HÀNH TRÌNH ĐI TÌM Ý TƯỞNG SÁNG TẠOHÀNH TRÌNH
ĐI TÌM Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
HUỲNH VĂN SƠN (Chủ biên)
NGUYỄN HOÀNG KHẮC HIẾU
LỜI NÓI ĐẦU
“CÓ MỘT THỨ MẠNH HƠN TẤT CẢ CÁC ĐẠO QUÂN TRÊN THẾGIỚI ĐÓ LÀ Ý TƯỞNG, THỜI ĐẠI CỦA Ý TƯỞNG ĐÃ ĐẾN”
- VICTOR HUGO -
Chắc hẳn mỗi chúng ta, kể từ khi còn cắp sách đến trường phổ thông
cho đến những năm tháng lê la trên ghế giảng đường Đại học rồi bước chân
vào đời với biết bao khát khao cháy bỏng về tương lai và những hoài bão
từng ấp ủ. Ắt hẳn cũng như bao người khác, luôn nghe nói đến từ “Ý
TƯỞNG”. Vậy có bao giờ chúng ta chợt hỏi: ý tưởng là gì và làm sao để có ý
tưởng?
Ý tưởng là hai từ thật ngắn gọn nhưng lại làm cho mỗi người có những
suy nghĩ khác nhau về nó. Ý tưởng - không chỉ ý tưởng về quảng cáo mà còn
là ý tưởng về mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày; đó là hoạt động của cả
một đời người, một công việc không bao giờ dừng lại, một mục tiêu không
bao giờ hoàn toàn thỏa mãn. Một cán bộ kế toán, nhà lập kế hoạch truyền
thông, một nhà nghiên cứu chứ không chỉ là người soạn thảo các chương
trình quảng cáo hay người chỉ đạo nghệ thuật; một người mới vào nghề hay
một người được xem là “gạo cội” chuyên nghiệp và cũng như bao người khác
dù là doanh nhân hay công chức, giáo viên hay nội trợ… tất cả họ cần biết
cách nảy sinh ý tưởng. Tại sao?
- Trước tiên, vì ý tưởng mới là bánh xe của sự tiến bộ, khả năng nảy
sinh ý tưởng tốt chính là điều kiện sống còn cho thành công của mỗi người.
Không có ý tưởng đồng nghĩa với sự trì huệ, sự hạn định, sự ngưng đọng
như cái “chết”.
- Thứ hai, máy vi tính hiện nay đang cáng đáng hầu hết những công
việc tầm thường mà chúng ta phải làm, do đó (ít ra là trên lý thuyết) con
người được tự do và tất nhiên đòi hỏi phải thực hiện công việc lao động sáng
tạo mà máy vi tính không thể đáp ứng. Chỉ có ý tưởng mới là thứ mà máy
móc chưa thể đáp ứng và lẽ đương nhiên, việc tạo ra máy móc cũng là ý
tưởng của con người.
- Thứ ba, con người đang sống trong kỷ nguyên mà người ta gọi là “Kỷ
nguyên của thông tin”, một kỷ nguyên luôn yêu cầu dòng chảy liên tục của
những ý tưởng mới nếu muốn khai thác hết tiềm năng của con người và
thành tựu của vận mệnh nhân loại. Chính ý tưởng là sản phẩm hay nguồn tài
nguyên vô tận được khai thác một cách lý thú và vô biên. Nguồn tải sản quý
báu này được xem là một trong những thước đo hiếm thấy để minh chứng về
sự phát triển và sự thành công một cách đúng nghĩa.
Tóm lại, giá trị thật của ý tưởng là vô biên. Không thể đánh giá một
cách đầy đủ hay đúng nghiã đến mức tròn trĩnh về ý tưởng. Càng không thể
định hình những ý tưởng hay định giá ý tưởng một cách thô thiển vì có những
ý tưởng là vô giá. Những nghiên cứu hay những lý luận về ý tướng sẽ giúp
mỗi người hiểu sự vật thấu đáo hơn, có những định hướng sâu sắc và lý thú
hơn. Khi những thông tin bùng nổ một cách bất ngờ, những khám phá chỉ
thực có khi được phối hợp với những thông tin khác để hình thành ý tưởng
mới: ý tưởng giải quyết vấn đề; ý tưởng giúp đỡ người khác; ý tưởng để tiết
kiệm, sửa chữa và tạo ra sự vật; ý tưởng làm cho sự vật tốt hơn, rẻ hơn và có
ích hơn; những tưởng có khả năng soi sáng, động viên, tiếp sức, tạo cảm
hứng và làm cho cuộc sống thêm phong phú.
Ý tưởng là một danh từ nhưng ý tưởng cũng chính là một mỹ từ thật
đẹp. Ý tưởng dành cho mỗi người nếu như những cá nhân biết suy nghĩ, biết
cảm xúc, biết trăn trở và biết sáng tạo một cách tích cực. Ý tưởng không tự
đến nhưng ý tưởng có thể được gửi trao bằng hình thức thắp sáng niềm đam
mê, khát khao và nỗ lực ý chí. Cuộc sống vẫn ngày ngày diễn ra, mỗi người
sẽ bắt đầu thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, mỗi người sẽ có thể có
những sự thay đổi hay phát triển nhưng chắc chắn mọi thứ đó không thể tách
rời ý tưởng. Ý tưởng là ngọn nguồn của mọi thứ trong cuộc sống này hiểu
theo nghĩa rộng của nó là như thế!
Quyển tài liệu này ra đời cũng bắt nguồn từ một ý tưởng ý tưởng rất thú
vị đó là ý tưởng tạo ra một tài liệu về ý tưởng. Không hẳn là chưa có quyền tài
liệu nào viết chuyên biệt về quảng cáo, sáng tạo, tư duy sáng tạo hay những
vấn đề có liên quan nhưng một quyển tài liệu chuyên sâu về ý tưởng quả thật
là một ý tưởng thú vị. Tại sao không thực hiện ý tưởng thành hiện thực? Đó là
những suy nghĩ mang tính chất ý tưởng của chúng tôi. Hy vọng ý tưởng ấy sẽ
được đón nhận. Ý tưởng ấy không chỉ là ý tưởng mà nó đã là một sản phẩm
có thật dù rằng những hạn chế hay những thiếu sót của nó là khó tránh khỏi.
Chương 1. THẾ NÀO LÀ MỘT Ý TƯỞNG?
I. Ý TƯỞNG VÀ Ý TƯỞNG SÁNG TẠONhư đã đề cập, khái niệm ý tưởng là một khái niệm hết sức độc đáo.
Khi con người lóe sáng một suy nghĩ, đó cũng là một ý tưởng. Khi con người
quan sát một sự vật hiện tượng xung quanh - đó cũng là ý tưởng. Ý tưởng
luôn hiện hữu trong cuộc sống xung quanh và mỗi người chúng ta hoàn toàn
có thể lấy nó ra một cách hết sức giản đơn. Hãy bắt đầu bằng một ví dụ trong
thực tiễn để thấy rằng ý tưởng là ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo hay mọi
thành tựu.
Món ăn mà nhiều người đều có thể dùng hoặc đều phải dùng trong
cuộc sống hiện đại này đó chính là mì gói. Thế nhưng cũng chính khi con
người dùng món này thì chúng ta lại nảy sinh một ý tưởng rằng món mì gói
thật sự có khá nhiều “ưu điểm” nhưng cũng không thể tránh khỏi quá nhiều
khuyết điểm. Hãy liệt kê thật nhiều khuyết điểm của gói mì theo nghĩa chưa
hài lòng về nó và mong muốn nó sẽ được cải tiến một cách thú vị. Từ việc
đánh giá về hình thức bên ngoài cho đến những “phản ánh” về chất lượng
của gói mì đều thể hiện những ý tưởng của con người. Đó chính là: “mì này
sao mà ít hay nhiều thế”, “có quá nhiều dầu”, “mùi có vẻ không thực sự thơm
lắm”, “thiếu chất dinh dưỡng”, “thiếu độ xanh tươi vì không có rau”, “ăn vào
khá nóng”, “có thể tăng cân một cách nhanh chóng”… Tất cả những điều đó
là những yếu tố phục vụ cho ý tưởng đánh giá về gói mì ăn liền. Mọi thứ chưa
dừng lại vì con người vẫn có quyền đưa ra những mong đợi lý tưởng về gói
mì như: “phải chi có thể thêm vài hạt bắp”, “phải chi có thể có một chiếc tô
hay cái muỗng kèm theo”, “phải chi có vài viên thịt băm”, “phải chi có một chút
rau xanh được nén lại”, “phải chi có thể có nhiều chất dinh dưỡng cộng thêm”,
“phải chi có một chút nước chấm hay một tí ớt để riêng”… Tất cả lại tiếp tục
trở thành những dữ liệu phục vụ cho ý tưởng của con người trong cuộc sống.
Thoạt đầu, khi ý tưởng “phản kích” gói mì ăn liền ra đời, con người cũng
không hiểu đó là ý tưởng nhưng khi mọi thứ được hình thành thì có vẻ ý
tưởng này cũng thật sự thú vị. Cái thú vị của nó không chỉ thể hiện ở sự nhận
thức ban đầu mà ở những sản phẩm của tư duy. Con người chợt nhận ra
rằng những ý kiến và suy nghĩ của mình có khá nhiều điều lý thú và hoàn toàn
có cơ sở để thán phục những ý tưởng đó.
Thế nhưng mọi ý kiến xoay quanh gói mì gói có thể sẽ không trở thành
một ý tưởng mới lạ đến mức độc đáo nếu như không có một cơ duyên mới.
Một người phụ trách kỹ thuật hay phụ trách tiếp thị hoặc kinh doanh của một
hãng mì ăn liền hay thực phẩm công nghiệp có thể nảy sinh một suy nghĩ
tương tự. Ý tưởng đó sẽ không chỉ dừng lại thông qua những lời nói hay
những chia sẻ vui trong cuộc sống mà ý tưởng đó bắt đầu làm ra tiền để nảy
sinh vòng quay cho một ý tưởng mới. Đó là ý tưởng đổi mới cho dây chuyền
sản xuất cải tiến về chất lượng gói mì để gói mì đạt đến những chất lượng
cao hơn. Hay ngay chính ý tưởng rất bình thường của nhiều cá nhân là “tín
đồ” của mì ăn liền sẽ được sử dụng để chuyển đến những nhà sản xuất hay
bộ phận chăm sóc khách hàng hoặc quản lý chất lượng của một công ty
chuyên về mì ăn liền thì chắc chắn ý tưởng này lại được quay vòng một cách
thú vị. Đó là lúc ý tưởng của người chia sẻ có thể “chạm” đến sự quy đổi giá
trị, ý tưởng của người tiếp nhận có thể mau chóng trở thành một hệ thống giải
pháp đổi mới… Tất cả ý tưởng đều có thể có “điểm đến” một cách bất ngờ
nếu mỗi người hết lòng vì nó và tạo cho nó một cơ hội tỏa sáng.
Trong thực tế cuộc sống, ý tưởng luôn có thể “xuất phát” một cách hết
sức tình cờ và ngẫu nhiên. Không hẳn chỉ có những người chuyên biệt tìm tòi
và khám phá về ý tưởng mới, có năng lực tìm ra hay sáng tạo những ý tưởng
mà ai cũng có thể tạo ra những ý tưởng nếu mỗi người đều có quyền suy
nghĩ, đều có quyền phát kiến hay đều có quyền chia sẻ những ý tưởng của
mình trong cuộc sống hôm nay.
Bàn về ý tưởng, không thể bỏ qua khái niệm ý tưởng. Ý tưởng hiểu
theo nghĩa dân gian đó chính là một suy nghĩ một tư tưởng hàm ý được đưa
ra một cách thú vị nhờ quá trình động não hay quá trình tìm tòi của chính con
người. Ngay từ rất xa xưa, những ý tưởng của con người thường xuất phát
trực tiếp trong lúc con người lao động, trong lúc con người gặp khó khăn hay
gặp những thách thức nhất định.
Thử bàn về câu chuyện “Trí khôn của ta đây” để thấy ý tưởng con
người được gửi gắm một cách hết sức sâu sắc và đậm nét… Đứng giữa cái
khó khăn và ác liệt của cuộc sống, đó là làm thế nào để có thể bảo vệ chính
bản thân mình khi bi cọp - một con vật rất hung ác tấn công. Con người cũng
thực sự trăn trở một cách đặc biệt. Nhiều suy nghĩ lóe lên để có thể giải quyết
vấn đề như van xin, bỏ chạy, nhờ sự giúp sức của người khác - của vật
nuôi… Nhưng cuối cùng ý tưởng dùng mưu được lựa chọn như một điểm
đến. Sợi đây thừng sẵn có, cái cây to, mồi lửa… là tất cả những gì có thể sử
dụng thì tại sao lại không sử dụng để dạy cho con còn một bài học nhớ đời về
trí khôn của con người? Thế nhưng cũng chính câu chuyện này lại có thể xuất
phát từ một ý tưởng rất tự nhiên trong cuộc sống để giải thích cho những hiện
tượng không kém tự nhiên, đó chính là hàm răng rất lạ lùng của chú trâu, đó
chính là những vết loang lổ hay những đốm vằn vện trên lưng của chú hổ…
Những ý tưởng đó quả thật là đáng kinh ngạc khi nó xuất hiện và tồn tại trong
cuộc sống.
Theo từ điển Tiếng Việt thì ý tưởng là những gì con người nghĩ trong
đầu óc. Ý tưởng có thể là một hình ảnh, một biểu tượng hay một suy nghĩ
hướng về một cái gì đó trong cuộc sống và trong định hướng hành động của
con người.
Ý tưởng hiểu theo nghĩa Tâm lý học đó là những suy nghĩ của con
người như là sản phẩm của quá trình tư duy hoặc tưởng tượng mà ở đó con
người có thể hướng đến một cái mới trước đó con người chưa biết hoặc
chưa nghĩ đến. Ý tưởng có được nhờ vào sự tham gia đặc biệt của hoạt động
trí óc để tìm tòi hoặc chinh phục hay sáng tạo ra một sản phẩm nào đó trên
bình diện tinh thần và bình diện vật chất cho chính đời sống của con người.
Hãy nhận ra rằng trong cuộc sống này, ý tưởng có thể tràn ngập trong
tâm trí nhưng nếu con người không cho nó là một ý tưởng thì chắc chắn nó
cũng không thể là ý tưởng. Thế nhưng nếu chính con người cho rằng nó là ý
tưởng thì con người sẽ mạnh dạn phát kiến, sẽ mạnh dạn bộc lộ một cách hết
mình cùng đồng đội hay cộng sự thì ý tưởng sẽ dễ dàng trở thành ý tưởng
một cách thú vị đến bất ngờ. Ý tưởng bản thân nó không thể quy định hay
thẩm định giá trị của nó mà chính người sử dụng nó hay chính môi trường
xung quanh “chứa trong” quá trình thực thi ý tưởng sẽ dần dần làm cho ý
tưởng bộc lộ một cách hết sức đáng trân trọng.
Bản chất của ý tưởng là gì cũng là một câu hỏi khó. Xem ra hành trình
tìm đến bản chất của ý tưởng không khác gì so với quá trình đi tìm chân trời
trong thế giới thực. Có người cho rằng bản chất của ý tưởng là một ý niệm, có
người cho rằng bản chất của ý tưởng là một suy nghĩ mang tính chất mới mẻ.
Thực ra, nếu cho rằng ý tưởng chỉ là ý tưởng thì quả thật là ý tưởng có thể là
một ý niệm thoáng qua trong cuộc đời của con người. Ý tưởng có thể bay
bổng hay thậm chí có thể nhẹ nhàng, có thể “trì nặng” và bị rơi mất trong cuộc
sống xung quanh. Thế nhưng trong thực tế cũng có nhiều người nói rằng nếu
quan niệm như thế thì ý tưởng rõ ràng là không có giá trị. Hãy bắt đầu bằng
một tình huống để con người nhận ra rằng ý tưởng về bản chất của nó thực
sự rất đa dạng. Trong cuộc sống của con người, nhu cầu đi lại là nhu cầu
không thể thiếu được nhưng mấy ai có thể dễ dàng nảy sinh ý tưởng trong
nhu cầu đó. Ngay cả khi con người nảy sinh những ý tưởng xoay quanh việc
đi lại, di chuyển cũng không phải cá nhân nào cũng nghĩ đến việc sẽ đi lại
theo hướng nhanh hơn, tiện lợi hơn. Cùng dạo bước trên một chuyến phà để
con người thấy mọi ý tưởng có thể sẽ bắt nguồn hết sức thú vị.
Khi bắt đầu bước lên một chuyến phà, có thể dễ dàng quan sát xung
quanh để nhận ra con người trong cuộc sống này thực sự da dạng. Thế
nhưng khi họ đến với chuyến phà thì dường như tất cả đểu trở thành hành
khách. Với nhu cầu an toàn với kinh nghiệm của một người có quan tâm đến
quy định đường thủy… bạn sẽ xem xét xem áo phao có đầy đủ hay không,
việc lên xuống phà có thực sự an toàn hay không… Đó là một ý tưởng không
hơn không kém. Thế nhưng nếu bạn là một người quan tâm đến những vấn
đề xã hội - con người trong bạn sẽ thôi thúc bạn nhìn về những đứa bé ăn
xin, những người bán hàng rong hay một cụ già lê từng bước nặng nhọc với
tiếng rao yếu ớt: “Số đây… Số đây…” một cách đầy thương cảm… Nếu bạn
là một người quản lý nguồn nhân lực, bạn sẽ tính toán xem có bao nhiêu
người sẽ phục vụ chuyến phà này, mỗi chuyến phà sẽ đem lại một khoản kinh
phí bao nhiêu, lương mỗi tháng dành cho cán bộ phục vụ trên phà… Nếu nhìn
xa hơn, bạn sẽ có thể nhận ra nếu một ngày gần đây, khi có chiếc cầu nối liền
hai bờ sông thì bao nhiêu người lao động trên chuyến phà này phải chuyển
đổi nghề nghiệp mà chính xác hơn là công việc. Đồng hành cùng với niềm vui
của những người hành khách thì bao nhiêu người có thể nhận ra nỗi buồn
của mình khi giã từ công việc cũ hay nơi chốn mình gắn bó khá lâu trong cuộc
sống này… Không thể phủ nhận đó là ý tưởng nhưng cũng sẽ có những ý
tưởng mà chúng ta không thể phủ nhận rằng chính nó đã đem lại một “mùa
xuân” đích thực nếu như con người thực thi được nó. Một bài toán gấp rút
được đặt ra là với một chiếc phà có chiều rộng khoảng 10 mét và chiều dài là
30 mét, bề mặt của chiếc phà có thể sử dụng là 24 mét bao gồm cả mặt trong
và mặt ngoài, hướng xa của chiếc phà mọi người có thể nhìn thấy hình dáng
và những những hình ảnh “đặt trên nó” khoảng 50 - 100 mét. Thế là một ý
tưởng kinh doanh bắt đầu xuất hiện. Ước lượng với những thông số kỹ thuật
ấy cùng với những dự toán bằng quy chuẩn về hiệu ứng thính - thị hay hiệu
ứng quảng cáo, những chuyên gia ý tưởng kinh doanh đã mạnh dạn “mua
đứt” khoảng không của chiếc phà để rồi “nhượng lại” hay “chia lại” cho những
những doanh nghiệp với một số tiền không nhỏ… Doanh số được tính bằng tỉ
và có thể đem lại lợi nhuận không chỉ cho người khai thác ý tưởng mà còn
dành cho đơn vị quản lý cầu phà - người có tài sản quý mà cũng chưa kịp
khai thác hay chưa biết khai thác một cách khéo léo và tinh tế.
Rõ ràng bản chất của ý tưởng là sự sáng tạo. Ý tưởng không thể tự
dưng mọc lên theo hướng nảy sinh một cách bất thường hay tuân thủ theo
những quy luật bất di bất dịch mà ý tưởng nó được hướng theo sự sáng tạo
của con người để quay lại phục vụ cho cuộc sống của con người. Ở một góc
độ khác khi nhu cầu của con người “quẫy đạp” theo hướng con người cần
nảy sinh ý tưởng thì dẫu là những ý tưởng rất thực tế hay những ý tưởng có
phần “lan man” hay “bay bổng” cũng đem lại những giá trị nhất định cho hoạt
động của con người mà hơn hết là sự sáng tạo.
Vì sao bản chất của ý tưởng được quy về sự sáng tạo?
Bản chất của sáng tạo là bắt đầu từ ý tưởng hay nói khác đi ý tưởng là
ngọn nguồn của quá trình sáng tạo vì đơn giản nếu không có ý tưởng thì
không thể có sự sáng tạo. Nói một cách ví von, ý tưởng là mồi lửa đầu tiên
cho ngọn lửa ít đầu bừng sáng. Khởi đầu của sáng tạo dù ở bất kỳ cấp độ
nào đều phải là ý tưởng. Ý tưởng này nảy sinh trong suy nghĩ, tâm trí của một
con người cụ thể và ý tưởng đó sẽ được đào sâu, nghiên cứu. Sau khi đào
sâu thì quá trình thực hiện sẽ diễn ra và kết thúc bằng một loại sản phẩm nhất
định. Sản phẩm ấy có thể là một kết quả hữu hình nhưng cũng có thể là một
thay đổi chưa thật sự hữu hình.
Ý tưởng và sản phẩm của ý tưởng có kết quả đó là khởi đầu và kết thúc
của sự sáng tạo. Khi con người bắt đầu suy nghĩ và lóe sáng lên những ý
tưởng thì đó là lúc con người bắt đầu cho sự sáng tạo hoạt động đích thực.
Khi sản phẩm được hình thành thì chính là lúc ý tưởng hoàn thành nhiệm vụ
của nó. Vòng quay của ý tưởng từ lúc manh nha cho đến khi được thực thi sẽ
đem lại cho con người những hình ảnh, những sản phẩm mới mẻ, có lợi và
hướng đến con người - phục vụ cho con người. Đó chính là quá trình con
người sáng tạo và hoạt động sáng tạo. Bắt đầu từ ý tưởng hay quá trình sáng
tạo có hiệu quả đều có thể dẫn đến việc thu được một sản phẩm cần thiết và
mong muốn. Rõ ràng, ý tưởng là khởi nguồn của sáng tạo và khi ý tưởng trở
thành hiện thực nghĩa là hoạt động sáng tạo gần như được viên mãn. Sự
sáng tạo bắt nguồn từ ý tưởng là thế và khi ý tưởng được thực thi cũng là lúc
sự sáng tạo của con người xuất hiện một cách đích thực.
Lẽ đương nhiên, dù sản phẩm sáng tạo có thật sự tuyệt vời hay chỉ
dừng ở mức cải tiến và thay đổi một phần đi nữa thì tất cả đều phải bắt đầu
từ ý tưởng. Đôi lúc rất khó có thể “phán quyết” một ý tưởng là ý tưởng tồi hay
một ý tưởng là ý tưởng độc đáo đến mức khó lường mà những ý tưởng dù ở
cấp độ này hay cấp độ khác đều có thể thôi thúc con người sáng tạo và khám
phá. Nếu ý tưởng có nhiều loại khác nhau thì sáng tạo cũng có nhiều cấp độ
khác nhau. Mỗi loại ý tưởng đều đem đến những sự sáng tạo khác nhau
nhưng chắc chắn rằng ý tưởng là một nguồn lực hết sức đặc biệt gắn chặt với
sự sáng tạo. Nếu không có ý tưởng thì sự sáng tạo không thể và không bao
giờ diễn ra được. Chính vì vậy, con người “hơn hay thua” nhau là ở ý tưởng
và ý tưởng về bản chất của nó chính là sự sáng tạo.
Bên cạnh đó, khi xem xét ngược lại về mối quan hệ giữa sáng tạo và ý
tưởng, những cái nhìn thú vị cũng có thể đề cập ở đây. Sáng tạo còn được
cho rằng là việc thực hiện hai chức năng: tạo ra ý tưởng mới - giải quyết
nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm mới. Ở đây bản chất của sáng tạo là tư duy có
định hướng để đạt đến một hiệu quả của việc giải quyết vấn đề. Nếu như thế
thì ngay khi bắt đầu hoạt động sáng tạo, con người không thể lầm lũi hay
ngây ngô thực hiện bằng những thao tác thuần túy về kỹ thuật của sự sáng
tạo. Chính con người phải thực sự hoạt động để đẩy ý tưởng ra đời, phải
sáng tạo ra được ý tưởng và dựa vào đó để hoạt động sáng tạo. Như vậy
sáng tạo hàm chứa trong nó quá trình tạo ra ý tưởng hay bản chất của sáng
tạo cũng là quá trình tạo ra ý tưởng.
Với sự nhìn nhận sáng tạo như một quá trình tranh đấu về tinh thần
giữa con người với con người. Đó có thể là sự tranh đấu giữa hai cá thể, giữa
nhóm này và nhóm khác, giữa cá nhân với tổ chức và thậm chí là giữa cái tôi
của mình với chính mình, ý tưởng của sự sáng tạo xuất hiện như một ánh
sáng. Ánh sáng ấy được tạo nên khi con người tập trung hết tư duy, tưởng
tượng và thậm chí kể cả những rung cảm đích thực của chính mình để hướng
đến một suy nghĩ mới, một khám phá mới. Ý tưởng ra đời như thế. Như vậy,
sáng tạo còn dược xem là sự đối thoại mở, đó là sự đối thoại hai chiều để
khẳng định hoặc phủ định tư tưởng và tư tưởng còn phát triển, không thể
hoàn tất nên phải luôn tìm đến cái mới nhở vào sự đối thoại. Nhờ vào sự đối
thoại này, ý tưởng xuất hiện và nó trở thành một sản phẩm sự kỳ độc đáo và
thú vị trong cuộc sống của con người và nó gắn chặt với sự sáng tạo từ điểm
khởi đầu đến kết thúc, từ thao tác nhận thức đến thao tác hành vi…
Ý tưởng còn được nhìn nhận về bàn chất của nó như là “đặt vấn đề”.
Cụ thể hơn đó là sự nêu lên vấn đề mới. Xuất phát từ những gì đã quan sát,
phân tích, tổng hợp… phải đạt đến mức nêu lên được giả thuyết, nêu lên vấn
đề mới dựa trên sự nhìn nhận vấn đề cũ dưới góc độ mới của sự tư duy, đặc
biệt là tưởng tượng. Vấn đề khi con người đặt ra ở đây đó chính là những ý
tưởng. Có thể đó là một suy nghĩ ban đầu, có thể đó là một giả định về
nguyên nhân, đó cũng có thể là một biện pháp nào đó để làm cho vấn đề
được giải quyết. Nói thế thì ý tưởng càng không thể tách rời khỏi sáng tạo và
hoạt động sáng tạo.
Bên cạnh đó, có thể quy bản chất của ý tưởng khi đặt nó trong mối
quan hệ với bản chất của sự sáng tạo trên phương diện chức năng. Một số
cách nhìn về bản chất của ý tưởng lại hướng theo việc nghiên cứu các chức
năng của sáng tạo để nhìn nhận mối quan hệ đặc biệt này. Xét về bản chất,
sáng tạo nghĩa là nghĩ ra - mà nghĩ ra có nghĩa là hình dung và sáng chế. Bất
kỳ quá trình sáng tạo nào có hiệu quả cũng phải thực hiện hai chức năng
hoàn toàn khác nhau. Sau khi có ý tưởng mới, người thực thi ý tưởng sẽ làm
việc sáng tạo còn lại để giải quyết tất cả các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm
mới. Lẽ đương nhiên, quá trình sáng tạo luôn đòi hỏi phải có sự động viên,
hướng dẫn, thậm chí là điều khiển khi cần thiết. Mối quan hệ này là quan hệ
hai chức năng: thực hiện và điều khiển. Dù mỗi một chức năng đòi hỏi người
chịu trách nhiệm sẽ có những nhiệm vụ khác nhau nhưng chắc chắn rằng chỉ
khi mỗi phía đều phải tư duy tích cực và hiệu quả thì “cái mới” mới có thể xuất
hiện và được thực thi đến độ tốt nhất.
Einstein cũng đưa ra những luận điểm khá độc đáo có liên quan đến
vấn đề ý tưởng. Theo ông, việc thiết lập vấn đề mà cụ thể là nghe ra ý tưởng
thường quan yếu hơn việc giải quyết vấn đề vì giải quyết vấn đề chỉ là công
việc của kỹ năng toán học hay kinh nghiệm. Nêu lên được vấn đề mới, những
khả năng mới, nhìn nhận những vấn đề dưới một góc độ mới đòi hỏi phải có
trí tưởng tượng và nó đánh dấu bước tiến bộ thực sự của khoa học. Rõ ràng,
hướng nghiên cứu của Einstein đã đánh vào gốc của vấn đề sáng tạo. Cũng
như một số cá nhân khác, ông đánh giá rất cao về việc nêu ra vấn đề hay ý
tưởng. Đương nhiên, ý tưởng này là ý tưởng dưới dạng “đã được biểu đạt”.
Nếu vấn đề đã đạt được biểu đạt một cách hợp lý và mới mẻ, hấp dẫn, chắc
chắn việc tìm kiếm phương thức để giải quyết không còn là vấn đề quá quan
trọng hay phức tạp.
L. X. Vưgốtxki không những đưa ra khái niệm sáng tạo mà ông còn
phân tích khá sâu về bản chất của sáng tạo dưới góc nhìn hoạt động. L. X.
Vưgốtxki khẳng định hoạt động sáng tạo được coi là hoạt động cao nhất của
con người. Chính hoạt động sáng tạo của con người đã làm cho nó thành một
sinh vật hướng về tương lai, xây dựng tương lai và cải biên hiện tại của mình.
Ông nhận định: “Bộ não không những là một cơ quan gần gũi lại và tái hiện
kinh nghiệm cũ của chúng ta, nó còn là cơ quan phối hợp, chỉnh lý một cách
sáng tạo và xây dựng nên những tình thế mới và hành vi mới bằng những
kinh nghiệm cũ đó”.
L. X. Vưgốtxki còn khẳng định thêm rằng thông thường chúng ta có
quan niệm sáng tạo là lĩnh vực của một số ít người, đó là những thiên tài,
những tài năng đã sáng tác ra những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại hoặc nghĩ ra
những cải tiến nào đó trong kỹ thuật. Thế nhưng L.X. Vưgốtxki cũng khẳng
định “Sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm
lịch sử vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi
và tạo ra một cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi nữa so với
những sáng tạo của các thiên tài”. Trong đời sống hàng ngày, xoay quanh
chúng ta, sáng tạo là một một điều kiện cần thiết của sự tồn tại và tất cả cái gì
vượt qua khuôn khổ cũ và chứa đựng dù chỉ một nét của cái mới, thì nguồn
gốc của nó đều do quá trình sáng tạo của con người. Rõ ràng ở đây Vngôtxki
quan niệm về sáng tạo rất rộng và quan niệm này có thể nói thể hiện rõ tính
nhân văn của con người. Rõ ràng là với quan niệm này Vưgốtxki đã thực sự
xem xét ý tưởng như mấu chốt của sự sáng tạo mai ở đó ý tưởng được quy
về sự thay đổi, đổi mới cửa sự sáng tạo.
Dưới góc độ Tâm lý học, khi xem xét về giá trị của ý tưởng hay sự tồn
tại đích thực của ý tưởng, có thể đặt mối quan hệ của ý tưởng với những
thuộc tính cơ bản của sự sáng tạo để nhìn nhận mối liên quan này. Sự sáng
tạo bao gồm ba thuộc tính cơ bản hay nó bộc lộ ở ba tính chất: tính mới mẻ,
tính độc lập và tính có lợi và dường như cả ba thuộc tính này đều có mối
quan hệ chặt chẽ với ý tưởng hay nói khác đi ý tưởng thực sự cũng phải thỏa
những điều kiện này nếu đó là một ý tưởng thực tế và hữu hiệu.
+ Tính mới mẻ
Sáng tạo phải tạo ra cái gì đó “mới mẻ”. Cái mới mẻ này có thể là mới
đối với cá nhân hoặc đối với xã hội, đứng giữa từ “hoặc” đó chính là hai quan
niệm nhưng quan niệm hai là quan niệm phù hợp hơn vì sáng tạo hay hoạt
động sáng tạo luôn có thể tồn tại và bộc lộ trong đời sống thường nhật của
mỗi người và mọi người. Nếu đã gọi là ý tưởng thì chắc chắn rằng ý tưởng đó
phải mới mẻ. Một ý tưởng đã cũ nát hay một ý tưởng đã thực sự quen thuộc
đến mức nhàm chán thì chẳng sử dụng để tìm ra được một sản phẩm đích
thực.
