơi
đi sự khổ đau nơi người khác. Bi
cũng là thứ tình thương không có
điều kiện và cũng không chờ đợi sự
đền trả. Con lại phải tu tập lòng Hỷ
để đối trị ganh ghét. Lòng Hỷ là
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 26
lòng vui phát sinh từ khả năng vui
theo cái vui của người khác và niềm
ước ao làm sao cho kẻ khác được
an vui, mong cho kẻ khác được
thành công và hạnh phúc. Con lại
nên tu tập lòng Xả để đối trị kỳ thị
và vướng mắc. Lòng Xả là tâm niệm
thanh thoát và cởi mở đạt được do
sự nhận thức về tính cách tương
quan bình đẳng giữa mọi loài; cái
này như thế này vì cái kia như thế
kia, mình và người không phải là
hai thực thể riêng biệt, không nên
ghét bỏ cái này để đi nắm bắt một
c á i k h á c .
Rahula, Từ, Bi, Hỷ và Xả là bốn tâm
tư lớn, rộng rãi không có bờ bến và
cũng đẹp đẽ không cùng, đó gọi là
Tứ Vô Lượng Tâm. Tu tập theo phép
này thì mình trở nên một nguồn
suối mát đem lại sinh lực và niềm
vu i cho t ấ t cả vũ t rụ .
Rahula, con lại phải quán chiếu về
vô thường để phá trừ ảo tưởng về
cái “ta”. Con phải quán chiếu về
tính sinh diệt và thành hoại của
thân thể để hiểu sâu về sống chết
và để thoát ly tham dục, và nhất là
con phải tập quán niệm hơi thở.
Quán niệm hơi thở sẽ đem lại nhiều
thành quả lợi lạc lớn.
(Đường Xưa Mây Trắng, Thích
Nhất Hạnh)
Hoàng Đan Chi
Nguồn:
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/
anmviewer.asp?a=101945&z=196
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/
Opinion-of-a-buddhist-intellectual-about-
prajna-monastery-incident-q-a-
09292009155317.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/
first-reaction-about-the-violent-eviction-at-
prajna-monastery-GMinh-
09282009103040.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/
updated-on-the-eviction-and-crackdown-at-
prajna-monastery-TTruc-
09302009151834.html
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 27
Tôn Giáo Theo Marx
Theo Marx, “Religious distress is at
the same time the expression of real
distress and the protest against real
distress. Religion is the sigh of the
oppressed creature, the heart of a
heartless world, just as it is the spirit
of a spiritless situation. It is the
opium of the people. The abolition of
religion as the illusory happiness of
the people is required for their real
happiness. The demand to give up the
illusion about its condition is the de-
mand to give up a condition which
needs illusions” (Karl Marx, Critique
of Hegel’s Philosophy of Right).
“Nỗi đau khổ của tôn giáo vừa là biểu
hiện của sự đau khổ và vừa chống lại
cái đau khổ thật đó. Tôn giáo là tiếng
thở của sinh vật bị áp bức, trái tim
của một thế giới vô tình, vì đấy là tinh
thần của một tình huống không có
tinh thần. Tôn giá là thuốc phiện của
nhân dân. Việc bãi bỏ tôn giáo như
một hạnh phúc viễn vông của nhân
dân là cần thiết cho hạnh phúc thật
sự của họ. Nhu cầu để bỏ ra ảo giác
về tình trạng của tôn giáo là nhu cầu
để bỏ ra một điều kiện đòi hỏi ảo
tưởng”
Thông thường, chúng ta thường được
nghe “Religion is the opium of the
people.” “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” mà không được chú thích
rõ ràng là câu này được trích lược từ
văn cảnh nào. Thậm chí đôi khi chúng
ta còn được cảnh tỉnh là “tôn giáo là
công cụ áp bức” (“Religion is the sigh
of the oppressed creature”). Nhưng
nếu đọc toàn bộ văn đoạn trên, rõ
ràng là Marx nói không chỉ có vậy như
một số người đã nhận thức.
Trong đoạn văn trên, Marx đã chỉ rõ
mục tiêu mà tôn giáo hướng tới là tạo
ra những hình ảnh tưởng tượng không
thực tế, cho những kiếp người nghèo
khổ. Thực tại kinh tế đã cản trở họ tìm
kiếm hạnh phúc thực sự trong cuộc
đời. Do đó, tôn giáo nói với họ rằng
chúng ta hoàn toàn có thể tìm kiếm
hạnh phúc đích thực ở kiếp sau. Mặc
dù đây là một sự chỉ trích tôn giáo
nhưng Marx đã nêu lên trên cơ sở một
sự đồng cảm thực sự, rằng: con người
đang đau khổ và tôn giáo mang lại
cho họ một sự an ủi, xoa dịu giống
như là việc con người dùng thuốc
phiện để tránh nỗi đau thể xác vậy.
Nhận định trên của Marx sau đó cũng
không phủ định cụ thể bất kì một tôn
giáo nào. Nhiều khi, ngay cả những
trích dẫn mở rộng không mấy trung
thực rằng tôn giáo là công cụ áp
bức, là dấu hiệu của áp bức...được
trích ra, đồng thời bỏ sót lời nhận
định của Marx rằng “Tôn giáo cũng
đồng thời là trái tim trong một thế giới
không tim.” Như vậy ở đây rõ ràng
Marx có ý chỉ trích xã hội hơn là tôn
giáo, xã hội không tim và tôn giáo chỉ
cố gắng thực hiện sứ mệnh của mình
là mang lại một chút ít sự an ủi trong
xã hội đó. Ai đó có thể tranh luận rằng
Marx đã xác nhận một cách thiên vị
rằng tôn giáo đã cố trở thành một trái
tim trong một thế giới không tim? Vì
lẽ đó tôn giáo không phải là một vấn
đề hay mối nguy hại thực sự. Tôn giáo
chỉ tạo ra những ý tưởng nhất định, và
những ý tưởng này phản ánh những
hình ảnh của thực tế. Tôn giáo chỉ là
một triệu chứng của một xã hội bệnh
tật, bản thân nó không phải là bệnh
tật.
Sẽ là sai lầm khi chúng ta nghĩ rằng
Marx không chỉ trích tôn giáo. Marx
trỉ trích ở góc độ tôn giáo có thể đã cố
gắng mang lại một trái tim song nó
đã thất bại. Với Marx, vấn đề rất rõ
ràng rằng thuốc phiện không chữa trị
tận gốc được vết thương thể xác. Nó
thuần túy chỉ giúp ta quên đi nỗi đau
thương. Tương tự, tôn giáo không
chữa trị được nguyên nhân sâu xa
gây ra nỗi đau mà thay vào đó nó
giúp con người quên đi và hướng họ
tưởng tượng về tương lai không
thương đau. Ngay cả khi xấu nhất,
liều thuốc này bị kiểm soát bởi những
kẻ bị trị, những kẻ gây ra những khổ
đau cho nhân loại, tôn giáo vẫn là
hiện thân chủ yếu của nỗi đau khổ, là
triệu chứng chủ yếu của một thực tế
bị kìm kẹp, ngột ngạt. Mong muốn
con người sẽ tạo nên một xã hội mà ở
Tuổi Trẻ &
Tôn Giáo
tại Việt Nam Mỗi lần làm sơ yếu lý lịch để
chuẩn bị cho một công việc
trọng đại trong cuộc đời
như thi cử, xin việc, kết
hôn, những ai là công dân
Việt Nam đều tuần tự điền
qua rất nhiều mục về thông
tin cá nhân trong đó có mục
tôn giáo. Nhiều bạn trải qua
mục này đều điền chữ
"Không" với một thái độ rất
thờ ơ. Điều này lại rất quan
trọng đối với nơi tiếp nhận
hồ sơ của bạn. Bởi đó là
một trong những bằng
chứng về sự trong sạch
(hay không trong sạch) của
lý lịch một người. Điều này
can dự rất lớn đến cuộc đời
một con người. Tôn giáo
theo người cộng sản là gì
mà không đội trời chung với
hệ thống chính quyền tại
Việt Nam vậy?
TIÊU ĐIỂM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 28
đó các điều kiện kinh tế xã hội đảm
bảo cho con người, để con người
không phải cần đến tôn giáo như một
liều thuốc xoa dịu nỗi đau tâm thân.
Marx không mong muốn xây dựng xã
hội hoàn toàn gạt bỏ tôn giáo.
Như vậy, dù không thích tôn giáo
song Marx không xem tôn giáo là kẻ
thù cơ bản của những người công
nhân và những người cộng sản, mặc
cho những gì người cộng sản đã làm
trong thế kỉ 20. Vì nếu tôn giáo là kẻ
thù nguy hiểm của những người này
hẳn Marx sẽ dành nhiều bút lực hơn
để viết thay vì hướng trọng tâm chú ý
tới cấu trúc kinh tế-xã hội, cái mà
trong suy nghĩ của ông mới là nguyên
nhân áp bức con người.
