Download - Tây Vương Thánh Mẫu
THẦY
DẠY
ĐỊNH
NẦY
LÀ
ĐỊNH
CHỔ
NƠI
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÒA THÁNH CAO ĐÀI CHƠN LÝ - ĐỊNH TƯỜNG
193, Nguyễn Trung Trực, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
(Trời mở Đại ân xá kỳ Ba nơi cõi Á Đông)
TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU (CHƠN NGÔN KINH)
HỘI THÁNH TÁI ẤN HÀNH - GIỮ BẢN QUYỀN
/LƯU HÀNH NỘI BỘ/
Tiền giang, tháng 07 năm Nhâm Thìn 2012
TƯỜNG
KHAI
LÝ
NHIỆM
CỨU
ĐỜI
DẠY
TU
THẦY
DẠY
ĐỊNH
NẦY
LÀ
ĐỊNH
CHỔ
NƠI
THƯỢNG CỔ
Lục Thập Ngũ Niên
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÒA THÁNH CAO ĐÀI CHƠN LÝ - ĐỊNH TƯỜNG
193, Nguyễn Trung Trực, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
(Trời mở Đại ân xá kỳ Ba nơi cõi Á Đông)
TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU (HUẤN NỮ THÁNH NGÔN)
XUẤT BẢN 2 000 QUYỂN ĐỂ NỮ PHÁI CÓ PHƯƠNG TIỆN
KHẢO CỨU TU HỌC
Tiền giang, tháng 07 năm Nhâm Thìn 2012
TƯỜNG
KHAI
LÝ
NHIỆM
CỨU
ĐỜI
DẠY
TU
CAO ĐÀI
Bát Thập Thất Niên
i
MỤC LỤC
BÀI 1: PHÁT MINH ....................................................................................................1
BÀI 2: TAM - TÙNG TỨ- ĐỨC .................................................................................. 5
BÀI 3: GIẢI NGHĨA GÁI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC.................................................... 7
BÀI 4: GIẢI NGHĨA TỀ GIA NỘI TRỢ......................................................................9
BÀI 5: HÈN - QUÊ - PHẬN –GÁI............................................................................. 10
BÀI 6: TÂY VƯƠNG THÁNH-MẪU CHƠN NGÔN-KINH .................................... 13
BÀI 7: KHUYẾN – THIỆN TU – HÀNH .................................................................. 28
BÀI 8: MƯỜI NGUYỀN............................................................................................ 30
BÀI 9: NÀY NAM, NỮ NGHE LỜI MẸ DẶN .......................................................... 31
BÀI 10: NÀY NỮ PHÁI NGHE LỜI MẸ DẶN ......................................................... 34
BÀI 11: NÀY CÁC TRẺ CÓ DUYÊN MAY GẶP .................................................... 36
BÀI 12: HẾT LÒNG VÌ ĐẠO .................................................................................... 39
BÀI 13: KINH-NGUYỆN HỌC ĐẠO-TRÀNG ......................................................... 42
BÀI 14: KINH BÃI ĐẠO TRÀNG NỮ PHÁI............................................................ 43
BÀI 15: BÀI ĐỊNH-TÂM .......................................................................................... 44
BÀI 16: TỈNH-NGỘ HỒI-TÂM................................................................................. 46
BÀI 17: NÀY HAI PHÁI RÁNG NGHE LỜI MẸ ..................................................... 50
BÀI 18: NÀY CÁC TRẺ KHÁ NGHE LỜI MẸ......................................................... 53
BÀI 19: BÀI ĐỌC KHÁNH THÀNH PHỔ ĐÀ CẢNH ............................................. 55
BÀI 20: NỮ ĐẦU SƯ NĂM CUNG, NĂM CỎI........................................................ 59
BÀI 21: TỈNH TÂM TẦM LÝ ................................................................................... 63
BÀI 22: GIẢI NGHĨA VẬT DỤC CHE LẤP LÒNG TRỜI ....................................... 65
BÀI 23: GIẢI NGHĨA XÁC PHÀM DỤC VỌNG NGU SI........................................ 66
BÀI 24: ĐÃ ĐÀNH PHẬN GÁI KHUÊ MÔN........................................................... 68
BÀI 25: BÌNH TÂM NAY THẤY PHƯỚC PHẦN.................................................... 71
BÀI 26: GIẢI NGHĨA CON PHẢI GIỮ TẤM THÂN LÀM TRỌNG........................ 72
BÀI 27: GIẢI NGHĨA LÒNG ĐỨC MẸ HAY ĐÙM HAY BỌC .............................. 75
ii
BÀI 28: GIẢI NGHĨA CUỘC GIẢ DỐI TINH YÊU MA QUỶ ................................. 78
BÀI 29: GIẢI NGHĨA THẦN KHÍ TINH .................................................................. 80
BÀI 30: ĐÃ HAY TRƯỚC HỌC SAU HÀNH .......................................................... 83
BÀI 31: NGƯỜI TIÊN, NGƯỜI PHẬT, THÁNH THẦN .......................................... 86
BÀI 32: CANH THÌN NAY ĐÃ MÃN NĂM ............................................................ 88
BÀI 33: THẦN TIÊN PHẬT THÁNH THƯƠNG ĐỜI .............................................. 90
BÀI 34 : NÀY LỜI BẦN ĐẠO THỞ THAN.............................................................. 93
BÀI 35: GIẢI NGHĨA PHÁ NHỨT KHIẾU CHI HUYỀN QUANG ......................... 95
BÀI 36: NÀY LỜI THIẾP PHÂN TRẦN PHẢI, QUẤY............................................ 97
BÀI 37: KHUYÊN CON CHỚ NHIỀU LỜI THAN THỞ ........................................ 100
BÀI 38: NÀY ÁI NỮ CON NGHE MẸ DẶN .......................................................... 103
BÀI 39: CHÚC MỪNG BÁI MẠNG ĐẦU SƯ PHÁI NỮ ....................................... 106
BÀI 40: GIẢI NGHĨA ĐỜI GIÓ BỤI HIỂM NHAM BỚ TRẺ ................................ 108
BÀI 41: GIẢI NGHĨA THẤP HÈN PHẬN GÁI KHUÊ MÔN................................. 111
BÀI 42: ĐỨC CỮU CUNG PHỔ HÓA NƯƠNG NƯƠNG ..................................... 117
BÀI 43: KINH KÍNH MỪNG ĐỨC VIỆN TRƯỞNG PHỔ ĐÀ .............................. 119
BÀI 44: KINH KÍNH LẠY ĐỨC QUAN ÂM.......................................................... 120
BÀI 45: KINH KÍNH MỪNG NGÔI CHỊ THỂ LIÊN.............................................. 121
BÀI 46: GIẢI NGHĨA HAI CHỮ BẦN ĐẠO .......................................................... 122
BÀI 47: GIẢI NGHĨA HÃY XEM THẦN THÁNH MUÔN VÀN........................... 123
BÀI 48: LỜI KHUYÊN CỦA ĐỖ THỊ HÒA ........................................................... 126
BÀI 49: ĐỜI NHIỀU NỖI GAY GO HIỂM TRỞ .................................................... 127
BÀI 50: ĐỜI LẮM NỖI TRANH ĐUA DỐI TRÁ ................................................... 129
BÀI 51: TRỜI CHYỂN ĐẠO NAM PHƯƠNG TRUNG GIÁI ................................ 131
BÀI 52: LÒNG THÀNH KỈNH KHẨN CẦU VAN VÁI ......................................... 133
BÀI 53: SỚ THỂ LIÊN KHẨN CẦU DIÊU ĐIỆN................................................... 136
BÀI 54: SON CÙNG PHẤN PHẢI NÀO LÀ SẠCH................................................ 138
BÀI 55: NAY CON BIẾT ĐẠO PHẢI VẦY............................................................ 141
BÀI 56: CHỪNG CÁC TRẺ BIẾT VUI MÙI ĐẠO ................................................. 143
BÀI 57: NGHE MẸ DẠY GHÉT GANH KHÁ LÁNH ............................................ 145
iii
BÀI 58: CON ĐƯỢC RÕ TRỜI SANH CHÁNH KỶ .............................................. 147
BÀI 59: GIẢI NGHĨA CHỚ RẰNG TẠI Ở CỎI PHÀM.......................................... 149
BÀI 60: GIẢI NGHĨA ĐỪNG MUÔN VIỆC CỨ TRỜI MÀ ĐỔ ............................ 151
BÀI 61: GIẢI NGHĨA NHIỀU ĐỨA NÓI TU HÀNH ĐÚNG VẬY........................ 154
BÀI 62: GIẢI NGHĨA SÁCH KINH DÙNG ĐỂ DẠY ĐỜI .................................... 158
BÀI 63: GIẢI NGHĨA MỖI ĐỨA NÓI CƠ CẦU HÚNG HÍNH.............................. 161
BÀI 64: GIẢI NGHĨA PHÂN RÀNH RẼ TRƯỚC SAU THỨ LỚP ........................ 164
BÀI 65: GIẢI NGHĨA KINH QUAN ÂM ................................................................ 167
BÀI 66: CON MUỐN ĐƯỢC THUẬN HÒA TRÊN DƯỚI..................................... 169
BÀI 67: GIẢI NGHĨA QUẢ NHƠN, NHƠN QUẢ .................................................. 171
BÀI 68: GIẢI NGHĨA MẸ VÌ CON LƯỠI MÒN ĐOÀI ĐOẠN.............................. 173
BÀI 69: GIẢI NGHĨA THIÊN ĐỊA HẢO TÂM....................................................... 177
BÀI 70: GIẢI NGHĨA LÀM ĐƯỢC VẬY TRỌN LÀNH, TRỌN PHẢI ................ 178
BÀI 71: GIẢI NGHĨA BỰC TRÊN ĐÃ GIA PHONG NHỨT ĐỊNH ...................... 180
BÀI 72: GIẢI NGHĨA TU CHO ĐƯỢC PHỤ TỪ, TỬ HIẾU .................................. 182
BÀI 73: GIẢI NGHĨA THIỆT ĐỊNH TÂM CÓ BA BÀI HỌC ................................ 184
BÀI 74: TỈNH TÂM TẦM LÝ LÀ VẦY ................................................................. 187
BÀI 75: ĐẶNG LẦN MẠT KIẾP CHO QUA.......................................................... 189
BÀI 76: TRƯỚC ĐẠI HỘI CHÀO MỪNG CHƯ VỊ ............................................... 191
BÀI 77: TUỒNG ĐỜI ẤM LẠNH TUA XA LÁNH ................................................ 194
BÀI 78: TỪ ĐÂY THẦY MỞ ĐẠO MẦU .............................................................. 196
BÀI 79: GIẢI NGHĨA MƯỜI KHUYÊN - KINH TU CHƠN .................................. 198
BÀI 80: GIẢI NGHĨA E CON DẠI NÊN HƯ CHẲNG RÕ..................................... 202
BÀI 81: TRONG ĐỜI THAM LUYẾN VÌ ĐÂU ..................................................... 204
BÀI 82: GIẢI NGHĨA TÊN TUỔI TA BAO LA VÕ TRỤ ...................................... 206
BÀI 83: GIẢI NGHĨA CÁC CON CHUỘNG CAO ĐÀI DANH HIỆU .................. 208
BÀI 84: HÒA, HẢO, TÙNG, NHO GIỮ TRỌN HẰNG .......................................... 210
BÀI 85: NỮ NHI TRÁCH NHIỆM ĐÃ RIÊNG PHẦN ........................................... 212
BÀI 86: MẶT TRỜI LỐ MỌC NHÀNH DƯƠNG................................................... 214
BÀI 87: ĐỜI NHIỀU NỖI ÉO LE THẢM THIẾT ................................................... 216
iv
LỜI NÓI ĐẦU
Đạo Trời là Âm – Dương, luận về sự lớn lao của hai Ngôi Âm-Dương thì bao
trùm cả vũ-trụ, sự ảnh hưởng của vạn vật là nhờ chỗ Âm-Dương hiệp nhứt, vì một
Dương thì chẳng sanh, còn một Âm thì chẳng lớn.
Loài người là đồng bực Tam-tài - Trời, Đất, Người
Người phân ra có vóc hình Nam hay Nữ, đó là sắc tướng của Thợ Tạo sắp ra để
hòa đồng Lý Đạo. Nên Thánh huấn có dạy :
“Còn phần Nam, Nữ vóc người,
Đó là sắc tướng của bề Hóa-công,
Phật là chuyên trọng Tánh-tông
Tánh-tông vô tướng, vô dung, vô hình”
Và cũng có câu :
“Tuy Nam – Nữ xác trần phân biệt,
Chớ Chơn-linh chưa biết Nữ - Nam”
Vậy nên, giá trị Thiêng-liêng của hai phái Nam, Nữ chẳng ai hơn, ai kém; Nhưng
vì đặc điểm hình thể và tài năng hai đàng có khác mà trách vụ phải giữ riêng nhau.
Thánh huấn có dạy :
“Trai đã biết Tu-my Nam-tử,
Gái lại không tài nữ hay sao ?
Tại con chẳng để tâm vào
Cho nên thua sút phái nào cũng con”
Thiên-chức và phẩm giá không luận gì Nam-Nữ, cho nên ta thấy lịch-sử xưa cũng
như nay có lắm hàng Liệt-nữ Cân-quốc Anh-thư, Trâm-anh Thế-phiệt đã làm vẻ vang
cho Nữ giới. Nhưng cũng có một thời, Phụ-nữ không được bình quyền như Nam giới
v
trên nhiều phương diện, thậm chí đến việc tu hành cũng cho rằng là Tu hậu kiếp
nguyện thành Nam-nhi, quan niệm nầy thật sai lầm rất lớn. Vì Thánh huấn có dạy:
Phật không phân biệt gái, trai,
Hễ làm đắc quả thì ai cũng đồng”
Hoặc là:
“Rõ ràng Kinh Luật có biên,
Hàm-linh xuẩn-động hữu duyên năng thành,
Huống chi gái cũng chúng sanh,
Phật là Từ-mẫu nở đành chẳng thương”
Đạo Tam-kỳ ngày hôm nay do Đức Thượng-đế là Cha Thiêng-liêng cả Nhơn-loại,
khai Đạo, cứu Đời, không bao giờ chúng ta thấy chỗ nào là trọng Nam, khinh Nữ. Vì
Đức Cả vẫn thương chung đồng như lời Thánh-huấn:
“Đạo Thầy dạy Gái – Trai hai phái,
Cả dười Trần, con cái của Thầy,
Chia nhau Nam, Bắc, Đông, Tây,
Nay Thầy mở Đạo đặng qui con về”
Bởi các lẻ trên đây, cùng nhu cầu của các Chị Em Nữ phái, muốn có một quyển
kinh chọn lọc, toàn những bài dạy riêng cho phái Nữ, đặng dễ bề khảo cứu, học hành;
nhận thấy đây là một phương tiên bổ ích cho người tu, nên Hội Thánh sưu tập lại
những bài dạy đạo của các Đấng Thiêng-liêng, của Đức Tây Vương Thánh Mẫu, lại
thành một quyển “HUẤN NỮ THÁNH NGÔN”, để lời Châu tiếng Ngọc được phổ
thông rộng rải hầu cải tạo nổi sống đau khổ, nặng nề phức tạp, trở lại qui cũ nhẹ nhàng
và hạnh phúc, an vui.
Huấn Nữ Thánh Ngôn không phải là những giáo điều khô khan, gò bó, làm
người mất tự nhiên. Không đâu ! mà là khuôn Vàng thước Ngọc để ung-đúc con người
trở nên Thánh-thiện và là kim chỉ Nam cho người tìm đường giải thoát. Huấn Nữ
Thánh Ngôn là:
vi
“Ngọn Đuốc ánh bừng cao ngọn,
Phá mù tan, rọi bốn phương Trời”
Chị em thấy phương vị và vai trò của mình, hầu dễ bề tấn thối trên đường Đời và
mạnh tiến trên đường Đạo, để trở lại Ngôi xưa, như lòng Đức Mẹ hằng trông đợi:
“Con về Mẹ rước hai tay,
Mẹ đà sắm sẳn mão, giày, áo, xiêm,
Thương con bể khổ đắm chìm
Quên quê cảnh cũ trang nghiêm phụng rồng”
Tuy quyển Huấn Nữ Thánh Ngôn, mặc dầu là của báu vô giá, nhưng có đọc, có
hiểu, có hành thì mới rõ giá trị của nó, bằng không thì nó chẳng ích gì được cho người.
Cũng như lòng Thầy, Mẹ rất thương nhân-loại, nhưng mình có biết thương mình hay
không, tự lòng mình xét./-
Kính khải,
HỘI THÁNH
1
BÀI 1: PHÁT MINH
Kiên-Giang, đêm 20 tháng 7 năm 1930 [TGCT/46] (1) [TV.1971/4]
LÝ tuân ỷ chỉ phán nhơn gian,
THÁI-Thượng Tam-Thanh tấu Thánh-Nhân
BẠCH chỉ kim ngôn hồng tự điễm,
THỂ LIÊN TIÊN-NỮ giáng đài đàn.
(Thượng ỷ chứng đàn cho Thể Liên Tiên Nữ dạy Đạo).
1. Nầy năm mười chín trăm ba,
Giáng cơ để vận nôm na ít lời,
Răn khuyên phụ nữ trong đời,
Chớ rằng thấp thỏi mà cười mà khinh.
2. Người người đều sẳn tánh lành,
Phật Trời ban phú cho mình ban sơ,
Bởi hay lắc lẽo hỏng hờ,
Lầm đường lạc bến sa cơ suy vời.
3. Muốn cho đam lại tánh Trời,
Hãy tua gìn giữ nghe lời chị khuyên,
Tiên, Phàm tuy có hai tên,
Muốn cho thoát tục thành Tiên khó gì.
4. Hãy lo hôm sớm Tu trì,
Giồi mài bổn tánh qui y Linh-Hồn,
Phật Trời Đạo thễ Chí-Tôn,
Lòng người nham hiểm ba vuông bảy tròn.
5. Đua chen trí xảo tài khôn,
Lâu ngày bỗn tánh hao mòn Chơn-Nguơn,
2
Dầu cho cữu chuyển Thần-Tiên,
Không trau chơn tánh tự nhiên luỵ mình.
6. Huống chi phận gái hậu sinh,
Quên đường Đạo-đức nên hình thể chi.
Các em vụn tính hẹp suy,
Thấy đời rằn rực cứ đi theo đời.
7. Ham ăn, ham nói ham cười,
Ham bề vật chất, ham mùi phù vân.
Sao không suy xét cân phân?
Mấy đời cõi tạm cho bằng quê xưa.
8. Hồng trần phơi nắng tắm mưa,
Sao bằng Tiên-cảnh không trưa không chiều.
Hồng trần khổ hạnh trăm điều,
Sao bằng Tiên cảnh tiêu diêu thanh nhàn.
9. Hồng trần là chốn lửa than,
Bọt nước sôi tràn thấy đó mất đây.
Ai ai chẳng hiểu lệ này,
Thác rồi nắm được trong tay vật gì?
10. Đua chen khôn dại thị phi,
Tắt hơi nín thở còn chi đâu là.
Sao bằng giữ mực thật thà.
Rảnh rang xác thịt ta bà hồn linh.
11. Cang thường đạo thễ trọn lành,
Phật Trời qui luật chí thành phương vâng,
Hồng trần trọn nghĩa trọn nhân,
Hồn linh mới bước đến tầng mây cao.
12. Thiện tâm chẳng dạ lãng xao,
Thiên đàng mới được ra vào thung dung,
Một lòng một dạ thủy chung,
Sống thơm danh giá, thác phong rõ ràng.
3
13. Hãy xem Thần-Thánh muôn ngàn,
Đều người nghĩa khí Trung Cang mới thành.
Gái mà tiết hạnh trung trinh
Gái mà tiết hạnh Thiên-Đình bia tên.
14. Cung Diêu, cung Quế, cung Sen,
Hàng luôn Tiên-Nữ, dãy liền Tiên Nga,
Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,
Thủy tinh bao phủ, sáng loà như gương.
15. Người đời yêu chuộng Thủy Xoàn,
Nào hay đồ vụn đài trang liên toà,
Người đời yêu chuộng vinh hoa.
Nào hay bị cái giây ma khớp vàm.
16. Chớ rằng tại ở cõi phàm,
Phải lo phu phỉ cho kham với đời,
Cỏi phàm mà thấu Đạo Trời,
Kìa trang Tiên-Thánh cũng người phàm gian.
17. Giàu sang sánh với cơ hàn,
Giàu sang còn dễ bước đàng Chơn Tu,
Đố ai phân biệt trí ngu,
Mây bao bịt phủ, sương mù mịt giăng.
18. Người ngu mối đạo biết phăng,
Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi.
Thấy vầy nên chị ngùi ngùi.
Thương em chị phải tới lui giảng bày.
19. Tam-Kỳ sẵn mối Đạo-Thầy,
Khá tua ráng sức cho dày công phu,
Thì giờ thắm thoát bóng cu,
Một ngày qua khỏi ngàn thu không tìm.
20. Nữ sanh là phận các em,
Không lòng sốt sắng càng thêm lạc lầm.
4
Chị xin Đức Mẹ chế châm,
Cho chị giáng bút, Thánh âm phân trần.
21. Mẹ cho chị xiết nỗi mừng,
Nên Chị vội vả ân cần đến đây.
Phái Nam đã đủ chơn tay,
Phái Nữ đến rày xem thiếu chị em!
22. Nghĩ coi tự cổ chí kim,
Làm thân con gái mỏng mềm sút thua,
Hêu đòi cờ bạc hốt vùa,
Nếu xấu ráng chừa đặng giữ thân danh.
23. Quê môn phận gái đã đành,
Đến việc tu hành lại cũng rút co,
Đường ngay ít kẻ đắn đo,
Đường gai nẽo gốc lần mò lũi đi.
24. Phật-Trời thương xót xiết chi,
Đã bày Ngũ giới Tam qui rẽ ròi,
Ngặt lòng tín ngưỡng lôi thôi,
Có việc cầu Trời khẩn Phật tứ tung.
25. Từ đây khuyên khá rèn lòng,
Nghe lời chị bảo, chí công tập tành,
Công phu, Công quả, Công trình.
Phân rành chương thứ, phân minh tỏ tường./-
THỂ-LIÊN-TIÊN-NỮ
----ooOoo-----
5
BÀI 2: TAM - TÙNG TỨ- ĐỨC
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 26 tháng 6 âm lịch 1938 [ĐCL.34/68] [TV.1971/8]
Vưng lịnh Đức Sư Tôn dạy sửa lại cho NGUƠN Ở SA ĐÉC
1. Thấp hèn cẩn thận Khuê môn
Ráng nghe lời dạy bảo tồn Chơn Thân,
Tam-Kỳ rộng mở Hồng-Ân,
Muốn nên Nữ liệt gắng công học hành.
2. Giữ câu Chí kỉnh, Chí thành,
TAM TÙNG TỨ ĐỨC tại mình đâu xa,
Xử sao cho được ôn hòa,
Mới là phải mặt con nhà Nữ lưu.
3. Được vầy mới rạng mới vui,
Gần ưa xa mến tới lui tập tành,
Mẹ Cha nghĩa trọng sanh thành,
Tại gia tùng phụ phải rành Thần hôn.
4. Bửa ăn giấc ngũ lo tròn,
Trải tâm báo bổ sắc son một lòng,
Xuất gia phận gái nhị tùng,
Tiết trinh cho trọn Đạo chồng mới vui.
5. Công cô tức nhược đền bồi,
Hai bên cho trọn khỏi lời biến sanh,
Chẳng may chồng thác đã đành,
Thì lo vun quén cội lành mát êm.
6. Gia đình dạy dỗ cẩn nghiêm,
Nên danh Sương-phụ trọn niềm tùng tam.
CÔNG là công nghệ phải làm,
6
Vá may thêu dệt cho kham phận mình.
7. Rảnh rang ráng tập Công-trình,
Học thêm chữ nghĩa đặng gìn giữ thân.
NGÔN là lời nói có chừng,
Chớ nên lêu lỏng cũng đừng tự kiêu.
8. Nói ra trước phải độ điều,
Bướm ong hoa nguyệt ít nhiều tại đây,
DUNG là đi đứng thẳng ngay,
Châu thân sạch sẽ chớ bày điểm tô.
9. Phải cho biết phận liễu bồ,
Nết na cho vẹn phải dò phải ngăn,
HẠNH là giữ dạ trang bằng,
Chớ nên tập tính rộn ràng bôn chôn.
THẤP HÈN CẨN THẬN KHUÊ MÔN,
Ráng nghe lời dạy bảo tồn "Chơn Thân"
----------------------------------------
7
BÀI 3: GIẢI NGHĨA GÁI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC
VÔ-VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 24 tháng 8 âm lịch 1944 (9 giờ trưa) [TV.1971/10]
ĐƯỢC, con phải nói lại cho HƯƠNG LÊ nó hay, cái tiếng người đời hay nói:
"GÁI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC "Trong nhờ đục chịu, đó là người hay thường nói mà
không học cho rành cái lý trong đó ra sao, nói chuyền với nhau từ trẻ đến già, hể có
con gái thì cứ nói vậy, trái lại có người hỏi, trong đục có hai, sao tới mười hai bến? Rồi
cắt nghĩa ra sao cho rành?
Đây Thầy nói cho rõ; cái tiếng thường hay nói mười hai bến nước đó là do mấy
người hay nói mười hai bến nước đó là do mấy người học Nho rồi gom lại thân phận
người con gái, kẻ có chồng sang người có chồng hèn, hoặc là nghề nghiệp, v.v... cũng
là phận gái như chiếc thuyền tình, hễ gởi mình vào đâu thì phải trọn niềm với đó. Mười
hai bến nước là như vầy:
1. Là kẻ có chồng được vào hàng làm Quan,
2. Là người có chồng vào hàng làm ruộng,
3. Là người có chồng là thợ (như thợ mộc, thợ hồ, thợ sơn. . . .)
4. Là người có chồng vào hàng buôn bán hoặc ngồi tiệm. (Đi buôn thuộc hàng
thương mải).
5. Là người có chồng làm nghề chài lưới.
6. Là người có chồng làm nghề đốn củi.
7. Là người có chồng làm cày ruộng mướn.
8. Là người có chồng vào chỗ nghèo ở mướn giữ trâu.
9. Là người có chồng nhằm tay khảy đờn.
10. Là người có chồng nhằm tay đánh cờ.
11. Là người có chồng viết liễn, làm thi, làm thơ.
12. Là người có chồng làm nghề họa hình.
8
Mười hai bến nước là vậy, còn đục với trong là chồng hiền hay chồng dữ, cũng là
cái nghề nghiệp nói trên đó mà nhằm chỗ hiền thì được vui, nhằm chỗ dữ thì phải chịu
buồn, đó cũng là số mạng, chớ không ai muốn giành cho được phần sướng, hay là tránh
cho khỏi phần cực.
Vậy con giao lại là CA đặng nó in ra để dành dạy ĐẠO còn một bổn thì
giao lại cho Năm Thiên Sư trả lại cho Hương Lê cùng là gởi cho các chủ Thánh
Thất các Đạo Tràng đặng cho Đạo nghe cho biết.
(Giáo Sư Hương Lê ở Phước Thạnh).
-----ooOoo-----
9
BÀI 4: GIẢI NGHĨA TỀ GIA NỘI TRỢ
VÔ-VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 15 tháng 4 năm 1941 (8 giờ trưa) [ĐCL.43/150] [TV.1971/12]
CHÂU, con nghe Mẹ dạy:Cái phận làm người đứng vào hàng PHỤ-NỮ mà
không rõ nghĩa TỀ-GIA NỘI-TRỢ thì cũng là khó cho nên người trong đó. Đây Mẹ dạy
rành cho con rõ:
Chữ TỀ GIA NỘI TRỢ nghĩa chung gọi là phận đàn bà con gái ở trong nhà
phải lo sắp đặt cho có vẻ chỉnh tề, tuy Vợ Chồng là chung chạ, song có ra cuộc gia -
đình thì phải có chỗ Lễ - Nghi là phải tuỳ theo cái danh phận của chồng hay là con
cháu, tôi, bạn ở trong nhà thì cũng xét coi phải lẽ nào thì đối theo lẽ ấy, làm sao cho
trong nhà đừng có sự “Tồi phong hoại tục”.
Còn NỘI - TRỢ là phải ngó cho kỹ trong lòng dạ của chồng có điều chi mà trái
hẳn với phận làm người thì phải lấy cho hết lời Tâm huyết trong lúc vắng người để nói
cho chồng nghe, có một mình đừng cho ai biết, đó là “Nội Trợ Chi Ngôn”, cái nghĩa
Vợ Chồng mà thương mến nhau lâu dài là do tại đó.
Còn nói riêng về chữ TỀ, là phải lấy cho trọn điều Lễ Nghĩa mà sắp đặt đó gọi là
Tề.
Còn chữ GIA là nhà, nghĩa là người đàn bà phải coi trong đó với sự thiếu, đủ
đặng tỏ lại cho chồng cũng là con hầu lo cho sớm.
Còn chữ NỘI là phải coi chừng Nội gia tạo ác, là đứa ở trong nhà dò đặng tánh
tình rồi đem ra dấu cho kẻ gian vào lấy của.
Còn chữ TRỢ là phải xét cho kỹ rồi sẽ giúp đỡ gọi là tương trợ hữu căn chớ đừng
có bạ đâu giúp đó, rồi thành ra hao tốn không nhằm.
Đó là Mẹ dạy rành cho con ráng học ráng minh đặng làm cho phải.
10
BÀI 5: HÈN - QUÊ - PHẬN –GÁI
VÔ- VI HIỆP - THIÊN – ĐÀI
Ngày 13 tháng 8 âm lịch 1938 ( 12 giờ trưa) [TV.1971/13]
ĐƯỢC, con phải giải nghĩa bài: "Hèn quê Phận gái", cho HƯƠNG LÂU nó học,
con giải đi có Thầy dạy cho.
Hèn quê phận gái Đạo Tam Kỳ
Kỉnh PHẬT thờ TRỜI gọi Lễ - Nghi,
TÁNH HẠNH gắng ghi câu TỨ - ĐỨC,
TINH THẦN nương cậy cửa TAM - QUI,
Sương giăng trước mắt tuồng DANH LỢI,
Gió thổi ngoài tai tiếng Thị Phi,
Thế tục khen chê tình Thế tục
Một lòng xu hướng cảnh TỪ - BI.
GIẢI NGHĨA:
Câu 1 : HÈN QUÊ PHẬN GÁI ĐẠO TAM - KỲ
Nghĩa là : Phận gái hễ vào Đạo TAM - KỲ thì phải chịu Hèn-Quê, vì chưa rõ lý
ĐẠO, chớ ngoài đời thì không phải Hèn-Quê.
Câu 2 : KỈNH PHẬT THỜ TRỜI GỌI LỄ NGHI.
Nghĩa là : Nghe người đời hay nói Tu-Hành là Kỉnh Phật thờ TRỜI thì cũng
tưởng vậy là đủ, gọi đó là Lễ-Nghi.
Câu 3 : TÁNH HẠNH GIÁNG GHI CÂU TỨ-ĐỨC
Nghĩa là : Người đời phải có Tánh - Hạnh là trước hết TÁNH là một cái Tánh tự
nhiên của mỗi người đều có, còn HẠNH nghĩa là nết, nết ở bên ngoài, tánh ở bề trong,
nết là cái nết đoan trang tề chỉnh, đó là nết của người Hiền Lương mà trong đó phải
11
gắng ghi theo bốn chữ Đức, hễ ở đời là: Công, Dung, Ngôn, Hạnh, còn Tứ Đức của
Đạo là:
1. THỆT ĐỨC là đừng nói sái.
2. THƯỜNG ĐỨC là giữ bực thường không thái quá, mà cũng không bất
cập.
3. HUỆ ĐỨC là phải thi ân huệ đặng giúp người hoặc dùng tiền của mà giúp
đở cho người, trong đó chớ nên trông người trả ơn lại, được vậy mới gọi là
"Huệ Đức".
4. XÁ ĐỨC là dung chế cho người lầm lỗi mà biết tự hối, thì cũng bỏ quên đi
chuyện cũ, chớ chát oán thù, mà sanh điều sâu độc, được vậy mới gọi là
Xá Đức, trong bốn Đức nầy có thường nương theo Tánh-Hạnh, tại vậy nên
Ngôi Chị căn dặn phải gắng ghi cho nhớ.
Câu 4 : TINH THẦN NƯƠNG CẬY CỬA TAM-QUI
Nghĩa là : Người Tu phải có tinh thần, có vật chất cả hai cho trọn Đạo Lý mới gọi
là Tu. Như mới vào thì Tinh Thần phải để vào cửa TAM-QUI là giữ theo quy luật của
nhà Đạo.
1. QUY Y PHẬT: Là nương theo Thầy giữ lời minh thệ đó.
2. QUI Y PHÁP: Là nương theo lời thuyết Pháp đặng phát tánh từ hòa
3. QUY Y TĂNG : Là nương náo theo một vị nào làm đầu, đặng dắt dìu mà
đi cho cùng con đường phải. Chữ Qui Y là nương náo về tinh thần, chớ
không phải nương theo về tình dục, nương náo là phải để lời cho nhỏ nhẹ,
khuyên nhủ dịu mềm đặng nương cậy nhau mà chỉ lầm sửa lỗi, là vậy đó.
Câu 5 : SƯƠNG GIĂNG TRƯỚC MẮT TUỒNG DANH LỢI
Nghĩa là : Cái tuồng đời thì có mồi danh bả lợi, là hai món đồ để múa men cho
người mê mẫn, người đi tu thường bị nó cản ngăn, giống như sương tuyết, bởi đường
danh với bả lợi đó, hể ra Tu thì sợ mất danh giá đường đời, còn một nỗi sợ e cho phải
12
nghèo là khác nữa, vì Tu-hành không lẽ bó buộc thân hửu cho nhiều, nên sợ nghèo là
vậy đó, tại đó nên không chịu vui vầy bước tới.
Câu 6: GIÓ THỔI NGOÀI TAI TIẾNG THỊ PHI
Nghĩa là: Các lời Phải quấy chẳng khác nào như gió thổi ngoài tai, tiếng qua
tiếng lại cũng tỷ như gió thổi có luồng, mà mình phải xét cho rành thì mới chịu nỗi
mấy luồng gió đó.
Câu 7: THẾ TỤC KHEN CHÊ TÌNH THẾ TỤC
Nghĩa là : Các việc khen chê thì hay có thường hoài hể tốt thì khen cho quá, hể
xấu thì chê cho đoạ, chớ không ai mà để lòng suy xét, coi trong hai lẽ đó tốt xấu tại
sao? Nên đó gọi là thế tục, còn ghét thì dầu cho nên cũng ghét, cái tục này rất hại cho
đời nhiều lắm.
Câu 8 : MỘT LÒNG XU HƯỚNG CẢNH TỪ-BI
Nghĩa là : Mình biết bổn phận mình có tội lỗi, nay nhờ lượng Từ Bi mở Đạo đặng
chỉ rành tội phước cân phân, thì mình cứ đi ngay con đường đó đặng lo Tu Tâm Dưỡng
Tánh là hay hơn, chớ cãi canh rồi làm sao mà TU cho đặng./-
-----ooOoo-----
13
BÀI 6: TÂY VƯƠNG THÁNH-MẪU CHƠN NGÔN-KINH
LONG XUYÊN, Đêm 14 rạng 15 Annam năm Qúi-Dậu (1933) [TV.1971/17]
TÂY Trúc thời kỳ dụng Thích-Ca,
VƯƠNG môn để tiếng cậy Di - Đà.
THÁNH Phàm phân biệt DU DÀ LUẬN,
MẪU Tự Kinh tàng TÁT ĐẢNG ĐA.
CHƠN thể Chơn Thân đam Phật tánh.
NGÔN hành, ngôn sắc, dạy Ta Bà.
GIÁC mê Thầy chuyển Tam-Kỳ Đạo,
THẾ giới từ đây MỘT với CHA.
1. Đêm trong trắng, trắng trong như lọc
Nghe tiếng con Mẹ phút chạnh lòng.
Bởi con mến chốn bụi hồng,
Nên con tách Mẹ rùng rùng ra đi.
2. Tưởng ra đi mãn kỳ trở lại,
Nào dè con chẳng đoái chẳng hoài.
Ra đi Mẹ dặn một hai,
Một hai phải tránh chông gai cuộc đời.
3. Dặn con phải giữ lời sau trước,
Bước Hồng trần là nước qủi ma.
Dặn con chớ khá ta bà
Dặn con chớ khá kê cà mẫn mê.
4. Dặn con nhớ cảnh quê làm trọng,
Dặn con thường để bụng nằm lòng.
Rằng loại ma qủi phải phòng,
Rằng loài lưỡi mối, nọc ong phải ngừa.
14
5. Dặn con phải sớm trưa kinh kệ,
Dặn con đừng bê trễ Công Trình.
Dặn con Mẹ dặn đinh ninh,
Dặn con phải giữ phải gìn tấm thân.
6. Dặn con biết mấy lần trân trọng,
Mà con đành rẽ rúng lời khuyên,
Con đành gây cuộc não phiền,
Con đành gây cuộc trần duyên lao lồng.
7. Nay con thấm bẩy vòng cắn xé,
Con mới đành nhớ Mẹ sao con,
Con ôi! lòng Mẹ héo von,
Con ôi! thân Mẹ vì con hao gầy.
8. Rày con được ơn Thầy cứu độ,
Đam con về phải chỗ phải nơi,
Khuyên con dạy phải nghe lời,
Khuyên con chớ khá giỡn chơi ích gì.
9. Tu phải biết Qui Y làm báu,
Quy Y là nương náo cửa Trời,
Tu cho kịp tiết kịp thời,
Tu đừng xao lãng những lời Mẹ răn.
10. Nầy lời Mẹ ân cần nhắc - nhở,
Thấy con thơ Mẹ ứa đôi hàng,
Thương con trước chịu lạc đàng,
Con ôi! phận-gái gian-nan não-nề.