+ Tính độc lập - tự lập
Tính độc lập - tự lập ở đây tồn tại trong cả tư duy và trong cả hoạt
động. Nhờ vào tư duy độc lập thì sáng tạo tay nó làm tiền đề để nảy sinh giải
pháp mới. Khả năng độc lập bộc lộ cả trong việc đặt mục đích tìm giải pháp
giải quyết vấn đề. Quá trình giải quyết vấn đề một cách độc lập - tự lập phải
bao gồm ba khâu: nhận ra - giải quyết - kiểm tra, đánh giá giải pháp giải quyết
vấn đề. Tuy nhiên tính độc lập - tự lập không phải là tính cá nhân hay sự đơn
độc mà vẫn có thể có sự phối hợp của nhiều cá nhân dù rằng mỗi cá nhân
vẫn giữ sự độc lập của chính mình trong sự phối hợp. Ở đây, bất kỳ một cá
nhân nào hay tổ chức - nhóm nào sáng tạo ra ý tưởng, khám phá ra ý tưởng
cũng bắt đầu từ việc phải độc lập suy nghĩ và tác chiến. Nêu tất cả những
kinh nghiệm cũ cứ ám thị, nếu các cá nhân khác cứ ám thị thì chắc chắn rằng
thật khó có thể giải quyết vấn đề tạo ra ý tưởng một cách thực thụ và mang
tính khả thi.
+ Tính có lợi
Sáng tạo phải tạo ra cái mới nhưng cái mới ấy phải đảm bảo tính hiện
thực, phục vụ cho lợi ích của con người, của xã hội. Sáng tạo không thể phủ
nhận hoàn toàn hiện thực mà là sự phản ánh hiện thực tối đa trong tình
huống mới, chất lượng mới và mục đích mới để tạo ra cái mới độc đáo hơn,
đẹp hơn và có lợi hơn và quay về phục vụ cho thực tiễn cuộc sống. Ở đây, có
thể nói cũng có khá nhiều dạng ý tưởng khác nhau như loại ý tưởng thực tế,
loại ý tưởng bay bổng, loại ý tưởng điên rồ… Thế nhưng mong ước cuối cùng
của ý tưởng là phải phục vụ cho đời sống con người và đó là một tiêu chí
đúng nghĩa cửa ý tưởng. Khi ý tưởng có lợi, ý tưởng được sử dụng, ý tưởng
được chấp nhận hoặc ý tưởng được xem xét… đó là lúc ý tưởng được trả về
đúng những hình dạng của nó một cách đúng màu sắc nhất.
Như vậy, ý tưởng xét về bản chất đó chính là sự sáng tạo. Mối quan hệ
giữa ý tưởng và sự sáng tạo là mối quan hệ cộng sinh, mối quan hệ xuất phát
và là mối quan hệ chứa trong. Ý tưởng xét về bản chất chính là sự sáng tạo
vì:
- Ý tưởng hướng đến việc tạo ra cái mới là ở những mức độ khác nhau.
- Ý tưởng của con người tạo ra nhằm để phục vụ cho cuộc sống con
người, nhu cầu của xã hội.
- Ý tưởng là sự tạo ra cái mới của sáng tạo có sự tham gia khá đầy đủ
của các quá trình tâm lý của cá nhân.
II. SỨC MẠNH CỦA Ý TƯỞNGKhông thể phủ nhận sức mạnh của ý tưởng khi có thể nói rằng ý tưởng
là ngọn nguồn của mọi sức mạnh. Con người muốn chinh phục cuộc sống
xung quanh, con người muốn cải thiện chính mình và cải thiện người khác,
con người muốn hướng đến sự thành công -không thể tách rời khỏi ý tưởng.
Nói khác đi, sức mạnh của ý tưởng thực sự làm cho con người trở nên mạnh
mẽ và kỳ bí. Sức mạnh của ý tưởng làm cho xã hội loài người chúng ta
hướng đến một giá trị mới, một đẳng cấp mới.
Đầu tiên, có thể nhận thấy sức mạnh của ý tưởng đối với sự phát triển
nói chung của con người và xã hội loài người. Ngay từ thời mông muội, con
người đã nhận ra những ý tưởng rất sơ đẳng để có thể phục vụ cho chính
minh. Từ những hình ảnh rất đơn giản của thú rừng bị cháy thông quạ trận
hỏa hoạn với mùi thịt thơm, con người dần dần nảy sinh ra những ý tưởng ăn
chín. Ý tưởng này đưa con người lên một nấc thang mới thoát khỏi suy nghĩ
của chuyện ăn sống - uống tươi trước đó. Con người cũng bắt đầu nhận ra
không thể sống một cách giản đơn hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên thế là
việc sống ở hang động từng bầy từng đàn bắt đầu xuất hiện. Không dừng ở
đó, với của ăn kiếm được quá nhiều mà không thể dùng hết, con người bắt
đầu nảy sinh nhiều ý tưởng mới lạ mà cụ thể là biết chăn nuôi để dành, biết
dùng những nguyên liệu hay những kỹ thuật để trữ đông… Tất cả dần dần
đẩy con người đi đến một sự phát triển mới về mặt nhận thức và hành vi. Con
người cùng với xã hội bắt đầu hướng đến một sự phát triển mới mà ở đó bao
gồm nhiều thách thức trong cuộc sống đã được giải quyết. Ngay trên bình
diện xã hội cũng thế, cộng đồng người luôn hướng đến những phương tiện
mới, điều kiện mới và những công cụ mới để phục vụ cho xã hội loài nguời
hướng đến một đỉnh cao của cuộc sống. Đó chính là một xã hội phát triển,
văn minh và tiến bộ. Những gì con người có được và xã hội loài người có
được ngày hôm nay không thể không bắt đầu từ ý tưởng. Từ những tờ ngân
phiếu rất xa xưa trong những bộ phim cổ trang đến tiền giấy ngày nay hay
những cổ phiếu ngất ngưỡng ở các công ty đều mang màu sắc của sự phát
triển xã hội. Đó là sự phát triển đích thực của xã hội loài người nhằm hướng
đến một tầm cao mới.
Sức mạnh của ý tưởng còn thể hiện khá rõ ở sự phát triển của thể chất
và tinh tâm trong đời sống con người. Hãy nhìn về sự phát triển của thể chất
con người để có thể nhận ra những ý tưởng khoa học không bao giờ ngưng
lại. Ngay từ rất xa, chiều cao con người thật khiêm tốn và nhiều quốc gia
trong khu vực, chiều cao trung bình của nam giới chưa thể đạt được mức 165
cm. Thế nhưng với những ý tưởng phải cải thiện chiều cao của con người,
gia tăng sức khỏe thì nhiều quốc gia hiện nay như Nhật Bản, Hàn Quốc thì
chiều cao trung bình của đàn ông đã không dừng lại ở mức trên 165 cm mà
tiệm cận 170 cm, thậm chí là hơn thế. Quả thật là đáng nể khi ý tưởng cải
thiện về sức khỏe của con người bằng các dưỡng chất, bằng các bài tập thể
dục, bằng sự vận động của con người đã được đền đáp một cách xứng đáng.
Con người không dừng lại ở việc cao hay thấp mà đã hướng đến một ý tưởng
mới: kéo dài tuổi thọ. Ngay từ rất lâu, ý tưởng này có thể là huyễn hoặc hoặc
thực sự là “vô lối” khi không có quá nhiều cơ sở khoa học của nó. Thực tế
cho thấy ngay trong những dã sử khác nhau trong cuộc sống, nhiều kỳ nhận
dị sĩ bắt đầu tu đạo để hướng đến việc sống thọ ngàn năm. Ngay cả những
bậc đế vương ở các triều đại khác nhau của Trung Quốc cũng rất muốn mình
sẽ trường sinh bất lão. Nào là dược thảo kỳ hoa, nào là tiên đơn diệu dược…
Nào là khí công võ thuật, nào là đạo hạnh pháp thuật… đều được sử dụng
nhưng thách thức vẫn tồn tại sừng sững như một ngọn núi… Tất cả đều được
cải thiện dần đần và ước mong trường sinh bất lão có lẽ vẫn đang ở phía
trước. Thế nhưng những bằng chứng về tuổi thọ của con người được nâng
lên một cách đáng kể trong vài chục năm qua cũng là những minh chứng về
sức mạnh của ý tưởng. Đã có không ít cụ ông và cụ bà có tuổi thọ trên dưới
120 tuổi để thấy rằng những ý tưởng ấy của con người không phải là không
có căn cứ hay không phải là không khả thi nếu như mọi thứ ý tưởng đều
được cân nhắc để thực thi một cách khoa học.
Ngay trong thời đại ngày nay, con người khó có thể hướng đến những
thành công về mặt kinh tế hay những định hướng khác nếu không có những ý
tưởng. Hãy bắt đầu bằng sự nỗ lực của nhiều doanh nhân thành đạt trong
cuộc sống thực tiễn để minh chứng thêm về sức mạnh của ý tưởng. Khi con
người có ý tưởng, không ít người đã thực sự thành công nếu biết khai thác ý
tưởng đó một cách thú vị. Hãy suy ngẫm những ý tưởng rất bình dị trong cuộc
sống như mở một quầy bán hàng chuyên bán trái cây tươi làm lạnh và đóng
gói thật đẹp kèm với hoa tươi được bó sang trọng để có thể nhận thấy rằng
đó chính là ý tưởng làm giàu một cách thú vị… Không ít gian hàng thành công
một cách bất ngờ khi những người chủ dự án ấy là những sinh viên năm cuối
ở một vài trường Đại học đã mạnh dạn khai thác ý tưởng của mình dưới dạng
dự án để rồi thành công có được là thương hiệu và số lãi tìm được không
dưới vài trăm triệu một năm. Rồi kế đến đó là những ý tưởng hết sức thú vị
khác có thể “hái ra tiền” thông qua những thương hiệu rất nổi tiếng như cà
phê Trung Nguyên, Phở 24, Coop mark… và nhiều nhãn hàng - thương hiệu
khác nữa. Vấn đề ở đây chưa hẳn về xuất phát điểm của tiềm lực kinh tế cao
hay thấp - nhiều hay ít, vấn đề cũng không hẳn về chuyện khả năng điều
hành hay quản lý nhưng xuất phát điểm đích thực của nó chính là ý tưởng.
Bạn không không thể kinh doanh thành công nếu bạn không có suy nghĩ hay
không có ý tưởng để thôi thúc. Bạn hãy sống hết mình vì nó… Khi bạn có một
ý tưởng tốt, bạn hãy làm tất cả vì nó, sống vì nó, chết vì nó, bạn sẽ có thể gặt
hái được những thành công cực kỳ thú vị và hấp dẫn…
III. NGỌN NGUỒN CỦA Ý TƯỞNGKhông thể tự dưng con người nảy sinh ý tưởng vậy thì đâu là ngọn
nguồn của ý tưởng? Có thể nói ý tưởng của một câu chuyện, ý tưởng của
một bài thơ, ý tưởng của một quyển sách hay ý tưởng kinh doanh, ý tưởng
đột phá về mặt quân sự “ý tưởng” chính trị… tất cả đều có ngọn nguồn của
nó. Truy tìm ngọn nguồn của ý tưởng cũng nên bắt đầu bằng một câu chuyện
thú vị trong cuộc sống.
Màu trắng là màu của sự tinh khiết hay là màu của huyền thoại khởi
thủy cùng với màu đen. Ở màu trắng có cả sự hấp dấn đến trong veo, có cả
sự lôi cuốn đến diệu kỳ, có cả sự lý thú của khám phá và có cả sự tươi tắn
của xuất phát… Không ít người trong cuộc sống đã đắm đuối vì màu trắng khi
gặp nó và trải nghiệm cùng màu trắng Và cũng chính vì thế, màu trắng trở
thành màu của cuộc sống và màu cung cấp dữ liệu độc đáo cho nhiều ý
tưởng thú vị.
“Dạ tiệc trắng” là một ý tưởng khá lý thú trong thời gian gần đây. Bình
thường, nếu một người chưa thể phát kiến ý tưởng, màu trắng cũng chỉ là
màu trắng hoặc chí ít chỉ làm cho con người cảm thấy xúc cảm về nó, lay
động khi gặp nó… Gặp một chiếc áo trắng, ta cảm thấy sao mà tinh tế thế gặp
một dải lụa trắng, cảm nhận được sự đáng yêu của nó, gặp một đóa hoa
trắng muốt hay một bó hoa trắng, sự xuýt xoa hay thoải mái về yếu tố đớn
giản của nó được tôn vinh ở mức cao nhất được khai thác… Tuy nhiên, điều
quan trọng ở đây là ý tưởng có thể nảy sinh trong “Dạ tiệc trắng” bằng những
suy nghĩ rất táo bạo và lý thú. Đó là dạ tiệc dành cho tất cả những ai yêu thích
màu trắng, đến đấy cũng bằng chính trang phục trắng, khăn ăn màu trắng, đồ
dùng ở bàn tiệc cũng màu trắng và nhiều thứ khác cùng trắng… Tất cả là một
ý tưởng được khai thác tạo ra điểm nhấn hết sức ấn tượng và lý thú…
Sẽ không phải là sang trọng nếu như một buổi họp báo sẽ chỉ là họp
báo. Cũng xuất phát từ màu trắng thì nhiều mặt hàng của cuộc sống có thể
bám sát vào màu trắng để khai thác một cách lý thú. Tuy nhiên, nhãn hàng
bột giặt lại khai thác ý tưởng trắng một cách hết sức thông minh đề họp báo
không chỉ là họp báo. Đó là một buổi trò chuyện hay một diễn đàn mà thậm
chí gọi là một sự kiện cũng có thể được. Cũng là trang phục trắng, cũng là
những dải lụa trắng được trang trí một cách ấn tượng, cũng là những người
mẫu trình diễn trang phục trắng, cũng là những chiếc áo trắng được quyên
góp. Tuy nhiên, hơn thế nữa đó là sự trao đổi về ý nghĩa của màu trắng với
cuộc sống, ỷ nghĩa của màu trắng đối với đồng phục học sinh kèm theo đó là
chiến dịch quyên góp áo trắng kèm theo những bài cảm nhận về chiếc áo học
trò, đã làm cho buổi “tiệc trắng” ấy lại hết sức thú vị. Tính chất của họp báo đã
được giải thoát khi nhiều thông tin và nhiều hình thức chuyển tải trong buổi
họp báo hoàn toàn có thể được khai thác một cách thú vị để sức lan tỏa của
chiến dịch viết bài cảm nhận về màu trắng tuổi học trò hay những suy nghĩ
khác về màu trắng tinh khôi của chiếc áo học trò đã được đẩy lên đến đỉnh.
Đó chính là những ý tưởng khởi thủy từ cái nhìn rất tự nhiên trong cuộc sống
nhưng người khai thác ý tưởng lại biết cách “đẩy” ý tưởng của mình trở thành
điểm đến của nhiều sự quan tâm, của nhiều cảm xúc…
Có thể nói mấu chốt của hoạt động sáng tạo chính là ý tưởng. Những
nghiên cứu tâm lý cho thấy chỉ khi ý tưởng xuất hiện thì hoạt động sáng tạo
mới được thực thi một cách thực sự. Ý tưởng sáng tạo dù giản đơn hay phức
tạp thì chính nó là điểm mấu chốt của hoạt động sáng tạo vì nó vừa là cơ sở,
vừa là đích đến của sáng tạo. Ý tưởng được xem là ngọn nguồn của sự sáng
tạo cũng như sáng tạo là bản chất của ý tưởng. Ý tưởng có thể bắt nguồn từ
những hình tượng mà con người quan sát trong cuộc sống, những biểu
tượng có được của trí nhớ và cả những biểu tượng đầy tính lãng mạn của
tưởng tượng.
Trước hết, có thể nói rằng ý tưởng xuất phát thật sự bình dị trong cuộc
sống thường nhật. Không những thế, ý tưởng có thể xuất phát một cách bất
ngờ từ những gì đó thật cụ thể trong quá trình con người tiếp nhận những
thông tin của thế giới bên ngoài hay thế giới thông tin mạng. Hãy bắt đầu
bằng những hình ảnh của một chiến dịch quảng cáo của một hãng kem đánh
răng để nhận ra được những vấn đề có liên quan. Giả định ban đầu về câu
chuyện của một chàng trai tình cờ gặp một người con gái rất dễ thương và tốt
bụng trong một chiều mưa đã làm cho chàng trai rung động đích thực. Chàng
vội vã và ngô nghê khi không xin số điện thoại người con gái đã gửi tặng
mình chiếc áo mưa thế nên thực sự buồn bã và thất vọng. Dán cả tờ rơi ở các
trạm xe bus khác nhau giữa trưa nắng gắt hay giữa trời mưa tầm tã đề tìm
nàng, mua cả vài chùm bong bóng to dong ruổi trên con ngựa sắt kèm theo
những thông điệp: “Em ở nơi nào” với hy vọng cô nàng sẽ quan tâm và chú
ý… Những hình ảnh lãng mạn tại sao lại không trở thành một ý tưởng mang
tính nhân văn để hỗ trợ và giúp đỡ. Thế là một cuộc hỗ trợ đúng nghĩa kèm
theo ý tưởng quảng cáo xuất hiện và nhãn hàng kem đánh răng ấy đã đồng
hành cùng với chàng trai để câu chuyện thú vị ấy trở thành ý tưởng sáng tạo
cũng khá độc đáo trong suốt năm 2008. Những ý tưởng mới lại tiếp tục nảy
sinh từ những ý tưởng khởi xuất: lập blog - nhật ký điện tử để tìm chàng trai,
mô tả chân dung cô gái và gửi lên mạng để tìm kiếm, đoán tiếp kết quả của
hành trình tìm kiếm hoặc viết tiếp câu chuyện tình diễm lệ giữa hai người,
đoán xem điều gì sẽ xảy ra trong thực tế về mối quan hệ của hai người… Tất
cả đều là những ý tưởng có sức hút đối với những bạn trẻ thực sự quan tâm
đến chính vấn đề của câu chuyện cũng như những diễn tiến tâm lý của con
người… Những tranh cãi rằng câu chuyện này không biết có phải là có thực
hay nó bắt chước với một câu chuyện tình diễm lệ và lãng mạn đến mức
“vượt khung” trên internet nhưng rõ ràng là khi ý tưởng này được khai thác,
không ít người đã thực sự cảm nhận những giá trị của sự lãng mạn trong tình
yêu, không ít người hiểu rằng hãy trả về cho tình yêu những giá trị diệu kỳ
của nó mà không phải là cứ đến với tình yêu bằng sự toan tính hay ích kỷ…
Cũng không ít người cho rằng cần nhìn về tình yêu bằng một sự bao dung,
bằng chữ duyên kỳ ngộ… Lẽ đương nhiên, giá trị đính kèm là những người
yêu thích nhãn hàng có thể tăng lên, sự lan tỏa của nhãn hàng sẽ dày hơn và
ấn tượng về nhãn hàng sẽ thực sự đến một cách hết sức bất ngờ những nằm
trong dự định của người khai thác ý tưởng đã dự tính một cách chi tiết và
chính xác…
Trong hoạt động của con người, có thể nói rằng vấn đề ý tưởng sáng
tạo cũng tạo ra sự tranh cãi một cách quyết liệt. Sự hơn thua giữa nhiều cá
nhân cùng sự tranh chấp ý tưởng đang diễn ra một cách hết sức phức tạp.
Để đưa ra những ý tưởng sáng tạo hay để kích thích những ý tưởng sáng tạo
nảy sinh cần chú ý và quan tâm đến những yêu cầu: đừng vội truy tìm nguồn
gốc của ý tưởng hay diễn trình của ý tưởng khi phát triển ý tưởng, càng tạo ra
nhiều ý tưởng càng tốt, hãy ghi chép hoặc lưu giữ ý tưởng khi chúng xuất
hiện, luôn phát triển những ý tưởng đang được lưu giữ… Vấn đề quan trọng
khi nhận ra một ý tưởng lóe sáng, dù ở bất kỳ nguồn nào đi chăng nữa thì
đừng vội vã dành thời gian và công sức truy tìm nguồn gốc bằng những
những câu hỏi tại sao hay ý tưởng này từ đâu ra mà những câu hỏi rằng ý
tưởng này sẽ được phát triển như thế nào, được vận dụng ra sao sẽ là những
câu hỏi thực sự thú vị để khai thác sức mạnh tối đa của ý tưởng.
Thói quen của nhiều người là hay chỉ trích hoặc phê bình ý tưởng của
người khác mà không có sự chân thành theo hướng chấp nhận. Ở đây, chính
thái độ chỉ trích, phê phán một chiều sẽ là yếu tố tiêu diệt ý tưởng sáng tạo và
cả sự sáng tạo một cách hữu hiệu. Bản năng phê phán ngay tức khắc những
ý tưởng sẽ làm cho việc rơi rớt những ý tưởng sẽ xuất hiện, đó là chưa kể
đến việc chính người phát kiến ý tưởng sẽ chán nản và mất hết động lực để
phát kiến ý tưởng nảy sinh. Nếu điều này tiếp tục xảy ra thì sự an toàn trong
việc lựa chọn các ý tưởng sẽ xuất hiện vì những ý tưởng đột phá sẽ bị giết
chết mà thay vào đó là những ý tưởng yếu, an toàn và dè dặt được lựa chọn.
Nguồn gốc ý tưởng cho thấy ý tưởng có thể xuất hiện một cách bất ngờ và đa
dạng, mỗi nguồn gốc của ý tưởng đều đem lại những gợi ý thú vị cho quá
trình làm việc nếu như những người tiếp nhận ý tưởng có đủ tầm nhìn và có
đủ sức tưởng tượng tiếp nối. Mỗi khung cảnh, mỗi điều kiện, mỗi sự tương
tác giữa người và người, mỗi nhiệm vụ cấp bách được đặt ra từ thực tiễn
cuộc sống hay của chính những đối tác đều có thể là những “đòn bẩy” quan
trọng tạo thành điều kiên đinh để những ý tưởng xuất hiện. Vấn đề là hãy cho
ý tưởng lóe sáng ấy một bầu không khí có đủ oxy để thở, có đủ nước để
uống, có đủ phân bón để vươn lên và điều quan trọng là hãy trả về ý tưởng
những ý nghĩa vẹn nguyên của nó: chỉ là ý tưởng… mà chưa phải là sự thật
vẹn nguyên.
Theo một nguyên lý phát kiến ý tưởng, suy nghĩ của con người được
diễn ra một cách liên tục, tự do. Trong nhiều trường hợp, con người có thể
đưa ra các ý tưởng hoàn toàn độc lập hoặc dựa trên ý tưởng đã có hoặc của
những cá nhân khác để tạo ra nhiều ý tưởng mới. Ý tưởng mới có thể bật lên
từ ý tưởng đã có, khơi dậy thêm nhiều ý tưởng phụ và sự kết hợp giữa các ý
tưởng có thể diễn ra một cách liên tục. Thế nhưng để ý tưởng liên tục diễn ra
nhất thiết cần phải dẹp qua bản năng ưa chỉ trích hay phán xét vội vàng mà
chấp nhận ngay cả những ý tưởng hiển nhiên và mới lạ của chính mình và
của cả người khác. Khi đã có ý tưởng, điều quan trọng kế tiếp cần thực hiện
là chuyển sang bước tư duy thực tiễn, đánh giá, nhận xét để định lượng
những giá trị của ý tưởng.
Cũng nên nhớ rằng việc xem xét giá trị của ý tưởng có thể rất chủ quan
cho nên không vội vàng bỏ qua bất kỳ ý tưởng nào mà phải luôn lưu giữ theo
kiểu “cất kho” có mã số. Có thể rằng những ý tưởng không bao giờ đủ cho
nên để có kho tư liệu nhằm đánh giá thỉ những ý tưởng cần được chính chủ
thể sáng tạo đặt ra chỉ tiêu. Trong những ý tưởng được xem xét, những ý
tưởng đầu tiên thường có chất lượng kém hơn những ý tưởng sau và có thể
những ý tưởng ban đầu chưa phải là ý tưởng đích thực nhưng chắc chắn
rằng nó là cơ sở quan trọng cho dòng chảy liên tục của những ý tưởng. Nếu
định lượng những ý tưởng, có thể chia thành ba phần. Những ý tưởng đầu
tiên là những ý tưởng cũ, lặp lại; một phần ba kế tiếp là ý tưởng thú vị, sáng
tạo và một phần ba cuối cùng là những thấu hiểu sâu sắc đầy phức tạp và
cũng thật triển vọng.
Một phương châm cũng khá quan trọng khi đề cập đến việc chọn lựa ý
tưởng hay kết hợp ý tưởng là hãy “dàn” các ý tưởng để nhìn nó một cách sâu
sắc nhất. Điều này đòi hỏi chủ thể ý tưởng phải chọn ngay những ý tưởng với
các thuộc tính có quan hệ gần với các thuộc tính của đối tượng, áp dựng
những ý tưởng vào thực tế dù là một phần hay trọn vẹn, sau đó là kết hợp
hay sử dụng các thuộc tính hay phương thức tương ứng từ một hay nhiều ý
tưởng. Cách thức này sẽ làm cho ý tưởng trở nên sắc sảo hơn, mang tính
ứng dụng hơn và thực tế hơn với những định hướng của người khai thác,
người sử dụng để đảm bảo tính khách quan và khả thi của nó.
Rõ ràng ý tưởng và con đường đi tìm ý tưởng không phải là đơn giản
nhưng sẽ hoàn toàn khả thi nếu như mỗi cá nhân cần chú ý đến những thói
quen đơn giản:
- Không vội vàng nhận xét khi tìm ý tưởng.
- Càng tạo ra hay càng phát kiến nhiều ý tưởng càng tốt
- Lập danh sách những ý tưởng khi chúng xuất hiện và lưu giữ chúng.
- Liên tục xây dựng hoặc phát triển ý tưởng của mình.
- Áp dụng ý tưởng hoặc kết hợp các ý tưởng sao cho mềm mại, linh
hoạt trong thực tế.
Chương 2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ Ý TƯỞNG ƯƠM MẦMCó những giả định khác nhau về nhân cách sáng tạo. Nhân cách sáng
tạo của một con người sáng tạo hay những giây phút đặc biệt khi cá nhân
đang sáng tạo - một cá nhân rất bình thường. Đó có thể là sự ngẫu hứng -
thăng hoa, đó có thể là một chút “phiêu linh”, một chút “cuồng” nhưng chắc
chắn rằng những yếu tố tâm lý của cá nhân vẫn phải luôn được đảm bảo thì
sự sáng tạo mới có thể xuất hiện hoặc được đột khởi. Để ý tưởng sáng tạo
nảy mầm thì không thể chỉ có một dạng nhân cách nào đó mới có thể có ý
tưởng sáng tạo. Mỗi con người đều có thề ươm mầm sáng tạo từ chính tâm
lý của mình, nhân cách của mình bằng những cơ sở quan trọng và cần thiết.
I. MỘT SỐ YẾU TỐ TÂM LÝ ĐỂ CON NGƯỜI NUÔI DƯỠNG Ý TƯỞNG
1. Sự an toàn tâm lý
Một khởi phát ý tưởng sẽ dễ dàng xuất hiện nếu cá nhân được chấp
nhận và khuyến khích ngay từ dầu. Bản thân cá nhân sẽ luôn thoải mái và tự
chủ nếu biết rằng những gì mình khám phá sẽ không bị cấm đoán hay trách
mắng. Sự an toàn tâm lý này dù chỉ tồn tại ở dạng cảm xúc hay trạng thái tâm
lý thì nó chính là điều kiện cần cũng như là những động cơ quan trọng để chủ
thể sáng tạo thực hiện việc phát kiến ý tưởng. Sự an toàn tâm lý chính là việc
cá nhân và các ý tưởng được chấp nhận một cách thoải mái, bầu không khí
tâm lý giúp họ an tâm để đưa ra những phát kiến.
Để có sự an toàn tâm lý thì sự tương tác của những người xung quanh
đóng vai trò rất quan trọng. Không nhất thiết phải có sự khích lệ mà chỉ cần cá
nhân nhận thức rằng sự suy nghĩ, phán đoán và những ý kiến của mình
không phải luôn luôn bị phủ nhận sạch trơn hay bị kết luận là trái quỹ đạo, là
“vô duyên”, “lãng nhách” thì chắc chắn sự an toàn tâm lý sẽ xuất hiện một
cách thoải mái.
2. Sự tự do tâm lý
Sự tự do tâm lý được hiểu là trạng thái mà chủ thể sáng tạo không bị
ràng buộc hay bị điều khiển bởi bất kỳ một cá nhân hay một “luật lệ” cứng
nhắc nào. Điều này tạo điều kiện quan trọng để cá nhân suy nghĩ, “tung tẩy”
và đẩy mọi ý tưởng dễ dàng lên đến “tột cùng” của nó.
Sự tự do tâm lý gắn chặt với trạng thái an toàn vì trong những điều kiện
của sự tự do tâm lý, những gán ép hay những “khung chuẩn” phải thế này,
phải thế khác hay không được thế này, không được thế khác bị đẩy lui và chủ
thể sáng tạo được suy nghĩ phát kiến và hành động theo ý muốn của cá nhân
mình…
Sự tự do tâm lý cho phép cá nhân được nuôi dưỡng những ý tưởng
của mình dù rằng đôi lúc nó có phần “không được bình thường” như nhiều
suy nghĩ bình thường. Điều này sẽ là một căn nguyên quan trọng để những ý
tưởng ra đời dưới dạng biểu tượng - dù là hình ảnh hay ngôn ngữ sẽ bộc
phát. Chắc chắn rằng nếu có sự tự do tâm lý - những cảm xúc rất phiêu linh
sẽ xuất hiện và sự cởi mở của nội lực sáng tạo được phát huy một cách độc
đáo. Sự tự do tâm lý chính là nội lực để tạo cho cá nhân một sự cởi mở toàn
phần và chính sự cởi mở này sẽ dễ dàng tạo ra những ý tưởng mà trong đó
những ý tưởng mới là một sản phẩm có thể vượt trên cả sự mong đợi.
3. Tâm lý cạnh tranh
Nếu như thói quen làm hạn chế sáng tạo là thói quen phê bình hay phủ
nhận ý tưởng thì một yếu tố tâm lý có phần thúc đẩy sự sáng tạo trong tâm lý
cá nhân đó chính là sự cạnh tranh. Có thể nói rằng, nhu cầu cạnh tranh gắn
chặt với nhu cầu tự khẳng định và chinh phục. Điều này có nghĩa là sự cạnh
tranh không chỉ diễn ra với chính mình mà còn diễn ra trong quan hệ với
người khác. Có thể nhận thấy, chính sự cạnh tranh làm cho ý tưởng sáng tạo
được “tuôn” ra một cách liên tục để có thể đáp ứng thực tế hoặc làm “thỏa
lòng” của những ước mong tâm lý…
Trong môi trường cạnh tranh, rõ ràng chủ thể sáng tạo sẽ luôn luôn có
một động lực để vượt qua những thách thức từ thực tế. Cạnh tranh phân tích
dưới góc độ đầu tiên đó có thể là sự thi đua giữa các cá nhân, giữa các
nhóm. Từ đây, các giải pháp sáng tạo sẽ được xem là kết quả của hoạt động
sáng tạo mà từng cá nhân và cả nhóm đều rất nỗ lực phát triển. Cạnh tranh
cũng có thể hiểu đó là việc “kèn cựa” để thuyết phục lẫn nhau nhằm tìm ra
được giải pháp hợp lý hay ý tưởng tuyệt vời. Trong quá trình cạnh tranh - nếu
là sự cạnh tranh lành mạnh thì những phản biện không làm nao ý chí của chủ
thể sáng tạo và cùng trong hoàn cảnh đó - những cải tiến lại được tiếp tục
xuất hiện để giải pháp được hoàn thiện hơn và cũng không loại trừ trường
hợp những ý tưởng tổng hợp hay những ý tưởng hoàn toàn mới lại xuất hiện
một cách đầy lý thú.
II. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN ĐỂ Ý TƯỞNG ĐƯỢC PHÁT KIẾN1. Tâm trạng thoải mái, vui vẻ, hứng thú
Không phải tình cờ mà việc vui thú được đề xuất đầu tiên trong tiến
trình tạo điêu kiện cho trí não phát sinh ý tưởng. Nhưng vui thú có thể là điều
kiện quan trọng nhất. Có khá nhiều lý do để có thể giải thích cho vấn đề nảy.