“Thủ Ngôn Đoạt Ý”
Hầu hết những ý tưởng trên của Marx
đã bị xuyên tạc hoặc làm sai lạc đi.
Kết quả là đại đa số thanh niên Việt
Nam chúng tôi bây giờ là một mặt là
người vô thần song vẫn phải tôn thờ
Chủ nghĩa Marx-Lê nin và tư tưởng Hồ
chí Minh như một thứ tôn giáo cưỡng
bức. Phần đời chúng tôi va chạm với
đủ loại bất công đau khổ nhưng phần
tâm linh thì đến một liều thuốc phiện
cũng không có. Và giờ đây chúng tôi
nhìn sang các tôn giáo khác nửa kì thị
nửa ngượng ngập. Tôn giáo nào cũng
dạy phải Tin, mà giờ đây chúng tôi
chẳng còn tin gì nữa.
Ngày nay có vị công quyền nào được
như Nguyễn Trãi, thao thức bồi hồi
lặng nghe xem khắp thôn cùng xóm
thẳm không có một tiếng hờn giận
oán sầu, để gieo chữ Hoà cho quốc
nhạc. Ngày nay có thể người ta cũng
nghe nhưng nghe để chặn. Tôn giáo
trong một xã hội không yên ổn cũng
gắng làm phận sự của mình, tạo nên
trái tim trong một xã hội không tim
(Marx), vì thế đây là một cơ hội cho
các con chiên hay tín đồ âm thầm nức
nở. Không may, chính quyền đánh hơi
được là chùa tan chuông đổ. Hẳn là
phải triệt tận gốc tôn giáo thì người
cộng sản nói chung và người cộng sản
Việt Nam mới đẹp lòng toại ý để yên
vị trên quyền lực lãnh đạo quần chúng
đi lên thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Thay lời kết
Như vậy ngay cả cách nói của Marx
thì, bản thân tôn giáo không xấu dù
theo ông đấ là thuốc phiện. Gạt bỏ
tôn giáo khỏi đời sống người dân là
không tưởng. Chuyện tưởng như việc
mở một cánh đi ngược thời gian trở về
thế kỉ 12, 13 bắt hết vua quan nhà
Lê-Lý-Trần, đạp đổ hết chùa tượng,
hoặc hành quân sang Ấn Độ và Roma
bắt Phật tổ, chúa Jesu và cả đức
Giáo hoàng!
Huyền Tâm
Nguồn: http://atheism.about.com/od/
philosophyofreligion/a/marx.htm
Góc SINH VIÊN & HỌC SINH Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 29
I. Việc làm thêm cho sinh viên
tại Pháp :
Sinh viên nước ngoài, mọi quốc tịch, du học tại Pháp đều có thể
làm việc để có thêm thu nhập.
Tuy nhiên các điều kiện lao động
của sinh viên nước ngoài được
luật pháp quy định rất rõ.
Trong năm học, thời gian làm
việc tối đa cho phép là 20h một
tuần. Tức là khoảng 965h một
năm số giờ làm việc tối đa. Sinh viên làm thêm ở đây sẽ được trả
theo lương SMIC (Salaire mini-
mum Interprofessionnel de Crois-
sance = lương tối thiểu) tức là 8,71€/giờ chưa trừ thuế hay
6,78€/giờ sau khi trừ thuế.
Tất cả sinh viên, kể cả sinh viên
nước ngoài theo học tiếng tại Pháp đều có thể làm việc từ năm
đầu tiên. Trước đây, phải có giấy
phép làm việc tạm thời
(Autorisation provisoire de tra-
vail) do Sở Lao động việc làm (Direction départementale du tra-
vail et de l'emploi - DDTE) cấp.
Nhưng kể từ ngày 1/7/2007, việc
đó trở nên không cần thiết. Sinh
viên có thể thoải mái đi làm mà
không cần giấy phép này.
Việc làm cho Sinh viên thì vô
cùng phong phú và đa dạng, từ việc giao bánh mì, phát thư, làm
thu ngân cho các siêu thị, nhân
viên bán hàng, bán quần áo,
quầy bán thức ăn nhanh, bổi
bàn.. đến các công việc được coi là nhẹ nhàng như giúp việc nhà,
giữ trẻ, gia sư, phiên dịch…
Công việc thì lúc nào cũng có rất
nhiều, nhưng mà tìm được cũng lắm gian truân. Đa số các bạn
vào trang www.anpe.fr gửi CV
(Curriculum Vitae). Nếu may mắn
hơn có người quen giới thiệu thì tuyệt vời, còn không thì phải chịu
khó đi rải đơn xin việc khắp nơi
và chờ đợi kết quả.
Ngoài ra trong các trường đại học, dịch vụ việc làm tạm thời
cho sinh viên "Emplois temporai-
res étudiants" của CROUS luôn có
thông báo hàng ngày về việc làm
tạm thời cho sinh viên. Tuy nhiên phải đến hỏi tận nơi, và
nhớ mang theo thẻ sinh viên, hộ
chiếu.
Bạn có thể tìm được các việc như thư ký, nhà hàng... nếu chịu khó
để ý các bảng thông báo tại Thị
chính (Mairie) và Trung tâm
thông tin (Centre d'information et d'orientation, CIO) nơi bạn ở.
II. Chuyện dở khóc dở cười
Đôi khi làm cho bà chủ là người
Việt gốc Hoa, làm hai ca từ 10 giờ
đến 15 giờ chiều, rồi từ 18 giờ đến 24 giờ khuya, vậy mà lương
vỏn vẹn 40 euro. Tính ra chưa tới
4 euro/giờ, trong khi mức lương
tối thiểu quy định (SMIC) lúc đó hơn 6 euro/giờ.
Lương trả ít, bà chủ còn thu hết
tiền pourboire (tiền bo) của
khách, bảo bỏ vào ống heo, cuối tháng chia chung cho mọi người.
Thế nhưng cuối tháng không thấy
tiền đâu! Mấy năm nay, lương
SMIC tăng nhưng lương các nhà hàng châu Á vẫn vậy.
Không chỉ trả lương thấp, các nhà
hàng châu Á còn trốn thuế, tức
không khai báo có nhận người
làm hoặc có khai thì chỉ khai làm một, hai giờ/ngày, vì họ phải trả
Tranh biếm họa : Tuyển dụng Minh họa @illustration
đi làm
thêm
tại
Pháp
Sinh viên
Góc SINH VIÊN & HỌC SINH Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 30
cho nhà nước gần 50% lương trả
cho SV. Hoặc có khi những người
chủ có giao kèo trước với sinh
viên, trên tờ giấy khai thuế họ chỉ khai số giờ làm quy định cho
sinh viên là 18h/ tuần, thực tế
thì sinh viên làm đến 35h, và
được trả lương đủ 35h, trong khi
người chủ chỉ cần trả số tiền thuế là 18h cho chính phủ .
Đi làm mà người chủ hoàn toàn
không khai báo, bên đây gọi là
làm chui, làm “noir” hay “black”. Giữa người chủ với sinh viên chỉ
có giao kèo bằng miệng, không
kí hợp đồng. Kiểu làm này rất
nguy hiểm bởi nếu có vấn đề gì phát sinh, sinh viên sẽ không có
bằng chứng để lên tiếng đòi
quyền lợi, và nếu có tai nạn nghề
nghiệp xảy ra, sinh viên phải chịu hoàn toàn thiệt hại mà
không được đền bù. Hơn nữa,
nếu gặp thanh tra đến kiểm tra
giấy tờ đột xuất, sinh viên có
nguy cơ bị trục xuất, còn chủ có thể bị ba năm tù giam, nộp phạt
45.000 euro và đóng cửa tiệm
trong vòng 5 năm.
Luật là luật nhưng họ vẫn trốn thuế. SV ta vẫn nhắm mắt làm
chui vì không còn cách nào khác.
Mặt khác vì làm chui lương sẽ
nhận nhiều hơn so với việc làm kí hợp đồng chính thức, nên
nhiều người vẫn đánh liều lao
vào.
Tại Pháp, một số công việc làm ít
giờ có thể không cần khai báo nộp thuế như trông trẻ, phụ việc
nhà, gia sư. Sinh viên tự thỏa
thuận mức lương, giờ giấc làm
việc với chủ nhà. Người trả lương theo tháng, theo giờ, người trả
theo lương SMIC hay hơn một tí,
nói chung là khá thoải mái. Sinh
viên đa số ưu tiên các việc làm này, nhưng thông thường giờ
giấc không được ổn định vì còn
phải tùy thuộc vào chủ nhà. Nếu
đi làm toàn thời gian trong ba tháng hè, sinh viên có thể thu
nhập tới 4.000-5.000 euro.
