Đặc san Đại hội 15

151

Upload: dangthuy

Post on 28-Jan-2017

239 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Ban Tổ Chức Đại Hội OCS 15 Washington DC Ngày 6 – 9 Tháng 4, 2016

Điều hợp chương trình : Lý Thy Dân (703) 362 9425 Thủ quỹ : Lê Tế Đô (757) 593 7862 Đặc san - Báo chí : Võ Anh Tuấn (310) 266 2390 Văn nghệ : – Chị Đàm Văn Xin (248) 894 2377 – Chị Đoàn Đình Thủy (514) 400 7665 – Chị Trương Trọng Thắng (310) 995 2495 Du lịch : – Nguyễn Hồng Quang (240) 281 0322 – Trần Quan (410) 544 4118 – Đỗ Anh Tuấn (617) 506 8590 Ẩm thực - Tiếp tân : – Phan Văn Quang (703) 314 2327 – Quý Nguyện (202) 256 3751 – Nguyễn Quang Lãm (717) 898 3256

2

Nghi lễ - Trang trí : – Nguyễn Trần Đàm (832) 606 7733 – Võ Thành Châu (717) 304 3250 – Nguyễn Minh Phụng (571) 431 8277 Nhiếp ảnh : – Nguyễn Nhàn (856) 366 3335 – Nguyễn văn Sô (703) 508 5324 Giao tế : – Hà Văn Hải (617) 653 3633 – Nguyễn Trọng Quýnh (770) 676 7371 Website design : – Tạ Quốc Quang – Nguyễn Kiên Trung

3

Chủ Biên : Võ Anh Tuấn Biên Tập : Gia Đình OCS Trình bày & layout : Vũ Hoàng Thư Hình Bìa : Võ Kỳ Văn Thực hiện và phát hành: Ban Tổ Chức Đại Hội OCS 15

Quý Bạn OCS và Gia Đình thân mến, Mùa Xuân và hoa Anh Đào! Thanh khiết hồng và nhẹ như tơ, ngàn hoa đùa trong gió đang vẫy tay chào đón Gia Đình Hải Quân Trần Hưng Đạo OCS về họp mặt ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn kỳ Đại Hội thứ 15. Đã bao giờ bạn lắng nghe tiếng hoa đào bung cánh trong gió xuân, thầm thì với đất trời về một mùa mới đang rạng rỡ về? Hoa đào Yoshino vốn là hồn thiêng của tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản. Kiếm sĩ ra tay thế thiên hành đạo, bảo vệ cho bá tánh an cư lạc nghiệp. Hơn bốn mươi năm trước, anh em chúng mình đã lang bạt tận cùng sông lạch, biển cả nộ cuồng không nan cũng không ngoài mục đích bảo vệ hai chữ Tự Do cho đồng bào ruột thịt. Chúng ta đã sống hùng và đẹp, không kém phần lãng mạn trong tinh thần kiếm đạo, gánh vác bổn phận và trách nhiệm đối với quê hương. Đẹp như những cánh hoa đào hôm nay. Đẹp như những đoạn đường chiến chinh và những mộng lớn hải hồ thuở trước. Bạn hỡi, hơn 40 năm trước ai ngờ được sẽ có một ngày hiện tại, bạn hữu và gia đình OCS chúng ta quay quần dưới những gốc Anh Đào cùng nhau ôn lại một quãng đời đã qua. Những kỷ niệm chưa nhòa cùng năm tháng, những bạn bè kẻ mất kẻ còn, và biết bao nhiêu nước chảy qua cầu…Vâng đã có một thời như thế ! Tờ Đặc san bạn đang lật từng trang trước mặt là chứng tích của tình chiến hữu vẫn mãi mãi keo sơn theo cùng tuế nguyệt. Xin hoan nghênh và chào mừng sự hiện diện đông đủ của Quý Bạn và Đại Gia Đình OCS. Đại hội OCS 15 còn là một dịp hiếm có đặc biệt nhất từ trước đến nay trong lịch sử họp mặt của Gia Đình OCS Trần Hưng Đạo. Đây là lần đầu tiên tập thề anh em chúng ta sẽ cùng nhau đội ngũ về thăm lại quân trường OCS. Về Lại Trường Xưa ! Chỉ cần ý nghĩ đó chạy qua đầu đã thấy mạch xương sống chạy rần từng tia điện kích động nổi sôi. Newport ngập lá vàng ngày đó, King Hall trắng tuyết mờ nhân ảnh dáng em, cầu treo lơ lửng bên bờ vịnh như chứng tích của những nỗi nhớ về bên kia bờ đại dương của một thời dấu yêu. Ký ức sẽ ùa về giông bão … Thật nức lòng và phấn chấn phải không Quý Bạn ? Chắc chắn rồi, Nắng Xuân sẽ đơm nồng Hội Ngộ và Anh Đào sẽ ướm mật Liên Hoan. Xin Chào Mừng Quý Bạn và Gia Đình đến Mùa Hoa Đào Washington DC, Đại Hội OCS thứ XV. Ước mong đây là một Đại Hội đáng nhớ nhất đối với Quý Bạn và Gia Đình. Võ Anh Tuấn Chủ Biên Đặc san Đại Hội OCS 15.

4

Bạn mến; Làn gió nhẹ từ Tây Bắc thổi về, kéo theo những đám mây trắng mỏng dàn trải trên bầu trời xanh. Nắng đang lên nhưng vẫn chưa đủ ấm để giúp vạn vật hồi sinh. Trước sân nhà, bóng dáng lũ chim vành khuyên chuyền cành tìm ăn trên mấy cây phong đang đâm chồi nẩy lộc. Buổi sáng, trên đám cỏ xanh, lớp sương long lanh dưới ánh nắng hanh vàng đầu mùa. Trong mảnh vườn nhỏ, mầm xanh non của mấy bụi hoa bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất màu nâu đen còn đẫm ướt. Nghe như đâu đây bước chân mùa Xuân đang trở về với thủ đô Washington. Mùa xuân không còn lãng đãng phía chân trời mà ngay ở đây, bên tôi. Vâng mùa xuân đã về. Ừ ! Mùa xuân đã về…. Rừng hoa đào Yoshino tại thủ đô Hoa thịnh Đốn đang nẩy lộc cùng những búp hoa mụ mẫm trên cành, báo hiệu ngày họp mặt Gia đình Hải quân Trần hưng Đạo OCS đang tới gần trước mặt, là người nhận lãnh việc tổ chức ĐH – XV , tôi có ý tưởng viết thư ngỏ gửi đến quý OCers & Gia đình tham dự đại hội để bày tõ sự cảm kích của BTC và của riêng tôi, nhưng tôi chuyển ý, và muốn viết gửi đến bạn những tâm tình của tôi đối với GĐ/HQ Trần hưng Đạo OCS. Ừ ! Nếu là tâm tình thì viết gì đây nhỉ ? Vào cái tuổi bước vào thất tuần thì mùa Xuân đến hay đi cũng chẳng còn đem lại những cảm xúc như thời trai trẻ. Thư cho bạn, tôi không dựa vào một nguyên tắc hay ước lệ nào. Không có nhập đề hay kết luận. Trái lại; thư gửi bạn; tôi chỉ dựa vào những ý tưởng chợt đến qua ly trà, cốc cà phê buổi sáng, hay cùng với ly rượu cô đơn trong buổi chiều hôm.

5

Mặc dù; thư cho bạn bằng những ký ức đã thật sự nhạt nhòa, đã thật sự phôi pha gầy guộc. Nhưng bạn ơi; những ký ức đó; sao vẫn còn đủ cảm xúc để đưa tôi nhớ về bến bờ xưa cũ. Về nơi chốn mà chúng ta gọi là quê hương. Quê hương !!! Lặng im nghe bạn ! Vâng, thật lặng im để nghe được những cơn gió nhẹ sáng sớm chiều hôm mơn man trên đám mạ non xanh mướt. Nhẹ nhàng và thật nhẹ nhàng đừng làm lay động hương đêm đang ướp đậm hoa bắp , hoa bưởi đi vào khứu giác, tràn ngập tim óc cho mạch máu thêm căng tròn un đúc tinh thần Việt. Bạn ơi, cho dù đã tuổi già bóng xế, nhưng làm sao quên được “tiếng dế mèn nỉ non trong đêm” của một thời ấu thơ. Cùng những buổi trưa hè; bên kia sông; vọng lại “ tiếng gà trưa gáy não nùng”. Về với những chuyến hải hành, đứng trên đài chỉ huy nhìn con tàu phủ chụp bởi sóng bạc đầu. Về những đêm giang hành, mà mỗi khi băng ngang qua những hàng đáy cá treo đèn là mỗi lần chờ đợi ánh lửa xanh phụt ra từ B-40. Thư này đến với bạn đúng vào dịp họp mặt của Gia đình HQ Trần hưng Đạo OCS, đây cũng là lần thứ hai, chúng ta hội ngộ tại Thủ đô Hoa thịnh Đốn, và lần này lại đúng vào hội hoa đào. Thủ đô Hoa thịnh Đốn đang trở mình mặc áo mùa Xuân. Cùng với trời đất đổi thay, dòng sông Potomac được điểm trang với áo hoa đào Yoshino diễm lệ . Mặc dù còn mang hơi gió se se lạnh mùa đông; vào đầu tháng Tư; Thủ đô Hoa thịnh Đốn vẫn có nắng ấm lên cao, bầu trời trong xanh, cùng ngàn ngàn cách hoa đào bay bay trong gió, đem đến cho du khách cảm tưởng như đang từng bước trong đám mây hồng. Bạn mến; Vâng; hôm nay là ngày hội ngộ của những cánh hải âu, ngày đoàn tụ của Gia đình HQ Trần Hưng Đạo OCS. Cũng như những lần trước, về đây được sống lại những niềm vui tràn bờ. Về đây để được thấy những mái tóc thật sự đã ngả màu sương. Về đây, chúng ta bắt gặp những đôi mắt bằng hữu đã vẩn đục bởi những vui buồn viễn xứ. Và bạn ơi ; về đây chúng ta như được ngụp lặn trong dòng sông cũ, dòng sông đã đưa chúng ta đi khắp mọi nẻo sông hồ quê hương. Hơn bốn mươi năm trước, chuyến hải hành nào đưa ta ngược Bắc xuôi Nam. Đêm trăng về; biển quê hương lung linh huyền ảo ; chiến hạm bồng bềnh và xa xa là những hải đảo sương mù vây phủ. Điếu thuốc lá ly cà phê nguội lạnh cũng đủ cho ta “Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai…” và “Thoáng hiện em về trong đáy cốc…”, rồi tâm trí ta lãng đãng quay về phố thị. Ở đó; mỗi khi về phép; có cô bé răng khểnh đợi chờ, e ấp dạo phố cùng ta. Bạn mến; Những cô bé e ấp ngày xưa đang có mặt với chúng ta hôm nay, và như ngày xưa, họ vẫn là những đoá hoa thơm mát cuộc đời, vẫn mãi là bến bờ hạnh phúc ngất ngây cho mỗi một gia đình chúng ta. Cô bé ngày xưa đến đây với một tâm hồn bình dị hòa đồng, hòa hợp với nhau. Những người vợ OC đã trở thành yếu tố quyết định cho việc tổ chức và sự thành công những ngày họp mặt GĐ/HQ Trần hưng Đạo

6

OCS, và tôi cũng tin rằng. Chính họ; những người vợ; sẽ là những kết nối thân ái cho tất cả anh em OC chúng ta. Bạn mến; Đêm Năm Căn muỗi bay lớp lớp. Buổi sáng; chiếc PCF-3935 theo hải trình tuần tiểu; ra khỏi cửa Bồ Đề lên Gành Hào, rồi quay trở lại băng qua Hòn Khoai, vòng mũi Cà Mâu theo hướng Bắc về sông Ông Đốc, hòn Đá bạc. Ừ nhỉ ! Chuyến hải hành nào đã đưa chúng ta đến với bến bờ yêu dấu quê hương. Quê hương mà chúng ta đang suy niệm là nơi dòng Lạc Việt đã dựng nước, giữ nước bằng máu xương hàng ngàn thế hệ góp lại, bằng chính lòng yêu nước, tình tự dân tộc mà tôi xin được gọi là Chủ nghĩa Lạc Việt. Chính là nhờ biết vận động, phát triển và dựa vào Chủ nghĩa Lạc Việt làm nền tảng, nên dân tộc Việt đã bao lần quật cường đánh bại tất cả các cuộc xâm lăng bảo vệ nền độc lập tự chủ. Bạn mến; Như trên tôi đã nói. Gặp nhau lần này; chúng ta ắt hẳn cũng nhận ra nhiều đổi thay, từ thể chất đến tinh thần. Tóc bạc nhiều hơn, đi đứng chậm chạp hơn. Nhưng tâm hồn Việt, đạo lý Việt không cho phép chúng ta dừng lại an nghĩ, mà phải đối diện với tương lai của thế hệ cháu con. Vun bồi xây dựng cho thế hệ mới, cho tương lai mới. Một thế hệ mới có trách nhiệm làm hiển vinh nòi giống Việt, một thế hệ có tâm hồn khoáng đạt vị tha. Một thế hệ biết yêu thương đùm bọc , không biết oán ghét ích kỷ. Một thế hệ vị tha khiêm tốn không biết đố kỵ kiêu căng. Một thế hệ biết hàn gắn xây dựng, không biết gây ra đổ vỡ tàn phá. Một thế mới luôn biết học hỏi cầu tiến không biết tự mãn hẹp hòi. Này Bạn ta ơi; Hãy cạn một ly mừng ngày họp mặt, mừng sức khỏe của bạn của tôi. Hãy cạn một ly để tưởng như bạn và tôi đang bềnh bồng phiêu bạc trở lại bến bờ yêu dấu, tìm dấu chân của chàng thủy thủ trẻ còn in trên hải đảo. Cầu chúc bạn và gia đình có những ngày họp mặt vui vẻ thoải mái, đi thăm thật nhiều nổi tiếng tại thủ đô của một đất nước, mà lịch sử đã một lần gắn liền nổi vinh nhục của họ với quê hương thống khổ chúng ta Việt nam. Việt Dân 1/ 2016

7

SAIGON, nơi những quán cà phê

*Tặng thổ mộ Phú Thọ, chuyến thủy táng mặt trời. những ngày SAIGON ngậm cười nơi những quán cà phê bật khóc những ngày rã rời cô độc trong mịt mù khói thuốc em bước lên tìm kiếm mặt trời những ngày SAIGON chơi vơi Phú Thọ quàng vai phố thức những quán cà phê ngập ngụa dưới mưa có cái quán cà phê tiền kiếp năm xưa mời anh ngồi gõ nhịp theo tiếng hát Thiên Trang rớt xuống đáy ly những ngày SAIGON chia ly những quán cà phê ray rức ngụm cà phê sướt mướt trên môi em đẫm ướt giọt mưa đêm anh biết mùa tình lỡ làng vội đánh mất những điều chưa thể mất

những ngày SAIGON hòa bình bên thương tích chiến tranh la liệt trong những quán cà phê oan nghiệt ngụm cà phê tiết liệt vẫn dành cho anh giữa chốn đông người Phú Thọ-SAIGON thổ mộ một thời chuyến cuối cùng đưa mặt trời thủy táng những ngày SAIGON choáng váng dấu dép anh mòn nhẵn con đường những ngày Phú Thọ tai ương quán cà phê gục đầu khóa cửa ôi từng hàng cây trang lứa không còn em trụi lá lẻ loi. PHẠM HỒNG ÂN (Hiên Thư Các, mưa 16/09/2015)

8

Phan Thái Yên Hiroshi đưa Nữ sang Tokyo thăm mẹ. Chuyến đi anh đã mong mỏi từ lâu. Họ rời Sài Gòn lúc nửa khuya. Chuyến bay thâu đêm đưa hai người xuống phi trường Narita lúc mặt trời vừa hừng lên sau lớp phố cao. Buổi sáng mùa Xuân trời trong xanh hứa hẹn một ngày vui. Âm thanh rầm rập từ đoàn tàu điện uốn vòng chừng như đang lướt lửng lơ trên nóc hàng anh đào đầy chớm nụ hồng khiến Nữ nao vui quên cả suốt đêm qua gần như không ngủ. Hiroshi kéo hành lý đến bên Nữ. – Anh vừa nói chuyện với mẹ. Bà muốn ra đón em ngay ở bến tàu điện Toshima. Hiroshi lắc đầu nhìn Nữ làm ra vẻ ganh tức. – Bà chỉ hỏi thăm em mà không thèm nhắc tới con trai một tiếng nào… Em tươi tắn như thế chắc là đã hết mệt sau chuyến bay. Nữ gật đầu tươi cười. – Ý nghĩ được đến xứ mặt trời mọc vào lúc mặt trời vừa mọc làm em vui quá. Hiroshi kéo tay Nữ chỉ về phía chân trời. Ngọn núi phủ tuyết trắng phau trồi lên đơn độc uy nghi trên nền trời xanh không một vẩn mây. Nữ khích động reo tên ngọn Phú Sĩ, một trong ba thánh sơn của xứ Phù Tang.

– Phải đó em. Fujisan! Vài ngày tới mình thăm núi, em sẽ có dịp chiêm ngưỡng Thái Dương Thần Nữ vào buổi sáng. Hai chuyến tàu điện nối nhau dài hơn tiếng đồng hồ thả họ xuống ga Toshima. Khu phố cổ yên vắng, leng keng tiếng tàu điện chạy trên đường. Bầy chim đậu nhấp nhô như dãy nốt nhạc lắt lay trên hàng dây điện. Xứ lạ. Ngôi nhà lạ. Mẹ của Hiroshi nàng chưa gặp bao giờ. Nữ níu áo anh, rụt rè bước xuống lòng đường. Ký ức xa xưa vụt trở về, loáng thoáng bước chân bé nhỏ rón rén bước ra khỏi giấc ngủ trưa, liêu xiêu bóng nắng trải cong theo vách phố rêu phong. Có điều gì như quen thuộc lắm đang sẹ bước vào hồn. Nữ kính cẩn cúi chào người đàn bà đang hiền hậu nhìn nàng sau mái tóc bạc muối tiêu cắt ngắn. Nếu Hiroshi không chào mẹ trước có lẽ Nữ không thể nào ngờ được. Bà đẹp quý phái trong chiếc áo dài Việt bằng gấm thêu xanh và khăn san tiệp màu. – Chào cháu. Cháu đi đường có mệt lắm không? Nữ như muốn qụy xuống vì kinh ngạc. Mẹ Hiroshi mặc áo dài Việt nam, nói tiếng Việt đặc sệt giọng Huế. Nữ cuống quít bật khóc, nhìn Hiroshi trách móc. Bà mẹ cười đôn hậu.

9

– Tôi là Mitzuki. Cháu cứ gọi là dì Mitzuki, hay là dì Nguyệt cũng được. Không phải lỗi của Hiroshi mô. Tại dì biểu Taro phải giấu cho tới lúc cháu tới Tokyo. Taro lái xe đi con. Để hai dì cháu ngồi sau nói chuyện. Nữ nhìn Hiroshi hăm he. – Tên Taro của anh, em cũng chưa hề nghe anh nhắc tới bao giờ. Nhớ nghe! Em có lý do không cho anh biết ‘nickname’ của em rồi đó. Mẹ Hiroshi hóm hỉnh. – Giữa đàn bà với nhau, cháu cho dì biết được mà!? Mình nói bằng tiếng Việt, Taro không biết mô. Nữ nhìn dì Mitzuki. Mối tình thân nở ra từ một quyến luyến không ngờ. Nữ vén chiếc váy dài, nghiêng người nói thầm vào tai dì Mitzuki. – Ngày trước, ở nhà ai cũng gọi cháu là “Nữ chân voi”. Bà thích thú cười nhìn đôi chân Nữ hé lộ dưới lằn vải. – “Zou san” (Cô voi) này còn bé mà. Nhưng mà dì rất thích nhìn dáng đi đủng đỉnh của voi. Từ tốn, quý phái. Hiroshi sốt ruột nghe hai người đàn bà thì thầm cười nói, anh hỏi vọng xuống. – Mẹ đang nói xấu gì về con đó. – Không đâu. Mẹ sắp kể cho Nữ nghe câu chuyện dân gian Momotaro, lai lịch về cái tên Taro của con đó thôi. Nữ lắng nghe giọng kể chuyện lôi cuốn của dì Mitzuki về ‘thằng bé trái đào’ (momotaro). – Dì rất thích chuyện momotaro, nên khi có Hiroshi là dì đặt ngay biệt danh này cho con. Việt Nam có câu chuyện dân gian nào như momotaro không cháu? – Dạ, chuyện Phù Đổng Thiên Vương cũng gần gần như vậy. Nhưng có lẽ vì ách đô hộ thống trị của Tàu quá nặng nề, lâu dài nên dân gian Việt đã mong mỏi nhiều hơn. Thằng bé trong chuyện Phù Đổng Thiên Vương chỉ trong giây lát vươn vai thành tướng giỏi, cởi ngựa sắt vung gươm đánh đuổi quân xâm lược Bắc phương ra khỏi

bờ cõi… Còn tên Nguyệt của dì từ đâu mà có rứa? – Cô này nôn nóng quá, không chờ được cho tới khi về nhà… Dì Mitzuki cười. Suốt đời bà Mitzuki làm việc, dạy học ở viện ngoại ngữ trường đại học Waseda nhưng thời gian mấy năm đầu thập niên bảy mươi vẫn luôn làm bà xúc động mỗi khi nhớ tới. Tin một cô gái Việt Nam là công nương của hoàng triều cũ đến Waseda theo học chương trình cao học về văn hóa và ngôn ngữ Nhật Bản khiến nhiều người bàn tán xôn xao, đặc biệt là những người có biết về mối quan hệ giữa truờng đại học với một hoàng thân triều Nguyễn sống lưu vong ở Tokyo từ những năm đầu thế kỷ hai mươi. Bà Mitzuki có duyên tương ngộ rồi thành bạn thân với cô gái có nét đẹp đài trang của một công chúa tuy đang sống đời dân dã. Cảm tình về một đất nước Việt Nam luôn gần gụi trong tâm tưởng đã giúp Mitzuki chú tâm nhiều trong lúc học tiếng Việt từ cô bạn Shiori của mình. Trong một lần tra cứu ý nghĩa về tên họ người Nhật và Việt Nam, Shiori đã trở thành tên gọi của nàng công chúa Quỳnh Thi. Mitzuki thì thương ngay cái tên Nguyệt, thương luôn câu hát Shiori đã hát cho nghe. Bà Mitzuki luôn nhớ tới cảm giác thích thú khi biết ra câu hát cũng từ người nhạc sĩ tài hoa viết bài Utsukushii mukashi (Diễm xưa - TCS). Nữ xúc động sửng sờ nghe dì Mitzuki thì thầm câu hát. “Từ khi trăng là Nguyệt…”, tiếng “Nguyệt” từ môi bà nghe Huế quá, thương quá. – Dì Nguyệt nhớ hoài câu nói của Shiori. Cô ấy nói khi mô dì Nguyệt thấu được ý nghĩa lời ca của bài hát này thì lúc đó dì mới thật sự giỏi tiếng Việt. – Rứa dì đã hiểu hết bài Nguyệt ca chưa. Dì Mitzuki lắc đầu. Bà thuộc nằm lòng cả ba mươi hai câu của bài hát, mà thấu hiểu thì chưa. Sau ba mươi năm bà vẫn giữ cho mình nửa câu ca “Từ khi trăng là Nguyệt…” và một nỗi buồn. Shiori trở về Việt Nam, lấy chồng là phi công bị tử trận. Mẹ và con nhỏ vượt biển lánh nạn Cọng

10

sản, tàu chìm mất tích đã hơn phần tư thế kỷ. Dì Mitzuki thở dài… Mỗi chúng ta ai cũng chờ đợi, tìm kiếm về những mất mát trong đời và nỗi hoài mong. Một nửa câu thơ, một nửa đời, một nửa quê hương mất còn thất lạc. Nữ bước qua khoảng sân có nhiều cây kiểng cắt tỉa công phu. Kiến trúc ngôi nhà quen thuộc gần gủi với nhà cổ Nhật ở Hội An làm Nữ có cảm giác như đứa con đi xa trở về. Dì Mitzuki trịnh trọng đốt trầm trên bàn thờ rồi thắp nhang trao cho con trai cúng lạy gia tiên. Nữ đứng khấn vái theo Hiroshi. Lung linh sau hương khói những ánh mắt thỏm sâu quá khứ nghiêm nghị nhìn nàng. Bà Mitzuki ấp ủ nỗi vui từ lúc Hiroshi cho biết Nữ sẽ cùng con trai về thăm nhà. Bà hằng mong mỏi trông chờ. Đứa con trai duy nhất qua tuổi ba mươi, rồi bốn mươi vẫn chưa chịu lập gia đình. Công việc tận Việt Nam xa nhà từ mấy năm qua càng khiến bà lo lắng. Thế rồi Hiroshi gọi mẹ thường xuyên. Mẹ hiểu ra tâm tình của con qua giọng nói sôi nổi vui tươi mỗi khi Hiroshi nhắc tới Nữ. Bà muốn gặp người con gái đã mang tin yêu tới cho con mình. Người con gái Việt Nam bà vẫn mong chờ từ ngày chia tay với Shiori. Chờ được trải lòng ra cho vơi nỗi niềm thân phận, bởi mỗi tấm hình trên bàn thờ là mỗi phận đời, là cội nguồn bà muốn có người nghe, kể lể, khóc cùng. Hiroshi chỉ vào chân dung một quân nhân mặc đại lễ, uy nghi trường kiếm. – Bố anh nguyên là sĩ quan của Hải quân Hoàng gia Nhật thời đệ nhị thế chiến. – Ông sống sót sau nhiều trận hải chiến với Mỹ ở Thái Bình Dương. Nhiều năm sau chiến tranh chúng tôi mới gặp nhau, rồi ông mất sớm lúc Taro chưa tròn tuổi. Bà Mitzuki nhìn lên tấm hình lớn treo trên cùng, ở góc dưới khung hình là tấm hình nhỏ hơn, mờ nhạt đôi nam nữ đứng bên nhau. – Đó là tấm hình duy nhất của ông bà Ngoại của dì.

Bà Mitzuki cố nén xúc động, nghiêm trang hỏi Nữ sau tiếng ho ấp úng. – Nghe nói cháu đọc được chữ Kanji. Cháu thử đọc hàng chữ bên dưới tấm hình đi. Nữ vận dụng mớ vốn liếng chữ Nho học được từ người cậu. Nàng dụi mắt không tin¸ đọc đi đọc lại rồi quay nhìn dì Mitzuki ngờ ngợ. – Nếu cháu không lầm thì đây là tấm hình chụp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với nhóm lưu sinh Việt Nam đầu tiên ở đại học Waseda vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Dì Mitzuki gật đầu. – Người đứng giữa chính là hoàng thân Cường Để. Cháu hãy nhìn kỹ lại chân dung của nhóm sinh viên. Nữ càng nhìn càng hồ nghi mắt mình. Nàng run giọng hỏi. – Hình như một trong chín du học sinh cũng là người trong tấm hình nhỏ, là… Nước mắt lăn dài trên má dì Mitzuki, bà gật đầu. – Người đứng cạnh hoàng thân là cụ Trần Đông Phong. Ông đã tự tìm cái chết dưới một cội thông trong chùa Tohoji vào độ tuổi đôi mươi với khí phách của một võ sĩ đạo vì xấu thẹn đã không giúp được gì cho bạn đồng môn, đất nước. Ông tuẫn tiết, không hề biết người bạn gái Nhật đã cưu mang máu huyết mình trong bào thai. Bà âm thầm nuôi mẹ của dì khôn lớn giữa bao dị nghị vây quanh. Bà ngoại sống còn qua bao gian khổ của mấy năm Thế chiến rồi qua đời lúc toàn dân nước Nhật còn đang lạc loài vực nhau đứng dậy qua đổ vỡ tang thương. Môi nở nụ cười mà mắt còn chưa ráo lệ, bà Mitzuki nâng chéo áo lau nước mắt cho Nữ. – Giờ thì cháu biết vì răng dì Nguyệt mặc áo dài Việt Nam rất tự nhiên rồi hỉ ? Suốt bao nhiêu năm qua, ý nguyện của dì đi tìm thăm quê ngoại vẫn còn là giấc mơ chưa thành. Giờ thì sẽ dễ dàng hơn nhiều, phải không cháu? Nữ quay nhìn Hiroshi trách móc. – Anh thiệt!? Phải chi mà anh cho em biết chuyện.

11

Dì Mitzuki bước ra hiên nhà lung linh màu nắng tươi trên cành đào ươm nụ. – Không sao đâu cháu. An bài của số phận lúc này là niềm hạnh phúc lớn nhất của dì. Tới đây về thăm quê ngoại có con dâu dẫn đường thì còn chi bằng. Sáng mai mình sẽ đi Zoshigaya thăm mộ ông ngoại. Kiyomi chọn hoa, còn Hiroshi thì nhớ sửa soạn xô và gáo nước chứ đừng quên như lần trước. Bà phá lên cười lúc thấy Nữ ngơ ngác nhìn Hiroshi. – Kiyomi là tên Nhật của con đó! Bà Mitzuki chỉ chợp mắt lúc đầu đêm rồi không ngủ lại được. Tiếng chim đàn quang quác bay về biển khiến bà tỉnh giấc, nằm suy nghĩ mãi về chuyến đi đã làm bà thất vọng. Vùng đất miền trung du Việt Nam tuy chưa đặt chân tới bao giờ song bà vẫn quen thuộc trong mỗi giấc mơ. Từ những năm mới lớn, chuyện kể về cái chết đầy tiết liệt khí phách của ông ngoại Trần Đông Phong là niềm tự hào giúp bà luôn mơ về một quê hương thần kỳ trong đó con người thuần lương, nghĩa khái sống chết hết lòng với nhau. Thời thiếu nữ của bà là những năm dài Thế chiến thứ hai tan tác điêu linh, sau đó là dân của một nước Nhật thua trận, rồi làm vợ một cựu phi công Kamikaze thất chí sống trong mặc cảm của một phế binh đã không được chết theo phi cơ đâm vào tàu địch. Lòng hào hiệp của người Mỹ đã giúp đất nước bà vượt qua khốn khó, giữ được tự chủ, rồi chỉ phần tư thế kỷ sau sánh vai cùng các cường quốc hàng đầu trên thế giới. Tham vọng bành trướng của Chủ nghĩa Cọng sãn và sự tranh giành Quốc Cọng lại gây cảnh chiến tranh điêu tàn, đất nước phân ly cho Triều Tiên, Việt Nam. Cọng sản miền Bắc Việt Nam chủ trương bạo lực, dấy động cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” để thống nhất đất nước. Hằng triệu thanh niên bị quăng vào lò lửa của cuộc chiến tranh không cần thiết. Ảo tưởng thiên đường xã hội chủ nghĩa và chuỗi dài những sai lầm lãnh đạo càng đưa đất nước vào chậm lụt

nghèo đói. Suốt thời gian đó Nam Hàn với sự bảo vệ của Mỹ đã mau chóng lột xác trở thành một quốc gia vững mạnh, cạnh tranh ngang sức với Nhật và các cường quốc khác trên nhiều lãnh vực công nghệ tiên tiến, cùng lúc vẫn giữ được tính độc lập tự chủ của đất nước. Bà Mitzuki thở dài nhớ lại lời cô con dâu đã nói thời gian thăm bà ở Tokyo. Thực tế “quê hương thần thoại” của bà còn tệ hơn điều Nữ muốn chuẩn bị cho bà. Suốt mấy ngày ở Thanh Chương, làng quê cụ Trần Đông Phong, nhiều người tự nhận là bà con thân thích với ông Đồ Mường đã nườm nượp gọi là đến thăm cháu ngoại người Nhật của cụ Phong nhưng thật ra là để than thở, đặt điều nhờ Nữ thông dịch xin tiền. Không ngờ “bà già người Nhật lắm tiền không xin cũng uổng” nghe hiểu từng tiếng từng lời gian trá, nghe mà không tin vào tai mình. Tệ nhất là một phụ nữ trẻ đến ngả giá đòi tiền để cô ta dẫn đi tìm người đang sở hữu vài sáng tác thi phẩm của cụ Phong. Chuyến đi khá vất vả đến một thôn hẻo lánh ở Đồng Văn. Căn nhà tranh nhỏ bé, bàn thờ ở gian giữa đơn sơ một chữ Tâm màu điều viết trên khuôn giấy bồi cũ. Lời chào hỏi giữa cô gái dẫn đường và người chủ nhà khiến Nữ và bà mẹ chồng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Cô gái ngại ngùng liếc mắt về phía Nữ rồi bước nhanh xuống bếp pha trà theo lời sai bảo của ông ngoại. Cụ già nhìn theo cháu, lắc đầu. – Mày mà làm cô giáo thì dạy dỗ ai đây. Giỗ mẹ cả tháng không bén mảng về thắp một nén nhang. Câu chuyện nở ra sau lúc Nữ giới thiệu bà Mitzuki với cụ chủ nhà. Cô gái kinh ngạc lấp ló ở cửa bếp lắng nghe bà già người Nhật nói tiếng Việt lưu loát với ông ngoại, có lẽ cô ta đang bấn lên vì chuyện đòi tiền trắng trợn hôm trước. Cụ già ngạc nhiên không kém, ông hớn hở biết ra người đàn bà ngoại quốc trước mặt là cháu ngoại của cụ Trần Đông Phong. Hai người anh em họ cuối cùng đã gặp nhau trong một hoàn cảnh không ngờ.

12

Cụ già là cháu nội của người em chú bác với cụ Phong. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất, gia đình ông bị đấu tố là địa chủ phản động mất hết ruộng đất gia sản và bị đày đi lao động cải tạo trên vùng núi hẻo lánh. Ông sống nghèo, tuy chẳng thẹn với lòng nhưng buồn lòng nhìn con cháu lớn lên bị vẩn đục trong một xã hội đong đếm, xảo trá lọc lừa. Bà Mitzuki nghĩ tới nét mặt khắc khổ của người đàn ông Việt Nam đã sống qua bao cảnh dâu biển đổi dời mà lòng vẫn giữ trọn một chữ Tâm tinh khiết. Tiết tháo đó so với cái chết của ông ngoại có lẽ cũng can trường như nhau. Bà vui vui nghĩ tới Hiroshi đang bận rộn ở Đồng Văn sửa lại ngôi nhà của người em họ. Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Nữ ló đầu vào với ly nước trên tay. – Mẹ chưa ngủ sao? Nhìn mấy trang giấy cũ trên tay mẹ chồng, Nữ cười. – Con tưởng mẹ đã thuộc lòng hết những bài thơ của cụ Phong rồi ? – Thuộc nhưng mà chưa hiểu hết. Chắc mẹ phải nhờ cậu của con giải thích thêm, nhất là bài phú dài mấy trang rất khó hiểu. Nữ dìu bà mẹ chồng ra đứng dưới mái hiên ngôi nhà khách nằm tách biệt hẳn khu nghĩ mát còn chong đèn thức khuya. Cây ngô đồng trước sân nhà đứng im lìm dưới trăng, hoa đỏ chìm sủng vào từng chùm bóng tối khe khẽ lay động. Lối đi lát gạch băng qua khu khách sạn trườn mình lên bầu trời đầy sao. Đêm nở ra, bung tràn vào biển đen vô tận mơ hồ. Họ đứng bên nhau trên đỉnh cát hiu hiu gió. Bà Mitzuki nắm tay Nữ. Bà nhắm mắt lắng nghe, lòng mềm theo giọng kể trầm trầm thổn thức một thời thiếu nữ long đong trên vùng cửa biển điêu tàn. Những ngọn đèn như sao giăng vụt tắt. Khu nghỉ mát sang trọng chợt chìm lịm vào bóng đêm quá vãng, hiu hắt mơ hồ xóm nhà mái tranh úp lè tè trên triền cát xám đẫm mưa và từng cảnh đời lặng lẽ âu sầu. Cũng có một vùng cửa biển hoang tàn như thế trên đất Phù Tang

vào những năm thế chiến thứ hai. Thời còn con gái của bà là những ngày dắt díu tản cư, những đêm hớt hải xốn lòng tiếng còi báo động kéo rền, chìm nghẹt trong gió biển. Cánh cổng torii xiêu đổ vào giấc mơ thiếu nữ, thấp thoáng người bạn trai cùng trường súng cao hơn đầu theo đồng đội nhấp nhô như sóng xa dần. Số phận anh, số phần em chìm theo điệu hát ru “Itsuki no Komoriuta” buồn thảm. Khi tôi chết chắc chẳng còn ai khóc. Cô đơn sao tiếng rền rỉ ve sầu. Nếu mộ phần không có ai đến viếng. Nắm đất bên đường sẽ ấm lòng hơn Bởi ai đó chẳng vô tình bước vội Hoa dại dừng chân quyến luyến chút lòng Có sao đâu dù chỉ nụ sơn trà Không cần tưới bởi vì mưa sẽ đến (PTY phỏng dịch) Mối tình đầu nở trên từng nỗi nhớ về nhau từ hai bờ biển Đông chia cách. Mùa Xuân năm bốn lăm qua nhanh như hoa đào tàn rơi trên mái chùa tera ở Toshima phong kín rêu xanh. Những trang thư hò hẹn từ chiến trường Đông Dương sục sôi máu lửa càng chất cao thêm lo lắng, nhớ nhung cho cô gái quê nhà. Người lính trẻ chưa qua tuổi hai mươi sớm ‘ngọa sa trường’ lúc đơn vị anh tiến chiếm tòa Khâm sứ ở kinh đô Huế đêm Nhật đảo chánh Pháp trên toàn Đông Dương. Lá thư tình cuối cùng anh viết cho người yêu không về kịp theo thi thể người lính tử thương nằm trong quan tài reikyuu câm nín ngàn đời. Tiếng tàu điện leng keng chạy qua Phong Đảo buổi chiều anh về huyệt mộ ở lại trong lòng cô gái lâu lắm, âm thanh buồn làm trở trăn biết bao lần đẫm lệ chiêm bao. Thương cháu, bà ngoại thường dẫn Mitzuki đến thăm dì Ando để cháu có dịp thăm hỏi ông hoàng lưu vong về Việt Nam, vùng đất xa lạ nơi người yêu đã ngã xuống. Vị hoàng đế không ngai nhỏ thó, bình thản ngồi nhìn dì Ando cắm cúi pha trà xanh gyokuro cho chồng. Lần đầu tiên Mitzuki được biết về vùng đất nước xa xôi

13

đã dính liền với thân phận mình qua giọng nói bằng tiếng Nhật nhỏ nhẹ của ngài. Hoàng thân Cường Để cả tin vào chính sách Đại Đông Á của Nhật Bản, hi vọng họ có thể giúp giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp. Căn nhà nhỏ cuối phố Ogikubo nơi dì Ando và điện hạ của bà nương náu thưa dần đám chính khách ở bộ Ngoại giao muốn đưa hoàng thân Cường Để về nước dựng lên một nước Việt Nam độc lập, quân chủ lập hiến. Các ông tướng quân phiệt Nhật chỉ muốn tranh giành ảnh hưởng với thực dân Pháp ở Đông Dương và cầm chân Mỹ đang trên đà thắng trận ở Thái Bình Dương nên chẳng còn ai nhắc tới vị hoàng tử từng là minh chủ Việt Nam Quang Phục Hội từ những năm đầu thế kỷ hai mươi cam sống đời lưu vong để đấu tranh cho độc lập nước nhà. Trăng lên cao. Ánh vàng trải lung linh trên mặt biển lan miết vào cuối trời bàng bạc những đốm sáng từ hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Giữa vùng sáng huyền ảo cơ chừng hiện ra hoàng thành cổ kính có minh quân, hiền hậu, xa giá tung hô. Bà nhớ lại nỗi bồi hồi xúc động rồi sau đó là cảm giác thất vọng lúc ghé thăm hoàng cung triều Nguyễn trên đường theo con dâu ra Vinh tìm quê ngoại. Họ tới Huế lúc trời vừa bắt nắng. Nữ dừng xe mời mẹ chồng vào một quán ăn gần cầu Tràng Tiền bên bờ hữu ngạn sông Hương. Dòng sông loang nắng, soi mấy nhịp cầu cong nối víu lửng lơ trong nước lặng lờ. Nữ chỉ về phía khu khách sạn lớn bên kia đường. – Tòa nhà này trước năm bảy lăm là trường đại học. Trước đó, vào thời thực dân Pháp, khu Morin là nơi giải trí sinh hoạt dành riêng cho người Pháp. Tòa Khâm Sứ con nghe nói cũng ở gần khu vực này. Mắt bà Mitzuki chợt nhòa rưng vướng bụi thời gian. Dòng người xe tấp nập trên đường chìm khuất lùi xa. Con đường vắt qua năm tháng, dài theo dòng kỷ niệm đời người hơn nửa trăm năm. Trang thư của người bạn trai đầu đời như còn run ấm trên tay. Thư anh viết về con đường nắng

trưa rền rỉ tiếng ve kumazemi than sầu trong những tàng cây hoa đỏ dọc bờ sông. Bà cơ hồ anh như đang bước qua đây. Thời gian chẳng là chi, chẳng còn chi, tất cả đã dồn lại thành chút lệ nhòa đọng trên mi nhăn đọng dấu phôi pha. Xe qua cầu Tràng Tiền. Nóc kỳ đài phần phật tiếng cờ bay nhuộm đỏ một khoảng trời xanh như muốn phủ chụp xuống Ngọ môn đăm chiêu mắt nhìn mây nước Vân Lâu. Nữ lái xe loanh quanh trong thành nội. Bà Mitzuki ngạc nhiên nhìn những con phố hẹp vì nhà cửa dựng xây chồm lấn thiếu qui hoạch. Quán xá bán mua thì tất bật, bề bộn trên lề đường góc phố chẳng chút nền nếp. Bà thầm nghĩ may mà đi với Nữ chứ không thì khó biết đây là thành nội của kinh đô Huế ngày xưa. Nữ dìu mẹ chồng bước qua cổng vào Đại Nội. Tiếng ồn ào tấp nập rớt lại bên ngoài. Hàng sứ đơm bông đứng khẳng khiu bên lối gạch lót mòn qua bao năm tháng thăng trầm. Bà Mitzuki tiếc rẻ nhìn nét kiến trúc đơn giản mà tinh tế của cung đình triều Nguyễn đã bị lớp sơn son thếp vàng rẻ tiền và lối trùng tu bôi bác, ăn chận, tầm phào làm giảm đi nhiều giá trị nguyên thủy của nó. Bà thích Phố cổ Hội An hơn. Nhà cửa, cầu đường vẫn còn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy. Đi giữa phố Hội An mà cứ tưởng đang bước về nhà ở phố cổ Toshima. Nhất là ngôi nhà của đứa con dâu. Bà nhìn mà lòng xúc động, biết ơn tâm huyết của người sống ở đó, một cô gái can trường, sống tử tế hết lòng suốt gần ba mươi năm qua để bảo vệ, giữ gìn vun xới căn nhà mẹ cha để lại. Cơn chớp biển phù du sáng rền phía chân trời rồi tắt ngấm làm trăng biển khuya càng nhòa nhạt lung linh. Trời vào độ cuối hè. Chẳng bao lâu nữa lại tới mưa nguồn, rồi năm tận. Nữ chợt có cảm giác cát dưới chân trở mình, thầm lặng tiếng thở dài. Tiếng nấc nghẹn của mẹ chìm trong gió ruồng qua hàng phi lao buổi sáng cuối cùng chờ cha từ biển về miên viễn nghìn thu. Tiếng bầy cò mất ngủ hoảng hốt vỗ cánh bay trắng bờ sông Đế Võng lúc bé Nữ theo anh Niên

14

lóc cóc đạp xe qua cầu Phước Trạch tới trường lúc sương sớm chưa tan. Tiếng nước sông Hoài lau lách trở mình theo nhịp triều dâng. Tiếng then cổng cài, thấp thoáng lưng áo vét của cha sau giấc ngủ trưa trở vào Tòa Tỉnh làm việc. Tiếng gàu lanh canh thành giếng đêm trăng. Tiếng thời gian. Tiếng quê hương uất hờn giọng buồn lịch sử. Nữ muốn níu lại trở về, bé bỏng bình yên. – Nếu mẹ Mitzuki có đủa thần thay đổi được lịch sử thì mẹ muốn quê ngoại của mình ra sao? Bà Mitzuki vỗ về lên cánh tay Nữ đang víu chặc vai bà tự lúc nào. – Mẹ vừa chiêm bao về người bạn công nương của mình và hoàng thân Cường Để. Nhân ảnh họ chập chờn trong cơn chớp biển khiến mẹ lạnh người. Mấy hôm trước ghé thăm Đại Nội, đứng trên sân chầu giữa ngọ, mẹ đã thầm ước ao về điều con vừa hỏi… Nhưng bánh xe lịch sử đã lăn qua, đã nghiến hằn lên số phận của cả một dân tộc. Chiến thắng của một tà thuyết đã giết chết hàng triệu sinh linh hai miền Nam Bắc và xô đẩy đất nước vào hố thẳm của tàn lụi, vong bản. Bà Mitzuki cài khuy tấm áo gió, cười xuýt xoa. – Gió đêm mùa hè mà cũng lạnh ghê…Có lẽ mẹ đã thả lòng một phút viễn vông. Mẹ đang sống vui với giây phút này đây, có được gần hết những ước ao của mình. Còn con thì răng? Nữ dìu bà Mitzuki quay bước theo lối đi thoai thoải đèn soi. Nàng chỉ ước mong được sống vui bên mẹ cha, anh chị trong căn nhà xưa đầm ấm, được ăn bánh xèo mẹ đổ cho “cha con bây” trên

gác lửng vào những ngày mưa. Ngọn lửa lịch sử tanh máu của đất nước này đã thiêu hủy từng ước mơ nhỏ bé của mỗi phận người. Nàng biết phải sống hết sức mình, có chết cũng cam để gìn giữ cho được căn nhà xưa và hạnh phúc mình đang có. Gìn vàng giữ ngọc cho hay. Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Thi hào Nguyễn Du) Bà Mizuki ngâm câu thơ cổ, đắc ý nhìn Nữ. – Thời còn làm việc ở Đại học Waseda, mẹ vẫn thích lớp dạy về thi ca Việt Nam, nhất là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trên hẳn ý nghĩa thường tình giữa đôi tình nhân bịn rịn, nhắn nhủ trước lúc chia phôi, câu thơ có lẽ rất hợp với tình cảm của con. Suốt thời gian dài gần gấp đôi quãng đời chìm nổi của Thúy Kiều¸ con đã lấy cái tâm ra mà sống hết lòng với đời. Tâm đó đúng là cái tâm cụ Nguyễn Du đã tâm đắc “chữ tâm kia mới bằng ba chủ tài”. Nữ ngồi bên mẹ chồng dưới bóng cây ngô đồng. Khuya vàng lặng màu trăng dải hiên nhà. Nữ bàng hoàng nhớ ra tháng năm sống gắn bó vui buồn với căn nhà sau cửa biển này còn dài hơn quảng đời thơ ấu nơi căn nhà xưa ở Phố. Nàng có hai căn nhà để ‘gìn vàng giữ ngọc’ và gầy dựng ước mơ. Hai người đàn bà quay nhìn về Phố. Vầng sáng hừng lên từ phía trời quen. Phan Thái Yên (từ Căn nhà sau cửa biển)

15

Khuác Söng Chia

Phạm Hồng Ân

Ông tin sông có thịt không? Người đàn bà

chỉ tay ra dòng sông, hỏi tôi điều đó. Tôi lắc đầu, ngó bà chằm chặp. Đôi mắt đỏ chạch. Tóc xơ xác xõa dài. Và Khuôn mặt lơ láo, chứng tỏ bà là người không bình thường. Vậy mà có cái gì đó bắt buộc tôi dừng lại, bắt buộc chiếc ghe tôi ghé bến, cột dây, rồi lóc cóc lên bờ.