11. Thương con gánh nhiều bề cay-đắng,
Thương con dầm lửa nắng nước sương,
Con ôi! phận-gái đoạn trường,
Con ôi! phận-gái chải-bương mới thành.
12. Tu phải biết việc lành việc dữ,
Tu chừa lòng bảy-lự ba-lo.
15
Thầy đà sau trước dặn dò,
Thầy đà chực sẵn chiếc đò LÝ-CHƠN.
13. Đò Lý-Chơn chủ nhơn đã chọn,
Chơn qua đò khỏi tốn khỏi hao,
Miễn con trong trắng một màu,
Miễn con sau trước, trước sau một niềm.
14. Tu phải giữ: lặng-êm làm gốc,
Tu phải chừa cái nọc nhiều lời,
Con ôi! tai-họa khắp nơi,
Tại người uốn-lưỡi khua môi hại mình.
15. Chử một dạ Kỉnh Thành làm trước,
Lòng đừng lo Họa Phước CÓ KHÔNG.
CÓ, KHÔNG, là luật Chí Không,
CÓ, KHÔNG, cũng tại nơi lòng các con.
16. Đêm thanh vắng con tròn phận sự,
Đọc Kinh thời ráng giữ lấy mùi,
Đừng ngâm chót lưỡi đầu môi,
Mẹ còn lui tới tới lui phân trần,
17. Đọc Kinh phải cân phân từ tiếng,
Tiếng Kinh là Kinh Điễn của Thầy.
Đọc Kinh gẫm được mùi hay,
Dầu cho sắt, đá, cỏ, cây cũng thành.
18. Gái cần giữ thân danh làm trước,
Kế quỉ ma là nước tinh yêu,
Êm tai sáo huyển lòn chìu,
Mẫn mê vật chất đánh liều hư thân.
19. Mẹ đã dạy nhiều lần cặn kẽ,
Quỷ thường xưng tên Mẹ lắm con,
Con nào gan yếu dạ non,
Nghe lời bưng bợ ngọt ngon phải lầm.
16
20. Cách đi, đứng, ngồi, nằm, cẩn thận,
Điệu mỏng mền ấy phận người Tu,
Tránh xa tiếng quến lời rù
Tránh xa: những bợm giả mù sa mưa.
21. Thấy nhiều trẻ bơ thờ hỏng hẻo,
Tướng dịu dàng yểu điệu khá thương,
Tại sao mang số đoạn trường?
Tại quên những tiếng nghĩa phương ngọc ngà.
22. Thương con dại thiết tha, tha thiết,
Vui vẽ chi mài miệt cõi trần?
Con ôi! xét lấy nàng Hằng,
Trọn năm được thấy mấy lần đẹp xinh ?
23. Mẹ hằng cậy nhắn tin cho trẻ,
Khuyên trẻ đừng bê trễ Công Trình,
Thương con Thầy phế Ngọc Kinh,
Rước con khỏi chốn Hỏa khanh đem về.
24. Con chớ khá bỏ bê lúc rảnh,
Lúc rảnh thường tâm tánh lảng xao.
Tánh Tâm xao lảng phân hào,
Tự nhiên con phải mỏn hao Tinh Thần.
25. Tu phải trọng: Chơn Thân Chơn Thể,
Thân Thể này gốc rễ của con,
Chơn Thân, Chơn Thể, Chơn Hồn,
Giữ gìn trong sạch mới còn gọi con.
26. Đừng vụng tưởng phấn son là sạch,
Son phấn làm Chơn Phách phải lu.
Mấy ai rọi kiếng trăng thu?
Mấy ai ngồi kiệu lấy dù che thân?
27. Đừng vụng tưởng "Cơ Bần" là nhục,
Cơ Bần là chánh gốc mỗi con,
17
Lúc sanh đỏ lói một hòn,
Lúc về có kể VẬT CHÔN những gì ?
28. Con phải nhớ: lúc đi Thầy dặn,
Phải lo tròn bổn phận Thầy sai,
Đừng lo phú quí chông gai,
Phải lo xứng đáng Tam Tài mới xinh.
29. Chánh Tam Tài mới vinh mới quí,
Giả Tiền Tài đồ mỵ phá Chơn,
Con sao chưa rõ thiệt hơn?
Đã dư mấy kiếp đường trơn bước hoài.
30. Rày Mẹ nhắc chỗ sai con hiểu,
Hiểu được rồi Mẹ biểu phải nghe,
Nghe rồi cẩn thận trăm bề,
Tránh đoàn kết đảng lập phe phĩnh phờ.
31. Con phận gái lở cơ sao được,
Phải dặt dè từ bước mới ngoan,
Sao cho danh gái rỡ ràng,
Chín mười cho đúng tuổi vàng Mẹ trao.
32. Cuộc trần thế ảo bào mộng ảnh,
Có Chơn-Tu mới rảnh Phù Sanh,
Muốn cho chơn thật Tu hành,
Ráng lo gìn giữ kỉnh thành đừng quên.
33. Người ở thế đặt tên kể tuổi,
Tên tuổi này một buổi chẳng lâu,
Mấy tên: Phú quí Công Hầu,
Có đem chi được về chầu Ngọc Kinh?
34. Người ở thế danh thinh làm trước,
Thinh danh là cội phước sự Tu.
CÔNG DUNG NGÔN HẠNH làm đầu,
Lòng đừng mê hoặc phải trau sửa mình.
18
35. Đừng tập lối văn minh dối trá,
Văn Minh này qủi phá mấy hơi,
Con ôi! Mẹ đã cạn lời,
Ráng cho trong sạch tên Người, tuổi Ta.
36. Tên tuổi Ta, bao la Vỏ trụ,
Tên tuổi Người che phủ thế gian,
Muốn cho tên tuổi miêng tràng,
Ta Người tên tuổi, vững vàng chớ sai.
37. Người xuống thế ai ai cũng Một,
Phải rõ người là ruột với mình,
Với mình như Một mới xinh,
Với mình như Một, mới rành tuổi tên.
38. Con phải nhớ chớ quên lời Mẹ,
Được thân người chẳng dễ đó con,
Tuổi tên được vậy mới còn,
Tuổi tên được vậy mới tròn thân danh.
39. Đừng tập tánh trớ trinh lêu lỏng,
Theo tánh phàm học giọng cầu cao.
Chị em đừng tiếng Mầy Tao,
Chị em tiếng nói ngọt ngào mới ngoan.
40. Lời ăn nói dịu dàng mềm mỏng,
Mới làm cho trên trọng dưới vì,
Học chi cái giọng ngu si,
Học chi cái giọng dị kỳ khó ưa.
41. Đừng học thói đỏng đưa miệng lưỡi,
Mà có khi vướng lưới qủi ma.
Khôn ngoan sao bẳng thiệt thà,
Cứ lời Mẹ dạy mới là gái ngoan.
42. Con đã chán các đàng tội phước,
Mừng cho con nay được gặp Thầy.
19
Ơn Trời rưới khắp cỏ cây,
Con tua tỉnh mộng kịp ngày quy nguyên.
43. Phần xác thịt ba giềng làm trọng,
Phần Thiêng liêng phải gióng cho cân.
Chớ hao Tinh, Khí hại Thần,
Tinh Thần quý báu phải cần phải chuyên.
44. Thần Khí Tinh Tiên Thiên làm gốc,
Tinh Khí Thần là nọc hại người,
Con ôi! đừng tưởng trò chơi,
Nếu con sái ngược Đạo Trời dễ đâu.
45. Đừng nghe kẻ mượn màu Đại Đạo,
Tiên, Hậu, Thiên ngược ngạo phỉnh đời.
Nếu con sai lạc tất hơi,
Luân hồi phải vướng chạy trời được sao?
46. Mẹ thấy trẻ khát khao tìm Đạo,
Mà lại tin chuyện ảo rằng chơn,
Con ôi! chớ cậy giọng đờn,
Giọng đờn là giọng hại khờn Hồn Linh.
47. Con muốn rõ Công Trình tập luyện,
Tập luyện rành Cửu Chuyển phải thông.
Muốn cho Cửu Chuyển được ròng,
Gần Thầy mới rõ Huyền công thế nào?
48. Con phải biết Đạo cao tối trọng,
Đừng để lòng hờ hỏng sự Tu,
Chớ tin những lũ quán mù,
Mượn Thầy giả Đạo quyến rù hư thân.
49. Nghe tiếng trẻ Mẹ mừng cho trẻ,
Trẻ phải mau bước lẹ đường ngay,
Muôn năm mới gặp hội này,
Trể cơ hội ắt đoạ đày vương mang.
20
50. Đã gặp Đạo gặp đàng chánh đáng,
Thì phải lo phải ráng Công Trình.
Mẹ khuyên bỏ tánh hớ hinh,
Mẹ khuyên bỏ tánh chống kình chị em.
51. Tánh kình chống ráng kềm cho dứt,
Nó làm cho Đạo Đức phải hư
Con ôi! Mẹ vốn Đại-Từ
Thương con Mẹ ráng giờ dư chỉ bày.
52. Thấy trẻ dại đọa đày Thân thể,
Mãng tranh đua theo thế nháng hào,
Quên nhìn Đất rộng, Trời cao,
Đành vùi bụi đỏ để xao tánh Trời.
53. Thần, Tiên, Phật ráo lời cạn tiếng,
Khuyên các con bỏ miếng Tu chơi,
Tu cho biết Phật biết Trời,
Tu cho biết Đạo biết Đời mới Tu.
54. Kẻ mến Đạo Thầy mù khó dắt,
Trẻ ham đời, thì mắc tay phàm,
Xanh vàng sợi chỉ ai làm ?
Con đường Nam Bắc – Bắc Nam ai bày ?
55. Muốn tìm Đạo gặp Thầy mới sống,
Muốn tìm Thầy chớ vọng phàm tâm,
Con ôi! Đạo Lý cao thâm,
Lầm sai một mảy hại ngầm xiết bao.
56. Lòng thương xót đồng bào chớ nệ,
Một rún nhao của Mẹ mà ra.
Đông Tây Nam Bắc gần xa,
Dầu cho khác giống cũng là tình thâm.
57. Kẻ rù quến gây mầm xâu xé,
Lập phái phe chia rẽ thịt xương,
21
Lời ngon ngọt tợ như đường,
Nếu con nhẹ dạ mắc lường uổng oan.
58. Con phải đến Đạo-Tràng Chơn-Lý
Mới không còn có qủi nơi tâm,
Đạo tràng Thầy lập phải tầm,
Phải tầm cho gặp đặng chăm học hành.
59. Trời đã phú tánh lành sáng suốt,
Thì con là con ruột của Trời,
Con Trời đâu có cãi lời,
Con Trời đâu có tiếng đời ngạo khinh.
60. Khuya những tối tự mình con xét,
Con xét con con biết lấy con,
Con ôi Tánh, Đức cho tròn,
Đừng ham những thói bôn chôn rộn ràng.
61. Chị em cũng một đoàn thua sút,
Giờ rảnh rang phải học mới nên.
Học thì chí phải cho bền,
Học bền mới rõ tuổi tên với người.
62. Khi đi đứng, khi cười, khi nói,
Lúc nằm ngồi, lúc hỏi, lúc thưa,
Con ôi! lễ nghĩa chẳng vừa,
Nếu con thưa thớt ai chừa cho con.
63. Phận nữ nhi phải tròn danh dự,
Nết đoan trang con giữ lấy con,
Tiếng thơm tiếng nổi như cồn,
Tiếng nhơ cũng nặng như hòn Thái Sơn.
64. Muốn rõ đạo chớ sờn công quả,
Công quả bòn chớ khá từ nan.
Muốn cho công quả rõ ràng,
Công càng bền vững quả càng lớn lao.
22
65. Công đức được đài cao chói rạng,
Công nghiệp càng rọi bản Ngọc kinh,
Sao cho Công vững như thành,
Sao cho Quả được trổ nhành đơm hoa.
66. Phận nhi nữ ngọc ngà thân thể,
Công quả cho rành rẽ đừng sai,
Công cao phước mới được dày,
Công dày, Đức mới vững tày núi sông.
67. Muốn được quả phải trồng nên quả,
Quả muốn trồng giống chạ chớ ươn,
Con ôi! phận gái đoạn trường,
Đoạn trường càng phải tìm đường mới nên.
68. Mẹ đã dạy công bền mới được,
Công dày công được phước mới bền.
Học hành công khó mới nên,
Biếng lười phải vướng vào nền tớ tôi.
69. Mẹ đã dạy vun bồi công quả,
Con phải rành công cả của con,
Con nào công nấy vuông tròn,
Công nào quả nấy chẳng còn đợi chi?
70. Mẹ cũng biết nữ nhi phận gái,
Mẹ đã trao phần dạy có người,
Con ôi! công chớ biếng lười,
Con ôi! Mẹ đã ráo lời khúc nôi.
71. Con phải biết luân hồi phải sợ,
Luân hồi làm nên nợ vô minh,
Muốn cho công được viên thành,
Thì con khá ráng học hành cho thông.
72. Kẻ dối trá cuồng ngông khả ố,
Mà làm tuồng dạy dỗ tròn vuông,
23
Các con là gái Quê-Môn,
Các con đâu rõ vuông tròn là chi.
73. Các con hãy kỷ suy chính xét,
Thầy có đâu la lết Đạo đường,
Thầy đâu làm mặt trò phường,
Thầy đâu tán tận thiên lương khuyấy đời.
74. Con đã gọi con Trời thế hạ,
Con phải lo hối hóa tự tân,
Con sao chẳng chịu Nhựt-Tân,
Mà con lại muốn tránh Luân - Xa hồi .
75. Bánh Luân xa lăn rồi chẳng đợi,
Nếu vướng vào con mới định sao.
Con ôi! Thiên Võng nan đào,
Đừng trông Bắc đẩu, Nam tào cứu nguy.
76. Muốn cứu nguy có chi lạ nữa,
Con phải lo tự sửa lấy mình.
Sửa mình cho được bất sinh,
Sửa mình cho được tiền trình vẻ vang.
77. Nói đến con trăm đàng chua xót,
Mẹ xiết bao lệ giọt đượm tuông,
Thấy con sa hố lạc truông,
Cũng vì con mãn làm tuồng khéo khôn.
78. Càng khôn khéo càng dồn cát bụi,
Khéo khôn chi với buổi hồng trần,
Hồng trần khôn khéo nhố nhăn,
Khéo khôn theo buổi, Hồng trần ích chi ?
79. Kìa nước mắt con suy cho kíp,
Cuộc Bi, Hoan, Ly, Hiệp mấy hồi,
Sao con chẳng rõ cơ Trời,
Nắng, mưa, lạnh, nóng mấy hồi đó con.
24
80. Trời bình tịnh thoạt còn nổi gió,
Trăng làu làu lại trổ mòi mưa.
Đừng ai khoe sớm nói trưa,
Năm còn tháng thiếu, ngày thừa phải sai.
81. Lời rỉ rả canh dài Mẹ dặn,
Tiếng nỉ non phải, quấy Mẹ bày,
Con ôi! gắng chí theo Thầy,
Ngọc Kinh mới được có ngày đoàn viên.
82. Cơ Hoạ phước nhãn tiền mấy lát.
Cũng đều do KHỔ LẠC chẳng tường,
KHỔ kia ai tạo mà vương?
LẠC này ai bỏ ai duồng lại chê.
83. Phải xét kỷ rõ bề khổ lạc,
Khổ tại đâu mình chát vào mình.
Tại mình nuôi cái vô minh,
Vô minh nào phải Trời sinh mà ngờ.
84. Kìa Đuốc Huệ ánh bờ Chơn-Lý,
Thầy đã khai rọi chỉ đường ngay.
Thuyền nghiêng sóng ngược phải quày,
Đừng khoe mạnh bạo rủi tay lái lèo.
85. Người Trí Thức coi dèo thời thế,
Chớ hỏng hờ lầm kế tinh ranh,
Con ôi! phận gái mỏng mành,
Thương con Mẹ chỉ mối manh con tường.
86. Đêm đã cạn Mẹ càng than thở,
Bỏ tánh phàm xem chợ nhắm em.
Đạo dường sóng tạnh gió êm,
Con nào mến Đạo phải tìm đường Chơn.
87. Biết sao kể nguồn cơn sau trước,
Ham tự-do con vượt ra đi.
25
Tự-do nó có ích gì?
Tự do càng lắm, càng suy Tinh-Thần.
88. Trẻ hối ngộ Mẹ mừng cho trẻ,
Ráng lo Tu kẻo trễ thời kỳ.
Gặp Thầy con khá Qui-Y,
Càng cho biết Lễ biết Nghi mới rằng.
89. Mẹ dạy con chẳng ngừng lời nói,
Con nghe lời đừng gọi phui-pha,
Đêm khuya nguyệt xế trăng tà,
Con soi bóng nguyệt, còn là bấy nhiêu.
90. Duyên Tứ giả lắm điều dối trá,
Cuộc Tuần huờn vay trả chẳng thôi.
Lánh xa cái bánh Luân hồi
Khá mau tỉnh ngộ vun bồi Chơn linh.
91. Vững Chơn-Linh mới thình Tâm, Tánh,
Nhìn Ngọc kinh là cảnh quê nhà.
Rảnh rang cái kiếp phù hoa,
Lặng Tâm, êm Tánh mới là gọi con.
92. Mẹ vì con lưởi mòn đoài đoạn,
Mẹ vì con lời cạn mấy phen,
Công dư kết bạn với sen,
Dư công đâu để làm quen với bèo.
93. Chừa các tánh tự kiêu tự đắt,
Mới có ngày gần Phật, gần Trời,
Trời tuy lộng lộng vơi vơi,
Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây.
94. Con nghe Mẹ, Mẹ khuây khỏa dạ,
Mẹ nhìn con, con hả-hớn lòng.
Con ôi! Mau kíp trùng trùng,
Đến đài Kim khuyết hiệp cùng chị em.
26
95. Lời tâm-huyết Mẹ đem tường tận,
Khuyên con thơ yên phận Tu hành
Muốn cho gọi được gái lành,
Thì mau cải dữ, mới thành Chơn tu.
96. Đừng phân biệt trí-ngu thêm hại,
Đố ai tường khôn dại lạ chi.
Trăm điều đều tại Hóa-nhi,
Đừng đem phàm tánh mà khi mà lầm.
97. Mẹ căn dặn Tu-Tâm cho lắm,
Tu-Tâm rồi tánh bẫm mới trong.
Tánh-Tâm tuy cũng nơi lòng,
Mẹ còn lo ngại, con không rỏ đàng.
98. Lòng thương con ngỗn-ngang trăm mối,
Muốn cho con tránh khỏi Luân-hồi.
Nầy con Tâm, Tánh bởi Trời,
Nầy con Tâm, Tánh bởi người phá hư.
99. Phật thường gọi Chơn-như Tâm-Phật,
Trời đã ban Minh đức, tánh Trời.
Tánh-Tâm trong sạch là người,
Tánh-Tâm xảo trá là đời đó con.
100. Đã gần trót đêm tròn Mẹ giảng,
Giảng cho con mấy đoạn éo le.
Phải nhìn Đất chở Trời che,
Phải nhìn cho kỹ đặng nghe mà làm.
101. Đời gió bụi hiểm-nham bớ trẻ,
Có Thiện-Căn mới dễ tránh Đời,
Tránh Đời con phải nghe Trời,
Nghe Trời thì phải, nghe lời Mẹ khuyên.
102. Kẻ có phước Thiện-Duyên mới gặp,
Gặp Thiện-Duyên ráng tập mà làm.
27
Làm thì Nhứt-Đức Nhứt-Tâm,
Nhứt-Tâm Nhứt-Đức Mẹ chăm nom liền.
103. Thầy đã dạy "Mười khuyên" ráng nhớ,
Lại lắm khi nhắc nhở trăm điều,
Khuyên con Tâm Huệ ráng khêu,
Ráng khêu cho tỏ, đặng theo mới mầu.
104. Bề cư-xử sòng-nâu đạm-bạc,
Chớ hêu-đòi đài các Trâm-Anh.
Trâm-Anh để gọi gái lành,
Trâm-Anh nào phải sửa sanh bề ngoài.
105. Mẹ dạy con chẳng nài lao khổ,
Tánh phàm khuyên ráng bỏ ráng chừa.
Ráng đem lại Tánh-Trời xưa,
Ngọc-kinh sớm bước chờ trưa trể chầu.
106. Đuốc Chơn-Lý làu làu Thầy rọi,
Nơi Trung-Ương đặng gọi các con,
Bòn vàng sông Lệ nên bòn,
Tìm Châu tìm Ngọc non Côn đến tìm.
107. Cây mát mẻ có chim khôn đâu,
Người hiền lành noi dấu Từ bi,
Từ bi, Bác ái Thầy ghi,
Từ bi, Bác ái Tam kỳ vẻ vang.
108. Mẹ đã dựng nền vàng tảng ngọc,
Con biết lo săn sóc đêm ngày,
Ân cần mực thước đừng sai,
Thì con sẽ được dẫy đầy ơn trên./-
28
BÀI 7: KHUYẾN – THIỆN TU – HÀNH
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 18 tháng 8 âm-lịch 1938 [ĐCL.36/48] [TV.1971/34]
ĐƯỢC, con sửa bài học cho HƯƠNG-NHÂM (Giáo-Hữu) Làng Lương-Hòa-Lạc
Mỹ-Tho đặng nó học rồi giao lại cho CA ban hành cho Đạo rõ, con sửa Thầy dạy cho.
Sửa họa chữ đầu:
1. Nay con dại thành tâm khẩn nguyện
Mừng chị em Khuyến-Thiện Tu-Hành.
Đạo cao nhờ tại "Chí-Thành"
Khuyên lo học hỏi mối-manh cho rành.
2. Trong giờ học tại mình bê trễ,
Định ngày giờ rành rẽ chẳng sai,
Khuyên lo nhớ đủ bốn ngày,
Đặng cho bước kịp thì Thầy mới vui.
3. Trai cũng biết làm tôi trọn Đạo,
Gái phải ghi hòa hảo thính-tùng
Tại vì chưa quyết một lòng,
Cho nên chậm trễ nhọc lòng Mẹ than.
4. Mẹ chẳng nỡ bỏ đoàn con dại,
Lòng Từ-Bi quảng đại thương đồng,
Muốn sao hai phái đặng xong,
Cho nên danh phận đẹp lòng Mẹ vui.
5. Mẹ hết sức hết lời khuyên nhủ,
Lòng Chị-Em bao nỡ quên đành?
Muốn tròn danh phận Nữ-Sanh,
Cho vui lòng Mẹ, Mẹ nhìn là hơn.
29
6. Gái bền chí đừng sờn lao khổ,
Cũng là công Phổ-Độ giúp đời,
Tại không chừa tánh đổi dời,
Cho nên thua sút Đạo-Đời cả hai.
7. Lời Mẹ dạy đủ bài vàng ngọc,
Ngày công dư lo học sửa mình,
Lâu ngày kết cuộc Đạo thành,
Tại không Tin chắc dạ đành ngáo-ngơ.
8. Việc Tu-Niệm trước nhờ Công-Quả,
Sau đặng chừa nhĩ-ngã tôn-ti,
Nữ mà bỏ đặng tự khi,
Lo xong phận sự Thầy ghi công đồng.
9. Con nay thiệt quyết lòng Tin-Đạo,
Học làm bài khuyên bảo Chi-Em,
Trước nhờ Đức-Mẹ chỉ thêm,
Miễn sao cho đặng Chị-Em vui lòng.
10. Vì sanh đứng trong vòng Trời-Đất,
Các tội tình gom chất nhiều năm.
Trăng trong nhờ có đêm rằm,
Các điều rõ đặng chỗ lầm-lạc sai.
11. Bên Nữ-Phái từ này rộng mở,
Cũng nhờ Thầy phóng vở học lần.
Một lòng giữ trọn Tứ-Ân,
Có Thần, có Thánh, cân-phân chẳng lầm./-
-----ooOoo-----
30
BÀI 8: MƯỜI NGUYỀN
(Đức - Mẹ dạy): [TV.1971/36]
1. MỘT nguyền Mẹ dạy con nghe,
HAI nguyền con phải dặt-dè nết-na.
BA nguyền bỏ Tánh ta-bà,
BỐN nguyền giữ trọn Đạo nhà phép công.
2. NĂM nguyền qua khỏi Đại-Đồng,
SÁU nguyền độ dẫn phần đông lánh nàn.
BẢY nguyền sóng lặng nước an,
TÁM nguyền chung cả Vạn ban Thái-Bình.
3. CHÍN nguyền lòng sắc dạ đinh,
MƯỜI nguyền giữ trọn Đức-Tin theo Thầy./-
31
BÀI 9: NÀY NAM, NỮ NGHE LỜI MẸ DẶN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI Ngày 17 tháng 3 Annam 1938 (12 giờ khuya) [ĐCL.32/166] [TV.1971/37]
TÂY-VƯƠNG THÁNH-MẪU Giáng-Đàn
Chào các con Nam-Nữ. Các con tịnh tâm nghe Mẹ dặn:
1. Nầy Nam, Nữ nghe lời Mẹ dặn,
Chẳng mấy khi con đặng sum vầy.
Ngày nay Mẹ giáng-đàn đây,
Cũng vì thương trẻ bấy chầy có công.
2. Tuy đã biết con không bỏ Đạo,
Song còn chưa cải tạo cho rành.
Trước sau không rỏ ngọn ngành,
Chánh-Tà Chơn-Nguỵ trược-thanh chưa tường.
3. Nay Tòa-Thánh Trung-Ương sửa lại,
Kêu Định-Tường có hại chi đâu.
Nhiều con còn dạ ưu sầu,
Vậy nên sanh chuyện câu-mâu giận-hờn.
4. Các con chẳng biết ơn của Mẹ,
Dám cãi-canh nạnh-hẹ chống-kình.
Tuy là không nói làm thinh,
Trong lòng lo chuyện bất bình chẳng vui.
5. Mẹ thấy trẻ ngùi-ngùi thỏ-thẻ,
Dạy khôn-lanh bác-bẻ nhiều lời.
Các con rằng biết Đạo-Trời,
Sao không nương cuộc cứu Đời lập công.
6. Trời còn phải có giông có gió,
Đạo với Đời cũng có biến an,
32
Nhơn-Tâm chưa được vững vàng,
Nếu không kềm thúc phải mang hiểm nghèo.
7. Các con ráng tùy theo cơ Đạo,
Chớ chát điều quả-báo không xong.
Việc chi hỏi lại nơi lòng,
Chớ nghe lời phỉnh khó phòng gặp Ta.
8. Kìa cao vọi một Tòa Bạch Ngọc,
Chỗ đó là đùm bọc các con.
Chung lo công vụ cho tròn,
Có ngày sẽ đặng bảng son danh đề.
9. Chớ vội tiếng khen chê thêm hại,
Rằng Ngọc kinh đâu tại chỗ nầy.
Phàm gian ô trượt bùn lầy,
Phật Tiên đâu ở nơi đây làm gì ?
10. Thiệt một lũ ngu si thái quá,
Chưa rõ câu Phật giả Tâm điền
Xúm nhau bàn cãi đảo điên,
Làm cho các trẻ nảo phiền Lương tâm.
11. Tu lo kể nhiều năm nhiều tháng,
Mà chưa thông chỗ "Sáng" là gì?
Mãng lo nghị nghị, nghi nghi,
Tranh đua khẩu nghiệp thị phi rộn ràng.
12. Mẹ nhìn thấy con mang tội lỗi,
Nên giáng Đàn tỏ nỗi thiệt hơn.
Từ đây khuyên chớ oán hờn,
Lo tu, lo học cứu cơn khổ nầy.
13. Con khá ráng nhìn mây nhìn nước,
Nhìn lại coi "Tội, Phước" của mình,
Giáp vòng ràng buộc chung quanh,
Không lo vùng vẫy cho thanh phận mình.
33
14. Lời Mẹ dặn đinh ninh ráng nhớ,
Ấy là điều Đất chở, Trời che.
Con ôi! ráng dặt ráng dè,
Hớ hinh mang hại lũ bè cũng tiêu./-
ĐƯỢC, con đọc tại Đàn cho chúng nó nghe.
- THĂNG -
34
BÀI 10: NÀY NỮ PHÁI NGHE LỜI MẸ DẶN
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 6 tháng 5 Annam 1938 (1 giờ trưa) [ĐCL.33/72] [TV.1971/39]
Nầy các con Nữ-Phái, nghe Mẹ dặn đây ráng nhớ nghe các con:
1. Nầy Nữ phái nghe lời Mẹ dặn,
Mừng cho con nay đặng sum vầy,
Đạo tràng lo học tại đây,
Khuyên con lớn nhỏ từ nầy ráng ghi.
2. Trong mỗi tháng bốn kỳ Thầy định,
Định cho con y lịnh lo làm.
Khuyên chừa triêu tứ, mộ tam,
Đặng theo cho kịp Phái Nam một kỳ.
3. Trai là bực Tu my Nam tử,
Gái lại không Tài nữ hay sao?
Tại con chưa để Tâm vào,
Cho nên bê-trễ phái nào cũng con.
4. Mẹ nhiều lúc nỉ non than-thở,
Lòng các con bao nở quên đành.
Muốn cho con đặng nên danh,
Cho nên Mẹ chỉ mối-manh con tường.
5. Gái giữ trọn Cang trường danh-dự,
Cũng so tài Nam tử Tu my.
Tại con còn tánh diên trì,
Cho nên chịu dốt chịu khi đã đành.
6. Lời Mẹ dạy con đành chẳng nhớ,
Ngày những đêm nhắc nhở chuyện xằng.
35
Lâu ngày thành cuộc nhố nhăn,
Tại vầy nên trễ không bằng Phái Nam.
7. Việc Tu niệm trước làm Công quả,
Sau học hành phẩm giá mới cao.
Nữ Nam có khác chi nào?
Lo tu, lo học phái nào cũng nên.
8. Con muốn học phải bền mới được,
Học đặng lo từ bước đi lần.
Trước xa sau cũng tới gần,
Miễn là bền chí ân cần thì nên.
9. Vì thương trẻ nên khuyên nhắc trẻ,
Các con lo bước lẹ theo Thầy.
Trăng lu cũng bởi tại mây,
Các con muốn rạng nghe Thầy mới xong.
10. Bên Nữ phái năm Cung sẵn đủ,
Cũng thay quyền làm chủ các con.
Một lòng tín ngưỡng cho tròn,
Có người dìu dắt thì con đặng thành.
CA, ĐƯỢC hai con đọc cho chúng nó nghe rồi in ra cho chúng nó học.
36
BÀI 11: NÀY CÁC TRẺ CÓ DUYÊN MAY GẶP
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI Ngày 12 tháng 7 Annam 1939 (4 giờ khuya) [ĐCL34/63] [TV.1971/41]
DIÊU cung tường ngọc bích
TRÌ mãng vọng cao kiên
THÁNH-Tiên-Phàm hữu hạng,
MẪU-Tử niệm Chơn-Truyền.
Nầy các con Nữ-Phái có mặt tại Thánh-Tòa, ráng nghe Mẹ hỏi?
1. Nầy các trẻ có duyên may gặp,
Thì phải lo học tập hằng ngày.
Học hành càng mới mới hay,
Sao không thấy mới, cũ hoài vậy con?
2. Lòng Đức Mẹ thon von thảm thiết,
Thấy các con chưa thiệt một lòng.
Đọc bài nhiều đứa chưa thông,
Phần đông Tâm, Tánh lại không chỗ HÒA.
3. Các con cũng vào ra Tòa Thánh,
Mà sao chưa thấy Hạnh Khiêm-từ.
Mơ màng giả cuộc nhàn cư,
Mẹ nhìn thấy rõ nết hư buộc ràng.
4. Con phải nhớ Mẹ than mấy lúc,
Cũng vì con đắm tục mê trần.
Chẳng màng Chân thể, Ngọc thân,
Miễn cho xác thịt vui mừng là hơn.
5. Con nhớ lại trong cơn rắc rối,
Tại vì đâu nên mới chia lìa?
37
Cũng vì nay nọ, mai kia,
Cũng vì ham muốn đảng phe, lợi quyền.
6. Mẹ thường nhắc gặp duyên phải ráng,
Sao các con quyết đoán chưa rành?
Hiện giờ chưa dứt cãi canh,
Ngày nào rõ đặng mối manh Đạo Trời?
7. Mẹ hết sức cạn lời khuyên nhủ,
Khuyên các con ráng phủi tục phàm.
Tu hành Đạo Đức biết ham,
Biết ham Đạo Đức thì tham mới chừa.
8. Muốn dứt đặng đừng ưa sự quấy,
Sự quấy là con thấy hằng ngày.
Các điều gây gổ đắng cay,
Tiếng cao, tiếng thấp, dở hay, nhạo cười.
9. Nếu không dứt các lời kình chống,
Làm sao ngăn lượn sóng phong trào?
Tinh thần tại đó mà hao,
Các con không rõ đua nhau giỡn hoài.
10. Vì thương trẻ, kiếp đời tân khổ,
Dạy con Tu tránh chỗ buộc ràng.
Con nào muốn đặng thân an,
Ráng nghe lời Mẹ bảo toàn lấy thân.
11. Con nào muốn vui mừng theo tục,
Thì phải cam khổ buộc vào mình.
Mẹ thương, Mẹ cũng đứng nhìn,
Hết trông chi cứu tội tình các con.
12. Vì muốn trẻ vuông tròn sau trước,
Giáng Thiên Đài hỏi trước dặn sau.
Nữ Nam chẳng luận con nào,
Nên hư cũng đó, ra vào cũng đây.
38
13. Biết Thầy dạy sợ Thầy mới phải,
Biết sợ Thầy đừng cãi lời Thầy.
Mấy khi gặp gỡ như vầy?
Các con nghi nghị, hết ngày Mẹ trông.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA rồi con lo trở về Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi có
Chư-Thần trông đợi. Con nhớ dặn CA biểu Hương-Anh ngày Đạo-Tràng tới đây, nó
phải đứng ra đọc giữa Đạo-Tràng rồi giảng cho Chị-Em nó nghe, trong đó có Thầy
giúp cho.
Còn con đến ngày 17 phải ra hầu Thầy dạy việc.
-----ooOoo-----
39
BÀI 12: HẾT LÒNG VÌ ĐẠO
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày mùng 4 tháng 4 âm lịch 1940 (6 giờ chiều) [ĐCL.40/13] [TV.1971/44]
Nầy các con Nam-Nữ có lòng chung lo làm thêm cho thành CẢNH-PHỔ-ĐÀ.
Vậy từ nay ráng nhớ lời Mẹ dặn đây đặng lo tròn danh phận nghe các con.
(Bài Đọc Khánh-Thành cảnh PHỔ-ĐÀ)
- THI -
Mẹ nhìn con cả gái trai,
Hết lòng vì Đạo chẳng nài khó khăn.
1. Trai thì biết bề văn dạy-dỗ,
Gái thì lo tế-độ qua ngày.
Đó là đồng dạ giăng tay.
Dầu cho thiếu hụt phận ai nấy bù.
2. Biết được vậy đường Tu chẳng thảm,
Vì Đạo Tâm phải cảm thương đồng.
Con nhiều đứa của, đứa công,
Dầu nên, dầu đẹp tại lòng chẳng tham.
3. Chẳng tham luyến thói phàm gần Đạo,
Gần Đạo thì, lo Đạo cho tròn.
Bề nào cho vẹn vẻ con,
Là con biết Mẹ vì con hết lời.
40
4. Mẹ vì chỗ kiếp đời tân khổ,
Lập cho con có chỗ Tu hành.
Đặng đồng nương náo em anh,
Trước sau nhìn một cội thành nguồn thông.
5. Lời Mẹ nói hết lòng trong đó,
Chỗ cội nguồn đừng có bỏ qua.
Vì trong chỗ đó cửa nhà,
Từ bi, thông Huệ, Trí hòa, huệ Chơn.
6. Con cả thảy còn nhiều đứa dốt,
Tưởng có hình có xác rồi thôi.
Không dè trong chỗ vị ngôi,
Là chơn thể hiệp vầy vui Đạo Trời.
7. Nếu không biết làm người thêm khổ,
Khổ vì mình không rõ thiệt hư.
Chưa hay Đạo Đức Thiện từ,
Chưa tường oan nghiệt, tội dư căn đày.
8. Lời Mẹ nói dầu Trai, dầu Gái,
Phải đồng nghe xét lại nơi mình.
Đặng tường chơn nguỵ lý minh,
Bỏ qua thì chịu tội hình vương mang.
9. Mẹ vì lòng dạ chẳng an,
Thương bầy con dại ngỗ ngang khi thầm.
Còn phần hối ngộ tỉnh tâm,
Mẹ xem có ít đành cam nổi buồn.
41
10. Buồn cho tai ách nạn luồn,
Lớp qua, lớp tới phần tuông hố hầm.
Khi thầm thì chịu tối tâm,
Tối tâm nào dễ kiếm tầm đường ngay.
11. Rày khuyên, mai dạy dỗ hoài,
Là trông cho đứa miệt mài biết nghe.
Đặng do theo lý một bề,
Đặng tầm cho đúng nẻo về Mẹ vui.
12. Hiện nay CẢNH PHỔ ĐÀ rồi,
Thì trông các trẻ tới lui cho thường.
Tứ thời kinh kệ đèn hương,
Chuông kình gióng tỉnh là phương độ điều.
13. Đừng tham đừng luyến nghèo giàu,
Nhứt Tâm về Đạo thấy nhiều sự vui.
Vui là Đạo Lý rõ mùi,
Là VUI phận lánh nợ đời níu đeo.
14. Chia nhau vùa giúp ít nhiều,
Ngày qua, tháng lại bớt điều trắng đen.
Dầu cho quê dốt thấp hèn
Dầu cho thông hiểu ráng kềm thúc lo.
15. Lần lần tội lỗi bớt cho,
Thì trong chỗ Phước, Lộc cho sẵn dành.