Với thu nhập này, sinh viên đủ
trang trải cho chín tháng học mà
không cần chạy đôn chạy đáo làm thêm trong năm học. Đó là
lý do tại sao nhiều sinh viên mấy
năm liền không về thăm gia đình
trong dịp hè.
Hiện nay, Pháp là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng
nhiều do khủng hoảng kinh tế.
Điều đó làm cho cơ hội kiếm việc
của sinh viên càng thêm khó
khăn, vì vậy bạn cần phải có thật nhiều sự năng động và kiên nhẫn
trong hoàn cảnh hiện nay.
III. Để không "bí" khi trả lời
phỏng vấn xin việc làm...
Nhiều sinh viên thường tỏ ra rất
e dè khi bước vào vòng phỏng
vấn trực tiếp vì còn ngần ngại
vốn tiếng Pháp chưa thông thạo. Và thế là họ bị nhà tuyển dụng
bắt bí liên tục bởi những câu hỏi
tới tấp.
Xin giới thiệu với bạn những câu hỏi cơ bản mà hầu như trong
cuộc phỏng vấn trực tiếp nào
nhà tuyển dụng cũng đưa ra, để
bạn biết cách mà ứng phó.
1. Bạn hãy giới thiệu về bản thân mình
Đây là câu hỏi kinh điển và cực
kỳ quen thuộc. Câu hỏi này
thường mở đầu cho cuộc phỏng vấn. Hãy nắm ngay cơ hội này
để giới thiệu về những khả năng,
thói quen tốt trong nghề nghiệp
của bạn... Hãy tập trung hướng
câu trả lời của bạn vào công việc, và những gì liên quan đến
việc mà bạn đang muốn xin vào
làm. Đừng làm mất thời gian của
họ bằng cách dài dòng "tôi năm nay X tuổi, sinh ra tại tỉnh Y, tốt
nghiệp trường đại học Z...".
Những thông tin này đã có trong
C.V của bạn. Chẳng hạn nếu xin vào làm việc tại tiệm thức ăn
nhanh, có thể bắt đầu
bằng : « thức ăn yêu thích của
tôi là Mac Donald … »
2. Điểm mạnh của bạn là gì?
Hãy chỉ ra những điểm tích cực
của bạn có liên quan đến công
việc bạn muốn xin vào. Đó có
thể là những điểm tốt thuộc về chuyên môn hoặc tính cách.
3. Điểm yếu của bạn là gì?
Mỗi người đều có điểm yếu. Vì
thế, đừng dành quá nhiều thời
Thời đại huấn luyện ở cơ quan tìm kiếm việc làm
« Cắt một kiểu tóc thiệt chiến, sửa đổi dáng dóc lại, mặc quần áo hàng
hiệu.. Tôi sẽ làm cho chị trở thành một Ngôi Sao đi tìm việc » @JE95
Góc SINH VIÊN & HỌC SINH Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 31
gian để nói về điểm yếu của
mình, nhất là những điểm yếu có
liên quan đến công việc. Tốt nhất
là bạn nên nói về một hoặc hai điểm yếu vô hại với công việc.
Kiểu như "Tôi có tính hơi quá cẩn
thận. Làm việc gì cũng phải chi
li, kỹ lưỡng". Với mỗi điểm yếu
mà bạn kể ra, hãy cho nhà tuyển dụng thấy luôn là bạn đã có sẵn
điểm mạnh để khắc phục điểm
yếu đó. Kiểu như là: "Tính tôi
quá cẩn thận. Vì thế, tôi làm việc hơi chậm. Nhưng bù lại, tôi rất
nhiệt tình làm thêm giờ, và chăm
chỉ".
4. Tại sao bạn muốn làm việc ở đây?
Bạn phải tìm hiểu kỹ về nơi
muốn xin vào và đưa ra những lý
do cụ thể và thuyết phục. Tránh đưa ra những câu trả lời chung
chung kiểu "Vì tôi muốn làm
việc". Hãy giải thích cụ thể vì sao
bạn muốn làm việc tại đây: vì
nơi này gần nhà bạn, vì bạn thích công việc này, bạn cảm
thấy rằng công việc này phù hợp
với một người có tính cách như
bạn, không gian làm việc ở đây rất thoải mái và cởi mở, v.v…
5. Tại sao chúng tôi nên nhận
bạn vào vị trí tuyển dụng?
Nêu rõ những đặc điểm tích cực
của bạn phù hợp với vị trí này
(chuyên môn, tính cách, thái
độ...) và những kinh nghiệm quý báu mà bạn từng có thông qua
công việc cũ. Nếu bạn chưa từng
làm việc thì chỉ nói đơn giản là vì
bạn muốn có thêm kinh nghiệm
sống thực tiễn thông qua việc
làm này. Phải luôn nhấn mạnh
rằng bạn tin tưởng bản thân
mình phù hợp và hoàn toàn có khả năng để hoàn thành tốt công
việc này.
TN & NL tổng hợp
Hỏi thêm thông tin tại
A. Bureau des formations en alternance et des contrats thường tuyển sinh viên. Địa chỉ : 32, bd Henri-IV (4e). M° Bas-
tille, từ thứ 2 đến thứ 6, 9-17h.
B. Direction départementale du travail, de l'emploi et de la formation professionnelle de Paris; Direction des interven-tions en entreprises ; Bureau de la main d'œuvre étrangère: 127 boulevard de la Villette, 75010 Paris. Etudiants : 01
44 84 41 13 ou 01 44 84 41 14. Điện thoại : 01 44 84 42 86.
C. Trung tâm thông tin tư liệu thanh niên - Centre d'information et de documentation jeunesse (CIDJ) : Bạn có thể tìm thấy các thông báo tìm việc sinh viên cũng địa chỉ của các doanh nghiệp và tổ chức theo từng lĩnh vực hoạt động.
Địa chỉ: CIDJ, 101 quai Branly, 75015 Paris. Métro : Bir-Hakeim - RER ligne C : Champs de Mars. Điện thoại : 01 44 49
12 00 http://www.cidj.asso.fr
D. Các trung tâm thông tin của Paris (CIO), hoặc tại Mairie.
E. Direction des affaires scolaires de la Mairie de Paris (DASCO) thường tuyển "Surveillants d'interclasse" và
"Surveillants de cantine". Điện thoại: 01 42 76 38 04.
F. Rectorat de Paris thường tuyển "Enseignants" và "Surveillants": Division des personnels enseignants 94 av. Gambet-ta, 75984 Paris Cedex 2. Điện thoại 01 44 62 40 40.
G. Báo chí: tham khảo trang web của L'Etudiant (http://www.letudiant.fr) và luôn để ý nghiêm túc các thông tin việc
làm trên báo cũng như http://www.jobetudiant.com
H. Salon sinh viên quốc tế tại Paris: Salon về việc làm này nhắm tới các sinh viên nước ngoài và các thanh niên mới
tốt nghiệp đang tìm việc. Địa điểm: Cité Internationale Universitaire de Paris. Thời gian: mùa thu. Salon des Etudiants
Internationaux de Paris: http://www.worldstudent.com/salon_etu/
« Mục tiêu của chúng tôi là đào tạo anh trở thành một người kiếm việc
CHUYÊN NGHIỆP ! » @KAPOL
BẠN CÓ BIẾT Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 32
Sau khi đã xác định và tách rời
được gốc của loại virus mới khỏi
chủ thể (tạm gọi là virus gốc), các
khoa học gia phải cần 5 hoặc 6
tháng để tìm ra loại vaccine tương
thích. Thời hạn này rất cần thiết vì
quá trình sản xuất gồm rất nhiều
công đoạn và mỗi đoạn cần một
thời gian nhất định. Các bạn sắp
được đọc ở đây bản tóm tắt đơn
giản của việc chế tạo vaccine, từ
bước đầu tiên đến giai đoạn cuối
cùng.
Những hoạt động trong
phòng nghiên cứu của WHO
Xác định được loại virus mới:
Trong mạng lưới đặt ra để tiện cho
việc theo dõi căn bệnh dịch,
những phòng thí nghiệm khắp nơi
trên thế giới thu thập những mẫu
virus ở nơi đó và gửi chúng đến
trung tâm nghiên cứu của WHO
về bệnh cúm. Giai đoạn đầu tiên
của quá trình sản xuất vaccine
tiến hành khi một phòng thí
nghiệm phát hiện ra một dạng vi-
rus cúm có phản ứng với những
virus gốc và chuyển thông tin đó
về cho WHO.