Mảnh vườn của người đàn bà dài thòng thọc. Cây đâm đất tủa trái. Cành tức nhánh trổ bông. Rễ này luồn rễ kia, bám da vườn trỗi dậy. Nước từ sông đổ vô man mác, chảy ngập mương, lôi theo tôm cá róc rách. Mảnh vườn rộng, người đàn bà lại thu hẹp cuộc sống. Túp lều bình dị, nhỏ nhoi như bóng dáng bà. Tôi phải bắt ghế ra sân, vừa nghe bà nói, vừa uống từng ngụm nước mưa bà múc trong chiếc gàu bằng gáo dừa.

Người có thịt. Thú có thịt. Vật có thịt. Gỗ có thịt thì sông cũng có thịt. Thịt là thân thể. Thân thể người. Thân thể thú. Thân thể vật. Thân thể gỗ. Thân thể sông. Thân thể nào mang thương tích, chắc chắn sẽ đau đớn khôn cùng. Không tin, ông cứ ở lại đây. Rồi ông sẽ trải nghiệm được điều đó.

Tôi là kẻ trôi sông lạc chợ. Khi chợ đã chiều, sông trôi đã ngán, đành tìm bến đỗ nghỉ chân. Bến đỗ sẵn có người lo, dại chi bỏ lỡ cơ hội. Cuối mảnh vườn phì nhiêu, còn dư một thẻo đất phún đầy cỏ tranh. Nơi đây là đất lành, chim tha hồ đậu. Tôi bỏ vài ngày làm cỏ tranh. Dao vừa chém cỏ, vừa bới đất tìm rễ. Rễ tranh mập ú, trắng ngần. Gom lại, phơi dốt dốt chừng ba nắng, cho vô nồi nấu nước uống, bảo đảm không mát gan cũng lợi thận. Chỉ cần một tuần cật lực, tôi đã có túp lều xinh xắn. Cửa lều ngó ra sông. Mùa trăng, sông lung linh huyền ảo, như cảnh trong thiên đường.

Lều tôi cách lều người đàn bà bằng bề ngang mảnh vườn. Muốn tới lều bà, tôi phải chui qua hàng cam trĩu trái. Khéo léo lắm, tôi mới tránh khỏi những trái cam bự bằng nắm tay, sẵn sàng đập kìn kịt vô đầu. Chui qua chui lại, chui tới chui lui, riết rồi tôi và người đàn bà trở thành đôi bạn chí thân lúc nào không hay. Chí thân, nhưng không có chuyện lộn xộn về tình cảm. Dường như chúng tôi đều có riêng một trái tim lạnh lùng, không dễ gì rung động bởi một trắc ẩn nào. Ngày tháng trôi dần, tôi vẫn chưa cảm nghiệm được điều bà nói về dòng sông, mặc dù tôi và

16

sông đã gắn bó với nhau từ lúc còn là trẻ thơ. Lớn lên, xuôi ngược trăm chiều, sông cũng là người bạn đồng hành dễ thương nhất. Với tôi, sông không có thịt, không có thân thể. Vì nếu có xác thì phải nói đến dục vọng, đến cái chết, đến sự phân hủy thường tình. Sông chỉ có hồn thiêng, nên sông sống mãi, vang vọng đến muôn đời. Nhưng trải nghiệm của tôi bị người đàn bà cho là non nớt. Bà phản bác tới cùng.

- Sông cũng như con người. Nó khóc lóc, thét gào khi đau khổ. Bướng bỉnh, ương ngạnh khi giận dữ. Hiền hòa, trữ tình khi yêu thương. Con người có thân xác, có tâm hồn. Sông cũng vậy. Nó cũng sống và chết theo số phần. Không vang vọng muôn đời như ông nghĩ đâu? Tôi buồn quá. Lần đầu tiên, có người đàn bà bắt tôi phải cùng chung ý nghĩ với họ. Ngày xưa, tôi bỏ đất xuống sông, cũng vì đàn bà. Bây giờ, tôi bỏ sông lên đất, cũng vì đàn bà sao? Thất vọng, tôi cúi xuống cây guitar. Tôi dạo Nam Ai. Tôi nhấn, tôi rung đến tận cùng âm tiết. Sáu câu vọng cổ chạy sau. Hò, xự, xang, xê, cống, líu, ú đẩy nhau bay bổng lên cao, đâm thấu mây trời. Rồi bỗng chốc, chúng va mạnh vào nhau, loảng xoảng vỡ tan. Mảnh vụn âm thanh lả tả rơi rào rào xuống dòng sông, dưới ánh sáng thê lương của con trăng mười bảy.

Tiếng vỗ tay vang vang đằng sau bờ cam, khiến phím đàn tôi khựng lại, ngơ ngác giây lát. Dưới ánh trăng huyền ảo, xuất hiện một cô gái tóc dài. Cô bước nhẹ đến người đàn bà, khoanh tay lễ phép.

- Con chào cô. Con ra đây để nghe đàn. Tiếng đàn xé ruột xẻ gan, làm con cầm lòng không đặng.

Người đàn bà thở dài, rồi đứng lên, tiến thẳng vô lều. Tôi dẹp đàn, hất ly nước cặn xuống bờ cỏ, định chui qua bờ cam về lều mình.

- Khoan. Hãy để em khen anh một tiếng, rồi ...muốn đi đâu thì đi.

Tôi xoay mặt qua cô gái. Ánh trăng vờn quanh dáng cô, soi sáng nụ cười. Ôi, nụ cười thương yêu, nụ cười mà mấy mươi năm trôi

sông lạc chợ, tôi chưa hề bắt gặp. Nụ cười dường thôi miên tôi, hút tôi lảo đảo, xoay tròn.

- Cô từ đâu đến vậy? - Nhà em ở sau mảnh vườn này, nên mỗi khi

anh đàn, em nghe rõ lắm. Anh có biết em thích cổ nhạc lắm không? Em đã từng trốn nhà, đi theo gánh hát.

- Và tiếng đàn tôi đã làm cô nhớ lại ánh đèn sân khấu?

- Không hẳn vậy. Anh đàn mùi quá! Người nghe muốn rụng cả trái tim.

- Cô khen quá lời. Nhưng thôi, bây giờ khuya rồi. Cô về ngủ đi. Hẹn gặp lại sau.

Từ lúc quen cô gái, tiếng đàn tôi không còn não nuột nữa. Nó trở nên vui tươi và xôn xao như nụ cười dễ thương của nàng. Người đàn bà, có lẽ, biết được điều này, nên thường trách tôi gần sông mà chưa hiểu được sông, vội tơ tưởng đến trăng sao vòi vọi. Trách thì trách, làm sao bây giờ? Ai cũng có những khoảnh khắc riêng trong đời sống, và ở khoảnh khắc riêng đó, người ta có quyền tự do tơ tưởng chứ? Quen cô gái, nhưng ơn nghĩa của người đàn bà tôi mãi mang nặng. Không có bà, chắc chắn, cho đến hôm nay, tôi vẫn còn lang thang trên sóng nước muôn trùng. Túp lều, bà và cô gái. Và những mùa trăng ngồi nhìn sông với bà. Không có mảnh vườn này, tôi như con chim bay hoài không đất đậu? Tuy nhiên, trải nghiệm về sông, hiểu theo ý bà, tôi vẫn chưa thấu được. Có thật sự bà bất bình thường hay vượt khỏi cái tầm thường của thiên hạ? Rồi cho tới một hôm, tôi đem nỗi băn khoăn này xan xẻ cùng cô gái.

- Anh không thấy sao? Mảnh vườn rộng lớn như vậy mà chỉ có một mình cô sống vò võ âm thầm? Bà em kể lại, hồi chiến tranh, ba mẹ cô bị máy bay Mỹ bắn chết trên khúc sông này. Rồi vài năm sau, chồng cô đi lính hải quân, ổng lại bị việt cộng phục kích bắn chết cũng trên khúc sông này. Nỗi đau cùng tận như vậy, thì sông là ấn tượng sâu đậm với cô, là lẽ đương nhiên.

- Mỹ giết cha mẹ bà. Việt cộng giết chồng bà. Vậy bà đứng về phe nào? kẻ thù là ai?

17

- Em nghĩ, kẻ thù đích thực là chiến tranh, là con người. Con người nhân danh chủ nghĩa này chủ thuyết nọ để sát hại lẫn nhau.

Tôi gật gù. Cô gái nghĩ về chiến tranh rất chính xác. Vậy mà ngày gặp đầu tiên, tôi cứ ngỡ cô là phường xướng ca vô loại, dám trốn nhà để theo gánh cải lương? Bây giờ, biết cô không phải là hạng tầm thường, tôi đem những trải nghiệm về sông của người đàn bà ra phơi bày.

- Mấy chục năm lăn lộn với sông, tôi tưởng sông chỉ là dòng chảy, là nguồn nước tự nhiên của thiên nhiên. Nhưng đối với bà, sông có đời sống riêng của nó, có thân thể và có cả số phần. Cô nghĩ sao về ý niệm này?

Cô gái kéo tôi ra cửa lều, đưa ngón tay chỉ dòng sông, thầm thì.

- Anh có thấy chiếc xáng cạp ngoài kia không? Họ đang múc cát dưới đáy sông để bán cho thiên hạ lấp mương, xây nhà, lấn đất, trồng trọt...Anh có biết hiện nay có bao nhiêu xáng cạp làm công việc này không? Có bao nhiêu người lấy cát đáy sông mưu cầu lợi ích cá nhân không? Số phần của con sông tùy thuộc vào đám người nông nổi đó. Rồi đây, đôi bờ sẽ lở, đất sẽ tuột. Chẳng ai lường trước hậu quả sẽ ra sao?

Tôi gật gù. Ngó cô gái một cách trìu mến. Giữa chốn chợ đông, dễ chi kiếm được một người vợ thông minh như thế này. Tôi có tiếng đàn. Tiếng đàn phù phiếm chỉ chinh phục con người trong phút giây. Nó không có chiều sâu. Nó không thể biến thành sợi dây tình ái để ràng buộc với nhau trong suốt cuộc đời. Tôi chợt nhớ cuốn sách mà tôi đã đọc đâu đây. Cuốn sách nói về các đập thủy điện ngăn sông. Các đập sẽ làm tôm cá mất tăm, nguồn thủy sản vơi dần và sông sẽ giẫy chết vì cạn dòng. Tôi định nói với cô gái về nỗi nhớ này, nhưng cô gái đã tiến sát về phía tôi, nhoẻn miệng cười duyên dáng.

- Anh cứ mãi nói chuyện của người ta. Còn chuyện của mình? Sao anh cứ làm lơ với em hoài vậy?

Chưa kể đến thân thể hấp dẫn, khuôn mặt xinh xắn của cô gái. Chỉ cần nụ cười thôi, tôi đã

bị thôi miên, chết điếng mất rồi. Dang rộng đôi tay nuột nà, cô gái thản nhiên ôm chặt thân xác cục mịch của tôi, mơ màng.

- Hôn em đi anh! Em đang cần một tình yêu. Không kềm được dục vọng, tôi bối rối lần

xuống vòm miệng khao khát của cô gái. Chưa kịp đặt lên đó một nụ hôn nồng cháy thì nghe tiếng hét từ đầu cửa bỗng vang lên dữ dội.

- Dừng lại. Các người dừng lại ngay. Đây đâu phải là nơi để các người về đây diễn trò trăng hoa, bưởi bồng.

Cô gái hoảng hốt, buông rơi đôi tay, rồi cuống cuồng bỏ chạy ra mảnh vườn. Còn lại, vừa xấu hổ vừa tan nát tâm cang, tôi giống một thân cây bị đốn gốc, từ từ khụy xuống trước mặt người đàn bà. Đêm trăng, ánh sáng huyền ảo mơ màng rơi xuống mảnh vườn. Tôi ngồi chờ nước lớn, vác hành lý xuống ghe, giã từ nơi đây. Hai ngày nay, đêm nào tôi cũng trằn trọc suốt đêm, rối bời gan ruột. Cô gái đã bỏ đi, mất biệt. Người đàn bà thì rút trong lều, không cho tôi có cơ hội giãi bày. Định mệnh trớ trêu bắt đời tôi lập đi lập lại mãi điệp khúc "lên bờ xuống sông" vì đàn bà. Nước bắt đầu lớn. Gió hú từ xa. Sông xô sóng bập bềnh. Tôi định ôm đàn dạo bản chia ly, để ai đó có thể hiểu nỗi lòng tôi trong phút cuối. Nhưng, đàn tự dưng khựng lại, vì dưới ánh trăng lung linh, tôi bỗng thấy người đàn bà lững thững đi ra bến sông. Bà dừng lại ở cuối cầu. Bộ bà ba phất phới theo gió, trắng xóa, nổi bật lên màn đêm. Nước đang dâng tràn. Nước trào vô mương lõm tõm. Nước ngập bến sông, khỏa mất cây cầu. Hai chân bà dìm trong nước. Dáng bà phất phơ, gờn gợn giống trong cảnh liêu trai. Rồi bỗng dưng tôi thấy bà múa may, quay cuồng. Trời ơi! Có phải bà đang cùng sông khiêu vũ, cùng hòa nhập theo thân xác sông, chìm đắm trong nỗi đau, trong thương tích của sông? Hay bà đang nhảy múa với âm binh, với những oan hồn uổng tử bỏ mạng nơi này? Chưa kịp phân định rõ ràng, tôi đã thấy bà nhào ùm xuống nước, tan biến vào lòng sông thăm thẳm. Tôi điếng hồn,

18

quăng vội cây đàn, cắm đầu chạy thục mạng ra bến sông. Tôi lội bì bõm ra cầu, phóng thẳng xuống dòng nước bạc màu. Tôi lặn một mạch xuống đáy, lục lạo khắp nơi, nhưng vẫn không tìm thấy bà. Tức quá, tôi tiếp tục trồi lên lấy hơi, rồi lại hụp sâu mò mẫm. Tất cả đều êm vắng, lạnh lùng. Tất cả đều bình thường, dường như dòng sông thản nhiên không biết gì đến một người vừa lao đầu xuống đây. Đau đớn quá, tôi ngồi bẹp xuống bến sông, sòng sọc ngó thẳng vào bóng đêm, hét lớn. Tôi hét đến khô họng, đến nghẹn tim, hét đến con trăng phải sợ hãi, ôm mặt lặn mất từ lúc nào?

Mảnh vườn nhỏ dần. Hai túp lều chỉ còn là hai cái chấm mờ nhạt. Thế mà tôi vẫn quẫy chèo ngó mãi về sau, luyến lưu, thương tiếc. Kỳ này, tôi nhất định sang bờ bên kia lập nghiệp. Tôi muốn đi thật xa, rời bỏ quá khứ đau buồn, xóa tan mối tình chưa nở vội tàn. Chiếc ghe đã ra hơn nửa sông, đang xuôi theo nước về bến mới, tiếp tục cuộc đời nước sông gạo chợ. Chợt, trời âm u mù mịt. Mây đen kéo xám sông. Gió nổi lên dồn dập, đẩy sóng vỗ tung tóe. Mưa trút xuống như thác đổ. Tôi cố kềm lái, nhưng chiếc ghe cứ quay tròn. Tôi cố nhìn về đằng trước định hướng, nhưng chỉ thấy một màn mưa nhòa nhạt và làn sóng bạc đầu đang rầm rập tiến tới. Rồi, làn sóng hất tung chiếc ghe tôi bay cao, lộn ngược về phía sau. Cuối cùng, nó vỡ toang ra từng mảng. Tôi như chiếc lá lìa cành, rớt nhẹ nhàng xuống biển nước muôn trùng. Vẫy vùng với sóng gió một chập, tôi đuối sức, tuyệt vọng. May vớ được mảnh ván chiếc ghe, tôi tựa thân vào đó, bơi tới. Rồi, đến một lúc, sức cũng phải cùng, lực cũng phải tận, tôi buông mảnh ván ra khỏi tay, lặng lẽ chìm xuống dòng nước. Trong những giây phút cuối của cuộc sống, tôi bỗng nghe oang oang tiếng nói ồ ề phát ra từ đáy sông.

-" Bây giờ mày mới thấy rõ sức mạnh của tau, phải không? Bây giờ mày mới sáng mắt chấp nhận tau có thân thể. Một thân thể sông. Vì nếu không có thân thể thì làm gì có sức mạnh?

Bấy lâu nay, tụi bây thay phiên nhau gây thương tích trên thân thể tau, khiến tau đau đớn vô cùng. Tau cũng muốn có đời sống riêng, muốn hạnh phúc như chúng mày. Nhưng suốt đời, tau mãi đứng đây dang đôi tay ra để hứng chịu những lằn roi khốn nạn do chúng mày trút xuống. Chúng mày có thấy như vậy không...không...không???"

Từ đáy sâu, tiếng nói xoáy theo nước, tạo thành vũng écho, cuốn hút tôi vào giữa. Rồi, nó hất bổng tôi lên mặt sông. Cứ thế, tôi chìm xuống nổi lên theo vòng xoáy âm thanh rợn người này. Sau đó, trên mặt sông mờ ảo, người đàn bà hiện ra cùng với một đoàn âm binh nhòa nhạt. Họ vây chặt lấy tôi, gào thét, cùng nhau xô tôi ngã lăn về phía trước. Tôi thấy tôi hụt hẩng và rơi tõm xuống một vực sâu. Mùi bùn non, mùi rác rến, mùi sình thối của xác thú vật...thi nhau xộc vào mũi tôi, khiến tôi cựa mình tỉnh dậy. Ánh nắng chói lòa, bừng sáng nơi chỗ tôi nằm, nhưng vẫn không xua tan cái lạnh đang rét mướt trong thân xác. Quần áo tôi tả tơi, ướt sũng. Đầu tôi đang lót trên đống phân người, chèm nhẹp và bẩn thỉu không thể tưởng. Xung quanh tôi là đống phế thải, những cục bầy nhầy dơ dáy tôi chưa từng gặp bao giờ. Có thể đó là những chất cặn bã hóa học, người ta cố tình tuôn ra từ nhà máy nào đó. Có thể đó là bào thai tội lỗi, người ta tàn ác móc ra từ tử cung người đàn bà nhẹ dạ. Tôi chợt nhớ đến tai nạn đêm qua, đến cơn mê. Ở đó có tiếng nói của sông, có hình ảnh người đàn bà và đoàn âm binh múa may quay cuồng. Chính những ấn tượng kỳ lạ này, làm thay đổi ý tưởng về sông trong tôi.

Phải, người đàn bà nói đúng. Sông cũng có thân thể, có số phần. Và hiện tại, sông đang bị đầu độc, bị thảm sát vì những toan tính ngu dốt của loài người. PHẠM HỒNG ÂN (Escondido, 01/09/2014)

19

Viết theo lời kể của Anh Nguyễn Trung Nghĩa, OCS-6

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà. Nếu có dịp trở lại trường OCS ở Rhode Island tôi chắc người nào cũng thấm thía khi chợt nhớ hai câu thơ trên của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Xin mượn ý nghĩa lời thơ để nói lên nỗi lòng bồi hồi của tôi khi nhắc đến trường xưa bởi trong tâm tưởng bất kỳ ai ghé thăm nơi đây cũng đều hiện diện những khuôn mặt trẻ trung thân mến của bạn bè cùng khóa với bao kỷ niệm buồn vui, nỗi niềm nhớ nhung tháng ngày cùng bên nhau học tập, vui đùa đã theo chúng ta đi suốt cuộc đời. Mặc dù đã bốn mươi lăm năm đã trôi qua nhưng bốn mùa xuân hạ thu đông vẫn không thay đổi. Tuy rằng trong văn chương có câu “nước xuôi nước ngược sóng dâng trào” (*) đã khiến người đọc hình dung được cảnh phóng khoáng, miên man vô tận của đại dương, riêng với dòng đời cũng chỉ quy luật duy nhất chảy xuôi, có những khuôn mặt bè bạn thân, sơ nay đã rời bỏ mọi người và quyến thuộc theo chuyến tàu đời ra đi

vĩnh viễn ! Nhưng có lẽ trong số những người bạn cùng khóa đối với tôi thì Văn Đại Hồng là người giã từ nơi trùng trùng sóng vỗ đến “một cõi đi về” sớm nhất. Đơn vị đầu tiên bắt đầu trong đời quân ngũ của tôi là Hải Đội 2 Duyên Phòng Quy Nhơn, ở đây tôi gặp nhiều bạn bè cùng khóa cũng như nhiều khóa khác bắt đầu từ khóa 1 trở về sau như : Ngô văn Sơn, Quý Nguyện, Đương, Khai, Ánh, Nhàn..v..v. Cùng khóa 6 với tôi là Dương kỳ Thanh và Văn Đại Hồng về Hải Đội 2 một lượt. Ở đơn vị này đa số người mới đều xuống tàu đi tuần, một thời gian sau lại có thêm Đỗ Khang An cũng chung một khóa từ Hải Đội 4 Phú Quốc chuyển về. Vào giữa năm 72 tôi và Hồng cùng nhận sự vụ lệnh thuyên chuyển đến Duyên đoàn 23 đóng tại Sông Cầu, Phú yên. Trước khi chuyển vùng chúng tôi được nghỉ phép một tuần về thăm gia đình. Nhà Hồng gần nhà tôi cùng trên khu vực đường Lê văn Duyệt, bây giờ đổi thành Cách mạng tháng Tám. Tôi ở khu Hòa Hưng còn Hồng ở con hẻm đình Phú Thạnh. Hết phép tôi cùng Hồng trở lại Quy Nhơn nhờ phương tiện theo tàu về Duyên đoàn. Hồng đã tâm sự về

Coã biïín

20

những ngày nghỉ phép ở gia đình có một sự kiện xảy ra, bất ngờ và lạ lùng so với mọi người. “… Hôm ấy, cũng như mọi lần những ngày về phép Hồng hiếm khi đi đâu chỉ dành riêng giúp việc ở nhà. Gia đình Hồng là người Việt gốc Hoa, truyền thống người Hoa hầu như giống nhau đều chuyên về buôn bán nên nhà Hồng cũng không ngoại lệ. Trong con hẻm nhỏ gia đình mở một quán nước kiêm luôn bán chạp phô. Hẻm có nhiều đường ăn thông ra các nơi, vào hẻm người ta có thể ra chợ Vườn chuối trên đường Phan đình Phùng, rẽ phải qua khu đường sắt ngược đại lộ Phan Thanh Giản để đến nhà thương Bình Dân. Ở những ngã ba ngã tư con hẻm thường là tiệm quán kinh doanh tuy nhỏ nhưng rất đắt khách vì có nhiều người qua lại. Cũng như mọi ngày công việc bán buôn của đa số các gánh hàng rong thường tìm đường đi quanh co trong hẻm, trong số này có ông lão mù bán vé số dạo tình cờ ghé vào nghỉ chân trước quán mua nước uống, theo thói quen Hồng ra hỏi ông muốn uống gì ? Khi mang nước ra cho ông lão, bỗng nhiên ông nói với anh : ‘Cậu nên thay đổi chỗ ở, nếu không hai tháng sau cậu sẽ qua đời’. Bất ngờ khi nghe lời tiên đoán khiến bản thân Hồng sửng sờ bối rối tuy chưa rõ thực hư ! Câu nói ngắn gọn nhưng làm rúng động và gieo kinh hoàng cho cả gia đình nhà Hồng. Phụ nữ là những người nhạy cảm nhất, người trong nhà ai cũng lo lắng và hoang mang ! Cuối cùng ông ngoại Hồng là người có vị trí cao nhất được gia đình tôn trọng đã trấn tỉnh mọi người rằng : ‘Ông này không phải là thầy bói, cũng không phải là thầy tướng số xem hình dáng, đoán vận mệnh vì ông mù không nhìn thấy gì cả, chỉ nghe được tiếng nói nên đây chỉ là một lời nói vu vơ mọi người không nên tin và chắc chắn sẽ không thể nào xảy ra vì nó không có thật. Từ xưa đến nay chưa có ai tài giỏi nghe được giọng nói người đối diện lại đoán được tương lai của họ…”

Về Duyên đoàn 23 đóng tại Sông Cầu tôi lại gặp nhiều bạn bè OCS ở đó như Ánh khóa 2, Lư Thẩy Đạt cũng cùng khóa đang làm việc tại nơi này. Một hôm nhân ngày nghỉ nghe vài sĩ quan “ thổ địa” khoe ở đây có vợ chồng thầy bói người Chàm đoán chuyện rất hay nên cả đám kéo nhau đi xem. Hôm đó có cả tôi, Hồng và Long từ Hải Đội 2 chuyển về sau. Thầy bói lần lượt xem cho từng người nhưng đến phiên Hồng thì hai vợ chồng đều từ chối không nói nữa, hẹn lúc khác mới xem tiếp. Không bỏ cuộc nên vài ngày sau Hồng một mình trở lại nhà người thầy bói, hai người miễn cưỡng tiếp Hồng nên không nói gì cả chỉ yêu cầu ký tên cho họ xem và khuyên anh phải thay đổi chữ ký ngay, ký liền chữ ký mới cho họ xem. Khi về Hồng thuật lại cho mọi người nghe và lúc này anh mới nhớ thêm rằng ông lão mù trước cũng có khuyên giống như thế. Về đây được một thời gian ngắn, duyên đoàn thay đổi chỉ huy trưởng mới nên cho tập hợp các sĩ quan về trình diện trong số có một sĩ quan đang biệt phái tại đài kiểm báo 202 đặt trên núi Chóp Chài ở Tuy Hòa. Nhân dịp này Hồng xin với chỉ huy trưởng cho mình hoán chuyển lên đài kiểm báo thay thế anh này. Đài này do người Mỹ xây dựng trước kia giờ đã bàn giao lại cho Hải Quân VNCH. Đứng trên núi có thể quan sát một khu vực rộng lớn ngoài khơi. Ngoài những sĩ quan Hải quân điều hành hoạt động nơi đây, trên núi chỉ có một số ít quân nhân thuộc đơn vị địa phương quân trấn giữ bảo vệ an ninh cho đài, nơi đây không có dân chúng sinh sống bởi đường lên núi khó khăn, hiểm trở rất khó đi lại. Để tránh bị phục kích, người Mỹ khi xây dựng đài này trên đỉnh núi họ không làm con đường đi vòng quanh hình trôn ốc giống như các đỉnh núi thông thường. Chỉ có một con đường độc đạo hình chữ Z chạy thẳng lên núi, cua quẹo lại gấp khúc hai bên đều là vực thẳm. Mỗi chuyến lên xuống người quá giang xe ít khi dám ngồi, họ chỉ đeo hai bên để khi người tài xế không làm

21

chủ được tay lái thì sẵn sàng nhanh chóng nhảy ra khỏi xe trước khi nó lao xuống vực. Ở duyên đoàn, mỗi sĩ quan đều đảm trách một nhiệm vụ như sĩ quan Chiến tranh chính trị, phòng thủ..v..v.., còn tôi là Sĩ quan truyền tin. Ngày hôm ấy vừa đi ngang phòng hành quân bỗng nghe trên đài kiểm báo gọi máy báo về Thiếu Úy Hồng đã bị tử thương vì trúng mìn yêu cầu đơn vị cho sĩ quan ra Tuy Hòa để nhận xác. Ai nấy nghe tin cũng đều bàng hoàng ! Riêng tôi, nhớ lại những việc xảy ra từ lúc về phép, Hồng gặp ông lão bán vé số mù cho đến bây giờ nghe tin Hồng qua đời chính xác quả thật đúng là hai tháng như lời ông này nói. Đơn vị ra lệnh cho tôi dẫn lính đi GMC ra Tuy Hòa làm việc với ban chung sự của nhà xác ở đây để nhận xác Hồng. Gia đình gồm Ba và chú của Hồng cũng tức tốc ra ngay Tuy Hòa và gặp chúng tôi ở đó. Nghe nói Hồng ngồi phía trước xe Jeep cùng tài xế nên khi mìn nổ thì cả hai thi thể không còn nguyên vẹn, người ta phải thu lượm mọi thứ cho vào quan tài kẽm đóng kín trước khi thân nhân ra đến để gia đình không đau lòng khi nhìn thấy. Năm ấy chiến trường đang sôi động nên nhà xác nào cũng giống nhau. Mặc cho mùi tử khí lảng vảng, đêm đó chúng tôi phải trải chiếu nằm chen chúc trong nhà xác gần quan tài để sáng mai mang ra Nha Trang xin phi cơ đưa Hồng về Saigon. Cả đêm có lẽ vì trời nóng quan tài đã trải qua mấy ngày nên áp suất không khí bên trong bị nén hơi nên thỉnh thoảng lại nổ lục bục khiến mọi người phải giật mình vì thế không ai có thể chợp mắt, chỉ mong cho trời mau sáng. Khi đưa quan tài ra đến Nha Trang xin phương tiện thì nơi này cho biết phải quàn lại tại nhà xác Nha Trang chờ mười ngày sau mới có máy bay đưa về Saigon. Không thể chờ đợi được gia đình Hồng quyết định thuê xe chở hàng của tư nhân đi về bằng đường bộ. Trước khi di quan lên xe phải nhờ ban chung sự bọc thêm một lớp quan tài kẽm bên ngoài nữa. Ba và chú của Hồng ngồi phía trước với tài xế, tôi và những người lính

cùng ngồi trong thùng xe chong súng trong tư thế phòng bị. Nhờ vào những vòng hoa gắn trên nóc xe cho biết đây là xe tang nên chúng tôi vượt qua mấy trăm km về Saigon yên bình. Về đến đầu hẻm chuẩn bị di chuyển xuống bỗng nhiên quan tài trở nên nặng nề không thể nhấc lên được ? Ba của Hồng phải tha thiết khấn cầu “Con à ! Giờ đã về đến nhà rồi, con để cho mọi người đưa con vào nhà, gia đình đang chờ con đó !” Mầu nhiệm thay bỗng nhiên quan tài trở nên nhẹ nhàng được khiêng xuống xe đi vào nhà trong tiếng khóc lóc bi thảm của mẹ và các em của Hồng. Sáng hôm sau trong bộ tiểu lễ tôi vào Bộ tư lệnh xin ban nghi lễ điều sĩ quan xuống canh gác chiếc quan tài của Hồng trên phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ. Lễ hạ huyệt tại nghĩa trang Mạc đỉnh Chi được diễn ra đúng nghi thức, có sĩ quan đọc điếu văn và toán lính bồng súng chào cố Trung úy Văn Đại Hồng. Bên cạnh đời sống hữu hình mọi người ít nhất đều một lần nghe đến thế giới vô hình. Nhiều nhà nghiên cứu đã dày công tìm hiểu những hiện tượng chỉ để xác định nó có thật hay không nhưng vẫn không tài nào giải thích khiến người ta thỏa mãn hay tin tưởng. Riêng tôi tin là có thật vì gần một tháng sau tôi nhận được lá thư của em trai Hồng. Em này hỏi tôi về tình trạng thi thể của anh mình khi khâm liệm và cho biết Hồng về báo mộng nói rằng bị thiếu mất một bàn tay. Là phái mạnh nhưng khi nghe vậy tôi không tránh khỏi rùng mình. Thú thật khi đó tôi không biết trả lời cho em này như thế nào ! Tôi không chứng kiến việc thu lượm cũng như nhìn thấy trong quan tài có gì. Chỉ nghe nói lại là thân xác hai người tử thương không còn nguyên vẹn, mọi thứ lẫn lộn với nhau phải rất khó khăn để tìm từng chút một và sắp xếp cho cả hai. Không dám nói thật tôi chỉ cho biết là khi đến nhà xác Tuy Hòa thì nơi này đã khâm liệm và đặt vào quan tài kẽm xong xuôi nên tôi không được rõ.

22

Nhiều bạn bè biết chuyện đều có cùng suy nghĩ như tôi. Nếu Hồng đừng tin vào thầy bói xin chuyển lên đài kiểm báo Chóp Chài có lẽ Hồng sẽ không kết thúc đời sống của mình một cách đau thương và ngắn ngủi như thế. Có nhiều tôn giáo chính thống ngăn cấm không cho tín đồ của mình tin vào bói toán, trong số đó Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và Phật Giáo là điển hình. Giải thích rằng do vì tin vào bói toán vô tình lại hướng đời mình rẽ qua ngã khác thay vì để tự nhiên biết đâu sẽ không gặp bi kịch. Còn nhớ, năm học cuối cùng những bài giảng về Tâm Lý và Siêu hình học, giáo sư có dẫn chứng và kể về “ mặc cảm Oedipe “ Truyền thuyết Hy Lạp đã đề cập một bi kịch chỉ vì tin vào lời tiên đoán khi nhìn đứa con có bớt son ở gót chân sinh ra sẽ “ giết cha lấy mẹ”. Nếu nhà vua đừng sai tên quan hầu cận mang đứa nhỏ vào sa mạc giết đi trừ hậu hoạn thì sẽ không có chuyện đứa bé tình cờ được sống sót. Sẽ không có việc nó lớn lên không biết cha mẹ ruột của mình là ai để phạm vào tội lỗi. Cũng vậy, trong lịch sử Phật giáo Vua Ashoka tức là vua A Dục mới sinh do hình dạng xấu xí không đẹp đẽ bằng các anh em mình cũng bị vua cha ghét bỏ vì nghe lời dèm pha bói toán rằng sau này sẽ cướp ngôi của họ. Để tránh chuyện xảy ra nên vua cha không cho ngài sống cùng trong hoàng cung với các anh em mình, bắt phải ra biên ải xa xôi sống trong cảnh thiếu thốn trong khi đường đường cũng là một vị hoàng tử. Lớn lên ngài sinh lòng thù hận với họ, khi nghe tin vua cha vừa băng hà ngài đã mang quân về

giết chết tất cả anh em của mình để lên ngôi vua. Được nghe đức Phật thuyết giảng ngài đã ngộ ra chân lý, ăn năn dẹp lòng sân hận và quy y theo Phật nên dưới triều đại của ngài Phật giáo trở nên cực thịnh nhất. Khi các nhà nghiên cứu Tây Phương tìm tòi và khám phá những cây cột đã được chôn xuống hàng ngàn năm trên đó nhà vua ghi chép về lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ, ngày nay nơi này được thế giới công nhận là một trong những thánh tích của Phật giáo. Hiện tại người ta hay nhầm lẫn tục bói toán và đốt vàng mã là của đạo Phật ! Thực sự hai hủ tục này nhà chùa không chấp nhận và cho là mê tín dị đoan. Đây là tín ngưỡng của nhân gian ảnh hưởng xuất phát từ Trung quốc, mọi người cứ thấy ông bà trước làm thế nào thì con cháu làm thế ấy.Vô tình gán ghép các hủ tục ngoại lai và cho là của tổ tiên mình. Năm nay đại hội OCS lần thứ 15 tổ chức tại Washington DC, trong chương trình ban tổ chức sẽ đưa chúng ta về thăm lại trường xưa. Nơi đây tất cả hình ảnh cũ ngày ấy bỗng chợt hiện về trong tâm tưởng của mọi người dù chỉ qua màn khói sương lãng đãng của nén hương lòng khi nhớ đến những người bạn một thời nay đã đi xa. Cỏ Biển Mùa xuân 2016

23

Alone With You (*)

về Ph. một mình,

…Alone With You… em ở đó ? hay mộng du cuốn chìm ? một dấu lặng – nhạc rơi im, không gian tím, vẽ đường chim

– di cầm. em quán vắng, tràn thanh âm. tôi dựa tối,

nghe tiếng thầm bủa vây. vùng lập thể tôi chao ngây, cung cầm láy họp sum vầy âm giai…

gọi ngày thơ, chắp mốt mai. miền quá khứ nối nguyên khai xuân đầu. tôi khơi gió,

em trăng lầu, nguồn phong vận quấn chân cầu tương lân. tôi ghé quán, biển khơi ngàn thanh vực rộng, hải triều vàng mì nhu. với em,

alone with you, đêm rất trẻ,

khuya mới, dù đã sâu… Vũ Hoàng Thư ------------------- (*) Guitar Armik

24

một sương mai

giọt về tôi biêng biếc tím bỗng về ngồi gần quanh một xưa lâu một nội thành mái âm dương dấu rêu xanh ủ chìm ngày như lạ

thinh không im ngủ cơn kinh động mắt lim dim chờ sương níu hoa đếm tuổi hờ mai rơi có hỏi những lời trước sau dịu dàng đi giã từ đầu về thôi triêu lộ

phối mầu triều hoa

bọt bèo trôi giọt sương sa thủy trầm về cội

môi hòa hạt duyên

giọt trong lóng tụ tan triền lời không nói

hẹn cõi miền riêng tư yên ắng tôi bặt ngôn từ ngày thanh lặng những thốt thưa khép lời Vũ Hoàng Thư

25

Đường Du Hào qua nét vẽ của Đường Phu Nhân

Tuổi già vui với cháu con thôi Tưởng rảnh ngờ đâu bận ngất trời Sáng sớm loay hoay bà khuấy sữa Đút ăn cho uống chẳng còn hơi Xế chiều lụm cụm ông thay tã Tắm rửa chùi lau muốn rã rời Nhớ nghĩa sanh thành ơn dưỡng dục Câu ca điệu hát giọng à ơi. (Retiree Tự Sự - ĐDH)

Tiếng ho của thằng cháu nội ở phòng kế bên đánh thức tôi trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày mới còn văng vẳng tiếng ru ời từ đêm qua do thằng bé khó ngủ. Âm điệu của “Rocking the baby on the tree top…” cũng như “Con mèo trèo lên cây cau…” nghe đều ngọt ngào, đong đưa, và đầy khả năng mời gọi cái hồn nhiên đã bị khoá kín bao năm trong tôi già nua cằn cỗi.