Đừng lòng tật đố cành nanh,
Con nào còn vậy chịu đành thảm-thê./-
42
BÀI 13: KINH-NGUYỆN HỌC ĐẠO-TRÀNG
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 9 Tháng 5 Annam 1938 (8 giờ sáng) [ĐCL.33/70] [TV.1971/52]
1. Thấp hèn phận gái khuê môn
Chí tâm mộ Đạo chăm nom Học hành,
Lạy nhờ Đức Mẹ giáng Linh,
Giúp con Tâm, Tánh giữ gìn đừng xao.
2. Cúi nhờ Đức Cả ơn cao,
Con lo chảy bước cho mau kịp kỳ.
Xác phàm dục vọng ngu si,
Lạy Thầy bố Đức Từ bi con nhờ.
3. Từ nay con quyết trọn thờ,
Một ngôi Độc Nhứt là Trời nơi Tâm.
Đạo tràng rộng mở mấy năm,
Vì con ít học khó tầm mối manh.
4. Vậy nên chịu dốt đã đành,
Nay con tự hối Học hành Tu thân,
Trước lo phủi sạch bụi trần,
Sau là sáng suốt đặng lần theo Cha.
5. Noi gương Tiên Nữ Phổ Đà.
Giồi trau Đức hạnh ôn hòa xử xong.
THẤP HÈN PHẬN GÁI KHUÊ MÔN,
Chí tâm mộ Đạo chăm nom học hành./-
-----ooOoo-----
43
BÀI 14: KINH BÃI ĐẠO TRÀNG NỮ PHÁI
VÔ- VI HIỆP - THIÊN – ĐÀI
Ngày … tháng … Annam 19… (…giờ …) [TV.1971/53]
1. Lạy Thầy, lạy Mẹ thương con
Thương là răn dạy mất còn đặng thông.
Ngày nay là kiếp Đại đồng,
Nhờ đâu mà khỏi thoát vòng muội mê?
2. Chị dò, Em luận ráng nghe,
Là nghe lời dạy rằng che chở hòa.
Chị em bỏ tánh ta bà,
Ráng lo học Đạo cùng là Định Tâm.
3. Đặng không, không đặng phải tầm,
Tầm cho tới tột lý nhằm được không.
Chớ đừng khoe giỏi, nói khôn,
Rồi sanh dục vọng cuồng ngông xa Thầy.
4. Chí bền cho trọn là hay,
Là hay tìm lý, lý nầy tại CHƠN.
Linh hồn xác thịt hòa nhơn,
Đó là nhơn nguyện tùy Chơn Chánh bình.
5. Chị Em khuyên ráng xử mình,
Thể thân về một Đạo gìn nết tu,
Đó là linh diệu phá ngu,
Nguyền sao cho đặng đường tu vững vàng.
6. Dày công suy xét mọi đàng,
Xét xong rồi thấy Đạo càng lớn lao,
Rõ vầy dầu nhọc chẳng nao,
Lần cho tới Đạo mình cao phận mình./-
44
BÀI 15: BÀI ĐỊNH-TÂM
VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 3 tháng 8 Annam 1940 (1 giờ khuya) [ĐCL.41/77] [TV.1971/54]
1. Đêm chầy Mẹ ngó chừng con,
Là trông cho hiệp vuông tròn Chị Em.
Vầy vui là phận thúc-kềm,
Vâng lời Mẹ dạy khỏi chìm-đắm mê.
2. Nhiều con chưa quyết trọn bề,
Tới đây thì thiệt, ra về thì sai.
Mẹ thương nên Mẹ nhắc hoài,
ĐỊNH TÂM là quí một hai ráng làm.
3. Con đồng dầu Nữ, dầu Nam,
Chỗ nơi Mẹ định xác Phàm ráng ghi.
Vui mừng theo tục ích chi?
Vùi chôn bề chịu tiếng khi ngạo cười.
4. Có thân có thể có người,
Phải đem về một tánh Trời mới cao.
Cúng rồi trước Định Tâm sau,
Đó là Định nhớ lời trao dặn dò.
5. Định thường nhớ vậy vậy lo,
Thì đâu đến nỗi bụi tro tới mình.
Bảo thân nhờ Định mới bình,
Trong bình yên đặng thất tình khó chen.
6. Sáng trưng nhờ một ngọn đèn,
Đèn khêu là huệ vì quen Định Thần.
Chẳng xa mà cũng không gần,
Hễ tâm quyết Định, Định lần tới mau.
45
7. Con nào sợ khó lòng nao,
Xa thì chịu lấy ngày sau khỏi phiền.
Mẹ NHƠN, Thầy ĐỨC, con HIỀN,
Ba phần cho trọn một nguyền thỉ chung.
8. Lớn thì năm đứa năm Cung,
Ráng làm gương trước nhỏ tùng mạng sau.
Chị Em ngày tháng ra vào,
Đừng chia đừng rẽ trong màu sắc son.
ĐÊM CHẦY MẸ NGÓ CHỪNG CON,
Là trông cho hiệp vuông tròn Chị-Em.
(Bài nầy dạy Nữ-Phái khi về TÒA-THÁNH thì phải lên PHỔ-ĐÀ qùi lấy dấu rồi
đọc bài rồi lạy, Khi về cũng làm y như vậy)
-----ooOoo-----
46
BÀI 16: TỈNH-NGỘ HỒI-TÂM
(KỆ GIÓNG U-MINH NỮ-PHÁI) VÔ-VI HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Ngày 2 tháng 12 annam 1939 (8 giờ trưa) [ĐCL.40/171] [TV.1971/56]
ĐƯỢC, con người Thầy dặn: giờ này có chư vị Tiên-Thần đều về tại đây đặng
cầu xin Thầy cho phép giáng Đàn nương bút tỏa ra gọi là bài cầu nguyện chung cho
cả nơi nơi kẻ còn người mất.
Vậy con phải vưng lời đặng chép ra cho rành rẽ.
- Bạch, con vưng theo Thầy.
Chư vị Tiên ban giáng tố-trần,
Thiên-Đài thừa mạng bố Thi-Ân.
Xướng ngôn di-niệm tồn-vong lý,
Vạn cổ lưu-hành cựu giữ tân.
Chư Tiên-Phật Thánh-Thần cúi lạy Thầy, sau chào Hàng-Long Chơn-Tánh đồng
tỏa vận thi bài:
Cầu cho người đứng TAM-KỲ,
Kẻ còn người mất đồng qui một trường.
1. Khi còn sống lầm đường lạc lối,
Thác rồi xin nhớ hội Mậu-Dần.
Nhớ rồi thì ráng nghe tuân,
Tuân lời Thầy dạy đặng mừng vẻ-vang.
2. Chư Tiên-Phật-Thần toan độ rỗi,
Vì phàm tâm nghịch dối nên lầm.
Thác rồi gẫm lại hồi tâm,
Nghe lời kêu gọi sửa lầm ra nên.
3. Chép sổ bộ ngàn tên muôn tuổi,
Trong phần nhiều chịu buổi tai khiên,
47
Vì chưng nết tục chẳng hiền,
Làm cho đã giận tội riêng khó trừ.
4. Tội kiếp trước còn dư là khác,
Thêm kiếp nầy tạo ác ra hoài.
Đó là dặn cả ai ai,
Ai ai là kẻ mắt tai ráng kềm.
5. Kềm cho vững ngày đêm đừng vọng,
Là Vọng Tâm hành động phi thường.
Mắt phàm hay ngó cự đương,
Tại vì ưa lóng lời thương tiếng rù.
6. Chỗ thương đó lấy thù khiêu khích,
Làm cho người mê tín phải sa.
Chỉ cho thù oán chử hòa,
Khiêu phàm tâm động khích Ta, hại Người.
7. Người cả thảy ở đời phải biết,
Phải biết rằng ưu liệt thắng nhu.
Chớ nên cừu oán nhớ thù,
Mà cho là việc gọi Tu cứu đời.
8. Tu tưởng vậy là người vô lý,
Vì chẳng thông tự trị an nhàn.
Tu hành tính dữ sao an?
Muốn an thì nhớ chữ KHOAN THỨ rành.
9. KHOAN tâm độ đừng sanh ác cảm,
THỨ dung tình nộ giảm, đố tiêu,
Rành trong hư thiệt các điều,
Đó là an mạng do theo luật Trời.
10. Trời ra luật nơi nơi đều rõ,
Rõ vì trong chỗ đó phải làm.
Tại vì lòng dục vọng tham,
Tội hành phải chịu đành cam chết mòn.
48
11. Người cả thảy là con Tạo hóa,
Có người siêu người đoạ là đây.
Đây vì chẳng rõ trở day,
Đây vì thời cuộc đổi xây không tường.
12. Thầy đã dặn ĐỊNH TƯỜNG hai chữ,
Là bảng nêu người xử trị người,
ĐỊNH nầy là định chỗ nơi,
TƯỜNG khai lý nhiệm cứu đời dạy Tu.
13. Thảm thay vì tại mê mù,
Mến mùi Danh Lợi gọi TU là hèn,
Quyết làm danh dữ đời kiên,
Mà quên tội dữ Trời biên chép rồi.
14. Mê mù nào rõ khúc nôi,
Chừng thân chịu đoạ thôi rồi phải thôi,
Hồn ra khỏi xác thân rồi,
Nhìn coi ngơ ngáo buổi đời dại khôn.
15. Tội kia án nọ ghi dồn,
Thở than là đó gọi hồn tỉnh mê.
Chư Tiên, Chư Phật đề huề,
Hội Thần cả thảy đồng về giáng tâu.
16. Hiệp Thiên Đài trước cúi đầu,
Xin Thầy cho phép cạn sâu tỏ lời.
Làm ra bài Đạo tỉnh người.
Đặng coi cho rõ Đạo, Đời biến an.
17. Ai mà có dạ nghi nan,
Thì xin xét lại tai nàn tại đâu?
Còn ai sớm chịu hồi đầu,
Định Tường Chơn Lý chực hầu cứu cho.
18. Đó là lời chỉ trước lo,
Vì thương tâm phải, nói cho cạn lời.
49
Trời Nam vận mở thay đời,
Là thay đổi cuộc Ta, Người hiệp nhau.
19. Hễ Tu đừng tính nghèo giàu,
Thì thương mạng sống cùng nhau buổi nầy.
Hiệp đồng cho được là hay,
Đừng chia nhĩ ngã gọi bài thuốc Linh.
20. Linh là mình trước cứu mình,
Mình sao lại đặng Trời sinh Đạo Mầu?
Sinh tồn vận hóa chuyển thâu,
Rõ rồi khuyên ráng gìn trau sửa lòng.
21. Mỗi người nhớ vậy làm xong,
Là thương nhau một tấm lòng đừng sai,
Giáng cho lời dặn một bài,
Cầu xin cả thảy nhớ Thầy tại Tâm./-
50
BÀI 17: NÀY HAI PHÁI RÁNG NGHE LỜI MẸ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI Ngày 7 tháng 3 Annam 1939 (9 giờ tối) [ĐCL36/76] [TV.1971/60]
Được, Con nghe Thầy dặn. Giờ Tý nầy có Tây Vương Thánh Mẫu giáng Đàn.
Vậy Con phải chấp bút đặng nghe theo mà viết ra một bài gọi là KHUYẾN ĐẠO.
Bạch : Con vưng theo lời Thầy.
1. Nầy hai phái ráng nghe lời Mẹ
Trước có công, sau sẽ đặng nhờ
Đã đành khó hiểu Thiên Cơ
Song Thầy có tại hiện giờ cứu nguy
2. Cuộc Tam Tiểu là kỳ Tân Khổ
Nếu không Thầy ai độ cho an
Tại chưng các trẻ mơ màng
Việc tu chưa quyết, còn gàn cản trong
3. Mẹ nhìn thấy đau lòng cho đó
Đã có công chịu khó, không tròn
Mẹ vì thương hết các con
Cho nên Mẹ giáng nỉ non phân trần
4. Đứa thì nói biết Thần, biết Thánh
Đứa thì xưng biết Chánh, biết Tà
Kiếm điều cãi lẩy gần xa
Mà quên trong đó Người, Ta chưa rành
5. Tại quên vậy, khó nhìn lời Mẹ
Thầy dạy con, còn Mẹ lo lường
Dạy cho lớn, nhỏ rõ đường
Lo cho các trẻ, có thường ấm, no
51
6. Biết Thầy dạy dặn dò từ nét
Biết Mẹ lo đem Thiệt sửa lầm
Con nào còn nhớ vào Tâm
Đó là tin trọn, tưởng thầm phần riêng
7. Chư Thần sẵn chép biên rành rẻ
Công mỗi con còn để sẵn sang
Thánh Tòa công vụ vững an
Thì trong mỗi đứa mở mang hơn nhiều
8. Mẹ chỉ rõ các điều hư, thiệt
Trong các con nào biết thì nhờ
Đứa nào lòng ngáo, dạ ngơ
Vì tin chưa trọn, đợi chờ mòn hao
9. Sẵn lòng Thầy cũng dạy trao
Là trao Chơn Lý, khó giàu đồng vui
Cạn lời dặn tỏ khúc nôi
Là nôi thảm thiết, buồn vui không thường
10. Tại đi không thẳng một đường
Đứa tuân bước tới, đứa cường cãi lui
Đó là chỗ thảm con ôi !
Đó là chỗ thích, tưởng vui lầm buồn
11. Cuộc trần nhiều nỗi hố truông
Dầu cho con tránh, tại tuông đi càng
Trước nhìn đứa thở, đứa than
Mình sao chẳng sợ, lại toan theo cùng
12. Ích gì liều mạng khổ chung
Khổ mà vô ích, khổ không nên tài
Cũng vì ham muốn, cứu tai
Mà không rõ cứu, rõ tai là gì
13. Cứu là Thầy chỉ chỗ nguy
52
Biết nghe rồi tránh, thì nguy khỏi mình
Tai là gây sự bất bình
Là tai nạn lớn, tự mình bày ra
14. Từ trai, chí gái trẻ già
Thấy tai trước mặt tưởng là đồ chơi
Tai nghe, tiếng kĩnh, lời mời
Trốn trong xác thịt, Phật Trời nào kiêng
15. Phật khuyên bỏ dữ, theo hiền
Trời răn quở phạt, dạ phiền không vui
Lũi lầm theo chỗ kéo lôi
Đến cơn đày đọa, biết rồi nào xa
16. Giờ nầy Mẹ giáng Phổ Đà
Cả Nam, cùng Nữ tựu hòa nghe chung
Nghe rồi thì xét cho thông
Cũng không ngàn dặm, cũng trong lúc nầy
17. Đứa nào biết Mẹ, biết Thầy
Thì theo cái biết, biết nầy là an
Biết nầy rõ đặng kiếp căn
Vì căn kiếp phải, ngộ an theo thời
18. Có công thờ Phật, thờ Trời
Phât thương nên cứu, lập đời từ đây
Trời ra sửa trị, xưng Thầy
Mẹ nuơng lời điễn chẳng hoài công lao
19. Từ nầy, sắp tới, kế sau
Mỗi con đều phải nhớ nhau cho thường
Nhớ chung nhau chỗ Định Tường
Nhớ rồi thì rõ, các đường vạy, ngay
Trước đàn mừng cả gái, trai
Có Tâm vào Đạo, đừng sai dặn dò.
CA, đọc trước khi hành lễ thời Tý đây. Rồi sau sẽ in ra gởi truyền cho các chỗ.
53
BÀI 18: NÀY CÁC TRẺ KHÁ NGHE LỜI MẸ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 8 tháng 4 Annam 1938 (6 giờ sáng) [ĐCL.33/58] [TV.1971/63]
DIÊU thọ Chơn ngôn Ngọc Đế truyền
TRÌ định chỉ dụ nữ ban tuyên
THÁNH kinh lưu niệm Tam Kỳ tỉnh
MẪU Đạo ai tìm độ hữu duyên.
Nầy các con Nữ phái nghe Mẹ dặn :
1. Nầy các trẻ khá nghe lời mẹ
Lo tu hành mới nhẹ Chơn linh,
Chát chi nhiều sự bất bình
Làm cho náo nhiệt Thiên đình bấy lâu.
2. Mẹ nhiều lúc vào chầu Kim Khuyết
Thấy Lịnh ban luận biện đành rành
Các con là gái hậu sanh
Mà ham tính việc cãi canh luận bàn
3. Vì tại đó, nên mang tội lỗi
Mấy năm chầy chìm nổi sông mê
Không lo kịp bước quày về
Mậu Dần Đại kiếp, gần kề bên con
4. Con nào muốn được tròn danh giá
Lời Mẹ khuyên con khá vui lòng
Con nào còn tánh cuồng ngông
Mẹ thương cho nó, hết trông trở về
5. Tuy đã biết hèn, quê phận gái
Ráng gìn lòng, chớ cãi, đừng canh
54
Nhìn năm, nhìn tháng cũng thành
Mẹ thương nên chỉ cho rành con nghe
6. Cũng nhiều nỗi éo le, trắc trở
Bởi vậy nên vở lỡ công trình
Ấy là tại trẻ hớ hinh
Cũng vì còn tưởng, còn tin chuyện xằng
7. Rày con biết ăn năng tự hối
Mẹ vui lòng tha lỗi cho con
Từ đây công quả lo tròn
Đặng trừ cho bớt, cho mòn tội xưa./.
-----ooOoo-----
55
BÀI 19: BÀI ĐỌC KHÁNH THÀNH PHỔ ĐÀ CẢNH
(Ngày 17-18 tháng 3 năm Canh Thìn 1940) VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 3 Annam 1940 (11 giờ khuya) [ĐCL.40/7] [TV.1971/65]
Nầy các con nam, nữ ráng nhớ lời Mẹ dặn ngày nay, đặng lo tròn phận sự, nghe
các con.
- THI -
1. Phổ môn Đà Viện làm rồi,
Đó là Mẹ lập để đời cho con.
Chung nhau phận sự cho tròn,
Từ nay sắp tới việc còn lớn lao.
2. Ấy là Tạo hóa luật giao
Việc làm nên việc, đừng nao ngán lòng
Chí bền muôn việc cũng xong
Là xong công vụ, Lạc Hồng cháu con
3. Vững vàng khí tượng nước non
Dầu cho Nam, Nữ đồng con của Trời
Tại đây là thể tạo thời
Tạo thời cơ hội, sửa đời cho yên
4. Dò theo cổ Thánh, kim Hiền
Ráng dò theo đó, phỉ nguyền sự đây
Để danh đạo Chánh lâu dài
Thì trong mỗi đứa, đừng sai lợt lòng
5. Một đời sống tạm lập công
Lo làm nên việc, tiếng đồng tốt tươi
Đó là danh phận con người
Con người biết sợ, Luật Trời thì nên
56
6. Chung hòa nghe dạy, nghe khuyên
Dạy đâu làm đó, khuyên hiền dỗ ngay
Rõ câu gái Hạnh, trai Tài
Mẹ nhìn con cả, từ nay vui lòng
7. Bảng vàng kia sẳn tên phong
Mão giày, xiêm áo; thưởng công lo lường
Thỉ chung cho trọn một đường
Đừng cho rời rả, ráng nhường nhịn nhau
8. Dắt dìu đứa trước, đứa sau
Trước sau đừng tính, chậm mau sanh rầy
Lập công có Mẹ, có Thầy
Còn nơi phong thưởng, có ngày có năm
9. Có người thường xét chỉ chăm
Có tên, có tuổi; ngại thầm ích chi?
Ráng dò đường cả đặng đi
Đi hoài thì sẽ tới kỳ hạn ban
10. Mẹ lo cho trẻ lỡ đàng
Là trong chỗ ngán, lại bàn cãi riêng
Cãi nhiều thì hóa đảo điên
Nhớ đừng làm vậy, Mẹ phiền nghe con
11. Trước sau em, chị cho tròn
Dưới trên đừng có, dại khôn lanh khờ
Tu hành lo tránh bợn nhơ
Bợn nhơ là tại, hiếp khờ, ỷ lanh
12. Đứa khôn, hiếp dại sao đành
Hiệp nhau giành giựt, rồi sanh thói thù
Hễ thù sao phải hạnh tu
Bợn nhơ là vậy làm lu Chơn Thần
13. Tại đây sẳn phước, sẳn phần
Thì con mỗi đứa ráng cần, ráng chuyên
57
Cần nghe lời dạy làm Hiền
Chuyên ròng công vụ, quả liền kết cao
14. Lời vàng tiếng ngọc Mẹ trao
Mỗi con đừng có tự cao mà lầm
Phổ Đà là chỗ Định tâm
Về đây thì phải nhớ thầm Mẹ than
15. Vì con nhiều đứa mơ màng
Vào nơi trường đạo, lòng toan tính đời
Mơ màng thói tệ lã lơi
Mẹ nhìn thấy rõ, lụy rơi than thầm
16. Đọa đày khổ nạn nhiều năm
Ngày nay gặp đạo, còn ham thói trần
Nói cho mỗi đứa dứt lần
Hễ tu thì niệm, chớ đừng xảo ngoa
17. Hằng ngày Đạo lý trác ma
Trau giồi cho trọn, đó là tự tân
Ai ai đều cũng ở trần
Song đều phải biết, nợ nần, phước duyên
18. Với câu Thiện ác, Dữ hiền
Ở trần phải biết, mình riêng rảnh rời
Đặng cho thoát khỏi màn đời
Là nơi tục lụy, tiếng đời ngàn thu
19. Có vầy, nên mới có tu
Là tu thiệt Lý, biện ngu, trí rành
Cho nên lời nói tu hành
Đó là tự tỉnh, xét mình gọi thông
20. Cổ kim một Lý tương đồng
Người Xưa đắc đạo, nhờ trong biết dò
Hiện giờ Mẹ sẳn dạy cho
Thì con lớn nhỏ, cần lo mới thành
58
21. Nối truyền Thượng Cổ sanh sanh
Ra lời chỉ tột, sự thành, nẽo nguy
Muốn nên thì chẳng khó gì
Ráng kềm Tâm Tánh, đừng khi Lịnh Trời
22. Muốn hư thì nhiễm tục đời
Đó là cũng dễ, tại người tính lo
Tính nhằm chuyện phải, phải cho
Đó là định Tánh, định cho tới cùng
23. Lo lường vô lý, khổ chung
Là chung với khổ, người không trọn người
Trọn người là chỗ thảnh thơi
Thoát vòng khổ tục, về nơi thanh nhàng
24. Đó là Mẹ dặn lưỡng ban
Con đồng Nam Nữ; muốn an thì làm
Con nào lười biếng chẳng ham
Thì vương chỗ biến, đường nham hiểm nầy
Khánh Thành ngày Lễ tựu đây
Đây lời Mẹ dặn, nhớ hoài nghe con./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra cho đồng nhi học thuộc lòng,
để đọc tại giờ Tý, ngày lễ Khánh thành Phổ Đà tới đây (17-18/3); đọc rồi cũng phát
cho mỗi người 1 bổn cùng là gởi cho các Chủ Thánh thất để dành làm kỷ niệm./.
-----ooOoo-----
59
BÀI 20: NỮ ĐẦU SƯ NĂM CUNG, NĂM CỎI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 2 tháng 9 Annam 1938 (8 giờ sáng) [ĐCL.38/12] [TV.1971/69]
Được, Con phải nói lại cho trong phái Nữ hay, vì chúng nó không rõ tại sao Thầy
dạy chụp hình cho đủ năm Cung, năm lớp. Chúng nó tưởng lầm cho như phái Nam; tại
vậy nên có nhiều đứa than thầm tốn hao trong đó.
Đây Thầy chỉ cho chúng nó rõ, vì phái Nam là Thầy định cho có hữu hình Vô Vi,
như CA thì làm chủ hữu hình theo các Chủ Thánh thất. Còn con thì làm chủ Vô Vi theo
về Khai Thiên Hóa Đạo., tại vậy nên chụp ra 2 bổn, mà kỳ trung chỉ có 4 chữ: Tu Chơn
Lý Chánh, lấy đó đặng răn trị xác phàm. Còn phái Nữ thì có Năm Cung gọi là Năm
Cõi, nên Thầy dạy chụp ra năm lớp đặng để làm dấu tích, cũng do trong 4 chữ như
phái Nam đó; nên gọi là đề huề chị em. Trong Năm Cung đó, ngày sau sẽ có phận sự
mỗi Cung. Cũng có trách nhậm lớn lao như Hưong Kiều, Hương Giàu; đó là Thầy chỉ
sơ, chừng ấy sẽ biết. Hiện giờ mỗi đứa nó phải hết lòng với Đạo, đừng có than phiền
rồi sanh lòng giải đải.
Vậy Thầy cũng cho một bài đặng để đọc tại ngày chúng nó vào Vô Vi đây làm Lễ;
trước khi vào đàn rồi, thì con phải đọc trong đó nghe cho rõ.
- THI -
1. Nầy trong năm trẻ năm màu
Năm màu tuy khác, cũng vào chữ Cung
Ráng tin cho trọn tới cùng
Đừng nghi, đừng cãi, đừng lòng ghét ganh
2. Năm Cung cho trọn Chí Thành
Ngày sau Thầy sẽ, định rành có nơi
Khó khăn tại luyến tình đời
Bỏ qua cũng uổng , Đạo Trời cũng ham
60
3. Bởi đây mới đắm mê phàm
Thầy thương cứu vớt, chỉ lầm lỗi cho
Có hình, có thể phải lo
Dầu Nam, dầu Nữ trong lò Hóa Công
4. Bởi chưng Tâm, Tánh chẳng đồng
Nên Thầy lo chỉ, dụng trong tới ngoài
Một chừng nhớ Đạo đừng sai
Nhớ làm theo dấu, mỗi ngày mỗi khuyên
5. Dầu cho Tiên Phật, Thánh Hiền
Người tuy khuất bóng, dấu truyền tới nay
Khuyên trong mỗi đứa nhớ hoài
Nhớ theo Người trước: Hạnh Tài, Đức Khiêm
6. Ráng coi nhiều đứa đắm chìm
Cũng vì mê tục, khó tìm nẽo Tiên
Nói ra ai cũng muốn Hiền
Nói là có nói, nết Hiền ít ưa
7. Phát minh lời dặn ngăn ngừa
Mỗi con nghe đó. ráng chừa nết hư
Học rồi làm giống đặng như
Là như người trước, nết hư chẳng gần
8. Làm xong được vậy có phần
Phần riêng Chị lớn, chỉ chừng dạy Em
Mỗi điều hư, thiệt xét xem
Tùy cơ ứng biến là thêm Đức Tài
9. Kệ kinh thường đọc mỗi ngày
Chứa chan tội lỗi, dẩy đầy nhớ, quên
Nhớ vầy sửa quấy, làm nên
Khổ cho có đọc, mà quên mới lầm
10. Dạy thường Định Tánh, định Tâm
Tại chưng ngồi định, lo thầm chuyện tư
61
Lo thầm, tính trộm tội dư
Vì chưng sái định, rồi như chỗ nào
11. Định thường phát huệ thấy mau
Là an quyết một, định vào nẽo chơn
Định rành nào có chi hơn
Nên Thầy dạy định, thoát cơn khổ trần
12. Định xong chỗ định là Thần
Thần yên, Khí tịnh, Tinh lần trắng trong
Định vầy thì huệ phát thông
Mỗi con khuyên ráng nhớ trong khi làm
13. Đã hay thân xác là phàm
Bề trong chánh định, khỏi lầm là Tiên
Nhớ lời Phật hóa hữu duyên
Hữu duyên là gặp, chơn truyền ngày nay
14. Hóa sanh ra đủ thi bài
Con nào nghe đặng, nhớ hoài cũng duyên
Trước sau Em, Chị chỉ truyền
Thầy trông mỗi đứa, phĩ nguyền bằng nhau
15. Một bài cạn tỏ thấp, cao
Con nào còn vọng, còn cao khó bình
Vọng tâm, nao núng rối mình
Đó là có Xác, có hình chẳng thông
16. Lâu ngày tốn của, hao công
Vọng ra thất vọng, não lòng bỏ trôi
Uổng đời vậy đó con ôi !
Thầy phân tỏ rõ, biết rồi phải suy
17. Nhớ câu Tâm động, Thần bì
Nhớ rồi thì rõ, định qui không lầm
Nam tài, Nữ hạnh tỉnh tâm
Cả hai đều phải, xét tầm mới thông
62
18. Thông điều u hiễn diệu trung
Cũng nhờ trong định, Chí công mới thành
Thầy cho bài Đạo chỉ rành
Đặng cho mỗi đứa xét mình liệu lo.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó nói tại Đạo tràng cho trong phái
Nữ hay khỏi điều phiền trách; rồi in ra để dành ngày đó sẽ đọc, rồi cho ra năm đứa
năm bổn; còn một bổn thì tại H.T. Đ./-
63
BÀI 21: TỈNH TÂM TẦM LÝ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 7 tháng 1 Annam 1943 (3 giờ chiều) [TV.1971/73]
Liễu, Con nghe Mẹ dạy:
1. Cả hai Đời – Đạo dễ gì,
TỈNH TÂM, TẦM LÝ thị phi mới rành
Tỉnh tuồng thế sự hùng tranh
Tâm hoà nhịn lẫn phương lành dễ phăng.
2. Tầm ra cho thấu lẽ hằng
LÝ ưng người biết vậy đừng chống nhau.
Thị phi giành cãi ồn ào
Hỏi ra rành lý hạng nào cũng sai.
3. Sai là mình ỷ mình hay
Ỷ nhiều sanh dữ tội lây thêm nhiều.
Xét rành Đạo đức thứ nhiêu
Đời ham cường bạo lắm đeo lụy dồn.
4. Tĩnh tâm rồi thấy vong tồn
Tầm ra lý thiệt chừa khôn hiếp hèn.
Đạo Đời nhiều thói lấn chen
Cũng vì không tĩnh mình riêng ỷ mình.
5. Chỉ cho con rõ đặng gìn
TỈNH TÂM TẦM LÝ do mình có TU
TỈNH là nghĩa xét hiền ngu
TÂM Phàm, Tâm Phật nào đâu có lầm.
6. TẦM là nghĩ chuyện u thâm
LÝ Chơn đừng đổi cứ chăm một bề.
Giải rành nghĩa một bài nghe
Một trong bền chí, một bề cũng đây.
64
7. Hễ Tâm Bình Định có Thầy
Tầm ra một Lý thêm ngày một cao
Nghĩ trong nào dễ biết nào
Có tu cùng niệm người mau biết người.
8. Hiểu người dốt tại ăn chơi
Hiểu người trọng Đạo do người trọn Tin
Hiểu người, người mới gọi linh
Hiểu người khuyên nhớ kệ kinh Chơn truyền.
9. Tỉnh tâm điều ấy thấy liền
Rồi trong tầm lý phỉ nguyền sự tu
Đạo Đời, Đời Đạo trí ngu
Tỉnh tâm tầm lý thì đâu có ngằn.
Trước sau Thầy buộc ráng cần
Cần coi Đời Đạo xa gần cũng đây./-
ĐƯỢC, bài nầy Con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một
bổn thì giao lại cho Thiên Sư, đặng trả lại cho LIỄU.
-----ooOoo-----
65
BÀI 22: GIẢI NGHĨA VẬT DỤC CHE LẤP LÒNG TRỜI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI Ngày 29 tháng 5 Annam 1939 (7 giờ tối) [TV.1971/75]
“Vật dục che lấp lòng Trời
Ấy là Thiên thổ ý người ham mê
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt ráng dè
Điều quan Tâm Ý thiệt là Chơn Tu.”
TỴ, Con nghe MẸ dạy :
Trong ngũ tạng của mỗi người có thân thể ra đây đều có 5 điều Chơn ở
trong người, Đạo gọi là Chơn tánh, Chơn linh, Chơn hồn, Chơn thể, Chơn thân, như 5
tạng, điều hòa cho đặng thì gọi là Chơn như.
Ngặt vì con người sanh ra lại nhiễm mùi đời, nên mới gọi là ngũ tặc, như lổ
Tai, tại hay nghe rồi hay giận hoặc hay thương mà làm cho thái quá là mất cái Chơn
trong tạng Thận. Như lổ Mũi thì tại hay bắt mùi rồi đem vào phổi, ngon thì ưa, dở thì
chê, làm cho thái quá thì hơi đó lồng đến tim thành ra mối giặc tại Phổi; Còn như các
món ăn, hễ nhớ hay là thèm là do nơi cái lưởi là tạng tâm thừa dịp nó chíp đem vào cho
thái quá, rồi thành ra nỗi giặc tại tạng Tâm. Còn như sắc đẹp tốt tươi là huê nguyệt, đó
là tại con người ngó trông, rồi trong lòng quyến luyến thì thành ra nổi giặc tại Cang;
Còn cái vật dục là mỗi vật chi ở đời, hễ thấy thì có ý tư tưởng, muốn cho nhiều thì nó
phải che lấp cái chỗ Trung ương, gọi là Thiên-thổ, rồi thành ra mối giặc tại tạng Tỳ, là
lá mía.
Trong 5 điều đó là tại lòng phàm hay ham mê luyến. Nên kinh sách nào cũng
thường dạy cho người đúng bực Chơn tu thì trước dè dặt lấy 5 chỗ đó.
Còn ngoài thì con Mắt, lổ Tai, lổ Mũi, cái Lưởi, đều phải kiêng dè, chớ nên quá
ăn, quá nói, quá hỏi, quá nghe, rồi sanh ra sự quấy; muốn cho tránh đặng thì phải ngăn
ngừa cái Tâm viên, Ý mã cho lắm. Vậy mới thiệt gọi người tu vậy đó./-
-----ooOoo-----
66
BÀI 23: GIẢI NGHĨA XÁC PHÀM DỤC VỌNG NGU SI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 3 tháng 10 Annam 1939 (8 giờ trưa) [TV.1971/76]
“Xác phàm dục vọng ngu si
Lạy Thầy bố đức Từ bi con nhờ”
(Kinh Trung Thiên trang 100, vé 2)
ĐÔNG, Con nghe MẸ dặn :
1. XÁC PHÀM là xác của con
DỤC tình tham luyến phấn son khoe màu,
VỌNG cầu là chỗ ước ao
Trông cho mình đặng, sang giàu bực trên
2. NGU là chẳng biết hư – nên
Nghe lời xúi giục, đành quên ruột rà,
Tại vầy bày kiện thưa ra
Vì không tự xữ, đó là gọi ngu
3. SI mê nào khác kẻ mù
Lại chê người dắt, chẳng cần ai kêu
Chẳng thông quấy phải các điều
Làm cho đến đỗi trổ liều mạng riêng
4. LẠY THẦY là đấng Thiêng liêng
Thương bầy con dại, Bố truyền Đức ân
Lập ra cơ Đạo cứu lần
Là khuyên, là chỉ sự gần, sự xa.
5. BỐ thi ân huệ khuyên hòa
ĐỨC dày che chở thoát ra Đại đồng.
TỪ BI Luật cả cân đồng,
Mừng cho đứa thuận thương lòng đứa khi
67
6. Thuận theo thì lánh A tỳ
Khi Trời chịu đọa tại vì còn kiêu.
Từ bi là Luật Thiên điều
CON nào biết sợ làm theo được nhờ.
7. Cạn lời dạy trẻ trí cơ
Xác phàm hay có trông NHỜ chuyện hư
Nếu vì theo đó ắt hư
Vững bền tâm định như như mới mầu.
8. Như là tập nết sòng nâu
Như lòng an tịnh chẳng sầu, chẳng vui.
Như như đạo lý rõ mùi
Xác phàm sửa đặng luân hồi khỏi sa.
9. Thánh Thần, Tiên Phật, Người Ta
Nên hư là tại Chánh Tà, Tánh Tâm
Dạy cho con rõ đặng làm
Làm theo lời Mẹ, Mẹ chăm nom liền.
10. Dặn lòng hai chữ NHẪN – KIÊNG
Đừng quên, đừng sái là duyên phước đầu.
NHẪN hòa yêu mến thuận nhau
KIÊNG bề tội lỗi, tự cao ráng chừa.
Nói cho con rõ đặng ngừa
XÁC PHÀM ĐỪNG CÓ HÕNG HỜ NGHE CON!!
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn
thì trả lại cho THỊ-ĐÔNG ở Sadec./-
-----ooOoo----
68
BÀI 24: ĐÃ ĐÀNH PHẬN GÁI KHUÊ MÔN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 4 tháng 10 Annam 1939 (10 giờ tối) [TV.1971/78] (GN. Bài trong Thánh giáo Chánh truyền, trương 27, 12 câu)
Dung, Con nghe Mẹ dạy:
1. Đã đành phận gái khuê môn
Đành cam nết thiệt, bôn chôn ích gì.
Dạy rồi con phải ráng ghi
Khuê môn là định nhi-nhi có chừng
2. Lời Cha, Mẹ dạy phải tuân,
Ra vào có chỗ tập thuần hạnh tin.
Đó là chỗ để buộc mình,
Buộc vào khuôn phép, lánh tình tục nhơ.
3. Phải tuân qui luật ngày giờ,
Cấm nghiêm chẳng đặng hõng hờ bỏ qua.
Trước là sợ lịnh Mẹ, Cha
Sau là vì phận Tề gia nên người.
4. Đáng trang Hiền Đức trau giồi,
Chớ ham diện sắc luyến đời tổn thân.
Muốn nên thì chí phải cần,
Cần cho đúng thiệt thì thân vững vàng.
5. Đó là Ngọc quí cao sang,
Đứng trong thời cuộc khỏi mang tiếng xằng.
69
Nên kêu rằng đó Đạo hằng,
Nghèo giàu ai biết lo cần gọi nên.
6. Tại trong chỗ quyết chỗ bền,
Quyết bền là tại trọng tên tuổi nầy.
Ở trần lánh tục mới hay,
Nhờ siêng học hỏi đủ bài Mẹ răn.
7. Thấy trong lời dạy đó rằng,
Thấy rồi mình tự xét mình độ xa.
Khó là tại chỗ bỏ qua,
Có coi không nhớ đó là học chơi.
8. Làm cho lở vở phận người,
Đạo không tới Lý, còn Đời lại quê.