Chuẩn bị nguồn vaccine (còn
gọi là virus vaccinal ): Đầu tiên
phải làm cho virus thích hợp việc
sử dụng để chế tạo vaccine. Khoa
học gia ghép virus với một loại
virus gốc mẫu có sẵn ở phòng thí
nghiệm và cả hai được cho vào
trong những trứng gà, một môi
Cúm A - Influenza A (Phần 2) Hiện nay thống kê ngày 24/9/2009 theo WHO đã có hơn 320,000 ca nhiễm bệnh và gần 4000 ca tử vong.
Các Bộ Y tế của Úc, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã cấp giấy phép cho vaccine H1N, các nước tiếp theo gồm có
Nhật và Châu Âu. Thời gian cấp giấy phép còn tùy thuộc vào chính quyền của từng nước và tiến trình chế
tạo vaccine của công ty dược phẩm. Đợt phân phối đầu tiên hơn 300 triệu liều dành riêng cho những nước
đang phát triển trên 90 quốc gia, sẽ do WHO và JW Lee Centre for Strategic Health Operations phụ trách
và sẽ được bắt đầu vào tháng 11.
Các phản ứng phụ của vaccine thường xảy ra bao gồm nhức mỏi, căng da (sưng), đỏ trên người, sốt và
nhức đầu. Thông thường các phản ứng này rất nhẹ và sẽ hết trong vòng 1-2 ngày. Sau đây là Phần II
trong bài Cúm A (Influenza A), tiếp theo số 26.
Sơ đồ hình thành virus cúm
Photo : wikipedia
BẠN CÓ BIẾT Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 33
trường rất thuận lợi cho việc sinh
sôi, điều này làm giảm đi sự nguy
hiểm của virus gốc ban đầu. Sau
một thời gian, một dạng “lai” hình
thành, phần trong là từ virus mẫu
ở phòng thí nghiệm và phần ngoài
là từ virus gốc của bệnh cúm. Việc
chuẩn bị cho virus “lai” này mất
khoảng 3 tuần.
Xác minh lại nguồn vaccin
(virus “lai”): Sau khi đã được
chuẩn bị, các khoe hóc gia phải thí
nghiệm để biết chắc chắn rằng
những protein bề ngoài là từ virus
của bệnh cúm, virus “lai” này
không có sai sót gì khác và nó
phải phát triển bình thường trong
những cái trứng. Sau khi việc xác
minh kết thúc, mất khoảng 3 tuần,
thì nguồn vaccine này sẽ được
phân phối đến những nơi chế tạo.
Chuẩn bị những phản ứng để
áp dụng vaccine: Song song với
quá trình trên, những trung tâm
nghiên cứu của WHO sẽ sản xuất
ra những chất “tiêu chuẩn“ (thuốc
thử), và sẽ đưa đến những nơi
chế tạo vaccine. Những nhà
nghiên cứu sẽ dựa vào đó và đo
lượng virus được sản sinh ra,
đồng thời theo dõi triệt để những
liều lượng thêm vào. Bước này
mất khoảng 3 tháng và thường tạo
ra một rào cản cho các nhà sản
xuất.
Những hoạt động của các
nhà nghiên cứu và chế tạo:
Đưa ra mô hình về điều kiện để
cấy virus: Những nhà chế tạo
vaccin sẽ dùng virus “lai” để tiến
hành thí nghiệm về sự nhân giống
trong môi trường trứng, ở những
điều kiện khác nhau để tìm ra cái
tốt nhất. Bước này mất khoảng 3
tuần.
Tạo ra vaccin mẫu: Trong đa số
trường hợp, việc sản xuất vaccine
bệnh cúm diễn ra trên những
trứng gà đã được thụ tinh, từ 9
đến 12 ngày. Virus vaccine được
tiêm vào trong hàng nghìn trứng,
ấp trong khoảng 2 đến 3 ngày để
virus sinh sôi nảy nở trong lòng
trứng. Hàng triệu virus vaccine sẽ
được lấy và tách rời khỏi tròng
trắng của trứng. Những virus này
đang ở thể đơn giản và dễ dàng bị
tiêu diệt bởi một số chất hóa học.
Những protein trên bề mặt sẽ
được làm sạch đi sau đó và sẽ thu
được hàng ngàn lít protein virus
“sạch”, kháng nguyên hoặc
nguyên tắc hoạt động của vac-
cine. Cần khoảng 2 tuần để tạo ra
mỗi đợt kháng nguyên như vậy,
và những đợt tiếp theo sẽ tiến
hành ngay sau đó vài ngày. Số
lượng của từng đợt phụ thuộc vào
khối lượng trứng mà nhà sản xuất
có thể cung cấp. Năng suất sản
sinh của trứng cũng là một yếu tố
quan trọng. Khi một đợt kháng
nguyên được hình thành,nhà sản
xuất bắt đầu lại nhiều lần quá trình
trên để có được số lượng cần thiết
vaccine.
Kiểm tra lại chất lượng: Để có
thể thực hiện, nhất thiết cần phải
có thuốc thử cần thiết mà WHO
cung cấp. Các nhà sán xuất sẽ thí
nghiệm mỗi đợt kháng nguyên và
kiểm tra lại sự vô khuẩn của đợt
đó. Quá trrình kiểm tra thông
thường khoảng 2 tuần.
Hợp thức hóa và đưa vào dây
chuyền sản xuất: Những lượng
vaccine thu được sẽ pha loãng để
có nồng độ kháng nguyên theo ý
muốn. Sau đó sẽ cho vào những
ống nghiệm và dán nhãn lên, và
phải được kiểm tra đầy đủ các yếu
tố trong quá trình 2 tuần:
-Sự vô khuẩn
-Nồng độ của protein
-Tính lành của dung dịch (không
gây độc hại sau khi đã thử nghiệm
trên thú vật)
Nghiên cứu lâm sàng: Mỗi một
vaccine mới chống lại cúm cần
phải được thử nghiệm trên một số
ít người để thấy được hiệu quả
đúng như những nhà nghiên cứu
mong đợi. Một vài quốc gia không
áp đặt giai đoạn này vì nhiều bộ y
tế dựa trên nguyên tắc loại vac-
cine này cũng sẽ có những tính
chất tương tự như các loại vac-
cine đã sản xuất.
Đối với những cơ quan cấp
giấy phép:
Thông thường uỷ ban kiểm tra
được thành lập trước khi vaccine
có thể kinh doanh và hợp thức
hóa. Mỗi quốc gi có một phương
thức riêng và cơ quan quản lý
trong lĩnh vực này. Những cơ
quan y tế có thể đặt một số thí
nghiệm lâm sàng trước khi cấp
giấy phép cho vaccine, mất thêm
khoảng một thời gian cho đến khi
vaccine thực sự được đưa ra áp
dụng trên thị trường. Việc hợp
thức hóa sẽ diễn ra nhanh chóng
hơn nếu vaccine được tạo ra dựa
trên cùng cách thức với vaccine
của những bệnh cúm vừa qua
trong cùng một nhà máy.
Trong những trường hợp khả
quan nhất, quá trình điều chế này
mất khoảng 5 đến 6 tháng. Theo
dự đoán thì đến khoảng giữa
tháng 10 hoặc sớm hơn, chúng ta
sẽ có trong tay vaccine chống lại
đại dịch này.
Thanh Nguyên
Nguồn WHO: http://www.who.int/csr/
disease/swineflu/notes/
h1n1_vaccine_20090806/fr/index.html
www3.ha.org.hk/qeh/images/running.gif
TIN VIỆT NAM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 34
Kinh tế
“Nền kinh tế đang có dấu hiệu
chuyển biến tích cực, xu hướng phục
hồi rõ nét”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư Cao Viết Sinh nhận định
về tình hình kinh tế 9 tháng tại hội
nghị sáng ngày 28/9.
Thế nhưng, giữa những lạc quan vẫn
xen nhiều lo lắng khi nhiều chỉ tiêu
không thể hiện sự bền vững của
tăng trưởng.
Nhiều chỉ tiêu cập nhật được cuối
tháng 9 cho thấy Việt Nam đang
từng bước thoát khỏi khủng hoảng
như tăng trưởng GDP quý 3/2009
đạt mức 5,76%, cao hơn rất nhiều
con số 4,5% đạt được trong quý
2/2009. Chốt lại 3 quý đầu năm, tốc
độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm
2009 đạt 4,56% (số liệu của Tổng
cục Thống kê), và mục tiêu tăng
GDP khoảng 5% trong năm 2009
dường như đã nằm trong tầm tay
( là mục tiêu đã điều chỉnh giảm từ
cuộc họp ngày 19/6, kỳ họp thứ 5,
Quốc Hội khoá 12 ).