Bây giờ là 6:00 sáng. Hôm nay đã giữa tháng mười: mùa thu, mùa vàng của lá phong, của mây mù, mưa nhẹ; mùa trữ tình, đầy ắp dung môi, đẩy đưa sáng tác. Không cần phải là nhà thơ hay nhà văn, chỉ cần cầm lên cây viết - hay bấm vào bàn phiếm ảo trong thời đại computer này - chép xuống những ý nghĩ xuất hiện bâng quơ trong đầu là sẽ có ngay một cái gì đó để san sẻ với bạn bè, hay giúp vui cho chính mình, như tôi đang làm hôm nay, chẳng hạn.

Phòng tôi nhỏ, hẹp, bốn thước dọc ngang, cửa sổ nhìn qua ngôi nhà của một cặp vợ chồng già người Ấn Độ. Tôi đã đến Tích Lan và ở Ấn, quê hương của huyền thoại, hai tuần lễ, thăm viếng đủ bốn Phật tích, từ nội thành vương quốc Thích Ca in dấu con đường ra đi tìm chân lý đến tháp Đại Niết Bàn mé rừng Sa La Song Thọ, nơi tịch diệt của đấng Đại Giác. Tôi đã viếng khuôn viên vườn thượng uyển quê mẹ của bậc vĩ nhân chốn chào đời o oe như còn vang vọng đâu đây điệu ru ngàn xưa tình tự. Cỏ xanh thẳng tắp. Nước hồ trong veo. Tôi ngơ ngác tìm cành hoa vô ưu theo truyện đọc, và bất giác nhớ đến má tôi trong cơn quằn quại thể xác khi tôi ra đời hơn

26

sáu mươi năm về trước. Happy Birthday! Mừng ngày vượt cạn đã qua!

Thật là dư thừa khi nói chuyến đi đã để lại trong tôi những ấn tượng đẹp, ngay cả giờ đây, cứ mỗi lần nhìn trang phục, nghe giọng nói của ông láng giềng, và nhất là khi mùi cà ri dê khoái khẩu và bánh nan nướng chui lọt qua song cửa sổ khép hờ, tôi luôn có cảm tưởng mình đang còn lang thang đâu đó trên đất Ấn. Tưởng tượng thôi. Vì sự thực, tôi đang ở nhà thằng con trai, giúp cặp vợ chồng trẻ này chăn đứa cháu nội. Nhà tôi ở Olympia, tổ ấm mà ông nhà thơ OCS Vũ Hoàng Thư đã trong một lần ghé qua tệ xá, cùng Quý Bùi, Nguyễn Ngọc Lễ, và Lê Minh Sang... nhã hứng, dưới bóng cây dương cao ngất nghểu, hạ bút vẽ ra trong một bài thơ tựa đề "Đêm Hội Ngộ". Bàn về cái hay và văn phong tuyệt vời của họ Vũ qua bài thơ này là không nên. Bởi vì “Đêm Hội Ngộ” chỉ cần có tên tôi ghép vào là lập tức bài thơ đã nồng tăng độ ngọt.

Từ cáo lão hồi hưu, tôi ít thì giờ nhàn rỗi để làm một tên thường trú tại gia tập làm điệu như những anh chị già tuổi "baby boomer" ngồi uống trà, cao hứng vọng nguyệt bình thi. Tôi "khổ" hơn. Tôi phải ly gia cắt ái để thi hành "nghĩa vụ" nuôi cháu!

Trong một email nào đó, phe ta đã đưa lên một bài dạy dỗ theo kiểu luân lý giáo khoa thư rằng (thì là) có 4 điều không nên làm khi về già. Tôi phạm vào cái không nên số 4: nuôi cháu. Ai không tin cứ thử thì biết rõ đá vàng. Vì cái email đó đến trễ 2 năm nên tôi mới đơn độc, một mình cu ky trên căn phòng 4 x 4, bị hành hạ bởi món ăn độc đáo nồng nàn gia vị bí ẩn của cặp vợ chồng Ấn Độ già kia.

Tôi muốn nói về cái tổ ấm của Alain và Thu. Alain là con trai tôi. Thu là con gái của OC Trần Văn Luận, khoá 3. Tôi thân với Luận khi còn độc thân, dạo 1976, lúc mới định cư ở thành phố nhiều đồi, lắm dốc Seattle. Khi còn học ở Gonzaga U, những cuối tuần thiếu mục du hý, chúng tôi có cả Thiện bên Lưu Đày, và OC Hạt, có một hai lần tấp vào căn chung cư của anh chị

Luận để qua đêm và phá phách. Mấy năm sau, chuyện cơm áo gạo tiền xô dạt chúng tôi rời nhau mỗi người mỗi hướng, gặp gỡ ít dần, khoảng cách giữa tình bằng hữu càng lúc càng cách xa.

Thỉnh thoảng, năm khi mười hoạ, tôi bất ngờ gặp Luận trong một vài trường hợp khá gấp gáp, chúng tôi chẳng nói được gì nhiều, ngoài những câu xã giao hời hợt. Thời gian qua như một mũi tên bay. Con trai tôi, Alain mới đó đã xong đại học.

Một ngày tháng chín, gia đình tôi đi ăn trong một dịp cuối tuần tại một nhà hàng Việt, nho nhỏ trong khu thương mãi trên đường Jackson, được giới thiệu nhiều với món bún măng vịt mắm gừng. Ăn uống xong, trước khi ra về tôi vào phòng rửa tay, lúc đi ra tôi bất ngờ đâm vào Luận. Cả hai mừng rỡ. Tôi kéo anh đến bàn, giới thiệu vợ con. "Đây là Mai, bà xã tôi. Đây là Julie, con gái." Tôi chỉ tay về hướng Alain, vừa cất giọng, Luận đã cướp lời "Alain, con trai bạn!" - Ủa! sao ông biết? - Sao không! Nó "cua" con gái mình! Thỉnh thoảng đến nhà chơi hoài. Đã gặp rồi, nhưng hôm nay mới biết là con trai của bạn! - Vậy thì tốt quá rồi! Rồi Luận phát hoạ một tương lai: - Nếu mọi sự êm đẹp giữa hai chúng nó, tôi và bạn sẽ cụng li như xui gia. - Xong ngay! Cứ cho ngày gia đình chúng tôi sẽ đến nhà. - Có thể sau chuyến đi VN về. Đời người không những ngắn mà còn đầy bất ngờ như cái nhảy mũi. Luận về đến VN bị tim, căn bệnh cũ, lúc còn làm cho Boeing, trở chứng. Anh nằm xuống cô tịch nơi đất mẹ. Mấy tháng sau đó, tôi cầm li rượu, tự rót và uống cạn thay anh trong ngày cưới của hai đứa nhỏ, Alain và Thu.

Chỉ vì mấy ngày đến nhà anh chị Luận phá phách mà giờ này tôi cặm cụi nuôi cháu ngoại

27

của anh ta, tức là cháu nội của tôi. Nói vậy để mọi người hiểu cho rằng tôi chẳng phải tay nghề nuôi con nít. Tôi chẳng có một lựa chọn nào khác, bất khả dĩ thôi, nhân quả cả. Chuyện pha sữa, thay tã là chuyện nhỏ. Ru thằng bợm này ngủ mới là đại sự! À quên, xin được giới thiệu, thằng bợm này tên Philip, trong gia phả họ Đường ở Nguyệt Linh thôn, hậu duệ của một công thần thời hoàng đế cuối cùng bên tàu. Nó là "đường", chắc chắn không phải "phèn" như hiền nội của OC Bạch đã gọi nhầm, đã được lọc nấu đến đời thứ "XIX". Tên đầy đủ để nhận dạng là Đường Tứ Huy Philip. Mới một tuổi rưỡi, ru Philip ngủ là một chuyện trần thân, đòi hỏi kiên nhẫn và sáng tạo, hai đức tính mà tôi rất thiếu.

Đường Tứ Huy Philip qua nét vẽ của Bà Nội Mai Xin hỏi quý bà, ngay cả quý ông, đã có "bề dày" kinh nghiệm về nuôi con nít, rằng có phải không mấy ông lõi con này tánh nết cũng đổi thay như người lớn? Bởi vừa vài tháng trước đây thôi, Philip lăn đùng qua một bên, đưa cặp mông ôm

ấp trong bao tã Huggies số 4 dày cộm cho nội vỗ vài cái là đi ngay vào giấc điệp một cách mau mắn lẹ làng. Mấy lúc đó, tôi cứ tự hỏi không biết có phải là do giọng ca ngọt ngào thỏ thẻ như hết hơi của Hạ Vy hay do bàn tay mình vẫn còn điệu nghệ? Gần đây, Philip bắt đầu đổi tánh, như ông nội già sanh tật triết lý ba xu, Philip bỗng dưng khó ngủ. Nghĩ rằng Philip đã đổi gu, tôi cho Thanh Thuý “thử giọng”. Rồi chuyển qua “mời” nhiều giọng ca từ nồng nàn của Ánh Tuyết, mùi của Như Quỳnh...đến chót vót như Thái Thanh vào “audition”. Những giọng ca đại diện đủ mọi trường phái từ sến đến sang, từ the thé đến thỏ thẻ, ỏng ẹo đến trầm buồn, êm ái xoáy vào lòng người, Philip cũng không phê. Và mặc cho bàn tay nghề với mười ngón nghịch ngợm cho dù nay có thấp thoáng dấu thời gian (nói một cách bình dân là đầy đồi mồi) của tôi có vỗ lên cặp đít non cỡ nào Philip vẫn cứ trằn trọc như một người có tâm sự, không ngủ. Khó vô cùng tận!

Tôi chợt nhớ đến hai vị sư phụ trong ngành “ru em”: ông nhà thơ Huy Cận và nhạc sĩ Phạm Duy, trong "ru em sẵn tiếng thuỳ dương đôi bờ". Thật là bái phục, hai ông này chỉ cần thỏ thẻ "ngủ đi em, ngủ đi em” là thin thít mọi chuyện! Rất tiếc với Philip thì không thể áp dụng mấy câu thần chú này được. Nó không dễ như những lần "ru" mấy em mười tám hồi còn độc thân mấy thập niên về trước. Nói thật, “ru em” là ngón nghề của cánh đàn ông chúng tôi, nhưng với Philip tôi cũng đành bó tay.

Thiệt đúng là trời không phụ lòng người tốt. Cho đến một hôm có người bảo đảm với tôi rằng con nít thích ngủ lúc xe chạy. Tôi nghe lời, làm thử. Hiệu quả bất ngờ!!!

Giờ ngủ trưa, "nap time", để dỗ Philip ngủ, tôi mang cháu ra xe đánh một vòng. Vòng dài hay ngắn tuỳ vào lúc nào đôi mắt có hàng lông mi quá dài cho một đứa bé trai này khép lại. Nhà tôi ở trên đường 240th, tít trên một con dốc thật cao, cao đến độ (nói dại) chỉ cần đứt thắng là xe sẽ lăn đến nhà anh Minh Furo dưới dốc xa đến cả hải lý, để chúng tôi uống trà. Ngoại trừ hai

28

ngày cuối tuần - cám ơn Bộ Lao Động tôi vẫn được hai ngày lấy hơi thở - mỗi ngày lúc quá ngọ, tôi đều chạy xe ngang qua con đường nhà anh Minh một cách chăm chỉ như ngày xưa còng lưng trên xe đạp lượn từ Ký Túc Xá Yersin qua lại ngôi nhà hai tầng trên đường phố Độc Lập, Nha Trang. Tôi đã làm chuyện này như một tín đồ ngoan đạo, bất kể nắng mưa, vừa đạp xe vừa lẩm bẩm như một người đầu óc có vấn đề: “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ…”, một bài hát chẳng có gì ăn nhập với tiếng kêu cút kít của cái sên xe đạp, nhưng vì cái kho tàng âm nhạc trong bộ nhớ vắng vẻ của tôi chỉ có mỗi một câu đó nên mang ra cho có chút lãng mạn. Kiên nhẫn là chịu khó lái xe mỗi ngày bất kể nắng mưa, còn sáng tạo là chỗ này: Kể từ khi tôi "trade in" chiếc Toyota VAN cũ, Philip trở chứng, không ngủ. Cho dù tôi có chạy đến hết xăng nó vẫn không ngủ. Một lần trong giờ trao đổi kinh nghiệm với con trai tôi về "chiến thuật đối phó Philip", tôi tìm ra câu trả lời: xe mới! Chiếc xe mới quá êm! So với chiếc VAN cũ, dù chạy trên đường nhựa mới đắp, tiếng rung rinh, tiếng lụp bụp của bánh xe vẫn còn nghe rõ mồn một, như tiếng động của nồi niêu xoong chảo từ một quán hàng xén. Chính tiếng động này đã ru thằng cháu nội tôi ngủ say. Tôi bèn nghĩ ra một cách mà cho đến giờ cứ tự thầm khen mình thông minh xuất chúng: Giữa hai làn đường, lục lộ gắn những cục tròn màu trắng to bằng cái bánh bao trong các tiệm ăn tàu, để phân chia làn xe đan chen với những vệt trắng. Ở những đoạn vắng xe, tôi cố tình chạy sao cho một bên xe, bánh xe cán lên những cục đó; tức thì, chiếc xe tưng lên và phát ra những tiếng ồn nho nhỏ. Philip chỉ chờ đợi một chút đó thôi, một chút âm thanh lụp đụp rẻ tiền nhưng khó kiếm như những ngày nắng hiếm hoi trong cái con phố nhỏ nhưng mưa nhiều, nơi mà tôi đang gọi là quê hương thứ hai này. Thế là anh ta mỉm cười, lim dim đôi mắt, sau đó nằm im lìm nghe ngóng, rồi sa vào giấc ngủ ngon lành. Philip sập bẫy ngay cái nhịp bập bùng 2/4 đầu tiên của tiếng bánh xe cán trên lằn

đường 240th. Chỉ khổ cho tôi là đường có vật thể như thế lại không nhiều và không dài. Nhưng không sao, đường đời dù có dài hay ngắn cũng đâu thể nào cứ bằng phẳng mãi.

Khi ngày bắt đầu ngắn, khi bầu trời bắt đầu có nhiều mây xám tụ về, khi những cơn gió bắt đầu khô và lạnh là thu đến, là cúm đến đi kèm - mua một tặng một - theo với những cơn ho khan không chờ đợi và những cú nhảy mũi đầy ngạc nhiên chẳng thích thú. Những anh chị trên sáu bó bắt đầu xếp hàng chích ngừa cúm. (Chích free, Medicare trả 100%.) Tiếc thay, chích ngừa không có nghĩa là sẽ thoát lạnh, tránh được cúm. Con nít không có cái may mắn được chích ngừa, chúng lần lượt ngã bệnh nằm bẹp như những con cờ dominos. Đứa này lây sang đứa kia nhất là mấy đứa nhỏ gởi ở những trung tâm vườn trẻ "day care". Bệnh biến chứng từ nóng sốt đến chảy nước mũi, ho. Ho làm chúng khó ngủ. Chuyện lái xe ru Philip ngủ giữa canh khuya trở thành một sứ mệnh bất khả, một “mission impossible”. Tụi nhỏ ho làm người lớn sốt ruột. Thực tình mà nói, nhờ nuôi Philip mà tôi tự lúc nào cũng đã biết canh cánh lòng vì tiếng ho của một đứa bé.

Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ, nhìn Philip nằm ngửa, duỗi hai cánh tay bụ bẫm, ngủ một cách hồn nhiên giữa đống chăn mền bề bộn, tôi mơ màng hình dung ra chính mình trong vòng tay của má tôi những ngày Người ầu ơ câu ca dao dễ thương của tuổi nhỏ. Từng bước rón rén trở lại giường, tôi chìm dần vào giấc ngủ, bên tai còn nghe văng vẳng điệu ru: “Con mèo trèo lên cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà Chú chuột đi chợ đường xa Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo! ...hờ hơ… hớ hơ…hờ hơ...” Đường Du Hào Tàn thu 2015

29

Bốn Mùa Mê Ngộ Hoa thôi kết nụ ta bà Bướm trong mê muội cuồng ma bập bồng Nắng chiều về với cõi không Ve sầu mải đắm càn khôn gật gù Lá thu vàng ngộ chân như Hạc bay lạc lối ẫm ờ mù sương Tuyết tan trong cõi vô thường Mây còn khua động miên trường huyễn không Nón Lá Xuân Thì

Gợi ý từ “Cái Nón Lá” của Phạm Tín An Ninh Mô rồi chiếc nón o nghiêng O che nắng hạ, bên hiên nắng chờ Nón xinh lồng một bài thơ Tay cầm quai nón màu tơ lụa vàng Chiều chiều nắng nhạt mang mang

Dưới chân trời tím Hương Giang mơ màng O chờ một chuyến đò ngang Bến đò Thừa Phủ đưa sang Nội Thành Nón che dấu mặt nửa vành Môi cười chớm nụ mắt ngời sao mai Tóc o bay, áo trắng bay Nón o ôm ấp những ngày mộng mơ Tóc mây buông xả đôi bờ Nghiêng che nửa mái khép hờ bên tê Phượng hồng theo gót o về Gió chiều lay nhẹ cung mê giữa trời Mất rồi chiếc nón xuân thời Nón o dấu kín cả trời Huế thương Mùa Anh Đào, Washington, D.C. Hội ngộ, 2016

30

Huỳnh Kim Khanh

Bài thơ cổ đời Đường Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một trong nhiều bài thơ Đường thường được bàn đến trong văn chương 黃鶴樓 ( Hoàng Hạc Lâu) 昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc Khứ 此地空餘黃鶴樓。 Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu 黃鶴一去不復返, Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản 白雲千載空悠悠。 Bạch vân thiên tải không du du 晴川歷歷漢陽樹, Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ 芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương thảo thê thê Anh Vũ châu 日暮鄉關何處是, Nhật mộ hương quan hà xứ thi? 煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sấu! ) Dịch nghĩa: Lầu Hoàng Hạc Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất, chỗ nầy chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc Hạc vàng một đi không trở lại Mây trắng ngàn năm vẫn bay bay Mặt sông lặng lẽ in bóng vòm cây Hán Dương

31

Cỏ thơm man mát xanh rờn bãi Anh Vũ Ngày tối trời chiều, tự hỏi đâu là quê nhà? Khói sóng trên sông khiến lòng khách xa nhà buồn! Đây là một bài thơ Đường có nhiều sắc thái khác lạ so với những bài thơ Đường khác. Nói về âm luật thì bài này đã vượt ra ngoài khuôn khổ bình thường. Ngay trong câu đầu, chữ “dĩ” vần trắc đứng trước chữ “thừa” vần bằng đã phá lệ. Chữ “khứ” nếu đọc theo thông lệ Việt Nam thì cũng đã phá luật. Mặc dù theo chữ Hán cổ điển, chữ “khứ” được đọc là “khu” hoặc “khư” sẽ làm bài thơ nằm trong khuôn khổ niêm luật. Thế nhưng hai chữ “dĩ thừa” thay vì theo âm vận phải là “thừa dĩ" đã làm đảo lộn luật thơ ngay từ đầu. Có thể nói hai chữ “dĩ thừa” và chữ “khứ” đã làm đảo lộn luật thơ và đã cho bài thơ Đường này một sắc thái độc đáo ngay từ câu đầu. Câu thứ ba cũng không kém độc đáo: Chữ “khứ” và chữ “bất” liền sau đó cũng lạc vận ( không vần). Từ đó về sau, bài thơ đi theo đúng niêm luật. Nói vắn tắt, ba câu đầu của bài thơ Đường này đã làm bài thơ trở nên độc đáo. Nhìều thi sỹ Việt Nam đã dịch bài này, như Tản Đà, Ngô Tất Tố: Bản dịch của Tản Đà Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai Bản dịch của Ngô Tất Tố Người xưa cưỡi hạc đã cao bay Lầu hạc còn suông với chốn này Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy Hoàng hôn về đó quê đâu tá? Khói sóng trên sông não dạ người. Dịch thơ bảy chữ bằng lục bát thì có hơi gượng ép. Vũ Hoàng Chương cũng đã dịch bài này:

32

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai Lầu Hoàng Hạc Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất Chốn cũ còn trơ Hoàng Hạc lâu Hạc đã bay đi không trở lại Mây bay thơ thẩn biết về đâu? Hán Dương sông lạnh cây vờn bóng Anh Vũ cồn thơm cỏ rợn màu Sớm tối chiều hôm quê nhà khuất Sóng xô khói tỏa khiến lòng đau! (HKK dịch) Huỳnh Kim Khanh 2015.12.05

33

(Trưởng nam của Phan Thiện Ái, OCS7) A SOLDIER’S GREATNESS

After reading Bác Nam’s (Phan Nhật Nam) writing about Robert M. Bowen’s “Fighting with Screaming Eagle”

Yes! Once upon that courageous time, you were young. Hands clenching a Thompson gun, lips pondering a smoking pipe, Eyes reflecting the greenness of a magnificent time in life. Receiving the soldier uniform, your youth ripened newly and simultaneously. Airborne ! Airborne ! Hung Go! Hung Go! The 401st Airbone Regiment, History and Human Destiny began here at Brock Camp (1) And danger like sea waves ceaselessly rising From the gate of “Home of 101”, Fort Braggs, you started the just journey. (2) Cliff Utah was so high! (3) The fate of warriors was adversity. Your strength - how glorious it was. Hands broke stone, feet trampled mine fields Hiding behind the still warm bodies of fallen brothers, Each warm corpse measured out each cruel inch of mountain to conquer How many people could survive among your company’s hundred soldiers ?!

34

Utah! Oh Utah ! Did you not know the indifference of the world? The CG-4A Glider looked so fragile floating amidst (4) The German anti-aircraft defense with their flying fence of fire - Fire to destroy ! Fire ablaze with anger and rage … “Old Soldiers never die !!” (5) Unjust warfield, only the young soldier was fiercely killed !! Arden, Bastogne.. (6) The most perilous bridgeheads in Holland American soldiers sacrificed their lives throughout that foreign land. One-O-One Airborne Alone, under siege The clarion call of assault, shivering in the air, mixed with the soldiers’ excited hurrahs. Hoist the flag ! Hoist the flag higher ! That sacred flag shining with Stars and Stripes ! Twenty years later Battlefied Bastogne repeats itself … There in the valley of Ashau, deep in the dense tropical forest of a distant land (7) On Ngok Wank peak and through Chu Phong pass (8) In the dangerous gorge and canyon of the remote mountain Airborn soldiers with blue eyes, blond hair, black skin … In turn all took positions side by side in death With the young Vietnamese soldiers. Vietnam ! Vietnam! Each tour of duty full of misfortune Fifty-eight thousand names crowded on the Wall But all over this world – how many people know? Could it only be the graying mother visiting from Alabama Who weeps tears of pain for each mile of her son’s absence Or the timeworn man from Washington State restraining his silent cries in front of that Wall. In fact, this world has saturated enough tears from American People The United States of America The Eagle screaming with glory I meet him in the crowd At the airport … His veteran’s hat laden with military badges and decorations from the old battlefields...

35

His hands cracked with features of a sea turtle’s skin His withered skin dry with the respected age Only his fierce glint, Yes, The glint of a once youthful warrior Never dims. As when the glider dove into the glowing fortress of fire. Hung Go! Hung Go! Airborn ! Try On ! He and I – we are different only in languages But both once faced the bullets and fires of battlefields. On the bruised ground Soaking through collapsed parachutes Death bursts brutally. Earthborn, we landed from the sky Accepting Human Destiny. The Soldier ! Airborn All the Way (9) Phan Hải Đăng (2003) Notes: (1) Fort Brock, Reading, Penn (?): Training Center of the 401st Regiment (2) Fort Braggs, “Home of 101”, North Carolina: The principal headquarter of the American Airborn (3) Utah: Code name of the disembarkment place on the Normandie Beach, France; Military

Operation Overlord, 6/6/1944 (4) CG-4A: the code name of the glider used in the disembarkment operation (5) MacArthur: Old Soldier Never Died.. (6) Arden, Bastogne: important battlefields in Holland where the American Airborn were besieged (7) Bastogne: name of the Vietnamese-American Firepower Military Base in the Valley Ashau,

South-West of Hue Citadel (8) Ngok Wank; Chu Phong: The mountain Summit and strategic Pass in the Western Highlands of

Vietnam. The important military operation of the Vietnamese- American allied airborn troops (9) Airborn All the Way: Military signals of the American Airborn http://www.poetryfoundation.org/poetrymagazine/poem/251230 http://www.poetryfoundation.org/bio/hai-dang-phan

36

Da Rừng Phạm Hồng Ân

Chiếc xe dừng lại nơi bìa rừng. Hình như đây là rừng Xuyên Mộc hay Xuyên Thổ chi đó ở vùng Bà Rịa. Ðám con tôi loi ngoi xuống xe. Mặt mày mỗi đứa lem luốc quằn quệnh như thoa lọ nồi. Gã tài xế nhảy phóc xuống lề, chạy ra phía sau, la lớn:

- Tới rồi bà con ơi! Làm ơn chuyển lẹ đồ đạc xuống xe. Mẹ, tôi còn phải trở lại thành phố. Tôi mọp đầu thật thấp, tránh cái bình than đá quái quỉ lúc nào cũng ùng ục ùng ục, bắn ra hàng loạt những tia lửa tia than trong suốt cuộc hành trình. Trong lúc tôi đang loay hoay, gã tài xế bỗng chạy đến, nắm tay tôi lôi mạnh.

- Xuống lẹ dùm con, Má ơi! Ði vùng kinh tế mới mà như đi du lịch...

Sức lôi của gã tài xế khiến tôi ngã bẹp xuống đất rừng. Cái đít rơi bịch như trái mít rụng. Ðá, sỏi, gai, gốc...từ phía dưới chỉa lên, đâm thấu vào da thịt, làm ran rát nguyên cả bàn tọa. Tôi nhăn mặt, hít hà, ôm cái đít ê ẩm nhìn ngược ra con đường. Ðoàn xe cải tiến tiếp tục chạy tới, nối đuôi, thả khói nghịt trời. Bụi lửa từ bình than đá bắn ra tứ tung. Nó cộng với bụi đường, bụi rừng...đua nhau quện vào thân thể người dân như một đòn tra tấn cực kỳ của lịch sử.

- Má ơi, nhanh lên! Người ta kêu vào phía trong chọn nhà kia kìa!

Con Na cõng thằng Út lên vai, hai tay đèo thêm hai túi xách. Nó khệnh khạng bám theo đám đông, chạy thẳng vô cánh rừng. Thằng Ðậu, thằng Rớt, con Ú, con Nhách lóc cóc theo sau.

Mỗi đứa một bịt nylon – trong đó ngổn ngang chén, dĩa, ly, tách, nồi, niêu, mùng, mền, quần, áo...Tôi hổn hển nối đuôi, nhắm vạt áo rằn ri của con Nhách mà bườn tới trước. Tôi bườn như con điên. Tóc tai rối tung. Mặt mày hốc hác. Cái túi đựng ba mớ hỗn độn vẫn khư khư trước bụng. Dường như nó bắt đầu nặng nề, chướng rướng chàng ràng một cách khó chịu. Rồi, hai bàn tay yếu đuối của tôi không thể giữ nổi nó nữa. Nó chợt vuột khỏi vòng ôm, lăn tròn xuống đám cỏ gai, bùng bình búng bính một lúc, mới chịu vỡ toang ra từng mảng. Sổ hộ khẩu, giấy mượn lương thực, giấy chứng nhận đi vùng kinh tế mới, hình ảnh chồng con...cùng với thuốc xuyên tâm liên, thuốc nghệ, thuốc giải nọc rắn, băng keo, băng vệ sinh, giấy chùi đít, gương, lược, phấn, son...đua nhau rơi lả tả xuống con dốc.

Con Na quăng vội thằng Út qua cánh tay khẳng khiu của thằng Ðậu. Nó nhảy phóc đến bên tôi, nhanh nhẩu nhặt nhạnh ba mớ hỗn độn bướng bỉnh.

- Nhanh nhanh má ơi! Chậm quá, tối nay cả gia đình ngủ ở trong rừng đấy!

- Con chạy lên trước, chọn nhà đi! Má với các em lên sau. Chân má đạp phải gai, nhức quá đây này!

Tôi nhìn bàn chân sưng húp. Nhìn hai vạt quần rách bươm, tơi tả như miếng giẻ lau nhà. Nhìn đám con quằn quại, lặn ngụp giữa dòng đời. Nhìn con Na vừa 12 tuổi đầu, đã vội thay

37

cha thay mẹ gánh nặng phiền muộn trên vai. Chạnh lòng, tôi muốn khóc. Nhưng, nước mắt bây giờ, dường như đã cạn khô trong tôi. Nó như vuông ao sệt bùn. Như bầu sữa vắt kiệt.

Những căn nhà lêu bêu hiện ra, trải dài, mút tầm nhìn. Không. Nó không đáng gọi là nhà. Chỉ có vài mảnh lá thưa, che nhếch nhác bên trên. Xung quanh trống hoác. Gió rừng nhào lộn tứ tung. Làm rúng rính những kèo cột, lớn bằng cánh tay con Na. Ðám con tôi tiến tới đâu, những căn nhà bị người ta chiếm đóng tới đấy. Ước chừng – vượt qua ba, bốn cây số đường dài. Ước chừng – nắng tuột phía sau, mặt trời ngã chiều. Con Na đã mệt đừ. Mồ hôi thấm như mưa, ướt nhèm nhẹp lưng áo. Thằng Rớt tuột quần khỏi đầu gối, nó chạy ngất nga ngất ngưởng như một tên hề.

Bỗng thằng Ðậu nhảy cửng lên như ngựa, rồi xà vào một căn nhà vắng tanh, hét lớn:

- Con xí được nhà rồi. Má ơi! chị Na ơi! mang đồ đạc vào, lẹ lên!

Tôi chưa kịp phản ứng, tai đã bùng lên giọng ồ ề của một lão già.

- Nhà này có chủ rồi. Ði khỏi bìa rừng, họa may, có chỗ trống.

Thằng Ðậu thất vọng, ngã lăn xuống đất rừng. Ðất rừng cứng như đá cục. Ðất, giống tấm da trâu bị căng ra phơi nắng. Nó nứt từng mảng. Nó rạn từng thớ. Thằng Ðậu cũng không thua chi tấm da trâu. Thân hình đen mẻm. Cát bụi loang lổ trên bụng, trên nách.

- Trời ơi! Vùng kinh tế sao kinh thế? Má ơi! Con đau bụng, mắc ỉa quá!

Con Ú nằm vạ, ôm bụng lăn lộn. Tôi lê đến túi xách, mò mẫm chai Nhị Thiên Ðường, thoa lia thoa lịa vào rún con.

- Con muốn đi ỉa, đi ỉa. Tôi kéo bừa con Ú vào một gốc cây. Cỏ cao

đến đầu gối. Tôi dùng chân đạp cỏ rạp xuống, rồi lấy tay vẹt trống một khoảng, vừa chỗ cho con Ú đặt mông xuống.

- Này, ỉa bậy phải không? Mất vệ sinh. Mất vệ sinh.

Gã thanh niên nào đó xuất hiện. Tấm băng màu đỏ quấn vòng tay áo, xẩm màu theo vạt nắng cuối ngày. Hắn vừa lắc đầu quầy quậy, vừa phóng một cây vá đầy đất bẩn, cắm phụp trước mặt tôi.

- Ðào lỗ cho con nhỏ ỉa. Xong, lấp lại, cẩn thận.

Cái lỗ được xới lên. Chậm chạp. Vất vả. Bởi bàn tay gầy guộc và yếu đuối của tôi. Cái lỗ chưa kịp khơi xong, con Ú đã phọt ra, tung toé trên cỏ rừng. Gã thanh niên lại lắc đầu quầy quậy. Hắn bỏ đi một hơi, sau khi cất giọng chửi thề:

- Mẹ, dân thành phố dơ dáy quá! Khó hòa hợp.

Nắng rớt nhẹ trên đỉnh dã thụ. Nó lung linh, dìu dịu nơi đó một chốc. Rồi hun hút mất tăm, chìm ngủm trong bóng đen của cánh rừng. Những căn nhà bắt đầu thắp đèn. Những ngọn đèn leo lét như ma trơi, lập lòe giữa không gian âm u. Tôi rã rời. Tay chân mình mẩy như bị cắt ra từng khúc. Cái bịt nylon nặng trịch trước bụng. Con mắt bắt đầu tối thui. Bầy con vây quanh chỉ còn là những cái bóng mập mờ, lúc ẩn lúc hiện. Tôi quờ quạng giây lát, cuối cùng nhủi đầu xuống một vạt cỏ. Tai chỉ còn nghe lùng bùng tiếng côn trùng râm ran, hắt ra từ mõm rừng.

Mùi dầu gió nồng nồng đánh thức tôi dậy. Vết cạo rát rạt trên lưng đánh thức tôi dậy. Tiếng khóc như đưa đám của bầy con tôi đánh thức tôi dậy. Đặc biệt, giọng oang oang như xé toác bóng đêm của gã đàn ông nào đó...cũng đánh thức tôi dậy.

- Kìa, bả tỉnh rồi kìa. Tụi bây bắt nồi lên, nấu cho bả miếng cháo giải cảm. Chặc, con cái đùm đề mà chồng không thấy?

Con Na ngồi xổm xuống nền đất, chụm ba cục đá lại làm lò, rồi đưa nhúm bùi nhùi vô đốt, lửa phựt lên đỏ hồng. Thằng Đậu bắt nồi gạo lên lò, chổng mông thổi phù phù. Thằng Rớt, Con Ú, con Nhách và thằng Út vây quanh tôi, nước mắt nước mũi dầm dề. Tôi ngơ ngác ngó chỗ tôi

38

nằm. Đó là tấm nylon che mưa, trải thẳng xuống nền đất ẩm, còn sực mùi sình non. Tôi ngơ ngác ngó lên mái lá lưa thưa. Đó là một túp lều mỏng mảnh, thua xa cái chuồng ngày xưa tôi dựng lên để nuôi gia cầm. Và điều tôi ngơ ngác nữa, là có gã đàn ông nào đó...hiện diện nơi này.

Như thấu được nỗi thắc mắc của tôi, gã đàn ông phơi bày.

- Qua là tổ trưởng ở đây. Nhà này là nhà của qua. Thấy em bệnh hoạn, lại con cái đùm đề, nên qua nhường nhà cho gia đình em ở. Em cứ yên tâm, qua sẽ qua lại thường xuyên, giúp đỡ mấy cháu.

Thằng Rớt kéo vạt áo tôi lên, quẹt nước mắt. - Bác nhường nhà cho tụi con, rồi bác ở đâu? - Bác qua Ấp ở tạm, chờ họ cất thêm nhà, bác

dọn tới mấy hồi... Tôi không còn hơi sức đâu để cân phân, suy

tính. Bây giờ, tôi như một miếng giấy thấm nước, ướt nhem. Người ta vớt lên, cầm không khéo, giấy sẽ rách tan hoang. Thà là giao hết mọi quyết định cho con Na, thằng Đậu. Thà là làm một người mẹ bù nhìn, đỡ khổ hơn.

Công việc ở vùng kinh tế mới vượt ngoài khả năng của gia đình tôi. Người ta bắt dân phá rừng trồng rẫy. Cây rừng nhỏ nhất cũng bằng vòng ôm của thằng Út. Với sức cùn của một người đàn bà mất chồng, với vóc dáng của một bầy con đói khát, đứa lớn nhất chỉ mới 12 tuổi, liệu bao lâu chúng tôi mới đứng vững trên cánh rừng bạt ngàn này?

Rừng xanh um và thâm sâu bí hiểm, khi tôi mới đặt chân đến. Bây giờ nó xác xơ, tiêu điều như dấu tích của một trận chiến. Cây rừng bị hạ gục, nằm la liệt khắp nơi. Những thau lau, bằng lăng, giáng hương, trầm hương quí hiếm...đang lăn lóc giẫy chết dưới bàn tay tàn bạo của con người. Họ tấn công rừng đủ kiểu, đủ cách. Bằng sức người, bằng máy cưa, bằng cần trục, bằng chất nổ, bằng mọi sức mạnh sẵn có...miễn sao rừng gục ngã, thoi thóp, hấp hối và chết tiệt. Hàng trăm xe tải thay phiên nhau túc trực ngày đêm để chuyên chở thi-thể-rừng về các trại mộc.

Họ móc ngoặc nhau, chia của, chia tiền. Họ tiêu diệt thiên nhiên, giết dần sự sống.

Rừng giẫy chết trong khi căn nhà tôi ở trông khá hơn một chút, nhờ công sức của con Na, thằng Đậu và gã đàn ông xa lạ. Hai đứa mò sâu vào rừng kiếm nứa, chặt và cột từng bó vác về. Gã đàn ông chỉ cách róc nứa từng mảnh, xong đan chúng vào nhau, rồi dựng thành vách. Vách nứa tuy mỏng manh, nhưng cũng che kín căn nhà, che kín phần nào nơi tôi và con Na thay quần áo, tắm rửa và tiểu tiện. Và tôi biết, nó cũng che kín phần nào cặp mắt cú vọ của gã đàn ông thèm khát kia, lúc nào tôi cởi truồng tắm, cũng thấy gã hiện ra, ngó chăm bẩm vô tấm nylon mỏng dánh một cách đờ đẫn. Đôi lần, tôi muốn vạch mặt, mắng gã vài câu. Hoặc xua đuổi, tống khứ gã đi cho rảnh nợ. Nhưng nghĩ lại, tôi cũng cần gã bây giờ. Như một thứ dây leo yếu đuối, cần bám vào cành khẳng khiu nào đó để vươn lên.

Rừng. Cây bị người ta cắt ngang, chỉ còn gốc trơ trụi. Buổi trưa, nắng cháy như lửa. Nắng đốt ước mơ tôi thành tro than. Nắng thiêu cuộc sống tôi quằn quại. Rừng không còn bóng mát để tôi che thân. Rừng giẫy chết kéo theo tôi giẫy chết. Thời gian, đối với tôi, bây giờ không cần thiết. Ngày nào như ngày nấy, tôi và con Na đều luồn dưới hố cây, chúi qua lủi lại, dùng sức chặt đứt rễ chằng chịt của gốc để cho xe cần trục tới bứng dễ dàng. Hai mẹ con cắm đầu, dãi nắng dầm mưa, chém tới tấp như hai con khùng. Chém chừng nào không còn một cọng rễ nào bấu vào đất. Lúc đó hai mẹ con mới buông dao, ngã ngang vào vách hố, ôm nhau thở hì hục. Chiều nào tôi cũng đưa hai bàn tay sưng phồng, rướm đầy máu lên mắt. Tôi ngó thương tích trừng trừng, rồi chầm chậm ngước mặt lên trời, khóc một hơi dài. Vậy mà khẩu phần hàng tháng của chúng tôi vẫn teo tóp. Từ những ký gạo mốc trộn đầy bông cỏ đến bắp, khoai lang. Cuối cùng chỉ là những lát khoai mì chua lét chua lè. Tôi, con Na, thằng Đậu và thằng Rớt hiểu được thế cuộc đổi dời, nên ngậm đắng nuốt cay cố nhét

39

những lát khoai cù nhầy vào bao tử. Còn con Ú, con Nhách và thằng Út thà chết không thèm đụng tới. Đến giờ ăn, chúng nó như đám giặc, kéo nhau la bài hải. Nếu không nhờ gã đàn ông tiếp tế vài ký gạo mốc, hàng tháng - chắc tôi phải mang thêm chứng bệnh đau tim bởi tiếng la đổ trời vỡ đất này.

Sáng nay, gã đàn ông bỗng dưng hẹn tôi tới ấp kiểm thảo. Tôi không hiểu kiểm thảo cái khỉ khô gì khi tôi làm trầy da tróc vảy mà chưa được một miếng cơm vô họng? Như sợ tôi đổ lì, gã cử một thanh niên đến rước tôi. Sau khi đi vòng vo một đổi, tên thanh niên đẩy tôi vô một căn nhà, có cửa cái trổ ra cánh rừng. Căn nhà ẩm thấp, lè tè như những căn nhà tạm bợ khác trong khu kinh tế mới này. Chỉ đặc biệt, trên vách có treo lá cờ đỏ ối và hình của vị lãnh tụ. Gã đàn ông đang ngồi bập bập điếu thuốc bên chiếc bàn gỗ ngả màu da trâu. Bên trái, là chiếc giường bằng tre lẹp kẹp, trên đó ngổn ngang gối mền và quần áo tạp nhạp.

- Qua chờ em từ sáng tới giờ. Em ngồi đi. Qua muốn nói với em một chuyện. Tôi cẩn thận đặt đít xuống mép giường. Mùi quần áo dơ xông lên, hắt hắt lỗ mũi.

- Chuyện gì? Tui lao động tận lực như mấy người khác. Có làm biếng đâu mà đòi kiểm thảo?

- Không phải chuyện kiểm thảo. Đó chỉ là hình thức để kêu em tới đây.

- Vậy chớ chuyện gì? Gã bắt đầu đưa cặp mắt cú vọ rà lên thân thể

tôi, cuối cùng dừng lại ở bộ ngực, chăm bẳm như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Gã lại bập bập điếu thuốc. Khói tuôn ra trắng xóa. Tôi nghe tiếng nước miếng ực ực trong cổ họng gã.

- Chuyện tình. Gã lập cập như nói ngọng. - Qua...thương...em. Thương...em nhiều lắm. Nghe lời tỏ tình quê mùa và nhạt nhẽo của

gã, khiến tôi muốn bật cười. Tôi đã biết trước sẽ có một ngày như thế này. Sẽ có một lúc gã

không chịu nổi cảnh rạo rực động tình của một con đực, trước thân thể hấp dẫn của một con cái cô độc.

- Tui đã qua cái thời yêu đương nhảm nhí rồi. Bây giờ, tui phải kiếm miếng ăn, lo cho các con tôi.

Gã đứng lên, quăng mạnh tàn thuốc ra cửa. Rồi, nhanh như chớp, gã nhảy bổ vào người tôi, đè tôi bật ngửa xuống nền giường. Tôi chưa kịp phản ứng, gã đã giựt phăng khuy áo tôi, cởi trần cặp ngực tôi. Xong, úp mặt vào đó, thở hổn hển.

Tôi đạp túi bụi. Tôi đấm thùm thụp trên lưng gã. Tôi gào, tôi la đến khàn cả họng. Nhưng, tất cả những phản kháng này đều yếu ớt trước sức mạnh của con thú điên cuồng. Khi mảnh vải cuối cùng vừa tuột khỏi đầu gối tôi, chợt có tiếng hét chói lói ngoài cánh cửa.

- Buông ra! Ông buông má tui ngay! Trong cơn hốt hoảng tột độ, tai tôi bỗng nghe

tiếng "phụp" ghê rợn. Rồi, tiếng rú kinh hoàng cất lên. Máu từ đâu phún mạnh vào miệng tôi, loang xuống thân thể, ướt đẫm bầu vú tôi.