Tại nơi lười biếng lở bề
Có thân không biết dặt dè tấm thân.
9. Đỗ cho tại ở phàm trần,
Cho nên phải chịu lãnh phần nhuốc nhơ.
Đó là quên hẳn bổn sơ,
Uổng cho lòng Mẹ đợi chờ mõn hao.
10. Dặn chung chẳng luận con nào,
Đừng ham viện cớ sa vào đường nguy.
Sa vào phải chịu suy vi,
Phần đông như vậy còn chi là đời.
11. Rồi chung người giết hại người,
Cũng vì tại bởi viện lời khéo khôn.
70
Trước đề Mẹ chỉ Khuê môn,
Sau là đem hết Lý đồng dạy khuyên.
12. Cho con rõ thấu thấy liền,
Là trong cuộc thế sóng thuyền gió trăng.
Nên hư, quấy phải có ngằn,
Là Khuê môn thủ phận an lo tròn.
13. Con vầy là mới phải con,
Vì không phải lợi lòng son dạ hiền.
Con đồng Mẹ chẳng thương riêng,
Chỉ cho con rõ, dắt liền chị em.
Đặng nghe theo đó trọn niềm,
Trước sau gìn phận thúc kềm tánh tâm./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng in ra để dành dạy Đạo; Còn một bổn
thì giao lại cho Thị-Dung ở Đông-Thái./-
71
BÀI 25: BÌNH TÂM NAY THẤY PHƯỚC PHẦN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 27 tháng 8 Annam 1945 (9 giờ trưa) [TV.1971/81]
Quơn, Con nghe Mẹ dạy :
1. Bình tâm nay thấy phước phần
Đây là Mẹ thưởng có phần đấy con.
Chớ nên than thở phải mòn,
Định xong thì thấy chẳng còn nghị nghi
2. Định trong Nhứt, Nhị, Tam Kỳ,
Chuyển xây, lừa gạn trước thì như sau.
An lòng thấy khó đừng nao,
Ngày nay mới được Đức cao, Hạnh dày.
3. Khó khăn ngày một tới hoài,
Vững lòng tin trọn có Thầy chỉ cho.
Mặc dầu quyền thế reo hò,
Lâu ngày Tà giáo làm trò gì nên?
4. Mẹ khuyên con phải an bền
Bền nương theo Đạo đừng quên phận mình.
Tứ thời hôm sớm kệ kinh,
Chác điều tội lỗi Phật, Kinh không nhìn.
5. Bảo thân nhờ chỗ giữ gìn,
Giữ gìn cho trọn tâm thình, tánh an.
Hiện giờ cơ Đạo sắp sang,
Chuyển lưu tuần vận bảo an hội nầy.
Con ôi ! thấy vậy, hay vầy,
Tới đâu thì cũng có Trời định phân./-
QUƠN, Con nghe MẸ dặn dò, ráng nhớ nghe con.
72
BÀI 26: GIẢI NGHĨA CON PHẢI GIỮ TẤM THÂN LÀM TRỌNG
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 3 tháng 4 Annam 1939 (3 giờ chiều) [ĐCL.44/119] [TV.1971/82] (Giải nghĩa Chuyển Mê số 10 vé 298)
“Con phải giữ tấm thân làm trọng
Luật Cao Xanh lộng lộng chẳng sai
Con nào vào cửa Cao Đài
Thì đừng lòng một dạ hai báng Trời
Con nào muốn đặng nên người
Thì phải ghi lời Thầy dạy mới nên”
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn, con phải sửa bài học cho Thị Lòng đi, đặng trả lại
cho nó coi nó học, con sửa đi có Thầy dạy cho.
Lấy mỗi chữ làm ra một câu.
1. Con tuy là phận gái hèn,
Phải lo gìn giữ tập rèn nết na.
Giữ sao cho trọn Đạo nhà,
Tấm lòng son sắc đó là trọn vui.
2. Thân phàm phải chịu các mùi,
Làm nên người Đạo, sửa Đời để chi.
Trọng là chẳng dám khinh khi,
Luật trên ban phú phải ghi phải làm.
3. Cao sùng Đạo Nhứt qui Tam,
Xanh xanh, vọi vọi tục phàm khó qua.
Lộng thì chỉ chỗ cao xa,
Lộng thưa không lọt đó là Luật công.
4. Chẳng suy, chẳng xét cho cùng,
Sai lầm thì chịu thứ dung đặng nào.
73
Con nguyền một dạ trước sau,
Nào ai sừng sẻ chẳng nao chẳng sờn.
5. Vào lòng nhớ trọn Chữ Nhơn,
Cửa không, cửa sắc nhờ ơn dạy truyền.
Cao Đài rộng rãi vô biên,
Đài trong tỏ rạng, dữ hiền đều ghi.
6. Thì bền lòng sợ tứ tri,
Đừng khoe khôn quỉ mị lỵ chia lìa.
Lòng thành cho trọn sớm khuya,
Một câu minh thệ tạc bia muôn đời.
7. Dạ phàm hay có lã lơi,
Hai bên Đời Đạo chẳng nơi nào rồi.
Báng là lo tính thả trôi,
Trời cao chẳng sợ buồn vui không rành.
8. Con nào có thói cãi canh,
Nào hay mình chịu tội hành về sau.
Muốn gần Tiên Phật phẩm cao,
Đặng cùng không đặng tại trau sửa mình.
9. Nên nhờ chỗ trọn đức tin,
Người vui, Ta đẹp tại bình Tánh Tâm.
Thì ai trước muốn khỏi lầm,
Phải chuyên học Đạo đặng tầm đường ngay.
10. Nghe nhằm nhớ trọn không sai,
Lời châu tiếng ngọc gái trai dạy đồng.
Thầy thương nhắc nhở đợi trông,
Dạy khuyên chừa bớt bụi hồng đừng mê.
11. Mới mong rảnh nợ đặng về,
Nên trang Đạo Đức gần kề Ngọc kinh.
Giải cho rõ lý giữ gìn,
Hễ tu thì phải thiệt mình trước đi.
74
12. Bớt điều nghị nghị, nghi nghi,
Việc chi cũng tại thị phi ban đầu.
Tại lòng chẳng xét cạn sâu,
Bạ đâu nghe đó, đuôi đầu chẳng thông.
13. Đến cùng theo lũ cuồng ngông,
Chừng hư rồi lại tiếc công oán Trời.
Trước sau dạy trẻ các lời,
Nội trong bài học, học rồi thì lo.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra dạy Đạo, còn một bổn thì trả
lại cho Lòng.
-----ooOoo-----
75
BÀI 27: GIẢI NGHĨA LÒNG ĐỨC MẸ HAY ĐÙM HAY BỌC
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 19 tháng 1 Annam 1941 (2 giờ chiều) [ĐCL43/140] [TV.1971/84] (Giải nghĩa Chuyển Mê 11, vé 394 – 395)
“Lòng Đức Mẹ hay đùm hay bọc
Miểng lời ngay con lọt vào tai
Con về Mẹ rước hai tay
Mẹ đà sắm sẳn mão giày. áo xiêm
Thương con bể khổ đắm chìm
Quên quê cảnh cũ trang nghiêm phụng rồng”
Khuyên Con dứt cái lòng phàm trược
Đặng nghe lời chỉ trước, dặn sau.
Liên-đài nhiều nấc, nhiều cầu
Tánh phàm đeo đuổi khó hầu bước qua.
Nếu con mảng tánh ta-bà
Mẹ nào nỡ thấy con sa hố hầm”
CUNG, Con nghe Mẹ dạy:
1. Con ôi ! lòng Mẹ thương đồng,
Chỉ lời Nhơn đức như đùm bọc chung.
Hay bày hay dạy hay dung,
Miễng lời ngay thật con tùng thuận nên.
2. Lọt vào tai nhớ đừng quên,
Con về tới cửa Mẹ liền rước ngay.
Rước mừng trọn đủ hai tay,
Ra tuồng mừng rỡ lâu ngày gặp đây.
76
3. Mẹ đà sắm sẵn đồ thay,
Mão giày xiêm áo đổi thay đồ phàm.
Thấy bầy con dại chẳng ham,
Tại vầy biển khổ đắm tham chịu chìm.
4. Đắm vào nơi tục hết nghiêm
Chìm luôn tới tột, quên niềm Mẹ con
Quê xưa, cảnh cũ vẫn còn
Là trang nghiêm nghị, phụng rồng có nơi
5. Tỷ coi người phải, biết người
Nầy Nam, nọ Nữ có lời bất than
Trang nghiêm rồng phụng chẳng gần
Là quê cảnh vậy, thành thân trọn Hiền
6. Đó là Mẹ để lời khuyên
Là khuyên con dứt, gọi riêng cái lòng
Cái lòng đó vậy khó trông
Vì riêng phàm trược, cứ mong nợ tình
7. Cái lòng quá vậy Vô Minh
Dứt rồi mới dễ, thuận tin Lý Trời
Đặng nghe lời chỉ Ta, Người
Trước, sau đều đặng, một đời ráng tu
8. Liên Đài danh để ngàn thu
Ngặt trong nhiều nết, gọi thù oán riêng
Thoát ra cho khỏi thấy liền
Nhiều nơi cầu đẹp, cảnh Tiên lạ lung
77
9. Đó là câu Mẹ để chung
Tánh phàm đeo đuổi, khó trông bước vào
Quá rồi, Mẹ ngán xiết bao
Là qua ngày định hội nào gặp con
10. Nếu con gìn phận không tròn
Rằng cho mãng tánh dại, khôn ta bà
Mẹ nào nỡ thấy lụy sa
Là con sa hố, hầm qua lụy rồi
11. Lụy nầy, lụy kiếp con ôi !!
Vì chưng đùm bọc, qua rồi phải buông
Giải rành nghĩa vậy, nghe CUNG
Ráng mà lo học, tỏ cùng Chị, Em
Đặng bền lòng nhớ trang nghiêm
Là quê cảnh cũ, người thêm thuận hòa./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo; còn 1 bổn thì
giao Thiên Sư trả cho Thị CUNG.
(ĐỖ THỊ CUNG, ở Kim Sơn )
-----ooOoo-----
78
BÀI 28: GIẢI NGHĨA CUỘC GIẢ DỐI TINH YÊU MA QUỶ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 4 Annam 1939 (10 giờ trưa) [ĐCL37/85] [TV.1971/87] (Giải nghĩa Chánh Tà Yếu Lý, vé 16)
“Cuộc giả dối tinh yêu ma quỷ
Tiếng bọt bèo thô bỉ vụn vằng,
Đạo là Chí chánh, Chí chơn
Người sao để dạ cầm cân so lường
Thầy hết dạ thương yêu con dại
Thầy hết lòng hoài đoái trẻ ngây
Khắp cùng Nam Bắc, Đông Tây
Nơi nào Thầy cũng giảng bày lẽ Chơn.”
NGỌC LIÊN, Con nghe MẸ dạy :
1. Cuộc Đời giả dối tinh yêu
Ma khôn, quỷ xão lựa điều gạt con,
Tin theo danh giá đâu còn,
Vì yêu, vì mến ngọt ngon nên lầm.
2. Tiếng bèo, tiếng bọt giả tâm
Xét ra thô bỉ, tại ham quên ngừa
Dụng lời nói khéo đỏng đưa
Vàng xanh đỏ đậm, cho vừa người mê
3. Đạo Trời Đại lực, Đại bi
Chí tâm chơn chánh, mỵ ly khó gần
Người đời chẳng xét, chẳng phân
Để lòng nê cố, xa gần giận nhau
4. Cầm cân so sánh nghèo, giàu
Lường công, kể việc; sanh màu trắng, đen
Thầy thường hết dạ nhủ khuyên
79
Thương bầy con dại, đảo điên trăm bề
5. Khuyên trừng, dạy dỗ lại chê
Ưa nghe lời bợ, chẳng dè dặt lo
Hết lòng xem xét, chỉ cho
Trẻ ngây Thầy cũng, dặn dò từ câu
6. Khắp trong một quả Địa Cầu
Đông Tây, Nam Bắc cùng nhau chưa Hòa
Thầy nhìn thấy rõ thiết tha
Người trong Trời Đất, bày ra hại người
7. Giải bày đạo lý nơi nơi
Chơn ngôn diệu toán, cứu đời Kỳ ba
Cạn lời chỉ tột gần xa
Chẳng tuân thì chịu, phần TA hết lòng
8. Dạy rành con rõ đục trong
Đục trong là chỗ, con phòng lấy con
Ngọc Liêng ráng giữ cho tròn
Cuộc trần giả mộng, phải mòn, phải hao./.
(Ngọc Liêng – Tân Hội Mỹ)
-----ooOoo-----
80
BÀI 29: GIẢI NGHĨA THẦN KHÍ TINH
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 18 tháng 4 Annam 1939 (7 giờ tối) [TV.1971/89] (Giải nghĩa một vé Kinh Tây-Vương vé 44)
“Thần – Khí – Tinh Tiên thiên làm gốc
Tinh – Khí – Thần là nọc hại người
Con ôi ! đừng tưởng trò chơi
Nếu con trái ngược Đạo Trời dễ chi”
KHOA, Con nghe Mẹ dạy :
1. Con chí quyết tâm bền học Đạo
Đạo Tiên thiên là Đạo Vô hình,
Nên rằng Thần hiệp, Khí – Tinh
THƯỜNG ư THIỆT quyết chí TIN vô cùng.
2. Lời con giải nói chung trong đó,
Song chưa rành chưa rõ tại sao
Thần nương Tinh Khí ba màu,
Đỏ Vàng Xanh đó, đứng vào Tam thanh.
3. Ba màu lập ra thành Tam phái,
Là Tam thanh quảng đại vô hình,
Người nương Lý đó vào mình,
Biết tu nhờ trọn giữ gìn chữ Thanh.
4. Xưa Thái – Thượng chia rành ra vậy
Người đời sau ít thấy cho rành
Đặt điều mâu thuẩn độc thâm,
Bày ra luyện Khí, người ham theo nhiều.
5. Đạo chẳng dạy người tiêu tánh mạng
Đạo không truyền rẽ bạn lìa đôi
81
Đạo khuyên sự THIỆT trau giồi
Phá mê lìa tục sửa Đời thuần phong.
6. Tại chẳng học, chẳng thông về Lý
Đạo Hư vô Huyền bí Chơn truyền
Giảng rành Tiên Hậu Nhị Thiên
Chẳng thông BIẾN – DIỆC Đạo nguyên nên lầm.
7. Mẹ vì thấy trẻ chí tâm
Dạy cho con rõ đổi lầm đời xưa
Người xưa thấy rõ phải chừa
Người xưa đâu phải hõng hờ vậy sao?
8. Tại nơi ỷ thế khoe màu
Mượn danh truyền Đạo tự cao nên vầy
Cơ Trời vận chuyển đổi xây
Người không rõ đặng ỷ tài cản ngăn.
9. Dập dồn lớn nhỏ nhố nhăn
Luyện Tinh, hoá Khí, Thần thông rộn ràng.
Đó là Tả đạo Bàng môn
Người không suy xét lỡ đàng là đây.
10. Hiện nay chánh giống Tam Kỳ,
Đều do lẻ thiệt chỉ bày dạy chung.
Chí Tâm khuyên trẻ theo cùng
Chí ư hành thiện tâm tùng chánh chơn.
11. Bớt điều so thiệt tính hơn
Để công dư giúp là ơn đức dày
THẦN tròn, KHÍ vẹn, TINH hay
Trong ba nầy dặn gái, trai phải làm.
12. Trọn THẦN nhờ tại bỏ THAM
KHÍ thanh hờn giận chớ đam vào mình.
TINH hay mình phải xét mình
Là hay trong chỗ lánh tình tục mê.
82
13. Dạy cho con rõ mọi bề
Chớ nên làm tội để về đời xưa.
Ngẩn ngơ mơ ước Tam thừa
Tại ham VỌNG tưởng ma lừa quỉ chen.
14. Lắm khi khiếp nhược đê hèn
Bày ra kế lạ giả truyền Thần linh.
Nữ, Nam phân biệt chẳng gìn
Ham mê truyền điển hại mình là đây.
15. Dạy rồi con nhớ đừng sai
Chỉ cho em, chị từ nay chớ lầm
Tu hành quí tại chí tâm
Chí tâm về Đạo chỗ lầm đừng theo.
Dạy cho thấy rõ đủ điều
Khuyên con phải học mọi điều thì nên./-
- THĂNG -
-----ooOoo-----
83
BÀI 30: ĐÃ HAY TRƯỚC HỌC SAU HÀNH
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 5 Annam 1939 (3 giờ chiều) [TV.1971/92]
HƯƠNG, Con nghe MẸ dặn:
1. Đã hay trước học, sau hành,
Đó là dễ nói, thiệt hành khó khăn
Thánh ngôn, lời nói có ngằn,
Người không phân đặng, tưởng rằng vậy chung
2. Trước đây lòng phải thuận tùng
Học từ chương thứ Đạo Trung cho rành
Sau rồi nhìn thấy trược thanh
Hành không sai siễng là danh bảo tồn.
3. Thi bài thường cấm tự tôn
Đọc nghe thì dễ, dại khôn khó dằn.
Mẹ phân con rõ đó rằng
Ráng kềm trước học, đặng hằng thấy sau.
4. Việc hành đạo có chậm mau
Tuỳ cơ ứng biến, nghèo giàu cũng TU
Hiện đây là Lý phá mù
Đó là Lý thiệt, ít TU khó rành.
5. Đã đành cho phận Nữ sanh
Song đều Đạo đức muốn rành tự chuyên.
Nữ Nam đều cũng dạy HIỀN
Hễ lo thì đặng, nễ kiêng thì HOÀ.
6. Nói gần con được rõ xa
Là tâm biết có Mẹ tha thiết lời
Nếu trong không chắc có Trời
Dầu cho tài lực trái Đời cũng hư
84
7. Xét rành Cổ vãng, Kim như
Là xưa nay một luận Từ với Bi
Đó là kinh sách sẳn ghi
Ngặt Đời không rõ Từ bi mới lầm.
8. Phật Trời có chỗ từ tâm
Mừng cho kẻ lạc sai lầm biết nghe
Bi là hết sức chở che
Thương bày chuyện phải, lại chê cãi bàn.
9. Cho nên tội đó dẫy tràn
Từ bi là Luật độ an biến đều
Chẳng thông đó vậy phần nhiều
Nhiều tay mới phạm Thiên điều tại đây.
10. Chỉ cho con nhớ vậy vầy
Từ bi Đạo lý hiện nay Cao Đài.
Trước rồi sau đó chẳng ai
Ngặt tùy thay đổi gọi xây chuyển thời.
11. Cuộc thông, cuộc biến thấy rồi,
Cũng là trong Luật có rời đặng đâu.
Con chung thấy vậy hồi đầu
Chẳng nghe thì tới vực sâu hố hầm.
12. Đó đành đó vậy phải cam
Con nhìn coi kỹ Nữ, Nam cũng đồng.
Mẹ thường nhắc nhở lập công
Công rồi có Đức tại lòng mỗi con.
13. Mỗi con đều muốn bảo tồn
Còn công đức vậy có còn hay chưa ?
Tính năm, kể tháng sao vừa
Vì chưng Tạo hóa nhặc thưa mỗi ngày
14. Hễ tin thì tưởng nhớ hoài
Phần riêng mình định nào ai cản gàn
85
Định làm chuyện phải, phải an
Đó là lời Mẹ chỉ đàng con đi
15. Thoát ra nạn khổ dễ gì
Mà không phải khó đó là tại con.
Ráng dòm kìa nước, nọ non
Mình thân còn vững thì thông rõ Trời
Trước sau Mẹ chỉ các lời
Học hành công quả giúp NGƯỜI vẹn TA./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho HƯƠNG nó coi, rồi buộc phải đem trình cho CA
coi, đặng ấn chứng cho nó./-
-----ooOoo-----
86
BÀI 31: NGƯỜI TIÊN, NGƯỜI PHẬT, THÁNH THẦN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 1 tháng 1 Annam 1938 (7 giờ sáng) [ĐCL35/59] [TV.1971/95]
ĐẠI, Con nghe MẸ dạy :
1. Người Tiên, người Phật, Thánh Thần
Ra sao Con chỉ chừng chừng Mẹ coi ?
Đọc nghe tiếng nói rẽ ròi,
Chỉ ra phân biệt từ người khó khăn.
2. Người Tiên, Người Phật, Thánh Thần
Cả ba đều cũng trọn phần Đạo Tâm
Người Tiên, thì chẳng mê phàm
Lo cho thanh tịnh, đặng tầm Chơn công
3. Người Phật, thì để Tâm Không
Là thương kẻ dại, chẳng đồng người khôn
Thương đời lao khổ dập dồn
Ra công chỉ dạy, bảo tồn cùng nhau
4. Thánh thì thông hiểu trước, sau
Học đâu rành đó, đặng trau sửa mình
Thấu trong nhơn sự, dục tình
Nhục vinh thế cuộc, luận bình không sai
5. Thần là một Đấng Anh Tài
Có công gánh vác, mỗi ngày đặng an
Oai ra dẹp lũ tôi loan
Đức thương người Thiện, vướng đàng họa tai
6. Ôm gồm OAI, ĐỨC cả hai
Đỡ nưng thưởng phạt, một tay thế quyền
87
Rủi nhằm trong lúc chinh nghiêng
Kề vai gánh vác, vững yên trong ngoài
7. Đạo Đời gom trọn vào tay
Sửa cho hòa thuận, cả hai cho tròn
Trước là Mẹ hỏi thử con
Sau đây Mẹ chỉ cho con tỏ tường
8. Đó là một chỗ Cung Tường
Nếu không rõ đặng, cứ đường lộn quanh
Phật Tiên Thần Thánh cũng thành
Là do bổn phận, chịu nhìn, làm theo
9. Hạng người thì bỏ tự kiêu
Lánh xa tự đắc, lần theo bực Thần
Thánh Tiên Phật đó, cũng gần
Còn xa là tại nơi phần muội mê
10. Cảnh vui ai cũng muốn về
Ngặt không lo trọn, mọi bề Đạo Tâm
Tại vầy nên phải sai lầm
Từ nay con hiểu, ráng tầm cho ra
ĐƯỢC, con giao lại cho Hương Đại nó coi, nó xét lấy đó mà lo Tu Niệm. Bài nầy
nó phải đọc tại Đạo tràng chị, em nó nghe. Đó là bổn phận của nó đó.
( G.H HƯƠNG ĐẠI ở Mỹ Phong)
-----ooOoo-----
88
BÀI 32: CANH THÌN NAY ĐÃ MÃN NĂM
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 11 tháng 1 Annam 1941 (2 giờ chiều) [TV.1971/97]
ĐƯỢC, Con phải sửa bài của THỊ HƯỜNG, đặng trả lại cho nó coi nó học hoặc
là nó nói cho Chị em trong Đạo nghe cũng là điều bổ ích lớn, Con sửa đi, trong đó có
điển Thầy – Mẹ giúp cho.
(Sửa bài lấy theo chữ đầu)
1. Canh Thìn nay đã mãn năm
Bước sang Tân Tỵ nhớ thầm chuyện qua
Tục phàm giả dối kiêu xa
Chị em đừng tưởng đó là gọi vui.
2. Những khi điều lắm lúc rồi
Lý ưng lòng phải sợ Trời vứt đi.
Gìn trau gương hạnh tu trì
Phàm tâm mà sửa so bì tợ Tiên.
3. Chớ than vầy phận thấp hèn
Ngày qua rồi tháng lại liền Đức cao.
Từ khi cửa Đạo chen vào
Đó là một chỗ đồng nhau trốn đời
4. Chị em cần ráng nghiệm lời
Học đâu nhìn đó gọi người biết Tu
Kệ chiều, kinh sớm công phu
Cùng ai thì cũng dùng như mới hoà.
5. Nghe lời Mẹ nói thiết tha
Đó là lời diệu dỗ Ta, khuyên Người.
89
Quyết Tu thì dặn chớ rời
Tin làm cho Thiệt, vậy Trời Đất thương.
6. Nghe nhằm Lý nhiệm mầu phương
Coi thời cơ hội lúc đương rộn ràng.
Được vào nơi phước huệ an
Không thì phải vướng sự liên can thường.
7. Biết đây Thầy mở học đường
Còn đâu lại chẳng có trường, tại sao?
Trước dò cơ vận hiểu mau
Tam Kỳ qui hiệp lãnh trao tại Dần.
8. Sao sao lần trải qua lần
Trung hoà cho trọn Đạo Tân Dân thành.
Đó là do Thiện tồn danh
Đường Chơn lý một có giành giựt ai.
9. Khỏi cơn dồn dập đoạ đày
Từ đây Tân Tỵ đừng ai cãi Trời.
Đó là Chánh vậy nào chơi
Là năm Trời sửa theo đời Thượng nguơn.
Được, Con sửa rồi giao lại cho Ca, đặng nó in ra để dành một bổn, còn một bổn
thì giao cho Thiên Sư, đặng trả lại cho THỊ HƯỜNG
(TRẦN-THỊ-HƯỜNG, Tân Trụ, Tân An)
-----ooOoo-----
90
BÀI 33: THẦN TIÊN PHẬT THÁNH THƯƠNG ĐỜI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI Ngày 26 tháng 12 Annam 1938 ( // giờ // ) [ĐCL35/57] [TV.1971/99]
ĐƠN, Con nghe MẸ dạy:
1. Thần Tiên, Phật Thánh thương Đời
Cho nên cạn tiếng, ráo lời dạy khuyên
Các con lòng dạ không hiền
Chẳng ưa điều thiệt, thấy liền sự chơi
2. Bỏ đi sợ uổng, biếng lười
Đó là một tiếng, cuộc đời ngạo chê
Tu sao chẳng muốn trọn bề
Nửa lui, nửa tới, giành nghe chuyện xằng
3. Biết Trời mở Đạo thì phăng
Đặng nghe lời dạy, ăn năn sửa mình
Biết Phật là Đấng trường sinh
Từ bi tế độ, cứu sanh linh đồng
4. Cả hai Trời, Phật là Không
Chỗ Không là Đạo, đạo thông cứu đời
Phải cần Tu niệm đến nơi
Làm xong phận sự, Đạo Đời nhờ chung
5. Trẻ thơ nào chịu thính tùng
Đó là mến Đạo, vô cùng sự vui
Đứa mù nào rõ đầu đuôi
Khó mong gạt gẩm, người xuôi đặng nhờ
6. Con nào lòng dạ ngáo ngơ
Còn ham yêu chuộng, phỉnh phờ thì vương
Tay phàm, dạ tục nào thương
Nói theo cho ngọt, dẫn đường hại sau
91
7. Xanh vàng màu sắc biết bao
Tỷ như sợi chỉ, nhuộm bao ở ngoài
Ai làm, ai dạy điều ngay
Con đường Chơn Đạo; một bài Bắc, Nam
8. Ai thông rõ đặng thì làm
Bày ra lẽ thiệt, tục phàm khác xa
Nam châm, Bắc hiệp xướng hòa
Cả hai là Đạo, đó là chỉ huy
9. Rõ rồi cứ vậy lần đi
Tới đâu thì cũng, có khi, có chừng
Bắc Nam, Nam Bắc không dừng
Đó là Thiên trục, chuyển vần Thiên Xu
10. Trục quây tròn giáp bao mù
Mà trong chỗ tạo, có Thầy định phân
Đứa đui mù dắt khó gần
Tại không thấy đặng, định chừng nói ngang
11. Dễ chi cơ bí mật tang
Đạo Không mà có, rõ ràng là hay
Dễ ngươi là đám cãi rầy
Đạo cao đạo thấp, đây vầy nọ sao
12. Chẳng dè mình thấp, gọi cao
Chẳng dè mình dốt, lại bao biếm người
Nhuộm xanh vàng sắc có Người
Đặng khoe là thợ, của Trời dạy riêng
13. Lâu ngày hóa chuyện đảo điên
Ôi thôi là thảm, tội riêng chịu đành
Đó là tại chỗ cầu danh
Tưởng cho nói bướng, đặng giành phần hơn
14. Giáng bài dạy rõ cho ĐƠN
Các con ráng học, tránh quân gạt lường
92
Xưa nay có một con đường
Là Nam Bắc hiệp, mở trường dạy Tu
Chẳng cần thấp thỏi, dại ngu
Biết nghe, biết sợ; Thầy thâu dụng liền.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn một
bổn thì trả lại cho ĐƠN./-
( ĐƠN, ở Bình Nhâm)
-----ooOoo-----
93
BÀI 34 : NÀY LỜI BẦN ĐẠO THỞ THAN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Phước Thạnh, Ngày 4 tháng 5 Annam 1939 (10 giờ trưa)
[ĐCL.37/71] [TV.1971/101]
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn:
Trong giờ Đạo tràng nầy Thầy không đặng vui, đó là tại nơi lòng của THỐNG nó
chưa ắt sự Có Không, Không có; tại vậy nên Tâm Thần chưa vững là vậy đó.
Vậy Thầy nói trước cho con hay, đây Thầy cho Phổ Đà giáng bút tỏ lời hơn thiệt
đặng cho trong Đạo tràng nghe mà tự xét. (1)
PHỔ lãnh chơn truyền Ngọc Sắc ban
ĐÀ nhơn hữu sự giáng lâm đàn
VỊÊN trì hung kiết tàng ư tại
TRƯỞNG ấu tùy thời độ biến, an
Trước Đạo tràng, Bần Đạo tỏ lòng chào Đại Đức Hàng Long Chơn Tánh; sau
mừng cho cả Thiên phong lưỡng phái cùng Đạo hữu có mặt học đạo tại đây. Vậy khá
định tâm nghe lời Bần Đạo than đây mà tự xét.
THAN :
Nầy lời Bần Đạo thở than
Là than cho phận, bước đàng Chị, Em
1. Kẻ có phước thúc kềm Tâm, Tánh
Người vô duyên khó lánh tội tình
Uổng là một điểm Chơn Linh
Không đem về trọn Ngọc Kinh chầu Thầy
2. Đã gặp Đạo của Thầy là quí
Tại không suy, không nghĩ nên lầm
94
Thương Hàng Long chịu khổ tâm
Kề vai gánh nặng, mười năm trọn bề
3. Kẻ sa đọa vì chê trong đó
Tại vậy nên Người khó dắt dìu
Tu hành chẳng dứt Tự kiêu
Khổ tâm vì Bạn, Luật Điều vì tuân
4. Ai sớm biết là mừng cho đó
Đó phải lo chịu khó xét thầm
Tại sao Người chịu khổ tâm
Xét rồi thì thấy, chỗ nhằm đường ngay
5. Nay Bần Đạo giáng đây than thở
Là thấy trong nhiều chỗ chưa Hòa
Ước thầm gây chưyện dữ ra
Dễ chi mà tính, đó là hại than
6. Lời nói đó xa gần tự nghĩ
Trời Đất đâu có kể mưu tà
Xác phàm giả dối, kiêu xa
Tưởng cho là đúng, đọa sa quên nhìn
7. Bần Đạo bởi thương tình Em, Chị
Nên chỉ cho phi thị nghi quyền
Đó là gây gổ đảo điên
Nếu vương vào đó, than phiền về sau
8. Giờ học đạo thiếp mau từ tạ
Trong lưỡng ban khuyên khá nhớ lời
Quyết lòng thì chớ dể ngươi
Ai tin thì được phước Trời độ cho./.
Bần Đạo xin kiếu
-----ooOoo-----
95
BÀI 35: GIẢI NGHĨA PHÁ NHỨT KHIẾU CHI HUYỀN QUANG
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 25 Tháng 6 Annam 1939 (11 giờ trưa) [ĐCL.37/92] [TV.1971/103]
“PHÁ NHỨT KHIẾU CHI HUYỀN QUANG”
NHÂM, con nghe dặn:
1. Chữ Nhứt Khiếu Huyền Quang bí yếu
Là phá mê đặng hiểu Tiên phàm
Nhứt là cái tục quá ham
Ham danh, ham lợi, ham làm Phật Tiên
2. Ham mê chẳng rõ Hiền, rõ Dữ
Vì khiếu mê nhơn sự không rành
Tại vầy Đời Đạo đua tranh
Huyền Quang ly loạn, chúng sanh không tường
3. Xưa Cỗ Phật, vì thương mê muội
Vưng lịnh Trời lập Hội Khai Quang
Ra lời truyền cả thế gian
Tại đây Người sẽ chỉ đàng tới, lui
4. Trong thế tục, nghe rồi đẹp dạ
Tới nghe lời, Người phá khiếu mê
Công tham Thái Cực trọn bề
Phá ra một khiếu, chỉ về đường Tu
5. Nhờ phá khiếu hết ngu, còn trí
Đặng rõ thông đạo lý sửa lòng
Từ nầy cơ Đạo dẫn thông
Nên cho Cỗ Phật công đồng Thích Ca
6. Mẹ thương con dại đây là
Là nơi học đạo, đó là phá mê
96
Nhứt sanh vì Đạo an bề
Nếu không phá khiếu, thì mê trọn đời
7. Nên kêu khiếu rộng lòng Trời
Trời sai Tiên Phật, cứu đời phá mê
Dạy rồi con phải gắng ghi
Muốn cho khỏi lạc, thì đi một đường
8. Đặng nhờ ngọn Đuốc náu nương
Cũng là phá tục, khỏi vương cuộc trần
Rõ ràng nhờ đó lập than
Là thân lương thiện, được gần chỗ vui./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy đạo. Còn một
bổn thì trả lại cho Thị Nhâm
(Thị Nhâm, ở Lương Hòa Lạc)
97
BÀI 36: NÀY LỜI THIẾP PHÂN TRẦN PHẢI, QUẤY
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 24 tháng 2 Annam 1938 (9 giờ tối) [ĐCL.32/122] [TV.1971/105]
PHỔ lãnh Chơn ngôn Ngọc sắc hành
ĐÀ truyền diệu bút nhắn HƯƠNG ANH
VIỆN kiêm Chưởng Quản Diêu Trì Điện
TRƯỞNG dưỡng Chơn ngôn kíp dĩ thành
Nay tôi chào Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, xin nương bút tỏ lời hơn thiệt.
- Tôi cũng y theo lời Chị xin,
1. Nầy lời Thiếp phân trần phải, quấy
Trước là chồng, sau mấy đứa con
Phần tôi nay đã vuông tròn
Còn e Đại đức, hởi còn lương khương
2. Thiệt mối Đạo, đương cơn rắc rối
Vậy nên Ngài cáo thối lui chưn
Bước lui, bước tới lại ngừng
Làm cho con dại, ngó chừng theo Cha
3. Khuyên Ngài chớ nghi ma, nghi quỉ
Có lịnh Thầy sắc chỉ rõ ràng
Thiên Đài tiền định đã ban
Cũng vì gia đạo, cản gàn nên lâu
4. Cơ Thầy định mùa thu tháng sáu
Người hết lòng tố cáo, chối từ
Lịnh Trên chiếu Luật vô tư
Rằng Người có số Chơn Như rõ ràng
5. Nên nay được, Thầy ban Chưởng Quản
Nếu không tuân ghi án xử liền
98
Vậy nên Chư Phật, Chư Tiên
Đồng nhau tâu giúp, Lịnh Trên y lời
6. Vì tại đó, nên Người phải chịu
Cúi vưng lời Thầy biểu phải làm
Nhọc nhằn sanh, tử cũng cam
Nguyền ra gánh vác, Kỳ Tam buổi nầy
7. Bởi Chư Vị chưa hay, chưa rõ
Nên rũ nhau đánh đổ nhiều bề
Vậy nên Bần Đạo phải về
Giải cho Chư Vị đặng nghe vui lòng
8. Tuy đã biết người trong Trời Đất
Cũng có duyên, có phước, có phần
Tu hành thì hưởng Thiên Ân
Ở đời thì hưởng về phần giàu sang
9. Đời Đạo cũng có an, có biến
Ấy gọi chung là chuyện tuần hườn
Tôi khuyên chớ chác oán hờn
Ráng lo tu niệm, nhờ ơn của Thầy
10. Ai còn lại kỳ nầy là quí
Ráng trau giồi tâm chí cho phù
Muốn tu thì phải thiệt tu
Dầu cho thấp thỏi, trí ngu cũng thành
11. Mẹ dặn trẻ Hương Anh phải nhớ
Lo tu hành nhắc nhỡ giùm em
Gia đình con ráng xét xem
Chớ nên núng nẫy, vì em dại khờ
12. Mẹ trước có làm thơ để lại
Đừng cho Phùng, trở lại chỗ nầy
Ráng nghe lời Mẹ dặn đây
Tới lui Tòa Thánh, hằng ngày với Cha
99
13. Khuyên con chớ bỏ qua lời Mẹ
Việc tu hành nạnh hẹ không nên
Trước sau một dạ cho bền
Chớ nên giải đãi, than phiền bỏ trôi
14. Cha con thiệt là lôi thôi lắm
Con ráng kềm cho lắm nghe con
Muốn cho con đặng vuông tròn
Cho nên Mẹ ráng dặn con hết lời./.
TÔI KIẾU ./-
- THĂNG -
-----ooOoo-----
100
BÀI 37: KHUYÊN CON CHỚ NHIỀU LỜI THAN THỞ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 25 tháng 2 Annam 1938 ( 3 giờ khuya) [ĐCL.32/124] [TV.1971/107]
PHỔ tế nhơn-sanh dã
ĐÀ giáng bút truyền lai
VIỆN ngôn phân biệt luận
TRƯỞNG thượng trọng danh tài.
- Tôi chào Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
- Tôi tỏ lời cảm ơn.
- Tôi xin nương bút tiếp dạy một bài.
15. Khuyên con chớ nhiều lời than thở
Phải an lòng học vỡ của Thầy
Tùy theo cơ Đạo chuyển xây
Đừng lòng dị nghị, nay vầy – mai kia
16. Buổi nầy buổi ra thi công quả
Ráng giúp Thầy đặng trả nợ xưa
Chẳng nên làm thói đảo lừa
Biếng lười, dụ dự; dây dưa ích gì !