Thông thường trong một dự án quảng cáo của một phòng ban thường có ba
hay bốn nhóm cùng làm việc. Nhóm nào cười mỉm hay cười giòn luôn tìm ra ý
tưởng tốt; nhóm vui nhộn nhất chính là nhóm sẽ tìm ra giải pháp tối ưu, quảng
cáo báo chí hay nhất, quảng cáo phát sóng trên truyền thanh - truyền hình tốt
nhất, bảng quảng cáo ngoài trời ấn tượng nhất. Suy cho cùng, nhận xét trên
đúng cho tất cả mọi thứ, ai vui thú với công việc của mình thì người đó sẽ làm
tốt hơn, điều này cũng luôn đúng với những người đi tìm ý tưởng và có thể áp
dụng cho bất cứ ai ở bất kỳ nơi nào cần phát ra sáng kiến. Thật vậy, sẽ không
ngạc nhiên tại sao óc khôi hài và mọi loại sáng tạo đều là những người bạn
đồng hành với nhau; nền tảng của óc khôi hài cũng là nền tảng của sáng tạo -
việc liên kết một cách bất ngờ nhiều thành phần dị biệt lại với nhau để tạo ra
một tổng thể mới thực sự có ý nghĩa, một cú rẽ trái đột ngột khi ai cũng tưởng
là chạy thẳng, một “bisociation” - hai hệ quy chiếu va vào nhau. Khi đó, trí não
ta cũng đang theo con đường này bỗng dưng buộc phải rẽ sang lối khác và -
kỳ diệu của những kỳ diệu - cái lối mòn không định trước ấy lại hoàn toàn
logic. Một điều gì mới đã được tạo ra, một điều mà sao đó trở nên hiển nhiên
và đó cũng chính là đặc tính của ý tưởng.
Hãy ngẫm xem việc một ai đó trong những bậc tiền nhân đã phối hợp
giẻ rách và cây gậy thành cây lau nhà để thấy rằng sự sáng tạo của con
người là vô biên khi một ý tưởng rất thực tế đã trở nên thịnh hành nhờ vào sự
kết hợp rất đột biến và độc đáo.
Có thể ghi nhận mối tương quan nhân quả như một điều đơn giản:
niềm vui đến trước và công việc tốt đến sau. Sự vui thú sẽ giúp cho sáng tạo
sổ lồng, đó là một trong những hạt giống để con người gặt hái ý tưởng; ý thức
được điều đó, mỗi người sẽ bắt đầu gieo thêm nhiều hạt giống quý như thế
để tìm được niềm vui khi làm việc. Bởi vậy đừng phí thời gian mà hãy tìm
niềm vui tích cực để sống và sáng tạo. Cũng không phải ngẫu nhiên, nhân cơ
hội vui vầy tại sao lại không nảy sinh ra những ý tưởng độc đáo?
2. Có cơ hội và có “duyên” sáng tạo
Chưa ai hiểu được tại sao trí não con người, vốn là một thể vật chất lại
có thể phát sinh ra ý tưởng, vốn là một thể phi vật chất. Chỉ có thể biết là ý
tưởng thực sự xảy ra, có thể nó xảy ra thường xuyên với người này hơn với
người khác nhưng chắc chắn nó đã xảy ra với mỗi người được vài lần. Không
có chứng suy yếu nào về mặt sinh lý - không có đột biến trong não chẳng hạn
- ngăn cản con người tìm ra ý tưởng.
Không ai cho rằng những người có “duyên” sáng tạo lại được sinh ra
với một tài năng đặc biệt nào đó về sáng tạo, hoặc bằng cách suy nghĩ độc
đáo đưa họ đến được những đại lộ chưa ai lai vãng, hoặc với một nội nghiệm
sắc bén như tia sáng đã giúp họ phát hiện ra được một trật tự mới hay tương
quan mới trong khi những người khác chỉ thấy một mớ hỗn độn. Điều làm cho
họ trở nên khác người chính là: người nào tìm ra ý tưởng bởi người ấy luôn
biết rằng ý tưởng thật có và tin rằng mình sẽ tìm ra chúng. Người nào không
tìm ra ý tưởng thì không biết rằng ý tưởng thật có và không biết rằng mình sẽ
tìm ra chúng dù bằng cách này hay cách khác.
a. Hãy biết rằng ý tưởng là điều tồn tại
Nhiều người khi mới bước chân vào nghề quảng cáo thường cho rằng
vấn đề nào cũng có một giải pháp, một lời đáp, một ý tưởng. Quan niệm này
liệu có phải là hợp lý? Khi càng đi sâu vào lĩnh vực quảng cáo, mỗi người sẽ
ý thức được rằng có hàng trăm giải pháp, hàng trăm lời đáp, hàng trăm ý
tưởng. Biết đâu có đến hàng ngàn, biết đâu lại vô tận.
Hãy bắt đầu từ thực tế để xem xét. Khoảng năm 1040 đã có tới 94
bằng sáng chế (patent) được cấp cho kiểu dáng ly đựng bọt cạo râu. “Ly
đựng bọt cạo râu” - thật đơn giản làm sao. Khi đối diện với vấn đề sáng tạo,
hầu hết nhiều người đều cố đi tìm một giải pháp đúng đắn nhất bởi vì từ trước
đến nay chúng ta đều được giáo dục một cách như thế. Ở trường, khi phải trả
lời những câu trắc nghiệm đúng sai thì câu trả lời luôn chỉ có một đáp án
đúng. Vì vậy, không ít người thường ngầm giả định rằng mọi câu hỏi, mọi vấn
đề đều chỉ có một đáp án và khi không thể tìm ra một giải pháp nào khác, đầu
hàng là một tia sáng ẩn hiện một cách nhanh chóng. Vậy thì tại sao lại không
tiếp tục đi tìm cho chính mình những lời giải mới hay những ý tưởng mới một
cách đúng nghĩa?
Trên thực tế, hầu hết mọi vấn đề không giống với những đề thi hay
những kinh nghiệm đã biết. Con người nhận thức ra được điều đó, sẽ dễ
dàng tìm ra được nhiều ý tưởng, nhiều giải pháp. Muốn tìm ý tưởng, hãy luôn
nghĩ rằng những gì mình phải làm là dễ và nó sẽ trở thành dễ. Những gánh
nặng sẽ được giảm tải một cách rất bất ngờ.
Đó là một trong những lý do tại sao có những dạng người hình như lúc
nào cũng nảy sinh ra ý tưởng - vì họ biết rằng chính ý tưởng chỉ lẩn quẩn đâu
đây thôi, nếu chính mình không tìm ra thì người khác sẽ tìm ra. Thông điệp
“Luôn còn một ý tưởng khác, luôn còn một giải pháp nữa” là một thông điệp
rất quý giá và mỗi con người sáng tạo phải học chấp nhận. Khi chấp nhận sự
thật này, chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được tối đa sự tự tin của chính
mình trong hành trình đi tìm ý tưởng.
b. Hãy tin rằng mình sẽ tìm ra ý tưởng
Hãy giả định rằng mình phải phát biểu một bài mà chính mình “rành
như cháo”, am tường về nội dung của chủ đề hiểu điều mình muốn nói, cách
diễn đạt như thế nào. Đã tập dợt nhiều lần trước gương, “dễ như ăn bánh” và
tin chắc là sẽ thành công. Nhưng đến lúc phát biểu thực sự thì đầu óc chúng
ta lại trống rỗng và bài diễn văn trở thành thảm họa. Điều gì đã xảy ra trong
thực tế?
Có nhiều cách để giải thích, nhưng về cơ bản, chính bản thân mỗi
người đã bắt đầu nghi ngờ khả năng tự thân của mình cho dù là có ý thức
hay vô thức. Ai cũng tự hỏi liệu mình có thực sự có khả năng như mình tưởng
không. Vì vậy cả tinh thần và thể xác của con người đều tự động hạ thành
tích xuống tới cấp độ mà con người cảm thấy thoải mái không còn âu lo, nghi
vấn. Cho dù ý chí mạnh đến mấy, cho dù có bỏ ra bao nhiêu nỗ lực rèn luyện
hoặc quyết tâm con người cũng không thể đưa thành tích trở lại với đỉnh cao
trước đó bởi vì nhận thức về chính bản thân đã xác định mình là ai và thành
tích của mình như thế nào chứ không phải là nỗ lực hay ý chí. Nhận thức tự
thân tồn tại như một yêu cầu tối quan trọng. Cách duy nhất để cải thiện thành
tích là mỗi người cần phải cải thiện hình ảnh tự thân. Cải thiện để tin vào
chính mình, hướng đến những kết quả mà mình tin tưởng và chắc chắn rằng
phải đạt được.
Do đó, nếu muốn trở thành người có “duyên” sáng tạo, phải chấp nhận
một vài điều sau:
- Thứ nhất: Phải chấp nhận rằng hình ảnh tự thân là yếu tố quan trọng
nhất giúp cho mình thành công. Tính cách và hành động của mình, cách giao
tiếp ứng xử với người khác những cảm xúc, niềm tin, sự quan tâm trong công
việc, ước vọng và ngay cả năng khiếu, năng lực cũng đều bị ảnh hưởng -
chính xác hơn là bị điều khiển - bởi hình ảnh tự thân. Đơn giản hãy hành
động giống như kiểu người mà mình nghĩ mình như thế. Nếu nghĩ mình thất
bại thì chắc chắn sẽ không thành công. Ai tin rằng mình làm được thì làm
được, ai không tin thì không thể. Nói khác đi, thái độ quan trọng hơn sự việc.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với phần lớn giữa những người luôn sục sôi
ý tưởng và những người không hề có chút nào. Điểm dị biệt không phải là
khả năng bẩm sinh để tìm ra ý tưởng mà đó chính là niềm tin rằng mình có
khả năng tìm ra ý tưởng sáng tạo.
- Thứ hai. Con người có thế thay đổi cuộc sống của mình bằng cách
thay đổi thái độ. Điều đó là hiển nhiên nhưng có nhiều người lại không chịu
chấp nhận. Đồng ý rằng hình ảnh tự thân sĩ lèo lái cuộc sống của mình nhưng
mặc cho bao nhiêu chứng cứ hồn nhiên, mặc cho hàng ngàn các ví dụ trong
cuộc sống thực - nhiều người vẫn khước từ ý niệm rằng mình có thể thay đổi
hình ảnh tự thân. Điều đó thật sai lầm vì bản thân có thể thay đổi hình ảnh tự
thân để mọi thứ sẽ tốt hơn và hoàn thiện hơn.
Chúng ta cho rằng, nếu nghĩ khác đi trong tâm trí thì mình vẫn là mình.
Nhưng không, mình đã là một “mình” khác. Con người tưởng rằng mình
không thể suy nghĩ cách nào khác hơn và cho rằng cách suy nghĩ hiện nay đã
tạc vào “ngàn năm bia đá”. Điều này thực sự rất chủ quan và con người có
khả năng suy nghĩ theo cách khác. Ai cũng biết và nhìn nhận là tinh thần ảnh
hưởng đến sự vận hành của thể xác những gì tinh thần có thể làm được thì
thường rất áp đảo. Khi con người nghĩ về một việc gì đó, chấp nhận quan
niệm rằng vật thể này (tinh thần) có khả năng biến đổi vật thể khác (thể xác)
thì đó là một bước nhảy vọt lớn, một bước nhảy quan trọng - một bước nhảy
lượng tử. Rằng tinh thần có thể biến đổi tinh thần.
Nếu con người tự nhủ mình không bao giờ “tìm ra ý tưởng” thì lẽ
đương nhiên là sẽ không bao giờ tìm ra. Thay vào đó mỗi ngày nên tự nhủ
rằng mình là nguồn ý tưởng, rằng ý tưởng đang dâng tràn trong ta như mạch
nước ngầm mạnh mẽ và đầy nội lực. Mỗi ngày và nhiều lần trong ngày hãy
tập thói quen ấy một cách tích cực. Cuối cùng con người sẽ sống theo hình
ảnh tinh thần mới mà mình đã tạo ra cho mình. Một khi đã biết rằng ý tưởng
thật hiện hữu và con người có thể tìm ra chúng, con người sẽ thấy mình chìm
vào một cảm giác êm đềm, đó là một sự bình lặng mà chúng ta cần có hơn
bao giờ hết. Hãy thư giãn để năng lượng sáng tạo lại xuất hiện. Nên biết là ý
tưởng sẵn có đâu đây rồi và con người sẽ tìm ra nó. Đáng lo gì về thời gian
mặc dù vài ý tưởng sẽ chậm nảy sinh hơn, song có điều thực tế là việc tìm ra
ý tưởng lại không phụ thuộc vào thời gian, không tùy thuộc vào nơi làm việc,
thời khóa biểu và thậm chí cả khối lượng công việc. Con người có thể tìm ra ý
tưởng khi đang ăn trưa, đang tắm hay đang đi dạo. Việc tìm được ý tưởng tùy
vào việc mỗi người có tin rằng nó sẵn có hay không và vào niềm tin nơi bản
thân mình. Nếu bạn tin rằng bạn tìm được ý tưởng, bạn sẽ tìm được. Còn nếu
bạn không tin bạn tìm được ý tưởng, sẽ chẳng bao giờ bạn tìm được ý tưởng.
3. Đặt “mục tiêu” cho sự sáng tạo ý tưởng
Hãy tưởng tượng có một thanh dầm thép rộng chừng 3 tấc dài khoảng
30m bắc qua nóc hai tòa nhà cao ốc 40 tầng. Nếu đi được từ cao ốc này qua
cao ốc kia thì phần thưởng là mười triệu đồng. Nhiều người sẽ cho rằng đó là
chuyện điên rồ. Giả định rằng nếu có người bắt cóc đứa con ba tháng tuổi
của mình, kẻ điên rồ đứng trên nóc tòa cao ốc kia đưa đứa trẻ ra ngoài và
buộc người trong cuộc phải đi qua thanh dầm đó nếu không hắn sẽ buông rơi
nó. Quả thật đây là một tình huống hết sức căng thẳng và mệt mỏi khi phải xử
lý.
Như nhiều người khác, gần như tất cả sẽ thực hiện ngay yêu cầu này.
Không chỉ đi trên thanh dầm mà nhiều bậc cha mẹ sẽ đi thật dễ dàng không
cần nỗ lực gì. Tại sao con người lại phản ứng khác đi khi nhiệm vụ đi trên
thanh dầm vẫn không thay đổi. Con người phản ứng khác đi là vì mục đích đã
thay đổi. Mục đích lần đầu là làm sao đừng ngã; con người quan tâm làm sao
qua tới bên kia, đi như thế nào, dang tay cân bằng ra sao, sải chân dài ngắn.
Mục đích lần sau là cứu lấy đứa con của mình, con người không hề quan tâm
đến nhưng vấn đề khác. Mọi tâm nguyện đều chỉ là cứu lấy đứa bé và tinh
thần của các bậc cha mẹ là tự động nghĩ ra cách di chuyển tốt nhất để qua
được bên kia. Tương tự như thế, một khi đã đặt mục tiêu cho trí não - chẳng
hạn phải phát sinh ra ý tưởng - thì trí não của con người sẽ nghĩ ra cách để
phát sinh. Tại sao con người không nhận ra được vấn đề? Một lần nữa, đó là
tình huống một bước nhảy vọt lượng tử so với bước nhảy nhỏ. Nếu tinh thần
có thể điều khiển cách ứng xử và hành động của thể xác trên một thanh dầm
thép rộng chừng 3 tấc, dài khoảng 30 m bắc qua nóc hai tòa nhà cao ốc 40
tầng. Nếu tinh thần có thể điều khiển cách làm việc của thể xác con người
đến như vậy thì hãy thử nghĩ đến việc tình thần điều khiển hoạt động của tinh
thần… Cho nên, nếu muốn tìm ra ý tưởng, đừng tưởng tượng là mình sẽ tìm
ra ý tưởng, hãy nghĩ là mình đã tìm ra được chúng rồi. Tưởng tượng rằng
mình đang được ngợi khen, cảm ơn và tưởng thưởng. Chắc chắn sẽ đạt
được tất cả những điều kiện trên một cách tương đối và hiệu quả.
Sự khác biệt ở con người và con vật là ở khả năng định hướng mục
tiêu. Hành trình đi tìm ý tưởng cũng chỉ bắt đầu với những ai biết đặt ra mục
tiêu đi tìm ý tưởng. Nếu mục tiêu đạt ra ý tưởng càng rõ ràng thì khát khao
tìm kiếm càng mạnh mẽ. Nếu mục tiêu càng chính xác, hướng đi tìm mục tiêu
sẽ càng cụ thể và rõ ràng. Lẽ đương nhiên khi động lực càng mạnh và đường
hướng càng cụ thể thì mọi thứ càng sáng sủa và triển vọng.
4. Lòng can đảm
Lòng can đảm và óc tò mò là hai đặc tính mà dường như có ở người
nào có óc sáng tạo nhưng tại sao người khác lại có mà mình lại không? Nếu
như không có hai đặc tính đó thì làm sao đây? Không thể phủ nhận rằng sự
tác động của người xung quanh ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành ý
tường hay việc thực thi ý tưởng. Ý tưởng rất mong manh. Ý tưởng có thể chết
vì một cái nhếch mép hoặc cái lắc đầu. Ý tưởng cũng có thể bị thương vong
hay bị triệt tiêu bởi một lời mỉa mai. Ý tưởng cũng có thể bị chết non chỉ vì một
cái cau mày, trợn mắt. Chính vì lý do đó mà nhiều người đã đánh mất đi khả
năng sáng tạo; sự e sợ thái độ hắt hủi đã đóng cửa nhà máy ý tưởng của họ.
Tất cả những gì cần làm là phải thu hết cam đảm và phải biết phớt lờ. Có một
số lưu ý cơ bản có thể suy gẫm xoay quanh vấn đề này:
a. Ai cũng biết sợ cả, bất kỳ ai
Bản tính tự nhiên, người càng sáng tạo bao nhiêu thì lại càng sợ bấy
nhiêu bởi vì “ăng-ten” của người sáng tạo được tinh chỉnh hơn và họ ý thức
sắc bén hơn về những suy nghĩ, cảm xúc của người khác có thể làm ảnh
hưởng đến họ nhiều hơn. Bởi vậy, cảm giác lo âu, thấp thỏm hay e sợ cũng là
lẽ thường. Đứng trước nỗi e sợ đó, con người phải có can đảm mới nói ra
được. Lòng can đảm - như Kierkegard, Hemingway, Nietsche, Sartre, Camus
và những nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra - không phải không biết sợ. Can đảm
là dám xông lên không ngại hiểm nguy, không ngại nỗi sợ hãi hoặc cảm giác
tuyệt vọng. Và cũng đừng sợ những người mỉa mai hay những lời chỉ trích
mình. Vì hãy thử nhớ lại xem, những người từng chế giễu hoặc mỉa mai,
chính họ cũng sợ. Họ sợ ý tưởng của người sáng tạo, chính vì thế họ thường
chế giễu hay mỉa mai.
Nói cách khác, bản chất tột cùng của ý tưởng chứa đựng tiềm năng của
sự tàn phá rất lớn. Ý tưởng có thể thay đổi sự vật và ý tưởng càng độc đáo
chừng nào thì mức độ thay đổi của nó càng quyết liệt; và thay đổi càng quyết
liệt thì lại càng đe dọa đến người khác, càng làm cho họ mang niềm tin và
hành động của họ ra xét lại, càng khiến họ lo âu về công việc và tương lai. Do
đó con người phải mạnh dạn, can đảm dẹp mọi nỗi e sợ mà xông lên, trình
bày ý tưởng của mình.
b. Không có ý tưởng nào kém
Bà Marie Curie nghĩ ra một ý tưởng mới. Thoạt đầu bà cho rằng đó là
một ý tưởng rất bình thường nhưng không ngờ rằng chính nó đã tạo ra
Radium. Richard Drew cũng rơi vào trường hợp tương tự khi chính ông cũng
không nghĩ rằng suy nghĩ tạm thời của mình đã tạo ra băng keo Scotch:
Blaise Pascal phát minh ra bảng ru-lét khi đang thí nghiệm về chuyển động
vĩnh cửu, cọng khoai tây chiên bởi một đầu bếp vô danh ở khách sạn
Satagora Springs, khoa miễn dịch bởi Pasteur, tia X bởi Roentgen, viễn vọng
kính bởi Lippershep, phóng xạ bởi Becquerel, diêm quẹt bởi Walker, penicillin
bởi Fleming, và nước Mỹ bởi Columbus… Vậy, luận lý ở đây là gì? Đừng than
khóc trước chuyện đã rồi hay những chuyện đã qua khi không thể quay lại
quá khứ trọn vẹn.
Không được phép vội vã nhấn chìm những ý tưởng của mình khi phủ
lên nó những kết luận rằng ý tưởng đó rất tồi. Khi suy nghĩ đó xuất hiện, chắc
chắn rằng bao nhiêu nội lực và niềm tin của mình sẽ bị tan biến. Những ý
tưởng luôn có những hướng đến của nó cũng như những sắc màu nhất định.
Chính vì vậy, hãy trân trọng nó bằng tất cả những gì có thể. Có thể ý tưởng
ấy chưa hay, có thể ý tưởng ấy chưa thực sự được ứng dụng ngay lập tức
nhưng không thể là ý tưởng dở nếu như chúng ta đầu tư hết mình cho nó. Sự
dẹp bỏ những suy nghĩ ấy sẽ làm cho con người cảm thấy mạnh mẽ và tràn
đầy nguồn lực sáng tạo.
c. Con người luôn có khả năng tìm ra ý tưởng khác, thậm chí tốt hơn
Trong lĩnh vực quảng cáo, những ý tưởng của nhân viên ý tưởng luôn
bị bác bỏ; đó là đặc trưng của lĩnh vực này. Khi bị bác bỏ, con người hay càu
nhàu, tức tối thậm chí còn rủa xả và điên tiết đến mức muốn bỏ tất cả những
vị trí đang đảm nhiệm. Phản ứng tâm lý này là bình thường và hoàn toàn tự
nhiên đối với mỗi người.
Hãy nhớ rằng, luôn còn ý tưởng khác mà đôi khi ý tưởng mới còn tốt
hơn. Công việc của mình là tìm ra ý tưởng, nếu không còn ý tưởng nào tốt
hơn thì ta có mặt trong ngành quảng cáo để làm gì? Nếu không vượt qua
được ý tưởng cuối cùng của mình - thường là ý tưởng tốt nhất ta có thể tìm ra
- thì có lẽ nên bỏ nghề và chọn một nghề khác bởi vì ta đang đi xuống và sớm
muộn gì ta cũng bị thay thế bởi một người khác biết phát sinh ra ý tưởng tốt
hơn. Bởi vậy, đừng xem việc bị bác bỏ ý tưởng là đồng nghĩa với thất bại, đó
chính là cơ hội để làm việc gì khác tốt hơn. Ngay cả khi không thể tìm ra ngay
một ý tưởng phù hợp thì hãy nhớ rằng ít ra là đã phát hiện ra được điều gì đó
không phù hợp và chính điều đó sẽ giúp tìm ra được ý tưởng khác phù hợp
hơn. Chính Edison chắc chắn khi sáng chế ra bóng đèn phải từng thử cả trăm
lần những ý tưởng khác nhau trước khi tìm ra ý tưởng phù hợp. Vậy thì đừng
cho rằng ý tưởng nằm ở cuối dòng, nó chỉ bắt đầu một dòng mới mà thôi.
Dòng mới ấy có thể là vô định những sẽ được xác định nếu những con người
sáng tạo mạnh mẽ và kiên quyết.
d. Chưa ai bị chỉ trích vì có quá nhiều ý tưởng
Một trong những điều cản trở việc tìm ra ý tưởng chính là nỗi sợ rằng
danh tiếng của mình, thậm chí tương lai của mình đều tùy thuộc vào ý tưởng
sắp đề xuất. Có lẽ thế, “trời sẽ sập” và mọi người sẽ cười vào mũi của chúng
ta; có lẽ ý tưởng này hay ý tưởng kia sẽ không tốt và làm cho công ty phá
sản. Mọi việc sẽ trầm trọng hơn như bị đuổi việc, gia đình tử bỏ và ta sẽ chết
như một tên nghèo đói thất bại. Nếu vậy thì đừng đặt cược đời mình vào một
ý tưởng, hãy nảy sinh ra nhiều ý tưởng.
Khi con người càng có nhiều ý tưởng, cơ hội thành công sẽ càng nhiều
hơn. Khi kho ý tưởng được lưu giữ, việc xuất kho sẽ thực sự dễ dàng dựa
trên nguyên tắc “kê toa” sàng lọc. Nếu mỗi con người có nhiều ý tưởng, chính
mình cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết. Khi ta có nhiều ý tưởng, nếu không
nhận được những lời khen, những thán phục thì cũng chẳng bao giờ người
bình thường hay nhà quản lý chê trách sao “lắm” ý tưởng thế. Nhiều ý tưởng,
chỉ làm cho bạn trở nên giàu có mà không phải là người đuối sức hay “bần
cùng” về trí tuệ.
e. Tìm ra ý tưởng rất đáng trân trọng
Khi có một ý tưởng mới xé rào và kết nối, cảm giác đó thật tuyệt vời.
Không cảm giác nào hoàn toàn giống như thế. Khi đang cố gắng tìm ra một ý
tưởng, một giải pháp nhưng không nảy ra được điều gì cả; không có gì ngoài
vách ngăn và rào cản, và những cánh cửa khép kín, ngõ cụt; chúng ta đang
nản chí và lo sợ và tự hỏi liệu mình có bao giờ thoát khỏi mê cung này và rồi
đùng một cái, mỗi thứ vận hành ăn khớp với nhau. Như thế là sự nỗ lực đã
được đền đáp. Nói thế để thấy rằng con người có thể xé rào và nỗ lực hết
mình với những ý tưởng sáng tạo. So với cánh buồm no gió thì chốn dung
thân an toàn chỉ là chuyện vớ vẩn. Sáng tạo ra ý tưởng sẽ làm cho bạn cảm
thấy thực sự hạnh phúc, sung sướng vì chính bạn đang trải nghiệm được
những gì tuyệt vời nhất trong cuộc sống thay đổi và thách thức.
Tất cả những điều trên minh chứng một kết luận rất đơn giản là lòng
can đảm được xem là một trong điều kiện ban đầu đốt cháy ngọn lửa đi tìm ý
tướng. Hành trình đi tìm ý tưởng sẽ thực sự là một chặng hành trình thuận lợi
và có hướng đích khi lòng can đảm trở thành mồi lửa khát khao.
5. Biết định nghĩa vấn đề
Vì mọi vấn đề có giải pháp nên nhất thiết phải định nghĩa vấn đề của
mình cho đúng; nếu không, vấn đề có thể được giải quyết khác đi với phương
án mà đúng ra phải giải quyết.
Trong lĩnh vực quảng cáo, việc phát triển một vấn đề thường được gọi
là kế hoạch làm việc sáng tạo hoặc một chiến lược sáng tạo. Tiến trình đó bắt
buộc ta phải trả lời những câu hỏi như:
- Ta đang định phát biểu điều gì và tại sao lại phát biểu điều đó?
- Ta dự định phát biểu hướng đó cho ai nghe và tại sao?
- Ta có thể thực hiện được điều gì mà đối thủ cạnh tranh không thể?
- Lý do hiện hữu của sản phẩm hoặc dịch vụ của chúng ta là gì?
Mỗi lĩnh vực đều cần có riêng cho mình một loại kế hoạch; trong đó
phải dặt ra được mục tiêu, nhiệm vụ và chiến lược: vấn đề là gì, cơ hội ra
sao, những gì cần tiến hành?… Điều này hoàn toàn đúng bởi vì một câu hỏi
đơn giản như: “Tôi làm như thế nào để thực hiện công việc này cho đúng thời
hạn?” đã rất khác xa với “Tôi làm như thế nào để công việc này được thực
hơn đúng thời hạn?” Câu hỏi đều khiến con người nghĩ đến đủ loại kỹ năng
tiết kiệm thời gian, nhân lực. Câu thứ hai giục con người tính đến việc phân
chia lao động thế nào cho hợp lý.
Những nhà kinh doanh bán lẻ thường tự hỏi: “Làm cách nào để háng
hóa đến với khách hàng nhanh hơn?” rồi một ngày kia có người phát minh ra
siêu thị bằng câu hỏi: “Làm cách nào để khách hàng đến với hàng hóa?”
Những câu hỏi liên tục ấy sẽ tạo nên những thách thức và ý tưởng ra đời:
dựa trên nguyên lý tự vấn hoặc phát vấn. Giải pháp cho bất kì vấn đề nào
cũng luôn ở trạng thái hiện hữu tiềm tàng. Phải đặt ra đúng câu hỏi mới làm
nảy sinh ra giải pháp ấy, vì vậy, nên cẩn thận cân nhắc xem xét những câu
mình sắp hỏi, xem xét lại cách định nghĩa vấn đề. Khi gặp khó khăn chưa giải
quyết được hoặc giải pháp có vẻ cạn cùn, hãy thử định nghĩa lại vấn đề rồi
mới tìm cánh giải quyết nó. Thực tế đã chứng minh, biết đâu chính ta sẽ trải
qua kinh nghiệm như thế: chỉ cần định nghĩa lại vấn đề và hàng loạt các giải
pháp phong phú sẽ xuất hiện. Một số doanh nghiệp nhiều khi tự đặt ra các
câu hỏi không phù hợp những câu hỏi đó căn cứ trên loại giả định đã ăn sâu
trong suy nghĩ khiến họ không ngờ rằng chính mình đã hình thành những giả
định ấy. Do đó khi nào lỡ bị sa lầy, hãy nhớ đặt câu hỏi. Nếu trước đó đã tự
hỏi “Tại sao người ta không mua bán sản phẩm của tôi?” thì hãy thử đặt lại
“Tại sao người ta lại mua sản phẩm của tôi?” hoặc: “Tại sao khách hàng
không mua bất kì sản phẩm nào của tôi?” thành “Tại sao khách hàng lại mua
sản phẩm của công ty cạnh tranh với tôi?”. Hay “Liệu tôi có thể sẽ bán được
những sản phẩm này ở những nơi khác?” và “Sản phẩm của tôi có thể tiện
ích cho mọi người dùng ở những chức năng nào?”, “Nên thay đổi sản phẩm
như thế nào để nó hấp dẫn hơn”, “Làm sao để nhân viên tiếp thị gọi điện thoại
ít đi nhưng từng cuộc gọi lại trở nên có giá trị hơn?”, “Làm cách nào để nhân
viên kinh doanh biến thêm thêm nhiều cuộc tiếp xúc khách hàng thành những
hợp đồng cụ thể?”, “Làm sao để khiến khách hàng tiềm năng gọi nhân viên
của mình?” Những cách thức đó sẽ làm cho việc tạo ra ý tưởng trở nên sát
sườn và thực sự cụ thể hơn nữa. Lúc bấy gì, hành trình đi tìm ý tưởng sẽ bị
“ràng” một cách chắc chắn bởi những định hướng cũng như những chuẩn
mực vừa vặn, không quá bay bổng hay “vượt khung” một cách vô ích.
6. Khả năng thu thập thông tin
Ở bất kỳ lĩnh vực nào, việc thu thập thông tin là rất quan trọng và cần
thiết để giúp mô tả và định nghĩa được các vấn đề một cách chính xác nhất.
Hãy thu thập càng nhiều thông tin về một chủ đích định sẵn trước khi tìm các
ý tưởng hữu quan càng tốt. Việc thu thập thông tin không khó, chỉ cần biết
cách đặt ra các câu hỏi. Nhưng chúng ta phải hỏi, hỏi và hỏi; mà đặc biệt là
hỏi đúng trọng tâm và hỏi một cách thông minh. Trong muôn vàn những vấn
đề đang phải xử lý hàng ngày, luôn có một sự việc - mối tương quan nào đó
với một việc khác mà đôi khi sơ ý bỏ qua - một mẫu thông tin quý giá vốn sẽ
giúp thu vén bức màn bí ẩn, giúp mở ra cánh cửa giải pháp. Vì vậy, cho dù có
khó khăn trong việc thu thập loại thông tin cần thiết nào đó, cũng đừng bỏ qua
bước vừa rồi.
Theo Bill Bernbach, một giám đốc quảng cáo thì nếu không có chất liệu
gì cả, một bộ óc sáng tạo không thể đạt đến một ý tưởng tuyệt vời; nó cần
phải có một bệ phóng thông tin. Hãy biết rằng thỏi vàng thông minh mà chúng
ta đang tìm kiểm hiện đang có sẵn cũng như tin rằng ý tưởng luôn hiện có và
con người đang tìm ra chúng. Đào bới nó lên, đọc sách, đọc báo, đọc tạp chí
hay tham khảo thư viện, lướt internet. Luôn hỏi “tại sao, tại sao không” cũng
là những cách thức. Nói chuyện với khách hàng, thảo luận với bộ phận thiết
kế, xuống hiện trường, dự hội thảo, đến nhà sách hay hỏi cha mẹ, hỏi bạn
bè… đều là những con đường lý thú và hiệu quả.
Nhưng có điều quan trọng hơn cả là cái tâm của con người phải được
đặt vào đấy. Một khi tập trung ý thức vào chủ thể nhất định con người sẽ ngạc
nhiên với những gì sẽ xảy ra. Cứ nghĩ về điều gì ta sẽ thấy, nghe và cảm
nhận nó quanh mình. Nếu điều này đúng với những con bò ta đã thấy ở trên
đường hay trên đồng cỏ, đúng với cái xe dự định mua thì nó sẽ đúng với việc
sáng tạo. Như thế, việc sáng tạo ra những ý tưởng sẽ trở nên thực tế đến vô
cùng.