Con Na bị công an dẫn đi ngay, cùng với con dao rừng còn đỏ máu. Gã đàn ông được chi bộ ấp tức tốc đưa đi cấp cứu. Chỉ còn tôi, một mình quằn quại với nỗi đau mất con, với tiếng thị phi dị nghị của người đời. Tên thanh niên ban sáng đưa tôi đến đây, nhất định kết tội tôi đã dùng thân xác quyến dụ gã đàn ông. Tôi chỉ biết cúi đầu, lặng câm. Tôi không còn hơi sức nào nữa thanh minh cho sự oan trái này. Cũng không còn nước mắt để khóc, cho vơi đi phiền muộn. Nước mắt tôi đã khô cạn từ lâu. Nó như vuông ao sệt bùn. Như bầu sữa vắt kiệt.

Ngày mai này, tôi sẽ dắt bầy con trốn khỏi nơi đây. Nếu không, sớm muộn gì tôi cũng phải giẫy chết như cánh rừng tội nghiệp này. PHẠM HỒNG ÂN (Viết ở San Diego năm 2000, viết tiếp ở Escondido 08/08/2014)

40

Ôm Nửa Vầng Trăng

Vèo trông bóng ngựa đầu non Nam Kha tỉnh giấc sắp tròn bảy mươi Rằng xưa hóa bướm rong chơi Trang Chu phẩy quạt bên người quần thoa Giờ đây lặng ngắm trăng tà Sương đêm trắng tóc mình ta ngậm ngùi Dường như đáy nước gương soi Nửa vầng hư ảo bóng người ôm trăng Nhân sinh một kiếp phù vân Công danh ấy cũng theo dòng nước trôi Mai kia trả hết nợ đời Theo mây về núi nhập lời Thông reo Xuân Đã Về Chưa ! Có phải mùa Xuân vừa về không em ! Sao nụ hoa kia chưa nở đã tàn Sao mắt Thu em nhuốm sầu ảm đạm Và môi Đông em băng gía mênh mang Có phải mùa Xuân vừa về không em ! Sao trái tim anh thôi đập rộn ràng Cớ sao hồn anh chất sầu vạn cổ Cuộc sống ngày càng héo mòn tháng năm Có phải mùa Xuân vừa về không em ! Nhưng sao chúng mình vẫn hoài cách ngăn Kỉ niệm ngày xưa mờ phai năm tháng Chút ân tình nào trôi vào hư không Thôi kệ mùa Xuân có về hay không ! Thôi kệ ngàn hoa rực rỡ trên đồng Vì cõi lòng anh Đông còn băng gía Và mắt Thu em vẫn sầu mênh mông Mây Hải Đảo

th Mây H i Đ o

41

Phan Thái Yên Đất trời đang giữa mùa Xuân. Còn mùa trên xứ Vạn Hồ thì mới lóp ngóp bước vào những ngày xuân sớm. Những người thích làm vườn tuy lòng bức rức với cơn sốt xuân của lá mầm vỡ da kết nụ vẫn e ngại sau khung cửa nhìn ra vườn vào những sớm mai sương giá. Mùa tôi thì đang vào những ngày cuối của mùa xuân chót sau hơn nửa đời định cư trên vùng đất lành mà lạnh này. Cuộc sống hưu trí đang cuống quít gõ nhịp chờ từ vùng đất mới nóng ấm, rộn ràng bè bạn, thủ thỉ vợ chồng, và vườn cây hoa trà khoe sắc hường tới tận thu đông. Thế mà trong lòng vẫn bàng bạc, bâng khuâng về những mùa qua của đời. Từ mùa xuân quê nhà bốn mươi năm trước. Cuối cùng. Mùa em nỗi nhớ đong đưa Ngải xuân ngậm đắng cho vừa trầm luân Tào khê trở giấc bâng khuâng Chập chùng bóng hạ chờ buông thu sầu Vàng phơi lá rụng chân cầu Tuyết giăng kỷ niệm trắng màu đông xưa (PTY) Mấy ngày cuối tuần qua trời bỗng ấm hẳn lên. Đi bộ lên khu đồi gần nhà trọ, trong nắng gió tiếng hát Andy Williams nghe rộn rã, lòng ngỡ còn xuân. Ngỡ chiêm bao cơn ngày thanh tân nắng sớm. Ngỡ môi hường hé vịn cơn nắng pha trời. Ngỡ ánh mày như liễu rung mộng mị xuân gần. Hay em là gió bay rung nhịp phong linh. Hay tôi cánh nhện thả tơ bay ngày mộng, êm đềm giòng lưu thủy, tiếng hát em …But I feel so gay in a melancholy way, that it might as well be spring. It might as well be spring… Chợt nhớ tới bạn xa, thằng ‘há mỏm thành thơ’ họ Vũ, tên rạng Hoàng Thư. Mấy giòng haiku như nét trúc đơn sơ chấm phá tuyệt vời được Thư chuyển qua lục bát Việt nam, vờn quyện hơn, như liễu uyên nguyên. my spring is just this: a single bamboo shoot a willow branch (Issa) xuân tôi thanh đạm một vài:

42

đọt măng đơn nõn liễu gầy cành dâng Spring frost dancing in the air a shimmer of heat (Shiki) sương xuân đùa với gió cùng chút hanh màu nắng vàng lung linh về Bạn tôi, ngoài tài thơ, Thư còn uyên thâm ngữ xưa lóng lánh Đường Thi. Mộng mị xuân, Bạch Cư Dị thảo bút “Hoa Phi Hoa” lúc ‘chạm trán giây phút thiên thu của mong manh, không là nọ, chẳng là kia…” (Mưa và Hoa – Vũ Hoàng Thư). Hoa phi hoa, Vụ phi vụ. Dạ bán lai, Thiên minh khứ. Lai như xuân mộng kỷ đa thời, Khứ tự triêu vân vô mịch xứ! (Bạch Cư Dị) Thư chuyển cổ thi qua ngữ Việt, đưa ta như từ chốn thiên thai nào, trở về tự cảm được bước chân mình trên mặt đất, se nhìn nụ quỳnh hoa ngại ngần khép mở trong sương sớm. Không phải hoa Chẳng là sương Giữa đêm đến Sáng ngày đi Đến như xuân mộng vờn qua chốc, Đi tựa mây mai không dạng tăm ! (Vũ Hoàng Thư phỏng dịch) Rồi như thế, từng bước chân thi nhân tịch mịch mở lòng hoa. Cảm ơn bạn ta, thằng “há mõm thành thơ” (chữ của thằng bạn họ Lê, nằm võng đong đưa, không chờ sung, chỉ chờ thi văn bầu bạn… ha ha!). Phan Thái Yên Tháng 5, 2015

43

Lê Đình Quang

Tôi về đến New Orleans mới nhận thấy sự khác biệt giữa cái giá lạnh của miền bắc và cái nắng ấm của miền nam, bước chân ra khỏi nhà ga là tôi đã nhận thấy rõ điều này, tuy đang là tháng hai nhưng New Orleans chỉ thấy mát mát mà thôi. Khí hậu ở đây thật là khác xa với nơi mà tôi đã từng sống qua hơn sáu tháng tại thành phố Rockford tiểu bang Illinois, mặc dù chỉ sống qua một thời gian ngắn nhưng nó cũng đủ để cho tôi hiểu thế nào là cái lạnh của xứ Hoa Kỳ. Tôi sinh ra và lớn lến ở miền nhiệt đới, đã quen nóng nhiều hơn mát, cuộc đổi đời ba mươi tháng tư năm 75 đã đưa chúng tôi đến miền đất xa lạ này. Ở đây cái gì cũng khác lạ với quê hương mà tôi đã từng sống qua nhiều năm tháng. Ông anh rể đón tôi tại nhà ga, mới thoáng nhìn qua tôi không nhận ra vì anh để tóc dài và còn nữa, nước da thật đen so với lúc sống ở Việt Nam. Sau này tôi mới biết đây là một nơi thuộc về kỹ nghệ dầu hỏa bởi vậy New Orleans có nhiều hãng đóng tàu, sửa tàu và giàn khoan. Nhân công ở đây phần đông đều phải làm ngoài trời, khí hậu nóng quá nên ai cũng bị đen thêm. Xe rời nhà ga chạy về nhà anh chị của tôi ở vùng hữu ngạn của sông Mississippi, con sông này tôi đã từng nghe qua nhiều lần, hôm nay mới thấy, từ cao nhìn xuống tôi nhìn thấy một chiếc tàu đang thả neo ở giữa dòng sông. Về đến khu apartment của anh chị, tôi thấy có nhiều gia đình người Việt sống ở những ngôi nhà lân cận, hỏi

ra mới biết thì ra hội USCC đã bảo lãnh từng nhóm về đây để họ sống gần nhau, rồi cứ thế càng ngày càng có nhiều người về đây nên khu này trở thành hoàn toàn 100% người Việt Nam. Đó cũng là lý do tại sao về sau ở New Orleans có nhiều làng Việt Nam được thành lập. Tôi đến New Orleans hình như là vào ngày mồng hai tết, tôi không nhớ tết năm đó là năm gì và đặc biệt hơn năm đó ngày tết của Việt Nam lại gần kề với ngày lễ Mardi Gras của thành phố New Orleans. Thành phố đang tưng bừng ăn mừng ngày lễ trọng đại nhất của thành phố. Thế cũng vui, mới về đây, tôi đại khái đã thấy người dân New Orleans ăn mừng ngày lễ Mardi Gras như thế nào. Ngày chúa nhật kế tiếp, anh chị đưa gia đình tôi xuống phố để xem lễ, tôi chỉ đứng xa để nhìn không dám chen đến gần. Thật là hỗn loạn và có vẻ kỳ quái đối với tôi và về sau tôi mới hiểu thêm rằng, ở Hoa Kỳ chỉ có thành phố New Orleans mới có lễ Mardi Gras, bởi vậy nếu nói đến Mardi Gras là người ta phải nghĩ ngay đến thành phố New Orleans và ngược lại. Qua những giây phút ban đầu bỡ ngỡ, chỉ thấy hỗn loạn và phức tạp nhưng nếu càng hiểu thêm về ý nghĩa của ngày lễ thì chúng ta có thể có một cái nhìn rộng rãi, cởi mở hơn để đến gần với nó. Tháng hai năm 1976 vẫn còn là một thời gian quá ngắn để người Việt hội nhập vào đời sống của Hoa Kỳ, nhiều người vẫn còn hoang mang lo sợ. Có một vấn đề mà tôi nghe được ở từng

44

cửa miệng của mọi người khi mới gặp nhau : sao ! có việc chưa, làm ở đâu, tên hãng là gì, đây hình như là mối ưu tư lớn lao nhứt của mọi gia đình thời bấy giờ, gặp nhau ai cũng hỏi như vậy. Người ta chỉ nghĩ đến vấn đề trước mặt là làm sao để sinh họat được tốt trong hoàn cảnh hiện tại, không ai còn thời gian để nghĩ đến những vấn đề xa xôi khác và vì thế những ngày tết đã qua đi trong âm thầm lặng lẽ. New Orleans là một thành phố nhỏ năm bên tả ngạn của sông Mississipi, khi mà kỹ nghệ dầu hỏa còn đang phồn thịnh, New Orleans là một bến cảng với tàu bè tấp nập ra vào. Với một số lượng lớn tàu bè thường hay cập bến hay thả neo để chờ ngày bốc hàng hoặc dỡ hàng, dịch vụ đi bán dầu cho các thương thuyền ở đây trở nên là một việc làm khá bận rộn và phát đạt. Một tuần sau khi về đến New Orleans, tôi được một người quen giới thiệu vào làm cho một hãng bán dầu, hãng này có ba chiếc tugboat, mỗi chiếc đẩy một ponton ở đằng trước và chạy lòng vòng trên sông Mississipi để bơm dầu cho các thương thuyền. Công tác của các chiếc tugboat là làm bốn ngày nghỉ hai ngày, những lúc không có công tác thì nằm nghỉ bến, khi có nhu cầu thì phải đi ngay bất cứ giờ phút nào. Công ty nằm ngay trên bờ sông, đặc biệt nhà bếp ở đây mở cửa 24 giờ, thức ăn, nước ngọt, lúc nào cũng có tha hồ muốn ăn hồi nào thì ăn. Mỗi chuyến công tác nhân viên trên tàu được quyền yêu cầu mua những thực phẩm mà mình thích (trừ bia, rượu). Mỗi chiếc tàu có bốn nhân viên, thuyền trưởng và ba nhân viên để phụ trách việc bơm dầu, trong những lúc di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác, các nhân viên có thể thay phiên nhau để lái tàu. Tuy đẩy một cái ponton chứa đầy dầu ở đằng trước có vẻ nặng nề nhưng loại tàu này mạnh nên việc lái những chiếc tàu này dễ dàng chứ không khó như là tôi nghĩ. Chuyến đi đầu tiên, tàu chỉ có ba nhân viên, captain, J và tôi, M thì nghỉ phép, sau khi được một nhân viên của công ty giới thiệu tôi bắt đầu công việc qua sự hướng dẫn của J. J là một thanh niên da trắng

rất vui tính, nói cười luôn miệng, nhờ vậy mà những giây phút ban đầu trong công việc mới của tôi đã qua đi một cách thoải mái. Giờ giấc làm việc ở đây có thể nói là bất thường, đôi khi hai, ba giờ sáng thì được lịnh phải đi bơm dầu cho một thương thuyền vừa mới cặp bến. Trong những lần đi bơm dầu tôi đã gặp nhiều thương thuyền của nhiều nước khác nhau. Trong chuyến đi đầu tiên, sau khi bơm dầu cho một chiếc tàu Đài Loan, những thủy thủ trên tàu đã cột một xâu bia vào sợi dây rồi thả xuống cho tôi. Những người trên tàu không nói gì, nhưng tôi cũng đã hiểu nguyên tắc của công ty, không thể uống bia, rượu khi đang công tác, nên mặc dù hơi thèm nhưng cũng đành đem cất đi mà thôi. Và cứ thế công việc của tôi vẫn tiến hành ngày qua ngày, J rất dễ thương tự mình làm những công việc nặng, còn tôi chỉ làm những việc nhẹ. Con tàu vẫn tiếp tục xuôi ngược trên dòng sông, đây là chuyến đầu tiên, tôi từ từ quen dần với lối sinh họat phải sống chung đụng với những người xa lạ như thế nào. Đêm đầu tiên, khi tất cả mọi người lên giường, sau một hồi lâu không ngủ được, tôi ra khỏi phòng, ngồi ở sân sau,mặt sông thật yên lặng, một chút sương mù phủ lên trên. Bên kia bờ sông là thành phố New Orleans, dọc theo bờ sông có những thương thuyền đang cập bến, nhân viên của những chiếc tàu này đang làm gì, tà tà dạo phố, hay là đang ở trong quán bar để uống rượu, tôi rất thông cảm hoàn cảnh của họ, xa nhà họ phải tìm một cái gì để lắp vào chỗ trống vắng, để không nhớ đến gia đình, vợ con. Càng về khuya mặt sông càng có nhiều sương mù, tôi vẫn còn ngồi ở sân sau, đốt từng điếu thuốc này qua điếu thuốc khác, những ánh đèn bên kia bờ sông càng lúc càng mờ đi. Tôi trở vào phòng, cố tìm giấc ngủ, một chiếc tàu vừa mới chạy qua, gây nên những đợt sóng trên mặt sông, chiếc tàu chòng chành theo đợt sóng, tôi nghe âm thanh của những cơn sóng đập vào thành tàu. Đây là những âm thanh thật quen thuộc đối với tôi khi còn ở quê nhà, nó đã để lại trong tôi thật nhiều kỷ niệm. Chúng ta là những người yêu chuộng hải hồ, đã một thời gian phiêu

45

bạt đó đây, biến cố ba mươi tháng tư năm bảy mươi lăm đã đưa chúng ta rời khỏi quê hương. Bốn mươi mốt năm trôi qua, chúng ta như những con tàu còn lênh đênh trên biển cả, chưa tìm ra bến đậu, mong một ngày trở về bến cũ trong khung cảnh của ngày xưa. Đêm nay ở một nơi xa cách ngàn trùng, nằm trên con tàu lắc lư theo sóng nước, nỗi buồn nhớ quê hương lại chợt về, lòng thấy buồn man mác. Cứ thế con tàu tiếp tục ngược xuôi trên dòng sông như là những cơn thủy triều lên xuống, mỗi ngày tôi học được thêm những điều mới lạ. Thời gian bốn ngày chầm chậm qua đi, tôi đã xong một chuyến công tác, tôi lên bờ gọi điện thoại về nhà nhờ người đến đón. Hãng tôi đang làm có một thông lệ đặc biệt là khi xe nhà đến đón nhân viên được quyền đến cây xăng của hãng để đổ đầy một bình xăng. Trở về khu apartment nơi anh chị tôi đang sống, sinh hoạt vẫn bình thường, lúc này New Orleans chưa có chợ và tiệm ăn Việt Nam. Ngày thứ bảy và chúa nhật anh chị tôi làm bánh cuốn bán ở trong nhà, công việc cũng khá nhưng nó cũng gây cho tôi nhiều phiền muộn vì khách hàng thuộc đủ mọi thành phần nhiều khi ồn ào quá. Ở trong khu apartment này có những người đi làm cho các giàn khoan dầu, một tháng mới về nhà một lần, lưu lạc qua xứ này, chân ướt chân ráo không nghề trong tay phải chấp nhận mọi công việc để sống qua ngày. Hai ngày nghỉ qua đi tôi laị trở vềvới công việc của mình, chuyến công tác này có thêm M, vừa nghỉ phép xong, M người to lớn dềnh dàng, ít nói, nét mặt lầm lì. Mọi công việc bắt đầu trở lại trong bình thường, sau một chuyến bơm dầu cho một thương thuyền vừa mới cập bến, cơm tối xong tôi ra ngồi ở sân sau hút thuốc. Trời đã nhá nhem tối, bên kia sông thành phố New Orleans, khu French Quarter đèn đã sáng lên để bắt đầu cho những sinh họat về đêm. Tôi hút thêm một điếu thuốc nữa, phà khói thuốc lên không, tôi chợt nhớ đến bia, phải chi lúc này được uống một hớp bia thì thật là tuyệt vời. Ngồi nghĩ miên man, quá khứ lại trở về An Thới, Sơn Chà,

những địa danh tôi đã đến nhiều lần, những địa danh mà tôi và bạn bè đã nhậu say quắt cần câu. Thôi còn đâu nữa. Tôi vào phòng ngủ, mọi người đã lên giường, tôi cố tìm giấc ngủ nhưng nó đã không đến với tôi. Rồi bỗng nhiên tôi nghe có tiếng ồ ồ đâu đây, nghe kỹ thì ra có người ngáy, tiếng ngáy mỗi lúc một lớn hơn. Nhìn sang giường thằng M, nó đang ngủ mê và ngáy như sấm. Tôi vốn có tật khó ngủ, phải thật yên lặng tôi mới ngủ được, bây giờ gặp phải trường hợp này tôi không biết phải đương đầu như thế nào. Đêm đầu qua đi, giấc ngủ chỉ đến trong chập chờn, tôi tự an ủi có thể đêm tới buồn ngủ quá thì chắc là sẽ ngủ được, nhưng rồi những đêm kế tiếp, tôi nằm trên giường nhắm mắt nhưng giấc ngủ đã không đến với tôi. Qua mấy đêm không ngủ, tôi thật sự là mệt mỏi, không biết sẽ chịu đựng thêm được bao lâu nữa. Đêm đêm thằng M vẫn tiếp tục ngáy, đây là tật bẩm sanh, những người khác ngủ được tại sao mình không ngủ được, vì vậy chỉ âm thầm chịu đựng. Chiếc tàu vẫn xuôi ngược trong việc bơm dầu cho các thương thuyền, công tác vẫn tiến hành tốt đẹp, riêng bản thân tôi thì không khá tí nào. Tôi thật khó để nghĩ ra một phương pháp để giải quyết vấn đề này, tiếp tục chịu đựng, chắc là không nổi. Bốn ngày công tác đã xong, tôi khăn gói về với gia đình, ba người đi cùng tàu cười nói vui vẻ khi thấy người nhà đến đón, riêng tôi chỉ thấy mệt mỏi và chán nản. Tôi đi thêm một chuyến công tác nữa nhưng thấy hoàn cảnh không có gì khả quan nên nghỉ luôn. New Orleans lúc bấy giờ có rất nhiều công việc, tìm một công việc khác không phải là điều khó khăn. Tôi sống ở New Orleans được mười năm thì đã cảm thấy chán ngán cái nóng bức của xứ này, một lần nữa tôi lại ra đi, tuy đã rời xa bao nhiêu năm, New Orleans ở trong tâm của tôi vẫn là nơi có nhiều bạn bè và kỷ niệm thật đẹp. Lê Đình Quang

46

Lê Ngọc Trùng Dương

47

Gió Đồng Nội

Với những tâm hồn thiên về “nghệ thuật ăn uống”, mê trái cây - nhất là Nhãn - thì đây là cuộc chiến vì dành ăn; nhưng theo những “bình loạn gia” thì đây lại là một cuộc đấu trí. Phần tôi (thành viên hội Ba Phải) thì hai bên chẳng bên nào sai. Không “Lề Phải” cũng chẳng “Lề Trái”, tôi nhìn “đại cuộc” kiểu đứng bên “lề xéo”(chữ mượn của nhà văn Phạm thị Hoài) một cách rất khách quan. Bạn đọc thử nhìn nhé... Năm nay được mùa Nhãn nhưng hơi trễ. Hết tháng 7 mà trái còn hơi bé. Chỉ mới bằng quả Cherry. Trái Nhãn nhỏ nhưng hương nhãn lớn, mùi thơm bay ngào ngạt quyến rũ bọn ong, lũ bướm và bầy kiến đến tụ họp, tiệc tùng linh đình trên cây. Nhũng chùm Nhãn chi chít trái đang từ từ đổi nâu sang vàng, màu hấp dẫn, bắt mắt lũ Sóc không kém gì mùi thơm đang lan tỏa trước sân thì làm gì chịu nhịn nổi. Thế là chúng nhập tiệc. Không như giống côn trùng hiền lành, ăn lấy hương lấy hoa (để quả lại cho người), bọn Sóc này rất “mất dạy”. Vừa ăn nhiều, vừa phá nhiều. Nhìn đám nhãn lăn long lóc trên sân, trên cỏ; quả nào cũng còn một nửa cùi thật là tức. Chẳng thà chúng ăn hết trái này, chưa đủ no, ăn

tiếp quả khác thì mình có thể “tha thứ” vì cho rằng chúng đói. Đằng này vừa ăn vừa phá. Nhiều quả còn một nửa, chúng ghé rắng cắn vào rồi bỏ đi (như tình yêu ngang trái!!!) trêu ngươi kẻ trồng cây. Giận ơi là giận. Trận chiến bắt buộc phải xảy ra thôi. Phải “sống còn” bảo vệ cây (trái thì đúng hơn) Nhãn, ăn thua đủ với lũ Sóc này. “Lũ” là vì chúng nhiều hơn một. Giết con này lại xuất hiện con khác không biết “Sóc số” trong nhà nó là bao nhiêu. Chui từ đâu ra. (Một năm Sóc đẻ 1 hay 2 lần. Mỗi lần từ 2 đến 8 con). Hình như chúng cũng chia vùng với nhau từ trước rồi. Giống như luật “người cày có ruộng”, mỗi “Sóc gia” làm chủ một mảnh đất, chỉ kiếm ăn trong ranh giới của mình. Chẳng hề lấn đất dành dân (như bọn Việt Cộng). Ngày chưa trồng cây Nhãn, tôi thấy con Sóc nào cũng dễ thương lắm, hai tay ôm trái Thông gặm nhắm, hay mồm phồng một bên vì trái Acorn của cây Sồi (Oak). Thời gian đã thay đổi mọi sự. Mục tiêu của chúng bây giờ là cây Nhãn. Không biết con Cáo trong chuyện ngụ ngôn tinh khôn tới cỡ nào chứ bọn Sóc, phải nói là ranh ma hết mức nếu không muốn dùng chữ “siêu” hay “cực kỳ”. Con người ra chiêu gì, chúng cũng đối phó được tuốt. Cách treo lủng lẳng trong sân vài cái CD giống như

48

yểm bùa chỉ là trò cười. Dựng chiếc xe đạp, mặc áo, đội mũ, giả người ngồi canh, dọa chúng thản nhiên đi ngang dơ tay chào “ông phỗng đá”. Dùng mấy cái bẫy chuột cài mồi để nhử thì chúng lấy đuôi quẹt qua quẹt lại đụng sập cần chém xuống rồi ung dung ngồi nhâm nhi món thích khẩu Peanut Butter tẩm trên bánh mà chép miệng đã quá. Đòn mới là giăng giây điện. Không dám chơi loại cao thế mà là “thấp thế” (low voltage, không đủ hại người) chung quanh cành cây rồi ngồi trong nhà coi ống nhòm, chờ kết quả. Khôn ơi là khôn, không cùng lúc phóng lên cây, con “trinh sát” đi đầu (luôn luôn có thế trận hẳn hòi), lon ton chạy tới, phóng lên cây bị điện giật văng xuống đất. Mấy con khác thấy thế rút về “mật khu” nghiên cứu. Hôm sau chúng “tiến quân” bằng cách khác. Trơi trò đu giây. Bám ngược thân dưới cành cây y như phim đánh nhau trong cinê. Phe người tổn thất nặng hơn. Thay vì cắn trái chúng dứt nguyên chùm Nhãn . Gỡ giây điện, kế hoạch mới: xích con chó gần đấy cho chạy chung quanh. Được hai hôm, chó sủa vang dưới đất, sóc tỉnh bơ ăn nhãn trên cành cao vì biết con chó không làm gì được. Chúng đổi sang trò “nhảy dù” từ những cây đằng xa, chuyền đến thật gần cây nhãn rồi lông nhông xuống, chẳng cần dù. Người lại thua. Nhãn tiếp tục bị tàn phá. Lần này phe ta thay phiên trực với ná thung (ngày xưa đã từng bắn chim nên tay nghề còn khá nhuyễn) cùng túi sỏi bên cạnh, núp dưới gốc cây rình Sóc. Ba ngày mệt mỏi chờ đợi chẳng thấy “em sóc” nào lạng qua. Không lẽ gác hoài đến khi hái Nhãn, phe người tính đổi chiêu. Ná thung sẽ thay bằng BB Gun (Súng bắn dùng đạn nhỏ xíu, giết thú vật nhỏ). Với loại có ống nhắm, vị trí hai bên đổi ngược. Người chẳng thèm núp nữa còn sóc ta lạng quạng lộ tung tích là đời “tàn trên cây hẹp” ngay. Cỡ nào sóc cũng từ chết tới bị thương. Để “dằn mặt”, xác con sóc chết bị treo lủng lẳng trên cây (cho đến khi bắt đầu bốc mùi thì người mới quẳng vào rừng cho kên kên thủ tiêu). Kế hoạch “ngon lành” vậy đó nhưng không xử dụng được vì luật Bảo Vệ Súc

Vật của Mỹ không cho phép. Bị bắt gặp cảnh “tàn nhẫn với thú vật” thì rẻ là phạt tiền, đắt là ngồi “nhà đá” một vài bữa. Chẳng bõ. Phe người thua bạo, rõ chán. Đành phải canh gác thôi. Biết người, biết ta; nhường người một bước để bảo toàn “sóc” mạng. Chờ cho mặt trời xuống, đèn đường lên, người vào nhà đóng cửa là gia đình nhà sóc kéo nhau ra ăn đêm. Có tí thời giờ quậy phá trước khi rút vào hang ổ cũng là vui rồi. Học kiểu canh thức “Cuba ngủ, ta thức” của Việt Cộng. Lũ sóc áp dụng y chang. Sáng sớm tinh sương, mặt trời chưa dậy, người ngủ thì sóc thức để leo phá cây Nhãn. Người dậy thì sóc chuồn êm báo hại con người vận dụng đầu óc tìm kế khác. Tiếc nhãn hơn tiếc tiền. Mua liền chiếc máy YardGard quảng cáo trên mạng bảo đảm hiệu quả trăm phần trăm. Những luồng sóng (frequency) lạ từ máy phát ra sẽ đuổi súc vật chung quanh một chu vi hơn 100 mét vuông. Cắm điện,treo lên tường gần cây nhãn, người khoan khoái ngồi chờ ngày thu hoạch. Chỉ vài tuần lễ nữa thôi. “Mặt trận mùa Nhãn” tạm yên tĩnh trong 2 tuần. Sóc bị “loạn óc” khi đến gần cây nhãn nên quanh quẩn nơi xa. Trên không trung chim trời cũng tránh mặt. Mới năm ngoái, đang chờ ăn phần nhãn đám sóc còn “nhường” lại trên cây thì đàn quạ hàng trăm con bay ngang xà xuống. Những chiếc mỏ nhọn, sắc như kéo, xén ngang cắt ngọn có trái bay lên cao. Trong tích tắc, những trái nhãn biến mất hết, cây còn trơ lại toàn lá và cành. Nhãn thất thu 100%. Chiếc máy “đuổi sóc ” năm nay có tác dụng cả với chim. Không uổng tiền mua máy chút nào. Thời gian sẽ êm trôi nếu bọn sóc ranh mãnh tiếp tục bị “loạn óc”. Nhưng ông Trời chưa “chiều lòng người”. Không biết bằng cách nào, bọn sóc đã tiếp nhận được làn sóng điện từ máy. Không lẽ chúng biết dùng “Ear plug” bịt lỗ tai? hay qua một thời gian, lỗ tai đã quen hoặc tệ hơn nữa là “màng nhĩ đã thủng?. Gia đình nhà sóc khởi sự tấn công cây nhãn từ phía xa máy phát sóng nhất. Chẳng còn lựa chọn nào khác là bọc nhãn lại như ở Việt Nam người ta thường làm. Thế là

49

bắc thang, làm bao bằng lưới vải mùng (để nhãn thở) chùm kín lại. Hết bao vải sang bao giấy. Cây nhãn bây giờ nhìn thật xấu xí. Từng mảng đen, nâu, xám, đỏ, trắng.. đủ màu sắc từng cụm, lủng lẳng trên cành. Phía tuốt trên cao bắc thang không tới để bọc thì đành chịu nhường cho bọn sóc thôi. Tiếc cũng chẳng được, đành phải chịu “sống chung hoà bình”, dù là giả tạo với lũ sóc

này. Mong là tụi sóc biết điều chỉ ăn phần mình, không đụng chạm tới chỗ người đã xí phần bọc kín. Nhãn còn trên cây chờ chín tới. Người hay sóc sẽ thắng? Bạn hãy chờ như tôi đang chờ nhé. Gió Đồng Nội 2015

---------------------------------------------------------------------------------------------------

Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch Amitié, doux repos de l'âme... Amitié, doux repos de l'âme, Crépuscule charmant des coeurs, Pourquoi dans les yeux d'une femme As-tu de plus tendres langueurs ? Ta nature est pourtant la même Dans le coeur dont elle a fait don; Ce n'est plus la femme qu'on aime Et l'amour a perdu son nom. Douce ou grave, tendre ou sévère L'amitié fut mon premier bien Quelle que soit la main qui me serre C'est un coeur qui répond au mien. Lamartine

Tình Bạn, Nơi An Nghỉ Tình bạn bè là nơi an nghỉ Khi hòang hôn cháy bỏng tâm hồn Cớ sao ánh mắt mỹ miều Gây bao nông nỗi, lắm điều thương đau ? Người ta, bản tính như nhau Con tim lên tiếng tình nào dâng đưa; Tôi không còn nữa, yêu nàng, Tình yêu nay đã lỡ làng chia xa. Buồn vui, êm ái, xót xa Tình bạn thân ái, đậm đà lắm thay Tay tôi siết chặt bàn tay Bạn hiền thương quý bao ngày thân quen Ta cùng nhịp đập con tim. 1/6/16. Lê Ngọc Trùng Dương

50

Hà Bạch Trúc Mùa thu đã về với chút gió se lạnh và lá vàng xào xạc khắp lối đi. Một chiếc lá vừa rụng chợt làm khách ngẩn ngơ. Chiếc lá úa vàng như gợi nhớ mùa xuân êm ái đã qua và hạ nồng nàn vừa dứt. Sáng hôm nay Trang trở lại trường sau thời gian dài gián đoạn. Mặc dù không gian ở đây có khác nhiều với trường xưa của nàng ở Việt Nam nhưng Trang không cảm thấy bỡ ngỡ hay xa lạ lắm. Cũng hàng cây rợp bóng sân trường, cũng giảng đường cao rộng với những hàng ghế nối tiếp nhau, và ở đây cũng những khuôn mặt sinh viên thật trẻ, hồn nhiên và sinh động. Trang vào lớp sớm, thấy vài sinh viên ngồi rời rạc ở mấy dãy bàn đầu. Trời se lạnh, Trang mặc chiếc áo len mỏng màu thiên thanh, chợt nhớ đến những chiếc áo lụa màu mỡ gà thật nhẹ và mát mà ngày xưa nàng vẫn thường mặc đến trường. Nhẹ nhàng ngồi xuống chỗ đầu hàng ghế ở cuối lớp, nàng nhìn thấy phía dưới bàn có một ngăn tủ hẹp. Bất chợt một hình ảnh quen thuộc hiện về, rồi một cảm giác bàng hoàng kéo đến khiến Trang ngẩn ngơ. Ðây có phải là cái ngăn tủ có lá thư mà nàng đã tò mò đọc hơn mười năm về trước?

Ngày đó đã lâu, Trang là cô sinh viên mới bước chân vào đại học. Vốn tính lười nên lối học trên đại học có vẻ thích hợp với nàng. Vì không bắt buộc điểm danh hàng ngày nên nàng chỉ đến lớp những môn nào thích hay cần phải đến. Thời gian còn lại nàng tha hồ đi dạy thêm hay đi kèm trẻ để kiếm tiền tiêu vặt. Hôm đó Trang đến trường sớm vì có giờ học trên giảng đường lớn, phải đi sớm để có chỗ ngồi. Như thường lệ nàng đến ngồi ở dãy ghế cuối giảng đường. Ðịnh cất sách vở vô ngăn tủ dưới bàn thì nàng chợt nhìn thấy một chiếc phong bì. Không thấy đề tên ai gởi, ai nhận, mà cũng không dán kín. Tò mò nàng mở ra xem. Trên tờ giấy trắng học trò, một nét chữ khá đẹp và hai câu thơ: Bước rất nhẹ như mây mềm dưới gót E nắng buồn làm rối tóc mưa ngâu Trang không rành văn chương Việt Nam nhưng cũng thấy hai câu thơ nhẹ nhàng, dễ thương quá. Có lẽ ai đó vừa cảm hứng sáng tác trong giờ học hoặc ai đó thấy hay, chép rồi bỏ quên, nàng nghĩ. Nàng xếp tờ giấy trả lại phòng bì. Tuần sau vào giờ học trên giảng đường, Trang cũng đến ngồi ở chỗ cũ. Chiếc phong bì vẫn còn đó, và tò mò nàng mở ra xem. Cũng tờ giấy trắng hôm

51

trước nhưng ơ kìa … dưới hai câu thơ hôm nọ có thêm hai câu nữa. Bước rất nhẹ như hường qua sắc đỏ Như màu trời len lén bước vào xanh Lạ thật, không lẽ người ta lại vô tình bỏ quên lần nữa, sau khi đã làm thêm hay chép thêm hai câu thơ mới? Trang đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy vài cô sinh viên lạ. Nàng xếp tờ giấy trả lại phong bì. Suốt buổi học, nàng bắt gặp mình mấy lần nghĩ đến bốn câu thơ và cảm thấy mình không được tự nhiên lắm. Lúc ra về, không hiểu sao nàng cố buớc thật nhẹ, phải chăng vì muốn yểu điệu như người trong thơ hay vì sợ vỡ sự rung động mong manh ban đầu của ai đó. Phải chờ một tuần nữa Trang mới lại có giờ học trên giảng đường. Nàng hồi họp tiến đến chỗ ngồi thường lệ. Chiếc phong bì vẫn nằm đó và nàng chẳng ngạc nhiên khi thấy có thêm hai câu thơ mới. Bước nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở Như ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao Giờ học hôm đó hình như Trang không vô được mấy chữ. Cứ nhìn quanh quẩn để đoán thầm ai là “thủ phạm” trò chơi lý thú này. Ai đó có điều gì muốn nhắn nhủ nàng, hay có điều gì riêng tư muốn thố lộ mà không dám nói? Sao không làm quen theo kiểu thông thường như hỏi thăm bài vở hoặc giả vờ mượn sách? Nàng tự hỏi mình có phải là đối tượng của lá thư hay tất cả chỉ là một sự tình cờ. Hồn thơ đẹp quá, gần như một lời tỏ tình tuyệt vọng. Tự nhiên nàng có ý nghĩ thủ phạm chắc hẳn không đẹp trai lắm… Dù sao nàng cũng sẽ bước thật nhẹ để mộng đẹp còn dài. Tuần lễ kế tiếp, phong thư vẫn nằm đợi nàng ở chỗ cũ, và Trang đọc tiếp hai câu thơ mới. Bước rất nhẹ như mùa thu con gái Như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh A thì ra “người ta” biết nàng chơi đàn tranh; người ta gởi lời thơ đến cho riêng nàng. Nhưng người ta là ai trong số gần trăm sinh viên ở chung quanh? Ai là người theo dõi từng bước

chân của nàng và ai lặng lẽ viết những câu thơ cho nàng đọc? Những tuần lễ sau đó là những câu thơ nối tiếp nhau, mỗi tuần hai câu, cũng trên tờ giấy ban đầu. Em đi ngang xin ráng bước cho êm Ðừng đánh thức thời gian đang ngủ kỹ Có đi ngang xin chọn lúc bất ngờ Ðừng nói trước để anh buồn vơ vẩn Có đi qua xin em đừng đánh phấn Tóc buông rèm lứa tuổi thích ô mai Trang thôi không thắc mắc ai là “thủ phạm” để lại lá thư cho nàng đọc mỗi tuần. Nàng chỉ nôn nóng chờ đợi ngày đến trường để nhìn thấy nét chữ bay bướm và những câu thơ gởi riêng cho nàng. Tuần lễ nào không có giờ học trên giảng đường, Trang bồn chồn nghĩ đến chiếc bàn ở cuối lớp và lá thư đợi nàng. Nhưng rồi hai tháng sau, một lần Trang không thấy lá thư trong ngăn tủ. Lạ nhỉ, hay người ta đã ngã bịnh, hay có chuyện gì bất trắc xảy ra? Thời chiến mà, mấy ai biết được ngày mai. Hay phải chăng chiêm bao đã vỡ? Bao nhiêu câu hỏi làm bận lòng Trang. Mấy tuần nàng lặng lẽ đến trường, thấy giảng đường giờ trống vắng, thênh thang và vô duyên chi lạ. Rồi một hôm, khi Trang không còn chờ mong nữa thì lá thư lại bất ngờ xuất hiện. Tay vụng quá nên thư không viết nổi Mực trong bình như cẩm thạch ngẩn ngơ A thì ra anh chàng định thay đổi chiến thuật, định viết thư thay vì mượn lời thơ để tỏ ý với nàng, nhưng rồi lúng túng mãi không viết được nên đành trở lại phương pháp cũ. Càng hay, Trang nghĩ, bởi nàng thích thơ hơn. Những câu thơ thừa sức chuyên chở ý tình mà lại không trực diện làm bối rối một ai. Một bài thơ hay sẽ còn đẹp mãi. Trang chờ xem anh chàng còn những lời gì nữa. Nhưng rồi nàng phải nghĩ học mấy tuần vì phải theo mẹ đi xa. Lần trở lại giảng đường, nàng hồi họp rồi vui mừng gặp lại lá thư trong ngăn tủ.