17. Lời Mẹ nói con ghi vào dạ
Chớ dễ ngươi mang đọa lụy mình
Thương con nên dặn đinh ninh
Chớ nên tập tánh, chống kình Chị Em
18. Trên Đức Mẹ, xét xem nhắc nhỡ
Con ráng tu đặng trở mau về
101
Liên Đài là chốn cảnh quê
Trần gian giả cuộc, mẫn mê lụy mình
19. Khuyên Ái nữ ráng nhìn cho kỹ
Chớ khinh khi bần sĩ mà lầm
Đạo là dụng kẻ hão tâm
Con chưa rõ đặng, tánh tâm của người
20. Nay Mẹ dặn mọi lời ráng nhớ
Chớ nói điều vô cớ không nên
Phải nhìn, phải xét, phải xem
Phải coi cho kỹ, mới nên để lời
21. Chớ theo đứa lã lơi phi lý
Nó chưa rành Chơn Ngụy ra sao
Mãn lo so sánh nghèo, giàu
Con tu như vậy, kiếp nào cho xong.
22. Tuy đã biết con phòng cũng phải
Mà cũng suy cho phải mới phòng
Trước sau hỏi lại nơi lòng
Chánh, tà chơn ngụy, đục trong cho rành
23. Tu chẳng phải khoe danh, cầu lợi
Tu cho rành phước, tội mới tu
Tu là rõ chữ trí ngu
Tu lo công quả, công phu cho dày
24. Tu đừng có khen hay, chê dỡ
Dầu dỡ, hay tôi tớ của Thầy
Tu đừng chác việc cãi rầy
Tu lo học đạo, của Thầy cho thông
25. Tu phải nhớ Tổ tông Công đức
Tu đặng nhờ hậu phước về sau
Tu đừng tự đại, tự cao
Trong niềm Em, Chị trước sau thuận hòa
102
26. Phải hôm sớm thờ Cha trọn nghĩa
Ấy là điều Thần tĩnh mộ khang
Tu cho danh gái rỡ ràng
Tu cho tiếng rạng, thế gian muôn đời
27. Tu như vậy, sửa Đời mới đặng
Mới trọn phần gánh nặng của Thầy
Một lời dạy trẻ từ đây
Lo xong phận sự, thì Thầy ban ơn
28. Đừng có thấy trong cơn rắc rối
Mà buồn lòng, cáo thối không nên
Như vầy sao gọi chí bền
Như vầy sao có, tuổi tên với Trời./.
Xin Kiếu
-----ooOoo-----
103
BÀI 38: NÀY ÁI NỮ CON NGHE MẸ DẶN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 23 tháng 7 Annam (Nhuần) 1938 (7 giờ tối) [ĐCL.37/105] [TV.1971/110]
TRẦN minh lý đạo nối nhi văn THỊ hữu nguyên căn miễn đọa trần BAN tánh tại Thiên tiền kiếp định GIÁNG đàn hoan hỉ tụng Thiên ân.
- Trước Hiệp Thiên Đài Vô Vi cúi đầu đãnh lễ Đức Chí Tôn, xin phép Đại Đức
Hàng Long đặng nương bút tỏ lời hơn thiệt cho ba con tôi nghe.
- TA, cũng vui lòng cho.
1. Nầy ái nữ, con nghe Mẹ dặn
Nợ nhơn duyên đã nặng vô cùng
Vợ chồng là đạo thỉ, chung
Phải lo tu niệm, buổi cùng đặng vui
2. Mẹ trước có để lời khuyên trẻ
Chớ dễ ngươi viện lẽ cãi Trời
Ngày nay con phải nhớ lời
Nhớ lời là Mẹ, chẳng rời nơi con
3. Mẹ cũng muốn vuông tròn một chỗ
Nên giáng đàn bày tỏ thiệt, hư
Cha con tại chẳng Thiện Từ
Ngày nay mang đọa, án mười lăm niên
4. Đó là chỗ thuận Thiên huyền bí
Không thể nào, con thấy đặng đâu
Nhìn con, Mẹ cũng ưu sầu
Nhìn đeo nghiệp quả, đáo đầu rồi than
5. Rày mối Đạo mở mang Chơn Lý
Sao con không quyết chí tu hành
104
Đã rằng phận gái Nữ sanh
Phải lo bổn phận cho thanh với người
6. Ba con cũng rõ đường tội, phước
Sao không lo kịp bước theo Thầy
Ít khi Thầy giáng tại đây
Ba con ngỗ nghịch, tội nầy ai mang
7. Con cùng rễ, Mẹ than hết sức
Mau hồi đầu hưởng phước của Thầy
Ráng ghi lời Mẹ dặn đây
Cuối cùng còn một, kỳ nầy nghe con
8. Mặc tình kẻ khoe khôn, chê dại
Con lánh thân trở lại Định Tường
Đặng lo học hỏi nghĩa phương
Suốt thông đạo lý, làm gương cứu đời
9. Con phải biết làm người không dễ
Nếu cãi canh trầm trệ Luân hồi
Cha con đã phạm tội rồi
Sao con bao nỡ, chịu ngồi giởn chơi
10. Muốn báo hiếu Đạo Người cho trọn
Thì phải lo xử phận cho rồi
Nếu con trì huởn dể duôi
Tội cha chưa dứt, lại nhồi tội con
11. Mẹ đặng Lịnh cho bòn công quả
Về dặn con cho thỏa tấm lòng
Khuyên chừa cái bịnh cuồng ngông
Ráng nghe lời Mẹ, mới mong đặng gần
12. Điễn Linh diệu giờ gần muốn dứt
Nhìn con thơ, nước mắt nhỏ đầy
Giả từ gắng gượng làm khuây
Lui ra khỏi bút, Lạy Thầy độ con./.
105
Trước Hiệp Thiên Đài tôi xin kiếu Đại Đức Hàng Long
-THĂNG-
ĐƯỢC, con nghe Thầy dặn lời nầy, con biểu CA nó in ra cho Đạo coi, đặng làm
gương cho người khác, Còn một bổn nữa gởi cho SANH, nó coi đặng nó suy xét./.
-----ooOoo-----
106
BÀI 39: CHÚC MỪNG BÁI MẠNG ĐẦU SƯ PHÁI NỮ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI Ngày 26 tháng 6 Annam 1939 (6 giờ chiều) [ĐCL37/56] [TV.1971/113]
ĐƯỢC, Con nghe Thầy dặn : Giờ nầy có BẠCH LIÊN THANH NỮ đến tại đây
xin Thầy cho phép đặng giáng Đàn cho bài gọi là Chúc mừng bốn đưa Phái Nữ thăng
thưởng địa vị Đầu Sư. Vậy Con phải vưng theo lời Thầy đặng nghe theo mà viết ra một
bài đặng đọc tại ngày Bái-mạng đó
- Bạch, con vưng theo lời Thầy.
BẠCH khiết triều long án
LIÊN ái mộ quần chơn
THANH vân thời cuộc chí
NỮ giáng tụng xưng bày
Nay em là Bạch Liên Thanh Nữ giáng đàn đặng tỏ lòng chào mừng cho bốn Vị
Nữ ban được thăng thưởng Đầu Sư, hiệp với Chị Hương Thiện trọn thành năm Cung,
làm đầu Phái nữ. Em xin để lời chúc tụng như vầy:
T H Ơ RẰNG :
Tài sơ phận gái, đức công dày
Tại đó nên nhờ đặng thưởng đây
Bần Đạo tỏ ra lời tặng chúc
Từ nay khuyên nhớ, gắng công dày
TIẾP CHO THI :
1. Công dày quả vị càng cao
Đó là em, chị ngày sau một nhà
Vui vầy cung điện vào ra
Chị vui vẻ chị, Em hòa phận em
107
2. Hằng ngày học tập mới thêm
Mới là mới tại, Cung thềm Ngọc Hư
Kể đà mấy chục năm dư
Ngày nay tái ngộ, hội ư thử thời
3. Trước khi đồng giáng giúp đời
Phận em rồi trước, tại thời cuộc may
Lòng em chờ đợi đêm ngày
Trông cho vầy hịêp, kịp ngày vẻ vui
4. Đặng gần hôm sớm, tới lui
Phổ môn Đà viện, dưỡng nuôi Chơn thần
Hiện nay thấy rõ lòng mừng
Năm Cung, năm Chị, phước phần Mẹ ban
5. Đặng lo sửa dạy hoàn toàn
Độ chung Nữ phái, tránh đàng khổ lao
Công dày, quả vị càng cao
Đó là Em, Chị ngày sau một nhà./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra, phát cho Đồng nhi học thuộc
lòng; đến ngày đó phần con phải đứng ra đọc trước, rồi đồng nhi sẽ đọc tiếp theo đặng
chúc mừng cho năm đứa nó – CA phải cho chức sắc phái nữ hay trước, đặng ngày đó
tựu về Tòa Thánh mà tỏ lòng mừng nhau cho phỉ dạ. Còn KIỀU thì gởi thơ với bài nầy
cho nó hay; như nó tính về đặng càng tốt . Bằng không thì tại đó nó cũng sắm đồ rồi
lạy Thầy làm Lễ. Thầy cũng chứng cho. Song Diêu phải biểu đạo tại đó hay là Đồng
nhi cũng đọc bài nầy trong giờ Kiều thọ lãnh đó.
Theo lẽ thì Kiều phải về mới đúng, song đường xa, sự tốn hao Thầy không nỡ
buộc. Đó là chị em trong đó, liệu mà thương nhau./.
-THĂNG -
-----ooOoo-----
108
BÀI 40: GIẢI NGHĨA ĐỜI GIÓ BỤI HIỂM NHAM BỚ TRẺ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI Ngày 17 tháng 1 Annam 1939 (7 giờ sáng) [TV.1971/115]
(Giải nghĩa Tây Vương, vé 101, 102, 103)
“Đời gió bụi hiểm nham bớ trẻ
Có Thiện-Căn mới dễ tránh Đời,
Tránh Đời con phải nghe Trời,
Nghe Trời thì phải, nghe lời Mẹ khuyên.
Kẻ có phước Thiện-Duyên mới gặp,
Gặp Thiện-Duyên ráng tập mà làm.
Làm thì Nhứt-Đức Nhứt-Tâm,
Nhứt-Tâm Nhứt-Đức Mẹ chăm nom liền.
Thầy đã dạy "Mười khuyên" ráng nhớ,
Lại lắm khi nhắc nhở trăm điều,
Khuyên con Tâm Huệ ráng khêu,
Ráng khêu cho tỏ, đặng theo mới mầu.”
THÌNH, Con nghe Thầy dạy:
1. Cuộc Đời gió bụi hiểm nham
Đó là tại bởi tục phàm lã lơi.
Gió đưa trong, đục đủ lời
Thổi theo lòng dục hại người phải hư.
2. Gió trong là chỉ thiện từ
Đục là lời nói ẩn hư không dè.
Bụi hồng trần lấm lấp che
Đó là bụi đảng, bụi phe, bụi bùa.
3. Chẳng rành ngay vạy, hơn thua
Dồn thêm cho thoả lấp đua theo quyền.
109
Hiểm là lòng dạ chẳng hiền
Nói nghe thì dễ, ý riêng khó lòng.
4. Nham là thấy của lại mong
Chẳng cần tội phước quyết lòng tóm thâu.
Chẳng kiêng thiện ác đáo đầu
Mình làm còn muốn chuyện sầu người mang.
5. Bớ con ! trẻ thấy rõ rang
Cuộc đời dường thể phòng toan tránh lần.
Thiện căn nhờ có phước phần
Mới mong dễ tránh cuộc trần hiểm nham.
6. Tránh đời gió bụi cho kham
Phải nghe Trời dạy định tâm xét rành
Nhờ trong có chút căn lành
Thấy điều không tốt khó nhìn cho lâu.
7. Nghe lời Trời dạy trước sau
Nhớ ghi lời Mẹ thấp cao có ngằn
Đó là gọi chữ khuyên răn
Khuyên răn đừng cãi thì căn phước còn.
8. Kẻ nào có phước cũng còn
Còn nghe lời Đạo bảo tồn thiện duyên.
Mới mong gặp đặng chơn truyền
Chơn truyền là chỉ thiện duyên cho rành.
9. Gặp duyên phải nhớ trọn lành
Nhớ rồi mong đó tập tành đừng quên.
Làm y như vậy cho bền
Ráng đừng cho sót là nên phận mình.
10. Làm nhờ trong trọn đức tin
Nhứt tâm là giữ, là gìn mỗi câu.
Phải thông nhứt Đức đứng đầu
Đức là sự sáng đâu đâu cũng tường.
110
11. Một lòng cho vẹn vẻ thương
Đó là nhứt Đức gọi phương lánh trần.
Nhứt Tâm, nhứt Đức hai phần
Gồm chung lại một Huệ thần sẳn cho.
12. Chăm nom là chỉ dặn dò
Liền theo chỗ Luật dùng coi thấy rành.
Thầy thương, Thầy dạy dỗ dành
Mười khuyên cho trẻ dễ nhìn, dễ xem.
13. Ráng mà bền chí nhớ theo
Là theo lẻ phải, đặng kềm thúc tâm
Lại còn e sợ sai lầm
Lắm khi nhắc nhở phàm tâm dặt dè
14. Nhắc cho cẩn thận trăm bề
Điều nên, lẽ quấy chớ hề lộn chung.
Khuyên con phải ráng xét cùng
Xét cùng tâm huệ tỏ lần sáng ra.
15. Ráng khêu cho đặng sáng loà
Khêu là tâm tánh phải hoà hiệp chơn.
Khêu cho tỏ rạng thấy đường
Đặng người theo đó mới tường đạo sanh
16. Mới hay Đạo chỉ dụng Lành
Mới hay mầu nhiệm, Đạo sanh cứu Đời.
Khuyên con nhớ vậy biết Trời
Trời đây là Lý, buộc người phải tuân./-
(Thình, ở Tân-hương)
-----ooOoo-----
111
BÀI 41: GIẢI NGHĨA THẤP HÈN PHẬN GÁI KHUÊ MÔN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 1 Annam 1940 (3 giờ chiều) [TV.1971/118]
ĐƯỢC, Con phải sửa bài của MỤI đi đặng trả cho nó học, trong đó Thầy cũng
cho phép con lấy một chữ làm ra một câu, sửa cho trọn vận, trong đó có Thầy giúp
cho.
(Đầu bài Thầy cho như vầy)
“Thấp hèn phận gái Khuê môn
Chí tâm mộ Đạo, chăm nom học hành
Lạy nhờ Đức Mẹ giáng Linh,
Giúp con Tâm, Tánh giữ gìn đừng xao.
Cúi nhờ Đức Cả ơn cao,
Con lo chảy bước cho mau kịp kỳ.
Xác phàm dục vọng ngu si,
Lạy Thầy bố Đức Từ bi con nhờ.
Từ nay con quyết trọn thờ,
Một ngôi Độc Nhứt là Trời nơi Tâm.
Đạo tràng rộng mở mấy năm,
Vì con ít học khó tầm mối manh.
Vậy nên chịu dốt đã đành,
Nay con tự hối Học hành Tu thân,
Trước lo phủi sạch bụi trần,
Sau là sáng suốt đặng lần theo Cha.
Noi gương Tiên Nữ Phổ Đà.
Giồi trau Đức hạnh ôn hòa xử xong.
THẤP HÈN PHẬN GÁI KHUÊ MÔN,
Chí tâm mộ Đạo chăm nom học hành”
112
SỬA BÀI GIẢI NGHĨA:
1. Thấp đừng học thói trèo cao
HÈN quê ráng học giồi trau nết hòa,
PHẬN người đạo đức đừng ngoa
GÁI tuy phận gái, Đạo là dạy chung.
2. KHUÊ là tập nết khiêm cung
MÔN tiền, xuất nhập phải tùng dạy khuyên.
CHÍ bền được vậy mới nên
TÂM kềm, Tánh thúc tuổi tên trọn nghì.
3. MỘ lòng phải nhớ tam qui
ĐẠO răn ngũ giới thường ghi nhớ hoài.
CHĂM theo lời MẸ chỉ bày,
NOM chừa nết tục mỗi ngày hớ hinh
4. HỌC theo lời Chánh xử mình
HÀNH theo đừng để thế tình nhạo khi.
LẠY Thầy, vái Mẹ từ bi
NHỜ ơn đức rộng xét suy dạy nhờ.
5. ĐỨC lành thương mến trẻ thơ
MẸ vì con phải đợi chờ ngày đêm.
GIÁNG Đàn lời dạy dỗ thêm
LINH nhờ tâm cảm là triêm ngưỡng thầm.
6. GIÚP tài phát huệ ứng tâm
CON đồng con cả biết tầm thì nên.
TÂM phàm còn luyến tuổi tên
TÁNH trần chưa dứt đành quên phận ngưòi.
7. GIỮ gìn đừng có dể ngươi
GÌN câu Tứ đức đổi dời là đây.
ĐỪNG ham các việc phô bày
XAO làng trị đó mỗi ngày mỗi vui.
113
8. CUỐI cùng rồi chịu nổi trôi
NHỜ ai chừng đó rõ đời dại khôn.
ĐỨC oai Trời thưởng phạt đồng,
CẢ trong vạn vật, chỗ tồn, chỗ vong.
9. ƠN ra lời dặn trước phòng
CAO sùng vô lượng Chí công một Trời.
CON nào sớm rõ các lời,
LO hồi tâm đặng nhờ nơi chế trừ.
10. CHẢI bương cho kịp thời kỳ
BƯỚC dò theo Lý đừng lơi, khỏi lầm.
CHO tròn đạo đức diệu thâm
MAU là tự xét chỗ nhằm, chỗ sai.
11. KỊP lo cho buổi sống nầy
KỲ chơn giáo lý mỗi ngày lập công.
XÁC thân bần phú chẳng đồng
PHÀM gian so sánh đục trong chưa rành.
12. DỤC tình gây tội lỗi sanh
VỌNG tâm thì có tranh giành thấp cao
NGU là lừng lẫy hiếp nhau
SI mê lầm tưởng vọng cao hơn người.
13. LẠY cầu sao lại dể ngươi?
THẦY đâu có dạy Ta, Người rẽ chia
BỐ truyền đạo lý hoan bi
ĐỨC minh bố cuộc tường tri các điều.
14. TỪ hòa khuyên bảo dứt kiêu
BI là thương kẻ đánh liều nghịch Thiên
CON nào cũng chẳng dạy riêng
NHỜ ơn Tạo hóa thì kiêng nễ lòng
15. TỪ ngày Thầy chuyển đạo thông
NAY nhìn trong đó rõ công đức dày
114
CON nào biết được là may
QUYẾT cùng không quyết từ nay thấy rành.
16. TRỌN bề tu niệm đừng sanh
THỜ Tâm Nhãn thuận chí thành gọi Chơn
MỘT lòng cho vẹn nghĩa nhơn
NGÔI Trời dành để sáng trưng rạng ngời.
17. ĐỘC tôn là chỉ báu Trời
NHỨT quyền vô mỵ Đạo Trời thưởng răn.
LÀ ai phải biết vậy rằng
TRỜI cao sáng suốt Đạo hoằng Lý khai.
18. NƠI người nhiễm đặng là may
TÂM Thường, Tin, Thiệt gọi bài thuốc linh.
ĐẠO minh chơn giả luận bình
TRÀNG gieo khắp cả chịu nhìn thì nên.
19. RỘNG là bài vở dạy khuyên
MỞ mang dìu dắt ngu hiền dỗ nhau.
MẤY hồi khó nhọc đừng nao
NĂM dài tuổi lớn Đạo cao do hòa.
20. VÌ lòng còn thói bỏ qua
CON đồng thì có nhìn Cha ít nhìn.
ÍT nghe lời dạy cho rành
HỌC thì có học, chỗ hành ít ham.
21. KHÓ bề tại đó phải cam
TẦM ra sợ nhọc xác phàm bỏ trôi
MỐI dây Thầy đã chỉ rồi
MANH tường cội gốc Đạo người phải chăng
22. VẬY thì sợ khó chẳng phăng
NÊN chừng hối ngộ ăn năn muộn màng.
CHỊU đành thân phận dở dang
DỐT không hiểu Lý mình than trách mình.
115
23. ĐÃ rồi một nỗi linh đinh
ĐÀNH vùi thân thể, vóc hình bụi tro.
NAY Thầy thấy vậy chỉ cho
CON nào sớm tỉnh thì lo học hành.
24. TỰ tâm qui hướng kỉnh thành
HỐI là phải nhớ cho rành chỗ sai
HỌC thì cần mẫn đêm ngày
HÀNH công quả vụ dầu trai, gái đồng.
25. TU trì niệm cố phận xong
THÂN người ở thế cuồng ngông ích gì
TRƯỚC là tự giác trí tri
LO bề cư xử chẳng bì với ai
26. PHỦI rồi các việc lầm sai
SẠCH trơn đừng nhiễm trần ai nợ nần.
BỤI bay vì bởi gió trần
TRẦN gian chung chạ phải cần đón ngăn
27. SAU rồi mình đặng rảnh rang
LÀ do tại trước phòng toan dứt lần
SÁNG tâm nhờ chỗ định thần
SUỐT thông điều phải, độ lần kẻ mê.
28. ĐẶNG chung nhau một đề huề
LẦN nương sau trước trọn bề thỉ chung.
THEO về với Bạch Ngọc Cung
CHA lành yêu dấu hạnh phùng là đây
29. NOI truyền lời chánh lẽ hay
GƯƠNG lành kẻ trước sắp bày ngưòi sau.
TIÊN phàm hai bực thấp cao
NỮ nam hình thể hạng nào cũng tu.
30. PHỔ thông dường sáng vẹt mù
ĐÀ sanh Viện trưởng rõ mùi thiệt hư.
116
GIỒI mài lòng dạ khư khư
TRAU lời diệu lý tại ư thiểu thời
31. ĐỨC tài buộc chớ lã lơi
HẠNH cho phải hạnh ra ngưòi nghĩa phương
ÔN hòa cung nhận trạch lương
HÒA theo với Đạo kính nhường trọn vui.
32. XỬ rành sau trước tới lui
XONG rồi đó gọi trải mùi phổ thông
THẤP cho phận gái an lòng
HÈN quê đừng cãi gắng công xét mình.
33. PHẬN mình biết vậy thì linh
GÁI trai đều phải giữ gìn chớ buông.
KHUÊ danh lòng sự muốn trong
MÔN bài trật tự chỗ phòng cản ngăn
34. CHÍ bền đừng thói lố lăng
TÂM thường định xét có ngằn, có phân.
MỘ là lời Đạo phải cân
ĐẠO là bác ái gạn phân Lý - Quyền.
35. CHĂM về mô Phật đường Tiên
NOM phần bọn giả mượn quyền Lý Chơn.
HỌC rồi thấy rõ thiệt hơn
HÀNH không sái Lý là thâu trọn lành./-
ĐƯỢC, bài nầy con gaio lại cho CA đặng nó in ra cho Nữ Đầu sư mỗi ngưòi một
bổn đặng nó coi mà xét đó thấy rành dạy lại cho đàn em, có Thầy chứng giám, còn các
chủ Thánh thất cũng gởi cho một bổn. Tại Tòa thánh phát cho phái Nữ học, buộc phải
trả bài tại Đạo tràng từ ngày ban hành cho tới một tháng nữa; người biết chữ đều phải
trả, trừ ra kẻ dốt thì phải nghe, còn cho riêng phần con một bổn, Thị Mụi một bổn.
- THĂNG -
-----ooOoo-----
117
BÀI 42: ĐỨC CỮU CUNG PHỔ HÓA NƯƠNG NƯƠNG
(Thể Liên Tiên Nữ giáng bút ngày 10 Avril 1932) [Kinh Nhật thời 1932] [TV.1971/124]
1. Trên rực rở hương đèn soi khắp
Dưới thiền Tâm chỉnh lập ban tề
Rở ràng áo võ, xiêm nghê
Năm Cung, năm cỏi đề huề chị em
2. Đồng chầu chực trang nghiêm bửu toạ
Rước Cữu Cung Phổ hoá nương nương
Chúc dưng Thánh thọ Vô cương
Chúc mừng Pháp luật vô lường vô biên
3. Đạo tràng dẩy Cửu Thiên khai hóa
Dựng Tiên Thiên trợ tá Hồng quân
Mở nên Trời-Đất chín từng
Chia làm lục lục, lãnh phần tam tam
4. Trấn Ly cung, Chánh Nam Ngôi vị
Luyện Đoài Kim vật quí Đất-Trời
Ngũ hành biến hoá giúp Đời
Kim Ngân, Châu báu, tuỳ thời hóa sanh
5. Sanh cho đến sợi mành tơ chỉ
Lập cho xong Kinh-Vỉ, Huyền-hoành
Về sau nấu nướng cưởi canh
Nữ Oa thay dạng đổi hình nhiều phen
6. Lần thứ chín Cữu Thiên Huyền Nữ
Diêu Trì Cung Kim tự Sắc phong
Tây Thiên Vương Mẫu đẹp lòng
Giao phần trách nhậm chín cung làm đầu
7. Trẻ khờ dại ham màu Trần tục
118
Mến phàm trần lắm lúc gian nan
Ngày nay chung hiệp một đoàn
Cúi nhờ Thánh Mẫu liệu toan sửa giùm
8. Ước sao được hiệp sum như trước
Cảnh Ngọc kinh chơn bước trở về
Cúi đầu đảnh lễ vưng thề
Xin đam cho đến chốn quê hương nhà
9. Tiên-Phàm đã cách xa dịu vợi
Lòng thơ ngây chứng với chín từng
Cầu xin rộng mở hồng ân
Xót tình kẻ đã ăn năng lỗi lầm
10. Đầu vọng bái Cao thâm chín bệ
Xin đừng cho chậm trể bước đường
Muôn nhờ Đức Cả nương nương
Muôn nhờ lượng Cả xót thương với cùng ./-
-----ooOoo-----
119
BÀI 43: KINH KÍNH MỪNG ĐỨC VIỆN TRƯỞNG PHỔ ĐÀ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 20 tháng 12 Đinh Sửu 1937 [ĐCL32/13] [TV.1971/126]
1. Kính mừng Đại Đức Phổ Đà
Công phu viên mãng khỏi sa luân hồi
Thành công qui vị về Trời
Chực chầu Thánh Mẫu, đời đời an vui
2. Dây oan gươm huệ dứt rồi
Phổ Đà an vị, là nơi dưỡng nhàn
Đường đường một Vị nữ ban
Quỳnh cung tỏ rạng, đài trang Liên Tòa
3. Nhớ lời Mẹ dạy thiết tha
Nghĩa phương đạo đức, thuận hòa chị, em
Ra tay dìu dắt trọn niềm
Vì thương em dại, nổi chìm sông mê
4. Sang hèn – ngu trí chẳng chê
Miễn là biết Đạo, biết nghe lời Thầy
Công lao mười một năm chầy
Giúp Minh Chơn Lý, nên Thầy thưởng phong
5. Phổ Đà tiểu cảnh lập xong
Ngôi thờ Đức Mẹ, Mỹ Phong một tòa
Kính Mừng Đại đức Phổ Đà
Công phu viên mãn, khỏi sa Luân hồi./.
-----ooOoo-----
120
BÀI 44: KINH KÍNH LẠY ĐỨC QUAN ÂM
Cao Thiên Đàn (Rạch giá)
Ngày 4 tháng 7 năm Canh Ngũ 1930 [TV.1971/127]
1. Kiền thiền vọng bái Lạc già
Quan- Âm Phật- Mẫu Phổ -Đà Từ- Bi
Chúng Con mãng tánh tham si
Thất tình, lục dục áng che Nguơn Thần
2. Dốc lòng thoát bến Mê tân
Cầu xin Phật Mẫu ân cần đoái thương
Xin cho Tâm Tánh mở mang
Bổn lai Diện mục hồi quang Di Đà
3. Lòng thành như thiết, như tha
Lòng thành cảm ứng Liên Toà chứng minh
Hữu-Vô, Không-Sắc tánh tình
Trần gian khôn thấu, u minh mờ mờ
4. Xin cho biết bến, biết bờ
Chỉ đường Cực Lạc cậy nhờ Ơn Trên
Cúi xin giúp sức Thiêng liêng
Niết Bàn diệu quả, giác duyên Bồ Đề
5. Trông nhờ thức tỉnh giác mê
Chơn Như Tam Bữu, nào hề có xa
Kiền Thiền Vọng Bái Lạc Già
Quan-Âm Phật-Mẫu Phổ-Đà Từ-Bi./-
-----ooOoo-----
121
BÀI 45: KINH KÍNH MỪNG NGÔI CHỊ THỂ LIÊN
Ngày 24 tháng 2 Tân-Vì 1931 [TV.1971/128]
LÝ Trời ban hữu phước
THÁI luật giữ vô tư
BẠCH hiệp Tam thanh chỉ
Giáng giải niệm Chơn như
1. Kính mừng Ngôi Chị Thể Liên
Chơn như đắc quả mãng viên Niết bàn
Tiền căn danh liệt Tiên ban
Giáng phàm công-quả hoàn toàn bổn lai
2. Nhứt tâm tín ngưỡng Cao Đài
Ghe phen sấm sét chẳng lay, chẳng sờn
Liễu phàm Thầy lại ban ơn
Độ cho người thấy noi gương tu hành
3. Diêu Cung hôm sớm tập tành
Bái cầu Thánh Mẫu Chơn kinh sám truyền
Công đồng Thần Phật Thánh Tiên
Cầu phong Bồ Tát Thể Liên đạo tràng
4. Ngôi Chị vì mến Kiên giang
Hạ mình chầu chịu bái ban Phước Thần
Từ bi Ngọc sắc Thầy phân
Kiên giang Vỉnh trấn bủa nhân đức Thầy
5. Trời trong gió tạnh hây hây
Xuân Thu cảm ứng đêm ngày Linh thiêng
Kính mừng Ngôi Chị Thể Liên
Chơn như đắc quả mãng viên Niết bàn. ./-
-----ooOoo-----
122
BÀI 46: GIẢI NGHĨA HAI CHỮ BẦN ĐẠO
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 26 tháng 6 Annam 1943 (3 giờ chiều) [TV.1971/131]
NHIỀU, Con nghe MẸ giải bày cho con rõ: Bởi vì trong hồi mới Khai Đạo tại
Tây Ninh thì nhiều người hay xưng mình là bần Đạo, đặng nương theo đó mà làm cho
người mê theo, làm cho Đạo mang tiếng, chớ kỳ trung chưa biết bần đạo là sao, nên
Thầy mới cho thi, Bần Đạo như các vị Đại Tiên là tròi trọi mình không là có tiếng nói
chớ mình cũng không có tròi trọi, nghĩa là không có ưa chuộng giàu sang chi cả, đó
thiệt là bần, sau Thầy có giải rành :
“Bần là chẳng luyến giàu sang
Đạo thông kim – cổ hạng nào khó qua.”
Trong đó toả ra một cách Bần Đạo thanh nhàn là dụng nhành sen trắng cho tinh
bạch, nhờ đó đở chưn, cậy đám mây xanh kịt, gọi đó là ô nhà, mỗi khi muốn đến một
chỗ nào thì nhờ có hạc trắng đặng đở gót bay đi, mỗi khi vâng lịnh Trời giáng cơ, lấy
lời Đạo-đức bố hoá đặng cho người biết mà Tu, gây thành mối Đạo. Sau dùng ân huệ
ban thêm cho các đồ đệ là nguời học Đạo nhiều năm, tấm thân sáng suốt, dựng nền
Nhơn từ đó có lần, thì chừng ấy Trời có lẻ cho mỗi người thay được cái xác phàm, đổi
ra làm xác Thánh, Chư Tiên xuống ở trần đặng chung với người mà lập ra Đời Thượng
cổ, đó là lời Mẹ dùng Lý Thiệt mà giải rành cho con, con ráng học, ráng tìm, ngày lâu
sẽ thấy./-
-----ooOoo-----
123
BÀI 47: GIẢI NGHĨA HÃY XEM THẦN THÁNH MUÔN VÀN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 26 tháng 12 Annam 1938 (7 giờ tối) [TV.1971/132]
Giải nghĩa: Bài Phát Minh, 16 câu, Thiên Đạo Chơn Truyền quyển 1 trang 85
“Hãy xem Thần-Thánh muôn ngàn,
Đều người nghĩa khí Trung Cang mới thành.
Gái mà tiết hạnh trung trinh
Gái mà tiết hạnh Thiên-Đình bia tên.
Cung Diêu, cung Quế, cung Sen,
Hàng luôn Tiên-Nữ, dãy liền Tiên Nga,
Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,
Thủy tinh bao phủ, sáng loà như gương.
Người đời yêu chuộng Thủy Xoàn,
Nào hay đồ vụn đài trang liên toà,
Người đời yêu chuộng vinh hoa.
Nào hay bị cái giây ma khớp vàm.
Chớ rằng tại ở cõi phàm,
Phải lo phu phỉ cho kham với đời,
Cỏi phàm mà thấu Đạo Trời,
Kìa trang Tiên-Thánh cũng người phàm gian.”
DƠN, Con nghe MẸ dạ :
1. Con phải ráng noi gương Thần Thánh
Cả muôn ngàn tại Chánh mà nên.
Trung Cang, Nghĩa Khí cho bền,
Phần con Tiết Liệt ráng gìn thì xong.
2. Chỗ Tiết Liệt phải phòng có Hạnh,
Hạnh Khiêm Từ, Đức thạnh hoà hai,
124
Liệt là phận gái danh tài,
Hạnh nhơn, Từ hậu, Thiên đài tạc ghi.
3. Cung DIÊU QUẾ, QUỲNH SEN cùng BÍCH,
Trong năm cung vẻ lịch vô cùng,
Rồng chầu Phụng múa chuông rung,
Luông Đình Tiên cảnh Đài cùng Nữ ban.
4. Rèm châu tỏ vẻ vang vách ngọc,
Cột như ngà, ngà bọc thuỷ tinh,
Sáng trưng loà gọi Luông Đình,
Tỷ như gương sạch rọi hình thế gian.
5. Người đời mãng đa mang vật chất
Chuộng thuỷ xoàn làm mất Chơn Linh,
Đua chen giành giựt phỉ tình,
Chơn Linh là dụng Ngọc Đình lại quên.
6. Người ưa chuộng ăn trên ngồi trước,
Tưởng là vinh, thất đức không dè,
Hiệp hùng kết đảng đua phe,
Mà quên Đất chở Trời che cho đành.
7. Dây ma buộc bao quanh rằng rịt,
Khớp miệng vàm lại thích lại vui,
Bởi chưng tham luyến ngọt bùi,
Mùi ngon mật béo nhử ruồi là đây.
8. Chớ rằng tại chỗ nầy phàm tục,
Phải ở theo hui hút qua ngày,
Đã đành tính vậy là hay,
Song đều phải xét, vạy ngay cho rành.
9. Cõi phàm tục thân đành ở tạm,
Còn Lương Tâm ứng cảm với Trời,
Kìa trang Tiên Thánh cũng Người,
Phàm gian nhờ rõ Đạo Trời thì nên.
125
10. Thân phàm xác thịt tuổi tên,
Xét soi cho tột việc nên hư rành,
Trước lo bổn phận giữ gìn,
Đừng mê, đừng vọng, dục tình đừng ham.
11. Lo sao tránh khỏi khớp vàm,
Đó là thong thả, tuy Phàm tợ Tiên,
Thấy con lòng trọn khẩn nguyền,
Cho nên Mẹ phải dạy truyền cho con.
12. Nữ sanh Tiết hạnh liệt tròn,
Dầu cho bóng khuất tên còn tạc ghi,
Từ nầy trẻ chớ nghị nghi,
Nghe theo làm đặng Thầy ghi công đồng.
13. Bỏ điều màng tục thân phàm,
Thì lo trau sửa vẹn trong, vẻ ngoài,
Dạy cho con rõ một bài,
Ráng đem vào dạ nhớ hoài nghe con ./.
-----ooOoo-----
126
BÀI 48: LỜI KHUYÊN CỦA ĐỖ THỊ HÒA
Chào Chư Thiên mạng, chào Hiền huynh, chào hết quí Chị. Đức Diêu Trì dặn em
nói lại với quí Chị, ráng mà lập công, bồi quả cho cao. Quí Chị ôi !! Quí Chị có phước
lắm, nên mới được Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy bảo. Vậy quí Chị hãy ráng lo Tu, rồi
sau em sẽ có dịp gần gủi chuyện vãn về Đạo đức với quí Chị. Luôn luôn quí Chị, lẽ ra
khi biết Đời nầy là Đời Mạt kiếp, nên Thầy mới mở Đạo cứu rỗi sanh linh trong vòng
nước lửa. Em xin quí Chị khá an lòng ngày đêm tụng niệm, trau giồi cho có đầy đủ âm
chất mới mong đi đến Hội Long hoa mà hưởng phước nhàn.
Chào hiền huynh, chào chư Đạo-hữu. chào quí Chị./-
Xin Kiếu.
- ĐỖ THỊ HOÀ -
-----ooOoo-----
127
BÀI 49: ĐỜI NHIỀU NỖI GAY GO HIỂM TRỞ
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ [TV.1971/135]
Cuộc đời sanh biến Đạo Thầy khai
Dìu dắt nhơn sanh buổi lạc loài
Tà quái đeo đai theo cám dổ
An lòng Thiện niệm chữ CAO ĐÀI.
1. Đời lắm nỗi gay go hiểm trở
Khuyên các con khá sợ kiếp trần
Thiện tâm sau đặng hưởng phần
Thiên ân, Thánh lộc ở gần các con.