Nói thế để thấy rằng những ý tưởng thực sự là bạn của chúng ta. Vấn
đề quan trọng nhất là hãy đưa những “đòn bẫy” bằng tâm lý đích thực, những
bệ phóng tinh thần đúng nghĩa với những thói quen, những hành động tinh
thần như đã đề cập thì chắc chắn những người bạn tinh thần ấy sẽ viếng
thăm một cách hết sức nhẹ nhàng, chân tình nhưng cũng thực sự dễ dàng và
hiệu quả.
Chương 3. CÁC CON ĐƯỜNG ĐI TÌM Ý TƯỞNG
I. CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO Ý TƯỞNG BẰNG HÌNH ẢNHKhông ít người được giáo dục cách tư duy bằng từ ngữ như: “dục tốc
bất đạt”, “thời gian là vàng”, “không gì làm ta tự tin bằng sự thành công”… và
hiện nay khi hình thành một suy nghĩ - bất kỳ suy nghĩ nào - thì xác suất lớn
đó là dưới hình thức bày tỏ; nhưng trong thực tế thì những người có óc sáng
tạo nhất trong lịch sử lại tư duy bằng hình ảnh thay vì từ ngữ. Einstein cho
biết là ít khi nào ông suy nghĩ bằng từ ngữ, thường thì ý niệm đến với ông
dưới dạng hình ảnh và sau đó ông mới thử thể hiện lại bằng từ ngữ và công
thức.
- Alfred Wegener thấy bờ Tây của Châu Phi khớp với bờ Đông của
Nam Mỹ và nhận thấy rằng tất cả các châu lục trước đây từng là thành phần
của một châu duy nhất.
- Trong chớp nhoáng, Newton thấy mặt trăng “ứng xử” giống như quả
táo - nghĩa là mặt trăng cũng “rơi” như là quả táo rơi.
- Man Ray nhìn thấy tấm thân kiều nữ thành một cây đàn cello… Khi
được giao làm quảng cáo cho Master Locks họ sẽ không nhìn thấy cái ổ khóa
như là ổ khóa; họ sẽ nghĩ đó là nhân viên bảo vệ, hoặc một hợp đồng bảo
hiểm cho tài sản xe cộ và cho tất cả những gì quý giá nhất của con người.
Những người kể trên, họ không tư duy bằng từ ngữ mà tư duy bằng hình ảnh,
bằng sự liên tưởng, bằng ẩn dụ, bằng ý tưởng. Một khi đã có tư duy bằng
hình ảnh thì chữ nghĩa đến dễ dàng; vì vậy lần tới khi gặp phải vấn đề, hãy
thử tư duy bằng hình ảnh thay vì từ ngữ.
NHỮNG LỐI ĐI SÁNG TẠO Ý TƯỞNG BẰNG HÌNH ẢNH [8].
01. Phân nhỏ - Segmentation
a. Chia vật thể thành những phần độc lập.
b. Tạo một vật thể lắp ghép.
c. Tăng mức độ phân chia của vật thể.
Hãy nhìn nhận những vật thể như đồ gỗ lắp ghép, mô-đun máy tính,
thước gấp để thấy rằng những ý tưởng này được tạo ra bằng chính những lối
đi rất giản đơn như trên.
02. Trích Tách - (Tách khỏi) - Taking out
a. Trích (bỏ hoặc tách) phần hoặc tính chất “nhiễu loạn” ra khỏi vật thể.
b. Trích phần hoặc tính chất cần thiết.
Máy Cassette tách tiếng ca sĩ và người ca sĩ là một trong những minh
chứng rất thú vị cho thủ thuật này đã đóng góp cho những sản phẩm phục vụ
đời sống tinh thần cho con người tiện lợi đến không ngờ.
03. Phẩm chất cục bộ - Local quality
a. Chuyển cấu trúc (của vật thể hoặc môi trường/ tác động bên ngoài)
từ đồng nhất sang không đồng nhất.
b. Những bộ phận khác nhau thực hiện những chức năng khác nhau.
c. Đặt mỗi bộ phận của vật thể dưới các điều kiện hoạt động tối ưu.
Bút chì và tẩy trên cùng một cái bút để có thể đảm bảo sự tiện lợi khi
chúng thực hiện những chức năng khác nhau trên cùng một cây bút. Nếu đó
không phải là một ý tưởng thì nó sẽ là gì?
04. Bất đối xứng - (Phản đối xứng) – Asymmetry
a. Thay một hình đối xứng thành một hình không đối xứng.
b. Nếu vật thể đối xứng rồi thì tăng tốc độ đối xứng.
Con người đã thực sự tinh tế khi làm một mặt của lốp xe khỏe hơn mặt
kia để chịu được tác động của lề đường. Hay khi tháo cát ướt bằng một cái
phễu đối xứng, cát tạo ra một cái vòm ở lỗ, gây ra dòng chảy bất thường. Một
cái phễu bất đối xứng sẽ loại trừ hiệu ứng tạo vòm lầy hết sức thú vị và cũng
không kém phần độc đáo.
05. Kết hợp - marketing
a. Kết hợp về không gian những vật thể đồng nhất hoặc những vật thể
dành cho những thao tác kề nhau.
b. Kết hợp về thời gian những thao tác đồng nhất hoặc kề nhau.
Đơn cử như yếu tố hoạt động của một máy xúc quay có những cái vòm
hơi đặc biệt để làm tan và làm miền đất đông cứng. Bàn ủi hơi nước cũng có
thể làm tăng tính năng của nó khi kết hợp một cách nhuần nhuyễn những yếu
tố liên quan đến vật thể.
06. Vạn năng - Universality
Vật thể hoạt động đa chức năng loại bỏ một số vật thể khác.
Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những chiếc ghế trường kỷ có
chức năng của một cái thường hay những chiếc ghế của xe tải nhỏ có thế
điều chỉnh thành chỗ ngồi, chỗ ngủ hoặc để hàng hóa để trong những trường
hợp khác nhau thì tính năng của nó sẽ được phát huy một cách tối đa gần
như vạn năng là thế.
07. Xếp lồng - Nested doll
a. Để một vật thể trong lòng vật thể khác, vật thể khác này lại để trong
lòng vật thể thứ ba.
b. Chuyển một vật thể lồng qua một khoảng trống của một vật thể khác.
Hãy nhận thấy ăng-ten có thể thu ngắn lại được hay các chiếc ghế có
thể xếp chồng lên nhau để cất đi hoặc những ruột bút chì với những màu cho
dự trữ để bên trong hoàn toàn là những minh chứng rất thú vị cho thủ thuật
này. Điều đó khẳng định rằng ý tưởng sáng tạo đã được lóe sáng và hiện hữu
một cách rất hấp dẫn.
08. Đối tượng - Anti-weight
a. Bù trừ trọng lượng của vật thể bằng cách nối với một vật thể khác có
một lực đẩy.
b. Bù trừ trọng lượng của vật thể bằng tương tác với môi trường cung
cấp khí hoặc thủy động lực.
Hãy quan sát những thiết bị nâng thân tàu - cánh sau của xe ôm đua có
thể tăng áp suất từ ôtô lên mặt đất để đảm bảo cho nó hoạt động hiệu quả
một cách tối đa.
09. Phản ứng sơ bộ - Preliminary anti-action
a. Thực hiện phản hoạt động trước tiên.
b. Nếu vật thể chịu áp lực thì cung cấp một phản lực trước đó.
Người ta có thể gia cố cột hoặc nền móng và gia cố cột tạo thành từ vải
ống trước tiên được vặn theo một góc đặc biệt để đảm bảo những áp lực hay
những tác động bất ngờ.
10. Tác động sơ bộ - Preliminary action
a. Trước tiên thực hiện tất cả hoặc một phần hoạt động.
b. Sắp xếp các vật thể sao cho chúng có thể đi vào hoạt động trong một
khoảng thời gian hợp lí và từ một vị trí thích hợp.
Đơn cử như việc tạo nên những lưỡi dao tiện ích tạo với đường rãnh
cho phép phần cùn của lưỡi dao có thể được bẻ đi, để lại phần sắc nhưng rất
an toàn cho người sử dụng. Cách cải tiến này thực sự đáng kinh ngạc góp
phần quan trọng cải thiện cuộc sống.
11. Dự phòng - Beforehand cushioning
Bù trừ cho tính không tin cậy của vật thể bằng biện pháp trả đũa trước
tiên.
Người ta có thể vận dụng yêu cầu này bằng cách hàng hóa được bố trí
để ngăn cản việc ăn cắp hay đánh cắp ngoài kiểm soát.
12. Đẳng thế - Equipotentiality
Thay đổi điều kiện làm việc để không phải nâng lên hạ xuống.
Có thể xem xét hành động sắp xếp dầu động cơ ô tô được các công
nhân thay trong các hố gầm để tránh phải sử dụng những dụng cụ nâng bốc
đắt tiền khác cũng là một ý tưởng sáng tạo độc đáo.
13. Đảo ngược - The other way round
a. Thay cho một hành động điều khiển bởi các chi tiết kỹ thuật của bài
toán, áp dụng ngược lại.
b. Làm cho phần chuyển động của vật thể hoặc môi trường bên ngoài
của vật thể trở nên bất động và những phần bất động trở thành chuyển động.
c. Lật úp vật thể.
Đơn cử như khi mài vật thể thì di chuyển vật thể mài chứ không di
chuyển bàn chải như thế bàn chải sẽ đỡ bị mòn hơn. Lối áp dụng này đảm
bảo được khá nhiều tiện ích nhất định.
14. Cầu - tròn hóa - spheroidaliti – curvature
a. Thay những vật thể thẳng hoặc bề mặt bằng phẳng thành những mặt
cong; thay thế hình lập phương thành hình cau.
b. Sử dụng con lăn, vật hình xoắn ốc.
c. Thay thế chuyển động thẳng bằng chuyển đông quay; tận dụng lực li
tâm.
Thông thường, khi tối đa tiện lợi hóa cho máy tính, các nhà khoa học
máy tính sử dụng con chuột có cấu trúc tròn thành chuyển động hai chiều trên
màn hình.
15. Năng động - Dinamics
a. Tạo một vật thể hoặc môi trường của nó tự động điều chỉnh tới độ tối
ưu tại mỗi trạng thái hoạt động.
b. Chia vật thể thành những phần nhỏ mà có thể thay đổi vị trí tương
đối với nhau.
c. Nếu vật thể bất động thì làm cho nó chuyển động và có thể trao đổi
được.
Có thể xem xét những ví dụ sau để thấy được việc năng động hóa
những đặc điểm của sự vật hiện tượng theo những ý tưởng sáng tạo được
khám phá:
- Đèn chớp với cái cổ ngỗng linh động giữa thân và bóng đèn.
- Mạch máu trong cơ thể người có hình ống. Để giảm cặn hoặc mạch
máu không quá tải, chỉ một nửa mạch máu có dạng ống có thể mở ra…
16. Hành động một phần hoặc quá mức - Partial or excessive actions
Nếu có thể đạt 100% hiệu quả mong muốn thì có đạt đến cái đơn giản
nhất.
Hãy quan sát một ống xi-lanh được sơn bằng cách bơm sơn nhưng
bơm quá nhiều sơn. Lượng sơn thừa được lấy ra bằng cách quay nhanh ống
xi-lanh để nhận thấy được sự ứng dụng hết sức độc đáo của kỹ thuật này.
Để có thể lấy hết bột kim loại ra khỏi cái thùng, người ta đóng đai có
một cái phễu đặc biệt có thể bơm để cung cấp áp suất cố định bên trong
thùng.
17. Chuyển sang chiều khác - Another dimension
a. Loại bỏ các bài toán bằng cách dịch chuyển một vật thể trong chuyển
động hai chiều (tức là dọc theo mặt phẳng).
b. Dùng tổ hợp chồng chập đa lớp thay cho đơn lớp.
c. Làm nghiêng vật thể hoặc quay nó lên cạnh của nó.
Một nhà kiếng có một gương cầu lõm ở phía bắc của ngôi nhà để cải
thiện ánh sáng ở phía đó thông qua phản xạ ánh sáng ban ngày. Điều này
chính là một ý tưởng hết sức lạ lẫm nhưng cũng cực kỳ thú vị.
18. Rung động cơ học - Mechanical vibration
a. Đặt vật thể vào thế rung động.
b. Nếu đã rung động rồi thì tăng tần số, thậm chí đến tần số sóng siêu
âm.
c. Sử dụng tần số cộng hưởng.
d. Thay áp rung cho rung cơ học.
e. Dùng rung động siêu âm với từ trường.
Khi bỏ khuôn đúc ra khỏi vật thể mà không hại đến bề mặt vật thể, cưa
tay thông thường được thay bằng dao rung động. Hoặc rung khuôn đúc khi
đổ vật liệu vào để giúp dòng chảy của vật liệu và các tính chất cấu trúc nhằm
nâng cao hiệu quả hành động là vậy.
19. Tác động tuần hoàn - Periodic action
a. Thay một hành động liên tục thành một hành động tuần hoàn (xung).
b. Nếu một hành động đã tuần hoàn rồi thì thay đổi tần số.
Những ứng dụng cần thiết trong việc tác động mở ốc nên dùng xung
lực hơn là một lực liên tục. Hay đèn báo nháy sáng có tác dụng thu hút chú ý
hơn đến phát sáng liên tục.
20. Liên tục hóa tác động có ích - Continuity of useful action
a. Thực hiện một hành động liên tục (không nghỉ) trong đó tất cả các
phần của vật thể hoạt động hết công suất.
b. Loại bỏ các hành động không hiệu quả và trung gian.
Một cái khoan có cạnh đề cắt cho phép cắt theo chiều tới và lui sẽ là
một minh chứng cho kỹ thuật liên tục hóa tác động có ích.
21. Vượt nhanh - Skipping
Thực hành các thao tác có hại hoặc mạo hiểm với tốc độ thật nhanh.
Điển hình như máy cắt ống kim loại mỏng có thể tránh cho ống không
bị biến dạng trong quá trình cắt khi cắt với tốc độ nhanh làm gia tăng năng
suất lao động đặc biệt.
22. Chuyển hại thành lợi - Blessing in disguise
a. Sử dụng những yếu tố có hại hoặc các tác động môi trường để thu
những hiệu quả tích cực.
b. Loại bỏ những yếu tố có hại bằng việc kết hợp nó với một yếu tố có
hại khác.
c. Tăng tác động có hại đến khi nó tự triệt tiêu tính có hại của nó.
Cát sỏi đông cứng khi vận chuyển qua thời tiết lạnh. Nếu quá lạnh
(dùng ni-tơ lỏng) làm cho nước đá trở nên giòn, cho phép rót được sẽ làm
cho hiệu quả lao động tăng lên một cách bất ngờ. Hay khi nung nóng chảy
kim loại bằng lò cao tần, chỉ có phần ngoài trở nên nóng. Hiệu ưng này được
dùng để nung nóng bề mặt bề mặt.
23. Thông tin phản hồi - Feedback
a. Mở đầu thông tin phản hồi.
b. Nếu đã có thông tin phản hồi thì đảo ngược nó.
Có thể nhận thấy áp suất nước từ một cái giếng được duy trì bằng việc
đo áp suất ra và bật bơm nếu áp suất quá thấp. Nước đá và nước được đo
một cách tách nhiệt nhưng cần kết hợp để tính tổng khối lượng riêng. Vì nước
đá rất khó có thể pha chế một cách chính xác, do đó nó được đo trước. Khối
lượng đó được đổ vào một dụng cụ điều khiển nước, để có thể pha chế với
liều lượng cần thiết.
24. Vật trung gian - Intermediary
a. Dùng một vật thể trung gian đề truyền hay thực hiện một hành động.
b. Tạm thời nối một vật thể với một vật thể khác mà nó dễ dàng được
tháo bỏ đi…
Cụ thể như để làm giảm năng lượng mất mát khi đặt một dòng điện vào
một kim loại nóng chảy, người ta dùng các điện cực được làm nguội và các
kim loại nóng chảy trung gian có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn. Cách thức này
đã sử dụng vật trung gian một cách khá độc đáo và hiệu quả.
2S. Tự phục vụ - Self- service
a. Làm cho vật thể tự phục vụ và thực hiện những thao tác bổ sung và
sữa chữa.
b. Tận dụng vật liệu và vật thể bỏ đi.
Minh họa cho kỹ thuật này bằng mục đích để tránh cho đường ống
phân bố các vật liệu mài mòn, bề mặt của ống được phủ một loại vật liệu
chống ăn mòn. Hay trong một cái sung hàn điện, thanh tròn được đưa lên
bằng một dụng cụ đặc biệt. Để đơn giản hệ thống thanh được đưa lên bằng
một cuộn dây có dòng điện cấp cho mũi hàn chạy qua.
26. Sao chép - Copying
a. Dùng một bản sao đơn giản và rẻ tiền thay cho một vật thể phức tạp,
đắt tiền, dễ vỡ hay bất tiện.
b. Thay thế một vật thể bằng bản sao hoặc hình ảnh của nó, có thể
dùng thước để tăng hoặc giảm kích thước.
c. Nếu các bản sao quang học đã được dùng, thay chúng bằng những
bản sao hồng ngoại hoặc tử ngoại.
Chiều cao hoặc chiều dài của vật thể có thể được xác định bằng cách
đo bóng của chúng sẽ làm giảm tải sức lao động cũng như những đầu tư quá
tốn kém trong công việc và cuộc sống.
27. Dùng rẻ thay đắt - Cheap short - living objects
Thay một vật thể đắt tiền bằng nhiều những vật thể rẻ tiền có ít ưu điểm
hơn. Việc sử dụng giấy vệ sinh dùng một lần sẽ đảm bảo được nguyên lý này
một cách cụ thể và chi tiết
28. Thay thế hệ cơ học - Mechanics substitution
a. Thay thế hệ cơ học bằng hệ quang, âm hoặc khứu giác (mùi).
b. Dùng điện, từ, điện từ trường để tương tác với vật thể.
c. Thay thế các trường.
Có thể nhận thấy rằng để tăng liên kết của lớp sơn kim loại và vật liệu
dẻo nóng, quá trình được thực hiện bên trong một môi trường điện từ, trường
này tạo lực tác động lên kim loại.
29. Khí nén và thủy lực - Pneumatisc and hydraulics
Thay thế các phần cứng rắn của vật thể băng chất lỏng. Các phần nào
có để dung không khí hoặc nước để phồng lên, hoặc dùng đệm hơi hay đệm
thủy tinh.
Để tăng cặn của hóa công nghiệp, một cái ông hình xoáy ốc với các vòi
được dung. Khi những luồng không khí đi qua các vòi, cái ống đó sẽ tạo ra
một bức tường tiêu khí làm giảm vật cản. Hay để vận chuyển những đồ dễ vỡ
người ta dùng phong bì bọt khí hoặc vật liệu bọt.
30. Màng linh động hoặc màng mỏng - Flexible shells and thin films
a. Thay cấu trúc truyền thống bằng cấu trúc làm từ màng linh động
hoặc màng mỏng.
b. Cô lập vật thể ra khỏi môi trường xung quanh bằng cách sử dụng
màng linh động hoặc màng mỏng.
Để tránh hơi nước bốc bay ra khỏi lá cây, người ta tưới một lớp nhựa
tổng hợp. Sau một thời gian lớp nhựa đó cứng lại và cây phát triển tốt hơn vì
màng nhựa cho phép oxy lưu thông qua tốt hơn hơi nước. Cách thức này
được áp dụng một cách khá phổ biến ngày nay như là một yêu cầu để nâng
cao hiệu quả lao động.
31. Dùng vật liệu xốp - Porous materials
a. Dùng vật thể xốp hoặc các yếu tố xốp (chèn, phủ,…).
b. Nếu một vật thể đã xốp thì làm đầy các lỗ chân lông trước bằng một
vài chất liệu.
Để tránh bơm chất lỏng làm nguội vào máy một số bộ phận của máy
được nhét đầy các vật liệu xốp thấm hết các chất lỏng đó. Hơi làm nguội khi
máy làm việc làm cho máy nguội đồng nhất trong thời hạn ngắn.
32. Đổi màu - Color changes
a. Đổi màu của vật thể hoặc những thứ quanh nó.
b. Đổi độ trong suốt của vật thể hoặc quá trình mà khó có quan sát.
c. Dùng bổ sung màu để quan sát các vật thể hoặc quá trình khó quan
sát.
d. Nếu đã dùng bổ sung màu thì dùng các yếu tố khác để theo dõi.
Con người có thể dùng một miếng gạt trong suốt để theo dõi vết
thương mà không cần tháo ra nhằm làm cho hiệu quả điều trị rất tiện lợi
nhưng có cơ hội được nâng cao.
Hay màn chắn nước để bảo vệ công nhân máy cán thép khỏi bị bỏng
nhưng màn đó cũng không cản trở việc quan sát thép nóng chảy. Người ta
làm cho nước có màu để tạo một hiệu ứng lọc (để giảm bớt cường độ ánh
sáng) trong khi vẫn giữ tính trong suốt của nước.
33. Tính đồng nhất - Homogeneity
Làm các vật thể tương tác với vật thể đầu tiên bằng cùng loại vật liệu
hoặc vật liệu rất gần với vật thể đầu tiên đó.
Có thể nhận thấy bề mặt của máng chuyển vật thể cứng được làm
cùng loại vật liệu với vật thể chạy trên đó cho phép phục hồi liên tục bề mặt
của màng để đảm bảo sự đồng nhất.
34. Những phần loại bỏ và tái sinh - Discarding and recovering
a. Một yếu tố của vật thể sau khi hoàn thành chức năng hoặc trở nên
vô dụng thì hãy loại bỏ hoặc thay đổi nó (vứt bỏ, phân hủy, làm bay hơi,…).
b. Loại bỏ ngay lập tức những phần của vật thể không còn tác dụng.
Có thể minh họa thủ thuật bằng ví dụ ca tút của viên đạn được lấy ra
ngay sau khi súng được bắn. Hay phần thân của tên lửa tách ra sau khi làm
hết chức năng của nó. Đó là cách thức ứng dụng phần loại bỏ và tái sinh một
cách hữu hiệu và khoa học.
35. Thay đổi thông số hóa lí
- Thay đổi đa chiều sẽ cho phép thay đổi trạng thái kết tập, phân bố mật
độ, độ linh động, nhiệt độ của vật thể.
- Dễ đàng nhận thấy trong một hệ có những vật liệu dễ vỡ, bề mặt của
cái vặn xoáy trôn ốc được tạo thành từ vật liệu dẻo với hai lò xo xoáy ốc. Để
điều khiển quá trình, bước của đinh ốc có thể thay đổi từ xa.
36. Chuyển pha - Phase transitions
Ứng dụng các hiệu ứng trong quá trình chuyển pha của vật liệu. Ví dụ
trong khi thay đổi thể tích, bậc tự do hay hấp thụ nhiệt. Những ứng dụng trong
việc kềm giữ hoặc hạ thấp nhiệt độ của tủ lạnh là một trong những minh họa
khá lý thú.
37. Giãn nở nhiệt - Thermal expansion
a. Dùng vật liệu có thể co giãn theo nhiệt độ.
b. Sử dụng các vật liệu khác nhau với các hệ số giãn nở nhiệt khác
nhau.
Đề điều khiển đóng mở cửa sổ trong nhà kính, một tấm gồm hai kim
loại được nối với cửa sổ. Khi nhiệt độ thay đổi thì sẽ làm cho tấm cong lên
hoặc cong xuống làm cho cửa sổ đóng mở một cách tiện lợi và dễ dàng hơn
so với thực tế.
38. Sử dụng chất oxy hóa mạnh - Strong oxidants
a. Thay không khí thường bằng môi trường nhiều không khí.
b. Thay môi trường giàu không khí bằng oxy.
c. Xử lí vật thể trong môi trường giàu không khí hoặc oxy bằng phóng
xạ ion hóa.
d. Sử dụng oxy ion hóa.
Đơn cử như để thu nhiều nhiệt hơn từ ngọn lửa, oxy được cung cấp
thay cho không khí thường.
39. Môi trường khí trơ - Inert atmosphere
a. Thay môi trường thường bằng môi trường khí trơ.
b. Thực hiện quá trình trong chân không.
Ví dụ như để tránh bông khỏi bắt lửa trong kho hàng, người ta dùng khí
trơ khi vận chuyển tới khu tập kết.
40. Vật liệu composite - Composite materials
Thay vật liệu đồng nhất bằng vật liệu tổng hợp (composite).
Có thể nhận thấy cánh của máy bay làm bằng vật liệu composite cho
khỏe và nhẹ hơn nhưng vẫn đảm bảo những yêu cầu về kỹ thuật kết cấu, bay
lượn trên không [8-].
Trải nghiệm:
Những hình ảnh trong cuộc sống có vô vàn những giá trị của nó.
Những kỹ thuật sáng tạo bằng hình ảnh sẽ chẳng bao giờ xa lạ với bạn nếu
chính bạn trải nghiệm nó bằng hàng loạt những bài tập có liên quan. Hãy nhìn
thật kỹ một hình ảnh nào đó ngẫu nhiên tìm được trên một tờ báo, bạn sẽ
cảm thấy nhiều điều thú vị nảy sinh xung quanh. Bạn có thể nhận ra dường
như hình ảnh ấy đang thiếu hay thừa một chi tiết nào đó. Bạn cũng có thể
nhận thấy hình ảnh này có thể đặt cạnh một hình ảnh nào khác. Bạn cũng có
thể dễ dàng nhận ra hình ảnh này có thể vẽ khái quát hơn hoặc bổ sung chi
tiết sao cho nó quyến rũ hơn… Những ý tưởng ấy sẽ không dừng lại nếu bạn
tự tin vào suy nghĩ cua mình cùng với những cảm xúc nhất định.
Bài tập:
- Cắt những hình ảnh ngẫu nhiên trên báo và sắp xếp lại, bạn sẽ có thể
tạo thành một bức tranh lý thú.
- Cắt những hình ảnh ngẫu nhiên trên báo và sắp xếp lại bạn có thể kể
thành những câu chuyện cực kỳ hấp dẫn.
- Cắt những hình ảnh ngẫu nhiên trên báo và sắp xếp lại, bạn hãy cố
gắng sắp xếp thật nhiều cách để tạo thành nhiều câu chuyện khác nhau.
II. NHỮNG CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO Ý TƯỞNG BẰNG SỰ KÍCH HOẠT
1. Châm ngòi
- Cliff Einstein, giám đốc một văn phòng quảng cáo nói: “Cách tốt nhất
để tìm ra ý tưởng chính là tìm ra ý tưởng”. Theo Cliff, một khi chúng ta có một
ý tưởng thì sẽ bị áp lực để nảy sinh ý tưởng. Cliff cho rằng các ý tưởng có
cách riêng để phình to ra rất nhanh, bằng cách hay nhất để khiến nguyên tiến
trình chuyển động là mồi nó bằng một ý tưởng, bất kỳ ý tưởng nào. Cho dù ý
tưởng đó có ý nghĩa hay không, hoặc có giải quyết được vấn đề hay không,
thậm chí có liên quan hay không, miễn là ý tưởng ấy mới và khác biệt. Điều
này nghe qua có vẻ điên rồ nhưng ngày nào đó chúng ta cứ thử xem, có tác
dụng đấy.
Song chúng ta nên nhớ một điều: “Hãy làm đi chứ, đừng ngồi đó mà
chờ ý tưởng rụng vào mồm” nhưng hãy đi lùng kiếm nó, tập trung vào nó…
Thực tế thường ghi nhận là thoạt tiên các ý tưởng có vẻ do dự, sau đó nhanh
rồi cuối cùng quá nhanh đến mức không kịp ghi nhớ bằng một từ khóa trên
bảng. Đến lúc này, có thể đừng tạm ngưng để xem xét chúng; nếu không
dòng chảy, nhịp điệu, sự kì diệu sẽ tắc. Hãy nhanh tay ghi chú từng ý này đến
ý khác đợi sau này hãy phân tích. Khi bắt đầu đi tìm ý tưởng, con người
thường nghĩ rằng chỉ có một giải pháp thôi. Thực tế bây giờ đã có thể dễ
dàng nhận ra: luôn sẵn có một giải đáp khác, việc quan trọng là hãy tìm ra
chúng. Phải tự ép mình nhìn vào vấn đề phải đi tìm ý tưởng, tìm ra giải pháp.
Tự hỏi mình đang giả định điều gì, đang theo qui luật nào. Thu hết can đảm
và tiến công. Nhưng đến một lúc nào đó phải ngưng tìm kiếm, phải ngưng suy
nghĩ về nó. Những nỗ lực liên tục và kiên trì ấy thường mang đến những kết
quả rất ấn tượng. Nói khác đi, ý tưởng mồi được xem là cú xuất phát điểm rất
quan trọng. Chính nó là mồi lửa, chính nó là yếu tố khởi điểm và cũng chính
nó là yếu tố tạo nên hàng loạt những ý tưởng mới mà nếu có một cơn chấn
động để sản sinh ra liên tục những ý tưởng là nguồn tài nguyên ý tưởng có
thể đến vô tận. Ý tưởng mồi là điểm xuất phát trong hành trình đi tìm ý tưởng
đế con người có thể tiếp tục tạo nên những ý tưởng mới trong chặng hành
trình đầy ngẫu hứng và có những cơ sở rất vững vàng.
Trải nghiệm:
Có bao giờ bạn nghe nói đến nhà hát Con Sò rất nổi tiếng ở nước Úc?
Chắc chắn rằng đó là một địa điểm du lịch, một công trình kiến trúc và là một
ý tưởng sáng tạo hết sức độc đáo. Thế nhưng có bao giờ bạn nghĩ từ đâu hay
dựa trên cơ sở nào ý tưởng đó được hình thành?
Một hôm, vị kiến trúc sư đang ngồi gọt những quả cam sau những giờ
đau đầu vì hạn nộp bản thiết kế về một nhà hát cho chính quyền Sydney đã
gần kề. Nhìn các múi cam xếp chồng lên nhau trông thật đẹp mắt, vị kiến trúc
sư nảy sinh ý tưởng một nhà hát như múi cam chồng lên nhau thì tại sao
không?
Đó chính là ý tưởng mồi ban đầu. Sau vài lần hoàn chỉnh, nước úc đã
có một biểu tượng hết sức độc đáo. Nhà hát Con Sò với hình dáng gần như
những múi cam xếp lên nhau nằm ngay bên bờ cảng Sydney…
Bài tập
- Hãy chọn một hình ảnh bất kỳ nào đó rồi tạo ra một hình ảnh mới có
sự khác biệt với ý tưởng mồi đó. Liên tục làm tương tự nhiều lần.
- Hãy tìm ra một hình ảnh được chọn lọc trong một bài thơ và sau đó
điều chỉnh nó theo một hướng khác, một kiểu khác.
2. Bỏ rơi tạm thời
Thường thì con người không có thời gian để quên đi các vấn đề vì ta
phải tìm ra ý tưởng ngay bây giờ. Không để đến ngày mai. Ngay bây giờ và
không có sự lựa chọn nào khác. Thực tế đã chứng minh rằng nếu gặp một
chướng ngại trước khi cố giải quyết một vấn đề hoặc cố tìm ra ý tưởng thì
việc nên phứt nó đi cũng là một việc thiết yếu. Hãy xem xét những chia sẽ rất
thú vị sau:
Thật vậy trong quyển “The Babinski Reflex”, Phillip Goldberg đã chỉ ra
rằng hiện tượng này (mà ông gọi ví von là “hiệu ứng Eureka” theo kiểu
Archimedes khám phá ra trong bồn tắm) diễn ra thường xuyên đến nổi được
xem như là điểm đặc trưng của khám phá khoa học, sáng tạo nghệ thuật, giải
quyết vấn đề và đưa ra quyết định. Khi vẫn chưa thể tìm ra hoặc giả như ta có
cảm tưởng mình va vào đầu tường hay khi mọi việc trở nên quá gay go và
khó khăn… Hãy quên phứt vấn đề này đi và bắt tay vào việc khác.
Nhưng không phải quên phứt vấn đề rồi lại rơi vào trạng thái ù lì thụ
động hoặc ngồi ì ra đó xem truyền hình suốt cả tuần. Trạng thái thụ động đó
sẽ làm mất đà, bóp nghẹt các mối quan tâm, dập tắt những nỗ lực cần có để
nhằm xem xét sự việc với mức độ kỹ lưỡng hơn, đủ để nhận ra những điểm
tương đồng và liên đới.
Ở lĩnh vực quảng cáo, thường những người viết nội dung kịch bản
(copy writer), những người chỉ đạo nghệ thuật luôn ứng xử như thế khi có thể.