52

Và nàng thật sự bối rối khi đọc bốn câu thơ lần này. Em có về ăn cưới những vì sao Ðể chân bước trên giòng sông loáng bạc Ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc Yêu một người mà cảm thấy mênh mông Lời tỏ tình đã thốt ra. Một đi không trở lại. Anh chàng đã tỏ hết nỗi lòng. Không biết có chờ đợi gì ở mình, Trang nghĩ. Nàng xếp lá thư trả lại phong bì, nhưng thay vì để lại chỗ cũ trong ngăn tủ, nàng bỏ lá thư vào sách của mình. Nàng đảo mắt nhìn quanh khắp giảng đường… rồi như có một linh cảm nào thúc dục, nàng quay đầu nhìn về phía hành lang cuối lớp. Trong đám sinh viên đứng ngoài hành lang, nàng bắt gặp một đôi mắt đăm đăm nhìn nàng, ý chừng nhìn đã lâu, từ trước khi nàng quay đầu lại. Ðôi mắt thăm thẵm, nồng nàn như muốn nói thật nhiều, đôi mắt làm nàng nghĩ đến bài thơ của mấy tháng nay. Rồi một nụ cười nhẹ trên gương mặt chữ điền. Trang bối rối nhưng thật lòng, nàng không ngạc nhiên lắm. Người và thơ thật hợp với nhau. Tuần lễ sau đó, nàng nhận được lá thư cuối cùng. Nguyên bài thơ chép trên giấy trắng học trò bằng nét chữ bay bướm, Bài Thơ Còn Lại (*) của Hoàng Anh Tuấn, trong đó có hai câu được viết bằng mực khác màu. Em nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ Anh còn nguyên là một kẻ yêu em Như mối tình đầu muôn thuở, như bài thơ còn lưu luyến mãi, như kỷ niệm thời gian không xóa nổi, bài thơ của lứa tuổi đôi mươi đã theo nàng qua bao nhiêu năm tháng, theo nàng đến tận nơi đây… Mãi mãi theo nàng. Hà Bạch Trúc Thu 2015 ---------------------------------------------------------- Bài Thơ Còn Lại Bước rất nhẹ như mây mềm dưới gót E nắng buồn làm rối tóc mưa ngâu Em tìm anh nước uốn nhịp ven cầu

Năm tháng cũ rợn tình xưa tỉnh thức Em vẫn bé, anh vẫn còn ngây ngất Màu áo hường còn gợn sóng âm thanh Mắt thuyền qua nên nón vẫn nghiêng vành Chân cuống quýt nên guốc ròn gõ cửa Anh mở vội cả nghìn lần hớn hở Cho hồn nhiên, mắc cở với hoài nghi Em cúi đầu và lặng lẽ bước đi Từ hôm ấy cửa nhà anh bỏ ngỏ Bước rất nhẹ như hường qua sắc đỏ Như màu trời len lén bước vào xanh Như thời gian vò nát lá thư tình Bước rất nhẹ như vẫn còn đứng lại Bước rất nhẹ như mùa thu con gái Như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh Như chưa lần nào em nói: yêu anh Như mãi mãi anh còn nguyên thương nhớ Bước nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở Như ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao Em có về ăn cưới những vì sao Ðể chân bước trên giòng sông loáng bạc Ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc Yêu một người mà cảm thấy mênh mông Em đi ngang nhịp bước có lạnh lùng Mà sao vẫn y nguyên bài thơ cũ? Vẫn lặng lẽ để anh nghe vừa đủ Vẫn thờ ơ cho rủ hết màn the Vẫn mỉm cười rồi vẫn lấy tay che Cho cặp mắt bỗng nhiên mười sáu tuổi Tay vụng quá nên thư không viết nổi Mực trong bình như cẩm thạch ngẩn ngơ Giấy trắng tinh đem bóc nhẹ từng tờ Tầu bay giấy ngượng ngùng bay qua cửa! Em nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ Anh còn nguyên là một kẻ yêu em Em đi ngang xin ráng bước cho êm Ðừng đánh thức thời gian đang ngủ kỹ Ðừng đẹp quá để anh đừng rối chỉ Lấy gì đây khâu vá lại tình xưa? Có đi ngang xin chọn lúc bất ngờ Ðừng nói trước để anh buồn vơ vẩn

53

Có đi qua xin em đừng đánh phấn Tóc buông rèm lứa tuổi thích ô mai Mắt vương tơ của những phút học bài Tay khéo léo khi đánh chuyền với bạn

Em dấu đi những nỗi lòng vỡ rạn Anh cũng thề dấu hết gió mưa đi Bao nhiêu ánh đèn rũ rượi tái tê Những ngõ vắng, tối tăm anh dấu hết. Hoàng Anh Tuấn

nhá nhem Cần Thơ

*Tặng Minh Nguyệt, Nhan Lu, Hoàng Dung và các bạn thơ Cần Thơ. Cần Thơ nằm dưới cơn mưa tiếc nhau có một ngày chưa gặp người tiếc mưa làm ướt nụ cười cho ta quên mất bờ môi ướt tình tiếc người lồ lộ nguyên hình nhá nhem tưởng cõi thiên đình ta mơ nhá nhem hồn mọc thành thơ chữ quanh co lót ổ chờ người qua chút cà phê kích lòng tà nôn nao bỗng nhớ người xa chưa về. PHẠM HỒNG ÂN (Hiên Thư Các, 24/10/2015)

thú Phaåm Höìng Ên

54

Ngô Thụy Chương

Đứng trong văn phòng của vị đại tá chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Thủy Bộ, tôi bàng hoàng và xúc động khi đọc lá thư của mẹ Duyên gửi cho Tư Lệnh Lực Lượng. Tôi đọc đi đọc lại hai ba lần mà tưỏng như chuyện hoang đường. Lá thư viết nội dung như sau: “Ngày hôm qua, con tôi về báo khi chết bị lấy mất chiếc đồng hồ Seiko đang đeo. Ðây là chiếc đồng hồ con tôi đã mua trong thời gian đi du hoc tại trường Hải Quân OCS, Hoa Kỳ. Tôi đã đau lòng khi mất đứa con trai yêu dấu, nay tôi lại rất buồn khi con tôi ra đi chiếc đồng hồ Seiko mà nó thường đeo đã bị lấy mất. Con tôi đã về và báo mộng với tôi như vậy. Nó nhắn tôi phải tìm lại chiếc đồng hồ đó. Với lá thư này, tôi yêu cầu qúy vị bằng mọi cách tìm lại chiếc đồng hồ Seiko ấy để trả lại cho chúng tôi, đây là một kỷ vật vô giá cho gia đình chúng tôi ...”

oOo Rời chiến hạm HQ800 tôi lên đường đến nhận đơn vị mới: Giang Ðoàn 75 Thủy Bộ. Tại đây tôi gặp Phạm Ngọc Ðông khóa 9 OCS và Phạm Văn Duyên khóa 11 OCS. Ðông can đảm và nhanh nhẹn, Duyên trầm tĩnh và ít nói. Sau một

thời gian đóng quân tại xã Hòa Tú, Ba Xuyên, giang đoàn đưọc lệnh di chuyển về Kiên An để chuẩn bị một cuộc hành quân vào vùng U Minh. Trước giờ hành quân, tôi được cử ở lại hậu cứ để làm một vài công tác hành chánh và an ninh, sau

đó sẽ theo tàu vào vùng hành quân. Ðêm hôm ấy, các sĩ quan giang đoàn cùng tập trung uống cà phê tại câu lạc bộ hậu cứ để chờ giờ xuất quân. Trong lúc ngồi nói chuyện bỗng Duyên đề nghị: - “Nếu kỳ này chỉ huy trưởng cho tôi ở lại hậu cứ, tôi sẽ dùng nguyên tháng lương để đãi anh em một bữa nhậu”. Thiếu tá Quyên chỉ huy trưởng cười và đáp lại: - “Nếu vậy phải để thiếu úy Duyên vào vùng lần này, rồi lần sau sẽ cho ở lại hậu cứ thì chắc chắn

55

thiếu úy Duyên sẽ đãi hai tháng lương để anh em nhậu đã đời”. Mọi người cùng cười rộ lên nên không để ý đến khuôn mặt lo lắng và bồn chồn của Duyên. Trong đêm tối, các con tàu nhẹ nhàng lầm lũi dời hậu cứ để vào vùng lửa đạn. Tôi đứng trên bờ vẫy tay chào mọi người, Duyên cười và vẫy tay chào hẹn ngày tái ngộ. Giang đoàn vào vùng được mấy ngày thì tin báo về quân ta bắt đầu chạm địch. Những tin tức đầu tiên rất phấn khởi; giang đoàn đã phá vỡ vài căn cứ tiếp liệu của cộng sản và tịch thu được nhiều vũ khí của địch. Lệnh từ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ban ra: “Giang đoàn tiếp tục tiến sâu vào vùng trách nhiệm”. Càng tiến sâu, các trận đánh càng ác liệt, tin tức chiến sự đưa về phòng hành quân tới tấp. Chẳng bao lâu tin dữ đưa về, giang đoàn chạm địch mạnh, hai giang đỉnh bị trúng mìn, chỉ huy phó và một số chiến sĩ bị thương. Duyên bị trúng miểng B40 ngay cổ nên được trực thăng bốc lên và đưa về bệnh viện Chương Thiện cứu cấp. Từ hậu cứ tôi đưọc lệnh chuẩn bị theo giang đoàn 74 Thủy Bộ vào vùng chiến đấu. Tướng Hoàng Cơ Minh, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ cũng theo giang đỉnh vào vùng trực tiếp chỉ huy trận đánh. Hành trang chuẩn bị đầy đủ, chỉ chờ giờ lên đường thì hung tin báo về. Duyên từ trần tại bệnh viện Chương Thiện vì vết thương quá nặng. Tôi nhận chỉ thị của chỉ huy trưởng không vào vùng hành quân nữa, mà trở về trình diện Bộ Tư Lệnh Thủy Bộ để nhận công vụ lệnh đại diện Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ và Giang Ðoàn 75 lên nhà Duyên tại Ðà Lạt để phân ưu cùng tang quyến. Bước chân vào nhà Duyên tại Ðà Lạt, một hình ảnh tang thương và ảm đạm hiện ra trước mắt. Những vành khăn tang vội vã chít lên đầu, những tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi đứng đó mà lòng như tan vỡ. Có lời nói nào xoa dịu được nỗi thương đau của người cha? Có an

ủi nào làm khô đi dòng lệ của người mẹ? Tôi đứng đó mà lệ dâng trào. Nhìn di ảnh Duyên bên hai hàng nến trắng, nhìn hàng chữ Tổ Quốc Ghi Ơn với lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ ngang chiếc quan tài, tôi tưởng tượng ở nơi đây, trong giờ phút này, hồn thiêng sông núi đang ẩn hiện đâu đây. Người anh hùng đã nằm xuống, bạn tôi đã đem máu đào đổ xuống giang sơn để ước mong quê hương có ngày tự do hạnh phúc. Chiến tranh tàn ác đã cướp đi bao nhiêu ngưòi con yêu của tổ quốc, chiến tranh nào đã khiến mẹ, khiến cha phải khóc con, vợ phải khóc chồng, em phải khóc anh. Lịch sử nào có thể diễn tả đầy đủ được những u uất mà hàng trăm ngàn gia đình đang gánh chịu. Lịch sử nào có thể viết hết được nỗi đau thương mà cả một dân tộc đang chịu cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt. Người cộng sản Việt Nam đã gây cuộc chiến tương tàn này, họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc. Tôi cố ngăn dòng nước mắt, tiến đến bên quan tài, khẩn cầu chú nguyện và đốt nén nhang trịnh trọng đặt lên bàn thờ người bạn quá cố. Ðám tang Duyên được cử hành trang trọng theo nghi lễ quân cách và theo nghi thức Phật Giáo. Nhìn thân xác bạn tôi đang từ từ hạ xuống lòng đất, tôi chợt nhớ tới thời gian tôi đã đưọc cùng chiến đấu bên Duyên tại Giang Ðoàn 75 Thúy Bộ. Tôi nhớ đến những đêm tuần tiểu dọc theo sông Cái Lớn. Tôi nhớ đến những địa danh Hòa Tú, Hòa Tâm, Cổ Cò, Kiên An, Kiên Lương mà tôi đã cùng Duyên đi qua. Tôi nhớ đến gương mặt khắc khoải của Duyên khi xin chỉ huy trưởng đưọc ở lại hậu cứ. Tôi nhớ đến nụ cười và cái vẫy tay chào hẹn ngày tái ngộ vào đêm xuất trận. Cái vẫy tay hẹn ngày tái ngộ ấy có ai ngờ lại chính là cái vẫy tay chào nhau lần cuối. Ôi bi thương, ôi uất nghẹn… Ðịnh mệnh nào đã xô đẩy tôi được chỉ định ở lại hậu cứ. Ðịnh mệnh nào đã lôi kéo Duyên vào vòng chiến để giờ đây thân thể sắp trở về lòng đất. Trong một giây phút tỉnh tâm, tôi chắp tay nguyện cầu. Tôi

56

tin tưởng rằng ở một nơi nào đó giờ này Duyên đang mãn nguyện vì đang được sống trong cảnh giới lành, nơi đó không còn hận thù, không còn chiến tranh, không còn đau khổ. Ngày hôm sau tôi từ giã gia đình Duyên để trở về đơn vị. Hai tuần sau, bỗng nhiên tôi nhận được một bức điện khẩn của Bộ Tư Lệnh Thủy Bộ gọi về trình diện đại tá chỉ huy phó. Sau khi trình diện đại tá chỉ huy phó, tôi được đại tá đưa cho một lá thư, của mẹ Duyên gửi cho Bộ Tư Lệnh Thủy Bộ, kể việc Duyên báo mộng nói bị mất chiếc đồng hồ Seiko và yêu cầu phải tìm lại kỷ vật này. Tôi đọc đi đọc lại lá thư hai ba lần mà cứ tưởng như chuyện hoang đường. Chờ tôi đọc xong, đại tá tư lệnh phó ra lệnh cho tôi thật ngắn gọn: - “Bằng mọi giá tìm cho ra chiếc đồng hồ Seiko để trao lại cho gia đình Duyên.” Lệnh đưa ra thật đơn giản nhưng sao mà nặng nề khó khăn thế! Rời khỏi văn phòng Tư Lệnh Phó với một tâm trạng rối bời. Làm sao tìm cho ra chiếc đồng hồ đây? Ai đã giữ chiếc đồng hồ đó? Duyên có đeo chiếc đồng hồ Seiko này vào những giờ phút cuối cùng không? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập hiện lên trong trí. Tôi ghé phòng hành quân, nhờ máy viễn liên liên lạc về chỉ huy trưởng Giang Ðoàn trình bầy sự việc và nhờ chỉ huy trưởng cho kiểm soát lại chiếc giang đỉnh mà Duyên đã đi để tìm xem có chiếc đồng hồ không? Cả giang đoàn được thông báo sự việc và tất cả cùng lục soát các nơi nhưng vẫn không kiếm ra kỷ vật. Sau một đêm thao thức suy nghĩ về lá thư, về lệnh bằng mọi giá phải kiếm cho ra chiếc đồng hồ, tôi quyết định việc đầu tiên là phải xuống bệnh viện Chương Thiện để dò tìm tin tức, vì nơi đó Duyên đã sống những ngày cuối cùng. Tại bệnh viện gặp hết bác sĩ này đến y tá nọ, dọ hỏi xem có ai biết tin tức về chiếc đồng hồ của Duyên không thì đều được trả lời không biết. Vào phòng bệnh nơi Duyên đã nằm, hỏi thăm các thưong bệnh binh đã nằm cùng phòng với

Duyên, gặp một vài anh em hải quân đang nằm điều trị cũng không có tin tức gì mới lạ. Ghé phòng CTCT trình bày vấn đề cũng không được giúp đỡ gì hơn. Buồn quá, xuống cantine uống nước, lân la nói chuyện với một vài hạ sĩ quan đang làm việc tại bệnh viện, một ngưòi đề nghị ghé phòng văn thư mà hỏi vì nơi ấy lưu trữ các giấy tờ chuyển người, nhận người. Tôi lại gõ cửa phòng văn thư, lại một màn trình bày lý do. Ai cũng cho là mơ hồ, không tưởng. Nhưng mọi ngưòi vẫn sốt sắng lục lại đống hồ sơ cũ xem có tìm ra tin tức gì không. Bỗng một ngưòi hỏi lớn: - “ Tên ông thiếu úy ấy là gì ?” Tôi trả lời: - ”Tên là Duyên, hải quân thiếu úy Phạm văn Duyên”. Người hạ sĩ già lật lật trang giấy rồi nói lớn: - Ðây nè, có hồ sơ của thiếu úy Duyên đây ”. Nói xong ông ta trao cho tôi một mảnh giấy nhỏ, tôi đọc ngấu nghiến hàng chữ: - “Có nhận hai bộ quần áo và một chiếc đồng hồ Seiko”, dưói ký tên một thượng sĩ phòng CTCT thuộc Trung Tâm Hải Quân Sài Gòn. Vị hạ sĩ nói: - “Như vậy là căn cứ hải quân Sài Gòn đã tiếp nhận thi hài của thiếu úy Duyên và những vật dụng tùy thân để chuyển về gia đinh người đã khuất. Trung úy cứ về căn cứ hải quân Sài Gòn kiếm ông thượng sĩ này là ra ngay thôi.” Cầm tờ giấy chứng nhận trong tay, nỗi vui mừng không sao tả xiết. Tôi nhanh chóng thu xếp hành trang để lên đường trở về Sài Gòn. Tại đây tôi vào trình diện trung tá trưởng phòng CTCT căn cứ hài quân Sài Gòn. Tôi trình bầy sự viêc và trao tấm giấy biên nhận của bệnh viện Chương Thiện cho trung tá trưởng phòng coi. Vị trung tá gọi điện thoại kêu viên thượng sĩ vào trình diện. Khi được hỏi về chiếc đồng hồ, người thượng sĩ bỗng tái mặt và nói lí nhí: - “Tôi chỉ giao quần áo lại cho thân nhân, còn chiếc đồng hồ tôi giữ lại.”

57

Rồi ông nói tiếp :”Lúc đó tôi lỡ kẹt tiền nên đã đem chiếc đồng hồ thế chân tại tiệm cầm đồ.” Trung tá trưởng phòng cho quân cảnh đi cùng với người thượng sĩ đến tiệm cầm đồ. Sau gần một tiếng đồng hồ chờ đợi, người lính quân cảnh trở lại với chiếc đồng hồ Seiko trong tay. Nhìn chiếc đồng hồ Seiko, tôi tưởng như mình tìm lại được vật quý giá nhất trên đời. Tôi nghĩ đến giây phút ba mẹ Duyên nhận lại chiếc đồng hồ này chắc hẳn hai cụ sẽ sung sướng lắm. Tôi

rùng mình khi nhớ đến sự báo mộng của Duyên cho gia đình, một sợi dây linh thiêng nào đó đã nối chặt giữa người sống và người chết. Tôi chắc giờ đây Duyên đã thực sự an tâm và thanh thản để ra đi. Nghĩ đến đó lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui vô tả. Bây giờ tôi có thể yên lòng trở về đơn vị cùng các chiến hữu anh em. Ngô Thụy Chương

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Thơ Ngoại Quốc Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch L'Amitié, ce soleil de l'âme... L'amitié, ce soleil de l'âme, Me ranimant de sa chaleur, Fond ma neige à sa tiède flamme Et me rend le printemps du coeur. Oui, tu dis vrai : ce coeur écoute Le triste charme de ces vers ; Tant qu'il restera sur ma route Quelqu'un de ces êtres chers Comme ces arbres dont la voûte Verdit la neige des hivers, Aux vieux amis qui m'ont vu naître Mon coeur ne saurait se fermer ; Toujours vieux pour les reconnaître Toujours jeune pour les aimer. Lamartine

Tình Bạn, Nắng Ấm Tâm Hồn... Bạn bè, như ánh mặt trời, Chiêu dương sưởi ấm sáng soi cõi lòng Như tia nắng ấm mùa đông, Chảy tan băng giá, xuân hồng tim tôi Tin theo lời nói, bạn ơi Lặng buồn, cuốn hút theo lời, ý thơ Đường đi, tôi chờ đợi người Bạn thân trên cõi đời nầy, Như cây tươi mát dưới trời bao la Mùa đông tuyết trắng rơi sa, Hóa thành xanh biếc, thật là đẹp xinh Người xưa, bạn cũ thân tình, Lòng tôi rộng mở, bạn mình vào đi Dù nay tôi đã tuổi già Tuy nhiên, vẫn biết ai là bạn thân Bạn ơi, xin chớ ngại ngần Tim tôi trẻ mãi, vạn lần thương yêu. 1/6/15 Lê Ngọc Trùng Dương

58

Möåt ngaây àêìu haå meocali

Đầu hạ, Sài Gòn bước vào cao điểm của mùa nóng. Cái nóng bồn chồn, vật vã, chờ đợi những cơn mưa đầu mùa thập thò sau đám mây xám cuối trời, cứ hẹn nhưng ỡm ờ không đến, hay chỉ ghé thoáng qua rồi vội vã ra đi, để cái oi bức ập về, mong ngóng. Những đống đá xanh lát đường nằm rải rác trên con phố nhỏ. Cơn gió nóng thoảng qua, tung lên một đám bụi nhạt nhòa, lung linh những cành điệp phủ hoa vàng trong mảng công viên nho nhỏ bên kia đường. Dăm con chim sẻ ríu rít chuyền cành. Mấy chú ong bầu đen tuyền, to kịch cỡm, lửng lơ, nhẹ nhàng vo ve bên những cánh hoa màu vàng chanh óng ả. Đám công nhân nghỉ giải lao, ngồi túm tụm trốn nắng trong quán cà phê, trò chuyện râm ran, ồn ào chọc ghẹo. Đề tài hâm nóng, xoay quanh anh tài xế xe lu (hủ lô) mới về thăm vợ sau hai tuần lao động. Trên bàn, những ly cà phê đá rịn mồ

hôi. Màu cà phê đen nhánh, hấp dẫn, đậm đà mùi bắp cháy. Con đường lộ nhỏ đã được nâng lên ba năm trước, lại được đắp cao thêm, nhiều căn nhà thấp bên đường bỗng như bị cắt ngắn cũn cỡn, mất cân xứng, khôi hài như tranh hoạt họa. Tầng chệt tụt hẳn xuống dưới mặt đường, thềm nhà cao chênh vênh so với nền nhà, rồi từ trong nhà đi ra thay vì bước xuống thềm, sẽ phải nói là chui lên thềm mới đúng. Những cái thềm cũng đã có một lịch sử đấu tranh quyết liệt, cam go khi những đống đá trải đường được dân hai bên phố nhanh nhẩu xúc hốt, rê vào để nâng thềm nhà lên cao hơn mặt đường, vừa làm đê ngăn nước mưa vừa tạo dốc cho xe ra vào, Sài Gòn vươn vai, xoay mình vội vã để bắt kịp nhịp chuyển. Thay đổi từng ngày. Nhà cửa, cao ốc mọc lên như đang xem cuốn video với vận tốc nhanh. Những khu đô thị mới, nổi lên từ vùng ruộng đồng, sông lạch quanh Sài Gòn xưa. Những con đường cũ mang tên mới, làm bỡ ngỡ

59

người về tìm ký ức của những tháng ngày còn chút luyến lưu. Bước vào hiện đại, Sài Gòn mất dần nét cổ kính, nên thơ. Những con đường cây dài bóng xế đã biến dạng khi nới rộng để đáp ứng nhu cầu giao thông với dân số và lượng xe cứ tiếp tục tăng theo lũy thừa. Những cây cầu vượt, cao ngang các tòa nhà bốn, năm tầng, đã thành hình trên nhiều giao lộ. Vào giờ cao điểm, xe cộ ùn ra đường phố vẫn như những đàn kiến vỡ tổ, lúc nhúc trên mọi tuyến đường. Lưu thông ở nơi xe khói mờ nhân ảnh này là cả một nghệ thuật khi luật giao thông phần lớn chỉ được tôn trọng ở những chỗ có thể có cảnh sát. Xe buýt, tắc xi - những con quái thú đường phố - lách ra, đâm vào xoành xoạnh để bốc, thả khách, bất kể an nguy của những chiếc xe hai bánh mỏng nhẹ chen chúc chung quanh. Chưa kể đến các yêng hùng chở những kiện hàng cồng kềnh trên xe gắn máy, tránh né cảnh sát, rú ga, lạng lách như đang đóng phim hành động. Còn khá nhiều người dị ứng với đèn giao thông, xanh đỏ gì cũng phóng. Và cũng đừng nói đến quyền ưu tiên nếu xe không to hơn, nhanh hơn và bất chấp. Dù thiền sư cao tăng trụ trì Vĩ Môn Tông Viên Nhật Bản có lái xe ở đây thì cũng đành phải quên tiếng Nhật để vô tư sổ tiếng Đức mà thôi. Tinh thần tự giác cùng cái trình độ công dân giáo dục còn mong manh lắm ... Nắng cũng nhạt dần theo từng cơn gió mát. Xa lộ đông tây lúc chiều về là con đường lý tưởng để vào trung tâm thành phố từ phía quận sáu – Phú Lâm. Xa lộ rộng, trải dài theo một nhánh sông Sài Gòn, chạy dọc theo kênh Bến Nghé, bến Vân Đồn, kênh Tàu Hũ, qua khỏi Xa cảng

miền tây. Bắc ngang trên xa lộ là những cây cầu mới, tân kỳ hơn, nối liền quận tư, quận bảy, quận tám với trung tâm thành phố và Chợ Lớn, đa số vẫn còn giữ những cái tên quen thuộc của cầu Khánh Hội, cầu Calmette, cầu Ông Lãnh, Chữ Y, Nguyễn văn Cừ (Nancy), Nguyễn tri Phương, Chà Và... Khoảng giữa những cây cầu cao to là những cây cầu đi bộ thanh mảnh, xinh xắn. Những dây hoa tươi thắm leo dọc hai bên thành, rực rỡ trong bờ nắng xiên xiên, tương phản với dòng nước xanh xám màu mây. Có những chiếc ghe bầu, ghe bản lồng nhẹ nhàng xuôi con nước lớn, đưa hàng từ miền tây lên tận bến Bình Đông, vẽ một bức tranh nên thơ hiếm hoi trên cái phông tất bật, hối hả của đô thị. Chiều lịm xuống, những ngọn đèn đường chợt bật sáng. Ánh đèn trong xanh dọc theo xa lộ, lượn mềm mại bên nhánh sông gầy, xoải dài về phía trung tâm thành phố. Một vùng ánh sáng huy hoàng, những dãy đèn đủ sắc màu, long lanh chạy tỏa xuống từ đỉnh cao chót vót của những tòa cao ốc, những khách sạn lộng lẫy - một Sài Gòn về đêm xa hoa, tráng lệ hơn xưa, nhưng vẫn làm dấy lên cái hình ảnh và cảm xúc sâu lắng, thân quen trong những đêm lặng lẽ tựa mình lên bờ thép lạnh của pháo tháp, lưu luyến dõi theo ánh đèn thành phố xa dần với nỗi nhớ nhè nhẹ dâng lên cùng tiếng gió thì thào, khi chiếc chiến hạm lẻ loi, âm thầm rẽ nước rời bến Bạch Đằng ra vùng công tác vào những năm tháng mịt mùng, xa xôi ấy... meocali Tạp ghi, tháng 5/2015

60

Mùa đông lại trở về với Cornwall, một làng quê hẻo lánh nơi Duyên cư ngụ. Liên tiếp mấy ngày nay, mưa tuyết rơi tầm tã; những bông tuyết vờn bay theo ngọn gió đông se sắt lạnh. Từng con đường, từng mái nhà, từng hàng cây trơ cành ..., vạn vật được bao phủ bởi một màn tuyết trắng dầy đặc. Rặng thông trên con đường Country Club dẫn đến nhà Duyên được viền bằng những mảnh tuyết trắng nổi bật trên những cành thông xanh lá. Cái lạnh tê buốt ở xứ ngườI làm nàng nhớ nhiều về những con đường quê hương nắng ấm chan hòa và thắm thía nỗi buồn cô đơn của kẻ tha hương. Vậy mà hôm nay, Duyên phải đi tham dự lớp tu nghiệp ở trường UConn. Mỗi năm Duyên phải lấy 15 tín chỉ trước cuối năm để được Hội Đồng Dược Khoa tiểu bang cấp giấy hành nghề cho năm tới. Năm nay, còn thiếu 2 tín chỉ nên dù không muốn Duyên cũng phải cố gắng tham dự.

Trời lại tiếp tục mưa tuyết, những bông tuyết chao lượn trong không gian làm Duyên không thấy rõ hướng đi, chiếc xe nàng lái, chầm

chậm lăn bánh trên con đường trơn trợt, trắng xóa vì nhiều lớp tuyết. Ra khỏi xa lộ 84, nhìn đồng hồ thấy vẫn còn đủ giờ, Duyên thấy an tâm hơn, bấm nút cho chiếc ghế hơi ngả về phía sau, nàng sửa lại dáng ngồi cho thoải mái và cất tiếng hát theo người ca sĩ trong CD, “Tháng sáu trời mưa, mưa ướt mềm vai em. Trời mênh mang xõa kín bờ mi ngoan ...” (1) . Để hồn hoà vào bản nhạc tình lãng mạn Duyên quên bẵng thời gian. Đến khi thấy thư viện trường, cao ốc sáu tầng lầu sừng sững hiện ra trước mắt nàng mới sực tỉnh, và biết mình đang lái xe ngang qua khuân viên trường Dược. UConn là trường Duyên theo học ròng rã năm năm trời nên nàng rành rẽ từng con đường nhỏ. Lái vòng quanh campus một lúc mới tìm được chỗ trống để đậu xe. Sau khi khóa xe cẩn thận, Duyên đi vội qua trạm xe để đón shuttle bus tới nơi họp. Dọc theo hai bên đường có nhiều sinh viên co ro trong chiếc áo chòang mùa đông dày cộm, khăn quàng, giầy cao ống, túi đeo trên vai nặng trĩu sách vở, đang vội vã đến lớp. Duyên chợt mỉm cười vu vơ khi nhớ đến hai hình ảnh mà chính mình đã sống qua, một sinh viên Việt Nam áo dài tha thướt, khoan thai từng bước đi; môt sinh viên Hoa Kỳ với trang phục nhiều lớp, dầy cộm, nặng nề.

Lê Phạm Kim Phượng

61

Đến được phòng họp, Duyên tưởng đã trễ nhưng tất cả vẫn còn đang nhộn nhịp. Thấy Duyên bước vào, người hướng dẫn viên vui vẻ chào, đưa cho nàng bảng tên để gắn vào áo, một cặp giấy với những tài liệu cho buổi học. Tự rót cho mình ly cà-phê nóng, Duyên định đi một vòng tìm người quen thì đã thấy Kathy bước tới. Với bản tính ồn ào, Kathy la lớn: “Ê Duyên, cuối cùng rồi mày cũng bò được đến đây, tao tưởng mày ngủ quên rồi chứ .” Vừa nói vừa kéo tay Duyên, Kathy tiếp: “Lại đây, bọn mình gồm 6 đứa, chiếm trọn một bàn, có cả thằng Tom Poison Ivy nữa.” Duyên chưa đến nơi thì đã nghe các bạn nhao nhao: “Hi Duyên, good morning Duyên, Hello Duyên ...” Tất cả đều làm chung trong bệnh viện Charllotte Hungerford với Duyên. Nhờ tiếng cười dòn ran và những lời diễu cợt của Kathy và Lisa mà cả bọn có những giờ học thật vui và 6 giờ đồng hồ qua đi dễ dàng. Thoáng chốc đã 5 giờ chiều, mọi người hân hoan nhận tín chỉ, và nhóm Charllotte Hungerford Hospital hẹn gặp nhau ở quán Kathy Jones. Duyên không đi với nhóm, vì trời đã sụp tối mà nàng còn muốn ghé Hartford mua cái CD mới ra của Ngô thụy Miên, và ít thực phẩm cho ba ngày tết. Tết cũng gần đến rồi, mà sao nàng thấy lòng dửng dưng. Năm nào cũng vậy, cứ gần đến Tết, những tiệm thực phẩm á đông đều bày la liệt những bánh chưng gói trong lá chuối xanh, câu đối đỏ, bánh mứt đủ lọai ... Nhưng lòng Duyên không xôn xao hớn hở như ngày xưa nơi quê nhà. Phụ Má chuẩn bị làm bánh, kẹo, mứt. ... Mứt kim quất vàng óng mật ngọt, mứt xoài đặc biệt cho Ba, mứt me để biếu ngoại, mứt mảng cầu để biếu Nội ..., gói những đòn bánh tét thật tròn, bánh chưng thật vuông. Tất cả các tài khéo léo được mẹ mang ra để chuẩn bị cho ba ngày tết. Rồi còn phụ Ba chăm sóc hàng mẫu đơn ngoài ngõ, tuốt lá bụi mai trước sân nhà; mấy khóm thược dược, hoàng cúc, vạn thọ cũng được Duyên tưới nước, chăm sóc kỹ lưỡng ... Đêm ba mươi hái lộc với ba má, mùng một đi chúc tết họ hàng,

mùng hai theo bạn bè xuống chùa Vĩnh Tràng xin xăm, mừng vui nếu được xăm thượng, lo âu nếu bị quẻ hạ ... Còn đâu những ngày xuân chan chứa tình tự dân tộc ! Phải chăng Tết chỉ có đầy đủ hương vị và Ỷ nghĩa trên quê hương Việt Nam.

Trời sẩm tối, nhiệt độ xuống thấp, Duyên cố gắng bước tới nhưng cơn gió như đẩy nàng ngược trở lại. Duyên co ro trong chiếc áo choàng dài, vòng tay trước ngực, đầu cúi thấp để tránh ngọn gió làm rát mặt, nàng bước thật nhanh trên con đường vắng. Phải mất khoảng 10 phút cuốc bộ Duyên mới đến được chỗ đậu xe ban sáng. Nhưng ô kìa ! Cái đầu xe của Duyên bị ai đụng bẹp nát, đèn bên phải cũng bị bể tung. Nàng đứng bất động, bàng hòang nhìn chiếc xe. Ai đã đụng vào xe của mình ? Đụng bao giờ ? Duyên tự hỏi và lính quỶnh lục bóp tìm chìa khóa xe, gió cứ vô tình thổi mạnh làm Duyên muốn ngã qụy. Tay run rẩy, phải khó khăn lắm Duyên mới mở được cửa xe, và cho nổ máy. Tiếng máy chạy đều đặn làm Duyên cảm thấy an tâm đôi chút. Không biết xe có an toàn để mình lái về đến nhà không? Không biết mình có nên gọi cảnh sát không ? ... Bao câu hỏi cứ ập tới, tự nhiên Duyên cảm thấy thật cô đơn và ước gì có một người bạn đồng hành. Bây giờ Duyên mới chợt nhìn thấy mảnh giấy kẹp nơi cần quạt nước trên khung kiếng. Mảnh giấy đã ướt sũng và nhầu nát, có lẽ ban chiều trời đã mưa. Duyên vói tay mở đèn trên trần xe, cẩn thận mở tờ giấy được gấp làm tư, nàng vội vã đọc nhanh những hàng chữ.

Dear owner, I accidentally backed into your car. I called and reported the incident to the Campus Sercurity Office. The officer came and wrote up the report. I also waited for you here for a while but you didn’t show up. Please contact Campus Sercurity Office to obtain information about me and my insurance. You can also call me at: 860-496-1234.

62

Sorry to cause you so much inconvenience Nhan Tran.

“Nhan Tran hay Nhân Trần? Trong một

khuân viên rộng lớn thế này, sinh viên Á Đông đâu có là bao. Sao lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, một người Việt Nam đụng xe một người Việt Nam trong bãi đậu. Có thể nào đây là Nhân ? —không. Không thể nào có một phép lạ như thế. Đừng mơ mộng hão huyền, đã gần 25 năm rồi còn gì !” Duyên miên man suy nghĩ, nàng lấy cái điện thọai trong bóp ra, lưỡng lự nửa muốn gọi nửa không muốn. Dù sao thì Duyên cũng muốn biết ai là người đụng xe mình. Cuối cùng nàng đã quyết định bấm 10 con số trên mảnh giấy vào điện thoại. Chỉ sau một tiếng reng, Duyên đã nghe giọng nói bên kia đầu giây: “Hello” Giọng nói rất trầm của một người đàn ông đứng tuổi. Dường như ông ta đang nóng lòng, Duyên chưa trả lời thì người đàn ông lại lập lại: “Hello”. Duyên vội vàng đáp:

- Xin vui lòng cho tôi nói chuyện với ông Nhan Trần.

- Tôi tên Nhân. Xin lỗi cô là ai ? Giọng cô nghe rất quen, quen lắm.

Duyên cảm thấy thật hồi hộp và bối rối, nàng đã quên hết tất cả những điều muốn nói và những câu hỏi cần phải hỏi, tim nàng đập nhanh hơn. Đang lúng túng thì người đàn ông lại tiếp:

- Hello, cô còn đó không? - Dạ, dạ ... Chào ông Nhân, tôi là người ...,

tôi là chủ chiếc xe bị ông đụng. - Xe của người Việt Nam! Người đồng

hương! Thật là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Càng nghe người đàn ông nói, Duyên càng

nhận ra những âm hưởng quen thuộc, nhưng cùng lúc Duyên lại nghi ngờ thính giác và ký ức của mình, nàng mong ông ta cứ tiếp tục nói để nàng có đủ thời gian phân tách và phản ứng. Người đàn ông nói tiếp, có vẻ ân cần hơn, như phân trần:

- Cô đừng lo, tôi đã báo cho bảo hiểm của tôi rồi. Họ cần biết tên và số điện thoại của cô để dễ bề liên lạc. Cũng may cô đã gọi ngay, vì ngày mai tôi phải trở về tiểu bang của tôi, nếu không liên lạc được với chủ chiếc xe thì tôi áy náy lắm. Tôi qua Connecticut để sửa chữa hệ thống computer của trường UConn. Công tác của tôi đã hoàn tất. Lẽ ra tôi đã rời chiều nay, nhưng tôi trễ chuyến bay. Tôi tên Trần Trung Nhân, xin cho tôi được biết qúy danh của cô.

Tai Duyên lùng bùng, nắm chặt chiếc điện thọai, nàng lẩm bẩm: Trần Trung Nhân! Nàng hỏi như thể xác định với chính mình:

- Ông tên Trần Trung Nhân ? - Vâng, còn cô ? Mà cô có giấy bút đó

không? Tôi đọc cho cô số bảo hiểm của tôi. - Tôi tên Vương Mỹ Duyên. Khi còn ở quê

nhà, có khi nào ông sống ở Mỹ Tho không? Ông có học trường Nguyễn ... Không đợi Duyên dứt lời, người đàn ông cắt ngang, giọng đầy vẻ kinh ngạc, ông nói nhanh:

- Đúng, đúng, Nhân bên Nguyễn Đình Chiểu, ở nhà trọ bên khu Nhà Đèn với Quy Ba, Tủng và Tài. Vương Mỹ Duyên! Vương Mỹ Duyên bên Lê Ngọc Hân phải không? Ở trọ nhà dì Hai Ngọt đúng không? Đúng rồi! Thảo nào giọng nói nghe quen thuộc quá.

Vọng lại từ bên kia đầu giây, dường như có tiếng nấc nhỏ. Nhân bàng hoàng, xúc động. Trong khoảnh khắc, cả hai như chết lặng trong sự ngạc nhiên. Không che dấu được cảm xúc, Duyên nghẹn ngào đáp:

- Duyên Lê Ngọc Hân đây anh Nhân. Gặp lại anh, Duyên mừng qúa, Duyên tưởng sẽ không bao giờ còn gặp lại anh.

- Duyên đang ở đâu? Anh có ... Một Ỷ tưởng thoáng qua làm Nhân lưỡng lự

đôi giây, anh ngần ngại tiếp:

- Anh có thể gặp Duyên được không? Duyên đáp nhanh gần như reo mừng. - Duyên vẫn còn ở Visitor Parking Lot của

trường.

63

- Anh sẽ đến ngay, anh đang ở khách sạn Marriott, không xa lắm. Duyên lái xe đến thư viện và đợi anh ở bên trong thư viện cho an toàn.

Duyên mỉm cười, lòng hân hoan như ngày hội, nàng nhủ thầm: “Vẫn bản tính cẩn thận ngày nào của anh! 25 năm qua đi với bao thay đổi, anh chắc già hơn trước nhiều!. Duyên cũng thế, vầng trán nặng thêm nỗi u hoài. Bao cam go, bao thử thách chất chồng, để rồi Duyên cũng mất tất cả. Còn đâu Quê Hương yêu dấu với những chiều vàng nhạt nắng, dạo phố trên đường Trưng Trắc, gió mơn man thổi từ sông Cửu Long vi vu qua mấy ngọn thùy dương . Cùng bè bạn vào quán Mây Chiều ăn kem, nghe Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn. Thành phố của Duyên và Nhân. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm của một thời thanh xuân cũ. Những kỷ niệm đó đã giúp cho Duyên tạm khuây khỏa những tháng năm cô đơn, phiền muộn nơi đất khách quê người.” Duyên đáp nhỏ :

- Dạ, Duyên sẽ đợi anh. Giọng nói quen thuộc ngọt ngào, hình bóng

Duyên đã in đậm nét trong tâm tư Nhân. Làm sao chàng có thể quên được suối tóc mây đen huyền, đôi mắt buồn mơ mộng với sóng mũi thanh tú, đôi môi chúm chím dễ thương trên gương mặt thon nhỏ có đôi má lún đồng tiền, vóc dáng mảnh khảnh gói gém trong tà áo trắng học trò. Hình dáng ấy đã mang đến cho Nhân một quãng đời êm đềm chan chứa những giây phút thần tiên. Kỷ niệm chừng như đã ngủ yên trong qúa khứ nay chợt bừng sống dậy.

oOo

Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng, Về bưng ăn ốc, về đồng ăn cua.(2) Chợ Gạo là một quận nhỏ, nằm bên bờ kinh

Chợ Gạo, bắt nguồn từ sông Cửu Long. Nơi đây có ruộng lúa xanh ngát tận cuối chân trời, hàng dừa cao rũ bóng bên giòng sông hiền hòa, vườn mía với những cây mía vàng óng, những vạt bắp

đầy trái bọc lá xanh non, vườn trái cây sai quằn những trái mận Hồng Đào đỏ au, những trái vú sữa tròn triạ vỏ tím sáng bóng dưới ánh nắng ban mai, nước dừa xiêm uống ngọt và mát lịm ... Hoa đồng cỏ nội, nét đặc thù thổ sản điạ phương, và người dân quê thực thà chất phát. Đó cũng là nơi mà Nhân được sanh ra. Gần bên Chợ Gạo là Gò Công, quê hương của đức bà Từ Dũ, Hoàng Hậu vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức, và đó cũng là quê của Vương Mỹ Duyên. Cả Nhân và Duyên đã lớn lên bên giòng sông nước lợ, thấm nhuần tinh thần quê hương dân tộc trong tiếng ru ầu ơ ngọt ngào của người mẹ quê và những câu hò điệu hát của trai gái làng giã gạo trong đêm trăng.

Nhân sanh trưởng trong một gia đình nho giáo, trọng nhân nghĩa và qúy sự học. Sau khi xong bậc tiểu học tại trường làng, Nhân thi đậu vào trường công, học bốn năm đầu tại Trung Học Công Lập Chợ Gạo. Sau năm đệ tứ Nhân phải chuyển trường, gia nhập trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu tại thị xã Mỹ Tho. Đây là lần đầu Nhân phải sống xa nhà; chàng cảm thấy âu lo nhưng lại thấy mình như lớn hẳn ra. Chiếc rương lớn đựng vài bộ quần áo đồng phục, quần xanh áo chemise trắng, còn lại phần lớn là sách vở. Nhân xách chiếc rương theo sau ba má. Bà Năm, má của Nhân xách chiếc túi trong đựng đồ ăn và trái cây, ông Năm dắt chiếc xe đạp theo sau. Đưa Nhân xuống đò ra tỉnh học, bà mẹ quê lập lại những điều mà bà đã ân cần căn dặn cậu con trai trong suốt tuần qua: “Cố gắng học hành nghe con, đừng la cà lêu lổng, có ngày nghỉ lễ nhớ về thăm ba má ...” Bà dúi vào tay Nhân chai dầu Nhị Thiên Đường bà lại căn dặn: “Má lo cho con qúa Nhân à, khi nào bị đau bụng nhức đầu con nhớ lấy dầu ra xài nghe.” Sau khi bỏ chiếc xe xuống đò cho con trai, bằng giọng nghiêm nghị ông Năm nói: “Tổ quốc đang mong chờ bàn tay đóng góp của những thanh niên như con, con phải sống cho nên người, con hãy cố gắng dồi mài kiến thức để sau này giúp ích cho nhân quần và làm rạng danh

64

nòi giống.” Nhân cảm động rơm rớm nước mắt, lòng thương cha mẹ rạt rào.

Trong căn gác trọ nhỏ trên đường Học Lạc gần khu Nhà Đèn, ba cậu học trò lớp Đệ Tam: Nhân, Quy Ba và Tủng tới từ những quận nhỏ miệt ruộng, miệt vườn đã chăm chỉ sách đèn và sống rất đơn sơ, giản dị. Những ngày trời mưa rả rích, là những ngày “hên” của các cậu. Họ lo học bài sớm, để rồi còn xách đèn khí đá đi soi ếch. Bắt đầy một giỏ ếch rồi vẫn chưa xong, các cậu còn qua vườn rau hàng xóm cắt trộm vài tép xả, vài lọn bạc hà, một ít cà chua, một nắm hành hương ... Các cậu thức thật khuya để nấu những món ăn tự chế ra, nào là ếch xào xả ớt, ếch nấu canh chua me, cháo ếch hành hương ... đủ thứ món ăn nấu bằng thịt ếch. Thế là có thức ăn cho vài ngày, có dư tiền để vào quán Năm Minh gần Cầu Quay, ngã tư Quốc Tế nhâm nhi tách cà phê tập tành làm người lớn, hay chui vào rạp Định Tường để coi film tình cảm Pháp do tài tử Alain Delon và Brigitte Bardot thủ diễn. Các cậu tập tành hưởng thụ ánh sáng văn minh của dân tỉnh thành, cuối tuần trở về nhà bằng đò máy thăm ba má và xin “tiếp viện”

Nhân đã bắt đầu biết mơ mộng, và thích đọc thơ tình lãng mạn. Chàng yêu bài thơ Le Lac của Lamartine, hay bài Sonnet d’Avers -Tình Tuyệt Vọng - do Khái Hưng phiên dịch. Có lần Nhân bâng khuâng đọc vài câu: “... Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu Mà người gieo thảm như hầu không hay ...”