Theo đó, chỉ tiêu tăng kim ngạch
xuất khẩu 3% có vẻ đang là thách
thức khi báo cáo tháng 9 cho thấy ,
tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm
14,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Phần động lực tăng trưởng đang
nằm ở những lĩnh vực không khuyến
khích tăng trưởng, ví dụ như công
nghiệp khai thác tăng tới 8,2%; hay
những lĩnh vực phát triển theo sau
chính sách kích cầu như xây dựng,
tăng tới 9,7%; lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,1%;
tổng mức bán lẻ (bao gồm cả một
phần chi tiêu Chính phủ) tăng 10,2%
đã loại trừ yếu tố giá… Những lĩnh
vực vốn đang bị xem là sự méo mó
trong phân bổ nguồn lực, và chỉ
phục hồi được do chính sách giải cứu
mạnh tay của Việt Nam.Tốc độ
tăng trưởng cao nhất ngành dịch vụ
là mức 8,4%, thuộc lĩnh vực vận tải,
bưu điện, du lịch, cũng chưa phản
ánh đúng những đóng góp thực sự.
Trong khi một số nước trong khu
vực, du lịch quốc tế tăng trong 9
tháng đầu năm, Việt Nam lại giảm
tới 16%.
Trong khi đó, khu vực công nghiệp
và xây dựng, đòn bẩy cho mục tiêu
tiến lên nền kinh tế công nghiệp hóa
vào năm 2020 của Việt Nam, vẫn
chưa thể hiện được vai trò đầu tàu.
Kết quả sản xuất 9 tháng của khu
vực này chỉ đạt mức tăng trưởng
4,48%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng
chung của cả nước.
Tốc độ tăng trưởng đột biến của một
số ngành kinh tế, thực chất đang
phải “dựa dẫm” vào nguồn cung tiền
lớn từ chính sách tiền tệ nới lỏng.
Tăng chi tiêu đang lệch về phía
nguồn cung tài chính cho nền kinh tế
của Chính phủ. Trong khi đầu tư từ
ngân sách Nhà nước tăng 45,5%,
khu vực ngoài Nhà nước chỉ tăng
12,6% và khu vực FDI giảm 11,2%.
Đây là biểu hiện của việc thiếu khả
năng huy động nguồn lực từ xã hội
cho đầu tư.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2009
đột ngột tăng cao, đạt mức tăng
0,62% so với tháng trước đó, sau khi
giảm tốc trong tháng 7 và tháng 8.
Nếu so với tháng 12/2008, CPI
tháng này tăng 4,11%; so với cùng
kỳ năm trước tăng 2,42%. Chỉ số giá
bình quân 9 tháng năm 2009 so với
cùng kỳ năm ngoái tăng 7,64%.
Như vậy, tính từ đầu năm đến nay,
đây là tháng chỉ số giá tăng cao thứ
hai, sau mức tăng 1,17% của tháng
2/2009. Tác nhân cơ bản tạo nên
mức tăng cao của CPI tháng 9/2009
đến từ việc tăng giá xăng dầu ngày
30/8. Theo một chuyên gia từ Tổng
cục Thống kê, với mức tăng ở nhiều
mặt hàng xăng dầu, trong đó xăng
A92 tăng thêm 1.000 đồng/ lít, đã
góp phần đẩy chỉ số giá tăng thêm
khoảng từ 0,15-0,18%.
Nếu xét theo chỉ số giá của 9 tháng
vừa qua, chỉ tiêu CPI cả năm tăng
không quá 7% có lẽ thực hiện được.
Theo số liệu vừa công bố của Tổng
cục Thống kê, 9 tháng đầu năm, chỉ
số giá USD đã tăng 6,12% so với
tháng 12/2008 và tăng 9,52% so với
cùng kỳ năm 2008. Cũng theo cơ
quan này, 9 tháng đầu năm Việt
Nam đã nhập siêu khoảng hơn
6,5 tỷ USD.
Ngày 24/9, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam công bố tỷ giá giao dịch
bình quân trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng của VND với USD là
16.991 VND. Đây là mức cao nhất từ
trước tới nay, là kết quả của những
mức tăng nhẹ (từ 2 – 3 VND) liên
tiếp từ đầu tháng 9.Ứng với mức
công bố trên, tỷ giá USD/VND của
các ngân hàng thương mại cũng
đồng loạt lên mức cao mới, đạt
17.841 VND, kịch trần biên độ cho
Tin trong nước tháng 9
Tổng sản phẩm trong nước +4,56
Giá trị sản xuất nông nghiệp +2,6
Giá trị sản xuất công nghiệp +6,5
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng +18,6
Tổng kim ngạch xuất khẩu -14,3
Tổng kim ngạch nhập khẩu -25,2
Khách quốc tế đến Việt Nam -16,0
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện
(so với kế hoạch 2009) 67,0
Chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng năm so với cùng kỳ năm trước +7.64
FDI -11.2
Một số chỉ tiêu chủ yếu 9 tháng năm 2009 (tăng/giảm) so với
cùng kỳ năm trước (%)
TIN VIỆT NAM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 35
phép (+/-5%).
Thị Trường
Chứng Khoán Thị trường chứng khoán VN kết thúc
với 1 phiên giao dịch giảm nhẹ vào
ngày cuối tháng, tuy nhiên, đến
những phiên đầu tháng 10, cộng
hướng với lực xả ồ ạt của các thị
trường lớn trên thế giới, VN-Index đã
xuống sâu.
Trong những phiên cuối tháng 9, sức
cản VN-Index đi lên là tâm lý chốt
lãi, khối ngoại bán ròng, tâm lý dao
động của nhà đầu tư, thông tin gói
kích cầu thứ 2 không rõ ràng, khiến
cho thị trường đi ngang 1 quãng dài,
sau khi có thông tin xấu tác động,
lập tức làn sóng bán ra được xác lập.
Thị trường chứng khoán VN kết thúc
với 1 phiên giao dịch giảm nhẹ vào
ngày cuối tháng, tuy nhiên, đến
những phiên đầu tháng 10, cộng
hướng với lực xả ồ ạt của các thị
trường lớn trên thế giới, VN-Index đã
xuống sâu.
Trong những phiên cuối tháng 9, sức
cản VN-Index đi lên là tâm lý chốt
lãi, khối ngoại bán ròng, tâm lý dao
động của nhà đầu tư, thông tin gói
kích cầu thứ 2 không rõ ràng, khiến
cho thị trường đi ngang 1 quãng dài,
sau khi có thông tin xấu tác động,
lập tức làn sóng bán ra được xác lập.
Chính Trị - Xã
Hội
Trưa ngày 1/10, nhà máy lọc dầu
Dung Quất đã hoạt động trở lại sau 1
tháng rưỡi ngưng hoạt động với lý do
được cho là “lỗi kỹ thuật” kể từ ngày
16/8
Vụ việc từng gây ồn ào thời gian qua
khi có nhiều nghi vấn về sự cố kỹ
thuật khiến Dung Quốc ngừng hoạt
động. Tuy nhiên, không có thông tin
chính thức nào được đưa ra them.
Ngày 30/9, ông Đoàn Văn Kiển, Chủ
tịch Tập đoàn Công nghiệp Than và
khoáng sản Việt Nam (TKV) đã có
đơn từ chức gửi Thủ tướng. Ngày
4/9, ông Đoàn Văn Kiển đã nhận
quyết định kỷ luật cảnh cáo về Đảng
của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng do vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, buông lỏng quản lý
làm thất thoát hàng triệu tấn than.
Trong thời gian nhiều năm qua, Việt
Nam đã thất thoát hàng triệu tấn
than thông qua con đường tiểu
ngạch do sự buông lỏng quản lý,
lỏng lẻo trong khâu kiểm soát giao
thương. Và đường đi chủ yếu của
than xuất lậu là Trung Quốc. Dự báo,
Việt Nam có thể phải nhập than từ
năm 2012. Từ 1 quốc gia có trữ
lượng than dồi dào, thành 1 quốc gia
phải nhập khẩu than trong tương lai,
điều đó khiến cho nhiều người tự hỏi,
phải chẳng, có 1 số doanh nghiệp
nhà nước chỉ biết bán tài nguyên giá
rẻ, và là những tài nguyên không thể
tái sinh, và liệu khi hết tài nguyên,
đất nước sẽ lấy gì mà bán khi nợ
quốc gia đã lên cao?
Sau nhiều ngày dư luận bức xúc, đến
ngày 29/9 ông TBT báo điện tử Đảng
CSVN –Đào Duy Quát đã nhận hình
thức kỷ luật khiển trách, trước đó, tờ
báo cũng bị đóng phạt 30 triệu đồng.