Khi họ chưa thể tìm ra ý tưởng mới cho một mẫu quảng cáo truyền hình nào
đó và thời hạn vẫn còn đến tuần sau. Họ liền để chuyện này sang một bên rồi
suy nghĩ về một mẫu quảng cáo hay một chương trình sự kiện - quảng cáo
cho một loại sản phẩm khác. Vài ngày sau khi trở lại ý tưởng ban đầu thì kì
diệu thay, ý tưởng như có sẵn. Nếu trong trường hợp chưa có sẵn một dự án
nào để tư duy, vậy thì hãy kiếm cho mình một dự án. Bí quyết ở đây là nên
sang số để cho tiềm thức chúng ta tự giải quyết vấn đề đang rắc rối, trong khi
ý thức đang làm việc với các vấn đề khác, có nghĩa là tạm gác vấn đề này lại
trong khi trí óc xử lý vấn đề khác.
Nhiều chuyên gia làm việc trong lĩnh vực ý tưởng đã làm như thế, khi
bế tắc ở dự án này, liền chuyển sang dự án tiếp theo để cho tiềm thức hoạt
động. Hết chín trong mười lần khi trở lại vấn đề cũ thì dễ ngạc nhiên nhận ra
rằng mình đã giải quyết nó - hoặc tiềm thức mình giải quyết – nhưng bản thân
không nhận ra. Đó chính là sự kỳ diệu của yếu tố tạm quên hay yếu tố nuôi
dưỡng cái nhớ trong sự quên tạm thời.
Nhưng cũng nên nhắc lại lần nữa: phải tiếp tục suy nghĩ một việc nào
khác, kiếm ra một dự án khác để xử lý. Đừng nghĩ rằng phải để cho bộ não
được nghỉ ngơi. Bộ não không phải là loại cơ bắp biết mệt mỏi. Ngoài ra, tiềm
thức của con người không hề quan tâm liệu nó đang phải xử lý một vấn đề
với tầm quan trọng có thể làm đảo lộn thế giới hay chỉ là một công việc bình
thường, đơn giản. Bất cứ vấn đề nào, bộ não cũng làm việc siêng năng và tận
tụy như nhau. Đó cũng là một trong những lý do vì sao có những dạng người
luôn bận rộn và làm được hàng tá công việc nhưng vẫn có thể quản lý thêm
được dự án khác nữa. Họ đã có kinh nghiệm tập trung nỗ lực vào những dự
án quan trọng và họ cũng có kinh nghiệm về việc để cho phần lớn công việc
được xử lý ngầm.
Nếu sau một thời gian, giải pháp cho vấn đề cũ vẫn không đến khi đang
nhâm nhi tách cà phê nóng hổi hay khi mua sắm… Lúc ấy hoàn toàn có thể
những ý tưởng đã từng trăn trở sẽ ùa về một cách mạnh mẽ và đầy khát
khao. Chúng hết sức mãnh liệt và xuất sắc vượt cả sự mong đợi.
Trải nghiệm:
Hãy tập xem những mẫu quảng cáo mà bạn có thời gian đủ để nhìn
vào truyền hình. Hãy chú ý đến một mẩu quảng cáo nào đó mà bạn cảm thấy
là hay nhất. Sau đó, giao cho mình nhiệm vụ là phải cải tiến hoặc làm mới
mẫu quảng cáo ấy theo yêu cầu cực hay và cực hoàn hảo. Bạn cảm thấy
thực sự khó khăn và đầy thách thức. Đừng vội vã chán nản. Bạn hãy tiếp tục
chọn lại vài ba mẫu quảng cáo tạm tạm kém hơn để bạn góp ý và chỉnh sửa,
bạn sẽ cảm thấy dễ dàng hơn. Những việc ấy bạn cứ làm tuần tự vài ba ngày.
Thế rồi đến một vài ngày sau đó, bạn cảm thấy những ý tưởng lóe sáng lên
với một nhiệm vụ mà bạn nghĩ là bất khả thi. Điều này cũng tương tự với việc
bạn sẽ có một ý tưởng sân khấu hay một kịch bản ý tưởng cho đường hoa,
chợ hoa và lễ hội. Lẽ đương nhiên, bạn phải luôn chủ động về mặt thời gian
bằng cách không dồn ép mình một cách quá mức và bạn vẫn có đủ điều kiện
để tạm quên nó trong khả năng cho phép.
Bài tập:
- Tập cho mình nhận nhiệm vụ khó và đầu tư về nó hết mình. Sẽ có
những nhiệm vụ sẽ thực hiện đạt hiệu quả ngay bằng sự nỗ lực của bạn.
Nhưng cũng có nhiệm vụ bạn thấy mình đuối. Hãy tạm quên và quay lại khi
bạn có cảm hứng, bạn sẽ thành công.
- Hãy tập đọc những bài báo trên một tờ báo mà bạn cảm thấy yêu
thích. Lẽ đương nhiên, trước khi đọc bạn hãy nhờ một người nào đó xóa tên
đề mục hay tít bài. Bạn tập thử thao tác giật tít bài báo. Bạn sẽ nhờ chính
người ấy nhận xét rằng tít bài bạn đặt như thế nào. Bạn cảm thấy bị đuối nếu
như tít bài mình đặt bị phê bình là kém. Nhưng bạn hãy tạm quên và sẽ trở lại
khi có nhu cầu, bạn sẽ thành công nếu bạn biết hết mình vì nó.
- Hãy tập việc lên kế hoạch cho mình từ rất sớm bằng cách thực hiện
kế hoạch tháng hay kế hoạch tuần để có thể tạm dừng và quay lại khi cần
thiết.
3. Đổ đầy
Có thể tồn tại những người sáng tạo để kiếm sống theo đơn đặt hàng,
mỗi ngày, mỗi tháng. Họ thuộc đủ mọi thành phần, lứa tuổi, màu da và nhân
cách; họ xuất thân từ các gia đình êm ấm hoặc đổ vỡ; hướng nội hay hướng
ngoại… song tất cả đều giống nhau ở hai điểm:
- Thứ nhất họ đều can đảm. Họ hết lòng vì mong muốn sáng tạo và
không sợ hãi với nhưng phê bình, đánh giá.
- Thứ hai, họ vô cùng tò mò. Họ không bao giờ thỏa mãn lòng hiếu kỳ
về cách vận hành và căn nguyên của mọi vật.
Hầu hết mọi người đều tò mò một cách tự nhiên, trong suốt cuộc đời
mình họ “luôn có nhu cầu tìm hiểu”.
Đối với một số người, nhu cầu này bức thiết đến nỗi họ cảm thấy như
là của nợ hơn hạnh phúc. Nhưng họ đã nghĩ sai; bởi lý do đầu tiên nhờ đó họ
có khả năng sáng tạo chính là óc tò mò. Óc tò mò cứ giục họ phải tích lũy
từng chút, từng chút kiến thức, kiến thức tổng quát về cuộc sống và các sự
kiện. Đến một ngày nào đó, họ sẽ phối hợp các yếu tố này với yếu tố khác để
tạo ra ý tưởng và càng phối hợp nhiều yếu tố thì họ càng tìm ra được nhiều ý
tưởng.
Nói cho cùng, nếu “Ý tưởng là một sự phối hợp mới của những yếu tố
cũ, không hơn không kém” thì đương nhiên người nào biết nhiều yếu tố cũ
hơn sẽ có khả năng tìm ra ý tưởng mới so với người biết ít hơn. Nếu không
có óc tò mò tự nhiên buộc mình phải biết tích lũy từng mẫu kiến thức thì
chúng ta phải tự ép mình vậy. Hàng ngày như thế, một cách thật ý thức. Có
hai cách tự ép mình nạp thêm “yếu tố cũ”.
a. Giã từ lối cũ
Tất nhiên là con người đang ở trong một lối mòn. Bạn nên thành tâm
thừa nhận nó một cách nghiêm túc. Nếu không thì bạn hãy trả lời những câu
hỏi sau:
- Tại sao mỗi sáng thức dậy, ta cùng làm những hành động lặp đi lặp
lại?
- Tại sao, ngày nào ta cũng phải đến quán cà phê lề đường ấy nhỉ?
- Tại sao ngày nào ta cũng phải đi về bằng con đường ấy dẫu biết rằng
nó chẳng thuận tiện?
- Tại sao ta cứ thích ăn những món ăn khoái khẩu mà không phải là sự
phá lệ?
Bởi vì chúng ta đang trong một lối mòn. Chính vì vậy, ngày nào ngũ
quan cũng ghi nhận cùng những hình ảnh, sự vật đã ghi nhận hôm qua - cũng
những cảnh quan đó, cảm xúc đó mùi vị âm thanh đó… Tất nhiên, thỉnh
thoảng cũng có vài điều khác len lén bò vào, ta không thể ngăn cản được,
chúng bất chấp những gì đang làm chứ không phải bởi những gì ta đang làm.
Và nếu cứ tiếp tục trú thân trong lối mòn để cho mọi việc tự nhiên bò vào, sẽ
không bao giờ tích lũy được những loại dữ liệu phong phú và rộng khắp - một
thế giới bao la, quyến rũ đầy ắp các thông tin đang bùng nổ - mà ta cần để
hình thành ý tưởng mới.
- Thử xem một kênh truyền hình lạ chưa từng xem bao giờ.
- Thử vào một trang web mà trước đó chúng ta nghĩ là mình không
thích, thậm chí là rất ghét.
- Đi ăn trưa với một người nào đó mới, lạ.
- Làm những thao tác rất mới như: chăm hoa, tưới kiểng mà trước đó
chưa bao giờ nghĩ mình sẽ làm.
- Mỗi sáng đi làm thử đi theo một ngã mới; vòng vèo qua các hẻm hóc,
lang thang qua các khu dân cư mới.
- Đọc một thông tin khoa học của lĩnh vực mà chính bạn không quan
tâm trước đó…
Chắc chắn là sẽ mục kích và khám được nhiều điều bất ngờ thú vị. Xin
vui lòng làm điều gì đó ngay ngày hôm nay. Điều gì đó khác mọi ngày, điều gì
đó đưa con người ra khỏi ao tù, điều gì đó giúp con người khởi sự về một
hướng mới, điều gì đó khiến ta ra khỏi lối mòn… Mỗi ngày, hãy chứng kiến
những điều gì đó mới mà ta chưa bao giờ thấy, và mãi mãi thực hiện điều đó,
bạn sẽ thấy được cả một chân trời khát khao phía trước của bạn.
b. Học cách nhìn thấy
Đã có bao giờ, mỗi khi có dịp về miền quê chơi thăm gia đình, hãy tham
gia một trò chơi tìm kiếm các con bò trên suốt hành trình - trò chơi thật đơn
giản, mỗi khi bắt gặp một con bò ở trên đường hay trên đồng cỏ, chúng ta sẽ
đếm và thử nhớ lại xem suốt chặng đường chúng ta sẽ tìm ra bao nhiêu con.
Và điều thú vị là nhiều người có thể trả lời được câu hỏi đó. Và điều thú vị là
mỗi người thấy đủ loại các con bò và con trâu, nhưng khi chúng ta không chơi
nữa thì hầu như không thấy con nào. Tại sao lại như thế? Không phải khi ta
đếm thì chúng chạy ra đầy đồng và khi không đếm thì chúng biến mất nhưng
vì khi ta tìm sẽ gặp, không tìm thì không thấy.
Tương tự khi mua một chiếc xe hoặc chỉ cần dự định mua nó, bỗng
dưng sẽ cảm thấy quanh mình sao có nhiều chiếc xe giống như chiếc của
mình như vậy. Trước đây, chúng vẫn hiện diện xung quanh, chứng ta không
thấy vì không tìm kiếm nhưng ngay khi ta quan tâm đến một kiểu dáng xe nào
đó, dù vô tình hay cố ý, sẽ bắt đầu tìm kiếm và quan sát chúng. Những gì
đúng với con bò và xe thì cũng đúng với mọi thứ bởi vì ta sẽ thấy tất cả
những gì tiếp xúc với tia nhìn của chính mình. Đó là cái nhìn thực sự của sự
tìm kiếm mà không phải chỉ là cái nhìn đơn thuần.
Hàng ngày trên con đường đến sở làm, thấy từng chiếc xe chạy qua xe
chúng ta, thấy cả người lái xe, thấy từng gốc cây trụ cáp điện, trạm xăng, các
tòa nhà, từng tín hiệu giao thông, từng ngọn đèn đường… thế tại sao chỉ nhớ
lại được một phần nhỏ xíu những gì đã thấy? Bởi vì ta không thật sự thấy chỉ
nhìn mà thôi; không phải “nhìn tìm” mà chỉ “nhìn ngó” thôi. Nhìn ngó thì không
cần nỗ lực gì, như hít thở theo thói quen mà thôi. Còn thấy thì lại khác, nó đòi
hỏi phải nỗ lực, và cả sự tận tụy nữa. Một khi đã quen rồi thì cũng tự nhiên
gần như nhìn vậy. Khi thực sự nhìn thấy một sự vật, ta sẽ hiểu được nó. Khi
tập trung tư tưởng quan sát một sự vật, hãy nhìn nó một cách tận tụy và quan
sát, nhận xét nó ở mọi góc độ thì chúng ta có khả năng ghi nhớ về nó nhiều
hơn bất cứ những gì đã từng biết về nó trong suốt cuộc đời. Nếu đầu tư gia
công nghiên cứu một sự vật, sẽ nhìn thấy và ghi nhớ nhiêu hơn từng mơ ước;
và càng nhớ được nhiều thứ, càng có nhiều thứ hơn nữa để phối hợp nhằm
tạo ra ý tưởng mới. Nhưng bản thân mỗi người phải gia công, mỗi ngày gia
công để tạo thành sức mạnh.
Sáng mai, trên đường đến nơi làm việc hoặc giờ nghỉ trưa, nhớ tìm
mua một cuốn sổ. Mỗi ngày, ghi nhớ vào đó một việc gì mình nhìn thấy.
Không quan trọng ở điều đang thấy mà chính ở chỗ thấy được điều gì đó và
ghi nó lại, nếu ghi thêm cảm tưởng về những gì trông thấy thì càng tốt. Khi
nào đầy cuốn sổ, có thể ngồi xuống và mở nó ra đọc rồi lại bắt đầu bằng một
cuốn sổ khác, rồi quyển khác, quyển khác. Cứ thế cho đến cuối cuộc đời. Bạn
sẽ có một kho tàng, kho tàng ấy là kho tàng của ý tưởng, của sự giàu có và
tài sản trí tuệ.
Trải nghiệm:
Một Viện nghiên cứu chuyên về con người đã đồng ý cung cấp một học
bổng cho một học giả. Điêu kiện tối thiểu sẽ có bằng cử nhân khoa học ở một
chuyên ngành nào đó về khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh tất cả những
điều kiện khác thì có điều kiện hết sức quan trọng mà trong số hơn 30 người
đăng tuyển chỉ có hai người thỏa mãn được điều kiện ấy!
Đó không phải là những thành tựu nghiên cứu nổi bật gần đây, cũng
không hẳn là những bằng khen của chính bạn mà đó chính là ba quyển sổ mà
bạn đã ghi chép những gì cần nhớ từ khi bạn là sinh viên Đại học mà không
phải là những quyển sổ gần nhất trong hai năm trở lại đây chi chép những thứ
mới toan trong cuộc sống của bạn.
Bạn có nghĩ rằng mình sẽ gia tăng con số hai người ấy hay chỉ làm cho
con số 28 người sẽ tăng lên thêm nữa?
Bài tập:
- Hãy đọc lại những gì bạn đã từng ghi chép cách đây năm năm và so
sánh với những gì bạn ghi chép cách đây mười năm, bạn sẽ ngộ ra rất nhiều
điều thú vị.
- Hãy giải lại bài toán hay những câu đố mà bạn đã từng giải được
trong một khoảng thời gian khá lâu để thấy bạn thật bình thường.
- Thử chơi lại trò chơi Rubich đế bạn thấy rằng mình không cẩn thận sẽ
kém hơn mình của ngày hôm trước.
4. Thu thập tình cờ
Phương pháp này rất hữu ích khi cần những ý kiến sáng rõ hay những
tầm nhìn mới trong quá trình giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp bổ sung
thêm cho quá trình tập kích não.
Xu hướng chung về sự suy nghĩ của con người là tư duy bởi sự nhận
ra các kiểu mẫu (hay hiểu nôm na là “phương pháp” hay “nền nếp suy nghĩ”).
Nên phản ứng lại các mẫu đó dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ và
mở rộng các kinh nghiệm này. Mặc dù vậy, đôi khi, dễ bị giam bên trong lối tư
duy của mình. Với một nền nếp (phương pháp) tư duy đặc thù có thể sẽ
không đủ để kiến tạo một lời giải tốt cho một loạt các vấn đề đặc trưng.
Một điển hình là học sinh PTTH, khi giải các bài toán tích phân hay các
bài toán Hóa học định tính, đa số đã được “gạo sẵn” các dạng toán theo một
loại “công thức hay mẫu mã” đã được cung cấp bởi các thầy dạy (ở các trung
tâm luyện thi) và cứ như thế “nhắm mắt” mà giải các đề bài cho đến khi gặp
những bài tưởng chừng dùng công thức này hay công thức nọ có thể làm ra
nhưng lại loay hoay mãi mà không tìm ra được một giải thuật đúng đắn.
Thu thập ngẫu nhiên (Random Input) là kỹ thuật cho phép liên kết một
kiểu tư duy mới với kiểu tư duy đang sử dụng. Cùng với sự có mặt của kiểu
tư duy mới này thì tất cả các kinh nghiệm sẵn có cùng sẽ được nối vào với
nhau và hiệu quả sáng tạo sẽ gia tăng một cách bất ngờ.
Các bước tiến hành:
Chọn ra ngẫu nhiên một danh từ trong một tự điển hay trong một danh
mục các từ vựng đã được chuẩn bị từ trước. Thông thường, danh từ được
chọn là danh từ cụ thể sẽ giúp ích hơn (tức là những danh từ chỉ vật mà mình
có thể nhận biết bằng giác quan hay sờ mó được) hơn là chọn một danh từ
nơi tượng hay một khái niệm tổng quát. Dùng danh từ nay như là điểm khởi
đầu cho giải quyết vấn đề bằng tập kích não.
Ta có thể thấy ra mình có thêm nhiều trí thức sáng suốt nếu như chữ
được chọn không nằm trong phần chuyên môn. Nếu như đó là chữ thích hợp,
chúng ta sẽ thêm được một dãy những ý kiến và khái niệm vào quá trình tập
kích não. Trong khi một số từ lựa ra trở nên vô dụng, thì hy vọng sẽ tìm ra
chút ánh sáng cho vấn đề. Nếu kiên trì nhiều lần, thì ít nhất có thể tìm ra bước
đột phá.
Có thể xem xét ví dụ sau để thấy rõ bản chất của kỹ thuật này. Giả sử
vấn đề muốn giải quyết là “giảm ô nhiễm từ các loại xe lưu động”. Theo lối
nghĩ thông thường nhiều người đều thấy cách giải thông thường là sử dụng
thiết bị “xúc tác để chuyển hóa các chất thải gắn trong ống khói xe hơi” và
dùng các loại xăng “sạch” hơn (và có khả năng cháy gần như hoàn toàn trong
buồng đốt).
Bây giờ lựa ngẫu nhiên một danh từ trích từ tựa của những cuốn sách
trên tủ, chúng ta có thể tìm thấy những “cây cỏ”, (thực vật). Tập kích não từ
chữ này chúng ta có thể “đào” ra một “nhóm” ý tưởng mới.
- Cây xanh trên các vệ đường có thể chuyển hóa C02 thành O2 và làm
trong sạch môi trường.
- Tương tự, nếu thổi khí thải ra từ máy xe một dung môi của tảo (algae)
thì cũng chuyển hóa được C02 thành 02. Và có lẽ, bộ lọc không khí từ các phi
thuyền không gian dùng cách này?
- Sản phẩm của các loại cây cỏ là giấy. Giấy có thể dùng làm màng lọc
của các bộ lọc không khí (air filter) ở các máy điều hòa nhiệt độ, các động cơ
nổ (xe hơi, xe gắn máy). Sản phẩm của cây cao su là nhựa có thể làm
nguyên liệu chế tạo bộ lọc không khí thải ra.
- Hình ảnh của loại hoa vàng rực từ cây “Bò cạp vàng” này có thể trở
thành hình ảnh đặc trưng của khu du lịch sinh thái “Bò cạp vàng” ở Đồng
Nai…
Trên đây là những ý kiến mang tính gợi ý. Một số có thể chưa thực sự
phù hợp và không hoàn toàn thực tế. Tuy nhiên, một trong chúng có thể dùng
làm cơ sở cho những phát triển lợi ích. Đó chính là những ý tưởng được khai
thác một cách hữu ích và nó trở thành những sản phẩm hữu dụng đích thực
cho đời sống con người.
Trải nghiệm:
Hãy bắt nguồn từ một nét vẽ rất đơn giản của dấu mũ trên chữ “ă”. Bạn
hãy vẽ thật nhiều đồ vật, sự vật mà trong nó phải chứa hình ảnh ấy một cách
cụ thể. Bạn sẽ tiên đoán ngay khi chưa bắt tay thực hiện rằng bao nhiêu hình
vẽ được thực hiện? Chắc chắn rằng sự thực sẽ làm cho bạn cảm thấy kiểu
thu thập ngẫu nhiên lại tiềm năng đến thế!
Bài tập:
- Có thể tạo thành những bức tranh từ những hình ảnh riêng lẽ mà
chính bạn nhận thấy trong những chữ cái bạn hay viết.
- Lấy một đồ dùng rất bình thường trong cuộc sống, hãy nêu tất cả
những công dụng có thể có của nó.
5. Phá rào
a. Xóa đi những biên giới không thật có
Cũng giống như phần đông những người khác, nhiều khi suy nghĩ của
chúng ta từng bị bóp nghẹt bởi vì trong vô thức cho rằng bài toán đã bị bế tắc,
bị giới hạn và ràng buộc trong khi thực tế thì lại không hề có điều đó; chính
chúng ta đã vô tình áp đặt những hạn chế ấy. Khi gặp khó khăn để giải quyết
một vấn đề nào đó, chúng ta hãy tự hỏi: “Ta đang đưa ra những giả định nào
mà lẽ ra ta không phải giả định? Ta đang tự ràng buộc mình bằng giới hạn
nào không cần thiết?”.
b. Đặt ra giới hạn
Cần phải phân biệt, những giới hạn nêu trên là loại ranh giới do chúng
ta tưởng tượng ra, là loại giả định trong tìm thức mà ta hay dựng lên cho tính
chất của vấn đề. Ở đây, chứng ta muốn nói đến một khuôn khổ làm việc mà
ta sẽ động não bên trong đó để tìm ra giải pháp; nghe ra có vẻ như mâu
thuẫn - óc sáng tạo mà cần có khuôn khổ? Khi đề ra một kế hoạch cho nhân
viên tìm ý tưởng quảng cáo nào đó, nếu để cho họ quá nhiều tự do sáng tạo
thì họ sẽ lúng túng, quá nhiều tự do sẽ dẫn đến hỗn loạn. Nhưng nếu ta buộc
họ phải làm việc theo một số nguyên tắc chỉ đạo của chiến lược sáng tạo với
một khoản ngân sách nhất định và thời hạn cụ thể với một hướng chủ đề đã
nhất trí thì họ luôn có giải pháp. Đôi khi, ý tưởng đến với chúng ta, chúng ta
không tạo ra chúng theo ý mình. Chúng đến trong tình trạng giống như ta
đang mơ màng, như một giấc mộng có chủ hướng. Giấc mộng đó hình như
có liên quan đến những vấn đề mà ta từng quan tâm, từng làm trong vài năm
nay; trong đó có nói rằng những giới hạn hữu quan sẽ tác động đến ta như
một cú huých cho trí tưởng tượng.
Trong cố gắng đó, chúng ta đạt đến nhiều ý nghĩa mới và sâu sắc hơn
và chúng ta từng ao ước mình đạt được. Loại giới hạn giục giã chúng ta phải
hoàn tất một việc gì đó. Hãy đặt cho mình một giới hạn, bạn sẽ cảm thấy lực
đẩy đến với bạn hết sức lý thú. Chính nó mà không phải yếu tố khác sẽ làm
cho bạn mạnh mẽ hơn bao giờ hết, đầy sức sống và muốn bay thật cao, thật
xa để lấy những ý tưởng vào lòng.
Trải nghiệm:
Xe đạp đôi, áo mưa hai đầu, bút chì thay ngòi nhiều lần… là những sản
phẩm khi người thiết kế đã vượt ra khỏi giới hạn của con số một. Tự đặt giới
hạn cho mình là không được phép để cho hoa hồng bị héo ít nhất là trong hai
năm, một nghệ nhân ở xứ sở Đà Lạt đã sáng chế ra cách ướp hoa tươi
nguyên với tuổi thọ kéo dài chưa từng thấy.
Bài tập:
- Làm sao để có một sân khấu nhằm tổ chức một buổi biểu diễn cho vô
hạn người tham dự?
- Nếu một chiếc xe có tốc độ vượt quá tốc độ âm thanh thì sao?
- Điều gì sẽ xảy ra nếu hoa không chỉ được trồng hai bên lề đường mà
còn tràn ra cả lòng đường?
- Có thể có dụng cụ gì dùng để nấu nướng nhưng chỉ có diện tích bề
mặt bằng một cái chén và không hạn chế về chiều cao?
- Nếu chỉ có năm phút để phải vừa xay sinh tố vừa nướng bánh vừa
nấu súp trong cùng một lúc thì có thể tạo ra sản phẩm gì?
- Nếu một cây viết không được dài hơn ba centimet thì có thể có dạng
viết thế nào?
III. NHỮNG CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO Ý TƯỞNG BẰNG SỰ CHẾ BIẾN
1. Nghĩ như trẻ con
Nhiều người cho rằng chính tuổi thơ là tuổi của sự sáng tạo độc đáo
đến không ngờ. Nếu xét trong một con người thì chính đứa bé trong ta mới
sáng tạo chứ không phải người trưởng thành đang tồn tại một cách hiện hữu
và đích thực.
Người trưởng thành trong con người chúng ta suy nghĩ quá nhiều,
mang quá nhiều kinh nghiệm và bị trói buộc bởi quá nhiều tri thức, quá nhiều
giới hạn cùng với những qui luật, giả nhận và tiên kiến. Người trưởng thành là
một gã khờ bị còng tay và thường làm việc hết mình, đốt cháy cả trí tuệ cảm
xúc tự thân.
Đứa bé vô tư và tự do và không cần biết điều nào nên làm, điều nào
không nên làm. Nó nhìn thấy thế giới đúng như thế giới cứ thế chứ không
như gã khờ trưởng thành vốn được dạy bảo rằng thế giới như thế nào thì tin
như thế ấy.
Một câu chuyện kể về thiền sư Nhật tên Nam Ấn ấn thời Minh Trị. Ngày
kia có một vị Giáo sư đại học đến gặp ông tham vấn về thiền. Ông pha trà đãi
khách, ngài rót trà đầy tách của khách rồi cứ thong thả rót nữa, rót mãi. Vị
giáo sư nhìn tách trà đầy tràn ra ngoài cho đến khi không chịu được nữa:
- Đầy quá rồi, không thể rót thêm nữa!
- Cũng giống như tách trà này, bên trong ngài đầy ắp những thành kiến
và suy đoán, làm sao tôi có thể chỉ cho ngài về thiền nếu ngài không trút sạch
chiếc tách của mình?
Muốn tăng khả năng sáng tạo, nhà Tâm lý Jean Piaget viết “Chúng ta
hãy giữ lại một phần trẻ thơ bởi tính sáng tạo và phát minh vốn đặc điểm của
trẻ con trước khi chúng bị xã hội của người lớn làm cho méo mó”. Vì sao khi
trẻ hơn hay trở thành trẻ thơ thì con người dễ dàng có những ý tưởng sáng
tạo? Có thể nhận thấy với trẻ thơ thì không có lần sau cùng, lần nào cũng là
lần đầu tiên. Vì vậy khi đi khai phá tìm ít tưởng tự thân trẻ thơ có thể nhìn và
thấy thế giới một cách tươi mới mà không cần tham chiếu đến những gì đã
nghe nói trước đó; chúng khai phá một vùng đất tươi mới và nguyên thủy;
vùng đất không có ước lệ, không có biên cương hay rào cản hoặc vách ngăn
giới hạn, một vùng đất vô biên với biết bao hứa hẹn và cơ hội. Trẻ thơ chỉ biết
hiện tại bây giờ vì chúng không biết những gì trước nó cho nên, chúng phá lệ
vì không biết có lệ, chúng làm những điều kỳ cục khiến người lớn không an
tâm; khi tìm ra giải pháp cho một vấn đề bản thân chúng nhìn và thấy thế giới
một cách tươi mới. Lần nào cũng mới, giữa những đồ vật tưởng chừng như
không có chút liên hệ nào, chúng lại nhìn thấy nhiều mối tương quan mới.
Chúng tô cỏ màu tím còn cây thì màu cam, chúng treo xe lửa lơ lửng trên
tầng mây, chúng có thể cho mưa xuất hiện từ hình ảnh mặt trời đang chiếu
sáng, chúng có thể tạo nên con bướm to hơn cả bông hoa và chiếc lá thì
chứa cả tổ chim rực rỡ… Trẻ nhỏ luôn chú tâm quan sát những vật thể ta coi
là bình thường và có được cảm nhận về những điều kỳ điệu của những đồ
vật mà ta xem là hiển nhiên, tất yếu. Trẻ nhỏ luôn miệng hỏi, hỏi và hỏi. Tại
sao mặt trăng lại tròn? Tại sao bầu trời lại xanh? Giấc mơ là gì? Tại sao ta lại
có ngón chân? Sinh nhật của trái đất là ngày nào?
Thế giới càng mới mẻ càng kích thích con người khám phá. Chính vì
sự mới mẻ và hấp dẫn đó, nhu cầu khám phá sẽ gia tăng và đó được xem là
một trong những động cơ để đứa trẻ đến trường. Khi bước chân vào trường
học, trẻ con là dấu chấm hỏi, và khi ra trường là những câu hỏi đã được trả
lời và thay vào đó là một dấu khác. Vậy hãy trở lại thành dấu chấm hỏi đi để
ta thu nạp những gì mới mẻ, để suy nghĩ ra những thứ sáng tạo đến tột cùng.
Với những gì thấy, hãy tự hỏi tại sao lại thế và đó chính là một con đường
sáng tạo rất thú vị. Hãy suy nghĩ về những câu hỏi sau để thấy rằng có thể
những ý tưởng mới được giải đáp thông qua những sự trăn trở và suy nghĩ.
- Tại sao nhân viên tiếp tân lại ngồi phía sau bàn giấy? Tại sao bản
thân ta cũng ngồi như thế?
- Tại sao phải bố trí hay sắp xếp như thế này nhỉ?
- Tại sao ta đến sở làm rồi lại ra về khi đến giờ… ra về?
- Tại sao danh thiếp, văn phòng phẩm và tài liệu quảng cáo lại trình bày
như thế?
- Tại sao ta phải tuân thủ những thói quen mỗi ngày của chính mình
một cách rất tự nhiên?
- Tại sao chúng ta phải nghỉ ngơi nhiều quá thế này?
- Tại sao mình không thể ngừng suy nghĩ?
- Tại sao chúng ta lại yêu người này mà không phải là người khác?
Một ngày kia, khi đang bàn luận về quảng cáo thức ăn cho thủy sản
trên truyền hình, có bao giờ ta tự hỏi thử quan điểm của các con ấy hay
không? Và những câu hỏi cứ tiếp diễn, tiếp diễn. Khi nghiên cứu quảng cáo
cho một cửa hàng Nông sản, chúng ta thử hỏi cửa hàng Nông sản có vẻ như
thế nào sau khi đóng cửa; liệu quả chanh Đà Lạt có ve vãn nàng bông cải
Hóc Môn rằng mình đẹp đôi không? Cứ để đứa trẻ trong chúng ta lên tiếng.
Đừng e dè gì hết. Hầu hết các doanh nghiệp đều tưởng tượng cho những ai
tìm ra ý tưởng, và một trong những cách tìm ra ý tưởng chính là phải giống
trẻ con thêm nữa. Vậy lần sau, khi có vấn đề cần giải quyết hoặc một ý tưởng
cần phải tìm, chúng ta hãy tự hỏi: “Sẽ giải quyết vấn đề này ra sao nếu ta sáu
tuổi? Và nếu ta bốn tuổi thì ta nhìn vấn đề này như thế nào?”
Cứ thư giãn đi. Ngày nào đó đến sở làm, thử chạy một mạch hết hành
lang xem sao. Ăn một cây kem tại bàn làm việc. Trút hết mọi thứ trong ngăn
kéo bàn ra sàn nhà rồi để đó đôi ba ngày. Vẽ rồng vẽ rắn trên cửa kính bằng
bút nỉ, ghi chú bằng viết chì. Cất cao giọng hát trong thang máy. Chơi piano
bằng quả đấm… Nếu tất cả những điều đó được vận dụng đúng lúc và không
quá thô kệch hay ảnh hưởng đến ngươi khác thì đó là lúc bạn sẽ thành công
khi có nội lực để tìm ra ý tưởng.