2. Ham danh lợi hao mòn thân thể
Khó tránh xa khỏi bể trầm luân
Việc Đời khóc tủi, vui mừng
Nào ai thức tỉnh, hãy dừng, dừng chơn
3. Lóng tai nghe khúc đờn khoan nhặc
Gìn tất lòng bịa đặt dầu ai
Giữ lòng chớ đổi đừng phai
Chị em hội hiệp gặp ngày Thuấn Nghiêu
4. Tánh giận hờn, lòng kiêu bỏ hết
Khá tưởng Thầy giữ nết Từ bi
Mấy lời dặn bảo khá ghi
Rèn lòng tu niệm phước ghi công bồi
5. Cuộc trần thế, than ôi quá ngán
Chẳng lo Tu, chẳng ráng làm lành
Ơn Cha, nghĩa Mẹ sanh thành
Dưỡng nuôi, bồng ẳm, sao đành phụ vong?
128
6. Con ôi! biển khổ dòng trường đoạn
Gần đây rồi, hoạn nạn ách tai
Cuộc trần vay trả, trả vay
Hết cơn điên đảo, tới ngày thảnh thơi
7. Các Con rõ có Trời trước mắt
Mạt kiếp xây Nam Bắc chia lìa
Đạo Thầy giữ vẹn đừng chia
Dầu cho bá tánh tiếng bia đời đời./-
-----ooOoo-----
129
BÀI 50: ĐỜI LẮM NỖI TRANH ĐUA DỐI TRÁ
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU [TV.1971/136]
Các con nghe MẸ dạy:
1. Đời lắm nỗi tranh đua dối trá
Phận Nữ nhi khuyên khá nghe lời
Giữ lòng chẳng khá đổi dời
Khi lòng vốn thiệt khi Trời Phật Tiên.
2. Tu sao đặng ba giềng, bốn mối
Ấy là tu biết cội, biết nguồn
Tu hành mựa chớ thối buồn
Tu như nước nọ ở nguồn xuống khe.
3. Tu Chị nói, Em nghe mới đáng
Tu sao đừng chia đảng sang hèn
Mặc ai đổi trắng, thay đen
Mặc người đừng có đua chen sang hèn
4. Mặc ai ở trắng đen, tà vạy
Mặc ai dầu trái quấy lương tâm
Ráng lo thanh tịnh mà tầm
Quan Âm ngày trước nát bầm lá gan.
5. Vì cuộc thế mơ màng với thế
Gẫm rũi may bóng xế Trời chiều
Trăm năm nhấp nhoáng bóng thiều
Tu sao cho đặng qua kiều Ô giang
6. Những phú quí bạc vàng vật chất
Ham rồi sau lại mất tinh thần
130
Làm người ở tạm cỏi trần
Ham điều giàu có, ham gần lao đao
7. Vì phận gái tơ đào liễu yếu
Hết hoa Xuân ai biểu hoa tàn
Phù vân là cuộc mơ màng
Cũng như trẻ nhỏ ra đàng giởn chơi
8. Con muốn rõ cỏi Trời cao thấp
Khá dặn lòng mới gặp cảnh Tiên
Kinh bài ôn cố cần siêng
Ráng lo tụng niệm, ưu phiền bỏ đi.
9. Lời dặn bảo khá ghi, khá nhớ
Chớ ham vui sớm nở hoa tàn
Cảnh Tiên đáng mấy ngàn vàng
Lời than đỗ lụy mấy hàng với con./-
- THĂNG -
-----ooOoo-----
131
BÀI 51: TRỜI CHYỂN ĐẠO NAM PHƯƠNG TRUNG GIÁI
DIÊU-TRÌ THÁNH-MẪU [TV.1971/138]
Chào Chư Thiên mạng. Các Con nghe lời MẸ dạy. Các Con ôi!! Phận gái là tội
nhiều hơn cả, phải lo tu.
NGHE KỆ :
VÔ vi cảnh cũ khỏi ưu phiền
CỰC lạc biết rồi mới có duyên
TỪ thiện dặn lòng câu bác ái
TÔN ti em chị bạn thuyền quyên.
1. Trời chuyển Đạo Nam phương Trung giái
Khuyên các con phận gái lo tu
Cực lòng một lúc công phu
Ngày sau mới đặng ngàn thu hưởng nhàn
2. Ham danh-lợi thêm ràng thêm buộc
Giọng khéo khôn trau chuốt gạt lường
Người trong một Đạo chẳng thương
Nghĩa tình em chị dứt đường tới lui.
3. Dòm thấy trẻ ngậm ngùi thêm tủi
Miệng líu lo theo buổi văn minh
Mãng vui quên sự Tu hành
Mấy lời Thánh huấn dạ đành lấp ngơ
4. Đò Tạo hoá không chờ kẻ dối
Bóng thiều quang giục hối nhơn sanh
Ngày qua tháng lại đã đành
Buổi già nhớ lại tóc xanh mấy hồi.
132
5. Thảm phận gái hoa trôi nước chảy
Ráng lo Tu trở lại quê xưa
Líu lo son phấn xin chừa
Ai đành đi đến chợ trưa mà ngồi.
6. Đừng vụn tưởng được hồi vinh hiển
Con ngó coi Trời chuyển mây giăng
Trắng, đen một lúc dữ dằn
Gió hoà thổi lại, liền tan hết rồi.
7. Cuộc trần thế thương ôi, quá ngán
Người trăm năm nhấp nhoáng qua liền
Dữ hung thấy trả nhãn tiền
Cảnh người dời đổi, cảnh Tiên còn hoài.
8. Người mắc tội xuống Đài Diêm Đế
Bị khảo tra khóc kể vang tai
Lời khuyên nói vắn biết dài
Giã con ở lại, Thiên đài Mẹ lui./-
-----ooOoo-----
133
BÀI 52: LÒNG THÀNH KỈNH KHẨN CẦU VAN VÁI
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU [TV.1971/139]
1. Lòng thành kỉnh khẩn cầu van vái
Biết các con phận gái chưa an
Thành tâm Mẹ phải giáng Đàn
Canh khuya dạy bảo cho toàn thỉ chung.
2. Vì thân gái khốn cùng vô phước
Mắc tội xưa chẳng được thảnh thơi
Xuống trần làm máy luân hồi
Ăn cay, uống đắng trả rồi nợ duyên.
3. Mấy khi gặp Chơn truyền xuống thế
Mẹ mới xin Ngọc đế sắc truyền
Xuống trần độ kẻ tâm duyên
Thiên đường trở lại, thoát miền gai chông.
4. Nhìn thấy trẻ trong vòng lao lý
Muốn các con một ý, một lòng
Đừng ham mua bưởi, bán bòng
Nghĩa tình em chị ra lòng ghen tương.
5. Tình chồng vợ cang thường gây mối
Phải mến yêu sớm tối có nhau
Đừng mong cậy chữ sang giàu
Khuyên đừng so sánh vàng thau phụ tình.
6. Sách có chữ “Phu vinh, Thê ấm”
Lại có câu “Tu thắng, Ngô gia”
Xữ sao trên thuận, dưới hoà
Xướng tùy trọn Đạo gần xa tỏ tường
134
7. Xa những kẻ buôn hương, bán phấn
Ỷ chồng thương, xô lấn dọc ngang
Giận chồng sanh thói lăng loàn
Thay đen, đổi trắng làm đàng mây mưa
8. Noi Tiết phụ đời xưa Thanh sử
Sách có câu “Hiền nữ kỉnh phu”
Gái nên tiếng vẹn ngàn thu
Dữ hung sau bị mưa mù sương sa
9. Nhìn thấy trẻ chan hoà giọt lệ
Bởi quá thương con trẻ chẳng lo
Chẳng lo sợ chẳng gặp đò
Ráng lần theo đặng khỏi lò dương gian.
10. Chị với em hiệp đàng chung bước
Yêu mến nhau cho được thâm chuyên
Chị đau em luống than phiền
Em dầu lao khổ, Chị liền xốn xang.
11. Người cách mặt đượm tràn nước mắt
Vắng chị em khá nhắc, khá thương
Nương nhau trong cảnh đoạn trường
Chừng nào đến chốn Thiên đường mới yên.
12. Cuộc thương hải, tang điền thấy khổ
Khắp bốn phương nhiều chỗ hoạ tai
Thần Tiên xem thấy châu mày
Đói cơm ai giúp, thi hài ai chôn ?
13. Người vô phước linh hồn đâu được
Chốn Tây phương hưỡng phước Thiên thai
Con ôi !! giữ dạ nhớ hoài
Giã con ở lại Thiên đài Mẹ lui.
135
KỆ :
Giàu sang với khó cũng con người
Trẻ thấy già nguy lại dể-duôi
Đầu bạc, gối dùn, thân yếu đuối
Tóc xanh chơn thẳng lại vui cười.
Một vườn Xuân đẹp bao nhiêu kỷ ?
Ba lối Thu về có mấy mươi ?
Ai biết tuổi Trời sao rõ đặng
Nhớ câu kỉnh lão mới nên người./-
-----ooOoo-----
136
BÀI 53: SỚ THỂ LIÊN KHẨN CẦU DIÊU ĐIỆN
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU [TV.1971/142]
VÔ vi Đại Đạo chí cao sùng
CỰC lạc an nhàn kiết bất hung
TỪ thiện Mẫu hoàng tâm ái tử
TÔN Hồng Lạc bổn, đức Tam tùng.
THI BÀI:
1. Sớ Thể Liên khẩn cầu Diêu Điện
Xin Mẹ mau giá kiến Kiên giang
Thành tâm Mẹ giáng trung đàn
Dạy con cho biết Chánh đàng lần theo.
2. Thân phận gái như bèo với nước
Trôi lênh đênh bến nước mười hai
Nữ nhi là phận cành mai
Biết ai là kẻ Anh tài gởi thân.
3. Chịu cay đắng muôn phần cực nhọc
Luống gian truân mai khóc, chiều than
Mong manh nhành liễu cành tàn
Khuê môn bất xuất, nương màng muội mê
4. Phần Tứ đức, lo bề nữ hạnh
Vẹn Tam tùng, cho rạng nữ công
Thảm thương phận gái má hồng
Văn minh tràn dẫy đèo bồng trêu ngươi.
5. Giọng bướm ong hại người chí liệt
Tiếng ngọt ngào hào kiệt lụy than
Mà mang cảnh khổ lao trần
Nay nghe Mẹ dạy tỉnh lần muội si.
137
6. Một, khuyên con Từ bi, Bác ái
Hai, khuyên lo nhơn nghĩa ân cần
Đường xa siêng bước phải gần
Nhìn nhau thương mến đở chân thuận hoà
7. Ba, khuyên con thói tà nên dứt
Bốn, Tam-tùng, Tứ đức gìn trau
Nhỏ nhen tiết liệt tơ đào
Gương trinh Triệu Ẩu son màu nào phai
8. Năm, khuyên con giồi mài tâm tánh
Sáu, khuyên ngày giờ rãnh kệ kinh
Kìa gương Diệu Thiện trung trinh
Muôn năm còn tạc gái xinh trong đời.
9. Bảy, khuyên con trọng lời Thánh huấn
Tám, khuyên đừng hờ hửng nết na
Lời ăn tiếng nói dịu hoà
Đứng đi khoan huợt, vào ra khiêm nhường.
10. Chín, khuyên trẻ lòng thương em chị
Mười, khuyên đừng ích kỷ hại nhau
Cũng là giòng giống đồng bào
Làm điều từ thiện giồi trau tánh lành.
11. Lời Mẹ dạy đành rành sau trước
Lời Mẹ khuyên ao ước các con
TAM TÙNG, TỨ ĐỨC vẹn tròn
Muôn năm gái Việt tiếng còn rõ xinh
12. Các trẻ ráng giữ gìn phong hoá
Chớ buông lời theo cả mộng trường
Lời vàng Mẹ đã dạy tường
Giã con ở lại Tây phương Mẹ hồi.
Các con nữ phái ráng lo Tu và trau giồi đức hạnh, Mẹ sẽ dạy thêm, ráng học bài
cho thuộc./-
138
BÀI 54: SON CÙNG PHẤN PHẢI NÀO LÀ SẠCH
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 26 tháng 12 Annam 1938 (6 giờ sáng) [TV.1971/144]
“Đừng vụng tưởng phấn son là sạch,
Son phấn làm Chơn Phách phải lu.
Mấy ai rọi kiếng trăng thu?
Mấy ai ngồi kiệu lấy dù che thân?
Đừng vụng tưởng "Cơ Bần" là nhục,
Cơ Bần là chánh gốc mỗi con,
Lúc sanh đỏ lói một hòn,
Lúc về có kể VẬT CHÔN những gì?”
(Kinh Tây Vương vé 109, 110)
Nầy các Con nghe MẸ dạy :
1. Son cùng phấn phải nào là sạch
Muốn sạch thì tìm cách học hành
Sạch trong Đạo lý cho rành
Sạch ngoài là học phải gìn cho nghiêm.
2. Tô son phấn đắm chìm bể ái
Phách hồn lu là tại Tâm tà
Tại vì không chịu xét ra
Ham mê rồi lại gọi là chuyện vui.
3. Mấy ai rõ được mùi Chơn lý
Rọi bóng trăng suy nghĩ lại cùng
Một màu ánh rạng tỏ chung
Nhờ không nhơ bợn cặn bùn mới cao.
139
4. Mấy ai đặng sang giàu biết xét
Ngồi kiệu cao còn tiếc che dù
Trên màng ngoài trướng ngao du
Lấy trong còn tiếc che dù ích chi
5. Con ôi !! cuộc thạnh suy biến đổi
Chỗ cơ bần là hội ban sơ
Cơ bần nào phải bợn nhơ
Mỗi ai nhớ lại lúc sơ đều nghèo.
6. Mang hình xác hồn theo nương níu
Do Một hồn là khiếu huyền minh
Vải bô vật để che mình
Lớn khôn canh cãi tại tình dục sanh.
7. Cuộc tham luyến tranh giành no ấm
Mà nở quên ai sắm, ai làm
Nặng nề vì bởi tại tham
Bày ra giết lẫn nữ nam không nhường.
8. Vì sợ nhọc tìm đường tranh đấu
Tại nơi lòng không thấu Luật công
Xét ra cho tột, cho đồng
Mỗi người đều phải trọn lòng thương nhau.
9. Để lời dạy trẻ thấp cao
Chớ cho là nhục mượn màu cầu vinh
Lúc sanh, lúc tử, lúc bình
Trong ba đều cũng dụng hình thể đây.
10. Lúc sanh đâu có chỗ vầy
Một thân tròi trọi cậy tài Mẹ Cha
Vóc hình, thân thể, tóc da
Đủ y, đủ thực, cửa nhà có nơi.
11. Đến chừng mãn kiếp dứt hơi
Đó là lúc tử hồn rời xác than
140
Nhục vinh rồi cũng cơ bần
Đi sao, về vậy, của trần là riêng.
12. Cũng vì tại chỗ nhơn duyên
Hoặc là công quả tiền khiên thưởng đền.
Giáng trần lo tạo điều nên
Chớ mê phàm tục mà quên tội tình.
13. Ai mà biết sợ, biết tin
Gắng trau giồi luyện nhục vinh không màng.
Miễn là kiếp sống đặng an
Đến ngày bỏ xác đừng mang tiếng đời
14. Vật chôn hình khuất bóng rồi
Tiếng thơm người nhắc đặng đời làm theo.
Đó là lạc thú tiêu diêu
Đó là tránh đặng nắng chiều, mưa mai.
15. Nếu mê thế tục miệt mài
Nhục vinh, vinh nhục, đoạ đày trần lao.
Xác lui, hình tới ra vào
Trả vay là vậy có nào đâu xa.
16. Tranh đua giành giựt cửa nhà
Khít khao giữ chặt gọi là tội chung.
Mẹ thương trẻ dại vô cùng
Mẫn mê chi lắm, nhọc lòng Mẹ than.
Từ nầy con muốn đặng an
Nhớ theo lời Mẹ bảo toàn là hay./-
-----ooOoo-----
141
BÀI 55: NAY CON BIẾT ĐẠO PHẢI VẦY
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 19 tháng 4 Annam 1940 (2 giờ chiều) [TV.1971/146]
NHÂM, Con nghe MẸ dạy :
1. Nay con biết Đạo phải vầy
Định tâm thì phải nhớ Thầy tại tâm
Đó là khen trẻ nói nhằm
Nói nhằm lời nói, phận làm cho y.
2. Định là lúc đứng, giờ đi
Nói năng đều phải trước khi định rồi.
Đó là Chánh Định con ôi !
Mỗi điều cho Chánh, Chánh rồi huệ Tâm.
3. Phận con cứ vậy lo làm
Đừng sai, đừng sót thói phàm khỏi chen.
Định tâm là chẳng phải hèn
Từ xưa Tiên Phật phỉ nguyền tại đây.
4. Cho nên có để ba bài
GIÁI cùng ĐỊNH HUỆ trọn tài đức trong.
Chớ ai cũng nói tâm lòng
Là Tâm vô tận ngàn năm vẫn còn.
5. Kìa kìa cảnh tượng nước non
Cũng nhờ Tâm quyết định xong mới thành
Định tâm nói vậy khó hành
Vì nhơn tà niệm giựt giành, cản ngăn.
6. Muốn vừa gặp định cho an
Thì đâu xảy đến chuyện bàn cãi canh.
142
Đó là tà niệm biến sanh
Tự trong lòng tục sẳn dành rủ nhau
7. Hẹn hò lời trước, tiếng sau
Làm cho mất Định, rồi hao hại Thần
Nói đây con ráng ngó chừng
Phần đông em chị ngại ngùng là đây.
8. Định tâm thì phải định hoài
Phải nào vào đó ra ngoài rồi thôi
Giải cho con rõ vậy rồi
Rồi con phải nhắc mỗi lời chị em./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao cho HƯƠNG NHÂM nó coi, rồi nó phải đem trình cho
CA đặng ấn chứng cho nó, rồi nó đọc tại Đạo tràng cho chị em nó biết.
-----ooOoo-----
143
BÀI 56: CHỪNG CÁC TRẺ BIẾT VUI MÙI ĐẠO
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày // tháng // Annam 1939 (// giờ) [TV.1971/148]
GIẢI NGHĨA BÀI TRONG ĐCL 34 TRANG 42 VÉ 1
“CHỪNG CÁC TRẺ BIẾT VUI MÙI ĐẠO”.
Nhâm, Con nghe Mẹ dạy:
1. Chừng nào các trẻ biết vui
Là vui Đạo đức nào xuôi thuận thời
Đến chừng đó mới rõ Trời
Trời khai Chơn lý sửa đời bạo hung
2. Biết vui về Đạo chẳng cùng
Vui là sửa tập dạy chung cho hiền.
Bạo tàng nào rõ phước duyên
Lòng nhơn khuyên mộ diệu truyền giúp trong.
3. Bạo tàng vì Lý chẳng thông
Gầy ra cho oán vì không kể người.
Nhơn là ĐẠO ĐỨC tốt tươi
Nhờ tươi tốt trọn sửa người tự tân
4. Nhơn tâm hoà đặng tập lần
Đó là vô trị thắng phần cự đương
Lý Chơn đường thẳng một đường
Đừng sa đừng ngả nhơn thường thiệt nhơn.
5. Tại vì các trẻ chưa tường
Rằng Nhơn, rằng Đạo hai đường chẳng minh.
Thầy khêu đuốc huệ dễ nhìn
144
Chỉ sơ cho vậy, xét mình độ ra.
6. Lần lần ngày lụn tháng qua
Tập rèn cho mới đó là tự sanh.
Tinh thần huệ triển phát sanh
Làm cho được vậy trọn lành phải nên.
7. Thầy thương tuyển chọn tuổi tên
Trọn lành, trọn phải chí bền thưởng ban
Quảng thông cơ hội bế tàn
ĐẠI THIÊN THẾ GIÁI đều an biến thường.
8. Thông truyền diệu lý âm dương
Đó là điển huệ rọi đường Thiên nhiên.
Thì người phải có hạo nhiên
Thì nhiên hạo tánh cho hiền cho nên.
9. Mới bền hưởng đặng Ơn Trên
Đó là Thầy sẳn chọn tên tuổi nầy
Mỗi con chừng biết được vầy
Đó là vui vẻ, mỗi ngày mỗi sanh./-
ĐƯỢC, Bài nầy Con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo; Còn một
bổn thì giao lại cho Thiên sư, đặng trả lai cho Hương Nhâm ở Lương Hoà Lạc./-
-----ooOoo-----
145
BÀI 57: NGHE MẸ DẠY GHÉT GANH KHÁ LÁNH
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU [TV.1971/150]
MẸ mừng các con Nữ phái, các con định tâm nghe:
- TRƯỜNG THIÊN -
DIÊU Cung Ngọc hạc chầu vụt ré
TRÌ chí chơn, lặng lẻ giáng lai
KIM đơn cho kẻ chí tài
MẪU thân y nguyện trần ai nhiệt thành.
1. Nghe Mẹ dạy, ghét ganh khá lánh
Vì loạn ly phong cảnh chẳng bình
Trau giồi đức hạnh cho linh
Độ cùng bậu bạn linh đinh giữa vời.
2. Các Con có đôi lời thành nguyện
Đời cùn rồi phong chuyển thủy xây
Bịnh con đau đớn bấy chầy
Còn mê vật chất bịnh lây khổ mình.
3. Khuyên con bỏ âm thinh tà mỵ
Giữ Tam kỳ thì quỉ lánh xa
Nghe lời Mẹ dạy diệt tà
Tuân theo Chơn lý Đạo nhà bớ con !!
4. Trẻ trần tục, da mòn thịt nát
Mẹ Thiên cung, dạ nát gan đau
Ca sa đỗi bỏ cẩm bào
Vải bô con tạm liệt hào nữ nhi
5. Trẻ ráng nghiệm, ráng suy cho cạn
Dứt trần gian tai nạn phải tiêu
146
Bịnh kia sẽ hết trưa chiều
Vào ra thong thả lại nhiều ơn cho.
6. Phần nhi nữ cam go nhiều cảnh
Phận đàn bà trong sạch chẳng yên
Khá tua mau nắm mối giềng
Kíp cùng nam tử xuống thuyền dời chơn
7. Con khá nhớ giọng đờn khi trước
Giọng phù trầm lệ ướt dầm dề
Tu sao cho khỏi biển mê
Trở về Tiên cảnh là quê thanh nhàn.
8. Mau bước tới cái thang Chơn lý
Diệt Tâm tà, mỹ vị chớ ham
Lâm chung Tiên cảnh luận bàn
Ngàn thu thong thả chớ màng trần ai
THI :
Trần ai là chỗ nạn đeo sầu
Dứt hết dây oan thoát bể dâu
Tiên cảnh quê xưa mau bớ trẻ !!
Vị ngôi kề đặng khỏi cơ cầu./-
-----ooOoo-----
147
BÀI 58: CON ĐƯỢC RÕ TRỜI SANH CHÁNH KỶ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 22 tháng 2 Annam 1940 (6 giờ sáng) [TV.1971/151]
NHÂM, Con nghe MẸ dạy :
1. Con được rõ Trời sanh Chánh kỷ
Là Lý trung tự tỷ lại mình
Đó là do thiệt mà linh
Linh hòa tâm cảm thì mình phát sanh.
2. Khuyên con nhớ vậy cho rành
Trời sanh chánh kỷ thì mình phải do
Chánh truyền lời Đạo đức to
To là cả lớn, khó đo, khó lường.
3. Nên kêu chánh chánh, đường đường
Ít ai làm đặng mới thường ít hay
Đó là chánh kỷ hây hây
Ngoài trong không lộn không sai, không lầm.
4. Nhứt thành thượng đạt chí tâm
Đó là chánh kỷ diệu thâm vô cùng
Dạy rành con rõ độ chung
Trong đoàn em chị ai dùng tự ai
5. Nói năng nghĩa lý rộng dài
Gom vào chánh kỷ một bài cho xong
Làm người muốn rõ đục trong
Trước mình phải Chánh, phải phòng cho nghiêm.
148
6. Hằng ngày cứ vậy làm thêm
Đừng quên chữ Chánh gọi kềm thúc Tâm
Khéo khôn nầy tại nghe nhằm
Nghe nhằm dầu khó, khó làm ra khôn
7. Đó là chẳng dạ bôn chon
Cứ do mực Chánh mà thông hiểu rành
Gọi rằng chỗ đó Trời sanh
Là không ai ép, ai giành đặng ai.
8. Tự do Tâm Tánh giồi mài
Hết hư rồi thiệt mỗi ngày mỗi sanh
Cho rành phận gái hậu sanh
Hậu sanh là thể, Đạo thành là Tu.
9. Hễ rành được đó hết ngu
Là ngu chẳng xét sự Tu cho nhằm.
Xét rành Chánh kỷ ứng Tâm
Thể Tâm ứng nghiệm rõ lầm, rõ nên.
10. Nhớ câu Chánh kỷ cho bền
Cho bền cho vững gọi nền hoá nhơn
Chẳng cần thiệp thuỷ, đăng sơn
Hễ an Chánh Đạo thì Nhơn hoá Mầu.
11. Các điều đó chẳng ở đâu
Gần xa thì cũng một câu Chánh nầy.
Dạy rành đó vậy con hay
Hay làm cho đúng, Mẹ bày chỉ thêm./-
-----ooOoo-----
149
BÀI 59: GIẢI NGHĨA CHỚ RẰNG TẠI Ở CỎI PHÀM
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 13 tháng 9 Annam 1938 (11 giờ trưa) [TV.1971/153]
ĐƯỢC, Con phải sửa bài học HƯƠNG NHÂM đi, đặng trả lại cho nó coi, nó
học. Con sửa đi, có Thầy giúp cho.
Đầu bài học như vầy :
“Chớ rằng ở tại cỏi phàm
Phải lo phu phỉ cho kham với Đời
Cỏi phàm mà thấu Đạo Trời,
Kìa trang Tiên-Thánh cũng người phàm gian.
Giàu sang sánh với cơ hàn,
Giàu sang còn dễ bước đàng Chơn Tu,
Đố ai phân biệt trí ngu,
Mây bao bịt phủ, sương mù mịt giăng.
Người ngu mối đạo biết phăng,
Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi.
Thấy vầy nên chị ngùi ngùi.
Thương em chị phải tới lui giảng bày.”
Sửa bài giải nghĩa :
Câu 1: Chớ rằng ở cỏi phàm mê tục
Mà xuôi theo tình dục cho vừa
Câu 2: Phải dò trong đục, nhặc thưa
Lo sao cho phỉ cho vừa phàm phu
Câu 3: Cỏi thế tục lộng dù là quí
Phải tìm thông ĐẠO LÝ cho rành
150
Câu 4: Kìa như tượng vẽ để dành
Phàm phu đắc quả tại thành Đạo Tâm.
Câu 5 : Giàu sang cũng phải tầm chỗ phải
Với kẻ nghèo đối đãi cho hoà
Câu 6 : Đừng lòng chia rẻ Người, Ta
Giàu sang được vậy gọi là CHƠN TU
Câu 7 : Muốn cho rõ trí, ngu phân biệt
Thì mình lo chỗ thiệt cho nhằm
Câu 8 : Màng Đời che khuất Đạo Tâm
Tại vầy người trí chịu lầm khó phăng.
Câu 9 : Người ngu biết lo phăng về Đạo
Là giã ngu theo Đạo tránh Đời
Câu 10: Khôn lanh cả tiếng lấp lời
Chừng vương tới khổ lạy Trời ích chi.
Câu 11 : Lòng Chị thấy vậy thì không nỡ
Thương cho đời lầm lũi không hay
Câu 12 : Các em còn vướng đoạn nầy
Động lòng nên chị tỏ bày em hay.
ĐƯỢC, Bài nầy Con biểu CA nó in ra cho Con một bổn; Còn một bổn thì cho
HƯƠNG NHÂM, dặn nó phải ráng mà học, đặng dạy lại chị em nó./-
-----ooOoo-----
151
BÀI 60: GIẢI NGHĨA ĐỪNG MUÔN VIỆC CỨ TRỜI MÀ ĐỔ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 13 tháng 8 Annam 1939 (12 giờ trưa) [TV.1971/155]
Được, Con sửa bài học cho HƯƠNG NHÂM đi, đặng trả lại cho nó coi nó học.
Con sửa đi có Thầy dạy cho.
Đầu bài học Thầy cho như vầy :
“Đừng muôn việc cứ Trời mà đổ
Tạo hóa nhi hỉ nộ không chừng
Nghe Trời thì được vui mừng
Nghịch Trời, Trời phải dậy bừng sấm oai.
Mãy lông Trời chẳng nói sai
Đừng ai nói giỏi, khoe hay mà lầm”
(Sửa bài giải nghĩa, lấy một chữ ra làm một câu)
1. ĐỪNG ai lấy nể chỉ Trời
MUÔN điều dữ tại có người dậm thêm.
VIỆC chi trước phải thúc kềm
CỨ do đường Đạo mõng mềm thiệt hơn
2. TRỜI nào dạy việc bất nhơn
MÀ không biết sợ nói gian cho Trời
ĐỔ thừa nhiều chuyện lã lơi
TẠO sanh ác cảm tưởng chơi nên lầm
3. HOÁ là chỗ để trị Tâm
NHI hình hữu tại phải chăm theo lời
HỶ mừng cho kẻ biết Trời
NỘ vì giận kẻ phá đời hại dân
4. KHÔNG không mà có diệu Thần
CHỪNG đem tới Luật, thấy mừng thấy than.
152
NGHE rồi sửa đặng là an
TRỜI cao đất rộng bảo toàn đặng thân
5. THÌ là gọi kẻ tân dân
ĐƯỢC dân vậy hết mười phân vững vàng
VUI vì chẳng trị mà an
MỪNG thay võ trụ mở mang phong trào
6. NGHỊCH là lòng dạ tự cao
TRỜI khuyên không kể thì mau chịu đày
TRỜI nào muốn sự nạn tai
PHẢI nương theo Luật là thay đỗi lần.
7. DẬY bừng chuyển lập xữ phân
BỪNG an đủ cách diệt lần kẻ hung
SẤM vang, sét nổ hải-hùng
OAI Trời sai khiến buổi nầy dẹp an
8. MÃY hoà cơ biến thương tang
LÔNG là vật nhỏ đều mang tội đồng
TRỜI soi xét cạn tất lòng
CHẲNG tư, chẳng vị chí công làm đề.
9. LỌT ra sao khỏi chỉnh tề
SAI ngoa lời xão khó bề cự đương
ĐỪNG vào tội lỗi khỏi vương
AI ai cũng chớ nên cường nên kiêu.
10. NÓI ra trước phải lựa điều
GIỎI hay cùng dở tuỳ theo cho hoà
KHOE tài cậy thế người ta
HAY là hay dữ, dữ là tội cao
11. MÀ rằng chẳng sợ chẳng nao
LẦM không chịu sửa, kiếp nào thảnh thơi.
Chớ rằng Tạo hoá Tiểu nhi
Chỗ không mà có ráng ghi dặn lòng
153
12. Luật bày hai chữ chí công
Người ta phải sợ mới mong trọn đời
Bài văn luận giải khuyên đời
Hễ nghe thì phải biết Trời đừng khi./-
ĐƯỢC, Bài nầy Con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo; Còn một
bổn thì trả lại cho HƯƠNG-NHÂM ở Lương Hoà Lạc./-
-----ooOoo-----
154
BÀI 61: GIẢI NGHĨA NHIỀU ĐỨA NÓI TU HÀNH ĐÚNG VẬY
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 28 tháng 8 Annam 1939 (6 giờ sáng) [TV.1971/157]
Giải nghĩa : “Nhiều đứa nói tu hành đúng vậy”
( Đuốc Chơn Lý 36 trang 58, vé 1, 2, 3.)
NHÂM, Con nghe MẸ dạy :
1. Trong nhiều đứa muốn xưng mình đúng
Mà chưa rành thể dụng hòa kiêu.
Cách Tu hành sự các điều
Đúng cho tới Lý, nói nhiều rành chưa?
2. Đạo thì có Thượng thừa, Trung, Hạ
Ra cùng vào, hai ngã chưa thông
Ra là tránh khỏi Đại đồng
Sao không chịu học để phòng cứu nguy.
3. Tu trau sửa nhơn nghì, cách vật
Cũng là do có bực có chừng
Chơn là bạch khiết minh trưng
Thiệt cho tới thiệt, thẳng chừng đường ngay.
4. Hành giả dối trở day không kịp
Vì tại ưa ác nghiệp níu trì
Thông hành các lẽ tứ tri
Vậy là gọi đúng, xét suy không lầm.
5. Đạo cao thượng nhờ tâm yên vững
Giữ một niềm an thuận hoà chung
Được vầy thiên hạ tôn sùng
Vạn niên lưu tụng để dùng ngưỡng triêm.
155
6. Vô biên hạn cẩn nghiêm là đủ
Người ta đây có dữ, có hiền
Mỗi người ai cũng mỗi riêng
Muốn cho hết dữ, chí hiền làm gương
7. Việc khôn dại là đường thế tục
Phiền trách nhau lắm lúc không hòa
Cũng vì khôn dại mà ra
Nay Thầy hỏi lại người ta thế nào
8. Người khôn nỡ lòng nào hiếp dại
Ta dại khờ cũng lại người ta
Cả hai chia sớt cho hoà
Khôn lo dắt dại, dại nhờ đó khôn.
9. Nếu được vậy xác hồn tươi tốt
Cả thế gian chung một Lý Trời
Tâm đồng Tánh định yên nơi
Phần đông tu niệm còn chưa rõ nhiều
10. Mỗi con xét rõ điều hơn thiệt
Thì mới xa xão quyệt cơ cầu
Ích gì nói bướng cao sâu
Nói rồi hỏi lại cơ cầu còn xa
11. Chỗ Linh cãm đó là do thiệt
Thiệt cho nhằm, cho biết cho rành
Đó là Chơn thiệt, Đạo sanh
Sanh linh nhiều chỗ trọn lành đồng qui
12. Đạo khai xây chuyển ba kỳ
Mà trong đúng thiệt thiếu gì người sai
Giải phân cạn Lý phô bày
Nên hư, quấy phải hằng ngày giồi trau
13. Đó là thương lẫn cùng nhau
Sửa sang, sắp đặt người trau phận người.
156
Ấy là đúng bực trong đời
Đạo thông tại đó, sửa Đời là đây.
14. Lương tâm là chỗ có Thầy
Là Tâm lương-thiện Đức, Tài, Hạnh, Ngôn.
Chung nhau được vậy bảo tồn
Là phương sửa kiếp Đại đồng cho qua
15. Mỗi con ráng ngó Ngọc Toà
Ngó rồi mới rõ chữ HOÀ tại đâu
Tuy là Đạo lý cao sâu
Ngọc chơn hoà Lý đâu đâu cũng đồng.
16. Tu hành đúng Đạo là thông
Hễ thông thì phải suốt thông phận mình
Đặng cho sanh chúng dễ nhìn
Làm gương biểu hiệu đặng gìn giữ chung.
17. Thể thân, hình vóc dễ dung
Dùng cho phải Lý tới cùng đừng quên
Lý là một Lý đương nhiên
Thương nhau là Đạo, ý riêng là Tà
18. Không gần mà cũng không xa
Mỗi con tự xét, tự Ta với Người.
Nếu thông hai chữ Đạo Trời
Thì đâu đến đổi cách Người, biệt Ta.
19. Tại vì không rõ Phật Ma
Tại không hiểu Lý ấy là hại nhau
Nghĩ rồi đúng Đạo ra sao?
Muốn cho đúng thiệt thì mau hỏi mình
20. Bài đây, vở đó ráng nhìn
Hỏi rồi ngó lại coi mình xong chưa ?
Mỗi con nào sớm ngăn ngừa
Thì do bài học xấu chừa, tốt theo.
157
21. Nếu còn tự đắc hiu hiu
Đạo không tới Đạo, Đời tiêu phận Đời.
Trước sau Mẹ giải đủ lời
Mỗi con nào quyết trọn lời thì tuân../-
ĐƯỢC, Bài nầy Con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo; Còn một
bổn thì trả lại cho HƯƠNG-NHÂM ở Lương hoà Lạc./-
-----ooOoo-----
158
BÀI 62: GIẢI NGHĨA SÁCH KINH DÙNG ĐỂ DẠY ĐỜI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 24 tháng 11 Annam 1943 (3 giờ chiều) [TV.1971/160]
Giải nghĩa : “SÁCH KINH DÙNG ĐỂ DẠY ĐỜI”
NGA, Con nghe MẸ dạy:
1. Sách kinh sám từ xưa nay đó
Để lại đây là để răn Đời
Xét suy sau trước cũng người
Người cho tột Lý một lời nào sai.
2. Nầy đây nhắc đủ bài cho nhớ
Hiện giờ ai biết sợ thì nhờ
Cả đồng thảy muốn làm lơ
Chúng bây nhiều vậy huyền cơ khó rành.
3. Đứa nào xét đặng hành cho đúng
Khoản nầy trau thể dụng không lầm
Hay là chưa chắc diệu thâm
Ham nghe lời phỉnh bọn tham nói vùa.
4. Bỏ qua Lý chánh thời chịu hõng.
Hờ Đạo Chơn yêu trọng dễ gì
Tu hành còn thói mỵ ly
Rồi ai cũng nói bướng đi một lời.
5. Nói NHƠN ĐỨC Đạo Trời không rõ
Ngặt còn Nhơn bản ngã chưa rồi
Rõ ràng nghĩa thiệt nào chơi
Đúng Chơn là Đức, dể ngươi là vì
159
6. NHƠN TÂM độc nhiều khi khả ác
NHƠN DỤC tình khoái lạc thành mê
NHƠN NGHÌ nào mến tiện đê
Xét cho tới Lý Nhơn hề tính Nhơn
7. Chỗ NHƠN NGHĨA ưa hờn, ưa oán
Theo sự Nhơn, Trời phán sửa lần
Phải tầm cho đúng lẽ Chơn
Thiệt đâu nhớ đó, bất cơn giựt giành.
8. Nhớ Chơn thật mới rành đặc biệt
Nhơn người thông bề quyết một bề
Đạo Đời tình lý dễ nghe
Đạo tâm tình nghĩa dặc dè khó hay
9. Chánh-Tâm tu kỷ hằng ngày
Là Tâm Chánh niệm không bày loạn sai
Một niềm Tu kỷ mình đây
Là trong mình biết vạy ngay sửa mình.