Quyết định này được đưa ra 25 ngày
sau khi bản tin "Hải quân Trung
Quốc diễn tập tại biển Đông" (dịch từ
báo Hoàn Cầu và Phượng Hoàng của
Trung Quốc) được xuất bản trên báo
điện tử Đảng Cộng sản (ngày 4/9)
thể hiện quan điểm của Trung Quốc
TIN VIỆT NAM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 36
về Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều nhân sĩ đã tỏ rõ thái độ bất
bình khi ông Quát biện hộ vụng về là
do lỗi kỹ thuật, và tại người đánh
máy. Cũng đã có sự so sánh về hình
phạt này với hình phạt mà tờ Du Lịch
đã phải chịu về ấn bản xuân của
mình khi tờ Du lịch đưa những bài
khẳng định lòng yêu nước và chủ
quyền hải đảo của Việt Nam. Đã có
nhiều đề nghị gay gắt đối với báo
Đảng CSVN và cá nhân ông Đào Duy
Quát.
Cùng ngày 25/9, ông Huỳnh Ngọc Sĩ
bị tuyên 3 năm tù và ông Lê Quả 2
năm tù cùng về tội "lợi dụng chức vụ
và quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” trong nghi án hối lộ của
nhà thầu Nhật Bản PCI. Kết quả vụ
án gây ồn ào khi tội danh của ông
Huỳnh Ngọc Sĩ và Lê Quả là "lợi dụng
chức vụ và quyền hạn trong khi thi
hành công vụ” trong khi phía Nhật
đã chuyển giao hàng ngàn trang tài
liệu về chuyên án hối lộ của PCI cho
ông Sĩ với số tiền 820.000 USD, có
thông tin cho rằng, số tiền PCI hối lộ
hơn 2,5 triệu USD (?).
Chúng tôi xin nhường sự bàn luận lại
cho quý vị về vụ án này.
Sau hơn 2 tháng kể từ 3/7, ngày
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ gửi Chánh
án Tòa án nhân dân Tối cao Trương
Hòa Bình Đơn khởi kiện Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng do
đã ban hành trái Hiến pháp và pháp
luật Quyết định số 167/2007/QĐ–
TTg Phê duyệt quy hoạch phân vùng
thăm dò, khai thác, chế biến, sử
dụng quặng bauxite giai đoạn 2007-
2015, có xét đến năm 2025, và gần
20 ngày sau khi ông gửi tiếp Chánh
án Trương Hòa Bình đơn Đề nghị
thụ lý Đơn khởi kiện Thủ tướng
Chính phủ, sau đó đăng đàn trên
Bauxite Việt Nam về việc vị Chánh
án này vi phạm pháp luật tố
tụng .Ngày 16/9 vừa qua Tòa án
nhân dân Tối cao cuối cùng cũng đã
gửi Giấy mời ông Cù Huy Hà Vũ đến
làm việc với Tòa về Đơn khởi kiện đã
nói vào 8 giờ sáng ngày 23/9/2009.
Cũng t rong tháng 9 , ngày
14/9, Viện Nghiên Cứu Phát Triển
(IDS), một viện nghiên cứu độc lập
gồm các trí thức hàng đầu Việt Nam,
đã tự động giải thể để phản đối
Quyết Ðịnh 97 của chính phủ. Quyết
Ðịnh 97 có nội dung được hiểu là
ngăn chặn sự phản biện của giới
khoa học, đặc biệt trong các đề tài
xã hội. Quyết Ðịnh 97 quy định cá
nhân thành lập tổ chức khoa học
công nghệ, chỉ được phép hoạt động
trong lãnh vực thuộc doanh mục ban
hành kèm theo quyết định này, và
không được quyền công bố công khai
đưa ra các ý kiến phản biện, mà chỉ
được gửi những ý kiến đó cho cơ
quan đảng, nhà nước có thẩm
quyền.
Theo tiến sĩ Nguyễn Quang A, đại
diện cho IDS, có nêu rằng: “Chúng
tôi cho rằng quyết định này phản
khoa học, phản tiến bộ, phản dân
chủ và sẽ gây ra những hệ quả
nghiêm trọng cho đất nước.”
Nhiều ý kiến nhận định rằng, đây là
1 bước lùi của tự do ngôn luận tại
Việt Nam, vốn thực tế đã bị hạn chế
rất nhiều tự do, mặc dù hiến pháp và
pháp luật vẫn ghi nhận đầy đủ.
Xã Hội Việt Nam đang phải sắp sửa đối mặt
với 1 siêu bão mới, cơn bão Parma
sau khi phải hứng chịu hậu quả nặng
nề từ cơn bão số 9 – cơn bão Ket-
sana.
Đến tối 1/10, bão số 9 đã làm 99
người chết, 14 người mất tích, 252
người bị thương, thiệt hại ban đầu
ước tính lên tới hơn 10.000 tỷ đồng.
Giao thông ngừng trệ và dân vùng lũ
đối mặt với nhiều khó khăn. Theo
báo cáo nhanh của Ủy ban Phòng
chống lụt bão Trung ương, Quảng
Ngãi bị ảnh hưởng nặng nhất với 27
người thiệt mạng, Kon Tum 21
người, Quảng Nam, Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế mỗi tỉnh 9 người,
Bình Định 6 người. Hơn 17.000 căn
nhà bị sập và trôi, hơn 200.000 nhà
bị tốc mái, xiêu vẹo, hư hỏng và gần
170.000 nhà bị ngập trong bão lũ...
Gần 4.000 trường học cũng bị bão lũ
làm tốc mái, chìm trong nước.
Bão lũ không chỉ đánh sập nhà cửa,
gây thiệt hại về người mà còn làm
30.000 ha lúa bị ngập, đổ; gần
25.000 ha hoa màu bị ngập; 9.500
ha ngô, mía bị ngập. Thống kê sơ bộ
cho thấy, tổng giá trị thiệt hại lên tới
hơn 10.000 tỷ đồng. Trong đó,
Quảng Ngãi thiệt hại 4.600 tỷ đồng,
Quảng Nam 3.500 tỷ đồng, Quảng
Trị 900 tỷ đồng, Đà Nẵng 500 tỷ
đồng... riêng Quảng Bình, Đắk Nông,
Lâm Đồng và Gia Lai chưa có thống
kê thiệt hại.
Do bị ngập và sạt lở lớn nên nhiều
tuyến đường giao thông bị ách tắc
hoàn toàn. Đặc biệt, Quốc lộ 1A có
tới 8 điểm sạt lở, nước dâng cao
khiến xe cộ và người dân bị mắc kẹt.
Đường Hồ Chí Minh có 26 điểm tắc
đường do sạt lở, có đoạn sạt dài 50-
150m, sâu 3,5-10 mét. Hiện tại,
người dân nhiều vùng lũ đang bị cô
lập.
Nhiều ban nghành cứu trợ cũng đã
triển khai.Nếu quý vị có lòng hảo
tâm, xin gửi về địa chỉ :
TIN VIỆT NAM Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 37
Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt
Nam
Số 82 Nguyễn Du Hà Nội. Điện
thoại: 043 822 4030; 043 8225
217. Fax: 043 942 4285. Mobile:
0989082911 (ông Trần Quốc
Hùng).
Cơ quan Đại diện phía Nam - Hội
Chữ thập đỏ VN: 201 Nguyễn Thị
Minh Khai, Quận I, TP HCM. Điện
thoại: 083 839 1271. Fax: 083
8322 298. Mobile: 0979842778
(ông Đoàn Văn Tòng).
Tài khoản tiếp nhận tiền trong
nước:
Tên tài khoản: Trung ương Hội
Chữ thập đỏ VN. Số tài khoản:
124 02 02 005 348 (VNĐ)Tại:
Ngân hàng Nông nghiệp - Phát
triển Nông thôn Việt Nam, chi
nhánh Hoàng Mai - 813 Đường
Giải phóng - Quận Hoàng Mai -
thành phố Hà Nội.
3. Tài khoản tiếp nhận tiền nước
ngoài:
Account name: VIETNAM RED
CROSSAccount number: 124 02
02 006 675 (USD)Bene bank:
Vietnam bank for Agriculture
and Rural development - Hoang
Mai branch - 813 Giai Phong
road - Hoang Mai district - Hanoi
city.Swift code: VBAAVNVX418.