Hãy quên đi những gì từng làm trước đây. Hãy phá lệ đừng theo logic.
Hãy là trẻ thơ và tự do nhiều nhất có thể.
Trải nghiệm:
Hãy cùng giao việc cho ba đứa trẻ trong độ tuổi từ 3 đến 7 tuổi và chính
bạn vẽ một bức tranh về cảnh vật (theo đề tài tự do) trong thời lượng mười
phút. Bạn hãy chấm điểm về sự sáng tạo (những tiêu chí ấy nằm phía dưới
cùng của các bài tập - bạn không nên xem nó ngay) nếu bạn muốn trải
nghiệm một cách đúng nghĩa) để thử xem bạn có hơn ba đứa trẻ ấy không.
Bức tranh của bạn sẽ bị hút vào rất nhiều yêu cầu mà chính bạn cho là
rất quan trọng và cần thiết. Còn tranh vẽ của đứa trẻ ư? Hãy chờ xem sẽ rõ.
Bài tập:
- Hãy thư giãn để thoát khỏi con người lớn trong bạn bằng một buổi
nào đó trong tuần, bằng một ngày trong tháng và với một vài người nào đó
mà bạn cho rằng bạn được phép.
- Hãy tập cho bạn thật sự ngây thơ bằng cách nhìn mọi sự vật trong
thái độ quan sát và hỏi han như là mới biết mà thay vì nghi ngờ hoặc phê
phán.
- Còn đây là những tiêu chí của sự sáng tạo ở bức tranh của con trẻ (có
chi tiết lạ lẫm so với thực, ngộ nghĩnh ở màu sắc hoặc bố cục, có những hình
ảnh của sự tưởng tượng…).
2. Gắn kết
Nếu “một ý tưởng mới là một sự phối hợp mới của những yếu tố cũ
không hơn không kém” thì người nào biết cách phối hợp các yếu tố cũ sẽ có
nhiều cơ may phát sinh ý tưởng mới hơn là kẻ không biết phối hợp. Đó là một
sự thật để con người có thể đi tìm những ý tưởng thật sự hiệu quả và độc
đáo.
a. Tìm điểm tương tự
Vấn đề của ta có tương tự những vấn đề khác không? Điểm nào có,
điểm nào không tương tự? Liệu có thể so sánh lợi thế của mình với các đối
thủ khác? Nếu lợi thế lớn nhất của ta là sự tiện lợi, tính kinh tế, uy tín, nét đơn
giản, hay là sự lâu bền hay là yếu tố gì khác… thì những người nào, ý gì, vật
gì tiện lợi nhất, kinh tế nhất, uy tín, đơn giản, lâu bền nhất mà ta có thể liên
tưởng tới?
Khi dựa trên kỹ thuật này, bạn sẽ có thể hướng đến một cái mới bằng
sự gắn kết. Đó là sự gắn kết hết sức tự nhiên nhưng cũng thật nhẹ nhàng mà
không làm cho bạn tổn hại quá nhiều về mặt thần kinh. Lẽ đương nhiên, tìm
điểm tương tự sẽ đến một cách tình cờ trong cuộc sống và hoạt động của bạn
hoặc nó sẽ thích ứng với những trường hợp mà áp lực sản phẩm ý tưởng
không phải là tối độc đáo.
b. Hãy phá lệ
Hoạt động nào cũng có luật lệ, quy ước và phương thức để tiến hành.
Có thể chúng không được tạc vào đá nhưng lại khắc cốt ghi tâm mọi người.
Hầu hết, những tiến bộ lớn nhất trên các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật và
trên mọi lĩnh vực khác đều là kết quả của sự phá lệ hay xé rào ở góc độ nào
đó.
Đơn cử như Van Gogh đã phá lệ về cách thể hiện một đóa hoa,
Picasso đã phá lệ cách thể hiện một gương mặt phụ nữ, một khu căn hộ xanh
trên không lơ lửng ở tầng cao ở thành phố Hồ Chí Minh hay những khu
đường đi dưới lòng sông… là những ý tưởng phá lệ. Không cần nói ra chắc
cũng có thể biết, quy tắc là những nẻo đường đều dẫn đến ý tưởng. Tất cả
những gì cần làm là phá vỡ chúng để tạo ra những ý tưởng mới.
c. Thử nghiệm với trò chơi “Nếu… như…”
“Nếu… như…” là trò chơi mà nhiều nhân sự sáng tạo trong các công ty
quảng cáo hay chơi khi họ cố gắng tìm ra một phương cách giới thiệu những
đặc tính của một sản phẩm hay dịch vụ. Trò chơi rất đơn giản và tưởng
chừng rất trẻ con này chính là phương tiện khá quan trọng để có thể tìm ra
những cái mới đến bất ngờ. Không quan trọng về tên gọi hay cách thức
nhưng chính cái “chất” trong trò chơi đã tạo nên thật nhiều ấn tượng hết sức
thú vị.
- Nếu như biến sản phẩm hay dịch vụ đó thành một con người thì
người đó sẽ như thế nào? Nam hay nữ nhỉ?
- Nếu như làm cho sản phẩm đó nhỏ đi, hay lớn hơn ra? Hay hình thù
khác, màu khác hoặc đóng gói bao bì khác đi?
- Nếu như làm cho dịch vụ nhanh chóng hơn? Hoặc rẻ hơn? Tiện lợi
hơn? Hoặc tăng độ thân thiện? hoặc hiệu quả hơn?
- Nếu được thêm điểm vào sản phẩm hay dịch vụ đó, ta sẽ thêm gì?
- Nếu như ta muốn thay đổi về nội dung nhưng không muốn thay đổi về
hình thức?
- Điều gì sẽ xảy ra nếu như có người từ hành tinh khác trông thấy sản
phẩm dịch vụ đó? Ta sẽ giải thích ra sao cho họ hiểu? Liệu họ có thích sản
phẩm đó hay không và có ý kiến gì?
- Nếu như điểm mạnh nhất trong sản phẩm dịch vụ đó đột nhiên bị xem
là bất hợp pháp thì ta sẽ xử lý ra sao? Nếu như đi ngược thời gian trở về thập
niên 18, hay 19… thì thiên hạ sẽ phản ứng thế nào với sản phẩm dịch vụ ấy?
- Nếu như tiến vào tương lai vài trăm năm sau? Khi gặp các vấn đề cần
giải quyết, hãy thử chơi trò chơi “Nếu… như…” ấy.
- Nếu như mọi người đều gặp vấn đề tương tự?
- Nếu như chỉ mình ta gặp phải vấn đề ấy?
- Nếu như các đối thủ cạnh tranh của ta cũng gặp phải vấn đề ấy?
- Nếu như lật ngược các vấn đề ấy thì nó sẽ như thế nào? Điều gì sẽ
xảy ra?
- Nếu như vấn đề ấy không còn làm ai quan tâm nữa thì ta nghĩ sao?
- Nếu như gặp phải vấn đề hoàn toàn ngược lại với vấn đề hiện nay thì
giải pháp sẽ là gì?
- Nếu như những người ở lĩnh vực khác cũng gặp vấn đề này thì họ sẽ
giải quyết ra sao?
- Một kỹ sư chuyên nghiệp giải quyết vấn đề ra sao? Nếu họ là một nhà
thơ, một nhà sư, một người nông dân, một em bé thì họ giải quyết như thế
nào?
- Một hoàn cảnh thế này thì sự việc sẽ như thế nào nhưng nếu một giả
định khác thì sao?
- Nếu như bản thân mình sẽ có những đổi thay thật sự về hình thức thì
điều gì sẽ xảy ra?
d. Tìm thông tin ở lĩnh vực khác
Tiến sỹ Roger Von Oech đã có những suy nghĩ rất sâu sắc khi nhìn về
mối liên hệ thông tin giữa các lĩnh vực để có thể tạo nên một ý tưởng sáng
tạo: “Tôi đã tham khảo các ngành điện ảnh và truyền hình, ngành quảng cáo,
các nhóm nghiên cứu, công nghệ cao, nhóm marketing, nhóm nghiên cứu trí
thông minh nhân tạo, các ban nghệ thuật. Tôi thấy mẫu số chung là các
ngành đều cảm thấy mình có tính năng sáng tạo cao nhất và mỗi thành viên
đều có “thần dược” để tìm ra ý tưởng mới. Tôi cho rằng điều này rất hay, tinh
thần đồng đội tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường làm việc tốt. Nhưng tôi
cũng cảm thấy rằng ngành truyền hình có thể học hỏi hàng tá thứ từ công
nghiệp phần mềm, các chuyên gia nghiên cứu và phát triển có thể góp nhặt
một hai ý từ lĩnh vực quảng cáo. Mỗi nền văn hóa, công nghiệp, bộ môn, ban
ngành và tổ chức đều có cách riêng để xử lý vấn đề; có phép ẩn dụ riêng, mô
hình riêng và phương pháp luận riêng. Song thường thì những ý tưởng hay
nhất đều đến từ chỗ các bộ môn giao nhau, khi lĩnh vực này tham khảo lĩnh
vực khác để tìm hiểu vấn đề mới và ý tưởng mới. Nhiêu tiến độ lớn trong
nghệ thuật, kinh doanh, công nghệ và khoa học đã diễn ra qua sự giao thoa ý
tưởng; và nếu phải đưa ra một hệ luận, ta có thể nói rằng không có gì làm cho
một lĩnh vực bị trì trệ nhanh hơn là việc bỏ ngoài tai những ý tưởng đến từ
bên ngoài”.
Hãy nhìn nhận hàng loạt những sản phẩm “độc đáo” của con người
mang tính liên kết để nhận thấy rằng việc đan kết những thông tin từ các lĩnh
vực gần nhau, có liên quan nhau hay thậm chí là đối lập nhau đều có thể là
con đường tạo nên những ý tưởng kỳ thú:
- Khuôn dập tiền và máy ép nho được phổ biến sử dụng hàng trăm năm
trước khi Gutenberg nhìn ra mối tương quan giữa hai công cụ ấy để phát
minh ra máy ép in.
- Darwin cho biết là nhờ đọc quyển “Essay on Population của Malthus”
mà ông đã tìm ra chìa khóa mở cánh cửa của sự tiến hóa bằng chọn lọc tự
nhiên.
Những tư tưởng ấy chính là những ý tưởng mang tính tổng hợp và xuất
phát có luận cứ, có nguồn cội nhưng không quá thô thiển và xơ cứng. Ngay
trong lúc này, ở mọi lĩnh vực khác đang có những diễn biến mới có thể giúp
giải quyết vấn đề; có thể sớm cho con người những suy nghĩ tươi mới, xoay ý
kiến của con người theo một chiều hướng mới, gợi ý phối hợp với điều gì đó
ta đã biết. Từ đó, có thể dùng nó vén bức màn bí ẩn. Hãy mở to tai mắt nghe
ngóng những điều mới mẻ ấy và đi đến những ý tưởng mới lạ, độc đáo và
mang tính ứng dụng cao trong cuộc sống. Hành trình đi tìm ý tưởng tạo xem
ra rất sáng sủa và hấp dẫn là như thế.
Trải nghiệm:
Nhiều người đã thực sự ngưỡng mộ con vật được xem là rất kỳ bí và
có sức mạnh đến đáng sợ. Người ta có thể xem nó là một trong mười hai con
giáp rất quyền năng. Cũng không ít người trong chúng ta thích thú vì hình ảnh
của nó tượng trưng cho vua chúa, cho sức mạnh, cho quyền lực. Hình ảnh
con vật ấy được chạm trổ trên những nơi, những thứ được cho là quan trọng
và đặc quyền như: ngai vàng, gậy vàng, cột chính, cổng ra vào… Ngay cả
chiếc áo của vua chúa cũng được trang trí bằng những con rồng rất hoàn
hảo. Thế những có bao giờ bạn nhìn thấy một con rồng thực thụ hay không?
Hãy suy nghĩ về con rồng và nhìn những hình ảnh của nó dù ở bất kỳ đâu và
cho biết thực sự bạn cho rằng đâu là hình ảnh thực sự của nó. Bạn hãy tiếp
tục xem thử xem nó giống với con vật gì trong cuộc sống. Hãy thật tĩnh tâm và
nghiêm túc, bạn sẽ cảm nhận được rất nhiều điều lý thú. Kế đến, hãy xem
rằng bạn có tạo lập được những con vật hay đồ vật nào đó từ cách thức
tương tự như thế hay không?
Bài tập:
Hãy xem xét những đồ vật xung quanh và hãy tìm những thứ tương tự
với nó nhiều nhất có thể.
Hãy tìm một vật nào đó được xem là duy nhất để bạn cảm thấy thực sự
điều đó rất khó.
Hãy tìm bất kỳ một vật nào đó và tìm ra nhiều thứ cải tiến từ nó sao cho
thật sự lý thú.
Hãy xem một chương trình truyền hình bạn yêu thích và chính bạn sẽ
tạo ra những chương trình tương tự nhưng có những điểm nhấn khác nhau.
3. Mở rộng phạm vi
Mở rộng phạm vi là một cách để tìm ra cách tiếp cận mới về một vấn đề
khi mà tất cả các phương án giải quyết hiển nhiên khác không còn dùng
được. Phương pháp này triển khai nguyên tắc “lui một bước” (khi hổ vồ mồi
thì chúng cũng lùi lại để có thể nhảy vọt!) để nhận được tầm nhìn rộng hơn.
Như vậy, phương pháp này không khác gì một người khi đứng quá gần với
một bức tranh thì sẽ khó lãnh hội được toàn bộ nội dung của nó mà cách tốt
nhất là đứng lui ra xa hơn để tầm ngắm nhìn được xa và rộng hơn.
Lịch sử:
Khái niệm về kỹ thuật Mở rộng phạm vi (Concept Fan) lần đầu tiên
được nêu lên bởi Edward de Bono trong quyển sách “Serious Creativity:
Using the Power of Lateral Thinking to Create New Ideas” (tạm dịch - Sáng
tạo thực sự: sử dụng tư duy định hướng để tạo các phát kiến) xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1992 ấn bản Anh ngữ)
Các bước tiến hành:
Khi bắt đầu, vẽ một khung kín ở giữa của một miếng giấy khổ lớn. Viết
xuống (một cách ngắn gọn) vấn đề đang tìm cách giải quyết. Bên phải của tờ
giấy vẽ ra những nửa đường thẳng (nối với khung và hướng ra xa như các rẽ
quạt - đây cũng là lý do tên gọi của phương pháp là concept fan). Mỗi nửa
đường thẳng như vậy sẽ đại diện cho một lời giải khả dĩ cho vấn đề này.
Trải nghiệm:
Câu chuyện cổ về một con vịt vượt sông sẽ là những gợi ý rất lý thú.
Một con vịt được người ta thử nghiệm bằng cách tìm đường bơi qua sông có
thể về chuồng của mình một cách an toàn. Chú vịt rất sung mãn vươn cánh
quạt thật mạnh và bơi bằng đường chéo để lao vun vút. Khi được một chặng
ngắn, chú cảm thấy đây không phải là con đường ngắn. Chú vội vã kêu quan
quát và xin phép được bơi lại. Rồi chú cũng được mãn nguyện và chú bơi
thẳng dòng khi người tổ chức bố trí chú đối xứng với chiếc chuồng xinh xắn.
Chú lại cảm thấy quá mệt mỏi khi dòng nước chảy xiết và cản trở chú một
cách nặng nề. Lần thứ ba chú yêu cầu cho đổi hướng trên bến tắm vì nơi đó
sẽ cạn nước và chú dễ dàng bơi dù đường có xa. Cuối cùng ý nguyện chú
cũng được thực hiện nhưng sức đã đuối đến mức không thể còn gượng được
chỉ vì dòng sông quá ngắn nhưng hành trình tìm con đường đi ngắn của chú
đã quá xa…
Bài tập:
- Tập thói quen vẽ sơ đồ khi nhìn nhận bất kỳ vấn đề gì hay giải quyết
bài toán nào đó.
- Tạo thói quen khi thuyết trình theo hướng: ý chính, ý phụ và ý phân
tích ở những chủ đề khác nhau.
4. Cụ thể hóa và tổng quát hóa
Khi đã có những khái niệm và khái quát của vấn đề, chúng ta bắt đầu
tiến qua bước thực hiện giải quyết vấn đề. Tùy theo trình độ, những vốn liếng
tài liệu và thậm chí tâm lý sở thích của người thực hiện mà người thực hiện
tiếp cận đến vấn đề bằng các hướng khác nhau. Có người muốn giải quyết
ngay đến cách giải quyết tổng quát, có người muốn đề cập về cách thức cụ
thể cho từng mảng của vấn đề. Từ đây xuất hiện nhu cầu cụ thể hóa và tổng
hợp hóa vấn đề.
Cụ thể hóa và tổng quát hóa là hai khía cạnh tương đối nghịch nhau
nhưng hoàn toàn không xung khắc nhau. Ngược lại, chúng bổ sung cho nhau
để cho người nghiên cứu nhìn nhận vấn đề thấu đáo và giải quyết vấn đề một
cách có hệ thống hơn. Có người sẽ hỏi, thế nếu ta đã tổng quát hóa vấn đề
rồi thì ta cần gì phải cụ thể nó? Câu trả lời thật đơn giản: tuy đã tổng quát hóa
vấn đề nhưng những phương pháp giải quyết hay là những chìa khóa mở
cửa chỉ có những giới hạn nhất định, bắt buộc phải dùng cụ thể hóa để giải
quyết từng mảng một hợp với khả năng hiện tại. Khi giải quyết nhiều mảng
như thế thì mô hình của vấn đề bắt đầu hiện lên một cách tổng quát hơn.
a. Cụ thể hóa:
Cụ thể hóa là thao tác tư duy trực quan hóa, đối tượng hóa biến cái
trừu tượng thành cái tồn tại khách quan có thể tự giác được, đo nhận được
trong một tương quan không gian và thời gian nhất định.
Cụ thể hóa một vấn đề nó không chỉ đơn thuần là cụ thể hóa bài toán
nêu ra mà còn cụ thể đến những giải pháp.
- Cụ thể hóa là phương pháp dễ tiếp cận đến vấn đề nhất.
- Nhiều trường hợp cụ thể cũng có thể cho người ta tình trạng gần tổng
quát.
- Giúp tìm ra phương pháp giải bài toán tổng quát.
- Nhanh chóng kiểm nghiệm những giả thuyết, tạo điều kiện cho nhà
khoa học điều chỉnh lý thuyết của mình.
b. Tổng quát hóa:
- Tổng quát hóa đưa chúng ta đến những vấn đề lớn hơn. Kích thích sự
ham mê khám phá của chúng ta.
- Giúp chúng ta có cách nhìn vấn đề tổng thể hơn. Và nhanh chóng
nhận ra cách áp dụng cho trường hợp cụ thể nào đó.
- Ngay khi vấn đề tổng quát quá khó, nhưng nó là một mãnh đất màu
mỡ cho chúng ta khai thác, nghiên cứu tìm tòi. Kể cả khi giải quyết một phần
của nó cũng là thành công. Khoa học đòi hỏi sự khám phá bền bỉ và quá trình
lao động cần cù, miệt mài của nhiều năm tháng.
- Tổng quát hóa đòi hỏi nhiều nhất ở sự hợp nhất những kiến thức, hiểu
biết để tạo ra một ý tưởng mới đúng nghĩa.
Trải nghiệm:
Bạn sẽ nghĩ sao nếu như từ một việc làm cực kì đơn giản: có thể hóa
số tiền chi tiêu trong một tuần của mình rồi cộng lại xem mình đã chi những
khoản lặt vặt nào những lại gây tốn kém nhất và tìm ra được một cách kiếm
tiền cực nhanh dựa trên những thói quen chi tiêu của con người. Đó chính là ý
tưởng “kinh doanh tình bạn” dành cho những người muốn xây dựng mối quan
hệ hay muốn lấy lòng ai đó.
Bài tập:
Từ sự kiện Hy Lạp bị vỡ nợ, hãy cụ thể hóa hiện tượng này thành
nguyên nhân, biểu hiện, hậu quả, phản ứng, giải pháp…?
- Bạn có nhiệm vụ phải thuyết trình về chủ đề “Bảo vệ môi trường”, nếu
nhìn rộng hơn một bước: xem buổi hôm đó không chỉ là một buổi thuyết trình
mà còn là một buổi thực tế thì bạn có những cách thuyết trình ấn tượng nào?
- Hãy đặt bạn vào vị trí của một tổng giám đốc, chủ tịch, hiệu trưởng,
bạn hãy đưa ra ít nhất mười quyết sách mang “tầm” lớn lao hơn vị trí hiện tại
của bạn?
5. Đảo lộn vấn đề
Sau đây là một truyện kể:
“Huyền thoại thời tuổi thơ thường cho rằng đỉa là con vật không thể nào
giết được… Vì đem chặt nhiều đoạn thì y như rằng mấy hôm sau mỗi phần
thân thể của con đỉa nguyên thủy sẽ biến thành một con đỉa con mới. Đã vậy,
đem nó phơi khô cả năm cho đến mùa mưa sau thì đỉa lại sống lại… “dai như
đỉa đói”. Vậy mà anh hàng xóm thanh niên xung phong đã tuyên bố với tụi
nhỏ rằng anh ta đã thành công tìm ra phương pháp tiêu diệt con đỉa rất tuyệt
vời… Sau nhiều lần năn nỉ, chúng tôi mới được tiết lộ bí mật. Muốn cho đỉa
chết hẳn thì chỉ có nước… Lấy cây đũa ăn cơm đâm xuyên dọc vào đầu con
đỉa và lộn trái nó từ trong ra ngoài (nghĩa là bộ da con đỉa bây giờ trở thành…
bộ đồ lòng!”.
Phương pháp suy luận đảo lộn vấn đề đã được con người biết đến và
sử dụng rất lâu đời. Ở bậc Trung học, nhiều người cũng đã làm quen với lối
suy luận này khi mà các học sinh lớp 10 được học về cách chứng minh phản
chứng và học sinh còn được giới thiệu về luật De Morgan - Augustus De
Morgan (1806- 1871). Tuy nhiên, với một cái nhìn thoáng hơn thì phương
pháp đảo lộn vấn đề có rất nhiều cách áp dụng chớ không chỉ gói gọn trong
vài thứ đã học.
1. Đảo lộn hay phủ định toàn bộ vấn đề.
2. Đảo lộn hay phủ định một phần vấn đề.
3. Đảo lộn hay phủ định chức năng.
4. Đảo lộn hay phủ định hình dáng hay không gian (từ trên xuống, từ
trong ra,…).
5. Đảo lộn hay phủ định màu sắc hay đặc tính.
6. Đảo lộn hay phủ định thứ tư hay thời gian.
7. Đảo lộn hay phủ định về số hay chất lượng.
8. Phản ví dụ.
Một số tình huống áp dụng:
- Đôi khi chúng ta phải ở trong thế bị động không biết loay hoay để trả
lời câu hỏi “Tại sao…?” (Why) thì có cách đơn giản để thay cách nhìn vấn đề
là đặt ngược thành câu hỏi “Tại sao không?” (Why not?)
- Câu chuyện cổ minh họa việc đảo lộn chức năng: Vị hoàng đế muốn
giết một nhà thông thái ông ta ra lệnh bỏ vào trong một bình sứ cao cổ hai
viên hắc ngọc và truyền để bình sứ lên chung với một mâm thức ăn vô cùng
thịnh soạn. Sau đó, cho gọi nhà thông thái ra mà phán rằng:
“Sau nhiều lần nhà ngươi cãi lệnh trẫm, nay trẫm quyết định ban cho
ngươi một ân huệ cuối cùng - Ta đã bỏ sẵn vào bình sứ đặt trên mâm thức ăn
trước mặt ngươi hai viên ngọc một viên là hồng ngọc còn viên kia là hắc
ngọc. Nhà ngươi được ăn bất cứ thứ gì trên mâm và sau đó nhà người được
lấy ra một viên ngọc từ trong bình sứ. Viên ngọc còn lại sẽ thuộc về ta. Tùy
theo số phận của nhà ngươi, nếu nếu ngươi lấy ra được viên hắc ngọc thì ta
sẽ lệnh chém đầu ngươi lập tức”.
Nhà thông thái biết rất rõ là ông vua chỉ muốn giết mình nên chắc chắn
bên trong bình sứ chỉ có hai viên hắc ngọc nên sau một hồi suy nghĩ…
Ông ta quyết định thay vì thức ăn trên bàn thì ông ta bình tĩnh cho tay
vào bình sứ tóm lấy một viên ngọc trong lòng bàn tay và rút ra…
Không để ai kịp thấy… bỏ tỏm vào miệng nuốt chửng viên ngọc. Rồi
tuyên bố với vua:
“Kính thưa hoàng thượng: thần đã ăn xong món ăn thần thích đó là viên
ngọc mà ngài đã ban cho… bây giờ xin ngài hãy xem xét viên ngọc còn lại
trong bình nếu đó là viên màu đen thì thần đã nhận được viên hồng ngọc.”
- Dùng quan niệm hay cái nhìn “ngược ngạo” đôi cũng tìm ra chân
tướng của vấn đề.
Tùy theo hướng nhìn “vịt” hay “thỏ”.
- Phản ví dụ: Thay vì phải tìm cách chứng tỏ một luật A đúng cho một
tổng thể S thì chỉ cần tìm ra một bộ phận nhỏ hay X trong tổng thể S mà luật
A không còn đúng nữa và như vậy luật A lập tức bị phủ nhận.
- Tiêu cực hóa các mệnh đề: Chẳng hạn khi ta làm việc với các vấn đề
về dịch vụ cho khách hàng, chúng ta có thể liệt kê tất cả các phương cách
làm cho dịch vụ này trở nên tồi tệ qua đó chúng ta có thể kiếm ra được nhiều
ý hay.
- “Đẩy – Kéo” các hiệu quả: Nếu muốn tăng sản lượng hàng tiêu thụ
hãy nghĩ về việc giảm chúng.
- Hoán đổi thất bại với thành công và ngược lại: Nếu có việc gì đó trở
nên tồi tệ hãy nghĩ về mặt tích cực của trạng thái đó. Chẳng hạn nếu máy
computer bị hỏng, tôi mất nhiều thứ cất giữ trong đó, thì cái gì hay ho từ sự
việc này có thể rút ra? Bài học rút ra được là hãy cài đặt lại tốt hơn, hay
không dùng nó nữa mà để toàn bộ thì giờ cho gia đình…
Đảo lộn vấn đề sẽ làm cho mọi thứ sẽ trở nên mới mẻ đặc biệt để
những ý tưởng xuất sắc nhất sẽ được sản sinh trên mảnh đất màu mỡ và
cũng đầy thách thức.
Trải nghiệm:
Một cô công chúa yêu một anh chàng cóc, một em bé thiếu nhi trở
thành kỵ sĩ và cứu cả đất nước hay vị “thầy hắc ám” trong Harry Potter đến
cuối truyện lại có lòng tốt đến không ngờ… tất cả những điều tương phản hay
trái ngược so với suy nghĩ thông thường đều tạo nên những bất ngờ thú vị.
Bài tập:
- Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không treo bandroll mà bạn trải nó trên
đường? Tranh vẽ trên mặt đường chẳng hạn…
- Thay vì thể hiện công khai các thông tin trên một banner thì điều gì sẽ
xảy ra nếu bạn che tất cả thông tin đó lại bằng một tấm vải/ ni-lông?
- Xe đạp là dùng để di chuyển, nhưng nếu xe đạp chỉ đứng yên thì sao?
- Điều gì sẽ xảy ra nếu như người ta lái xe bằng chân?
- Bầu trời thì xanh, mây thì trắng; nhưng nếu đảo ngược màu: trời thì
vàng, mây thì đen, bạn sẽ có ứng dụng kiểu trang trí này vào những chỗ nào?
6. Tư duy tổng hợp
E. Paul Torrance (1915-2003), một nhà Tâm lý học, người được mệnh
danh là “cha đẻ của sự sáng tạo”, ông là người đóng góp rất lớn cho kĩ thuật
đo độ thông minh (IQ test) đã phát biểu:
“Bởi vì sáng tạo bao gồm sự xếp đặt lại mọi thứ vào trong một cấu trúc
mới, nên mỗi ý tưởng hay hoạt đông sáng tạo đều là một quá trình suy nghĩ
tổng hợp.
Những hành vi sáng tạo xảy ra trong quá trình đi từ chỗ nhận biết các
trở ngại, các điểm yếu, các khoảng trống trong tri thức, các thiếu sót, các vận
hành không hài hòa cho đến chỗ tìm kiếm các lời giải, thực hiện các dự đoán,
hay công thức hóa các lý thuyết”.
Tư duy tổng hợp là một quá trình phát hiện ra các mối liên hệ làm thống
nhất các bộ phận mà tưởng chừng như chúng là tách biệt. Đây là phương
thức ghép đặt các sự kiện lại với nhau để mở ra một tầm nhìn mới cho tất cả
các loại vấn đề.
Người ta có thể dùng phương pháp này không chỉ trong nghiên cứu
khoa học mà còn trong nhiều lĩnh vực khác như nghệ thuật, sáng tác… hay
ngay cả trong khoa hùng biện.
a. Đặc trưng của phương pháp tổng hợp:
Hiệu quả của phương pháp:
- Tư duy tổng hợp khuyến khích khả năng sống chung với sự phức tạp
và mâu thuẫn.
- Phương pháp này kích thích suy nghĩ sáng tạo.
- Tư duy tổng hợp năng động hóa cả hai bán cầu đại não trái và phải.
- Nó cung ứng một trạng thái suy nghĩ không bị ràng buộc vào ý thức.
Cơ chế kích khởi của phương pháp tư duy tổng hợp:
- Cơ chế kích thích của tư duy tổng hợp xúc tác cho nhiều ý tưởng và
phát minh mới.
- Tư duy tổng hợp dựa trên sự tư duy đột phát.
Phương cách hoạt động của tư duy tổng hợp:
- Tư duy tổng hợp dựa trên sự hợp nhất của những sự đối lập.
- Tư duy tổng hợp dựa trên phép loại suy.
- Sự chủ động của tư duy tổng hợp sản sinh ra kết quả lớn hơn là tổng
kết quả của từng phần góp lại.
b. Phương thức tiến hành:
1. Xác định, nhận diện vấn đề và viết nó ra.
2. Thu thập tất cả các dữ kiện về vấn đề và kết hợp nó với những thông
tin đã có sẵn trong óc.
3. Tiến hành sáng tạo bằng cách dùng các câu hỏi kích hoạt trình bày
sau đây để biến đổi các ý kiến và thông tin trở thành cái mới. Những câu hỏi
này là công cụ để “đổi mới” tư duy và có thể dẫn dắt đến những phát kiến vĩ
đại. Trong lúc dùng các câu hỏi kích hoạt hãy cố gắng trở nên linh hoạt và
mềm dẻo theo sự hướng dẫn của câu kích hoạt theo nghĩa bóng lẫn nghĩa
đen để giúp giải phóng tư tưởng dễ hơn.
Hệ thống câu hỏi kích hoạt:
Cắt bớt:
Bỏ bớt một số bộ phận hay chi tiết.
Dồn nén hay làm cho nó nhỏ đi.
Cái gì có thể được giảm tối thiểu hay bố trí lại.
Những luật lệ nguyên tắc nào có thể “bẻ gãy”.
Làm thế nào để giản dị hóa.
Làm sao để trừu tượng hóa, điển hình hóa hay vắn tắt hóa.
Thêm thắt:
Kéo dài hay mở rộng.
Phát triển những đối tượng về hướng mong muốn.
Gia cố, thăng hoa, hay sát nhập thêm.
Khuếch đại làm to lên.
Cái gì nữa có thể thêm thắt vào ý tưởng, hình vẽ, đối tượng, vật liệu.
Kết hợp:
Đem các thứ lại với nhau.
Nối, sắp xếp, liên kết, thông nhất, trộn lẫn, xác nhập, xếp lại chỗ.
Kết hợp các ý kiến, vật liệu và kĩ thuật.
Ghép các thứ không tương tự với nhau để sản sinh sức mạnh tổng
hợp.
Cái gì nữa có thể dùng nốt vào với chủ thể?
Nối trong các kiểu cách, khuôn khổ, định hướng hay kỷ luật cảm biến
khác nhau.
Chuyển biến:
Đưa đối tượng vào tình thế mới.
Mô phỏng, chuyển vị, dời chỗ, biến vị.
Dời đối tượng ra khỏi môi trường thông thường.
Thay các cài đặt về lịch sử, xã hội và địa lí.
Làm thế nào để chủ thể có thể được biến cải, thông dịch, thay hình đổi
đáng.
Hoạt hóa:
Linh hoạt hóa các áp lực hình tượng và tâm lí.
Điều khiển các dịch chuyển về hình ảnh và các lực.
Áp dụng các nhân tử của sự lặp lại và sự thăng tiến.
Những đặc điểm “con người” nào mà chủ thể có.