10. Rồi trong đó dễ luận bình
Luận theo lời phải khỏi ghình tự nhiên
Bình thân cho rõ phận Hiền
Rồi sau mới đặng trọn quyền Chánh Chơn.
11. Rõ ràng sự Lý hoà Nhơn
Là trong mỗi việc người nương cậy người
Nhơn hoà là thiệt tốt tươi
Rồi trong địa-lợi khỏi lời đấu tranh
12. Hoà nhau nào có ai giành
Đất ai thì nấy lập thành nghiệp vui
Cũng vì Nhơn đức trọn nơi
Là Nhơn đức tự đầu đuôi kết dài
13. Làm Vua trọn ĐỨC, trọn TÀI
Thánh quân là hiện Trời sai giáng trần
160
Làm tôi giữ vẹn ơn nhuần
Đãi Hiền danh để vạn dân an hoà.
Mấy lời Mẹ giải rành ra
Sách Kinh lời chép cũng là dạy TU
(Đức Mẹ giải bài nầy cho Lễ-sanh Quế NGA Hương ở Bình Nhâm)./-
-----ooOoo-----
161
BÀI 63: GIẢI NGHĨA MỖI ĐỨA NÓI CƠ CẦU HÚNG HÍNH
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 3 tháng 5 Annam 1942 (2 giờ chiều) [TV.1971/162]
Giải nghĩa: “Mỗi đứa nói CƠ CẦU HÚNG HÍNH
Có đứa nào lâm bịnh đó chưa?
Có rồi thì ráng nhớ chừa
Còn chưa thì bớt sự lừa đảo riêng
Hễ muốn trọn phận Hiền thì phải
Phải siêng năng làm phải cho tròn
Cho tròn vậy mới phải con
Phải con là chẳng tiếc công với Thầy
Trong mỗi đứa hằng ngày hay đọc
Đọc không làm hỏi đọc làm chi?
Hỏi ra có bổ ích gì
Hay là mượn học, đặng ghi công nhiều
Đây Thầy chỉ trưa chiều húng hính
Là chỗ lo, chỗ tính chuyện xằng
Đứa thì lo cản, lo ngăn
Mà quên mình chẳng, cản ngăn nơi mình
NHÂM, Con nghe MẸ sửa bài đây đặng học mà xét Đời cùng Đạo nghe, lấy một
câu làm 4 câu, trong 16 câu, họa ra 64 câu như vầy:
1. Mỗi con nào ráng xét rành
Cơ cầu húng hính, học hành quả công
Xét rồi mình có vướng không
Thì trong chỗ xét thẹn lòng với vui.
2. Có nghe thì có rõ mùi
Là nghe lời nói chuyện rồi lớp sang
162
Chuyện rồi kẻ biến người an
Lớp sang nầy ráng liệu toan khỏi lầm
3. Có lầm thì ráng hồi tâm
Chớ đừng du hí nhiều năm tội nhiều
Dễ chi mà tập đánh liều
Rồi thân thể hoại trưa chiều hết trông
4. Còn trong đứa biết thẹn lòng
Xét mình chưa trọn vì không rảnh rời.
Lớp lo về Đạo, về Đời
Lòng tuy biết thẹn lụy rơi vái thầm.
5. Hễ lòng biết vậy đành cam
Trời cao rộng rải độ châm chế trừ.
Miễng là đừng để giờ dư
Nhớ đâu làm đó khư khư trọn bề.
6. Phải an lòng trọn kiêng dè
Buộc mình cho nhớ Trời che chở cần.
Cơ cầu nào có nên than
Rồi cơ húng hính đâu gần Phật Tiên.
7. Cho hay hiền rõ phận hiền
Dữ tường nơi dữ dành riêng có ngằn
Học hành thì phải biết chăng
Dạng hình chơi giởn thì phăng mối tà.
8. Phải nhìn phải biện lần ra
Nhờ công nghiệm xét ngày qua tháng rồi.
Xét coi người cũng là người
Người sao dễ dạy, kẻ thời dọc ngang.
9. Trong phần tu niệm mở mang
Vì trên Trời Phật định ban sẳn rồi.
Có siêng thì dễ độ Đời
Độ trong lời phán Đạo, Đời thưởng răn.
163
10. Đọc kinh cần Lý thông hoằng
Đọc khoe miệng đọc gọi rằng líu lo.
Cơ cầu vì quá tự do
Làm ra húng hính đọc cho có chừng
11. Hỏi rành vậy đó oan ưng
Mỗi con nào xét khuyên đừng nghị nghi
Tục đời nhiều thói rằn ri
Hễ theo về Đạo cứ ghi một lòng.
12. Hay là còn tính tiếc công
Tiếc công thì khó bề thông nhiệm mầu.
Ráng kềm tâm định bền lâu
Dể ngươi hờ hỏng đuôi đầu lộn quanh.
13. Đây lời cần xét Đạo sanh
Giải ra từ đoạn phân rành thì vui
Gái trai nghì trọn nhơn nghì
Đồng siêng học hỏi thì đi trúng đường.
14. Là nhờ trong trọn mến thương
Trên Thầy thì dưới bạn nương nhau cùng
Cơ cầu nào trọn thỉ chung
Sanh điều húng hính đâu dùng đặng đâu.
15. Đứa hiền, đứa nhẫn thuận nhau
Vùa công, cộng của thì cao Đạo bền.
Cơ cầu húng hính nào nên
Mỗi con nào ráng bỏ quên nhẹ nhàng.
16. Mà trong đó được vững vàng
Cũng vì tuân Luật Trời ban mới vầy.
Sửa bài NHÂM nghiệm từ đây
Đạo Đời chung cả một Thầy xét suy
Hiểu rành thiệt Lý lòng vui
Trước sau vì Đạo ráng nguôi tục phàm./-
164
BÀI 64: GIẢI NGHĨA PHÂN RÀNH RẼ TRƯỚC SAU THỨ LỚP
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 17 tháng 2 Annam 1940 (1 giờ trưa) [TV.1971/169]
ĐƯỢC, Con phải sửa bài học của HƯƠNG NHÂM, đặng trả lại cho nó coi, nó
học. Con sửa đi có Thầy dạy cho. Đầu đề bài học Thầy cho như vầy:
“Phân rành rẻ, trước sau thứ, lớp
Lập chương trình hòa hiệp Phái, Chi
Anh em lớn, nhỏ trọn nghì
Một lòng tuân Luật, từ bi dạy truyền
Ấy là cũng có duyên, có phước
Nên ngày nay mới được thăng bường
Lần lần mở rộng bốn phương
Năm Châu qui hiệp một trường tại đây
Nhờ Đuốc Huệ, rẻ mây vén ngút
Dẹp tà tâm thoát tục, siêu phàm
Kể đà dư mấy muôn năm
Đến nay mới đặng, thậm thâm diệu huyền
Từ đây hết, đảo điên trật tự
Cứ an lòng lo giữ Luật Trời
Bỏ điều tu giởn, tu chơi
Tu cho đến chỗ, đến nơi của Thầy
Tuy đã biết một bầy con dại
Biết sợ Thầy, cái dại là khôn
Cũng nhờ có Xác, có Hồn
Có Thầy ung đúc, bảo tồn Chơn Thân »
(Đuốc Chơn Lý 33 trang 1)
Sửa bài giải nghĩa :
1. Phân rành rẽ cuộc trước sau
Là cơn lập Đạo kẻ vào người ra.
165
Trước là khi mới đem ra
Sau là người Đạo theo hoà tới đây
2. Thứ kia, lớp nọ sắp bày
Lập chương trình lại gạn rày bao nhiêu
Hoà tâm, hiệp trí chẳng nhiều
Là do Chi Phái còn theo NHỊ KỲ
3. Anh nầy, em nọ chớ nghi
Vì trong lớn nhỏ tại kỳ hạn chia
Trọn nghì đừng tính tự khi
Một lòng nhớ Đạo tuân qui Luật truyền
4. Từ bi hai chữ mối giềng
Dạy người Tu niệm đừng riêng thói tà
Ấy là Đạo lý truyền ra
Có duyên có phước mới là dễ nghe
5. Nên ngày nay gặp chở che
Là thăng bường hội phải dè dặt trong
Thăng khai Trời bố phước hồng
Bường an là tại một lòng ngưỡng triêm
6. Lần lần Đạo mở rộng thêm
Bốn phương đồng cảm giãm điều nghị nghi
Năm Châu nào có lạ gì
Trời cho qui hiệp đồng thi một trường
7. Tại đây Thầy để Định Tường
Nhờ nơi Đuốc Huệ tỏ Thường, Thiệt, Tin
Rẽ mây, Đời gọi Thái bình
Gió hoà vén ngút, ai gìn phận ai
8. Dẹp tà tâm vọng dục sai
Thoát ra khỏi tục dầu trai gái đồng.
Siêu phàm nhờ sáng suốt thông
Kể đà dư mấy muôn năm một lần.
166
9. Đến nay là Hội Mậu Dần
Mới trông đặng gặp một lần Long Hoa
Thậm thâm là rõ Đạo nhà
Diệu huyền Cơ Lý đó là chỗ hay.
10. Từ đây tin chắc một Thầy
Đảo điên trật tự từ nầy bỏ đi
Cứ an lòng vững Tu trì
Là do giữ Luật Trời qui đặng dò
11. Bỏ điều lười biếng rút co
Là Tu chơi giởn làm cho lỡ bề
Tu cho đến chỗ nơi kề
Của Thầy sắp đặt đặng về hưỡng an
12. Tuy rằng con dại thế gian
Một bầy biết sợ Trời ban phước lành
Đó là chỗ dại hơn lanh
Sợ Trời theo Đạo bình sanh không mòn.
13. Nhớ coi theo xác, theo hồn
Có Thầy trong đó bảo tồn độ chung.
Xác nương, hồn cậy tới cùng
Thầy lo ung đúc để dùng làm gương
14. Chơn thân người phải THIỆT THƯỜNG
Là TIN trọn Lý kính nhường thuận nhau
Đặng vùa giúp cuộc gầy mau
Là Chơn thân niệm khó giàu chẳng chia.
15. Cuộc mầu nhiệm Lý tường tri
Mỗi người lo phận việc chi có Thầy
Dạy khuyên, răn nhắc mỗi ngày
Nghe làm cho đúng thấy hoài chuyện vui./-
-----ooOoo-----
167
BÀI 65: GIẢI NGHĨA KINH QUAN ÂM
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 6 tháng 1 Annam 1943 (6 giờ sáng) [TV.1971/171]
Giải nghĩa Kinh lạy Quan Âm 1 vé:
“Chúng con mãng tánh tham si
Thất tình lục dục án che Ngươn Thần
Dốc long thoát bến mê tân,
Cầu xin Phật Mẫu ân cần đoái thương”
ĐƯỢC, Con sửa bài kinh cho HƯƠNG NHỎ đi, đặng trả lại cho nó coi, nó học.
Con sửa đi có Thầy dạy cho.
Câu 1: Chúng con mãng tánh tham si
Nghĩa là : Lời của Quan Âm dạy mỗi người phải tự hỏi lấy mình, gọi là chúng
con là con của Thầy cho xuống quá đông mảng mê hồng trần tham si mà làm ra tánh
tục. Tham là tham về danh lợi quên sự lành. Si là hay tin càng tưởng vơ các điều dị
đoan phi lý làm cho đến đổi lụy mình, Tham, Si là vậy đó.
Câu 2: Thất tình lục dục án che Nguơn Thần
Nghĩa là : Người ở thế-gian nầy có sự thất tình là :
1- MỪNG 2- GIẬN 3- THƯƠNG 4- VUI 5- GHÉT 6- MUỐN 7- SỢ.
Trong 7 điều nầy, nếu ai làm cho trúng lý là Mừng về chuyện phải, Giận là biết
sửa mình, Thương là thương cho nhằm cách, Vui về Đạo đức, Ghét điều gian, đừng
nhớ đến, Muốn cho đời được chung hoà, Sợ luật Trời, giữ phép công thì đó là thất tình.
Còn trong đó cứ mỗi chuyện gìn ý riêng thì thành ra 6 điều hư tệ là lục dục, có 6 điều
muốn:
1- Muốn uống rượu 2- Muốn ăn thịt 3- Muốn ngủ 4- Muốn chơi
168
5- Muốn dâm loạn 6- Muốn bỏ Đạo.
Trong hai điều nầy, hiệp lại thành ra 13 con ma, nó có thể làm cho mình tối tăm,
áng che Nguơn thần là vậy đó.
Câu 3: Dốc lòng thoát bến mê tân.
Nghĩa là : Ngày nay chúng con dốc lòng tu niệm đặng thoát khỏi bến mê là một
bến khách trần hay ghé, vì bến đó mà hoá sự Tham, Si. Hễ dốc lòng Tu thì bến mê
đừng nhớ tới. Còn chữ Mê tân là khách trần ưa mến Lục dục mà mới ra cớ ấy.
Câu 4 : Cầu xin Phật Mẫu ân cần đoái thương
Nghĩa là : Chúng con là xác phàm khó bề ngăn đón, nên phải cúi đầu cầu xin Đức
Phật Quan Âm hết lòng chiếu cố ngó thương giùm đặng chỉ dạy các điều khỏi sai lạc.
Vậy con sửa rồi giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn
giao lại cho Thiên sư đặng trả lại cho HƯƠNG NHỎ./-
(Giáo-hữu LÊ-THỊ-NHỎ ở Thủ Thừa)
-----ooOoo-----
169
BÀI 66: CON MUỐN ĐƯỢC THUẬN HÒA TRÊN DƯỚI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 20 tháng 10 Annam 1938 (5 giờ sáng) [TV.1971/165]
NHÂM, Con nghe MẸ dặn:
1. Con muốn được thuận hòa trên dưới
Thì ráng ghi, ráng nhớ NHỊN NHƯỜNG
Đó là cho trọn chữ THƯƠNG
Hễ THƯƠNG là NHỊN là phương cứu Đời.
2. Con đã gặp kỳ thời Tam Tiểu
Gặp Thầy lo dạy biểu hằng ngày
Thương vì em chị chẳng ngay
Nổi trôi chìm đắm ra tay dắt dìu
3. Làm được vậy ít nhiều công quả
Thầy thưởng ban cho thoả tấm lòng
Giữ gìn cho vẹn ngoài trong
Nên trang người Đạo bảng phong tên đề
4. Nhìn Bạch Ngọc cảnh quê là đó
Thì phải tin trong đó có Thầy
Ngưỡng triêm tạc dạ hằng ngày
Tự nhiên con được thấy rày sự vui.
5. Mỗi giờ ĐỊNH là nuôi CHƠN TÁNH
Tánh cho bình xa lánh mỵ ly
Đừng cho giờ khắc diên trì
Giữ y lời dặn khắc kỳ phân minh
6. Con phải biết chữ TIN là đó
Là QUYẾT TIN nên chịu khó làm
170
Làm rồi thấy rõ Đạo tâm
Là Tâm an tịnh mấy năm không ghình.
7. Nhiều đứa nói chữ TIN chữ NHỨT
Giờ ĐỊNH TÂM thổn thức không bình
Định nầy sao gọi rằng tin
Vì không yên lặng thì mình chịu hư.
8. Dầu cho bực Chơn như cũng vậy
Là TÂM NHƯ phải cậy nương bền
Hễ bền thì phận mới nên
Hễ nên danh phận tuổi tên được tròn.
9. Muôn năm biển cạn non mòn
Lời Châu, tiếng Ngọc dạy còn ghi xương
Lo sao bước vững một đường
Đặng vui vẻ đẹp cột rường từ đây
10. Nữ Nam đều cũng con Thầy
Con Thầy thì nhớ đoạn nầy đừng quên.
Tu hành ai cũng muốn nên
Muốn nên thì chịu cho bền đừng than
11. Hỏi ra Thần Thánh muôn ngàn
Đều do chữ ĐỊNH bảo toàn CHƠN CÔNG
Nhiều con lòng dạ không đồng
Làm sao Tiên Phật phụ tùng giúp cho./-
ĐƯỢC, đọc cho HƯƠNG NHÂM nó nghe, như nó chịu vưng lời thì nó phải đem
trình cho CA đặng ấn chứng cho nó./-
-----ooOoo-----
171
BÀI 67: GIẢI NGHĨA QUẢ NHƠN, NHƠN QUẢ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 29 tháng 7 Annam 1942 (2 giờ chiều) [TV.1971/167]
Giải nghĩa : “Nghĩa nhơn, Nhơn nghĩa chớ đeo đai”
(Chuyển Mê số 10, trang 33, 8 câu)
NHÂM, Con nghe MẸ dạy:
Trong hai chữ Quả nhơn, với Nhơn quả, tuy là hai tiếng nói lộn qua trở lại, chớ
kỳ trung hai nghĩa khác xa. QUẢ NHƠN nghĩa là : Trồng được cây lành thì trổ ra trái
lành. Còn như NHƠN QUẢ là bởi vì mình quá vọng phàm tâm mà gây ra thêm tội lỗi
hoặc trước hay sau thảy đều có trả, nên thế tục cho là Nhơn quả hay quả báo cũng
đồng như vậy, nên Thầy dặn; Hễ muốn Tu cho thành quả vị nhơn từ thì chớ khá đeo
đai các điều nhơn quả, nếu đeo đai nó nhiều thành ra biển khổ, nên ngày thêm miệt
mài vào đó thì phải lụy thân danh. Hiện nay Thầy ra mở Đạo thì mỗi người vào Đạo,
gọi là nương lấy nước Từ bi, đặng giải lần Nhơn quả nơi mình trước, rồi sau sẽ đem ra
độ lại cho mỗi người thì cũng tỷ như nhành dương liễu, nhúng nước Từ bi rưới cho mỗi
người được mát, đó gọi là mình độ trước, rồi sau mới độ người, rồi từ đó dẫn sau, thì
cứ giữ một lòng, tuần tuần là noi theo Đạo đức, đừng quá chấp nê lấy các điều Lành ra
làm nghĩa vụ, đó là độ dẫn bực anh tài, vì kẻ Anh tài hay tin điều có nghĩa, rồi từ đó
sắp lên, những bực anh tài đó bước vào trường Đạo đức, thì chớ nên nệ chi cuộc đời
thay đỗi, cơ Đạo lâu mau, phải hồi tâm xét lại cái tục đời mê muội, có khác nào tuyết
đóng càng thêm, dầu cho non núi đẹp màu thì cũng có hồi tan rã. Còn cái phận sự làm
người đây Thầy đã giao gánh nặng là cái gánh phải lo trả nợ đặng lên đường, mà
đường đó gọi là đường xa, là kể từ hồi Nghiêu Thuấn lập ra đến giờ, muốn trở lại thiệt
là xa lắm, còn thêm đá dựng cản ngăn, đá dựng đó là ai hay đó là người cứng cổ, cứng
172
đầu không ưa Đạo lý, nếu mình quyết chí trở về thì trước đây vưng trọn lời Thầy lấy
hai chữ Từ bi mà mừng kẻ biết Tu, thương cho người không biết Tu đặng bỏ điều ghen
ghét, lòng bác ái chử dạ một điều, mỗi điều đó nói ra đều là Chơn Chánh của Thầy thì
được tan sương vén ngút dẹp tuyết trong ngần, dầu cho đá dựng cũng có thể tránh lần,
chừng đó dầu biết là đường xa chớ chẳng nên hỏi dặm là bao nhiêu cho nhọc, đó là về
tinh thần là Đạo cả, muốn Tu cứ đó làm đề thì chuyện khó trở nên điều dễ, dễ là chịu
nghe lời Quả nhơn, Nhơn quả không làm, khỏi vòng biển khổ, được nước Từ bi, lòng
lo Bác ái, dầu đi xa cũng phải gần, đi đó là đi tinh thần nương Đạo.
Được, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo./-
-----ooOoo-----
173
BÀI 68: GIẢI NGHĨA MẸ VÌ CON LƯỠI MÒN ĐOÀI ĐOẠN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 4 tháng 11 Annam 1942 (1 giờ trưa) [TV.1971/173]
Giải nghĩa Kinh Tây Vương vé 92 – 95
“Mẹ vì con lưởi mòn đoài đoạn,
Mẹ vì con lời cạn mấy phen,
Công dư kết bạn với sen,
Dư công đâu để làm quen với bèo.
Chừa các tánh tự kiêu tự đắt,
Mới có ngày gần Phật, gần Trời,
Trời tuy lộng lộng vơi vơi,
Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây.
Con nghe Mẹ, Mẹ khuây khỏa dạ,
Mẹ nhìn con, con hả-hớn lòng.
Con ôi! Mau kíp trùng trùng,
Đến đài Kim khuyết hiệp cùng chị em.
Lời tâm-huyết Mẹ đem tường tận,
Khuyên con thơ yên phận Tu hành
Muốn cho gọi được gái lành,
Thì mau cải dữ, mới thành Chơn tu.”
Đây giải nghĩa về Tây Vương Thánh Mẫu, tính ra 4 vé từ vé 92 đến vé 95. Người
muốn rành Chơn tu thì học 4 vé nầy, hiểu đặng mà răn lòng, sửa nết.
Câu 1: Mẹ vì con lưỡi mòn đoài đoạn
Nghĩa là : Đức Mẹ vì chỗ thương con mắc trong vòng Ngũ lôi hoả kiếp, nên phải
nói cho hết lời, ráo tiếng, theo lẽ lưởi cũng phải mòn, lời khuyên dạy đau lòng đoài
đoạn.
174
Câu 2 : Mẹ vì con lời cạn mấy phen
Nghĩa là : Mẹ cũng vì tiếc cho con là tiếc một điểm Linh quang cho xuống trần
khi trước vì đó là lời Mẹ nói cạn là mấy phen Mẹ nhắc hoài, tại sao không nhớ ?
Câu 3: Công dư kết bạn với sen
Nghĩa là : Đức Mẹ nói Đức Mẹ dẫu có công dư đi nữa Đức Mẹ kết bạn với sen là
mấy hạng Liên hoa hoá thân được về cảnh Phật.
Câu 4 : Dư công đâu để làm quen với bèo
Nghĩa là : Đức Mẹ chỉ cho tột Lý là Đức Mẹ không có công dư đâu để làm quen
với bèo là tỷ người ở phàm không Đạo đức không căn cội chi như bèo là vậy. Là nói
Mẹ vì con có một điểm Linh quang, nên Mẹ mới hết lòng như thế, chớ Mẹ không phải
vì cái xác phàm hỗn tạp đó đâu, đó là Mẹ nói cho mỗi con nghe, đừng có dể ngươi mà
mang đọa.
Câu 5: Chừa cái tánh tự kiêu, tự đắc
Nghĩa là : Đức Mẹ dặn hễ muốn Tu cho đắc quả thì trước phải chừa cái tánh tự
kiêu là cái tánh hay khoe mình giỏi, tánh tự đắc là hay nói cho mình đặng nhờ trong
phần yêu dấu.
Câu 6: Mới có ngày gần Phật, gần Trời
Nghĩa là: Ai chừa đặng hai cái tánh đó thì mới trông có ngày Trời Phật dẫn về tới
nơi, tới chốn đặng hưỡng nhờ thong thả. Nếu chừa không đặng thì không trông ngày
nào gần đặng, vì Trời Phật không có tánh đó.
Câu 7: Trời tuy lộng lộng, vơi vơi
Nghĩa là : Đức Mẹ nói rành cho dễ thấy, Trời tuy là lộng lộng, vơi vơi; hễ chừa
đặng thì không khó.
Câu 8 : Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây
Nghĩa là : Trời tuy lộng lộng không thể đi đến, vơi vơi là không thể nắm được,
nhưng mà biết tin, biết sợ, chừa đặng tự kiêu, tự đắc, xét lại Trời ở nơi trong mấy lời
Mẹ chỉ dạy đây đồng một Lý Trời không khác.
175
Câu 9 : Con nghe Mẹ, Mẹ khuây khỏa dạ.
Nghĩa là : Đức Mẹ chỉ dạy rồi, nếu con biết nghe lời Mẹ thì Mẹ dễ làm khuây
khoả lấp được các điều trông đợi là vì trong dạ ao ước bấy nhiêu.
Câu 10 : Mẹ nhìn con, con hả hớn lòng.
Nghĩa là : Hai câu nầy kết lại; Hễ con biết nghe lời Mẹ dạy thì Mẹ được chỗ vui
đó. Mẹ nhìn các con thì các con cũng được vui mừng, nghĩa là trọn hoà tu niệm.
Câu 11: Con ôi !! Mau kíp trùng phùng.
Nghĩa là : Mẹ than với các con hãy mau mau, kíp kíp cho trọn chữ trùng phùng là
Ta, Người biết Đạo, con Mẹ sum vầy, nếu trể kỳ ắt là xiêu lạc.
Câu 12 : Đến đài Kim Khuyết hiệp cùng chị em.
Nghĩa là : Điều Mẹ dặn trước phải ráng nghe lời Mẹ đặng đi một đường, chừng
mãn kỳ trách nhậm về đến Đài Kim Khuyết là chỗ Mẹ để đợi chờ, chừng ấy hiệp cùng
chị em là mấy bực Phật Tiên về trước cũng ở đó đặng hầu nghe Mẹ dặn trước đừng có
quên cảnh cũ.
Câu 13: Lời tâm huyết Mẹ đem tường tận.
Nghĩa là : Lời Mẹ nói từ trước tới đây, chẳng khác nào Mẹ đem hết máu trong
trái tim ra hoà làm bài dạy cho mỗi con nghe thấy hết mọi điều chẳng còn nghi ngại.
Câu 14 : Khuyên con thơ yên phận tu hành.
Nghĩa là : Mẹ khuyên con đứa nào còn thơ ấu thì cũng nhớ đó đặng yên một
phận tu hành; Đừng có nói dại khờ mà bỏ qua Đạo đức.
Câu 15: Muốn cho gọi được gái lành.
Nghĩa là : Mẹ muốn cho mỗi con nghe được lời kêu gọi mừng cho phận gái mà
giữ trọn lành là đúng phận.
Câu 16: Thì mau cãi dữ mới rành Chơn tu
176
Nghĩa là: Muốn cho được lời Mẹ gọi khen đó thì phải mau mau cùng nhau đỗi
điều dữ, đem lại điều lành, là phải học cho biết sao làm lành, sao lánh dữ thì mới có thể
dễ bề sửa đổi, đó mới rành Chơn tu là vậy.
ĐƯỢC, Trong ba đoạn NGÀN nó xin hỏi đây nên Thầy dạy cho con sửa văn xuôi
cho nó rõ. Con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn thì trả lại
cho NGÀN trong đó nó phải truyền cho mỗi đứa ráng học, ráng làm vì nghĩa lý Chơn
Tu là đó./-
- THĂNG -
-----ooOoo-----
177
BÀI 69: GIẢI NGHĨA THIÊN ĐỊA HẢO TÂM
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 6 tháng 8 Annam 1943 (3 giờ chiều) [TV.1971/177]
(Giải nghĩa trong Định Chỉ Hồi Chơn trang 11 vé 17)
“Gọi là Thiên Địa hảo tâm”
BIẾT, Con nghe MẸ dạy :
Bài con học đó gọi là Trời Đất không có lòng dạ nào mà có xấu xa với người đó,
nghĩa hảo tâm ở đâu cũng trong vòng Trời che, ở đâu cũng trên nền Đất chở, còn phận
người là ở chung vào Ngôi Tam Tài, theo lẽ phải trọn thương nhau vậy mới hạp với
Trời Đất, cớ sao lại chẳng ham điều thương, điều tiếc như lời Trời Đất chỉ đó, nên
Thầy hỏi vậy sao đành rồi phận sự người ở đâu?
Đây là ngày Lễ Trung nguơn nhằm năm Canh Thìn, Thầy chỉ đó cũng là bực
trung đặng hạp với ngày Lễ Trung Nguơn, cho mỗi người mau tỉnh, là năm nầy Thầy
chuyển Luật Hình sắp tới nhiều cách rất nghiêm, nếu ai không trọn lòng giữ Đạo Trung
không thể nào thấy được. Thầy để lời ngày nay đây cho mỗi đứa nào lòng dạ ngưỡng
triêm biết tìm đạo lý thì ráng mà nương cậy theo trong chỗ mình đã biết, đã tin, đó là ít
nhiều từ bấy lâu đó, đặng cho trọn lòng tu niệm hiền lành, chớ nên nghe theo phường
giả dối, vì lợi quên lành, gánh nặng Thầy trao giữa đường đành bỏ, rồi cái thân đó phải
sa vào nơi đày đoạ. Thầy dầu có thương thì cũng ngó chừng chớ không thể nào cứu ra
cho đặng là vì biết phải không làm, cãi Trời vì quấy.
Vậy mỗi con nào nghe đó, đứa nào có lỡ nơi tâm biết sợ thì tự hối đi, còn đứa nào
chưa biết thì quyết một lòng Đạo đức thì đứa đó được thấy chỗ mừng, thì trong lời dạy
ngày hôm nay, với công việc thế tình chẳng gần mà cũng chẳng xa nội năm đó từ ngày
Lễ Trung Nguơn nầy lần lần sẽ biết
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo./-
-----ooOoo-----
178
BÀI 70: GIẢI NGHĨA LÀM ĐƯỢC VẬY TRỌN LÀNH, TRỌN PHẢI
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 13 tháng 2 Annam 1940 (7 giờ tối) [TV.1971/178]
ĐƯỢC, Con phải sửa bài học cho HƯƠNG NHÂM, đặng trả lại cho nó coi, nó
học. Con sửa đi, có MẸ dạy cho
Đầu đề Thầy cho như vầy :
“Làm được vậy trọn lành, trọn phải”
(Đuốc Chơn Lý 43, vé 16 – 17 )
1. Thầy khuyên, Mẹ dạy con làm
Làm sao cho được, cho nhằm Đạo Chơn
Trọn lành trọn phải là hơn
Trên Thầy sẳn có ban ơn phỉ nguyền
2. Quản thông Đạo lý cơ huyền
Đại Thiên Thế giái thấy liền tại đây
Đó là hay ở trong hay
Là Thiên nhiên huệ gọi tài hoá công
3. Thiên nhiên với Hạo nhiên đồng
Đồng trong khí tượng tại lòng vững an
Gặp cơn khó nhọc chẳng màng
Trở day tùy cuộc dẹp đàng gai chông
4. Đó là lòng trọn hết long
Hạo nhiên chi khí dày công gọi bền
Hằng ngày Chơn lý nỗi lên
Là Thiên nhiên hạp Đạo bền Khí tươi.
179
5. Hạo nhiên tuy ở gần người
Chớ kỳ trung có sức Trời giúp trong
Huyền quang bí pháp vô cùng
Hình đi, tiếng nói sự dùng hữu duyên
6. Con nào Thầy chẳng dạy riêng
Một lời căn dặn chỉ truyền TÂM KHÔNG
Mỗi con mỗi đứa cho đồng
Đồng không tranh cạnh quyết lòng SỢ LO
7. SỢ là phải nhớ dặn dò
LO làm phận sự đừng cho trái lời
Từ nầy Thầy chọn chỗ nơi
Chỗ là chỗ định, chẳng dời chẳng phai
8. Nhứt Tâm bền chặt Đức tài
Không bày bác chuyện cãi rầy lố lăng
Thầy truyền thấy rõ biến an
Thấy rồi lo sửa chớ bàn luận lâu
9. Nên kêu là chỗ nhiệm mầu
Hạo nhiên hoá Khí đỗi sầu ra vui
Sầu là thời cuộc khúc nôi
Biết sầu gở đặng thì vui trọn bề.
10. Cũng nhờ chỗ thấy, chỗ nghe
Thấy nghe không khí trước dè dặc trong
Đó là quảng đại thần thông
Hạo trung chi hạo quan phòng có nơi
11. Thiên nhiên là sức của Trời
Sức Trời thường để giúp người Hạo nhiên
Giải bài Đạo lý phát nguyên
Mỗi người muốn được đừng riêng theo phàm./-
-----ooOoo-----
180
BÀI 71: GIẢI NGHĨA BỰC TRÊN ĐÃ GIA PHONG NHỨT ĐỊNH
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 29 tháng 5 Annam 1940 (11 giờ trưa) [TV.1971/180]
ĐƯỢC, Con sửa bài cho HƯƠNG NHÂM, đặng trả lại cho nó coi, nó học. Con
sửa đi có Thầy dạy cho.
Bài học Thầy cho như vầy :
“Bực trên đã gia phong nhứt định”
(Thánh huấn số 6, trương 33 vé 68-69-70)
Sửa bài giải nghĩa lấy chữ đầu, chữ đuôi.
1. Bực nào Thầy cũng định phân
Định rồi thì phải lo cần mới yên
Khuyên con dè dặt mới bền
Phận ai nấy biết rành tên tuổi nầy
2. Sao cho phải mặt con Thầy
Mừng vui thì đặng thấy hoài chuyện hay
Sao cho đoàn thể hiệp vầy
Thầy ra Mạng Lịnh mỗi ngày ráng tuân
3. Khuyên nhau đừng có lẫy lừng
Ngay đường một mực ngó chừng Đạo tâm
Đừng ham nghi nghị quá lầm
Kia cùng đây đó ráng tầm sự Chơn.
4. Đừng gây ra chuyện oán hờn
Trước thương, sau ghét nhiều cơn rẽ rời.
Đừng lòng lo choáng chỗ nơi
Mình yên thì phải độ người cho yên
181
5. Đừng ham rằng vậy có quyền
Anh sừng, em sẻ, rồi riêng ý ngoài
Đừng so cao thấp trí tài
Quyền cao rồi lại biếm bày ghét nhau.
6. Lo làm cho Đạo phát mau
Nghiêng thì phải đỗ đừng nao nặng nề
Lo sao bề thuận xuôi bề
Châu tuần cơ lý thảy đều một Cha.
7. Thầy thương lời tỏ cạn hòa
Sự nhơn tình dụng người ta phải rành
Khuyên nhau gìn trọn chí thành
Thì nao lời tục sẳn dành cản ngăn.
8. Cái lòng quyết định cho an
My nầy ngày Lễ thưởng ban, phạt trừng
Đại thừa Thiên phục phải tuân
Thầy cho mặc đủ gọi thân Đạo toàn.
9. Đồng hoà theo thể vậy an
Hay làm ra sự mở mang Đạo Trời.
Một cho quyết một theo Trời
Thành cơ hội cả đồng người thiệt tâm
10. Bài nầy sửa dạy HƯƠNG NHÂM
Con nào chịu học, chịu tầm trọn vui.
Thiên ân thì phải trọn mùi
Mùi trong lý Đạo bền vui chung cùng./-
ĐƯỢC, Bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một
bổn thì giao lai cho Thiên sư đặng trả lại cho HƯƠNG NHÂM./-
(HƯƠNG NHÂM, ở Lương-Hoà-Lạc)
-----ooOoo-----
182
BÀI 72: GIẢI NGHĨA TU CHO ĐƯỢC PHỤ TỪ, TỬ HIẾU
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 6 Annam 1939 (8 giờ tối) [TV.1971/182]
Giải nghĩa: “Tu cho được Phụ từ, Tử hiếu
Tu cho thành Huynh hữu, Đệ cung
Gái tu Tứ Đức, Tam tùng
Trai tu Nhơn nghĩa, Hiếu trung làm đầu”
( Kinh Tu Chơn vé 53)
XUYẾN, Con nghe MẸ dạy :
1. Chữ nhơn nghĩa hiếu trung nhiều lý
Mẹ dạy sơ, con nghĩ nghiệm tường
NHƠN là nghĩa trọn lòng thương
NGHĨA là giữ vẹn nghĩa phương Nhơn nghì.
2. HIẾU là Thảo, tu my làm trước
Dầu gái trai mực thước không rời
Đó là bổn phận làm người
Nếu không trọn thảo cả đời chịu hư
3. TRUNG là giữ khư khư một dạ
Lòng thẳng ngay dối giả không màng.
Tiếng thường gọi bực Trung cang
Đó là chi khí một trang anh hùng.
4. Chữ Nhơn, Nghĩa, Hiếu, Trung là gốc
Gốc con người chủng tộc thương nhau
Xưa nay cũng vậy khác nào
Khác đây là tại phong trào cãi canh.
5. Nên Đời đó phải đành kiếp đoạ
Phạt răn Đời tội quá bất tuân
183
Giải sơ cho trẻ rõ chừng
Hiếu, Trung, Nhơn, Nghĩa khuyên đừng bỏ qua.
Muốn tròn danh phận người, ta
Thì lo học hỏi trọn hoà mới nên./-
ĐƯỢC, Bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra rồi trả lại cho THỊ XUYẾN
một bổn. Còn bài Phụ từ Tử hiếu, Tứ đức Tam tùng thì biểu nó coi lại Thánh ngôn với
Đuốc Chơn lý thì nó thấy rõ. Còn bài Suốt thông Hiều để thì biểu HANH chép rồi gởi
cho nó coi, nó biết, cũng làm y mấy lời dặn trước./-
(XUYẾN, ở Bình-Hàng-Tây)
-----ooOoo-----
184
BÀI 73: GIẢI NGHĨA THIỆT ĐỊNH TÂM CÓ BA BÀI HỌC
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 21 tháng 2 Annam 1940 (5 giờ chiều) [TV.1971/184]
“Thiệt Định tâm có ba bài học
Thầy đã cho săn sóc có người
Nếu ai cả biếng già lời
Đèn nào cháy được bởi Trời gió giông”
(Tam Kỳ Thánh Huấn vé 385)
DIỆU THIỆN, con nghe MẸ dạy:
1. Thiệt bền lòng quyết Định tâm
Có ba bài học ráng tầm cho ra
Một là răn trị thói tà
Trị yên đừng để gây ra thêm nhiều.
2. Hai là định xét các điều
Dầu sau, dầu trước ít nhiều định phân
Sau là, sao chẳng trọn thân
Trước là, trước có căn phần phước chi ?
3. Ít lời, lời nói gắn ghi
Nhiều sanh quấy xão thì suy xét rành
Định cho có chỗ nơi dành
Phân tường hư thiệt chỗ mình thấy nghe.