Tôn giáo
Vào ngày 09/09/2009 từ An Giang
Đồng Tháp, các ông Hồ Thanh Vân,
Trần Hoài Ân và Nguyễn Văn Lía đại
diện cho các tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo Truyền Thống viết “LỜI TRẦN
TÌNH” gửi cho các nhà lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Cộng Sản Việt
Nam . Đại ý của bức thư này là nêu
lên những hoạt động của Phật Giáo
Hòa Hảo trong những năm từ 1945
đến nay, những đóng góp và nỗ lực
của giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và các
tín đồ Cao Đài trong việc nỗ lực hòa
hợp hòa giải với Việt Minh để cùng
chống ngoại xâm.Tuy nhiên Đảng
Cộng sản tại Cần Thơ lúc đó đã bách
hại đức Giáo chủ và những chí sĩ đạo
Hòa Hảo.Từ đó đến nay Đạo Hòa
Hảo luôn bị Chính quyền Cộng sản
bách hại và làm khó dễ liên tục
nhiều thời kỹ cho đến nay.
Mong mỏi của những tín đồ Hòa Hảo
lúc này là Đảng Cộng Sản và Nhà
Nước nên “nhìn nhận thẳng thắn và
chân thành về những sự kiện trong
quá khứ,khi đó uẩn ức sẽ được tháo
bỏ , sự tin tưởng lẫn nhau sẽ được
tạo dựng làm cơ sở cho một xã hội
văn minh ,phát triển”. Đó chính là
niềm khao khát chung của khối tín
đồ PGHH và của bất cứ ai biết đặt
quyền lợi tổ quốc đặt lên trên mọi
hận thù tư kỷ.
Cũng trong tháng 9, khi vụ Bát Nhã
trở nên ồn ào khi hàng loạt ý kiến
được đưa lên phản đối thì chính
quyền mới bắt đầu có những ý kiến
biện hộ của phát ngôn viên Bộ Ngoại
Giao và chính quyền tỉnh Lâm Đồng
rằng đó là do mâu thuẫn nội bộ
giữa các tăng phái. Gần 400 tu sĩ
và tu sinh Phật giáo theo pháp
môn Làng Mai được biết bị ép
phải ra khỏi tu viện Bát Nhã hôm
27/9, và hiện đang ở tạm trong
chùa Phước Huệ ở thị xã Bảo Lộc,
Lâm Đồng, nơi họ cáo buộc vẫn
tiếp tục bị côn đồ gây rối và
“khủng bố tinh thần”.
Đã có thỉnh nguyện thư yêu cầu chủ
tịch nước, thủ tướng và chủ tịch
Quốc hội Việt Nam phải can thiệp vụ
Bát Nhã. tính đến chiều 7/10,
nguyên phó chủ tịch ủy ban mặt
trận tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ
Chí Minh đã tham gia cùng gần 200
người khác.
Có những hồ nghi rằng, bọn côn đồ
được chính quyền làm ngơ, và vẫn
còn công an bao vây chùa Phước
Huệ, nơi tăng nhân làng Mai đang
tạm trú ngụ.
Elbi tổng hợp
Tham khảo các thỉnh nguyện thư:
Thỉnh nguyện thư khởi xướng bởi nhà thơ
Hoàng Hưng:
http://www.talawas.org/?p=11169
Thỉnh nguyện thư khởi xướng bởi
Hoa Phạm:
http://www.talawas.org/?p=11169
http:// businesshoa.blogspot.com/2009/10/
t h i n h - n g uy e n - t h u - cu a - t u o i - t r e - t r o -
giup_06.html
TIN QUỐC TẾ Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 38
Biểu Tình Tại Hồng Kông Phản
Ðối Ngày Quốc Khánh Trung
Quốc
Ngày 1 tháng 10 vừa qua những
người biểu tình tại Hồng Kông đã
đụng độ với cảnh sát trong lúc họ
tuần hành về trung tâm thành phố.
Nhiều bạn trẻ tại đây lên án và
phản đối Trung Quốc nhân ngày kỷ
niệm 60 năm thành lập đất nước
Cộng sản
Trung Hoa.
Hàng trăm
người hậu
thuẫn cho
dân chủ tại
Hồng Kông
đã nêu lên
thành tích
xấu về
n h â n
quyền của
Bắc Kinh.
Họ kêu gọi
nên lấy
ngày này làm ngày tưởng niệm cho
những nạn nhân và những người
đối lập bị giết dưới sự cai trị của
bàn tay sắt của chính quyền Bắc
Kinh, trong đó gồm cá những người
bị thảm sát trong vụ đàn áp tại
quảng trường Thiên An Môn vào
năm 1989. Nhiều bạn trẻ cho rằng
sau 60 năm dưới sự cai trị của
đảng Cộng sản họ chỉ thấy đàn áp
nhân quyền, chỉ thấy đảng Cộng
sản tiếp tục nỗ lực chèn ép và đàn
áp người dân tại Trung Quốc.
Những người biểu tình đã hô khẩu
hiệu quảng bá nhân quyền và dân
chủ. Trong số những người tham
gia cuộc biểu tình có cả những nhà
lập pháp thuộc đảng
Dân Chủ như dân
biểu Lý Trác Vận và
Emily Lau.
Động Đất Lớn Tại
Nam Dương
Liên Hiệp Quốc đã thông báo hơn
1000 người đã bị giết tại Padang,
thành phố nhạy cảm nhất trong
vòng lửa Thái bình dương. Công tác
cứu trợ cho hàng ngàn người sống
sót chỉ được tiến hành một cách
chậm chạp tại Thủ phủ Padang của
tỉnh Tây Sumatra với khoảng 900
ngàn dân, vì thiếu điện và cơ giới
để đào bới những đống đổ nát của
những tòa cao ốc. Trung tâm
phòng chống thiên tai nói có 2181
người đã bị thương và khoảng 2650
cấu trúc đã bị phá huỷ. Nhiều tình
trạng ở những khu vực khác trong
vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh
không thể nào biết được con số tử
vong. Ngày 1 tháng 10, một trận
động đất thứ nhì với cường độ 6.6
đã tấn công vào hòn đảo Sumatra,
gây nên tình trạng hoảng hốt,
nhưng không có báo cáo nào về
thương vong. Cơ quan thăm dò dịa
chấn của Hoa Kỳ cho biết trung
tâm của trận động đất thứ nhì này
nằm trại một địa điểm cách Padang
khoảng 225 cây số về hướng đông
nam.
Phiên Họp Bộ Trưởng Tài Chánh
Khối G-20 Ở Luân Đôn
Các nhà lãnh đạo tài chánh khối G-
20 đã đồng ý cùng hợp tác và chỉ
ngưng các biện pháp kích thích khi
nào nền kinh tế đã hồi phục vững
vàng. Một thông điệp chứng tỏ sự
đoàn kết là các nhà làm chính sách
đã đồng ý tiếp tục chi tiêu kích
thích kinh tế trong giới hạn 5,000
tỷ mỹ kim đã được ấn định. Pháp
và Đức là 2 nước đòi phải ấn định
mức giới hạn đối với tiền thưởng
trong lúc Anh, Hoa Kỳ và Canada
chống lại đề nghị này. Bản tuyên
bố cũng nói rằng Ấn Độ và Trung
Quốc sẽ giữ vai trò quan trọng hơn
tại Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân
Hàng Thế Giới, nhưng không nói rõ
mô thức tham gia của hai nước
này. Bản tuyên bố cũng nói rằng
hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Pitts-
burgh cuối tháng 10 sẽ có những
tiến triển quan trọng.
Đồng thời, 20 lãnh tụ của Khối G20
đã đến thành phố Pittsburg, thuộc
ban Pennsylvania, Hoa Kỳ, bàn về
những vấn đề như cân bằng lại nền
kinh tế thế giới và đối phó với
những thay đổi khí hậu toàn cầu.
Khối G20 cũng đồng loạt lên án
Iran và những chương trình hạt
nhân của nước này. Tổng thống
Barack Obama lần đầu tiên chủ tọa
hội nghị thượng đỉnh khối G20 đã
đem đến hội nghị một chương trình
với nhiều tham vọng bài trừ khuynh
hướng làm ăn liều lĩnh của giới
ngân hàng. Ông cũng đề nghị xây
dựng một nền kinh tế toàn cầu với
nền tảng vũng chắc hơn. Tòa Bạch
Ốc đang coi việc thay đổi lề lối làm
Tin Thế Giới
News
Actualités
Ảnh: geekalerts.com
Photo: AP
Photo: AFP
TIN QUỐC TẾ Số 27 - Tháng 10/2009
Trang 39
việc của ngân hàng là ưu tiên hàng
đầu.
Sóng Thần Tại Quần Đảo Samoa
Nhân viên cứu cấp của quần đảo
Samoa ở Nam Thái Bình Dương đã
đi vớt xác người nổi trên biển và
đưa thi hài ra khỏi các đống bùn đất
và đổ nát. Con số người chết do nạn
sóng thần tsunami gây ra hiện đã
lên con số gần 200. Giới chức cứu
cấp cho biết con số sẽ còn tăng
thêm. Số người chết được xác nhận
gồm 149 ở Samoa, 31 ở American
Samoa và 9 người ở Tonga, nhưng
hiện còn hàng trăm người mất tích.