Đối nghịch:
Đổi ngược chức năng nguyên thủy của chủ thể.
Nghịch đảo một cách hình tượng và trí năng nhưng vẫn giữ nguyên kết
cấu hợp nhất.
Đổi ngược các định luật của tự nhiên như trọng lực, thời gian, các chức
năng con người.
Đảo ngược các thủ tục thông thường, các lề lối quy ước xã hội hay các
trình tự các lễ nghi.
Ghép khuôn:
Choàng đè lên, đặt lên, bao bọc, phủ qua.
Ghép các hình ảnh và ý khác nhau lại.
Cho các phần tử choáng, che nhau để sản xuất ra hình ảnh, ý kiến và ý
nghĩa mới.
Ép khuôn các phần tử tử những góc nhìn, từ những kỷ luật, thời điểm
khác nhau.
Kết nối các thu nhận cảm biến về âm thanh và màu sắc chẳng hạn.
Gán ép nhiều quan điểm để chỉ ra sự tương phản theo từng thời điểm.
Đổi tỉ lệ:
Làm cho chủ thể lớn hay nhỏ hơn.
Thay đổi tỉ lệ, đơn vị thời gian hàng giây, phút, giờ, ngày, tuần, tháng
năm.
Biến dạng về quy mô địa phương hay toàn thể, cỡ tương đối, tỉ lệ và
chuyển hướng.
Thay thế:
Thay thành phần, đổi chỗ, hay thế chấp.
Những ý kiến, hình ảnh, hay vật liệu nào khác có thể thay đổi.
Những cách thức kế hoạch khác hay các bổ sung có thể tận dụng.
Đập bể vụn:
Tách rời, chia nhỏ, cắt hay mổ xẻ.
Phân nhỏ đối tượng hay ý kiến ra từng phần.
Băm chặt nhỏ, tháo rời nó.
Thiết bị nào có thể chia nhỏ ra thành nhiều lượng nhỏ hơn?
Làm thế nào để cho nó xuất hiện một cách không liên tục?
Cô lập:
Tách rời, cài đặt riêng rẽ, hớt tỉa, tháo ra.
Chỉ lấy một bộ phận của chủ thể.
Phần tử nào có thể tách rời hay tập trung lên?
Bóp méo:
Vặn xoắn chủ thể ra khỏi hình thể ban đầu, sự cân xứng hay ý nghĩa
của nó.
Tạo nên các sự bóp méo tưởng tượng hay thực tế.
Biến dạng để sản sinh ra chất lượng thẩm mỹ, biểu tượng thống nhất.
Làm dài, rộng, mập, ốm.
Nấu chảy, bào, bào mòn, chôn vùi, bể nứt, xé, hành hạ, đổ tràn thứ gì
lên nó.
Tương tự:
Vẽ các sự liên đới.
Tìm kiếm sự tương tự giữa hai vật khác nhau.
So sánh phần tử giữa các lĩnh vực hay các khuôn.
Tôi có thể so sánh chủ thể của tôi với cái gì?
Tạo ra các mối tương quan hữu lí và vô lí.
Lai tạo:
Lai tạo các đặc tính của chủ thể với những “con giống” không có trong
thực tế.
Cái gì chúng ta sẽ nhận được nếu “giao hợp” một… với một…?
Giao thoa các màu sắc, dạng thức hay cấu trúc.
Làm màu mỡ (bằng cách pha trộn hay lai tạo) các phần tử hữu cơ và
vô cơ.
Làm phì nhiêu các ý kiến và cảm nhận.
Chuyển hóa:
Biến dạng, thay hình, đổi cấu trúc hay cấu tạo.
Mô tả chủ thể trong quá trình thay đổi.
Đổi màu hay cấu hình.
Làm ra sự tiến bộ về cấu trúc.
Làm phép hóa thân (từ nhộng thành bướm).
Nhấn nhá:
Đồng thuận hóa với chủ thể.
“Lấy râu ông này cắm cằm bà nọ”.
Nhân cách hóa.
Liên hệ tới chủ thể một cách cảm hứng, tùy tiện, hay chủ quan.
Trùng lắp:
Tái lặp một hình, dáng, cấu tạo, ảnh, hay ý.
Làm lại, vang vọng âm thanh, phát biểu lại sao cho y chủ thể trong một
cách thức nào đó.
Kiểm tra, chi phối các yếu tố của sự xuất hiện, của nhịp gõ, của sự tiếp
nối, và của sự tiến triển.
Đánh lạc hướng:
Ngụy trang, ẩn giấu, đánh lừa, mã hóa.
Trốn, hóa trang, “cấy” đối tượng vào trong một khuôn khổ trong hướng
nhìn khác.
Giả trang, làm như tắc kè và bướm.
Tạo ra hình ảnh tìm ẩn để liên lạc một cách tìm thức.
Trêu hài:
Giễu cợt, nhái theo, nhạo báng, khôi hài hay vẽ châm biếm.
Chọc cười lên chủ thể, xỏ xiên.
Chuyển nó sang thành một trò đùa, chuyện tếu, tấu hài, hay chơi chữ.
Hướng thành trò hề, lố bịch, hay hài hước.
Làm phim, truyện hài hước về một vấn đề nào đó.
Lập lờ:
Viễn tưởng hóa, “bẻ cong” sự thật, ngụy biện, tưởng tượng.
Dùng chủ thể như là một bình phong để thay thế cho thông tin.
Diễn dịch thông tin một cách sai khác để gây bối rối hay lừa dối.
Biểu tượng:
Những “kí hiệu” thấy được đại diện cho một cái gì khác hơn là cái chức
năng thông thường của nó (biểu tượng hóa).
Thiết kế hình biểu tượng cho ý kiến của chúng ta.
Làm sao để chủ thể có thể “nhuộm thắm” bằng các biểu tượng chất
lượng.
Các biểu tượng chung (công cộng) là khuôn mẫu, là phổ biến và đã
được hiểu.
Các biểu hiện riêng tư là bí ẩn, mang ý nghĩa đặc biệt cho vật nguồn.
Nghệ thuật của công việc là kết hợp cả hai loại biểu tượng chung và
riêng tư.
Biến chủ thể của chúng ta thành một biểu tượng.
Giai thoại hóa:
Dựng nên một thần thoại xung quanh chủ thể.
Chuyển chủ thể trở thành đối tượng mẫu mực (hay biểu tượng).
Ảo tưởng hóa:
Ảo tưởng hóa chủ thể.
Kích hoạt những ý nghĩa về siêu thực, phi lí, kì dị, quái đản
“Lật đổ” những dự kiến về tinh thần và cảm giác.
Chúng ta có thể kéo dài sự tưởng tượng ra đến bao xa?
“Cái gì xảy ra nếu xe gắn máy làm bằng các cục gạch?”
“Nếu như mấy con cá sấu chơi trong hồ bơi?”
“Chuyện gì xảy ra nếu ngày và đêm xảy ra trong cùng một lúc?”
Trải nghiệm:
Đồ đạc sử dụng thì phải bền, tuy nhiên nếu bẻ gãy luật lệ này sẽ thấy
một phân khúc các sản phẩm chỉ sử dụng một lần dành cho các bà nội trợ
cho đến những người đi du lịch. Quần áo dùng một lần, máy ảnh chụp một
lần, ống nhòm cấp tốc bao tay ni-lông hay giỏ xách bằng giấy.
Bài tập:
- Nếu nhân cách hóa một lon pepsi, bạn sẽ có những ý tưởng quảng
cáo nào?
- Nếu đổi màu một chiếc xe máy, bạn sẽ chọn kiểu màu độc đáo nào?
- Hãy bẻ cong một cái muỗng để tạo ra một dụng cụ nhà bếp mới?
- Nếu cắt cái áo ra thành từng đoạn nhỏ, bạn sẽ có những sản phẩm
thời trang nào?
- Nếu phóng đại chiếc điện thoại di động lên gấp hai mươi lần, bạn sẽ
có thiết bị gì?
- Quạt dùng để làm mát, nhưng nếu nó dùng để làm nóng thì sao?
- Dép là dùng để mang dưới chân, sản phẩm nào bạn có thể nghĩ ra
nếu đưa nó lên đầu?
- Nếu nhào trộn giữa sự tự kiêu và mê tín, bạn sẽ tạo nên hình tượng
nhân vật nào?
- Nếu kéo dài một chai Coca ra hai mươi lần, bạn sẽ có 1 sản phẩm
nào?
- Nếu thu nhỏ cái nón bảo hiểm xuống tỉ lệ 1/40, bạn sẽ có thể dùng nó
để làm những món trang sức nào?
IV. NHỮNG CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO Ý TƯỞNG TOÀN PHẦN1. Brainstorming (Công não)
Công não là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng
tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách tập trung trên
vấn đề, rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho nó. Các ý niệm, hình ảnh về vấn
đề trước hết được nêu ra một các rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng
suy nghĩ càng nhiều càng đủ càng tốt. Chúng có thể rất rộng và sâu cũng như
không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của vấn đề. Trong “tập kích
não” hay công não thì vấn đề được đào bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách
(nhìn) khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm và đánh giá.
Phương pháp này có thể tiến hành bởi từ một đến nhiều người. Số
lượng người tham gia nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được
nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình
độ, trình tự khác nhau của mỗi người.
Lịch sử phát triển:
Thuật ngữ tập kích não (brainstorming) được đề cập đầu tiên bởi Alex
Osbom năm 1941. Ông đã mô tả tập kích não như là “Một kỹ thuật hội ý bao
gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách
góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian
theo một nguyên tắc nhất định” (mà sẽ được mô tả trong phần tiếp theo).
Ngày nay, phương pháp này không nhất thiết phải cần có nhiều người mà
một người cũng có thể tiến hành.
Các đặc điểm chính khi sử dụng tập kích não:
a. Định nghĩa vấn đề một cách thật rõ ràng và phải đưa ra được các
chuẩn mực cần đạt được của một lời giải. Trong bước này thì vấn đề sẽ được
cô lập hóa với môi trường và các nhiễu loạn.
b. Tập trung vào vấn đề và tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài
có thể làm lạc hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn ngày người ta thu thập
tất cả các ý niệm, ý kiến và ngay cả các từ chuyên môn có liên quan trực tiếp
đến vấn đề cần giải quyết (thường có thể viết lên giấy hoặc lên bảng).
c. Không được phép đưa bất kỳ một bình luận hay phê phán gì về các ý
kiến hay ý niệm trong lúc thu thập. Những ý tưởng thoáng qua trong đầu nếu
bị các thành kiến hay phê bình sẽ dễ dàng bị gạt bỏ và như thế sẽ làm mất sự
tổng quan của buổi tập kích não.
d. Khuyến khích tinh thần tích cực, mỗi thành viên đều cố gắng đóng
góp và phát triển các ý kiến.
e. Hãy đưa ra càng nhiều ý càng tốt về mọi mặt của vấn đề kể cả
những ý kiến không thực tiễn hay ý kiến hoàn toàn lạ lẫm sáng tạo.
Các bước tiến hành:
a. Trong nhóm lựa ra một người đầu nhóm (để điều khiển) và một
người thư ký (để ghi lại tất cả ý kiến). Chú ý rằng cả hai công việc có thể do
cùng một người tiến hành vẫn đạt yêu cầu.
b. Xác định vấn đề hay ý kiến sẽ được tập kích. Phải làm cho mọi thành
viên hiểu thấu đáo về đề tài sẽ được tìm hiểu.
c. Thiết lập các “luật chơi” cho buổi tập kích não:
- Người đầu nhóm có quyền điều khiển buổi làm việc.
- Không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá, phê
bình, “xía mũi” vào ý kiến hay giải đáp của thành viên khác.
- Xác minh rằng không có câu trả lời nào là sai?
- Thu thập lại tất cả câu trả lời ngoại trừ nó đã được lập lại.
- Hoạch định thời gian cho buổi làm việc và ngưng khi hết giờ.
d. Bắt đầu tập kích não: người lãnh đạo chỉ định hay lựa chọn thành
viên chia sẻ ý kiến trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư ký phải viết
xuống tất cả các câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy
(viết lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay
bình luận nào về bất kỳ câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt buổi tập kích.
e. Sau khi kết thúc tập kích, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các
câu trả lời. Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời bao gồm:
- Tìm những câu có ý trùng lặp hay tương tự.
- Nhóm các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc,
nguyên lý.
- Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp.
- Sau khi đã cô lập cuộc danh sách các ý kiến, hãy bàn cãi thêm về câu
trả lời chung.
Trải nghiệm:
Hãy chọn những chiếc lá thật sự khác nhau (nếu các chiếc lá trùng
nhau vẫn có thể tiến hành). Mỗi chiếc lá sẽ thuộc về một người trong nhóm
hoặc tuần tự bày trước mặt bạn (nếu chỉ có một người). Mỗi lượt chơi sẽ nói
một dấu hiệu, đặc điểm nào đó về chiếc lá sao cho các ý kiến phải khác nhau.
Cứ thực hiện cho đến khi nào không thể nói được nữa. Bạn sẽ thu âm hoặc
nhờ người ghi chép lại tất cả những ý kiến. Bạn sẽ thực sự thán phục mình
hoặc thán phục những người cùng chơi. Chính bạn cảm nhận được sự phát
triển sau khi chơi trò chơi này dẫu ở bất kỳ vị trí gì đi nữa.
Bài tập:
- Hãy tìm một từ đơn mà bạn thích, ghép thật nhiều từ với từ đơn ấy
sao cho tạo thành nhiều từ có nghĩa.
- Tìm những hình ảnh trên mạng internet thật lạ mắt, hãy đặt tên cho
những hình ảnh đó, càng nhiều càng tốt và những hình ảnh đó phải khác
nhau.
- Hãy dùng một quả banh thật tròn và lăn thật nhanh, bạn cùng với
những người bạn ngồi để bàn luận về một vấn đề nào đó. Khi quả banh lăn
đến ai, người đó phải tích cực phát biểu nhanh chóng.
2. Tư duy đa chiều
Là một kỹ thuật được thiết kế nhằm giúp các cá thể có được nhiều cái
nhìn về một đối tượng mà những cái nhìn này sẽ khác nhiều so với một người
thông thường có thể thấy được. Đây là một khuôn mẫu cho sự suy nghĩ và nó
có thể kết hợp thành lối suy nghĩ định hướng (lateral thinking). Trong phương
pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ đứng riêng của nó nhưng các
phê phán đó sẽ không được phép thống trị như là thường thấy lối suy nghĩ
thông thường.
Tư duy đa chiều được dùng chủ yếu là để:
- Kích thích suy nghĩ song song.
- Kích thích suy nghĩ toàn diện.
- Tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến…) và chất lượng.
a. Lịch sử của phương pháp:
Đây là phát kiến của Tiến sĩ Edward de Bono trong năm 1980. Năm
1985 nó đã được mô tả chi tiết trong cuốn “Six thinking Hats” của De Bono -
được dịch tạm là sáu chiếc mũ tư duy.
Phương pháp này đã được phát triển và giảng dạy ở nhiều nơi trên thế
giới. Nhiều tổ chức lớn như là IBM, Federal Express, British Airways, Pepsi,
Polaroid, Prudential, Dupont,… cũng dùng phương pháp này.
b. Cách thức tiến hành:
Dùng sáu cái nón đại diện cho sáu dạng thức của suy nghĩ. Nó đề cập
đến chiều hướng suy nghĩ hơn là tên gọi. Mỗi nón có một màu (mà màu này
chỉ đại diện cho một dạng thức duy nhất của suy nghĩ).
Mọi người đều sẽ tham gia góp ý. Tùy theo kiểu ý kiến mà người đó sẽ
đề nghị đội nón màu gì.
Các nón không được đùng đề phân loại cá nhân mặc dù hành vi hay
thói quen của cá nhân đó “dường như” hay “có vẻ” thuộc về loại nào đó. Nó
chỉ có tác dụng định hướng suy nghĩ trong khi thành viên trong nhóm cho ý
kiến đội lên mà thôi.
Các đặc tính của nón màu:
Nón trắng: Trung tính - tập trung trên thông tin rút ra được, các dẫn liệu
cứ liệu và những thứ cần thiết, làm sao để nhận được chúng.
Nón đỏ: Nóng, tình cảm, cảm giác, cảm nhận, trực quan những ý kiến
không có chứng minh hay giải thích, lý lẽ
Nón đen: Phê phán, bình luận, tại sao sự kiện là sai, tất cả những cảm
ý tiêu cực hay bi quan.
Nón vàng: Tích cực, lạc quan, những cái nhìn sáng lạng, tìm đến
những lợi ích, cái gì tốt đẹp.
Nón lục: Sáng tạo, khả năng xảy ra và các giả thuyết những ý mới.
Nón xanh dương: Điều khiển, chi phối quá trình, các bước, tổ chức lãnh
đạo, suy nghĩ về các suy nghĩ hay kết luận.
c. Cách tiến hành:
Mọi người trong nhóm làm việc sẽ cùng tham gia góp ý tùy theo tính
chất của ý đó mà người đó (hay người trưởng nhóm) sẽ đề nghị đội nón màu
gì. Người trưởng nhóm sẽ lần lượt chia thời gian tập trung ý cho mỗi nón
màu… Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt nếu cần bất kỳ thành viên nào
cũng có thể đề nghị góp thêm ý vào cho một nón màu nào đó (tuy vậy phải
giữ đủ thời lượng cho mỗi nón màu).
- Bước 1:
Nón trắng: tất cả các ý kiến nào chỉ chứa sự thật, bằng chứng, hay dữ
kiện, thông tin. Đội nón này có nghĩa là “hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh
cãi, mọi dự định và hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu”.
- Bước 2:
Nón lục: tạo ra các ý kiến làm sao để giải quyết. Các sáng tạo, các cách
thức khác nhau, các kế hoạch, các sự thay đổi.
- Bước 3:
Đánh giá các giá trị của các ý kiến trong nón lục.
Viết ra danh mục các lợi ích dùng nón vàng.
Nón vàng: tại sao vài ý kiến sẽ chạy tốt và tạo sao nó mang lại lợi ích.
Ở đây cũng có thể dùng về các kết quả của các hành động được đề xuất hay
các đề án. Nó còn dùng để tìm ra những vật hay hiệu quả có giá trị của những
gì đã xảy ra.
Viết các đánh giá, và các lưu ý trong nón đen.
Đây là nón có giá trị nhất. Dùng đề chỉ ra tại sao các đề nghị hay ý kiến
không thích hợp (hay không hoạt động được) cùng với các dữ kiện, với kinh
nghiệm sẵn có, với hệ thống đang hoạt động, hoặc với chế độ đang được
theo. Nón đen lúc nào cũng phải tính đến sự hợp lý.
- Bước 4: Viết các phản ứng, trực giác tự nhiên và các cảm giác xuống.
Nón này cho phép người suy nghĩ đặt xuống các trực cảm mà không
cần bào chữa.
- Bước 5: Tổng kết và kết thúc buổi làm việc.
Nón này là sự nhìn lại các bước trên hoặc là quá trình điều khiển. Nó
sẽ không nhìn đến đối tượng mà là nghĩ về đối tượng (thí dụ như ý kiến “đội
cho tôi cái nón lục, tôi cảm giác rằng có thể làm được nhiều hơn về cái nón
xanh này”).
Lưu ý: Các bước trên không hoàn toàn nhất thiết phải theo đúng thứ tụ
như nêu trên mà ở nhiều trường hợp nên chỉnh lại theo thứ tự như sau: Trắng
à Đỏ à Đen à Vàng à Lục à Xanh Dương.
Ví dụ: Giải quyết vấn đề sau đây trong lớp học “Học sinh nói chuyện
trong lớp”.
Dùng phương pháp sáu nón để cho các học sinh nhìn vào vấn đê ở các
góc cạnh khác nhau. Có thể dùng sáu phấn màu khác nhau để ra hiệu (thay
cho nón). Học sinh chủ động cho ý kiến và giáo viên sẽ điều khiển toàn buổi
qua các bước như sau:
1. Nón trắng: Các sự kiện
- Các học sinh nói chuyện trong khi cô giáo đang nói.
- Có sự ồn ào làm cho các học sinh khác bị xao lãng hoặc không nghe
được (cô giáo nói gì).
- Học sinh không biết làm gì sau khi cô giáo đã hướng dẫn cách thức.
- Nhiều học sinh bực mình hay không muốn học nữa.
2. Nón đỏ: Cảm tính
- Cô giáo cảm giác bị xúc phạm.
- Các học sinh nản chí vì không nghe được hướng dẫn (của cô).
- Người nói chuyện trong lớp vui vẻ được “tán dóc” và “nghe dóc”.
3. Nón đen: Các mặt tiêu cực
- Lãng phí thì giờ.
- Buổi học bị làm tổn thương.
- Nhiều người bị xúc phạm rằng những người nghe bất cần đến những
gì được nói.
- Mất trật tự trong lớp.
4. Nón vàng: Các mặt tích cực của tình trạng được kiểm nghiệm
- Mọi người được nói những gì họ nghĩ.
- Có thể vui thú.
- Mọi người không phải đợi tới lượt của mình để nói nên sẽ không bị
quên cái gì mình muốn nói.
- Không chỉ những học sinh giỏi mới được nói.
5. Nón lục: Những cách giải quyết đến từ cách nhìn theo vấn đề trên
- Cô giáo sẽ nhận thức hơn về “thời lượng” mà cô nói.
- Cô giáo sẽ cố gắng tác động qua lại (để ý cho phép nhiều đối tượng
tham gia) với nhiều học sinh không chỉ với các học sinh “giỏi”.
- Học sinh sẽ phải làm việc để không phải phát biểu linh tinh. Học sinh
sẽ tự hỏi “Điều muốn nói có liên hệ đến bài học hay không?” và “Có cần để
chia sẻ ý kiến với ai khác hay không?” Sẽ cần thêm bàn thảo làm sao học
sinh vượt qua khó khăn này!
- Học sinh sẽ suy nghĩ rằng có nên chen vào phá việc học của người
khác hay không?
- Sẽ giữ bản tường trình này lại làm tài liệu về sau xem xét có tiến bộ
hay không?
6. Nón xanh dương: Tổng kết những thứ đạt được
- Cô giáo rút kinh nghiệm rằng cần phải giới hạn thời gian dùng để nói.
- Cô giáo cần tham gia bàn luận với tất cả học sinh và cần phải ưu tiên
hơn đến những học sinh ít khi tham gia phát biểu hay là các học sinh chỉ thụ
động im lặng chờ được gọi trả lời.
- Cô giáo cần để học sinh có thời gian suy nghĩ trước khi họ tham gia
vào bàn luận. Thì giờ cho học sinh suy nghĩ trong buổi học quan trọng và rất
cần thiết.
- Học sinh hiểu rằng “nói chuyện làm ồn trong lớp” sẽ làm cho các học
sinh khác bị ảnh hưởng và bực mình.
- Học sinh hiểu rằng chỉ cần cười giỡn trong một tí thì cũng đủ phá
hỏng việc học của người khác.
- Học sinh ý thức rằng nói bất kỳ lúc nào mình muốn là hành động thiếu
kỷ luật với chính những giá trị kiến thức của bản thân.
- Học sinh và giáo viên cần xem lại đề tài này để kiểm tra xem có tiến
bộ hay không.
Trải nghiệm:
Elbert Edward - một trong mười doanh nhân trẻ thành đạt của Mỹ đã
chia sẻ bí quyết quản lý dự án của mình trên kênh truyền hình BBC nổi tiếng.
Công cụ của anh không phải một chiếc máy tính thần kì hay một cây bút có trí
khôn, cách mà anh có thể có những ý tưởng mới lại và biến chúng trở thành
những dự án thực tế chính là tư duy với sáu chiếc nón. Môi lần có một ý
tưởng, anh tập hợp nhóm làm việc của mình gồm năm người nữa đã được
chọn lọc và quen thuộc với kỹ thuật này. Những ý tưởng đơn giản, anh cho
mỗi người đội một chiếc nón có màu khác nhau và bắt đầu thu gom ý tưởng.
Riêng đối với những vấn đề phức tạp, những dự án lớn, anh cho tất cả mọi
người cùng đội một chiếc nón duy nhất - thí dụ nón màu trắng và cả nhóm
đưa ra tất cả những ý tưởng có thể có theo cùng một loại. Sau đó thay đổi
màu nón và tiếp tục bội thu các ý kiến. Nhờ vậy, doanh nghiệp mà anh điều
hành liên tục có những dự án mới thật độc đáo mà người điều hành không
mất quá nhiều thời gian cho khâu ý tưởng - đánh giá và lập kế hoạch ban
đầu.
Bài tập:
- Hãy chọn một mặt hàng mà bạn yêu thích và lập “Dự án kinh doanh”
mặt hàng đó bằng cách tư duy với sáu chiếc nón như trên.
- Hãy chọn một sản phẩm của công ty, một bài giảng của tổ bộ môn,
một quy trình quản lý và phân tích toàn diện về nó bằng cách tư duy theo sáu
chiếc nón.
- Trong một cuộc thảo luận nhóm, hãy để mỗi thành viên “đội một chiếc
nón” (đóng vai) và đưa ra ý kiến qua “lăng kính” của chiếc nón mình.
3. Tư duy sơ đồ hóa
Phương pháp Tư duy sơ đồ hóa được đưa ra như một phương tiện
mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Nó có thể dùng
như một cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra
thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy vi tính, ngoài khả
năng ghi nhớ bằng kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định chẳng
hạn như trình tự biến cố xuất hiện của một truyện) thì nó có khả năng liên lạc,
liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp Tư duy sơ đồ hóa tận dụng cả hai
khả năng này của bộ não.
Phương pháp này có lẽ đã được nhiều người biết đến nhưng nó chưa
bao giờ được hệ thống hóa và được nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến chính
thức trong nước mà chỉ được dùng “tản mạn” trong giới sinh viên, học sinh
trước mỗi kì “gạo bài”.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ
ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng
được liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu
được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay gì dùng chữ viết để mô tả (một chiều) giản đồ ý sẽ phơi bày cấu
tượng, sự quan hệ (hỗ trợ giữa các khái niệm liên quan (tạm gọi là “điểm
chốt”) và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong một vấn đề lớn.
Giản đồ ý cùng được dùng cho:
* Tổng kết dữ liệu.
* Hợp nhất thông tin từ các nguồn nghiên cứu khác nhau.
* Động não về một vấn đề phức tạp.
* Trình bày thông tin để chỉ ra cấu trúc toàn bộ đối tượng.
a. Lịch sử của phương pháp:
Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20)
bởi Tony Buzan như là một cách để giúp học sinh “ghi lại bài giảng” mà chỉ
dùng các từ then chốt và các hình ảnh. Các ghi chép này sẽ nhanh hơn, để
nhớ và dễ ôn tập hơn.
Giữa thập niên 70 Perter Russell đã làm việc chung với Tony và họ đã
truyền bá kỹ xảo về Tư duy sơ đồ hóa cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như
các học viện giáo dục.
b. Ưu điểm của phương pháp:
So với các cách thức ghi chép truyền thống:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Sự quan hệ hỗ tương giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan
trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính.
- Sự liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được chấp nhận lập tức.
- Ôn và nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn.
- Mỗi giản đồ sẽ phân biệt nhau dễ dàng hơn cho việc gợi nhớ.
c. Phương thức tiến hành:
Ví dụ:
1. Viết hay vẽ đề tài của đối tượng xuống giữa trang giấy và vẽ một
vòng bao bọc nó (sử dụng màu). Nếu viết chữ thì hãy cô đọng nó thành một
chìa khóa chính (danh từ kép chẳng hạn).
2. Cho mỗi ý quan trọng vẽ một “đường” phân nhánh xuất phát từ hình
trung tâm.
3. Từ mỗi ý quan trọng trên lại vẽ các phân nhánh mới, các ý phụ bổ
sung cho nó.
4. Từ các ý phụ này lại mở ra các phân nhánh chi tiết cho mỗi ý.
5. Tiếp tục phân nhánh như thế cho đến khi đạt được giản đồ chi tiết
nhất (hình rễ cây mà gốc chính là đề tài đang làm việc).
Lưu ý: Khi tiến hành một giản đồ ý nên:
- Sử dụng nhiều màu sắc.
- Sử dụng hình ảnh minh họa nếu có thể thay cho chữ viết cho mỗi ý.
- Mỗi ý, nếu không thể dùng hình phải rút xuống tối đa thành một từ
khóa ngắn gọn.
- Tâm ý nên được để tự do tối đa. Có thể nảy sinh ý tưởng nhanh hơn
là khi viết ra.
Việc dùng kí hiệu hay biểu tượng qua hình vẽ:
Các kí hiệu hay biểu tượng qua hình vẽ để giản đồ sống động hơn.
Kí tự đặc biệt như ! ? {} & * Ó Ò $ @ sẽ tăng chất lượng cô đọng của ý
và làm rõ nghĩa cho giản đồ hơn.
Các hình vẽ để hình tượng hóa các ý và giúp biểu thị các kiếu lời giải.
Màu sắc sẽ giúp nhớ dễ hơn.
d. Ứng dụng:
- Ghi chép (bài giảng, phóng sự, sự kiện…) Dùng cách này sẽ có nhiều
điểm mạnh với các phương pháp khác như là:
1. Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình bất chấp thứ tự
của sự trình bày.
2. Nó khuyến khích làm giảm sự mô tả của mỗi ý mỗi khái niệm xuống
thành một từ (hay từ kép).
3. Toàn bộ ý của giản đồ có thể “nhìn thấy” và nhớ bởi trí nhớ hình ảnh
- loại trí nhớ gần như tuyệt hảo.
- Sáng tạo các bài viết và các bài tường thuật:
Với giản đồ ý có thể tìm ra gần như vô hạn số lượng các ý tưởng và
cùng một lúc sắp xếp lại các ý đó bên cạnh những ý có liên hệ. Điều này biến
phương pháp trở thành công cụ mạnh để soạn các bài viết và tường thuật,
khi mà những ý kiến cần phải được ghi nhanh xuống. Sau đó tùy theo các từ
khóa (ý chính) thì các câu hay đoạn văn đều được triển khai rộng ra.
- Phương tiện dễ dàng cho học vấn hay tìm hiểu sự kiện:
Một ví dụ điển hình là việc đọc sách nghiên cứu khoa học, hay vì chỉ
đơn thuần đọc, dùng giản đồ ý trong khi đọc mỗi lần “tóm” được vài ý hay và
quan trọng thì chỉ thêm chúng vào đúng vị trí trong cái giản đồ.
Sau khi đọc xong một quyển sách thì nên có một trang giấy tổng kết tất
cả những điểm hay và mấu chốt của cuốn sách đó. Cũng có thể thêm thắt vào
nhiều ý tưởng mới nghĩ ra trong lúc đọc. Điều này sẽ làm tăng chất lượng hấp
thụ kiến thức từ cuốn sách nếu muốn nắm thật tường tận các dữ liệu đọc
được thì chỉ việc tiến hành vẽ lại giản đồ bằng trí nhớ vài lần.
- Tiện lợi cho nhóm nghiên cứu:
Một nhóm có thể làm việc chung và lập nên một giản đồ ý bởi các bước
sau:
1. Mỗi cá nhân vẽ các giản đồ ý về những gì đã biết được về đối tượng.
2. Kết hợp với các cá nhân để thành lập giản đồ ý chung về các yếu tố
đã biết.
3. Quyết định xem nên học những gì dựa vào các giản đồ này của
nhóm.
4. Mỗi người tự nhiên cứu thêm về đề tài, tùy theo yêu cầu mà tất cả
chú tâm vào cùng một lãnh vực để đào sâu thêm hay chia ra mỗi người một
lãnh vực để đẩy nhanh hơn quá trình.
5. Kết hợp lần nữa để tạo thành giản đồ ý của cả nhóm.
- Dùng trong diễn thuyết.
Dùng 1 giản đồ ý bao gồm toàn bộ các ghi chép sẽ có nhiều tiện lợi so
với các kiểu ghi chép khác là vì:
1. Súc tích: chỉ cần một trang giấy duy nhất.
2. Không phải “đọc theo” - mỗi ý kiến đã được thu gọn trong một từ;
chúng ta sẽ không phải đọc theo những gì đã soạn thành bài văn.
3. Linh hoạt: nếu như có người đặt câu hỏi, có thể tìm ngay ra vị trí liên
hệ của câu hỏi với giản đồ ý. Như vậy sẽ không bị lạc khi tìm cho ra chỗ mà
câu trả lời cần đến.