4. Ba là đừng tập đảng phe
Tập nầy là tập nương về ý riêng.
Ba bài học đó phải chuyên
Là chuyên cần xét mình riêng biết mình.
5. Nên kêu GIÁI ĐỊNH HUỆ bình
Là ba bài để nghiệm hình thấy trong.
185
Thầy cho săn sóc chỉ đồng
Có người kềm thúc buộc lòng phải an.
6. Nếu lòng dụ dự nghi nan
Rày nghe, mai cãi thì toan biếng lười
Ấy là chịu tội cả đời
Vì trong không định thì người không nên
7. Luật Trời là Luật dạy khuyên
Không gìn, không giữ trở phiền trở than.
Gió thường giông dội bến an
Bởi Trời thường có người an phải tùy
8. Tùy là chỗ định, chỗ suy
Định suy cho quyết đường đi chẳng lầm
Đèn là đèn HUỆ tỉnh tâm
Gió giông phải biết sợ thầm, tránh xa
9. Đó là nhờ ĐỊNH mà ra
Định ra rồi hiểu đó là sự hay.
Kêu là khí tượng hay hay
Là hay trong chỗ thấy hay thêm nhiều.
10. Có người Thầy đã định giao
Là giao lời nói trọn đều có hay.
Ráng bền chỗ thiệt đừng sai
Có người Thầy dễ mỗi ngày nhắc cho
11. Già lười cả biếng so đo
Đó là điều tội nhắc cho lại hờn.
Hờn rồi thì phải vướng cơn
Là cơn nguy hiểm, với cơn dật dờ.
12. Nếu sa vào đó hết chờ
Là sa khỏi ĐỊNH bến bờ thấy đâu
Sa vào hang tối vực sâu
Khác nào mình hại mình câu buộc mình.
186
13. Nên rằng THIỆT ĐỊNH là Linh
Linh vì mình tự thấy mình hư nên
Mẹ khuyên con giữ vẹn bền
Có ba bài học làm nên cho mình./-
-THĂNG -
-----ooOoo-----
187
BÀI 74: TỈNH TÂM TẦM LÝ LÀ VẦY
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 23 tháng 6 Annam 1941 (10 giờ trưa) [TV.1971/186]
HƯỜNG, Con nghe MẸ dặn:
1. Tỉnh tâm tầm Lý là vầy
Là tâm lý trọn tỉnh hoài đừng mê
Mỗi điều hoặc thấy hoặc nghe
Hoặc làm cùng chẳng, trước dè dặt riêng.
2. Tầm ra Lý độ dữ hiền
Là trong Tâm Tỉnh cần chuyên dặn dò
Ấy là Lý thiệt hành do
Là do mình phải định cho tới cùng
3. Các điều nhơn sự hoà trung
Đặng yên bề dễ rõ chung một bề
Thấy đây thì đó chớ hề
Để yên mình nghiệm đừng chê chớ mừng.
4. Gọi là TIÊN TỈNH, HẬU PHÂN
Thì đâu có đến đổi thần hạo tiêu
Tỉnh tâm vậy biết chẳng nhiều
Vì mê thế tục, vui theo bụi trần.
5. Chẳng tầm Đạo lý duy tân
Tưởng cho là có cái thân vậy rồi
Nên đành sóng dập, gió trôi
Cũng cho là mặt trãi mùi ngọt cay.
6. Tỉnh Tâm Mẹ chỉ lần nầy
Là Tâm cần mỗi suy nầy nghiệm kia.
188
Suy cùng nghĩ cạn thấy chia
Là chia phàm tục thuộc về trả vay.
7. Tỉnh tâm tầm lý Đạo Thầy
Tới đâu càng thấy càng hay một mình.
Một mình biết vậy thì tin
Tin làm cho giống gọi mình biết lo.
8. Chỉ rành con cứ vậy lo
Đừng sai mà uổng, dặn cho nhớ chừng.
Trãi lần bỉ thái suy hưng
Cũng là tại tỉnh tâm lần thấy xa.
9. Tầm ra Lý nghiệm đây là
Mới hay Trời Phật thương đà quá thương.
Khó khăn lần chỉ mọi đường
Là Tâm tỉnh ngộ nhìn phương hướng mầu.
10. Quyết lòng dầu khó chẳng lâu
Còn ai không biết đụng đầu cũng xa.
Tỉnh rồi ta nghĩ lại ta
Tại sao mà đặng rõ Ma Phật rành.
11. Định tâm vào lối học hành
Tầm Chơn lý trọn ngày sanh mới hoài
Giải cho con rõ một bài
Từ đây ráng học rộng dài tới cao.
Nên rằng Đời Đạo quản bao
Tỉnh tâm tầm lý chậm mau chẳng lầm./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một
bổn thì giao lại cho Thiên Sư, đặng trả lại cho HƯỜNG
(Trần-Thị-Hường, ở Tân trụ, Tân An)
-----ooOoo-----
189
BÀI 75: ĐẶNG LẦN MẠT KIẾP CHO QUA
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 17 tháng 2 Annam 1942 (9 giờ trưa) [TV.1971/188]
HƯỜNG, Con nghe MẸ dạy :
1. Đặng lần mạt kiếp cho qua
Là qua lần khỏi lấn ta, xô người.
Đặng an mình một biết Trời
Lần coi chuyện thưởng, phạt rồi mới hay.
2. Mạt đời kiếp nạn vần xây
Cho bài răn dạy rành ngay, rõ tà.
Rõ ràng cẩn thận là qua,
Một cơn đành nhẫn nại xa ngông cuồng.
3. Chẳng hay Mầu nhiệm chê buồn,
Hay rồi thâm thúy bề luôn dễ bề
Đó là Mẹ nói con nghe
Rõ từ cơn mạt-kiếp về nghịch Thiên
4. Cho nên ngưòi vậy khó hiền
Đặng chung vào dữ, lành riêng ở ngoài.
Nhớ lời Mẹ nói từ nay
Ráng tu hành trọn thân nầy rảnh rang.
5. Thấy coi mạt kiếp rõ ràng
Nhiều tay lại muốn tuông càng nhảy vô
Vì chưng tội vướng mê đồ
Lòng ưa phá Đạo vầy cho phải vầy.
6. Định thần ngày một thấm hay
Vì cơ Trời gạn nào ai dễ tường.
190
Tiếng than đời mạt kiếp thường
Than mà không rõ bước đường tại đâu !?
7. Cho nên tránh thảm, gặp sầu
Là không người dắt nhiệm mầu khó phân
Từ nay con biết vậy rằng
Là cơn mạt kiếp có ngằn, có nơi.
8. Vì trong đó tự có Trời
Sắp vầy, xây khác vận thời chuyển luân.
Cứ thông đường cả một chừng
Bề tu hành Đức trọn đừng bỏ qua
Mẹ vì thấy trẻ thiết tha
Để lời khuyên dạy rành xa, rõ gần./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra để dành dạy Đạo, còn một bổn
trả lại cho Thị Hường đặng nó coi mà học./-
(Lễ sanh Trần Thị Hường, ở Tân trụ, Tân an)
-----ooOoo-----
191
BÀI 76: TRƯỚC ĐẠI HỘI CHÀO MỪNG CHƯ VỊ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 12 tháng 4 Annam 1938 (8 giờ tối) [ĐCL.33/62] [TV.1971/190]
PHỔ niệm nhơn duyên cố cựu tình
ĐÀ lâm Đàn nội biện phân minh
VIỆN khai Đại Hội Hàng Long giáng
TRƯỞNG thượng cơ huyền chỉ tại tin
Trước chào Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, chào Bữu An Thiên, chào chư Thiên
mạng nam-nữ lưỡng phái. Sau đây tôi xin nương bút tỏ lòng mừng chị em phái nữ.
NGHE THI :
1. Trước Đại hội chào mừng Chư vị
Nhìn mặt nhau rơi lụy chạnh lòng
Phận tôi đã trọn quả công
Chị em lớn nhỏ tấm lòng chưa an
2. Vì tại đó kẻ than, người thở
Động lòng tôi nên trở gót về
Giáng đàn tỏ nỗi phận quê
Chị em khá ráng mà nghe cho rành
3. Muốn rõ Đạo, học hành mới rõ
Muốn theo Thầy, trước bỏ Tham, Sân
Dầu xa, sau cũng đặng gần
Chị em phải ráng, bước lần mà theo
4. Khuyên chớ khá than nghèo, bỏ Đạo
Liệu sức mình giúp Đạo, tin Thầy
Khuyên đừng rày đó, mai đây
Phải lo báo đáp, ân dày nghĩa sâu
192
5. Khuyên bỏ thói cơ cầu ích kỷ
Dứt các lời dị nghị chuyện đời
Khuyên rày bỏ tánh buông khơi
Phải lo có chỗ, có nơi cậy nhờ
6. Châu Thiên đó Đồ Thơ, Lục Viện
Phải nghiệm tường ấy chuyện huyền vi
Chị em chưa rõ, còn nghi
Xúm nhau than thở, nhiều khi Thầy phiền
7. Tuy đã biết bạc tiền hao tốn
Phải biết rằng phần tốn phải rồi
Phải là gầy dựng yên nơi
Trước thờ Ngọc Đế, sau người ngưỡng triêm
8. Chị em ráng cẩn nghiêm cho lắm
Đạo tuy là thâm thẩm, vơi vơi
Nếu ai sớm biết nghe lời
Tự nhiên sẵn có phước Trời ban cho
9. Muốn hành Đạo, trước lo công quả
Công quả tròn, Thầy xá tội xưa
Nếu con trì huởn, dây dưa
Ngày qua, tháng lụn; tội đưa theo mình
10. Vì tội chẳng có hình, có bóng
Nên dễ dui, rẻ rúng mới lầm
Lâu rồi dồn dập nhiều năm
Nhiều năm thì phải đọa trầm liên miên
11. Người sớm tỉnh thì kiêng, thì sợ
Người còn mê lại trở vui cười
Coi điều tội lỗi như chơi
Vậy nên không kể Luật Trời thưởng răn
12. Lời Bần Đạo cạn phân đủ lẽ
Xin Chị, em mau lẹ xét mình
193
Trước là cho trọn Đức Tin
Sau là cẩn thận, phân minh Chánh, Tà
13. Chị, em đã bước qua Tam tiểu
Phải nghe Thầy dạy biểu hằng ngày
Phận hèn siêng học cũng hay
Tài hay trở lại, cãi Thầy cũng hư./.
Bài nầy để đọc trong Đạo tràng phái Nữ.
-THĂNG-
-----ooOoo-----
194
BÀI 77: TUỒNG ĐỜI ẤM LẠNH TUA XA LÁNH
Cầu Kho, Đêm 29 tháng 8 Tân Vì 1931 [TV.1971/192]
DIÊU cảnh thanh nhàn chẳng đổi phai
TRÌ tâm tu-niệm với công dày
KIM khai nẽo chánh con chung bước
MẪU tử hiệp nhau mới nở mày.
Mẹ mừng các con, bên Nam phái đã có dạy nhiều lần, bên các con thì còn có
nhiều đứa còn sụt sè đường Đạo lắm nghe các con. Tâm tánh sao cho đặng mở mang
mà rõ đường Đạo đức, cho hiểu rõ Chánh, Tà . Có nhiều đứa tu mà chỉ có bắt chước là
trước, chớ có đứa nào mà hành theo Chơn lý tánh nết dõng mãnh đâu ? Ôi !! là phận
hèn của Nữ phái đó nghe.
Các con Nữ phái nghe MẸ dạy:
THI BÀI
1. Tuồng Đời ấm lạnh tua xa lánh
Nẽo thế càng thêm chạnh lòng đau.
Có ai mong vớt lên nào
Biển trần lặn hụp sa vào lửa than.
2. Mây tựu lại rồi tan mấy lát,
Cuộc trần hoàn chẳng khác chiêm bao.
Sông to, sóng dợn ba đào,
Mái chèo đưa rước nỡ nào linh đinh.
3. Cân Tạo hóa công bình ngay thẳng,
Kẻ mê đời dễ đặng đi qua,
Thuyền khơi trong một đôi ba,
Chẳng duyên đạo đức nào qua tới bờ.
195
4. Chớ gặp việc bơ ngơ làm lãng,
Phận chị em cùng bạn với nhau,
Đừng tôn kẻ thấp người cao,
Đồng chung em chị, đồng nhau chung đàng.
5. Vậy mới đặng rõ ràng nữ phái
Chịu đắng cay thừa thải mọi điều
Cùng trong cả thảy mến yêu,
Ngày sau trở lại Cung Diêu an nhàn./-
-----ooOoo-----
196
BÀI 78: TỪ ĐÂY THẦY MỞ ĐẠO MẦU
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 1 tháng 8 Annam 1944 (6 giờ chiều) [TV.1971/194]
HƯỜNG, Con nghe MẸ dạy :
6. Từ đây Thầy mở Đạo Mầu
Từ đây đừng tính vọng cầu lố lăng
Nên kêu phẳng lặng trang bằng
Con đồng chung một bổn căn Chơn truyền.
7. Đạo mầu chừng đó hiển nhiên
Hiển nhiên nhiều đứa thấy liền chỗ hay
Nên rằng Mẹ dặn từ đây
Biết Thầy mở Đạo mầu hay ráng cần.
8. Có duyên thì có phước phần
Lập thân cùng chẳng một lần nầy đây.
Đạo mầu nào quến dụ ai
Ấy là của báu tự ai biết tìm.
9. Bề ngoài qui chánh, luật nghiêm
Bề trong dạy dỗ thúc kềm vững an
Biết vầy khó nhọc đừng than
Ráng làm cho được vững an phận hiền.
10. Đạo thông mầu nhiệm phỉ nguyền
Là do mình biết cơ huyền diệu minh.
An bề THƯỜNG, THIỆT, chí TIN
Dầu nam, dầu nữ ĐỨC MINH THẠNH TỒN
11. ĐỨC khai hòa Lý hiệp đồng
197
MINH tường chơn ngụy đục trong có ngằn.
THẠNH danh mầu tự thông hoằng
TỒN tâm tế độ biện căn kiếp người.
Từ đây con nhớ vậy rồi
Từ đây Mẹ sẳn giúp lời dạy thêm./-
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra trả lại cho Thị Hường, đặng
nó coi, nó học./-
-----ooOoo-----
198
BÀI 79: GIẢI NGHĨA MƯỜI KHUYÊN - KINH TU CHƠN
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 8 tháng 12 Annam 1938 (5 giờ chiều) [ĐCL.35/54] [TV.1971/195]
NẾT, Con nghe MẸ dặn :
1. MỘT khuyên con phải Kiền thiền
Ấy là bền chặt giữ gìn Đạo tâm
HAI là khuyên trẻ phải tầm
Đạo Trung Tam giáo để làm lời khuyên.
2. Tuân theo Tiên Phật, Thánh Hiền
Trong ba Vị đó nối liền từ xưa
Đạo khuyên tà, vạy phải chừa
Thiệt cho đúng thiệt, ngay thời đúng ngay
3. Thánh kinh khuyên dạy hằng ngày
Ráng coi mà học mỗi bài cho thông
BA là khuyên nhớ Tổ tông
Đó là nhớ Đức, nhớ Công sanh thành
4. BỐN khuyên Đời, Đạo phải rành
Cang giềng thường mối, gia đình đạo nghiêm
Mẹ Cha sanh dưỡng trọn niềm
Lớn khôn Thầy dạy, chỉ tìm mối sanh
5. Anh em cốt nhục trọn thành
Là do Hiếu Để, đặng mình nhìn nhau
Bạn cùng bằng hửu chi giao
Một lời tin cậy, trước sau cho tròn
6. Đừng lòng hiếp dại, cậy khôn
199
Náo nương dìu dắt, bôn chôn đoạn lìa
Vợ, chồng là chỗ sớt, chia
Đắng cay, bùi ngọt sớm khuya một lòng
7. NĂM là khuyên nhớ kẻ Nông
Cày sâu, cấy cạn; là công nhọc nhằn
Mỗi khi ngồi lại bữa ăn
Ăn rồi phải xét, khó khăn công người
8. Chớ đừng bỏ rớt, bỏ rơi
Có ăn thì phải nhớ người làm ra
Từ ngày hột giống gieo ra
Rồi sanh cây lúa, mới là trỗ bông
9. Đem thân ra đứng giữa đồng
Nắng mưa cũng chịu, gió giông chẳng sờn
Tại vầy nên phải nhớ ơn
Thánh Hiền chép để, Tứ Dân công dày
10. SÁU là khuyên nhớ hằng ngày
Áo quần mặc ấm, nhờ tay thợ tầm
Trồng bông, dệt vải tiếng chăm
Đông tay nhiều thợ, nhiệt tâm lo lường
11. Chỉ mành nào khác nhện vương
Làm ra tấc vải, là đường khó khăn
Nhờ vầy mới có che thân
Một no, một ấm, hai phần xứng nhau
12. BẢY khuyên liên lạc đồng bào
Dầu cho khác giống, khác màu cũng thương
Liên là giữ trọn con đường
Lạc là cũng máu, thịt xương như mình
13. Đồng bào là chỉ chúng sanh
Một nhao, một rún, Trời sanh ra nhiều
TÁM là khuyên bỏ tự kiêu
200
Dựa quyền, dựa thế; kiếm điều hại nhau
14. Mỵ là tự đắc, tự cao
Chia môn, lập đảng rồi sau hại mình
Người tu phải giữ, phải gìn
Một câu Đức hạnh, tánh tình cho kham
15. Nên trang hiền ngõ cõi phàm
Đạo cao, đức trọng; đặng làm gương chung
Phải tôn, phải trọng hết lòng
Là tôn Đạo đức, Hạnh cung khiêm từ
16. CHÍN khuyên phải nhớ Thiện từ
Thấy người Cô quả, chớ lời dễ khi
Cô là vô phụ, bần nhi
Quả là quả phụ, biệt ly xa chồng
17. Cả hai đều phải thương đồng
Chớ nên húng hiếp, đừng lòng tà tây
Xét cùng ai cũng như ai
Cô Nhi Quả Phụ, khó tài cự đương
18. Ở sao cho trọn lòng Nhơn
Đỡ nưng yếu thế, giúp cơn ngặt nghèo
MƯỜI là khuyên nhớ chữ Nhiêu
Lỗi người hỹ xã, thì tiêu tội mình
19. Muốn cho Tâm, Tánh đặng bình
Đừng sanh hờn giận, thì mình đặng vui
Hờn nầy, oán nọ tới lui
Dứt xong đừng để thì nguôi dạ sầu
20. Chớ nên ham muốn cơ cầu
Tu Tâm, tu Tánh bước đầu là đây
Tu là trau sửa nhiều ngày
Nhiều ngày rồi lại thấy hoài tội xưa
21. Hiện nay thấy quấy phải chừa
201
Lo làm chuyện phải, tội xưa tiêu lần
Bước đầu khó tại Tham, Sân
Sau là Mê Tín, phải cần xét xem
22. Bồ Đề diệu quả trang nghiêm
Đó là viên mãng, ngưỡng triêm muôn đời
Mười khuyên học giải đủ lời
Nếu con làm đặng, trọn mười thì nên
23. Đặng không bền với, không bền
Muốn bền thì phải, thúc kềm đừng lơi
Bỏ điều tu giởn, tu chơi
Nên , hư là đó; đổi dời là đây
Tu chơn Thiệp khuyết kinh Thầy
Mười khuyên khó tại, đoạn nầy đừng quên./.
-----ooOoo-----
202
BÀI 80: GIẢI NGHĨA E CON DẠI NÊN HƯ CHẲNG RÕ
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 7 tháng 5 Annam 1943 (8 giờ sáng) [TV.1971/199]
Giải nghĩa : “E con dại nên hư chẳng rõ”
(Chuyển Mê số 0, vé 238, trương 37)
NHÂM, Con nghe MẸ dạy :
1. E bầy con dại vất vơ
Nên hư chẳng rõ làm ngơ đặng nào
Mẹ lòng trông đợi xiết bao
Sai lầm Mẹ thấy đành đau đớn đành
2. Đường ngay mực thẳng không nhìn
Lạc sa vào nẽo tung hoành lại ưa
Lý Chơn lời chỉ ngăn ngừa
Nhiều con không xét lại lừa đảo mê
3. Một phần Mẹ quá ủ ê
Chuyên cần dạy kỹ, khuyên bề gái trai
Nghĩa nhơn là phận lâu dài
Giải phân rành rẻ, phần ai nấy nhìn
4. Đặng gồm đạo đức cho minh
Là thương cho trọn giảm tình tục kiêu
Bổn thành nguyên cựu Thuấn Nghiêu
Trung dung cần nhớ, mỗi điều chớ lơi
5. Bất diệt là chẳng sai lời
Bất thiên đứng giữa hỡi người ngược ngang
Tu hành kềm đức hạnh an
Ròng chuyên một Lý, hèn sang cũng vầy
6. Đạo Trời là qúi tại đây
203
E bầy con dại, tao mầy rẻ chia
Vất vơ, bề chẳng xong bề
Nên thì sợ khó, dễ bề đám hư
7. Vì trong chẳng rõ Thiện từ
Chẳng thông tàn bạo ưa vừa sự tham
Giải rành bài học nghe NHÂM
Muốn thông tường tận định tâm thấy rành./.
-----ooOoo-----
204
BÀI 81: TRONG ĐỜI THAM LUYẾN VÌ ĐÂU
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 16 tháng 2 Annam 1944 (7 giờ sáng) [TV.1971/200]
HƯƠNG, Con nghe Mẹ dạy:
1. Trong Đời tham luyến vì đâu
Vì đâu là chỗ ít tu khó dằn
Thì con mỗi đứa hay rằng
Vầy mau xét lại lẽ hằng xưa sao.
2. Trả lời cho hạp là cao
Trả xong điều đó xưa nào có tham.
Đúng người dầu nữ, dầu nam
Lời Chơn Chánh Đạo dẹp tham luyến tà.
3. Tỉnh đời nhớ đó làm ra,
Được vui điều phải do hòa lý minh.
Người xưa mình tự xét mình
Không tham, không luyến trọn gìn bổn sơ.
4. Trong đời nầy luyến ước mơ
Tham quyền, luyến tục, bợn nhơ không sờn.
Ít tu nào rõ THIỆT THƯỜNG
Nào TIN tội phước cứ lường gạt nhau.
5. Thành ra tham luyến ồn ào,
Trời thương, Phật ngán, người sao nỡ đành.
Vì đâu mà phủi chuyện lành
Luyến tham là dữ, giựt giành tưởng vui
6. Vì đâu đến đổi ngùi ngùi
Rồi trong đời vậy kêu Trời dễ đâu.
Cũng là chẳng thấm vào đâu
Ít tu người khó nỗi thôi tánh phàm
205
7. Bày ra phóng túng không nhằm
Lớn truyền lây nhỏ, tội tham luyến tràn.
Cuộc đời đó vậy nào an
Xảy ra điều biến nói càng thảm thê
8. Tỉnh đời nhờ chỗ biết nghe
Biết mình hư thiệt chịu quê qua ngày.
Qua rồi thấy sự bền hay
Ngày bôn giục quấy, tao mầy giết nhau.
9. Có vầy mới rõ vì đâu
Thì tham luyến vậy ai hầu đắm mê.
Trước sau bề quyết trọn bề
Làm thân người tốt đâu hề có sai./-
-----ooOoo-----
206
BÀI 82: GIẢI NGHĨA TÊN TUỔI TA BAO LA VÕ TRỤ
VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐÀI
Ngày 7 tháng 10 Annam 1944 ( 6 giờ Chiều ) [TV.1971/201]
Đầu bài Thầy cho như vầy :
« Tên tuổi Ta bao la võ trụ
Tên tuổi người che phủ thế gian
Muốn cho tên tuổi miêng tràng
Ta Người tên tuổi vững vàng chớ quên »
TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU vé 36
Câu thứ 1 : Tên tuổi Ta bao la võ trụ
Nghĩa là : Cái tên cái tuổi của Ta mà được bao la nghĩa là trùm trong võ trụ, đó
là nhờ Ta biết nương theo Lý Trời mà thiệt hành cho đúng, thì cái tên tuổi đó gọi là tên
tuổi Ta, đó là đồng thể với Trời, nên mới được bao gồm cả thảy, mắc mỏ vô cùng, tới
đâu cũng có tên, có tuổi đó là Ta.
Câu thứ 2 : Tên tuổi Người che phủ thế gian
Nghĩa là: Hễ tên tuổi của Người là về phần xác đây, hễ lớn tuổi thì kỉnh là người
Trưởng thượng, có được cái tên tốt thì chỗ đó là có danh nghĩa, là sang cả, thì lấy đó
đặng làm cây lọng cao hay cây dù thấp đặng phòng che phủ cho cả thế gian, nghĩa là
cứu vớt chở che, đừng ỷ lớn, ỷ sang mà quên điều tội phước.
Câu thứ 3 : Muốn cho tên tuổi miêng tràng
Nghĩa là: Làm người muốn cho hai cái tên, tuổi đó mà được cho lâu dài thì phải
ráng kềm Tâm-Tánh.
Câu thứ 4: Ta Người tên tuổi vững vàng chớ quên
207
Nghĩa là : Tên tuổi Ta hay là Người cả hai đều phải giữ gìn đừng có dể ngươi,
thấy trọng mà quên khinh, thấy cao mà quên thấp, ngó trước sợ sau, nhìn trên xét dưới
thì đó gọi là vững vàng. Lời Thánh Mẫu dạy, các Con chớ quên là quên vậy đó.
Con giải rồi giao lại cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn thì
giao lại cho Thiên sư, đặng trả lại cho THỊ LỊCH./-
-----ooOoo-----
208
BÀI 83: GIẢI NGHĨA CÁC CON CHUỘNG CAO ĐÀI DANH HIỆU
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 27 tháng 3 Annam 1939 (3 giờ chiều) [ĐCL.36/79] [TV.1971/203]
Giải nghĩa : “Các con chuộng Cao Đài danh hiệu
Mà không lo thấu hiểu Đạo mầu
Ngàn khuyên, muôn dạy bấy lâu
Lòng con bôi lọ một câu chưa rành
Nói năng dường sải niệm kinh
Gạn lòng lại thử ngọn ngành u ơ…”
(Chuyển Mê số 10, vé 264)
TỰ, con nghe Mẹ dạy:
1. Các con chuộng Cao Đài danh để
Để hiệu khoe, kiếm thế, cậy thần
Chuộng mà chẳng xét, chẳng phân
Không rành chỗ chuộng, có cần ích chi
2. Có công nghiệm, thị phi không xét
Danh hiệu Thầy là thiệt tối cao
Cao Xanh Đài vọi làu làu
Một ngôi Độc Nhứt, gồm bao dưới trần
3. Mà tại trẻ không cần sự học
Khó thấu điều Thận Độc chơn thân
Đạo cao mầu nhiệm muôn phần
Học đâu hiểu đó, đặng lần bước theo
209
4. Đạo Mầu dạy, rãi gieo Chơn Lý
Biết Ta, Người biết Lý Tồn Vong
Tuồng đời ấm, lạnh phải thông
Trở day tấn thối; nhờ thông Đạo Mầu
5. Ngàn muôn dạy, khuyên đâu bỏ đó
Dạy cho nhiều, sợ khó rồi thôi
Tại vầy chìm đắm, nổi trôi
Lòng con mỗi đứa, lọ bôi thêm nhiều
6. Một câu nói dệt thêu, thêm dậm
Trong chưa rành lợt đậm, mỏng dày
Nói nhiều vậy tưởng là hay
Giống như bọn sãi, khoe tài niệm kinh
7. Gạn lòng hỏi lại chữ TIN
Thử xem mỗi đứa, làm thinh như tờ
Ngọn ngành không rõ ngáo ngơ
Ngoài ra kiếm chuyện, u ơ cho rồi
8. Mẹ nhìn thấy rõ khúc nôi
Phần đông tại đó, mà thôi tu hành
Cũng vì mình chẳng xét mình
Dốt không chịu học, thì đành chịu hư !
9. Tội kia, lỗi nọ ai trừ
Chuộng danh, làm dối đổ thừa được sao ?
Dạy rành con rõ thấp, cao
Muốn nên người Đạo, thì mau học hành./.
ĐƯỢC, bài nầy con giao cho CA, đặng nó in ra để dành dạy Đạo. Còn một bổn
thì trả cho Hương Tự (ở Sa Đéc).
-----ooOoo-----
210
BÀI 84: HÒA, HẢO, TÙNG, NHO GIỮ TRỌN HẰNG
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ [TV.1971/205]
Hòa, Hảo, Tùng, Nho giữ trọn hằng
Công, Dung, Ngôn, Hạnh ráng thăng bằng
Điều hơn lẽ thiệt nên đồng chí
Chí gắng vầy vui Đạo xích-thằng
Xích thằng trọn nghĩa tiếng đời khen
Khen gái Nhà Nam biết tập rèn
Rèn tập Tam tùng cùng Tứ đức
Đức thuần một dạ lúc sang hèn.
Sang hèn cũng trọn nghĩa Tào khương
Khương tử chi thê chớ học phường
Tham phú, phụ bần nên tránh tiếng
Tiếng sao cho rạng nghĩa luân thường.
Luân thường chấn chỉnh dạy con thơ
Thơ ấu trí, tâm vẫn mịt mờ
Mờ ám vì thường mê vật chất
Chất Trời vẫn tối buổi ban sơ
Nghiêm răn, sửa trị mối nhơn luân
Sửa óc trẻ thơ, hạnh đức thuần
Hậu tấn ví dầu tròn Đạo đức
Vẻ vang nghĩa mẹ đối nhơn quần.
211
Nhơn quần xã hội cảnh nhà chung
Phải lúc phô trương chớ ngại ngùng
Đoàn thể cùng nam chia trách nhiệm
Xông pha đường Đạo phải qui tùng.
Qui tùng Chánh giáo thọ ân Thiên
Chồng vợ hiệp tâm giữ mối giềng
Giềng mối Đạo Đời cho trọn vẹn
Vẹn nguyền phổ độ phước vô biên.
Vô biên hạnh phúc tiếng bia đồn
Roi dấu gái hiền để tử tôn
Hạnh đức rở ràng gương Nữ Việt
Việt Nam thành Đạo buổi sanh tồn./-
-----ooOoo-----
212
BÀI 85: NỮ NHI TRÁCH NHIỆM ĐÃ RIÊNG PHẦN
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ [TV.1971/206]
Nữ nhi trách nhiệm đã riêng phần
Phận sự chờ cơn máy chuyển vần
Vận chuyển tuần huờn Thiên dĩ định
Định tùng Chánh lý khá siêng cần.
Siêng cần tô điểm Đạo Tề gia
Gia thất yên vui bởi thuận hoà
Hoà hiệp Phu Thê hành Chánh giáo
Giáo ngôn nội trợ tạo nên nhà
Nên nhà TỨ ĐỨC vốn đời khen
Khen gái Nhà Nam chí chẳng hèn
Hèn chẳng phụ phàng, sang chẳng tưởng
Tưởng cơn tấm mẳn cực đôi phen.
Đôi phen gió táp với mưa sa
Lặn lội tìm ra mối Đạo nhà
Sùng bái Phật Trời tròn tín nghĩa
Đạo Đời toàn vẹn gấm thêu hoa
Thêu hoa tô điểm Đạo Nhơn luân
Rạng vẻ nữ nhi Đức Hạnh thuần
Thuần hậu vốn là nền nết gái
Thi ân bố phước độ nhơn quần
213
Nhơn quần thống khổ lắm con ôi !!
Dìu dắt chúng sanh kíp phục hồi
Gắng chí dò lần qua bỉ ngạn
Thành tâm Đạo cả gắng trau giồi
Trau giồi tâm chí ráng tương thân
Liên lạc chớ xao chí hiệp quần
Đoàn thể Nữ, Nam đồng trách nhiệm
Thường soi Thánh huấn ráng siêng cần.
Chuyên cần bồi bổ khối tinh thần
Vật chất là điều hại não cân
Phải ráng noi gương trang Nữ kiệt
Chí cao chi sá bước phong trần
Phong trần vày vẻ chẳng nài bao
Nữ kiệt nào thua bực tuấn hào
Hào hiệp phải thời ra gánh vác
Khỏi mang thẹn tiếng gái phong đào …
-----ooOoo-----
214
BÀI 86: MẶT TRỜI LỐ MỌC NHÀNH DƯƠNG
DIÊU TRÌ KIM MẪU
1. Mặt Trời lố mọc nhành dương
Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng
Biết con trần thế có lòng
Thành tâm cầu khẩn Mẹ hòng vãng lai
2. Dạy con để dạ nhớ hoài
Mai sau về chốn Thiên Đài chung vui
Hễ con biết Đạo, biết mùi
Biết trau sửa Tánh, biết giồi nết na.
3. Biết con là phận đàn bà
Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương
Biết dùng dưa muối rau tương
Biết lo tụng niệm. biết đường tu thân
4. Chớ nên quyến luyến hồng trần
Chớ nên ham phú, phụ bần rẽ hai.
Chớ cho tình lợt, duyên phai
Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm lòng.
5. Có chồng trọn nghĩa với chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.
Làm sao phải gái Nhà Nam
Phải gìn Đạo đức, phải ham tu hành.
6. Phải lo hai chữ sanh thành,
Phải thương Cha Mẹ nhọc nhằn buổi xưa.
Phải cần sớm tối cùng trưa
Phải lo tu niệm quê xưa được về.
215
7. Hồng trần cỏi tạm giấc mê
Sao bằng Tiên cảnh là quê hương mình.
Thấy con có chí đạt thành
Cho nên Mẹ phải nhọc nhành vì con.
8. Dầu cho biển cạn non mòn
Mấy lời Mẹ dặn giữ tròn chớ sai
Giã con ở lại trần ai
Mẹ về Tiên cảnh, Bồng lai hưỡng nhàn./-
-----ooOoo-----
216
BÀI 87: ĐỜI NHIỀU NỖI ÉO LE THẢM THIẾT
CẦU KHO, Đêm 29 tháng 8 Tân-Vì (1931) [TV.1971/209]
DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN
MẸ mừng các con nam-nữ
NGHE THI:
VÔ vi cảnh báu chẳng mòn phai
CỰC trí Mẹ đây thảm mỗi ngày
TỪ thuở tạo Thiên nay giáng thế
TÔN truyền Lý Đạo giữ lòng hoài
Các Con Nữ Phái nghe MẸ dạy : Các con ôi !! MẸ khuyên các con giữ Đạo Trời
khai, ấy là độ các con phản bổn huờn nguyên, qui hồi cựu vị. Than ôi !! Đạo Trời khai,
hết lời dùng Huyền cơ Diệu bút mà dìu đàng cho các con trở về vị cũ; vì từ thuở chí
nay, các con phần nhiều là điểm thiêng liêng Thầy cho tại trần mà các con đâu có biết
mình là căn Tiên, cốt Phật giáng trần, cứ mê trần thế mà quên đường quả vị. Các con
ôi !! MẸ chẳng nở để cho các con luân trầm sa đọa, nên MẸ giáng cơ mà khuyên dạy
các con.
NGHE THI BÀI :
1. Đời nhiều nỗi éo le thảm thiết
Thấy con thơ chẳng biết đàng về
Tưởng rằng trần thế là quê
Nào hay biển khổ, sông mê thảm sầu.
2. Cơn mạt kiếp đáo đầu vay trả
Các con lo công quả cho cao
Ráng lo Nữ kiệt, anh hào
Tu sao cho khỏi trần lao ái hà.
3. Kìa Tiên cảnh là nhà các trẻ
217
Mê đỉnh chung khó nhẹ linh hồn
Tu sao độ rỗi tử, tôn
Tu sao cho khỏi dập dồn trái oan
4. Khuyên các trẻ nhớ đàng Chánh giáo
Phận NỮ NHI trọn Đạo TAM TÙNG
Mau chưn tránh khỏi trần lung
Nhớ rằng Ngọc Đế Huyền Khung cứu Đời.
5. Nơi Thượng giới cung Trời mở sẳn
Để chờ con lòng đặng hiền lành
Cung Tiên đã để sẳn dành
Khuyên con bước tới cảnh thanh an nhàn
6. Nơi trần thế là đàng lao khổ
Ráng công Tu báo bổ ân thâm
Tu thân thì khỏi Luân trầm
Đêm ngày suy nghĩ ráng tầm Đạo Chơn
7. Nơi cỏi thế thua hơn chi trẻ ?
Bóng thiều quang rất lẹ đó con
Trăm năm lòng ở vuông tròn
Khuyên con DỨT TUYỆT PHẤN SON kiếp nầy
8. Mê vật chất thêm đầy nghiệp quả
Ở nơi trần nợ trả cho xong
Khuyên con bền chí dày công
Bước theo Đại Đạo thoát vòng biển sâu
9. Lòng hung ác chịu sầu sa đoạ
Cỏi Tiên ban cảnh lạ đẹp xinh
Ngày đêm ráng giữ hạnh mình
Bước qua biển khổ sẳn dành Vị Ngôi.
218
KỆ :
Vị Ngôi Tiên cảnh đẹp lòng xinh
Trần thế nạn tai nỗi gập ghình
Các trẻ mau tường cơn thống khổ
Bước đường ngay thẳng giữ lòng tin.
Các con ôi !! Phận Nữ nhi là phận yếu hèn, thấp thỏi, mà các con chẳng lo Tu
Nhơn, Tích Đức đặng vun bồi điểm linh quang của Trời ban bố thì rất uổng cho kiếp
nầy. Vì gặp Đạo Trời khai mà bỏ qua thì biết mấy đời gặp Đạo nữa ?
Vậy MẸ khuyên các con ráng Tu một kiếp nầy thì muôn năm toại hưỡng đó con.
NGHE THI :
Điển quang muốn dứt giả từ con
Ban phước trẻ thơ ráng giữ tròn
Mấy thuở gặp Trời khai Đại Đạo
Tu Tâm thì đặng Tánh Linh còn
- H Ế T -