Tình cờ nghe được, Tủng phá: “Há há há ... Ba Tòi, mày có nghe thằng Nhân Ma Điên không? Nó thất tình em nào mà lên cơn điên, than thở nghe rầu ruột. Em Ổi hay em Xoài? Em Mận hay em Cóc ? ... “ Nhân nổi nóng nạt ngang; “Im ngay thằng Tủng Đụng Tường, mày còn nói nữa tao đấm mày bể mắt kiếng cho mày đụng thêm vài bức tường nữa chơi. Hà hà hà ...” Quy Ba, có biệt hiệu là “Ba Tòi” khập khễnh đi lại gần bàn học của Nhân, với tay lấy trái ổi Nhân mới mang từ quê lên, đưa ngang tầm mắt ngắm nghía, ra vẻ ngây thơ hỏi: “Thằng Nhân

Ma Điên mê em Ổi nào vậy cà? Hèn chi thằng Nhân mê ăn ổi ...” cả ba ôm bụng cười sặc sụa. Cuộc sống của bộ ba qua đi trong những tiếng cãi vã, tranh luận xen lẫn tiếng cười nắc nẻ, những đêm đốt đèn dầu thức thật khuya để học bài thi, những thoải mái vui nhộn của những ngày cuối tuần rong chơi không đèn sách. Kết qủa cuộc thi tú tài I được dán trước cổng trường. Nam sinh, nữ sinh chen chúc nhau coi kết qủa. Quy Ba chân cà thọt mà lại lọt vào vòng trong trước Tủng và Nhân. Quy Ba mừng rỡ hét lớn cho Tủng và Nhân đứng vòng ngoài nghe: “Ê tụi bay, tao đậu thứ.” Tủng và Nhân cố chen vào, vừa chen vừa hỏi lớn: “Còn tao?” Tiếng Quy Ba lại hét lớn: “Thằng Tủng, số kỶ danh 511 đậu thứ. ... Thằng Nhân số kỶ danh 315 đậu bình. Ê thằng Ma điên số kỶ danh chín nút may mắn nên đậu cao, ha ha ha ...” Ba cậu tú hân hoan khăn gói về quê để báo tin mừng với Ba Má. Những ngày hè vội vã đi qua.

oOo

Đầu năm Đệ Nhất! Căn gác của dì Hai Ngọt, nằm đối diện với

gác trọ của bộ ba, mới xuất hiện hai bóng hồng. Ngày đầu niên học, đứng trên balcony bộ ba đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy bốn tà áo trắng dắt xe đạp mini từ trong nhà dì Hai đi ra. Tủng cố mở lớn cặp mắt cận sau lớp kiếng trắng dầy cộm đọc phù hiệu trường trên cổ áo nhưng vẫn không đọc được. Quy Ba sáng mắt nên nhận ngay ra, quay lại nói với bạn: “Lê Ngọc Hân công chúa đó tụi bay.” Kể từ hôm ấy bộ ba có thêm đề tài cãi vã và có thêm thói quen mới. Quy Ba chiều chiều mang đờn ngồi trước balcony dạo những tình khúc Trịnh Công Sơn, Phạm Duy ..., miệng nghêu ngao: “Em tan trường về đường mưa nho nhỏ ...” (3). Mỗi sáng trước khi rời căn gác trọ, bộ ba không quên vóc nước vuốt lại mái tóc, sửa lại chiếc áo đã ủi thẳng nếp bằng chiếc bàn ủi than mượn được của bà chủ nhà. Ngày qua ngày

65

ba chiếc xe đạp đòn gánh tà tà theo sau hai chiếc xe mini.

Đứng bên trong khung cửa sổ, Tủng chu môi hát: “Anh sẽ yêu em trọn một đời, yêu như ngày nào đôi ta chung lối ...” (4) hy vọng các nàng sẽ kéo nhau ra balcony để nghe người nghệ sĩ si tình kể lể. Nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy động tĩnh từ căn gác đối diện, Tủng vớ lấy Quy Ba phân trần: “Chắc các công chúa đang mắc học bài! Tao thích nàng tóc dài, nhường mày em tóc demi garon. Đồng Ỷ?” Đang cân bằng một phản ứng hóa học, Quy Ba bực mình quay lại gắt: “Lo học đi thằng bốn mắt. Ở đó mà tóc dài tóc ngắn. Mày có người yêu rồi, Ngọc Lan đó chi. Thôi đừng phá người ta nữa mày.” Tủng cụt hứng trở lại bàn học miệng lẩm bẩm: “Giỡn chơi chút xiú, chết chóc gì đâu ?”. Nhân vẫn ngồi nơi bàn của mình, mắt chăm chú nhìn vào quyển triết học của giáo sư Vĩnh Đễ, lặng yên như không mấy quan tâm.

Hôm nay Tủng có hẹn với Lan nên không ăn cơm chiều ở nhà. Mãi đến tối mịt Tủng mới về đến. Vừa bước vào cửa Tủng đã bi bô:

- Ê tụi bay, có tin sốt dẻo, Lan cho tao biết lỶ lịch của hai cô nàng hàng xóm.

Đã nằm yên trên giường, cả hai đều nhỏm dậy. Tủng nói tiếp:

- Em tóc demi đang học đệ nhị A1, tên Huyền Thi. Em tóc dài tên Mỹ Duyên, lớp đệ tam C1. Cả hai đều đến từ nơi phát xuất những con nhạn trắng.

Nhân buột miệng: - Vương Mỹ Duyên! Cô bé là con một của

một gia đình khá giả ở Gò Công. Đang học bên Gò Công nhưng muốn

theo Thi, bà chị họ lên Mỹ Tho học. Thím Hai là Cô của Thi đó.

Tủng và Kim Ba mở to mắt tỏ vẻ vừa ngạc nhiên vừa thích thú, lắng nghe Nhân nói. Cả hai đều không ngờ; “Thằng Ma Điên tẩm ngẩm tầm ngầm mà làm những chuyện động trời không ai biết. Thằng Ma Điên đang trồng cây si !”

oOo

- Chị Thi à, mấy anh bên kia hát hay ghê hén.

- Ừa ! Mấy ổng học Đệ Nhất C bên Nguyễn Đình Chiểu đó, Thi nghe

nói mấy ổng ưa giả làm ma bên dãy lầu dơi nhát bọn nữ sinh sợ chạy đứt quai guốc đó Duyên.

- Chị biết mấy ổng kỹ qúa há. Chị biết tên mấy ổng không?

- Cà thọt tên Quy Ba, bốn mắt tên Tủng. Người gầy có tóc đen dợn sóng, mặt mụn giống Hàn Mạc Tử tên Nhân.

- Trần Trung Nhân đó chị, bạn em có anh học chung lớp nói cho em biết. Anh Nhân hiền ghê há chị, không lém như mấy anh kia.

- Á! Thì ra Duyên cũng theo dõi ba ông kẹ kỹ qúa hén. Có cảm tình đặc biệt với anh Nhân hả. Để Thi nối nhịp cầu giao cảm cho nha.

- Ý, đừng nói bậy, cô Hai nghe được là chị em mình bị “dũa” thảm thiết đó.

Thực ra, từ ngày đến ở trọ căn gác của dì Hai Ngọt, Duyên đã thấy vui vui vì những phá phách nghịch ngợm nho nhỏ của các cậu học trò hàng xóm. Có lần mới đạp xe ngang nhà các cậu thì một chùm phượng vỹ rớt gọn trong giỏ xe, Duyên nhìn lên, tuy chẳng thấy ai trên balcony nhưng nàng cũng biết đây là một trong những trò chơi tinh nghịch của môt trong ba anh chàng hàng xóm. Đã nhiều lần Duyên bắt gặp ánh mắt của Nhân đang trộm nhìn Duyên, mỗi lần chạm mắt Duyên cảm thấy lòng xao xuyến. Một thứ tình cảm rất lạ đang nhen nhúm trong tim Duyên. Có lần Duyên đánh bạo nhìn trở lại, mỉm cười và đưa tay chào Nhân. Nhân cười đáp lại. Nụ cười trên môi Nhân biểu lộ niềm vui mừng pha lẫn một chút ngơ ngẩn. Một lần khác Duyên lại thu hết can đảm hỏi:

- Sao anh Nhân không hát ? - Tôi hát không hay. Tôi thích nghe Duyên

hát.

66

- Duyên hát dở lắm, nhưng nếu anh muốn Duyên sẽ cố gắng. Chiều nay anh ra Balcony nghe nhé. Duyên sẽ hát từ bàn học của Duyên, kê sát cửa sổ.

- Tôi sẽ đợi mỗi chiều ở balcony. - Anh khùng qúa, nhưng anh lại dễ mến. - Bạn bè gọi tôi là Ma Điên. - Tại sao? - Tại tôi thích thơ mà lại hay thơ thẩn. - Anh thích thơ? Duyên cũng thích thơ. - Thích làm thơ hay thích đọc thơ người

khác? - Cả hai. Duyên thích đọc những bài thơ

của anh - Thơ tôi không đa tình như thơ Đinh Hùng ,

không lãng mạng như Xuân Diệu. Chỉ là những lời chân thật.

- Duyên yêu những lời chân thật. Câu chuyện bâng quơ, ngắn ngủi, nhưng lại

là một kỷ niệm tuyệt vời nhất của Duyên và Nhân, đó là chìa khóa mở cửa

cho hai người bước vào thiên đường tình yêu. Từ đó, hai người thường gặp gỡ và hát cho nhau nghe những bài về tình ca quê hương: “Quê hương tôi, có con sông Đào xinh xắn ...” (5) Có Khi: “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời ...” (6). Rồi lại: “Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu ...”(7). Giọng hát ngọt ngào, hình dáng diễm kiều của Duyên đã gợi cho Nhân biết bao là thi tứ, và Nhân tập tành làm thi sĩ viết thơ tình.

Ngày tháng êm đềm trôi qua. Họ nhìn đời qua lăng kính mầu hồng hạnh phúc, màu đỏ nồng nàn, màu tím nhớ nhung. Tất cả đã phong phú hóa tình yêu ngây thơ, trong sáng của Nhân dành cho Duyên. Những ngày vui bên nhau là bao kỷ niệm. Sánh bước dạo chơi dưới hàng điệp có hoa nở rộ đỏ một góc trời. Những chiều dạo phố qua đường Trưng Trắc, “Con đường tình sử.” Những trưa hè dưới bóng mát cây mận, gốc xoài là bao tiếng cười vui, lời âu yếm

đậm đà. Dừng chân quán Mây Chiều nghe nhạc và thưởng thức ly kem ngọt lịm đầu môi.

Mùa hè năm ấy, Nhân thi đậu tú tài đôi. Niềm vui đăng khoa chưa trọn thì nỗi buồn chia ly đã đến. Nhân lên Sài Gòn học ngành Báo Chí tại Đại Học Vạn Hạnh. Duyên ở lại tỉnh nhỏ bắt đầu lớp đệ nhị trong nỗi buồn xa cách, Duyên đã không còn thói quen để hồn lãng đãng cùng những bản nhạc tiền chiến khi hoàng hôn xuống. Những cánh thư qua lại cũng không giúp họ vơi buồn bớt nhớ. Thỉnh thoảng người thành phố về thăm người tỉnh lẻ, những buổi hẹn hò đẹp như một giấc mơ. Con gái Sài Thành đẹp kiêu sa, thông minh và không kém phần duyên dáng, nhưng nào sánh được với Duyên, người đã đem đến cho Nhân những chuỗi ngày hoa niên đầy hạnh phúc.

Hai năm trôi qua, cuối cùng rồi Duyên cũng xong phần trung học. Ngày Duyên thi đậu tú tài đôi cũng là ngày Duyên và Nhân rất vui mừng vì sắp được gần nhau. Duyên ghi danh vào Đại Học Văn Khoa ban Pháp Văn. Mùa hè năm ấy Duyên và Nhân đã có những ngày thần tiên tại quê nhà. Họ gặp nhau thường hơn, cả hai đã khôn lớn và hai bên gia đình đều qúi mến “con dâu”, “con rể” tương lai. Bên ly trà thơm mùi bông lài, ông Năm nhìn Nhân và Duyên đang trò chuyện bên giàn mướp, ông mỉm cười gật gù nói với ông Bảy Lạc, ba của Duyên: “Chờ sấp nhỏ học xong mình tính tới nghe anh Bảy.” Ông Bảy Lạc gõ nhẹ nhẹ điếu thuốc rê vừa vấn xuống mặt chiếc bàn cẩn xà cừ, rồi chậm rãi đáp: “Hổng biết anh sao chớ tôi mong có cháu bồng sớm sớm. Mình cũng già rồi anh.” Hai ông bạn già cùng nâng tách trà, hớp một ngụm nhỏ rồi cùng cười thoải mái. Nắng chiều đã tắt, hương thơm hoa cau, hoa bưởi vương vấn theo ngọn gió chiều.

Năm 1968, khi những đóa mai vàng hé nụ trên cành, trời bắt đầu vào Xuân thì chiến tranh bùng nổ nhiều nơi. Lệnh tổng động viên ban hành. Sinh viên, học sinh từ thành thị đến thôn quê phải thụ huấn những lớp Quân Sự Học

67

Đường, Nhân Dân Tự Vệ. Nhân đã đặt “nợ nước trước tình nhà”, tình nguyện gia nhập quân đội, và theo học khoá Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức , từ giã trường học và người yêu để dấn thân vào cuộc chiến sôi bỏng. Duyên rơi nhiều nước mắt trước quyết định của Nhân, nhưng nàng hiểu bản tính trọng trách nhiệm của Nhân, và Duyên hiểu hơn nữa khi nghe ông Năm nói với Ba nàng: “ ... Quốc gia hư vong, thất phu hữu trách ... Tôi đau lòng vì phải xa con, nhưng tôi hãnh diện vì thằng Nhân không phải là thằng con trai hèn nhát ... Cầu trời khẩn Phật cho nó trở về bằng an ...”

Sau ngày ra trường, Nhân được biệt phái qua binh chủng Hải Quân, chàng đi du học hải nghiệp tại quân trường OCS. Sau ngày tốt nghiệp từ Hoa Kỳ trở về, Nhân được bổ nhậm phục vụ Tuần Duyên Hạm Song Tử HQ 614. Từ đó, Nhân luôn bận bịu với những chuyến công tác dài lê thê. Nhưng cuộc đời quân ngũ cũng cho chàng nhiều thú vị. Nhân thực sự yêu biển, biển bình minh thật đẹp, cả một vùng trời mênh mông, phẳng lặng, mặt trời to và đỏ như một quả cầu, lừng lững lên cao từ phương đông. Hoàng hôn đến, sóng nước bập bềnh loang loáng, ráng chiều vàng rực những tia nắng cuối cùng rồi chìm tắt sau rặng núi. Gió biển mơn man trên da thịt, thoảng mùi muối mặn, trong lành và dễ chịu. Vào những đêm trăng sao sáng tỏ, ánh đèn lấp lánh vùng duyên hải, thành phố Vũng Tàu trong màn sương hư ảo đẹp diệu kỳ. Nhân có dịp đi qua những hải cảng sầm uất: Cam Ranh, Qui Nhơn, Nha Trang ... Những thành phố tráng lệ: Sài Gòn, Đà Nẵng ... Những hải đảo xa xôi: Phú Quốc, Thổ Châu ... Nhiều lần, đứng trên boong tàu, nhìn về phía tây miền đất liền nơi có hoả châu soi sáng, Nhân tự nghĩ: Đất nứơc mình có biển, hồ, sông, núi, cao nguyên, bình nguyên, quặng mỏ, phi trường, hải cảng ..., người dân thông minh, cần cù siêng năng; đủ điều kiện để phát triển thế mà vẫn yếu nghèo vì chinh chiến triền miên! Càng suy nghĩ, chàng

càng cảm thấy thương vô cùng quê hương, bạn bè, và đồng bào ruột thịt.

Hạnh phúc nhất là những lần về phép, Nhân vội vã về quê thăm Ba Má, trấn an người mẹ đã già nhiều hơn ngày con ra đi vì những nỗi lo lắng chất chồng. Ăn với Ba bữa cơm Má nấu đặc biệt cho “thằng Nhân” rồi lại vội vã ra đi không quên lau giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy của Má. Vội vã đến Đại Học Xá, hay khuôn viên Văn Khoa tìm Duyên. Tay đan tay, Nhân sung sướng bước chậm bên người yêu, lòng tràn ngập niềm vui. Ghé chợ hoa Nguyễn Huệ tìm mua cành hồng tím tặng nàng. Vào phở Tàu Bay, Nhân kêu hai tô xe lửa cho hai đứa, vào La Pagode nhâm nhi ly kem để hồn chìm vào những giòng nhạc du dương. Sấp tiền lương còn dầy cộm trong túi, Nhân đưa Duyên vào tiệm nữ trang mua tặng Duyên sợi dây chuyền có hình trái tim; đeo vào cổ Duyên, Nhân nói: “Trái tim của anh đó, giữ hộ anh đi, anh muốn nó theo em suốt đời.” Xúc động vì lời nói chân tình của Nhân, Duyên khép nhẹ hàng mi, giọt nước mắt hạnh phúc rớt nhanh xuống tay Nhân. Hai đứa vào Rex, không phải để xem ciné mà để nghe Duyên kể lể nỗi buồn vắng người yêu, để thấy Duyên môi cười rạng rỡ khi nghe Nhân kể chuyện hải đảo, chuyện biển khơi, thành phố duyên hải, hải cảng, và mơ ước. Rồi Nhân lại vội vã ra đi!

Ngày tháng thầm lặng trôi qua, Nhân và Duyên trải dài thương yêu, nhớ nhung trên những cánh thư tình xanh mầu hy vọng. Duyên đã tốt nghiệp cử nhân Văn Khoa ban Pháp Văn. Một ngã rẽ quan trọng đã bắt đầu trong cuộc đời của Duyên. Duyên không còn là cô sinh viên Văn Khoa e ấp trong tà áo dài trắng học trò nữa, mà Duyên bây giờ là nữ Giáo Sư dạy Pháp Văn ở Trưng Vương. Cô giáo mới ra trường còn tiếc nuối tà áo dài trắng nên đi dạy cũng mặc áo dài trắng. Dù làm ra vẻ người lớn, chững chạc nhưng đôi lúc cũng bị lầm lẫn với nhóm nữ sinh Đệ Nhất. Cô giáo Duyên đầy nhiệt huyết bị lôi cuốn vào những quyến rũ của nghề giáo. Nàng

68

yêu nghề, yêu đám học trò dễ thương, yêu những mộng mơ, những tình cảm đơn sơ của nhóm nữ sinh. Ai bảo nghề dạy học là nghề “bạc trắng như vôi” ? Với Duyên, dạy học là một thiên chức rất đáng yêu. Duyên đã nhận được những tình cảm thân thương đôn hậu của những cô học trò nhỏ, và Duyên cũng đã tìm thấy Duyên của tuổi hoa niên.

Chiến tranh lại bùng nổ với cường độ khốc liệt. Tin miền Trung thất thủ, từng tỉnh, từng quận bị Cộng Sản chiếm đóng. Người dân Việt Nam hoang mang, sợ hãi. Từng đòan người gạt nước mắt lũ lượt bỏ nước ra đi. Ai cũng sợ phải sống dưới chế độ phi nhân vô thần Cộng Sản, người ta chen nhau để tìm một chỗ trống trên chiếc tàu, chiếc ghe hay phi cơ với hy vọng được tới một bến bờ bình an. Giao thông nhiều nơi bị gián đoạn. Duyên bị kẹt lại Sài Gòn, tá túc ở nhà người bạn gái đồng nghiệp. Ngày 26 tháng Tư năm 75, trong một hoàn cảnh bất khả kháng, Duyên bị đẩy vào một chiếc trực thăng cùng gia đình người bạn để đi “lánh nạn” . Ông Bố của người bạn gái hứa: “Chỉ vài bữa sẽ trở về.” Ngồi trên sàn chiếc trực thăng, mọi người ôm chặt lấy nhau để khỏi bị xô ngã khi trực thăng trồi lên trụt xuống. Linh cảm đây là cuộc chia ly lâu dài, hối hận vì mình đã đặt chân lên chiếc trực thăng, lo lắng cho Ba Má và người yêu, Duyên chợt bật khóc.

Sau ngày 30 tháng tư năm 1975. Chánh Phủ Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Quân đội tan rã hàng ngũ một cách nhanh chóng, tang thương. Nhân trở lại Sài Gòn tìm Duyên nơi nhà trọ, bạn bè, thân quyến, không ai biết tin tức của Duyên. Sau cùng một người bạn gái của Duyên ở gần phi trường Tân Sơn Nhất cho biết Duyên đã ra đi. Đường xá bị gián đoạn, Nhân không trở về quê nhà được. Tinh thần bấm loạn, cô đơn pha lẫn lo âu, Nhân như một người điên. Lang thang ngoài đường phố, gặp được Đạo, người bạn cùng khóa từ quân trường Thủ Đức. Đạo đưa Nhân về nhà cha mẹ anh tạm trú. Được vài ngày, cán bộ Cộng Sản loan báo, sĩ quan,

binh sĩ thuộc chế độ cũ phải trình diện học tập trong vòng mười ngày. Dù sao thì cũng đã bị loại vào hàng ngũ của kẻ chiến bại, thôi thì “ Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần về đâu.” (8) Nhân và Đạo, trình diện tại trường Trung Học Pétrus KỶ. Nào ngờ, đó chỉ là một âm mưu thâm độc mà Nhân cũng như các đồng đội phải trả bằng một giá rất đắt. Bảy năm tù tội qua các trại giam: Trảng Lớn, Cà Tum, Long Thành, Long Khánh , Giá Rai, Long Giao, Hóc Môn, Gia Trung, Suối Máu, Biên Hòa, Hoàng Liên Sơn, Ấm Thượng, Tam Đảo, Hà Nam Ninh... Bao gian nan, khốn khổ: Đập đá, làm cầu, đốt than, chém tre, đốn gổ...,

Đám tù vào tận rừng sâu Đốn cây, lội nước, bắc cầu qua sông Cơm chiều không đủ no lòng

Đêm nằm thao thức, thương thân đọa đày. (9)

Bao đầy đọa thể xác, hình phạt dã man, Nhân và các bạn đồng đội trở nên èo uột, gầy còm, suy dinh dưỡng. Nhưng những đọa đầy thể xác không thấm thía, không chua chát, cay đắng bằng những chà đạp nhân phẩm của công sản dành cho quân nhân Việt Nam Cộng Hoà. Càng khốn khổ, Nhân và các bạn càng thương nhau hơn. Họ không còn là Hải Quân, Không Quân, Bộ Binh, Nhảy Dù ... Mà họ là “Ngụy” . “Ngụy” có văn hóa, có tâm hồn và nhất là ''Ngụy'' có tình người. Họ chia sẻ với nhau từng hạt muối, thỏi đường, từng ngụm cà phê nấu trong lon sắt, từng miếng bao bố đắp cho đỡ lạnh. Tại những trại tù cải tạo, Nhân đã bị mất đi, bị cướp đi những tự do tối thiểu nhất của con người, những hy vọng bình thường nhất, danh dự nhân phẩm hầu như hoàn toàn bị tước đoạt. Nhưng cũng tại nơi này, Nhân có thêm rất nhiều bạn “Ngụy”. Những người bạn cùng chung chí hướng, đầy lòng bác ái và tình đồng đội. Có những lúc Nhân nghĩ đến Duyên và tự an ủi: “ ễt nhất người mình yêu cũng còn được thở không khí tự do ở phương trời xa xăm nào đó. Mình nên mừng cho nàng, chuyện xưa chỉ còn là

69

một kỷ niệm đẹp.” Có lúc Nhân thất vọng, chàng cầu nguyện cùng Thượng Đế: “... Nếu ngài cho con gặp lại Duyên của con và Ba Má con, con hứa sẽ trọn đời ăn chay”.

Cuối cùng rồi Nhân cũng được phóng thích. Nhưng thực sự cũng chỉ là đi từ trại giam nhỏ để đến trại giam lớn vì cả nước Việt Nam đã biến thành trại giam những quân nhân “Ngụy”. Nhân được trả tự do trở về với tấm thân èo uột mỏi mòn, không việc làm, không hộ khẩu, thường xuyên bị gọi đi trình diện, học tập. Mái nhà xưa nay xiêu đổ, mái phủ rêu xanh.

''Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẻ, vách mưa rã rời.''

(10) Ruộng vườn đã bị trưng dụng. Song thân

già nua mừng con trở về, nước mắt đoanh tròng. Trong bữa cơm thanh đạm ông bà khuyên con nên tìm đường “ra đi” thì mới hy vọng có tương lai. Nấn ná ở nhà thấy gây phiên lụy cho gia đình bị công an xóm dòm ngó, Nhân trở lên Sài Gòn, với Ỷ định tìm một nơi dạy học. Một lần nữa Nhân gặp lại Đạo và Ngọc, em gái của Đạo. Ngọc là người đã theo chị dâu - LỶ vợ của Đạo - đi thăm nuôi chồng từ trại tù này đến trại tù khác và Nhân đã nhiều lần nhận được quà thăm nuôi của Ngọc . Ngọc giới thiệu cho Nhân đi dạy Anh Văn ở vài tư gia, và đạp xe xích lô; lúc rảnh rỗi giúp anh em Đạo trong việc buôn bán thuốc tây ở chợ trời. Tạm sống lây lất qua ngày, ít nhất cũng tự nuôi sống bản thân.

Nhân trở thành lầm lì ít nói, sống âm thầm như một chiếc bóng, thỉnh thoảng Nhân trở về quê thăm cha mẹ. Một buổi tối mùa hè, Đạo mời Nhân đi uống cà phê để tìm lại “phút huy hoàng”. Hớp một ngụm cà phê, trầm tư một lúc, Đạo bảo: “Con Ngọc, nó thương mày từ lâu, từ ngày mày còn ở trong tù. Tao bảo với nó, mày đã có người yêu và bị người yêu bỏ. Ai ngờ con nhỏ càng thương mày hơn. Tao nghĩ chuyện xưa của mày đã trở thành dĩ vãng, chẳng hy vọng gì gặp lại Duyên. Thôi, mày lấy con Ngọc cũng được, nó hiền lành chăm chỉ, lại

không se sua. .... Thấy mày buồn thảm vợ chồng tao thật áy náy .... Nó sẽ là người vợ tốt ...” Nghe Đạo nói Nhân cảm thấy như có một luồng điện đang chảy nhanh trong người làm chàng thức tỉnh, “ Ngọc đã lo giặt cho mình từng cái áo, lo cho mình từng miếng cơm nóng, chén canh ngọt. Những khi đau yếu cũng chính tay Ngọc mang đến cho mình những viên thuốc cảm, những tô cháo hành hương ... Còn bao nhiêu điều Ngọc đã làm để chứng tỏ tình yêu của nàng. Sao mình lại có thể vô tình với Ngọc như thế. Phải chăng Duyên đã chiếm trọn trái tim mình nên mình trở thành mù loà trước tấm chân tình của Ngọc. Nhưng Duyên đã xa rồi tầm tay ...” Một nỗi hối hận dâng ngập hồn Nhân. Chàng cảm thấy tội nghiệp cho Ngọc. Chỉ vài tuần sau đó Nhân ngỏ lời xin cưới Ngọc, nàng rất xúc động và nhận lời cầu hôn.

Sau đám cưới vợ chồng Nhân sống rất đạm bạc. Từ ngày bé Quân chào đời, gia đình Nhân vui hẳn lên, đứa con như sợi giây thiêng liêng ràng buộc cho tình nghĩa vợ chồng thêm khắng khít. Ngọc tiết kiệm từng đồng, nàng chăm chỉ ôn lại vốn liếng anh ngữ khi được biết Nhân và gia đình có thể được xuất ngọai theo diện HO. Ngọc khuyên chồng nên làm đơn xin”đi” để bé Quân có tương lai hơn. Nhân còn chần chờ thì đứa con thứ hai ra đời, bé Nghĩa. Nhìn hai con, Nhân thấy lòng thương con vô bờ, chàng không thể nấn ná được nữa, con chàng phải có một tương lai tốt đẹp như những đứa trẻ khác.

Cuối cùng rồi gia đình Nhân cũng đến được Hoa Kỳ theo diện HO. Là một phụ nữ thông minh và thức thời, Ngọc hội nhập một cách nhanh chóng, nàng tận lực làm việc, lo lắng cho hai con, quán xuyến mọi việc trong gia đình. Ngọc một mực khuyến khích chồng trở lại trường. Ngọc nói: “Một trong hai chúng ta phải có đủ kiến thức để sau này hướng dẫn con cái ...” Càng ngày Nhân càng tìm thấy nhiều đức tính tốt nơi Ngọc, chàng không những yêu mà còn phục vợ, Nhân tự cảm thấy mình thật diễm phúc cưới được Ngọc. Hình bóng Duyên

70

chỉ còn là dĩ vãng của tuổi thanh xuân. Nhân tận tâm học tập, chàng làm việc part-time ban đêm và đi học ban ngày. Nhân tốt nghiệp cử nhân ngành Kỹ Sư Điện Toán khi tuổi đã ngòai bốn mươi. Ngày ra trường của Nhân, Ngọc hãnh diện, vui mừng; nhìn chồng oai nghiêm trong chiếc áo choàng và mũ màu đen, nước mắt rưng rưng nàng bảo hai con: “ Quân, Nghĩa lại đứng cạnh ba để mẹ chụp tấm hình gửi về tặng ông bà nội.”

oOo

Nghe Nhân kể lể những thăng trầm, khốn

khổ của chàng, Duyên cảm thấy lòng quặn đau, nàng thầm cảm ơn Ngọc đã mang hạnh phúc đến cho Nhân. Nhưng cùng lúc Duyên chơi vơi trong sự mất mát bất ngờ qúa lớn lao, nàng muốn òa khóc thật nhiều cho vơi bớt buồn đau, nàng muốn rơi trọn trong vòng tay của Nhân để tìm lại những thương yêu của ngày tháng xa xưa. “Không, không thể được ! “ Duyên dặn lòng, phải cố gắng phấn đấu, Nhân bây giờ không phải là Nhân của 25 năm trước. Nhân bây giờ đã là chồng của Ngọc, là cha của hai đứa trẻ dễ thương trong tấm hình kia. Phải trả Nhân về với vợ con, không vướng mắc, không bận bịu. Giữa hai người đã có hai lối rẻ khác nhau, đã có hàng rào luân lỶ và bức tường đạo đức cản ngăn. Duyên gượng cười, ngắm nghía tấm hình hai đứa trẻ, nàng buột miệng:

- Cháu Trung nhìn giống như ba hồi còn trẻ, nhất là nụ cười nửa miệng. Cháu Nghĩa có cặp chân mày rậm giống ba. Anh cho Duyên tấm hính này nhé.

- Được chứ Duyên. Nhân lấy bút hí hoáy viết: “Tặng Duyên tấm hình hai cháu Trần Trung Quân và Trần Trung Nghĩa”

Duyên cúi mặt nhìn xuống mặt bàn để tránh ánh mắt tha thiết nhuốm

muộn phiền của Nhân. Nhân lên tiếng: - Duyên nhìn vẫn trẻ như dạo nào, vẫn mái

tóc dài và ánh mắt buồn

diệu vợi. Kể cho anh nghe về quãng đời ly hương của Duyên.

Im lặng một lúc lâu Duyên mới ngẩng lên, vẻ mặt bớt căng thẳng nàng kể:

- Đời Duyên phẳng lặng như một buổi chiều buồn, không nhiều biến chuyển, sóng gió như anh. Sau khi qua Mỹ, Duyên đi làm một thời gian, sau đó Duyên đi học và làm việc trong trường. Duyên theo học ngành Dược, ra trường năm 85. Sau khi ra trường Duyên đi làm ở bệnh viện và giúp đỡ Ba Má bên Quê Nhà. Đơn giản chỉ có thế.

Nhìn tay Duyên. Nhân hỏi: - Duyên vẫn chưa lập gia đình? Ngần ngại một lúc Duyên trả lời: - Chưa, nhưng có thể sẽ anh ạ - Người ta không xứng đáng với Duyên? - Không ..., không phải vậy, chỉ vì Duyên

muốn hỏi lại lòng nên không nhận lời cầu hôn. ... Nhưng bây giờ Duyên đã quyết định. Duyên sẽ nhận lời cầu hôn của anh ấy.

- Anh chúc Duyên suốt đời hạnh phúc. Đám cưới nhớ mời anh.

- Vâng ! Anh chị và các cháu sẽ là những người khách qúy nhất của Duyên.

- Anh đợi. Im lặng bao trùm hai người thật lâu, khi

Duyên dợm đứng lên cáo từ, Nhân vội đặt nhẹ tay trên vai Duyên ra dấu

bảo Duyên ngồi xuống, chàng bảo: - Duyên, anh sẽ nói trước những điều cả hai

chúng ta đã cố tránh né. Khi ra khỏi tù, ba má có khuyên anh nên đi qua bên này tìm gặp em, nhưng lúc đó anh không có điều kiện. Nhiều lần ra đi, và nhiều lần lần lại trở về chốn cũ, nghèo túng hơn, chua xót hơn và bị theo dõi gắt gao hơn. Chán nản và tuyệt vọng đã làm anh nhụt chí. Tất cả đã lỡ làng!. Vâng ! Anh biết, anh bây giờ là một người đàn ông với trách nhiệm và bổn phận. Anh thương con anh và anh mang ơn vợ anh. Em lại là một thiếu nữ nhân từ đức hạnh. Chúng ta nhận thức rõ được hướng đi

71

của mỗi người. Thôi thì hãy xem kỷ niệm của thời niên thiếu như là những hoài niệm đẹp.

Duyên nhẹ gật đầu, hai tay nàng đan chặt vào nhau, đầu cúi thấp.

- Mỹ Duyên! Anh thực có lỗi! Anh đã bội ước! Nửa đời còn lại anh sẽ là kẻ ăn năn sám hối.

- Không! Anh Nhân! Anh không có lỗi gì cả. Hòan cảnh đã đưa anh đến con đường cùng. Hoàn cảnh đã xui khiến chúng mình phải xa nhau và lạc mất nhau trong cuộc đời. Anh đã khổ nhiều thì anh phải được đền bù bằng mái ấm gia đình. Hãy vui với hạnh phúc trong tầm tay. Chúng ta vẫn là đôi bạn thân.

Nói rồi, Duyên đứng dậy và bước nhanh ra khỏi quán cà-phê như chạy trốn. Nàng không quay lại nhưng biết Nhân đang dõi mắt trông theo.

oOo

Chùa Vĩnh Tràng hôm nay giăng đèn kết

hoa rầm rộ, những tràng pháo đỏ dài treo trên cây điệp. Cổng chùa cũng được giăng hoa, những đóa hoa hồng tím. Cô dâu Duyên xúng xính trong bộ áo cưới trắng tinh. Trên cổ áo có mang phù hiệu trường Lê Ngọc Hân. Tất cả các bạn học cùng trường ngày xưa với Duyên cũng đã đến đủ, đa số mặc áo dài như hồi còn đi học, vài cô mặc áo dạ hội tây phương. Có cả chị Thi, dì hai Ngọt và Ba Má. Má mặc áo dài trịnh trọng, cổ đeo xâu chuỗi cẩm thạch. Nhìn Má hôm nay sao đẹp lạ lùng. Ba mặc âu phục, miệng cười tươi tỏ vẻ mãn nguyện.

Song thân của Nhân cũng quần áo chỉnh tề, rạng rỡ tươi cười. Có cả các anh: Quy Ba, Tủng, Tài, Hiền, Nguyên, Hồng, Khải; các chị: Trung, Phú Quí, Vân Khanh, Tường Vân, Phương Quế,

Kim Chi, Xuân Mai, và các bạn khác. Các thầy cô cũng hiện diện trong lễ cưới của Nhân và Duyên. Thầy Thanh, thầy Minh, thầy Long trang nghiêm trong những bộ vest; cô Hường, cô Chi diễm kiều trong hai chiếc aó dài màu thiên thanh. Tất cả mọi người đã sẵn sàng, chỉ còn thiếu Nhân. Kẻ ra người vào tỏ vẻ nôn nóng chờ đợi Nhân. Cuối cùng rồi Nhân cũng đến. Chàng đến trong vội vã! Nhân trẻ trung trong bộ tuxido đen. Chàng chạy đến ôm chầm lấy Duyên, trao nàng một cành hồng tím và nói: “Duyên, tha lỗi cho anh. Đã qúa trễ rồi Duyên ơi. Chúng ta có duyên nhưng không nợ. Anh đành hẹn em kiếp sau.” Khi lễ cưới vừa bắt đầu thì một làn khói trắng phong tỏa và cuốn trọn Nhân bay mất hút. Duyên chạy theo, chơi vơi trong làn sương khói, và nàng òa khóc.

Tiếng khóc của chính mình đã đánh thức Duyên tỉnh dậy, nước mắt chan hòa mặt gối. Biết mình vừa trải qua một giấc mộng, Duyên tiếc nuối giấc mộng qúa ngắn ngủi. Nàng úp mặt xuống gối thổn thức : “Nhân ơi! Chỉ là giấc chiêm bao.”

Lê Phạm KP 1/12/2001 Ghi Chú: 1/ Nhạc Ngô thụy Miên. 2/ Đồng dao. 3/ Thơ Phạm Thiên Thư. Phạm Duy phổ

nhạc. 4/ Nhạc Trần Thiện Thanh. 5&6/ Nhạc Phạm Duy. 7/ Nhạc Anh Việt Thu. 8 & 10/ Thơ Truyện Kiều Nguyễn Du. 9/ Thơ Nguyễn Vĩnh Châu.

72

Hiện thân …

Em về theo gió đong đưa, Cành hoa vô ngã cũng vừa hiện thân. Long lanh sương ngủ trên cành. Này em ! Ta vẫn trẩm luân một đời. Trầm luân ! Ta vẫn một đời. Chân theo chân đuổi mặt trời cuối non. Đồi Tây, vó ngựa hoàng hôn. Sông xưa, kiếm gãy… Ta chôn lời thề. Sông xưa ….kiếm gãy ... lời thề Đeo bầu rượu cạn, ta về bên em. “Tính…tình … tang… Xự …xàng …xê” Theo em ... Ta nhập cơn mê không cùng. Không cùng… Ta rót đầy chung. Trăm năm rồi cũng tơ chùng phím tan ?

Giao thừa Mưa nhớ Mẹ … Xuân đến, mưa về nhớ Mẹ ơi ! Chiều quê mây xám kéo ngang trời. Tí tách giọt sầu thương tàu chuối Hàng hàng giọt lệ mái tranh rơi. Mưa lạnh từ đâu mưa lạnh về, Ngày Đông chân Mẹ ấm đường quê . Sầu lên Mẹ có buồn than thở ? Một lòng một dạ Mẹ chân quê.

Ừ nhỉ ! Mưa về sao nhớ Mẹ Chiều mưa, gà gáy vọng bờ tre Khoai sắn chiều hôm mơ hương gạo. Chợ chiều quảy gánh Mẹ tái tê. Ừ nhỉ ! Xuân về nhớ Mẹ sao ? Sáu mươi năm, vẩn nhớ Xuân nào Mưa phùn tháng Chạp đèn hiu hắt Hương trầm Mẹ khấn nguyện trời cao Ừ nhỉ ! Mưa về nhớ Mẹ ru Lời ru của Mẹ vọng ngàn thu Giao thừa hương khói mờ năm cũ Xuân đến đây rồi … Mẹ thiên thu ! Virginia 2/2016

73

Thư Cho Em Ngày Cưới …

Đồng lõa với thời gian. Những viên cuội trắng, không còn xúm xít bên mỗi dấu bàn chân Em đi qua… Trong vườn đóa phù dung, hoa tường vi vừa hé nụ, Không còn tương tư bàn tay Em búp măng mười ngón ngọc ngà, Và những nụ hồng kiêu hãnh, vì môi Em không còn đượm thắm kiêu sa. Hàng lệ liễu; trong đêm; tâm tình với gió, Không còn hờn ghen tóc Em, một thuở làm Anh vương vấn cuối chân trời. Buổi sáng Xuân về; có những vì sao đi ngủ muộn. Không còn buồn vì mắt Em. Một thuở cùng Anh dong ruổi ngàn khơi. Chiều mùa Đông tương tư vạt nắng, Xếp áo hoa Em trả lại cho đời !!! Đồng lõa với biển xanh. Cánh chim hải âu không còn phiền muộn. Khi người thủy thủ già đứng im trên biển vắng, Nghe nước tràn bờ, hạt cát lăn tròn theo bọt sóng. Lao xao hốc đá, dã tràng tròn mắt diễu cợt bước chân xiêu. Ngàn gió đưa mây cuối trời thanh thoát. Anh quên mãi bên đời bóng dáng chiếc buồm căng !!! Cuối nẻo sông hồ. Thuyền ơi quay về bến. Quên đi đời phiêu bạt, quên rượu ân tình, quên mái tóc đẫm sương. Quên mặt trời xa, quên trăng sao trôi dạt cuối ngân hà. Quên đi chiều phố thị, quên những bước chân ngà trong trăng. Quên quên đi … Quên ngàn hội hoa đăng. Chỉ còn lại Em cùng Anh miên viễn … Lý Thy Dân (Virginia)

74

Em chỉ còn hiện hữu trong mơ Trăng thượng tầng le lói Đêm vẫn dài tịch liêu Ta nhớ em mòn mỏi Gió khuya rít tiêu điều Yêu em đã mấy mùa thu Dáng em ẻo lả sương mù Mắt em thón thờ cuối ngỏ Lòng ta tràn ngập hư vô Ta vẫn nhớ lần hẹn em Áo em bay rợp bên thềm Làn tóc em buông bỡ ngỡ Bước em nét nhạc dìu êm Ta hẹn em từ ca dao Bờ mông em sóng dạt dào Ánh mắt em nhìn u ẩn Ta nghe tình úa trăng sao Tình yêu rồi cũng phôi pha Niềm thương rồi cũng nhạt nhoà Đêm nay nghe tình bão biển Đêm nay ta ngùi nhớ dáng xưa

Có phải em là gái Liêu Trai Hay em người đẹp Liễu Chương Đài Sao ta tình mãi còn trông ngóng Ngìn kiếp yêu em, da rã rời? Có ai níu kéo được thời gian? Nghe tiếng tình yêu gọi muộn màng Trằn trọc đêm dài trên gác vắng Chờ em về lại giấc mơ tan! Em có còn hiện hữu hay không? Hay ta ôm niềm nhớ chập chùng Từng đêm cô lữ dài hoang vắng Có phải em là khoảng hư không? Chẳng biết vì sao ta nhớ em? Vì sao lòng mãi cố tìm quên Vì sao sầu chất đầy chăn gối Từng cánh cô đơn rụng trước thềm? Vẫn tưởng lòng ta đã hững hờ Tình xưa đã đã chết cuối đêm mơ Mà sao lòng vẫn đầy thương nhớ Còn vẫn mơ về một lối xưa Em chỉ còn hiện hữu trong mơ Lời yêu giờ biết nói cho vừa? Mình ta ôm mãi niềm thương nhớ Em có đi về trên lối xưa? Trăng đã khuất từ lâu Gió khuya rời rã u sầu Như mối tình ta tan vỡ Cuộc đời rồi biết về đâu?