Khoảng 20 ngôi làng ở Samoa bị tàn
phá hoàn toàn và ở American Sa-
moa cũng có nhiều ngôi làng bị san
bằng. Tổng thống Barack Obama đã
tuyên bố tình trạng thảm hoạ cho
American Samoa, ra lệnh cứu trợ và
giúp quần đảo phục hồi. Cơ quan
FEMA đã đưa vật phẩm cứu trợ và
140 nhân viên cứu cấp đến quần
đảo.
Bão Lụt Tại Phi Luật Tân
Chỉ mới một tuần lễ kể từ khi trận
bão đại dương tàn phá khu vực Thủ
đô Manila và các tỉnh lân cận, dân
chúng tại đảo quốc này đã phải
hứng chịu một trận bão lớn khác.
Các chuyên gia khí tượng cho biết
trận bão mới Parma, với sức gió lên
đến 195 cây số một giờ được tiên
đoán sẽ đổ bộ vào miền bắc Phi
Luật Tân.
Sở khí tượng nói Parma mang theo
những trận mưa giống như Ketsana
từng có một lượng nước mưa kỷ lục
trong 4 thập niên. Chỉ trong 12
tiếng mà đã có một lượng nước
tương đương với lượng nước của
toàn mùa mưa, gây nên lũ lụt trầm
trọng tại Thủ đô Manila và một số
khu vực trên hòn đảo chính Luzon.
Trận bão làm gần 300 người bị thiệt
mạng và khoảng 2.5 triệu người
phải tản cư ra khỏi những căn nhà
bị nhận chìm dưới biển nước. Có
nhiều nơi nước lụt dân lên cao đến 6
mét. Phi Luật Tân thường xuyên bị
những trận bão đại dương tấn công
vào mùa hè, trước khi giảm sức gió
để trở thành những trận bão nhiệt
đới đổ bộ vào Việt Nam, Trung Quốc
và Ðài Loan.
Ðặc Sứ Liên Hiệp Quốc Tại Af-
ghanistan Tường Trình Trước Hội
Ðồng Bảo An
Ðặc sứ Liên Hiệp Quốc tại Afghani-
stan là ông Kai Eide đã nói trước Hội
đồng Bảo an rằng việc huấn luyện,
trang bị cho quân đội và cảnh sát
Afghanistan cũng như yểm trợ trên
chiến trường không thể để cho Hoa
Kỳ phải đơn độc gánh vác. Ông
nhấn mạnh rằng phải có sự tham
gia, đóng góp rộng rãi hơn của cộng
đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc
gia Âu Châu. Ông Eide là chủ tịch Ủy
ban Trợ giúp Afghanistan của Liên
hiệp quốc được gọi tắt là UNAMA.
Hiện đa số dân chúng đang muốn
thấy một chính phủ Afghanistan mới
được thành lập và đời sống của họ
được cải thiện. Ông Eide thừa nhận
cuộc bầu cử Afghanistan đã bị gian
lận, viên chức bầu cử, nhân viên
chính phủ và những người ủng hộ
các ứng cử viên đều vi phạm luật
bầu cử. Hiện giờ các thùng phiếu đã
được đưa về thủ đô Kabul để kiểm
soát lại theo tiêu chuẩn quốc tế, kết
quả hợp pháp sẽ sớm được tuyên bố
và các nhà phân tích cho rằng kết
quả sẽ được tuyên bố vào tuần lễ
thứ nhì của tháng 10.
Giải Nobel Hoà Bình năm 2009
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama
đã bất ngờ được chọn để trao tặng
giải Nobel Hòa Bình năm 2009. Ủy
Ban Nobel Hòa Bình Na Uy tuyên bố
Tổng thống Obama đã có những nỗ
lực ngoại hạng củng cố mối liên hệ
ngoại giao quốc tế, cộng tác giữa
các dân tộc, nhằm đang đem lại hy
vọng và tương lai tốt đẹp hơn cho
thế giới với các nỗ lực đem lại hòa
bình và cắt giảm các kho vũ khí
nguyên tử trên thế giới. Tuy nhiên
nhiều người cho rằng mặc dù đã đưa
ra nhiều mục tiêu, ông Obama vẫn
chưa tạo được sự tiến triển nào đối
với hòa bình Trung Ðông, cũng chưa
giải quyết được vấn đề nguyên tử
Iran và đang gặp phải những sự
chọn lựa khó khăn đối với chiến
trường Afghanistan. Giải thưởng trị
giá vật chất khoảng 1.4 triệu mỹ
kim sẽ được trao ở Oslo vào ngày 10
tháng 12.
Ngoài ra, nữ văn sĩ Ðức gốc Roma-
nia Herta Mueller chuyên viết truyện
về những kẻ không được quyền đi
bầu và là nhà tranh đấu cho quyền
tự do ngôn luận, đã đoạt Giải Nobel
Văn Chương 2009. Tổng thư Ký Hàn
Lâm Viện Peter Englund tuyên bố
nhà văn đã dùng cái tinh túy của
thơ và cái sắc bén của văn xuôi để
miêu tả cảnh đời của những kẻ
không có gì trong xã hội. Nhà văn
Mueller có mẹ là một tù nhân trong
trại tập trung ở Liên Xô và bản thân
từng bị mật vụ cộng sản Romania
khủng bố nhiều lần. Tuyển tập nhan
đề Niederungen đã bị cấm lưu hành
tại Romania cùng với tác phẩm thứ
nhì của bà nhan đề Drueckender tố
cáo nạn tham nhũng và đàn áp tại
Romania thời cộng sản cai trị.
Võ Thụy Nhu tổng hợp
Mời tham gia vẽ
Poster Tạp Chí Thanh Niên PHÍA TRƯỚC
Thời hạn 01/09/2009 -> 30/10/2009
Công bố kết quả 31/10
Tiêu chuẩn kỹ thuật : Poster được thiết kế với độ phân giải (resolution) cao > 4Mo pixel,
lưu trữ dưới dạng JPG, PNG
Nội dung : Tạo được hình ảnh đẹp, sống động về cuộc sống, con người Việt Nam, thu hút
được chú ý của độc giả.
Trên poster phải có logo của Tạp Chí Thanh Niên Phía Trước và slogan
“Sự thật chưa hẳn là những gì tận mắt chứng kiến”
Các hình ảnh, tài liệu sử dụng trong poster phải là do chính tác giả sáng tác, hoặc được
quyền sử dụng, khai thác…
Tạp chí Thanh Niên PHÍA TRƯỚC không chịu bất cứ trách nhiệm về tác quyền nảy sinh ra
nếu có.
Số tác phẩm dự thi : Không hạn chế
Đối tượng dự thi : Tất cả mọi người Việt Nam cũng như nước ngoài, không phân biệt tuổi
tác, giới tính.
Gởi tác phẩm dự thi của bạn vào hộp thư [email protected], xem chi tiết thêm
tại www.tapchiphiatruoc.net
Tạp chí Thanh Niên PHÍA TRƯỚC sẽ công bố công khai các tác phẩm được chọn. Người
trúng giải sẽ được BTC liên lạc qua email sau đó để gởi quà.
Quyền sử dụng các tác phẩm trúng giải sẽ được Tạp chí Thanh Niên PHÍA TRƯỚC sử dụng
hoàn toàn mà không trả thêm bất cứ khoản tiền nào cho tác giả.
Ban tổ chức dành quyền thay đổi những điều lệ trên đây
Xin mời các bạn tham gia và phổ biến thông tin này đến bạn bè, người thân.
Tạp Chí Thanh Niên PHÍA TRƯỚC
[email protected] -www.tapchiphiatruoc.net
Giải thưởng
- USB Key 1Go với chức năng mã hóa, tự tiết chất hóa học để tiêu
hủy dữ liệu nếu sau 3 lần nhập sai mật khẩu. (70$)
- USB Key 8 Go (30$)
Mời tham gia vẽ Poster Tạp Chí PHÍA TRƯỚC
Đón xem Tạp chí Thanh niên Phía Trước số 28 chủ đề đặc biệt
Với sự đóng góp bởi các những nhà báo
danh tiếng (BT, SC, HL, CT, VT…), các hình
ảnh được các cộng tác viên của Phía Trước
thực hiện vào ngày kỷ niệm 9/11/2009
ngay tại chân tường Berlin
„20 năm sụp đổ Bức tường
Berlin 1989 - 2009‟