Trải nghiệm:
Tony Buzan đã hầu như đi khắp thế giới để truyền bá công cụ này như
một phương tiện tư duy mới và kết quả đã có hàng chục triệu người sử dụng
nó một cách rất thường xuyên. Một khán giả - cũng là người đã sử dụng công
cụ này phát biểu qua kênh thời sự của đài Truyền hình VTV1 như sau: “Nếu
bạn đã sử dụng thuần thục bản đồ tư duy và biến nó trở thành một thói quen
thì trong bất cứ việc gì bạn suy nghĩ thì một bản đồ tập tức xuất hiện trong
đầu bạn và bắt đầu “bắt rễ” đến những nhánh nhỏ liên quan. Người khác sẽ
rất ngạc nhiên khi bạn đặt những câu hói mà đối phương chưa bao giờ nghĩ
tới, nó thể hiện rằng bạn suy nghĩ toàn diện hơn, tách bạch các ý hơn và tất
nhiên bạn là người có tầm hơn khi sử dụng bản đồ tư duy như một lối suy
nghĩ”.
Bài tập:
Lập bản đồ tư duy cho các chủ đề sau:
- Kế hoạch cuộc đời trong mười năm tới.
- Kế hoạch tổ chức đám cưới, liên hoan, tiệc sinh nhật.
- Tóm tắt một bài nói chuyện, một bài thuyết trình, một bài báo cáo.
- Những việc cần làm trong ngày.
- Chuẩn bị cho kỳ nghỉ hè năm nay.
- Đặc điểm của một sản phẩm mà bạn yêu thích hoặc đang sản xuất.
- Phác thảo một bài báo về chủ đề mà bạn đang “bức xúc”.
4. Loại suy (Tương tự hóa)
Trong các lớp bậc Trung học ai cũng đã biết thế nào là tương tự. Hai
bài toán có thể dùng một phương cách để giải thì ta gọi đó là “quá trình tương
tự hóa”. Với lối suy nghĩ này nhiều người cũng đã mang theo lên bậc Đại học
cũng như khi đi làm và rồi cho rằng chẳng cần gì để hiểu hay biết nhiều trong
phương cách này. Thực ra, nếu sử dụng các phương pháp tương tự một
cách thấu đáo thì cũng có thể chúng ta sẽ tìm thấy “những cá tính mới của
một người cũ”.
a. Các bước cho tương tự hóa:
Hãy nghĩ vấn đề như là một đối tượng và bắt đầu xem xét một đối
tượng khác. Đối tượng có thể là bất kì nhưng những cơ phận của thiên nhiên
thường sẽ thích hợp nhất. Viết xuống tất cả những sự tương đồng của hai đối
tượng các tính chất về vật lý, hóa học, hình dạng, màu sắc… cũng như tính
chất hoạt động.
Bây giờ xem xét sâu hơn sự tuơng đồng của cả hai xem có gì khác
nhau và qua đó tìm thấy được những ý mới cho vấn đề.
Ví dụ: quá trình tương tự hóa còn gặp rất nhiều trong khoa phỏng Sinh
học. Ngành này thường nghiên cứu các quá trình các hiện tượng sinh học
trong thiên nhiên để chế tạo ra các thiết bị mới: máy bay trực thăng, quân
phục tự đổi màu với môi trường là hai ví dụ rất điển hình về sự “bắt chước”
hay tương tự hóa.
b. Dồn ép tương tự hóa:
Đây chỉ là một cách mở rộng tầm nhìn hay bóp méo những hiểu biết
hiện có để tìm ra những phát kiến mới. Có rất nhiều cách thức áp dụng sau
đây là hai cách:
Cách thứ nhất. Gán thêm cho đối tượng sẵn có những đặc tính mới đã
có của một đối tượng khác:
Lưu ý: Trái với phương cách tương tự thông thường, đối tượng được
chọn đề thi hành tương tự hóa sẽ không nhất thiết có nhiều hay không những
đặc điểm giống nhau với đối tượng muốn giải quyết vấn đề.
Cách thứ hai. Trong cách này thì sự cưỡng bức sẽ áp dụng lên mỗi đặc
tính của đối tượng một cách có hệ thống.
Lưu ý: Phương pháp này thường áp dụng cho các ngành thiết kế
(design), các bước như sau:
- Liệt kê các đặc tính của đối tượng.
- Dưới mỗi đặc tính viết ra thêm nhiều tính chất khác thuộc cùng kiểu
(hình dạng, chất liệu, kiểu cấu trúc,…).
- Sau khi hoàn tất, tạo nên một thay đổi ngẫu nhiên của các đặc tính để
“biến” đối tượng thành đối tượng mới.
Ví dụ: quá trình thiết kế các kiểu “bút bi” mới tóm lược trong bảng
cưỡng bức như sau:
Bảng thay đổi thiết kế cho “bút bi”:
- Hình dạng: hình trụ, vuông, hình điêu khắc, chuỗi hạt, hình bầu dục…
- Chất liệu: Plastic, thủy tinh, gỗ, giấy…
- Kiểu đậy: bấm, có nắp, không nắp, có đầu chuôi…
- Màu sắc: một màu, nhiều màu, màu neon, đổi màu, không màu…
- Nguồn mực: ống cố định, ống mực thay được, bơm được, không có
ống mực, ống mực chấm hút…
Sau khi có bảng rồi thì tạo nên một “phát minh” mới bằng gán ghép
ngẫu nhiên: một cây viết bi hình người đánh Golf, bằng thủy tinh màu xanh lá
cây có nắp đậy là cái nón đội và ống mực thay được.
Để thấy được toàn bộ bức tranh của các bước sử dụng khả năng của
các phương cách tương tự hóa. Ví dụ sau đây sẽ phân tích chi tiết hơn về
một quá trình phát minh được tìm ra bằng phương pháp cưỡng bức tương tự
hóa do chính tác giả đã đề xuất (trong năm 2000) tạo ra nhằm chống lại nạn
“ăn cắp mật khẩu”:
1. Tìm hiểu vấn đề:
Trong những năm cuối của thập niên 90, khi Internet trở nên phổ biến
thì các hiện tượng tiêu cực lợi dụng chỗ hở của Internet và các hệ điều hành
cũng đã xảy ra: đó là việc ăn cắp tên và mật khẩu của các thành viên trong hệ
thống mạng hay e-mail. Ngoài ra, hiện tượng ăn cắp mật khẩu giữa những
người làm chung một công sở cũng có thể xảy ra (nhìn trộm người ta đăng
nhập và nhớ mật khẩu để ăn cắp các nghiên cứu chẳng hạn).
Nghiên cứu đối tượng: Hệ thống Login (còn gọi là hệ thống đăng nhập):
- Đọc user account (tên đăng nhập).
- Đọc password (mật khẩu) và mã hóa password.
- So sánh password đã mã hóa với mã sẵn có của người đăng nhập.
Nếu đúng thì cho phép sử dụng các dịch vụ sai thì loại bỏ.
2. Xác định vấn đề:
Tin tặc (hacker) có thể dùng một hệ thống bao gồm nhiều máy tính làm
việc chung với nhau tấn công vào một hệ thống mật khẩu bằng cách… “mò
mẫm” - tức là, các máy tính sẽ kiến tạo vô cùng nhanh các mật khẩu bằng
cách tăng tiệm biến các giá trị của mật khẩu rồi thử đăng nhập vào cho tới khi
“mò ra” được mật khẩu đúng… (quá trình này sẽ không bao giờ thực hiện
được… nếu làm bằng tay; tiếc thay với vận tốc nhiều tỉ phép tính trong một
giây thì một hệ thống máy (còn gọi là supper computer system) sẽ bẻ gãy hầu
như bất kì một mật khẩu thông thường nào nếu được chạy và thử liên tục
trong bảy đến mười ngày).
Mật khẩu cũng có thể bị “đọc” và đem đi chỗ khác đăng nhập.
3. Phân tích cội rễ của vấn đề:
- Trong thời gian mà thành viên của một hệ thống mật khẩu không đổi
giá trị thì “Mật khẩu là một giá trị hằng số tạm thời”. Và cũng vì nó là hằng số
trong một thời gian đủ rộng nên nó mới bị “mò” ra.
- Lực lượng tập hợp của các giá trị mật khẩu có thể dùng thì tối đa chỉ
tương đương với lượng tập hợp của các số tự.
- Trong thực tế thì các hằng số mật khẩu tạm thời thường không có giá
trị quá đặc biệt hay quá khó mò (đa số chỉ bao gồm các kí tự trong bảng kí tự
La-tinh… một số có thể có thêm vài chữ số nhưng cùng không giúp gì nhiều
trong việc chống tin tặc) - do đặc điểm này mà các mật khẩu có thể mò ra
càng nhanh hơn.
- Trường hợp xấu hơn là mật khẩu bị ăn cắp bởi người làm chung
(công nhân quét dọn hay cộng sự viên chẳng hạn) - do đặc điểm phân tích
được là: Mật khẩu bị ăn cắp sẽ được dùng đăng trên một máy khác với máy
của người chủ hợp pháp trong một thời gian sau khi đã bị “nhìn lén” lúc đăng
nhập.
Trên đây chỉ là bốn điểm yếu quan trọng.
4. Áp dụng tương tự hóa:
a. So sánh với hai câu trong kinh điển Phật giáo: “Vạn vật là vô thường”
(dịch nghĩa nôm na là tất cả mọi vật đều không giữ nguyên trạng thái của nó)
- và câu “Bất ưng trụ phát sinh tâm” (đại ý là đừng cố bám vào phật pháp như
là chỗ “trụ” cố định) có lẽ sẽ ngạc nhiên về cách “tương tự cưỡng bức kì quái
này” nhưng nó là phát khởi của phát minh. So với đối tượng là sự cố định tạm
thời của mật khẩu - ta đi đến một ý mới đó là mật khẩu biết tự thay đổi và
không là hằng số nữa. Như vậy rõ ràng là vấn đề sẽ hầu như được giải quyết
vì… máy có thể mò kiếm ra một hằng số dễ dàng chớ khó có thể kiếm ra mật
khẩu mà giá trị của nó bị thay đổi liên tục theo thời gian… Nghĩa là, nếu giá trị
gõ vào của mật khẩu là giá trị của một hàm F(t) của thời gian thì mọi việc sẽ
êm đẹp hơn nhiều (hãy so sánh việc này với trò chơi trốn tìm… và người trốn
liên tục thay đổi chỗ núp!!!). Hơn nữa một khi mật khẩu thay đổi theo thời gian
thì dẫu người xấu có đọc lóm được giá trị tạm thời của nó thì nó cũng sẽ
không thể dùng được trong một khoảng thời gian khác.
b. Vấn đề ở chỗ làm sao người chủ của mật khẩu biết được giá trị thay
đổi này để có thể đăng nhập? Câu trả lời không quá khó là người chủ sẽ định
nghĩa qui định thay đổi của mật khẩu (tức là người chủ sẽ tự định nghĩa của
hàm số mật khẩu theo thời gian mỗi lần thay đổi mật khẩu thì người chủ cũng
có thể đổi luôn hàm này).
c. Tuy nhiên như vậy bắt buộc người chủ mật khẩu phải biết…TOÁN.
Và hơn nữa người đó không được tiết lộ hay để hở cái hàm số mật khẩu mỗi
khi cài đặt mới.
Trên đây chỉ là những ý sơ khởi cho một hệ thống mật khẩu mới có khả
năng chống lại… việc “ăn cắp” mật khẩu có thể được dùng trong các hệ thống
chuyên nghiệp.
Trải nghiệm:
Theo bạn chiếc thuyền của loài người chúng ta được kết hợp từ đâu?
Một thân gỗ lớn và một chiếc lá bồng bềnh trên mặt nước. Bạn có nhận ra
mối liên hệ gì giữa một chú dơi và một chiếc máy ra-đa?
Bài tập:
- Hãy chọn một đồ vật (ví dụ: đôi dép) và hai mươi con vật. Lần lượt
“biến hóa” đồ vật sao cho giống từng con vật mà bạn đã liệt kê ra để có
những kiểu dép thật “độc”.
- Nếu “cưỡng bức” những thuộc tính của một ly nước cam cho một
quyển vở học trò, bạn sẽ cho ra những loại vở độc đáo nào?
5. Tư duy hàng ngang
Chúng ta được giáo dục theo lối tư duy tuyến tính hoặc theo phương
thẳng đứng, theo logic từ điểm này đến điểm kế tiếp cho đến khi đạt được
một kết quả hợp lý. Loại tư duy này mang tính phân tích, tuần tự, có chủ định;
trong tiến trình tư duy đó, nếu phát hiện ra điều gì không đúng lẽ chúng ta liền
dừng lại và chuyển qua một hướng khác, cứ lần lượt từng bước theo logic
cho đến khi nào có một kết hợp hợp lý. Nhưng có một cách tư duy khác do
Edward De Bono phổ biến gọi là tư duy độc đáo - còn gọi là tư duy theo chiều
ngang, tư duy xé rào. Theo cách tư duy này, con người sẽ tiến bằng từng cú
nhảy vọt chứ không nhất thiết phải theo đường dẫn logic, chúng ta có thể sử
dụng nhiều con đường không chính thống (có vẻ như không dẫn đến đâu cả)
để tìm ra kết luận bởi vì một giải pháp tốt nhất đều có ý nghĩa và do đó đều có
những con đường hợp lý đưa đến giải pháp ấy. Thực tế sau mọi diễn biến,
khi nghĩ lại chúng ta thấy rằng hầu hết các giải pháp đều hiển nhiên, thật khó
mà tưởng tượng rằng giải pháp lại xảy đến một cách logic. Đó là lối tư duy
độc đáo, còn gọi là tư duy theo hàng ngang hay tư duy xé rào.
Trải nghiệm:
Bạn có biết một khu phố được xây dựng trong lòng biển và thu hút hàng
triệu khách tham quan?
Bạn có biết tác phẩm điêu khắc trên hạt gạo được đấu giá hơn hai tỷ
đồng?
Bạn có biết ý tưởng kết nối tất cả mọi người trên toàn thế giới đã tạo
nên một trang “facebook” vô cùng đồ sộ?
Tất cả những y tưởng đó ban đầu đều là những ý tưởng điên rồ.
Bài tập:
- Làm cách nào để biến một tấm vải trở thành quần áo mà chỉ cần qua
một bước?
- Làm thế nào để bột, trứng, đường, sữa có thể biến thành bánh ngay
mà những bà nội trợ không cần phải pha trộn hay nhào nặn?
- Làm thế nào để mở đèn mà không cần bật công tắc?
- Làm sao để viết mà không cần đến giấy?
- Làm sao để ủi quần áo mà không cần đến bàn ủi và ghế ủi?
- Phải như thế nào để máy tính ghi lại được chữ mà không cần gõ bàn
phím?
Chương 4. BIẾN Ý TƯỞNG THÀNH HÀNH ĐỘNG
I. NHỮNG CẢN TRỞ TRONG VIỆC CHUYỂN Ý TƯỞNG THÀNH HÀNH ĐỘNG
Con người luôn có thể “sản sinh” ra những ý tưởng. Tuy nhiên, hành
trình đi tìm ý tưởng không phải dễ dàng theo kiểu có thể thực hiện được nếu
những ông chủ của ý tưởng cứ chần chừ và không biết chuyển ý tưởng thành
hành động. Việc cản trở ý tưởng chuyển thành hành động sẽ làm cho mọi vấn
đề sẽ trở nên phức tạp và đôi lúc ý tưởng chưa chắc được trở thành ý tưởng,
chứ đừng nói đến chuyện trở thành hành động.
Có thể đề cập đến những yếu tố hay những điều kiện sau có thể cản
trở quá trình chuyển ý tưởng thành hành động:
Thứ nhất, tâm lý lo sợ và mặc cảm là yếu tố đầu tiên cản trở việc xuất
hiện và thực thi những ý tưởng. Không ít người cảm nhận rằng mình đang có
một ý tưởng nhưng lo ngại rằng ý tưởng này sẽ bị phản đối hoặc ý tưởng này
sẽ không được chấp nhận. Từ đó, sự lo lắng sẽ đánh rơi những ý tưởng đang
được tượng hình. Ngay cả khi ý tưởng đã manh nha, cũng vì mặc cảm và
thiếu hẳn niềm tin, chính chủ thể sẽ để ý tưởng chết mòn trong vô vọng hoặc
thậm chí trở nên “trễ tràng” khi đã có một ý tưởng khác được soi sáng hay
bước ra ánh sáng. Cũng không thể không đề cập đến sự mặc cảm có thể làm
cho cá nhân giấu nhẹm ý tưởng mãi trong ký ức rất mông lung và mọi thứ trở
nên lãng phí khi ý tưởng ấy chưa bao giờ có cơ hội công bố và chủ thể cũng
không có niềm tin để biến nó thành sự thật hay một kết quả hữu hình bằng
hành động.
Thứ hai, sự đòi hỏi một cách quá chi tiết và đầy đủ về điều kiện xung
quanh để thực thi ý tưởng sẽ làm cho ý tưởng mãi mãi trở thành những thách
thức và rồi mọi thứ sẽ chìm vào quên lãng. Thông thường, khi có một ý tưởng
không ít người cứ than vãn rằng ý tưởng thì quá tốt nhưng điều kiện thực
hiện thì lại quá hạn chế nên khó có thể làm cho ý tưởng này tỏa sáng. Nhu
cầu chờ đợi và thói quen kiên nhẫn trong những trường hợp cụ thể lại thực
sự không có giá trị và mọi thứ sẽ trở nên “giậm chân tại chỗ”. Trong khi ý
tưởng mới sẽ có thể trở nên cũ và những ý tưởng cũng chỉ có một thời gian
nhất định đề tỏa sáng sẽ làm cho mọi thứ trở nên mất lửa nếu như ý tưởng
không được thực thi. Thế mới thấy việc mong chờ một cách đầy đủ và trọn
vẹn về những điều kiện để biến ý tưởng thành hành động xem chừng có vẻ
thiếu tính thực tế mà đôi lúc lại trở nên rất lãng phí…
Thứ ba, một vài đặc điểm về tâm lý của chính mình như không chấp
nhận cái mới, khó có thể thay đổi những thói quen cũ, những hành động quen
thuộc làm cho ý tưởng cũng chỉ tồn tại ở ý tưởng hoặc hành động tạo ra ý
tưởng bị nghẽn ở một điểm nào đó. Đấy có thể là một trong những đặc điểm
tâm lý làm cho hành động thực thi ý tưởng thiếu hẳn những động lực hay
những điểm đến an toàn. Thử hình dung rằng nhiều người trong chúng ta có
thói quen dùng một kiểu sản phẩm nào đó và dù không hài lòng về nó nhưng
việc thay đổi thì chính chúng ta cũng không muốn. Hay ngay cả khi biết rằng
sản phẩm mới đã cải tiến nhưng sự nghi ngờ vẫn xảy ra và những giả định
rằng không biết sản phẩm này thực sự có hiệu quả hay không sẽ làm cho khá
nhiều người đẩy quá trình biến ý tưởng thành hành động sẽ trở nên “chơi
vơi”. Ở một góc độ khác, cũng dễ dàng nhận ra rằng thói quen không chấp
nhận cái mới sẽ làm cho chính mình trở nên ì và việc tạo ra những cái mới dễ
dàng trở thành thách thức tối thượng và chính con người cũng không cảm
nhận cái mới một cách đúng nghĩa để sử dụng nó…
II. BIẾN Ý TƯỞNG THÀNH HÀNH ĐỘNGNhư đã nói ở trên, phải thu hết can đảm để nói với ai đó về ý tưởng của
mình. Và nếu nhận được sự mỉa mai khinh thường hãy cứ tiếp tục tiến tới.
Nhưng nếu ý tưởng của mình được ngợi khen thì sao? Hãy luôn sống chung
với những giả định tích cực thay vì cứ lặng lẽ gặm nhấm những kiểu tư duy
tiêu cực.
Chúng ta có ý tưởng, nên nói cho mọi người biết và mọi người đều
khen ngợi: “Ô, quá hay!” rồi họ lại làm công việc gì khác và không bao giờ đá
động đến cái ý tưởng tuyệt vời mà ta đề cập đến. Như vậy, dẫu kết quả chưa
như ý muốn nhưng chắc chắn đó là những tín hiệu tích cực. Câu nói “Ồ quá
hay?” đã đủ làm phần thưởng rồi. Nó mang đến một cảm giác ấm áp, dễ chịu
vì biết rằng mình đã nảy sinh ra một ý tưởng hay, rằng mọi người biết chúng
ta có khả năng tìm ra ý tưởng. Nhưng nếu sau đó không còn gì tiếp diễn nữa;
nếu ý tưởng không mang lại lợi ích cho ai; nếu nó không giúp ích thiết thực để
tiết kiệm, sửa chữa hoặc tạo ra điều gì; nếu nó không giúp cho điều gì đó tốt
hơn hoặc giải quyết vấn đề nào… thì thật ra nó hay là hay ở điểm nào?
Sự thật là: không có gì khác nhau giữa việc (a) nảy sinh ra ý tưởng rồi
không áp dụng nó với việc (b) không có ý tưởng nào cả. Vì vậy, nếu không dự
định làm gì cả sau khi phát sinh ý tưởng thì trước hết chúng ta đừng phát sinh
làm gì, chỉ phí thời gian và năng lượng mà thôi. Giữa (a) không nói ai biết về ý
tưởng của mình với (b) không để cho cái câu “ô quá hay!” là quá đủ, thì cũng
không có gì khác nhau. Vậy tại sao không hướng đến một lựa chọn tích cực
và có lợi cho mình trong cuộc sống?
Nếu có được ý tưởng, nên hứa với chính mình rằng sẽ thu hết can đảm
một lần nữa và thực hiện các bước tiếp theo. Sau đây là vài điều có ích cho
việc biến ý tưởng thành hành động:
1. Bắt đầu ngay lập tức
Để sáng hôm sau hay đến tuần tới thì nhiệt tình của chúng ta tăng hay
giảm? Vậy còn chờ làm gì? Càng có nhiệt tình càng tốt. Hơn nữa, nếu làm
việc gì mà còn chần chờ thì luôn sai. Tiến hành ngay lúc này, thời điểm này.
Mỗi khi ta phá vỡ được sức ì và làm nó chuyển động, sẽ giúp cho ý tưởng có
sức sống riêng và bắt đầu tiến vào những lĩnh vực mà ta chưa bao giờ ngờ
có thể áp dụng.
Ý tưởng sẽ tạo ra cơ hội, lăn qua rào cản, vượt lên trên trở ngại và áp
đảo logic để trở thành một sự thật được hành động có đích đến bằng sự
quyết tâm. Việc bắt đầu ngay lập tức sẽ đem đến một nguồn lực có sức mạnh
vô biên, khơi gợi những đam mê của chính bạn cũng như mọi nỗ lực của bạn
được phát huy một cách tối đa. Lẽ dĩ nhiên bắt đầu ngay không hẳn là không
có sự chuẩn bị hay đó là sự vội vã mà tất cả đều được hết lòng bằng những
đáp ứng kỹ thuật và nhận thức nghiêm túc.
2. Hành động và tránh tiếc nuối
Nếu không dấn thân vào việc ứng dụng ý tưởng của mình thì chỉ vài
tuần hay vài tháng sau, sẽ dễ dàng tiếc nuối khi nhìn lại và tự nhủ rằng “Phải
chi mình làm phứt nó đi cho rồi”. Một trong những cách dấn thân hay nhất là
đầu tư thời gian, đầu tư tiền bạc và đầu tư công sức để ứng dụng ý tưởng.
Đó là sự dấn thân. Và dấn thân tạo ra hành động.
Việc làm ngay không đồng nghĩa với sự hấp tấp hay “điếc không sợ
súng”. Vấn đề là ở điểm trong suy nghĩ của con người đã hướng đến một sự
lựa chọn mà trong ló có sự tham gia chặt chẽ của ý thức thì con người luôn
có thể hướng đến sự quyết tâm khi thực hiện ngay lập tức. Nó sẽ tránh khỏi
những căng thẳng không đáng có hay sự cân nhắc quá đáng để làm mọi thứ
trở nên rối tung và phức tạp. Điều đó vẫn đảm bảo ý tưởng được hành động
một cách hiệu quả và có ích.
3. Quản lý thời gian và đặt ra thời hạn
Nếu biết rằng mình buộc phải làm thì ta sẽ rất ngạc nhiên về kết quả
công việc. Những giả định về con người sáng tạo là được quyền tự do, được
thoải mái về tâm lý. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là người chuyển ý
tưởng thành hành động không bị áp chế về mặt thời gian. Mỗi người cần
quản lý khung thời gian mình đang có để sáng tạo. Trong khoảng thời gian chỉ
có 24 giờ hay 7 ngày trong tuần và trên dưới 30 ngày trong tháng, người sáng
tạo muốn tạo thành sản phẩm thì hãy hết lòng với khoảng thời gian mình
đang có và luôn đặt cho mình thời hạn hoàn thành theo hướng càng sớm
càng tốt hay càng ngắn càng hay.
Việc đặt ra thời gian hoàn thành đó là một thói quen rất tích cực của
con người trong cuộc sống. Nó liên quan đến kỹ năng quản lý thời gian nhưng
đồng thời nó cũng thúc đẩy con người biết làm việc có kế hoạch và việc thực
thi ý tưởng sáng tạo sẽ được giải quyết bằng những hành động rốt ráo, quyết
chí, quyết tâm. Đó cũng chính là một kỹ năng khá phổ biến của người làm
việc chuyên nghiệp mà người sáng tạo chuyên nghiệp không phải là ngoại lệ.
4. Tuần tự và nghiêm túc hành động với ý tưởng
Nếu phải ứng dụng ý tưởng, hãy lập ra một danh sách những gì cần
phải làm và mỗi ngày hãy thực hiện ít nhất một việc trong danh sách đó. Có
thể bạn sẽ vất vả khi sở hữu quá nhiều ý tưởng nhưng mọi thứ đều có thể
giải quyết nếu chính bạn quyết tâm và thực hiện rốt ráo cho từng ý tướng.
Không ai phủ nhận những ý tưởng rộng rãi và phong phú của bạn. Với
những trường hợp bạn cảm thấy “quá khớp” bởi vì ý tưởng vượt ra ngoài lĩnh
vực chuyên môn của mình, hãy đến thư viện tìm đọc sách hữu quan hoặc hỏi
người khác, hoặc theo học một khóa chuyên ngành. Mỗi cá nhân có thể gia
tăng sự tự tin của mình về ý tưởng đang hành động ấy bằng nhiều nguồn
thông tin sao cho thật lý thú và hấp dẫn.
Mỗi ngày, hãy làm điều gì đó liên quan đến ý tưởng của mình. Mở máy
vi tính, mở sổ ghi chép và hãy làm một điều gì đó. Mỗi ngày, mỗi ngày và
ngay cả dù chỉ để mở ra xem lại những gì ngày hôm qua đã làm, cũng cứ mở
ra. Đến cuối tháng, ta sẽ ngạc nhiên trước lượng công việc đã thực hiện. Và
đến cuối năm thì chúng ta sẽ sững sờ vì những đóng góp và những thành
phẩm mà mình có được.
5. Hãy chuyển giao nếu có thể
Có đôi lúc bạn phải đặt câu hỏi và tự trả lời rằng bạn thực sự tin vào ý
tưởng của mình không? Câu hỏi sẽ được bạn trả lời một cách mạnh mẽ. Vậy
tại sao lại để cho người khác chỉ suy nghĩ và gia công chúng chừng một phần
mười công sức bỏ ra, tại sao lại để họ cản trở mình? Tiến công đi chứ và
bằng hết sức mình, bạn sẽ thành công một cách đúng nghĩa.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp bạn cảm thấy chính bản thân
bạn không quyết chí hành động với ý tưởng ấy bạn vẫn có thể hành động mới
với ý tưởng ấy bằng cách chuyển giao. Đừng lo lắng vì đó là cách hành động
cũng có ý nghĩa với đứa con tinh thần của bạn. Hãy cho đứa con ấy lớn lên
bằng hành động này hay hành động khác nhưng tất cả đều phải thực sự hữu
ích với chúng.
6. Học chữ nhẫn
Ai ai cũng có chuyện để kể về việc tìm ra ý tưởng của mình cho một dự
định đầu tư hoặc cho một sản phẩm mới, hoặc cho một dịch vụ mới, hoặc một
chương trình khuyến mãi, hoặc một cơ hội cho… nhưng tiếc thay họ lại không
bao giờ làm nên điều gì với ý tưởng đó mà đôi khi còn để người khác “đánh
cắp” mất ý tưởng để làm giàu từ đó. Chắc chắn là ta đã từng biết và từng
nghe về những chuyện như thế.
Những ý tưởng vụt mất tầm tay hoặc những hành động bị ngưng trệ chỉ
vì nhiều người thiếu hẳn chữ nhẫn. Sự kiên trì và hết lòng về những gì cần
đạt được sẽ đạt được thông qua hành động. Chữ nhẫn làm cho người sáng
tạo quyết tâm hành động. Chữ nhẫn làm cho người chuyển từ ý tưởng sáng
tạo sang hành động biết kiên trì và không bi quan trước những thách thức và
những áp lực nảy sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Dương Xuân Bảo, Hãy vượt qua tính ì tâm lý, NXB GD, 2006.
2. Dương Xuân Bảo, Những mẩu chuyện về phương pháp luận sáng
tạo, NXB GD, 2006.
3. Phan Dũng, Phương pháp luận tư duy sáng tạo, NXB TP HCM 1998.
4. Jack Foster, Bí quyết sáng tạo, Nguyễn Minh Hoàng (biên dịch), NXB
Trẻ, 2005.
5. Trần Kiều (chủ biên), Trí tuệ và đo lường trí tuệ, NXB CTQG, 2005.
6. Lê Nguyên Long, Hãy trở thành người thông minh tài trí, NXB GD,
2006 (tái bản).
7. Michael Michalko, Đột phá sức sáng tạo - Bí mật của những thiên tài
sáng tạo, NXB Tri thức, 2006.
8. Nhóm Eureka, Bốn mươi thủ thuật sáng tạo, NXB Trẻ, 2007.
9. Huỳnh Văn Sơn và nhiều tác giả, Phương pháp tổ chức giáo dục -
Tư duy sáng tạo, Trường Đoàn Lý Tự Trọng, 2004.
10. Huỳnh Văn Sơn, Đề cương bài giảng Tâm lý học sáng tạo 2004.
11. Huỳnh Văn Sơn, Giáo trình Tâm lý học sáng tạo, NXB GD, 2009.
12. Nguyễn Huy Tú, Giáo trình Tâm lý học sáng tạo, Viện KHGD, 2000.
13. Nguyễn Huy Tú, Tài năng - quan niệm, nhận dạng và đào tạo, NXB
GD, 2004.
14. Nguyễn Hữu Thụ, Tâm lý học tuyên truyền quảng cáo, NXB
ĐHQGHN, 2006.
15. Trần Trọng Thủy, Khoa học chẩn đoán tâm lý, NXB GD, 1992.
16. Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Văn Lê, Châu An (2005) Khơi dậy tiềm
năng sáng tạo, NXB GD.
17. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Tâm lý học đại cương, NXB ĐHSP
HN, 1999.
18. Đức Uy, Tâm lý học sáng tạo, NXB Giáo dục, 1999.
19. Dorothy Cohen, Advertising, Hofstra University, 1988.
20. Guilford J. P, Creatzve American Psychologist, 1950.
21. Getzels. J anhJackson. P, Creativity and inteligence: Explorations
with gifted student, NewYork, 1962.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương 1 - Thế nào là một ý tưởng?
I. Ý tưởng và ý tưởng sáng tạo
II. Sức mạnh của ý tưởng
III. Ngọn nguồn của ý tưởng
Chương 2 - Điều kiện để ý tưởng ươm mầm
I. Điều kiện đề ý tưởng ươm mầm
II. Một số điều kiện để ý tưởng được phát kiến
Chương 3 - Các con đường đi tìm ý tưởng
I. Những con đường sáng tạo ý tưởng bằng hình ảnh
II. Những con đường sáng tạo ý tưởng bằng sự kích hoạt
III. Những con đường sáng tạo ý tưởng bằng sự chế biến
IV. Những con đường sáng tạo ý tưởng toàn phần
Chương 4 - Biến ý tưởng thành hành động
I. Những cản trở trong việc chuyển ý tưởng thành hành động
II. Biến ý tưởng thành hành động
Tài liệu tham khảo
---//---
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM Ý TƯỞNG SÁNG TẠO
Tác giả:
TS. HUỲNH VĂN SƠN (Chủ biên)
NGUYỄN HOÀNG KHẮC HIẾU
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
280 An Dương Vương, Quận 5, TP. HCM
Điện thoại: (08) 66515869; Fax: (08) 39381382
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng biên tập: TS. NGUYỄN THÁI SƠN
Biên tập nội dung: ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân
Trình bày bìa: Lê Minh Triết
Sửa bản in: Bùi Văn Hải
Kỹ thuật vi tính: Lê Nguyên Huấn
In 500 cuốn khổ 14x20 cm tại Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí
Minh. Số đăng ký kế hoạch xuất bản 371-2010/CXB/02- 06/ĐHSPHCM. Quyết
định xuất bản số 49-QĐ/NXBĐHSP TPHCM cấp ngày 02 tháng 06 năm 2010.
In xong và nộp lưu chiểu Quý II năm 2010.