75

Tình đã rong rêu Ta biết yêu em từ bao năm rồi Cho nên tình mình đã chia phôi Đêm nay một mình ta trên gác Ta muốn nói yêu đã muộn rồi Đêm nay một mình ta lang thang Đêm nay tình ta đã muộn màng Đêm nay ta muốn yêu em lắm Nhưng biết rằng tình ta hoang mang Chẳng biết đêm nay em ở đâu Hoang mang tiềm thức rợp trời Ngâu Đêm nay ta đứng chờ em đó Sầu chất hoang mang rợp nỗi sầu Ta biết đêm nay ta xa em Trời khuya ròng rã ướt trời đêm Đêm hoang tình tứ sầu quan ải Ta đứng chờ em ở cuối thềm Sầu đã vô tình đêm tịch liêu Đêm nay tình đã nhớ nhung nhiều Sầu thương đã đọng sầu sương khói Ta nhớ dáng em mấy diễm kiều Tình đã lên màu rong rêu Ta nghe đâu đó giấc mơ chiều

Ta nghe đâu đó tình ta chết Tình đã âm thầm như rong rêu Yêu em ta làm thơ Yêu em tình hững hờ Ta nói yêu em ngày đó Bây giờ tình đã ngu ngơ Chẳng hiểu vì đâu ta yêu em Đêm hoang gác nhỏ gió ru thềm Mùa thu đã đọng buồn trên vách Ta biết vì sao ta yêu em! Tình cũ bây giờ đã tịch liêu Đêm nay tình đã nhớ nhưng nhiều Tay ta khua động vùng xưa cũ Lời nói yêu em úa nắng chiều Ta nghe tình chất ngất Tình đã úa trăng sao Ta nghe lời ru vội Hoang mang tiềm thức cõi nào? Chả hiểu tình ta đã rong rêu? Hay ta còn mãi giấc mơ chiều? Đêm nay giữa khoảng trời hoang phế Ta sao tình đã rong rêu? Từ lúc tình ta phút hẹn hò Từ khi thềm vắng đứng chơ vơ Từ khi ta hẹn em chiều đó Lòng đã chết dần trong cõi mơ Ta biết lời yêu đã muộn màng Nhưng sao tình cứ mãi hoang mang Nhưng sao lòng vẫn còn vương vấn Ta đứng chờ em ở cuối đường Dỹ vãng tương lai vẫn mịt mờ Đêm nay hồn vẫn cứ đê mê Đêm nay ta hẹn em lần cuối Nẻo vắng canh trường ta tái tê

76

Sầu đã rơi theo cuối nẻo đời Đêm xưa sầu chất ngất đầy vơi Chờ em giữa khoảng trời hoang phế Ta biết tình ta đã xế chiều 2015.12.03 Giọt lệ trần gian Đêm nay tinh tú rợp Ngân Hà Rơi xuống trần gian thành lệ sa Chờ em cuối nẻo đường hoang vắng Ta biết tình ta quá hững hờ Không biết bây giờ em ở đâu? Hoang mang tiềm thức rợp trời Ngâu Hay em lê gót trên đường vắng Lối cũ đường xưa vường lệ sầu? Ta đứng chờ em cuối nẻo đường Mình ta ôm một nỗi sầu thương Đèn khuya hiu hắt đường hoang vắng Sàu chất lên cao nỗi đoạn trường Ta biết tình ta là mong manh Cho nên tình đó mãi không thành Cho nên lời nói thành vô nghĩa Từ lúc ngắm em đẹp sau mành Em mang nét đẹp buồn Ca Dao Từ thủa em đi rợp nắng chiều Từ thủa ta làm thơ hò hẹn Nghe lòng ta tràn ngập thương yêu Đêm nay tinh tú thành lệ sa Ta đứng mình ta đó đợi chờ Em đến hay không ta nào biết Đêm nay tình đã quá chia xa! Dỹ vãng tương lai về một chiều Từ khi mòn mỏi lối tịch liêu Từ khi ta nói lời bỏ ngỏ

Từ lúc cơn mê ngập thủy triều Có phải em đến từ Ca Dao Hay em về tự giấc mơ nào? Hay em là đóa hoa tình sử Từ lúc mơ hồ nẻo chiêm bao? Ta biết rằng ta đã yêu em Từ khi liễu rũ rợp bên rèm Từ khi tóc xỏa trời hoang phế Từ lúc thu về mới gặp em Ta biết tình ta sẽ phôi phai Từ khi liễu úa phố Chuơng Đài Từ khi mình nói lời hò hẹn Từ lúc lòng ta thương tưởng ai Đêm nay tinh tú ngập trần gian Từng giọt lệ tuôn giấc muộn màng Ta đừng chờ em cuối nẻo Ta nghe sầu chất miên man Đêm nay ta về gác trọ Ta ôm nỗi niềm cô đơn Đêm nay ta nghe tình lỡ Đâu đây nghe niềm giỗi hờn Vũ trụ vô tình vẫn cứ xoay Mình ta nằm đó cuối trời mây Mình ta nghe nỗi niềm đau nhức Sầu chất đâu đây nỗi đọa đày 2014.08

Yêu em đã quá bốn mùa Từ lúc đêm mình hò hẹn Yêu em tình đã vỡ bờ Từ lúc em về phố nhỏ Tình ta đã úa trăng mờ Ta yêu em từ mùa Xuân Từ khi em còn dỗi hờn

77

Từ khi áo em bay rợp Từ lúc long còn phân vân Ta yêu em từ mùa Hạ Khi cỏ non rợp trên ngàn Ta yêu em khi trời nắng cháy Khi mù khơi còn mãi miên man Ta yêu em khi trời vào thu Khi đâu đây từng bước sương mù Ta yêu em khi lá bay tơi tả Khi đời ta một cánh phù du Ta yêu em mà chẳng vì sao Ta yêu em từ muôn kiềp nào Ta yêu em giữa trời cô quạnh Ta yêu em tình úa trăng sao Đêm ta vuốt bờ mông em Đêm ta nghe da thịt diụ mềm Đêm ta hôn nụ hôn nồng cháy Ánh mắt em huyện thoại đêm đen Tà áo em bay đầy hư vô Bước em từng bước ngập sương mù Mắt em u ẩn trời siêu thực Em đến giữa trời đêm bơ vơ Đâu đó ta nghe lời bâng quơ Mùa thu đã chết tự bao giờ Bàn tay ta lượn vùng cung cấm Từng nét kiêu sa đã dại khờ Lời nói yêu đầu vô nghĩa Mắt em tha thiết muôn trùng Ta với tay tình vời vợi Mà sao hồn vẫn hoang mang Em đứng đó giữa trời cô đơn Đâu đây mòn mỏi giấc mộng hồn Đêm hoang mang chập chờn bóng tối Ta vẫn chờ một nụ hôn 2014.03

Yêu em chẳng hiểu vì sao? Từ lúc hai mình hẹn nhau Tình yêu đã ngập u sầu Từ lúc chờ em dưới phố Tình đã ngập tràn thương đau Em đến giữa trời hư vô Bàn tay ta úa mong chờ Tà áo em bay chiều vắng In đậm mối tình ngu ngơ Đêm nay ta đứng chờ em Đêm nay tình ta giỗi hờn Đêm nay ta mơ tình đậm Heo hắt nỗi niềm thau đêm Ta đứng giữa trời tịch liêu Ta nghe thương nhớ vẫn nhiều Ta nghe đâu đây tình lỡ Hò hẹn chỉ là hư vô! Ta đứng đó chờ đợi em Ta nghe muôn kiếp muộn phiền Ta nghe đâu đây tình chết

78

Lặng lẽ nỗi niềm cô đơn Ta nghe tình chết lặng hư vô Ta nghe tình yêu thủa dại khờ Ta nghe đâu đó tình ta chết Sầu chết vô tình nỗi bơ vơ Em đến giữa mù thu ban sơ Ta chờ em giữa khỏang mong chờ Đêm nay ta đứng đó Chờ em phút hững hờ Vũ trụ tan tành giữa khoảng không Chờ em đã úa một mùa đông Đêm nay giữa khoảng trời hoang phế Ta vẫn hoang mang mộ nỗi long Ta biết yêu em tự thủa nào Nhưng sao tình vẫn úa trăng sao Nhưng sao ta vẫn còn tự hỏi Có lẽ rồi ta sẽ xa nhau? Ta biết từ khi ta hẹn hò Là khi tình sẽ chết ban sơ Làkhi ta biết niềm đau khổ Là lúc đời ta sẽ mịt mù Ta biết yêu em đã muộn màn Tình ta rồi cũng sẽ ly tan Nhưng sao ta vẫn còn mơ mộng Tình sẽ không bao giờ ly tan! Từ lúc chờ em ở cuối đường Lòng ta ôm một nỗi sầu thương Đêm khuya trăng giãi bờ khuya khoắc Ta đứng chờ em cuối nẻo đường Sầu chất đầy vai ta đợi em Mình ta đứng đó phố không đèn Chờ em nào biết bao thời khắc

Ta khổ mình ta phút nửa đêm Ta biết tình ta vẫn mong manh Tình yêu ta biết sẽ không thành Đêm nay ta đứng bên đường vắng Phố cũ đường khuya đã vắng tanh! Sầu chất vô cùng đêm miên man Ta nghe đâu đó giấc mơ tàn Ta nghe đâu đó tình ta chết Ta biết tình rồi cũng vỡ tan! Ta biết rồi ta sẽ xa nhau Mà sao tình cứ vẫn đậm mầu? Mà sao ta vẫn mơ tình tự Ta vẫn ôm tình yêu thương đau? Ta biết rằng ta đang mơ Ràng ta còn vẫn dại khờ Rằng ta ôm tròn giấc mộng Tình sẽ tan tành như tơ Em biết không rằng ta vẫn mơ? Từ khi trăng úa nẻo mong chờ Từ khi hò hẹn em đêm đó Từ lúc tình ta úa hẹn thề Ta vẫn nhớ em trong đêm nay Ta ôm gối chiếc giấc mơ gầy Đêm nay giữa khoảng trời thanh vắng Ta biết rồi ta sẽ chia tay! Kỷ niệm bay về đâu đó Mình ta cuối nẻo trời mơ Ta ôm nỗi niềm thương nhớ Hồn ta lãng đãng dại khờ! 2015.12.05 Huỳnh Kim Khanh

79

Hoàng Quốc Việt

Lời mở đầu: Viết bài này trong tinh thần Vô Ngã, kể lại những gì xảy ra như nó là, as it is. Nếu thấy cái “Ta Đây” trong đó là tại trình độ tu luyện Vô Ngã chỉ mới tới đó mà thôi! Phiền não sinh Bồ Đề, bụi đời dồn dập, tới tấp, hư cấu cũng không bằng... tức nước vỡ bờ, tức cảnh sinh tình... nên từ thằng dở tệ môn Việt Văn thời học trò, đến giờ ngồi đồng Tập Làm Văn là sợ nhất, vì đâu có thể liếc qua thằng kế bên”cóp dê”như giờ toán hay giờ câu hỏi thường thức, đành phải viết những chữ không nghĩa đem nộp. Đến bây giờ tôi còn nhớ câu kết bài luận văn tả con mèo thời Tiểu Học lớp nhất, được cô giáo đem đọc cho cả lớp nghe... chơi... làm câu kết mẩu... tệ nhất lớp :

Khi có con mèo thì không có con chuột. Mà khi có con chuột nào thì cũng dính vào tay nó... để nói lên con mèo nhà mình... bắt chuột giỏi... thế mà cô giáo lại chê! Vậy mà bây giờ dám viết văn đăng báo... không khác nào... tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở... mà dám ôm đàn đờn ca trước đám đông... đúng là... hát hay không bằng hay hát... viết hay không bằng hay viết! Kinh qua mười mấy năm cầm bút tôi thấy... viết cũng như hát... Karaoke. Nhờ nghe người khác hát dở mà mình dám cầm micro hát ca. Nhờ đọc những bài viết không hay làm mình có can đãm cầm viết. Trong đàn cá sấu không thấy con... đẹp! Cám ơn Đặc San OCS, vườn bút lý tưởng ươm trồng những cây”viết kiểng”, hai năm ra quả một lần. Có Đặc San OCS, mới có

cây nhà lá vườn Hồi Ký Bạn Tù, ở ba năm viết mười năm chưa xong. Viết kiểng mà, như lính kiểng vậy!

Ngày ngày tháng tháng Hai năm dài ngỡ tưởng còn lâu Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ ra báo. Viết không khó... dậy mà viết... mới khó ! Có sao nói vậy người ơi !

80

Hai chữ “Ân Nhân”... cũng có “ điển tích “ riêng của nó. Lúc đó bị đưa lên rừng, là lính biển mà lại muốn trốn trại tìm tự do, lấy sở đoản làm sở trường, không khác gì lính rừng ra biển lấy đường chân trời để đi lên trên Trời tìm Thiên Đường ... nên thiện xảo, phương tiện xe dê, xe trâu như giáo lý Pháp Hoa nhà Phật, nhân cách hoá rừng, làm”phẩm trợ đường”. Rèn tâm”vô úy”, để bớt sợ rừng, gần gũi rừng, xem rừng như người đồng hành, đồng lõa, che chở... che mắt... vệ binh có súng AK canh gác, khỏi thấy mình trốn trại, tìm đường gai gốc mà đi... đến chân trời... tâm tưởng... ảo tưởng... có đi mà không có đến! May mà kế hoạch bị bể, nếu không thì cũng như Nguyễn Cư, OCS4, cùng trường Pétrus Ký, cùng Uniform Company, Tiểu Đoàn Trưởng Khoá Sinh, Fifth Battalion Commander Khoá 4 chúng tôi, “đào tù” vô rừng tìm tự do ở Cà Tum, biệt tích, có ngày sanh không có ngày tử! Rừng Ân Nhân có trong tôi từ đó, có trước Biển Ân Nhân là vậy!

Nhớ đêm ngủ rừng đầu tiên trên đời, “màn lá” chớ không phải màn trời chiếu đất, khách sạn không sao chớ không phải khách sạn ngàn sao vì bầu trời trăng sao bị cái dù cây lá khổng lồ che phủ. Đêm tĩnh lặng lạ thường, từ ngoài vào trong, thân xác rã rời sau một ngày dài tù đi từ phố lên rừng mà không tài nào ngủ được vì tiếng tắt kè... tắt kè... nhau trên cây... trung thực ... như chính cái tên gọi tắt kè của nó! Tôi nghĩ người ta đặt tên đó cho nó và nó có cái tên đó là “tượng thanh” tiếng... tắt, kè... tôi đang tai nghe này. Nó không như tiếng gà gáy ... ò ó o... o... rồi thôi, nghe tiếng o cuối cùng là biết hết hơi, hết gáy, đằng này nó... tắt ... kè... è, è, è... è ... tưởng hết nào dè lại... è ... tiếp không biết è nào là è... chấm dứt, final. Có khi ngưng một hồi khá lâu rồi cũng âm quen đó lè nhè è nửa mồi hơi rồi mới chịu im. Lim dim tính ngủ thì tiếng tắt kè mới vang lên, lần này không phải đoán è nào là è cuối mà đoán còn con tắt kè nào nữa lên tiếng trong đêm nữa không. Cứ thế mà “tỉnh thức”

tỉnh ngủ động tâm theo tiếng tắt kè. Lắng lòng nghe tắt kè xa gần chắc lưỡi phát âm... tắt... kè... è è è... rõ nét như lắng nghe tiếng thở than của rừng... rú! Viết bài này như để tạ ơn và minh oan cho biển về hai câu thơ bất hủ Hải Quân ai cũng biết, phủ phàng, bạc bẻo, của ai đó, không biết là lính mới hay lính cũ, làm như vừa chợt tỉnh cơn mộng biển, ghi lại bằng viết chì nguyên tử trên tường trong phòng tạm trú tập thể Bạch Đằng 2. Éo le thay tôi lại đọc được ngay trong ngày đầu nhập trại và nhập tâm luôn từ đó: Ôi biển cả giờ đây ta đã rõ Mộng hải hồ giết chết cuộc đời ta! Lúc đó mộng hải hồ trong tôi vẫn đẹp như... Mộng Dưới Hoa... của Trần Minh Quang, OCS1, Đại Đội Trưởng Khoá Sinh, Uniform Company Commander, bạn cùng trường Pétrus Ký, gặp nhau trong ngày xếp bút nghiên theo việc đao binh ở Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngủ Hải Quân số 2 Thi Sách. Quang Gà Con nhà mình chơi đẹp... kẹp... đơn xin tình nguyện đầu quân Khóa 20 SQHQ/NT giữa hai tờ bìa dày của bản nhạc... Mộng Dưới Hoa... nhờ vậy mà đến bây giờ còn nhớ... đăng báo! Quang Gà Con văn nghệ văn gừng cùng mình, là người đựơc Smith, SQ Cán Bộ Uniform Company chở ra New Port lựa mua trống đờn về thành lập và làm trưởng ban nhac OCS đầu tiên. Mộng hải hồ... Join the Navy, see the World... đẹp tuyệt vời như thế mà bảo giết chết cuộc đời ta thì cũng khó nghe nhưng cũng khó mà thanh minh thanh nga ngay lúc đó được. Đúng sai thế nào chưa kiểm chứng được, chờ trải nghiệm đời mình sau này mới biết nhưng cũng thấy... thấm thía, hay hay! Sau ngày tan hàng tự thua, làm Hải Quân ở lại chịu lời đắng cay, ở tù đã khổ mà nghe bạn tù hỏi nhỏ Hải Quân sao không ca bài... chiều nay

81

ra khơi... còn khổ hơn! Tưởng tàn đời ngỏ hẹp, mắc cạn biển chết, chim vào lồng biết thuở nào ra... chắc chỉ còn... ra khơi... bằng lời... ôm đàn chớ không phải ôm bánh lái... ra khơi, biết mặt trùng dương, biết trời mênh mông, biết đời viễn vông, biết ta hải hùng... cho đỡ ghiền, đỡ nhớ biển mà thôi. Nào ngờ nhờ mộng hải hồ để lại chút Tài... Công... nên cũng ôm được bánh lái ghe sông ra khơi làm lại cuộc đời, lấy lại tự do. Làm Người trải nghiệm đủ ba Nhân... Quân Nhân, Tù Nhân, Thuyền Nhân... nếm đủ mọi thú đau thương trần đời trong mỗi Nhân đó! Đổi đời... sâu bọ lên làm người... đáo bỉ ngạn... giải thoát... là nhờ Biển Cả với Mộng Hải Hồ... chớ còn gì nữa, bởi vậy ngại ngùng gì mà không mạnh miệng lớn tiếng ngâm sửa lại thơ xưa nghe cho êm tai mát lòng... Thủy Thủ và Biển Cả: Ôi biển cả giờ đây ta đã rõ Mộng hải hồ cứu vớt cuộc đời ta! Đời là con đường mịt mù vô định vô minh phía trước, không tài nào tiên đoán được chuyện mai sau sẽ ra sao. Qué sera sera, chớ nếu định được mười mấy năm sau có HO thì ở tù như ở tu... 5 năm... an nhiên tự tại, an phận tù đày, không nôn nóng ngày về, tha hồ hát nhạc vàng vi phạm nội quy để khỏi bị cho về sớm, thiếu chỉ đi Mỹ... hay... vài năm sau bên ngoài có vượt biên thì ráng nín thở qua sông học tập tốt, lao động tốt để được thả về sớm tìm đường vượt biên, không cần liều mạng “đào tù” như lính trận sợ chết đào ngũ hay tuyệt vọng quẩn trí... tự sát... lãng phí một đời làm người, một kiếp Nhân Sinh rất khó có được theo lời Phật dạy! Trong trại tôi lúc ở Long Khánh có dược sĩ Nguyễn Hương Gia con rể bác sĩ Nguyễn Thư, có phòng mạch gần nhà tôi, giám đốc bệnh viên Cộng Hòa, treo cổ tự tử theo thế ngồi xích đu, chân chạm đất vì trần nhà không đủ cao. Không khác gì một người nhảy sông cạn tự tử, nước ngang ngực, phải ôm đá co chân mới ngập đầu ngộp thở chết chìm đáy nước được!

Đúng là... những điều trông thấy mà đau đớn lòng... khôn chết, dại chết, biết sống... mà làm sao có được Mắt Thần... Thiên Nhãn Thông... để biết 60 năm cuộc đời về sau. Đoạn đường mà phải qua cầu mới hay thì còn gì hay nữa! Đám ma của anh cũng có nhiều điều để nói, không giống ai. Không hòm, tấm trải ngủ chế độ ngã lưng... an giấc hằng đêm... được cấp phát cho không lúc mới nhập tù màu xanh lá cây... cuốn thây... an giấc ngàn thu! Không theo đạo Hồi mà cũng được chôn cất trong đêm như đám ma chui... chạy chết... lấy màn đêm làm bức màn sắt... che mắt: Trong đó có người tối khuya tự sát Trong đó có người cuốn xác chôn đêm. ... nên bạn cùng tổ tù được thêm người đưa đám. Ban chung sự ngoài đám nhà đòn khiêng xác, đám cuốc xẻng đào lỗ lấp đất, còn có thêm đám ánh sáng đốt đuốc soi đường. Lửa ngọn theo gió phừng phừng làm không khí đưa ma thêm lạnh xương sống, nổi da gà! Sau cùng là đám tối yếu không thể thiếu Vệ Binh AK súng ống đàng hoàng, trang bị thêm đèn pin hiện đại, hộ tống trước sau cho ra vẻ đám ma... tù! Phe ta đứng hai bên rào ngậm ngùi đưa tiễn, dõi mắt trông theo đoàn người dơ đuốc soi chân đi vào bóng tối như đang xem cinéma sống ngoài trời. Màn ảnh đại vĩ tuyến... màn đêm đen khổng lồ thật trước mặt. Âm thanh nổi... im lặng

82

sấm sét. Phim... Les Miserables... những kẻ khốn khổ, khiêng người khốn nạn chán đời... “ tù sống”... đem tế thần chết... theo hướng ánh sáng đèn pin chớp tắt liên tục xé màn đêm để đi qua bên kia... thế giới!

Hôm sau tò mò hỏi người bạn nhà đòn bất đắc dĩ xem chỗ nằm của tù chết ra sao thì nó ngắn gọn hỏi lại: Mày còn nhớ cảnh đấu súng của cao bồi Dzango trong nghĩa địa điêu tàn, lia chia lởm chởm những hòn đá ong không? Nó cũng hoang vu gập ghềnh như vậy, nhưng khác biệt là những gò mối và là đồi mới... một mộ! Tôi nghe thế quá đủ, không hỏi thêm nữa. Sau đó đồi đó được phe ta đặc tên là Đồi anh Gia!

Anh chết đã lâu mà chuyện về anh vẫn chưa hết. Hôm đó, gần cuối năm, An, bạn ăn, bạn xách nước mỗi thằng một bên, tối cần đời tù, rất thân của tôi sau khi lao động xa về có thu hoạch một bầu tâm sự nóng hổi vội vàng tìm tôi chia xớt: Việt, độc thiệt, trong đống quà khiêng về hôm nay, chính mắt tao thấy, tay tao sờ một gói có tên người nhận là Nguyễn Hương Gia! Thì ra anh vẫn còn sống trong lòng người nhà. Anh chưa chết đâu anh trong lòng người thân. Anh là người duy nhất trong trại không viết thư vòi quà 2 ký như những người khác mà vẫn có quà của vợ hiền gởi đến... Hòm Thư : 7590 L9 T1... ăn Tết mừng Xuân! Đến giờ vẫn nhớ cái Hòm mà mình gọi cái Hộp đó là nhờ bốn con số đầu: bẩy, năm, chín, không ? Chúng tôi thường đem bốn con số này ra hý luận giải trí, đố vui để chọc, đố chơi để đùa... đời cải tạo... học đã sôi cơm nhưng chữa chín! Trong đây được phe ta “địa danh đặc tên” không phải dễ, phải thành tích lắm mới thành danh được! Có hai tay này ở ngoài học chữ chung trường, bình đẳng, vô đây học cải tạo chung trại lại bất bình, một thằng tù con Tổ Viên, một thằng tù cha Khối Trưởng, cách nhau trời vực! Một hôm Khối Trưởng xuống tổ báo hôm nay hạn chót nộp bài thu hoạch rồi vội vàng đi ngay mà không hay đã sơ ý đụng tay người học cùng trường năm xưa đang ngồi viết làm nét chữ nguệch ngoạc gà bới biến tờ thu hoạch xắp xong thành tờ giấy nháp không đem nộp trả nợ quỷ thần được, phải xé đi viết lại. Tức giận, tay kia đứng lên chạy theo chận lại bắt lỗi... bất lịch sự... đụng người bỏ đi không biết nói lời xin lỗi... excusé moi... như ở bên Tây! Khối Trưởng cũng ngoan ngoản thi hành “xin lỗi” trước, rồi tức tối khiếu nại sau phân trần với những người gần đó: Thằng đó vô đây cũng còn tỏ vẻ ta đây anh chị... côn đồ!

83

Thế là tay kia có cớ leo thang chiến cuộc bắt lỗi mới... vô lễ phép... dám kêu tao là thằng, gây sự tiếp: Ê, thằng kia, mày nói ai là “thằng đó”... hỗn hào, lếu láo, có gan lập lại câu đó trước mặt tao đi, đừng nói lén sau lưng, đồ hèn hạ! Bị sỉ nhục trước đám đông, Khối Trưởng sôi máu bật miệng lại ngay: Tao nói “thằng đó” là mày đó, làm gì tao? Một cú đấm chớp nhoáng thẳng ngay vào mặt, đo váng ngay tại chỗ, mặt mày bầm dập, môi vều, mắt sưng húp như võ sĩ boxing sau hiệp thứ mười, người xung quanh vội vàng xúm lại khiêng lên trạm xá cấp cứu.

Không bao lâu quản giáo vệ binh AK xuất hiện đem tay kia nhốt connex và sau đó phạt phải làm một cây cầu một mình, làm xong mới cho về tổ! Từ đó có thêm điạ danh Cầu ông Bền! Anh là người Việt gốc Tây, tên Pháp là Paul, đổi sang tên Việt là Bền, TQLC, da ngâm đen, trông ngầu!

Không hiểu nhờ... thành tích lao động vinh quang một mình bắc cầu qua suối cho phe mình qua lại... hay... thành tích côn đồ ra tay anh chị cho Khối Trưởng một bài học bằng cú đấm nên thân dùm phe ta... mà Cầu ông Bền ra đời góp tiếng cùng Đồi anh Gia, một người sống và một người chết được cảnh vật đặc tên trong trại! Tôi thắc mắc không hiểu tại sao Đồi Anh Gia mà lại Cầu Ông Bền, hai người tuổi tác không chênh lệch bao nhiêu mà một anh, một ông, cách biệt. Nghiệm lại mới thấy... lấy ý... Cầu ông Lảnh... nghe cho quen thuộc, gần gũi chớ không phải anh ông bừa bãi, xa cách! Thật ra đây chỉ là giọt nước tràn ly, tức nước vỡ bờ mới có cú đấm... mình vì mọi người... này! Thật vậy, Khối Trưởng trong tù quyền uy hơn Đại Đội Trưởng xưa kia vì dưới tay toàn quan, có quan cấp bậc cao hơn, thấp nhất Thiếu Úy, không Chuẩn Úy nói gì đến binh nhì. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Chắc cũng đồng hội đồng thuyền nên mới đồng cảm đồng tình với cú đấm sấm sét như vậy! Tôi cũng có cú chém sau lưng tên khối trưởng ma đầu hắc ám này, nhưng không phải để hạ độc thủ nó mà là để hạ cây nghiêng... ngã ngang xuống đất ! So với cú đấm thì cú chém lén này lại nặng tội hơn, có tác ý, nếu đem ra xét xử phải phạt gấp đôi, làm hai cây cầu mới xứng. Giống chuyện tính tiền qua sông của Cô lái đò với Thiền Sư vậy. Bận đi thu tiền Thiền Sư gấp đôi người khác vì tính thêm tiền... ngắm Cô lái đò! Bận về rút kinh nghiệm, Thiền Sư quay đầu hướng mũi nhìn xuống nước cho chắc ăn lại bị tính gấp đôi bận đi vì tiền phụ trội ngắm Cô lái đò... bằng tâm tưởng! Tối đó họp tổ phân công lao động ngày mai đi phát quang. Thường tôi trong toán dao nhỏ chặt cây con, lom khom chồm hổm phá bụi rậm thấp lè tè dưới đất, ít khi được trong toán dùng rựa đứng thẳng chặt cây cao hay toán búa phòng tai Thạch Sanh đốn cây to khổng lồ. Chờ mãi

84

mới nghe tên mình trong toán công tác “đột xuất”đốn cây phẩm chất “ngay thẳng” về làm hội trường chớ không phải loại đốn phá bỏ đi. Hai cây tiêu chuẩn, một bốn mét, một bẩy mét, đường kính ngọn tối thiểu một gang tay. Cả tổ cười ồ, trêu: Thằng Việt trúng độc đắc. Chưa hết, tổ trưởng bồi tiếp: Trưởng toán là anh Việt. Tiếng cười ồ lại vang lên, chọc: Quá đã, trúng cặp hai. Nghe tới đây hồn vía lên mây, tỉnh ngủ giơ tay xin phát biểu phản đối liền: Tại sao trưởng toán lại là tôi, anh Thanh lớn nhất, một vợ năm con, anh Tường một vợ hai con, anh Toàn độc thân như tôi nhưng sinh năm 46, tất cả đều lớn hơn tôi, sao không chỉ định họ? Với lại từ khi vào đây tới giờ tôi chưa bao giờ được làm trưởng toán cả. Mới nhất đây, đi hái măng, chỉ có hai người thì anh Tường là trưởng toán. Lần này tới bốn người, tôi nhỏ nhất đám lại làm trưởng toán, làm sao làm được, nói họ đâu nghe. Xin tổ trưởng giải thích lý do tại sao có chuyện khác thường, sai nguyên tắc này? Tổ trưởng không nhiều lời phí hơi, chỉ ngắn gọn: Anh lên hỏi anh Khánh, Khối Trưởng... là xong ngay, là câm ngay, là biết đụng tới tù cha là khó sống an phận tù đày, là đồng cảm với cú đấm... mình vì mọi người... của Cầu ông Bền liền! Đã vậy còn biết khôn ôn lại bài học của Lục Tổ Huệ Năng lúc ngồi thiền... thấy lỗi mình, không thấy lỗi người. Thấy mình... có gian... dấu cuốn Duton Navigation trong sắc marin làm gối đầu nằm, không đem nộp kiểm duyệt ... mà không có ngoan... nâng bi anh Khánh như những người khác... tránh voi nào xấu mặt nào, anh Khánh là tai mắt của trên mà! Có tật giật mình, phân vân tự hỏi không biết đã làm gì để làm mất lòng Khối Trưởng?

Cách đó vài ngày, tôi với Tường, pilot Chinook, bị dính công tác hái măng, chỉ tiêu 17 ký mỗi người, rất châm. Hai thằng, một Không Quân, một Hải Quân sách hai bao gạo không vào rừng, lấy tia sáng xuyên lá cành làm “la bàn trời” nên không dám vào sâu sợ lạc. Măng chỉ có nhiều sau mưa, đồng nghĩa với lắm muỗi nhiều vắt. Con bay, con búng, con chích, con hút, con vo ve bên tai, con uốn éo chỉa vòi như những dàn ra đa đánh hơi đúng tầm là bắn vào người hút máu. Lũi vào bụi tìm măng là tự nguyện nộp mình hiến máu cho chúng. Chỉ thấy, nghe thôi là rợn người, muốn tránh xa. Lẩn quẩn mép rừng cái bao xẹp lép đành mạo hiểm mò sâu vô trong có nhiều măng, mới gặp những người khác cũng đi hái măng như mình. Họ trang bị chu đáo, trùm poncho phủ kín đầu tai, mặt có lưới mùng che muỗi, tay đeo găng nên chui vào bụi lồ ô hái măng thoải mái. Lính rừng có khác, hỏi ra mới biết họ là người khác trại. Thấy bao người mà tội bao ta, hai thằng bắt đầu liều mạng xung phong lũi bụi hái măng bất chấp mưa rừng muỗi vắt, bùn lầy nhơ nhớp, gốc rễ gai nhọn. Hết bụi này đến bụi khác như thuở nhỏ đi giựt cô hồn, hết nhà này đến nhà khác. Đến khi hết quẳng thôi giựt mới biết mình đang ở xóm khác quá xa xóm mình, tuy vậy cũng mò được đường về. Nhờ vậy tiền nặng túi, măng nặng bao. Mê hái măng mệt hơn mê giựt cô hồn ở chỗ... mê mờ

85

luôn lối về! Đến lúc cảm thấy bao măng nặng trên vai, bao tử nhẹ trong bụng, hết lũi bụi nổi, tính quay đầu hồi trại thì phát hiện cái “la bàn trời” bất khiển dụng vì mưa rừng. Không một tia sáng xuyên lá cành nào chiếu đất để định mặt trời đứng bóng, ngả đông hay ngả tây mà đoán hướng ra. Một thằng lính trời, một thằng lính biển, đều mù rừng, chỉ còn cách đi theo nước mưa suôi con dốc tìm xuống suối, rồi theo suối mò về trại. Đến suối lại phân vân không biết đi ngược hay xuôi theo con nước chảy, hoàn toàn mù tịt. Hai thằng lại quyết định theo lối xin xâm bói quẻ hên xui may rủi hỏi nhau theo mày nên đi đường nào? Thằng nào cũng méo mó nghề nghiệp lính bay lính biển trả lời nên theo... con đường xưa ta ưa đi... xuôi sóng xuôi gió... cho khoẻ. Nghe tiếng người vọng lại từ xa mừng rỡ tưởng sắp tới thiên đường có cơm ăn đỡ đói nào ngờ là tới trại bạn, chỉ là mới tới điểm khởi hành, phải đi ngược lại mới về chuồng mình. Mệt lả rã rời cũng không dám... quẳng cái bao đi để vui bước! Sửa lại áo quần, thắt lưng buộc bụng đói lại cho bớt xệ trước khi lên đường thì phát hiện cái áo ướt nước mưa lại có màu đỏ tươi, cái bụng không bị thương sao đẫm máu? Hốt hoảng kéo áo ra khỏi quần thì phát hiện những con vắt đen ngòm nằm dọc theo lưng quần. Có con no tròn tự động nhả ra rơi xuống suối, có con còn bám hút, phủi không rớt, phải giựt mạnh từng con mới ra. Lúc đói thân nhỏ xíu tong teo cỡ cọng chiếu, nhanh nhẹn uốn éo búng nhẩy biến hiện như bọ mắc. No nê căng tròn phình to gấp mấy lần, cỡ đầu đũa, say máu nặng nề ngả lăng quay như người say rượu. Vắt lấy máu nghệ thuật hơn muỗi, không ngứa không đau, nhả ra không để dấu vết như muỗi chích mà chỗ hút vẫn chẩy máu thành vòi. Về đến nơi thì tổ bắt đầu đi lao động chiều. Ăn xong để bao nặng ở lại tổ, lấy bao không cho nhẹ lên đường vô rừng ngay, hái cho đủ chỉ đủ giờ mới vác về cân nộp. Xui xẻo gặp thằng phải gió tù cha. Hắn không cân ngay mà đòi đổ hết lên bàn kiểm phẩm. Cầm dao bén thẳng tay chém chặt măng

non mềm mại, lấy phần ngọn, hất phần sau xuống đất, có cái quá nửa, nhìn chóng cả mặt còn hơn thấy vắt hút máu nữa.Vừa chặt vừa chê: Măng thế này làm sao đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được? Chỉ nghĩ thầm trong bụng, xuất khẩu đi đâu, ngoài đời chỉ nghe măng tre chớ đâu có măng lồ ô, tù cũng còn chê, bị bắt buộc mới đi hái, đâu ai ngu lặn lội rừng sâu lũi bụi đổi máu lấy măng. Bất mãn, đau lòng nhưng không mở được miệng nói ra công khó hái măng, phải tốn hao biết bao là máu mới đem được nó về đây. Măng là máu, chém măng là chém mình. Tính phải trái... tôi bẻ măng, hái măng bằng tay, anh chặt măng, chém măng bằng dao. Dao làm sao cảm nhận măng non măng gìa bằng tay được nhưng không dám, sợ cái miệng hại cái thân, thần khẩu hại xác phàm. Kiểm phẩm xong đem cân tổng cộng hai bao không tới 20 ký, thiếu chỉ, về phải viết tự kiểm đem nộp mới đủ. Tức tối, không ai bảo ai, hai thằng tự động cúi xuống lượm măng dưới đất bỏ vào bao thì bị hắn hỏi làm gì vậy, trưởng toán trả lời nhát gừng: Lượm đồ bỏ về ăn! Hắn cũng nhát gừng lại nhưng già cay hơn: Ăn thế là... ăn cắp tài sản XHCH! Hai thằng ngưng tay, cứng họng, đứng lên trút bao măng xuống đất, bỏ về liền, không ngọt ngào đi thưa về trình anh Khánh. Thế là lọt sổ bìa đen Khối Trưởng, mấy ngày sau thấy hậu quả ngay.

86

Sáng hôm sau như thường lệ, xách dao con và lon guigo cơm vào rừng làm “thông tằm” nghĩa là không về ăn trưa. Những người khác biết tôi vô tích sự nên tự động vác rựa vác búa theo sau... trưởng toán. Vừa đến mép rừng là gặp ngay cây lý tưởng thẳng tắp nhưng là cây nghiêng chớ không phải thẳng đứng. Anh Thanh bàn ra liền: Tao thấy cây này nằm đây mấy tuần rồi, nếu dễ ăn nó đã nằm ở hội trường lâu rồi, không phải nằm đây, không tới tay mình! Anh rất có lý nhưng tôi vẫn dừng bước, như bị nó hốt hồn, tất cả dừng theo. Những toán sau đi tới thấy bốn thằng đóng đô dừng bước giang hồ quá sớm hỏi: Tụi bay ở đây làm gì? Không ai lên tiếng. Thành, con rể ông già Gương xưa cùng tổ tôi ở Long Khánh không chịu đi, ở lại hỏi cho ra lẽ: Tụi bay hôm nay làm công tác gì? Anh Thanh nhanh miệng đáp: Đốn cây về làm hội trường. Thành bật cười nói liền: Cây này phải không rồi xổ luôn một mạch: Nói cho tụi bay biết, ngay đầu mùa, chính toán tụi tao hạ gốc cây này nhưng nó chỉ ngã nghiêng, không chịu ngã ngang. Làm đủ mọi cách, kể cả nhờ vả toán mộc hội trường xúm lại phụ khiêng gốc cây khỏi mặt đất kéo cũng không được đành bó tay, chịu thua, bỏ đi tìm cây khác. Từ đó mỗi lần qua đây tao cũng gặp những toán như tụi mày ngắm nghía đứng nhìn, nhưng đến chiều về cũng thấy nó nằm nghiêng ở đây. Đến bây giờ bốn láng trại và hội trường sắp làm xong mà nó vẫn ngã nghiêng thành cây khô ở đây thì tụi bay biết độ chằng ăn chăn quấn của nó thế nào? Biết khôn thì tiếp tục lên đường đi tìm cây khác đi mấy thằng em. Trước khi đi cười đùa tiếp: Ê tụi bay, Quân Cảnh Tư Pháp đây, một thước tám, ba chứng chỉ Luật, còn một chỉ nữa là lấy Cử Nhân... không phải loại... hữu dõng vô mưu ... ngu... dọn cổ cho tụi bay ăn đâu nha! Môt tay khác cũng trong toán đó, rất thân với Toàn, thuộc toán lực lưỡng, đặc nhiệm, vai u thịt

bắp, “trâu bò”, chuyên đốn cây khổng lồ, đưa cây búa Thạch Sanh lên cao, sắn tay áo lên... gồng... chỉ con chuộc nhí nhô lên dưới làn da khoe: Ê, còn nữa, huấn luyên viên TQLC, nhị đẳng Thái Cực Đạo đây, đừng làm chuyện ruồi bu, đừng tính chuyện lấp biển vá trời bỉ mặt mấy thằng anh mày. Tụi bay tính hạ cây này là tính hạ nhục tụi tao đó biết không? Đừng lếu láo, ếch muốn to bằng bò, nể mặt mấy thằng anh mày đi chỗ khác chơi. Chúng ông đâu dại khờ lót đường cho chúng mày đi. Cá độ thuốc lào không, một bi lấy một bao. Chúng ông làm không được thì chúng mày phải làm không xong. Bảo đãm chiều nay cây này vẫn nằm đây. Chưa hết còn hỏi tiếp: Thằng nào trưởng toán? Thằng Việt, Toàn trả lời, một tay khác nữa ngứa miệng xía vô: Thằng đó viết tự kiểm rất hay! Rồi mới chịu bỏ đi. Tất cả đi rồi, hết lời thị phi, để laị sự yên tĩnh, còn lại bốn thằng, Toàn mới hỏi nhỏ: Bộ mày muốn chơi cây này thiệt hả Việt? Không chơi nó cũng khó tìm cây nào khác để chơi. Cách đây mấy ngày tao với thằng Tường hái măng đi nát khu rừng này. Chỗ nào cũng có dấu chân người, đụng luôn tù bạn trại bên. Trại nào cũng cần cây dựng láng, làm hội trường cùng một lúc. Mấy tuần liền, thi nhau đổ xô vào rừng tìm kiếm. Rừng bị khai thác gần hết rồi, tìm lồ ô với nứa cũng châm. Đã vậy, gần cuối mùa phát quang mà dính búa hội trường thiếu hai cây mới chết. Cây bốn thước hoạ may tìm được, cây bẩy thước, vô phương, tìm nó như tìm... Cây tre trăm đốt! Đi nữa chỉ mỏi chân mà thôi, biết chắc như vậy thì đi làm gì, tới đâu hay tới đó. Tao nghĩ chắc chỉ còn cây chết khô thần sầu quỷ khóc này mà thôi, cũng nhờ vậy mà nó còn nằm đây. Hạ nó được hay không, không biết, nhưng ít ra nó cũng cho mình một chút hi vọng... để bám trong ngày! Đúng là bị sao quả tạ chiếu... thằng Khánh chơi... thấy rõ... quá lộ liễu... sao nó không xỉ tụi búa rựa Thạch Sanh,

87

chuyên môn đốn cây khó ăn mà chỉ đích danh tụi mình, lấn quyền tổ trưởng, xen vào nội bộ tổ người ta! Sợ bị liên lụy anh Thanh lên tiếng: Làm gì thì mình cũng phải phấn đấu chứ mạy, hay cây bốn thước để mình tao, còn cây bẩy thước ba thằng tụi bay. Toàn phản đối: Bộ tính xé lẻ chạy tội sao cha nội, không được, vui cùng hưởng, khổ cùng chịu! Không muốn có người thọc gậy bánh xe mất vui nên tôi lấy quyền toán trưởng quyết định: Anh Thanh đề nghị rất có lý, ít ra mình cũng thực hiện được một phần tư chỉ tiêu, có còn hơn không. Anh Thanh đi rồi còn lại ba thằng lè phè như nhau, tâm đầu ý hợp, thuận bạn thuận bè... tác biển đông cũng cạn... lấy điếu cầy ra phi. Phi xong, không biết làm gì, tán dóc thì chưa hứng, ngày còn quá dài nên tôi đứng lên đi đến gốc cây khô ngắm nghía nghĩ ngợi... bài toán nan giải trước mắt... được toán trước làm... phân nửa... lâu rồi... phân nửa còn lại bỏ dở dang cho đến bây giờ! Muốn hạ một cây phải đốn gốc trước, phần này to cứng châm nhất, làm xong phần này xem như đi hơn nửa đường, gần tới nơi, vậy mà họ bỏ đi thì phải hiểu chuyện gì hóc búa xãy ra rồi. Gốc lìa thân rồi cây không ngả ngay, chỉ ngã nghiêng, thân rớt cắm xuống đất gần đó, phải lấy cây ngắn làm đòn bẩy, bẩy, kéo mới đo váng được nó. Thường là vậy, nhưng cây này bị cành lá dây leo chằng chịt của các cây kế bên giữ lại nên nó nằm nghiêng, không chịu ngã ngang xuống đất. Nhìn dấu vết quanh gốc cây biết những nhóm trước đã thử đủ mọi cách, kể cả phương pháp đòn bẩy, bẩy gốc cây khỏi mặt đất ai cũng biết, cùng huy động nhờ vả sức lực những người khác nhưng không thể kéo nó ngả ngang được, nên cách đó đừng nghĩ tới nữa. Cách thứ hai là đốn hết những cây chung quanh. Quá châm, không đủ sức, mà nếu chặt được hết, chúng lại ngả nghiêng chụm vào nhau thành thế chân vạc thì cũng hoài công, cách này cũng không được, dẹp qua một bên.

Cách thứ ba là cách mọi người thường làm là coi nó... có như không... bỏ đi tìm cây khác! Không muốn bỏ đi, đứng trầm ngâm một hồi... thu gọn bài toán lại... cây nghiêng, cho ngã trước, chặt ngọn sau... biết bao người làm nhưng không được... rồi tự hỏi... sao cứ theo đường mòn, sao cứ đi đường xưa lối cũ, sao cứ lội xuôi... cho ngã trước, chặt ngọn sau... mà không thử lội ngược... chặt ngọn trước, cho ngã sau... xem sao... cách này hoàn toàn mới lạ, chưa nhóm nào... dám nghĩ dám làm! Cái khó ló cái khôn... là đây. The going get tough, the tough get going... is here. Đông Tây gặp nhau chỗ này... Phiền Não sinh Bồ Đề! Nghĩ đến đây mừng như tìm được cây mới, vội vàng chạy lại lấy con dao nhỏ leo lên cây thử nghiệm chặt ngọn trên cao xem có khả thi không? Không dám bàn trước với bạn, sợ giải pháp mới nghĩ ra chết ngay trong trứng nước. Sợ bị bàn ra... có phúc đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo, cách này nguy hiểm lắm, trèo cao té nặng, bỏ qua đi tám! Leo cây nghiêng cũng đỡ hơn cây thẳng, không dừng lại ở chỗ bẩy thước mà ở chỗ nào thân cây có đường kính nhỏ nhất có thể trườn tới nên lại cao hơn nữa. Xong lấy dây leo có sẵn trên đó cột bụng quấn mình làm dây an toàn đâu đấy rồi mới bắt đầu ra tay, tay cầm dao, tay nắm dây giữ thăng bằng. Chặt nhát đầu dội ngược, ê ẩm cánh tay, dao suýt vuột khỏi bàn tay rơi xuống đất. Cây lìa gốc cả tháng dai cứng hơn cây tươi nhiều, chặt cái nào đau thốn cái nấy, đúng ra là băm như bằm thịt, đâu có thế để chặt. Ở dưới đất khoảng một tiếng lên đây phải bốn năm tiếng mới xong, mà tinh thần phải mạnh lắm, kiên trì lắm mới làm nổi. Ngồi trên đây như đi dây tử thần, chỉ nhìn lên không dám nhìn xuống, tay chặt, tay bám, tay nào cũng mỏi, quá châm, tính quăng dao leo xuống thì chợt nghĩ tới thằng Khánh mà sôi máu... giận cá chém thớt... sẵn dao trên tay vung những nhát căm hờn lên chỗ vừa chặt cho hả giận! Kỳ lạ thay, những nhát chém thật chính xác và hữu hiệu. Những mảng cây văng tung toé, thấy

88

vậy thừa thắng xông lên... chặt đầu thằng Khánh! Có ác niệm đó trong đầu lại được việc, hết muốn xuống, chặt cái nào ra cái nấy, có tập trung, nhất là loại bỏ được tạp niệm chém vè, buông dao, xuống đất, đầu hàng... di tản chiến thuật! Cứ thế, điểm mạnh... chặt đầu thằng Khánh... phát huy. Điểm yếu... buông dao xuống đất... khắc phục! Mỏi tay này, đổi tay kia, chém trong tỉnh thức, chặt có ý thức, đến khi những vết bằm, những mãnh gổ vụn rời hẳn thân cây rớt xuống đất để lại một vết lỏm tuy không sâu nhưng chứng tỏ việc chặt ngọn trên cao... khả thi... tiệm đốn. Không “đốn đốn”như ở dưới đất... nhưng cũng... đốn được... như ... xâm thực... nước chảy đá mòn... mới quẳng dao leo xuống... bàn chuyện chặt ngọn trên cao. Thao thao bất tuyệt bơm tinh thần ban hiền: Việc này khả thi, tao đã khắc một dấu vết rõ nét trên đó, bây giờ chỉ là việc kiến tha lâu đầy tổ, có công mài sắt có ngày nên kim, đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông mà thôi. Mình đã có đường binh rồi, mà còn là mậu binh sám thùng lận chớ không phải binh không được... cù lũ tàng tàng đâu! Trên đó có sẵn dây leo cột bụng rất an toàn xa lộ, lỡ trật tay thì buông dao chụp dây làm Tarzan đu xuống là xong. Nhưng đó chỉ là chuyện ngoài da, chuyện cốt lõi trong lòng để giữ tinh thần... lên cao mà không xuống... đất liền, bỏ cuộc chơi... là... đầu thằng Khánh trên đó, lên đó là để ... băm cổ thằng Khánh, chớ không phải bằm cây! Nó là Thần Chú giúp mình ở trên đó lâu, không biết sợ, chặt có hứng thú, đó là bí quyết tao mới khám phá ra khi ở trên đó! Người kế tiếp lên cao là anh bạn Không Quân Chinook, khá lâu sau mới xuống khoe: Thằng Việt nói đúng, lên đó nghỉ chặt đầu thằng Khánh là lên tinh thần, là bằm có khí thế, không biết mệt, mỏi tay thì quẳng dao leo xuống mà thôi, rất có lý!

Toàn là thằng cao kều nhất, nhưng cũng nhẹ con, cũng vui vẻ leo cây tìm cảm giác chặt đầu thằng Khánh đã đíu thế nào. Xách rựa chớ không xài dao nhỏ như Tường và tôi. Chặt xong, xuống, tinh thần vẫn vững, còn tiếu lâm: Đầu thằng Khánh có khác, cổ nó cứng thiệt! Không thằng nào... bàn ra, xét lại. Chỉ còn một đường binh trước mắt, tuy rất chậm, rất châm. Chắc có lẽ tâm đầu ý hợp cộng với môi trường tự do rốt ráo, ăn nói thả dàn, xả láng cõi lòng, chẳng ngán thần khẩu hại xác phàm gì cả mà đám trói gà không chặt tụi tui mới phát huy hết được cái bất tài vô tướng của mình! Chịu chơi không rung, dám nghĩ dám làm, dám ăn dám nói thành lời... chặt đầu thằng Khánh... gậy ông đập lưng ông... lấy cái đầu thằng Khối Trưởng làm phương tiện thiện xảo để chặt cái cây thần sầu quỷ khóc của chính nó xỉ mình đi tìm. Cứ thế, thằng này xuống thì thằng khác lên làm đao phủ thủ. Người có nghỉ nhưng chỗ bằm không lúc nào ngưng kể cả ăn trưa. Ăn chớp nhoáng, ba mươi giây, thằng lên chưa xuống thì thằng dưới đã ăn sạch lon guigo cơm... vơi! Đúng là làm thông tằm, giờ làm liên tục mà giờ “nghỉ nao thuốc nào” cũng liên miên vì chờ nhau lên xuống. Tôi cứ tưởng mình sẽ là thằng cuối cùng lên đó làm... Lê Lai... phang nhác dao hạ thủ cho cây đo váng... chặt đường xuống... rồi làm Tarzan đu dây xuống đất cũng khá nguy hiểm, chưa làm lần nào, nhưng khi chỗ bằm sâu gần lìa thì chỉ cần hai thằng đứng hai bên ghì kéo xuống theo nhịp một thằng đứng lên thân nhúng nhẩy cộng hưởng sức lực một hồi là cây gãy rơi ầm tưng dội quay lăng mấy vòng mới nằm yên một chỗ. Ba thằng ba chân bốn cẳng nhảy phóng ra xa sợ cây thiết bảng quật què chân. Cây nằm ngang thì cũng kiệt lực. Chỉ chặt những cành nhỏ chớ không còn sức chặt chỗ bẩy thước đường kính trên gang tay. Đem nộp cây dài hơn cũng được. Cũng may gần bìa rừng, đỡ tốn biết bao sức lực, miễn mở đường, khai quang, lấy lối ra cho khiêng cây dài. Tưởng tượng chặt nó trong rừng sâu, khiêng ra tới mép

89

rừng là cả một vấn đề. Đúng là tổ đãi kẻ khù khờ! Tối đó họp tổ bốn thằng được biểu dương lao động xuất xắc trong ngày, Tổ Trưởng nhắn lại lời Khối Trưởng khen toán đốn cây hội trường nộp cây quá chất lượng. Ba thằng nhìn nhau cười, anh Thanh hỏi làm sao mà hạ được cây đó, truyền kinh nghiệm cho cả tổ nghe. Ba thằng cũng cười trừ đâu dám hó hé sự thật... nhờ Thần Chú... chặt đầu thằng Khánh... mà nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, chỉ tiêu nào cũng đạt được! Bật mí ra có ngày cũng bị xỉ đi tìm... cây tre trăm đốt! Thôi chuyện rừng kể vậy đủ rồi, bây giờ chuyển qua chuyện biển đổi không khí. Tôi hoàn toàn không biết chút nào về vượt biên bên ngoài. Có lần trong trại, Hiếu, từng là Đại Đội Trưởng Nhảy Dù, bạn rất thân cũa Trần văn Trung K22/NT, dân Huế với nhau, nói với Trung cũng có mặt tôi ở đó, vừa nhận thơ của vợ, là cô giáo, có mấy cô em gái cũng là cô giáo muốn kết bạn thư tín với mấy anh cải tạo còn độc thân vui tính nhưng chỉ Hải Quân mà thôi, nhờ Hiếu giới thiệu dùm. Hiếu còn cười mím chi cop nói thêm: Mấy nàng đó sẽ là em gái hậu phương dễ thương, liên lạc thường xuyên, gởi hình, viết thư, gửi quà, kể cả thăm nuôi, chịu thì hai thằng mi nói cho tau biết để tau viết thơ trả lời. Hai thằng chỉ im lặng không nói gì, đến chiều tối tôi mới hỏi Trung: Thằng Hiếu nói vậy là nói giỡn hay nói chơi vậy ông, sao lại có mục... tìm bạn bốn phương... trong tù? Tụi mình hết thời, tàn đời mạc vận rồi mà. Ngay chính Trung cũng vừa nhận một lá tình thơ rất ư là lịch sự có một không hai trong trại của người em xứ Huế xin lỗi xin phép vì chữ hiếu không giữ trọn được tình ta phải vâng lời cha mẹ... đi lấy chồng! Trung chỉ mỉm cười nói: Thì ông hỏi nó sao hỏi tôi nhưng tôi nghĩ nó nói thiệt đó, không giỡn chơi đâu, nó có cho tôi

coi đoạn thư đó. Tôi tối dạ, chậm tiêu, không suy diễn xa hơn tại sao chỉ Hải Quân không thôi! Chỉ nghĩ vì Trung với Hiếu là đôi bạn Huế rất thân với nhau nên muốn làm cột chèo nhau vậy thôi chớ không đánh hơi, sentir, có vượt biên bên ngoài nên Hải Quân... có giá! Chỉ thắc mắc chuyện trước mắt tại sao vợ mấy thằng bạn Pilot cao ráo sạch sẽ, tài hoa bay bướm của mình thành... Me Dốt... ngay đợt thăm nuôi đầu tiên! Như Lễ Pilot A 37, tay đập volley trại, rất thân với tôi. Vì quá thân nên nó hay kể chuyện phòng the cho tôi nghe. Mỗi lần về phép, vô sở làm vợ tao ngủ gục, mấy con bạn tinh ý hỏi liền: Ổng về phép hôm qua phải không ? Rồi đố tôi là thằng độc thân trong đám: Tại sao nó ngủ gục mà mấy con bạn nó biết tao về phép, hay vậy? Không kinh nghiệm tình trường, tôi chỉ trả lời ngoài da, tại vì tối qua đi chơi khuya về trễ . Trả lời sao cũng sai, bị chúng bạn chê cười khờ khạo, ngây thơ không biết gì. Sau cùng Lễ nói toạt móng heo ra là tại vì mới về sung sức... đêm bẩy ngày ba sáng ra chẳng chục... em mới ngủ gục! Thân đến thế nên thăm nuôi vô, thấy nó hai mắt đỏ hoe ra đứng dưới dàn mồng tơi bên rào là tôi theo ra chọc phá để lấy lại nụ cười thằng con: Bộ nhớ bướm trắng lắm hay sao mà mới thăm nuôi vô đã ra núp dưới dậu mồng tơi xanh dờn vậy? Rưng rưng mắt đỏ là tại... con bươm bướm trắng về bên ấy rồi phải không? Sờ bướm sướng không? ngồi gần bả có “ bẩy ba”... ô mê lý mê ly đời ta... như về phép không kể tao nghe với, chắc bây giờ em đang “ngủ gục” trên xe phải không? Thằng con tức tối nạt: Đừng nhắc tới chuyện đó, nó bây giờ thành me dốt rồi! Nghe vậy tôi càng thắc mắc hỏi cho ra lẽ: Me dốt là me chín cây, vỏ khô dễ lột, đem ngào đường thành me ngào hấp dẫn... vợ mày bây giờ ngọt ngào ngon lành lắm phải không ?

90

Thằng con quát lại : không phải, thôi đi đi, đừng hỏi nữa, cho tao hai chữ bình an. Tôi đùa dai : Chừng nào mày giải thích me dốt cho tao hiểu tao mới đi. Tức tối thằng con miễn cưỡng hỏi : Thời Tây mấy con mẹ bỏ chồng lấy Tây gọi là gì ? Tôi nhanh miệng trả lời : Me Tây ! Thời Mỹ? Lễ ngắn gọn, tôi cũng ngắn gọn : Me Mỹ ! Còn thời này mấy con mẹ bỏ chồng lấy cán bộ người ta gọi là gì ? Tôi ú ớ, không đáp lại liền như hai câu đầu, Lễ nói ngay cho xong chuyện: Là Me Dốt chớ gì nữa. Dân người ta nói sao má tao kể với tao như vậy, muốn biết nữa thì ra ngoài hỏi dân, đừng hỏi tao. Dốt là ngu như mày hỏi tao nãy giờ, đủ chưa, đi chỗ khác chơi! Nghe vậy mới vỡ lẽ, từ điển Dân Gian có thêm chữ mới Me Dốt từ đó từ đây, thời Cách Mạng Giải Phóng chớ không thời nào khác. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy me dốt có thêm vị... đắng cay... chớ không phải ngọt ngào như me ngào, ý nguyên thuỷ của nó. Dân gian chơi chữ hay thiệt, độc thiệt! Đau đớn cho thằng con là trưa 29/04/75 đang ở căn cứ Bình Thủy Cần Thơ, tham dự kế hoạch di tản, chiếc A 37 của mình, sẵn sàng bom đạn, đặc lệnh truyền tin tới Utapao. Theo kế hoạch, cả Phi Đoàn cất cánh lên là xả bom gần căn cứ cho nhẹ cánh rồi trực chỉ bay qua Thái Lan. Éo le thay, con vợ làm ngân hàng ở Sài Gòn, có phương tiện truyền thông cao nên trước khi ra phi đạo thằng con lên phòng hành quân gọi điện thoại về báo anh sắp đi Utapao. Đầu dây bên kia giọng vợ hiền ngọt ngào nài nỉ : Anh ơi, anh đi làm sao em sống nổi, ở lại với em, có mắm ăn mắm, có muối ăn muối, mình ăn bên nhau là quá đủ rồi, đừng đi nha anh, em van anh, em xin anh, đừng bỏ em một mình, em rất cần anh, anh ơi, không anh, em sống không nổi

đâu, anh ơi, anh ơi, đừng đi nha anh, rồi khóc nức nở. Thằng con đứt ruột không nói lời nào, cúp máy, vì giờ hành động đổi đời đã đến! Ra đến con tàu thân yêu tính bước lên như đồng đội lại bước không nổi, đổi ý vào lúc chót, con tim không chịu đi, nhường nón bay cho người khác. Để con tim lấn át cái đầu... như tôi... ở lại ! Tình đời thay trắng đổi đen, tàn đời, tàn tình, vì cú điện thoại bái bai sau cùng, sao mắt không đỏ hoe cho được ! Tôi với nó chung tổ, giờ học chánh trị, tôi hí hoáy vẽ, nó cũng chăm chú viết. Ngồi gần nhau hai thằng hỏi nhau làm gì vậy ? Thằng nào cũng trả lời tao vẽ nhưng không nói vẽ gì, hỏi cũng không nói... sau cùng trao đổi tù binh cho nhau coi. Tôi vẽ chiếc PCF với hai chữ Lã Lướt, còn nó vẽ chiếc A 37 phụ đề Bay Bướm. Tâm đầu ý hợp, hai thằng thân nhau từ đó. Tội nghiệp thằng con, sau này thả ra cũng mò đến tôi kể... tao có trở về nhà xưa ở cư xá Sĩ Quan Chí Hoà, không hiểu có nhớ đúng không, Cư Xá Sĩ Quan Phú Thọ thì nghe không êm tai, còn Chí Hoà thì... gần tù... mất gía trị, đúng là già lú lẩn, thấy cái nón cối nhát ma trên bàn, thằng đó chạy ra thấy tao trước cổng hốt hoảng dội vô liền, vợ tao ra. Đứng ngoài cổng tao nói : Anh đến đây để lấy lại kỷ niệm xưa, kỷ vật quý nhất đời anh... cái áo jacket bay... anh chỉ muốn lấy lại cái đó mà thôi, xin em trả lại cho anh, lấy rồi anh đi liền, nó là cuộc đời của anh, Tổ Quốc Không Gian của anh, em biết anh quý nó lắm mà, anh không vô nhà đâu, em đừng lo. Em rưng rưng nước mắt xin lỗi... vì túng quá... bán nó ... đi rồi.

Vợ anh còn đó sao xa lạ Nhà anh còn đấy sao không vô Jacket đời anh, em đem bán. Không gì bán nữa, em bán... em!!!

Tôi với nó lại có những ngày tù ngoài vui vẻ bên nhau như thời tù trong, nó đẹp trai hoạt bác,

91

vui vẻ, ăn nói có duyên, thích đùa dỡn, đề nghị tôi hợp tác làm ăn: Phần tao đã xong, hiện giờ em bán bún bò Huế đang thích tao, ăn xong trả tiền em không chịu lấy. Mày cua em bán chè bạn nó kế bên đi, ăn xong trả tiền em không chịu lấy là lấy ăn, hết sợ đói như thời cải tạo... ăn bún bò xong, xề qua gánh chè kế bên cho tiện, mày thấy có lý không, vô đi thằng em. Tôi chạy đạn viện lý do đang mê em... bán thuốc lá lẻ... chúng tôi lại có những nụ cười không tốn tiền mua như thế! Chưa hết, Khánh, Pilot Chinook, đẹp trai như Alain Delon, đến nổi mấy em cán bộ trúng thầu tiếp tế lương thực theo xe lam vô trại cũng lén lút cho không, biếu không bánh thuốc lào, bánh thuốc rê, có khi bánh kẹo, khi không có Khánh ở đó thì nhờ người khác chuyển dùm. Khánh vẫn chung tình, lúc nào cũng để hình vợ con ngay đầu nằm. Sau kỳ thăm nuôi đầu tiên thì thấy tấm hình bị cắt một phần, chỉ còn hai cha con, bỏ hình con vợ vì mẹ báo rằng: Vợ mày đem con giao lại tao nuôi để đi lấy Bộ Đội rồi. Cũng vì vậy mà Bộ Đội có biệt danh mới, nói ra thoải mái còn kín đáo hơn xưa Vịt Cồ khi liên lạc truyền tin hay sau này trong trại Bò Đạp, Bò Đá để ám chỉ Việt Cộng hay Bộ Đội. Nó cũng có điển tích của nó mới hiểu được cũng như đọc truyện Kiều vậy. Một hôm, Dũng K19/NT/Cơ Khí mới chuyển trại nhập tổ chúng tôi, ngồi tán dóc thấy tụi tui nói coi chừng mấy thằng Bò Đạp, Bò Đá... mới cười chê nói: Tụi bay nói vậy cũng như khi xưa lên máy nói với nhau bị mấy con Vịt Cồ trong bụi làm khó dễ mà tưởng giữ được kín đáo liên lạc truyền tin. Thật ra cũng như nói bạch văn... nghe là hiểu liền... Vịt Cồ hay Vi Xi là Việt Cộng, Bò Đạp hay Bò Đá là Bộ Đội, dễ ợt, tụi nó nghe là biết liền, tụi bay đâu dám nói trước mặt tụi nó. Bên trại tao tụi tao gọi tụi nó là... mấy thằng Hai Nặng... nói trước mặt tụi nó thoải mái, an toàn an ninh bản thân không sợ thần khẩu hại xác phàm. Rồi híp mắt cười đố vui có thưởng:

Tao đố tụi bay tại sao... Hai Nặng... lại ám chỉ tụi nó, thằng nào giải thích nghe lọt lỗ tai thưởng nguyên một bánh thuốc lào! Nghe lạ, thằng nào thằng nấy nặn đầu bóp trán nghĩ suy theo lối chơi chữ nói lái như... hai néo là heo nái, mộc tồn là cây còn rồi truy ra con cầy hay cờ tây là cầy tơ... vv... đợi khá lâu Dũng cười nói: Tụi bay nghĩ tới Tết Công Gô cũng không ra rồi mới kể... Điển Tích... Hai Nặng... cho tụi tui nghe. Hôm đó có thằng bạn tổ ăn nhận thơ mẹ... bỏ ăn... ngồi trầm ngâm một mình, bạn bè hỏi thăm hắn mới cho coi đoạn thư của mẹ viết: Vợ mày đem con mày trả lại cho tao nuôi để đi lấy... rồi. Ở giữa hai chữ lấy và rồi có hai chữ bị bôi đen, kiểm duyệt bằng mực viết bic không tài nào đọc được nhưng để sót lại... hai dấu nặng... ở dưới! Từ đó phe ta lấy ... hai dấu nặng... phía dưới hai chữ bị kiểm duyệt không đọc được để đặt tên mới cho chúng nó là ... Hai Nặng! Rất hay rất tuyệt... Việt Cộng hay Bộ Đội gì cũng xài được... kiểm duyệt bôi xóa theo kiểu đó đều sót lại... hai dấu nặng cả, tiếc rằng trong thời VNCH không có kiểm duyệt kiểu này nên không khám phá ra từ này để liên lạc trên máy cho kín đáo giữ an ninh truyền tin... mật! Trong khi thằng bạn mới quen Không Quân ôm hận... đơn ca... Sang Ngang của Đỗ Lễ, thì mấy bạn cũ Hải Quân của mình vẫn mặn mà Biển Mặn, Không bao giờ ngăn cách, Em chờ anh trở lại... song ca... Tình Ca Người Đi Biển... chiều nay ra khơi... vượt biên đổi đời! Sau ngày sâp tiệm, trong ba binh chủng Hải Lục Không quân, chắc có lẽ Hải Quân may mắn nhờ đóng ở vị thế thấp nhất nên vẫn còn chút ít ... nước nôi... để húp... cũng như biển cả nhờ thấp, nước sông lạch chảy hết vào nó nên ít khi khô cạn... nên chỉ thua ngoài, không thua trong, thất trận chớ không thất tình, thua trên chiến trường nhưng vẫn giữ vững được mặt trận... tình trường... nước mất nhưng nhà chưa tan là vậy và được... tìm bạn bốn phương trong tù... là đây! Lúc đó chỉ đem sách vở ra nhìn đời, đoán mò một chiều... Không Quân chọn đẹp, Hải Quân

92

chọn nết... rồi kết... Cái nết đánh chết cái đẹp... chớ đâu có cái nhìn thực tế, thực đời... đối đãi nhị nguyên... Cái đẹp đánh bẹp cái nết! Ở tù như mù vì bức màn sắt, với lại... vòng trong tù ngụy... còn vượt chưa xong thì tâm trí nào dám nghĩ tới thoát... vòng ngoài tù dân! Mặc dù vẫn văn ôn võ luyện... lén lúc dợt... Duton Navigation với Trung K 22/NT, chỉ với mục đích trau dồi kiến thức và giết thời giờ, quên đi ngày tháng ao tù nước đọng này. Chúng tôi dư thời giờ đến độ Trung và tôi thấy sao sáng Vega... Tây tiến... trên bầu trời mỗi ngày... một độ! Nói thì có vẻ... Đường nào dài bằng đường Trần Hưng Đạo Lính nào xạo bằng lính Hải Quân... nhưng ban đêm phát hiện chòm sao mùa Hè Lyra trong đó có Vega là vì sao sáng nhất ở chân trời Đông thì ba tháng sau sẽ thấy nó trên đỉnh đầu. Nghĩa là 90 ngày sau hay 90 độ. Ba tháng có đáng gì với ngày rộng tháng dài trong tù. Một độ mỗi ngày khó thấy, nhưng 90 độ trên đỉnh đầu là thấy liền. Lúc đó, ban đêm nằm bên em sờ bụng đố: Bây giờ mấy tháng rồi hỡi anh... thì chịu thua. Chớ nhìn trời ca: Bây giờ tháng mấy rồi hỡi anh... của Từ Công Phụng thì trả lời được liền! Cũng nhờ ôm Duton mà vào tù tôi mới biết... Polaris không phải là North Star for ever trên bầu trời mà nó cũng theo luật Vô Thường và Tuần Hoàn của tạo hóa! Vì trái đất ngoài việc tự quay quanh trục [rotate] taọ ra ngày đêm. Quay quanh quỹ đạo mặt trời [revolve] sinh ra bốn mùa. Nó còn thêm một chuyển động nữa là chuyển động xoáy như bông vụ quay [oscillate]. Chuyển động này làm trục trái đất vẽ lên bầu trời một vòng tròn, và hoàn tất một vòng tròn đó trên hai mươi lăm ngàn năm [25.000], lâu quá tôi không nhớ rõ chi tiếc những con số lẻ. Những vì sao sáng nào nằm trên vòng tròn sẽ là North Star. Hiên bây giờ trục trái đất chỉ về

sao Polaris của chòm Tiểu Hùng Tinh đang nằm trên vòng tròn đó nên thành sao Bắc Đẩu. Sao sáng Vega của chòm Lyra trong quá khứ đã từng là North Star vì nó cũng nằm trên vòng tròn này và khoảng 12.000 năm sau nó sẽ là sao Bắc đẩu. Chuyện tù chỉ mới vài năm thấy dài mút chỉ nói gì mười mấy ngàn năm nữa như chuyện thần thoại, không tưởng. Dù gì cũng học được bài học quý... Sao sáng trên trời còn đổi ngôi nói gì mình dưới đất... đổi đời! Nhờ vậy cũng quên đi ngày tháng, đỡ nôn nóng ngày về, mỗi ngày cũng tìm được một niềm vui nhờ... vùi đầu vào Duton! Thật ra tôi thật sự chưa đủ tư cách ngâm: Rồi một hôm nào cởi áo xanh Hết cùm hết xích hết roi canh Nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm Tôi trở về tôi của cuộc đời! (xin lỗi tác giả vì đã sửa lại câu này) ... cũa Tố Hữu một cách trọn vẹn trong lòng mà chỉ mới nửa vời, dở dở ương ương giữa đường giữa tù ngục với tự do mà thôi! Hôm đó, còn khoảng hai tuần nữa là Tết, năm 1978, tôi và một số khá đông trong trại được cho về một tháng phép, nói là sẽ được thả sau đó nếu nộp được giấy tìm được công ăn việc làm nơi mình trú ngụ. Đón Xuân này nhớ Hè xưa... chuẩn bị mười ngày ăn ra đi mà tới bây giờ mới được về phép... gấp cả trăm lần... không biết hết phép trở vô lại... lập lại chuyện mười ngày ăn... thì lại hối hận không nghe lời Tông Tông Thiệu một lần nữa! Nhận được tin đó lại buồn chớ không vui vì lòng dạ lại phân vân như sáng 30/04/75... ra đi hay ở lại... sau phép... chưa đi đã thấy ngày hết phép trở về... tù... ảm đạm, thê lương, sao mà đi cho nổi. Không trở lại thì đi đâu... không biết... nhưng trong lòng nhất quyết nghe lời Tông Tông và tôi nói chuyện này cho Trung biết khi Trung từ chối nhận bàn giao “tài sản tù đầy” của tôi, khẳng khái nói:

93

Tôi chỉ giữ dùm cho ông, không đụng tới nó cho tới khi ông trở lại. Tôi bật miệng lại liền: Tôi có trở lại đâu mà ông đòi giữ lại cho tôi, không xài để chúng xài rất uổng. Tháng trước đó vừa có thăm nuôi và Trung không được thăm nuôi vì trốn trại! Trưa hôm sau chúng tôi lên đường, khá đông trên trăm người, mỗi người được phát 20 đồng tiền xe và một tháng gạo tôi không nhớ rõ bao nhiêu ký vì nhập chung với Thành, rất lanh lẹ, tháo vác chuyện đời thực tế một vợ ba con. Thành chu đáo lo mọi chuyện, tôi chỉ việc lên đồ, quăng cái sắc marin lên quang gánh rồi ghé vai lên đòn gánh là cây lồ ô dài thằng trước thằng sau tiến bước. Ra khỏi chuồng lòng nhẹ nhõm, đoàn người đi như chạy đua marathon, không ai đợi ai, cắm đầu bước nhanh về phía trước, càng xa điểm khởi hành càng tốt, tôi vì xà nẹo cặp đôi quang gánh nên rớt lại phía sau ngay phút đầu, đa số những người khác để lại gạo cho bạn bè nên nhẹ nhàng thoăn thoắt đi trên con đường dài, hai bên là rừng, quanh co lên xuống. Lần đầu tiên được gánh vác trên đường xe môlôtôva chạy chớ không phải đường mòn trong rừng mà tưởng như được đi trên con đường cái quan, vinh quy bái tổ. Lên con dốc cao chỉ thấy chân mây trước mặt mà lòng phơi phới như đi lên Trời! Thở hít được không khí tự do mừng hơn thi đậu, đủ điểm 70 ECL đi Mỹ, ngỡ trong mơ! Tới đoạn rừng phát quang thấy đoàn người trại khác đổ xô về đường cái quan, có “quan” bị rớt lại phía sau rất xa nhưng vẫn giữ phong độ chống gậy đi trước, mướn người Thượng ở trần mang khố đeo ba lô dùm lẽo đẽo giữ khoảng cách theo sau như chú Tiểu Đồng! Suốt buổi chỉ thấy lưng đồng tù một chiều đi về phía trước chớ chưa giáp mặt một mống nào ngược chiều đi vô, chắc chắn là không vì Hai Nặng thì canh quá giang Molotova, còn người Thượng thì di chuyển trong rừng cho mát. Đến lúc mỏi chân nghỉ mệt nơi cuối con dốc thì bất ngờ nơi chân mây đỉnh dốc một đàn em

nhỏ xuất hiên từ bên kia con dốc tung tăng chạy xuống như học trò trường làng tan lớp . Ai cũng ngơ ngác nhìn về hướng đó. Đến nơi chưa kịp nghỉ là chúng kê vai khiêng những quang gánh chạy ngược về hướng dốc, có đứa quá thấp không nâng khỏi mặt đất, kéo quang gánh lê lết dưới đất như kiến tha mồi. Hết hồn đoàn tù vội đứng lên chạy theo hỏi: Ê mấy đứa, làm gì vậy? Chúng cháu khiêng phụ mấy chú cho đỡ mệt, mấy chú cho bao nhiêu cũng được, tiền hay gạo cũng được, không cho... cũng được! Không được, mấy cháu làm vậy là hại mấy chú, Quản Giáo thấy là cúp phép liền. Mới hôm qua đây mấy chú còn khiêng vác nứa, lồ ô, cây tươi trong rừng nặng gấp mười lần như vầy, mấy thứ này đâu nhằm nhò gì với mấy chú, nhất là được đi trên đường xe chạy thênh thang rộng rãi như thế này chớ không phải đường mòn quanh co trong rừng . Nói cách nào chúng cũng không nghe, khư khư ôm gánh như cố chịu đấm ăn xôi, còn lý luận cãi lại thật... thấy thương: Mấy chú còn sướng hơn chúng cháu, mưa gió không làm đều có cơm ăn, còn nhà chúng cháu hết gạo thì không có gì ăn, không làm không ăn, mà cũng không biết làm gì để có ăn! Nghe vậy, một người lớn tuổi nhiều con dùng lời lẽ cha chú tiếu lâm: Vậy thì mấy đứa ngừng lại cho mấy chú nghỉ mệt một chút rồi sau đó tụi bay lên quang gánh ngồi để mấy chú khiêng ra bến xe như đang chở con tụi tao ở nhà đi chơi vậy rồi sau đó còn... trả tiền... cho tụi bay ăn bánh có được không? Nghe vậy chúng mới chịu... quẳng gánh lo đi cùng vui sống... tranh nhau kể: Chúng cháu xưa cũng ở Sài Gòn, bị đuổi đi kinh tế mới, mấy tháng đầu còn được cấp phát gạo, bây giờ thì ngưng, những nhà khác còn tiền, còn bà con, bỏ trốn về Sài Gòn, còn nhà chúng cháu nghèo nên phải ở lại đây. Ở đây cũng có trường học, nhưng cô giáo cũng bỏ trốn về Sài Gòn.

94

Đúng là từ Địa Ngục ra chưa tới Thiên Đàng đã đánh hơi Thiên Đàng không khác Địa Ngục. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ... tiếp xúc với chúng không bao lâu đã biết quá nhiều... xé toang bức màn sắt... càng trao đổi càng thấy thương lũ trẻ bất hạnh, đâu có thể... cạp đất mà ăn... nên cả đám động lòng... mở hầu bao, người không gạo cho tiền, người ít tiền cho gạo. Vui vẻ cả làng, mấy đứa trẻ hiếu động, hoạt bác, khôn lanh, dưới tuổi mười ba, đủ cả trai gái, sống kết đoàn, dễ thương, lễ phép, gạo tiền xin được bỏ chung một bao như anh em một nhà.Vừa vơi chuyện nói cũng biết bắt qua chuyện tổ chức văn nghệ hát gây quỹ, mời mọc mấy chú nghe nhạc cách mạng cải cách giải trí không hay không cho tiền: Ai có ăn mỳ khoai giá rẻ, ăn mấy bữa là mặt mũi xanh dờn, cho heo ăn thì heo lâu lớn, cho người ăn hoài thì người cũng... thành heo! Nghe quá phê, quá thấm, lần đầu tiên mới thưởng thức được nhạc trần đời, như thực, như vậy, như là, hết ý, cả đám tự động vổ tay như nghe xuống một câu vọng cổ mùi. Sau bài hát thì... gạo tiền... lại tuông ra. Mấy đứa nhỏ không cần nghe bis bis cũng hát tiếp: Mùa Xuân này em đi thăm anh, thấy cái gì cũng mua cho anh, mua cho anh hai cái quần thun, cho anh thay đổi hàng ngày... cũng thấm luôn, sao cũng giống tâm tình vợ hiền mình quá... gởi quà hai ký cho anh ăn Tết, mừng Xuân... hai cái quần đùi! Tiền gạo lại tưởng thưởng! Mấy đứa nhỏ thừa thắng xông lên dớt cú chót chơi bản ruột, hốt bạc mơ tiền... đồng ca... vừa hát vừa vỗ tay vui vẻ: Hôm qua em mơ gặp túi tiền, trong túi tiền có bốn ngàn hai, em vui sướng và em vui hát, em sung sướng em khoe với bác, bác mỉm cười bác khen em ngoan, bác mỉm cười bác biểu... chai hia... chia hai! Phe ta ngây dại lắng lòng nghe đến hai chữ... chai hia... chia hai... mới... ngộ... độc... vỡ lẽ! Choàng tỉnh mộng như bị nguyên gáo nước lạnh tạt vào người, đứng lên tan hàng tự thắng ngay

tức khắc, quang gánh lên đường như chạy giặc, như... thổ đĩ chạy đường... nghe quịt... không thưởng gao tiền như hai bài đầu, không phải quên mà là không dám cho, sợ mang hoạ vào thân ... dụ dỗ trẻ con ca hát nhạc phản động còn độc hơn nhạc vàng... trước sự ngơ ngác của đám nhỏ... tưởng bở bé cái lầm to! Có đứa hiểu chuyện, chạy nói vói theo: Sao mấy chú nhát quá vậy, xưa nhà cháu trong trại gia binh Vương Mộng Hồng, ba cháu là Thiếu Tá Nhảy Dù học tập ngoài Bắc. Nhưng ai nấy đều để ngoài tai, cắm đầu bước nhanh về phía trước như trốn chạy một con ma... vô hình! Chúng đâu hiểu được là mấy Chú kỵ Bác cỡ nào! Bài học còn in đậm trong đầu chỉ vô tình đụng tới bóng Bác không thôi đã khốn khổ khốn nạn đời tù nói gì đem Bác ra giỡn mặt... chai hia... như lũ trẻ... coi trời bằng vung, vuốt râu hùm! Hôm đó đang ngồi đồng thảo luận bài học chính trị ngoài trời dưới bóng mát tàng cây thì khối phó hậu cần đến bảo cử người đem cần xế lãnh thực phẩm cho trại. Mừng như quẳng được khúc củi nặng trên vai, ai nấy đều thấy... lao động là vinh quang... hơn bao giờ hết là lúc này! Ra đến nơi thấy xe cam nhông đầy rau quả từ Đà Lạt về mừng hơn nữa. Suốt buổi nhồi chánh trị khô khan vào đầu, chiều nay được ăn rau xanh tươi mát vào bụng một người mừng quá hồ hởi phấn khởi ăn nói tự nhiên lưu loát vần điệu như trong học tập: Không có gì quý hơn bắp cải xu xu. Cả đám đồng tình cười theo, có người bồi thêm: Đúng, cả tháng nay chỉ ăn cá khô táo bón quá, hôm nay lãnh bắp cải xu xu đã thiệt như nắng hạn gặp mưa rào! Phe ta nói cười vô tư tận hưởng giây phút lao động vinh quang miễn... ngồi đồng học tập. Đến tối, sau họp tổ thường lệ sắp tan hàng thì Quản Giáo xuất hiện cho thảo luận đề tài: Phỉ báng, bôi bác... Bác. Sửa chân kinh: Không có gì quý hơn độc lập tự do... thành...

95

Không có gì quý hơn bắp cải su su. Thế là động não gấp trăm gấp ngàn lần bài học chánh trị trong ngày. Cái khổ của tội này là... không ai dám nhận! Hồi đó tới giờ khi bị đưa lên bàn mổ đấu tố thì ai cũng biết khôn... nhận lỗi trước khắc phục sau... hứa sẽ không tái phạm nữa cho xong chuyện rồi tan hàng... tìm vui trong điếu cày! Còn kỳ này từ thằng nói đến thằng cười đều không dám nhận tội, ngu gì nhận tội còn nặng hơn tội trời không dung đất không tha là tội... phản quốc... cầm súng chống lại cách mạng nữa! Thằng nào cũng... tình ngay lý gian, vô tình chớ không cố ý... chỉ vì học tập tốt, thuộc lời Bác... hễ nói tới Bác là phải kèm... vĩ đại... đúng tần số, đúng đài là sổ chân kinh Bác nói như... nước VN là một, dân tộc VN là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi... thuần thục nhuần nhuyễn... lâu ngày thành tật... ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt, chửi thề quen miệng... tẩu hoả nhập ma... gặp bắp cải xu xu mừng quá tự nhiên xuất khẩu thành thơ... không ngờ trùng... trúng…... chân kinh bác nói thành thần khẩu hại xác phàm! Mưa dầm thấm đất, tai nạn nghề nghiệp... khẩu... nên tội này có thể xếp loại ... phát biểu linh tinh... chớ không thể ... bôi bác Bác! Tên Quản Giáo lớn tiếng nạt nộ... tội rành rành trước mắt mà cũng không chịu nhận, ngoan cố cứng đầu, không phục thiện, phải đấu tranh đến chừng nào nhận tội mới thôi. Thằng nói cũng trước sau như một lập luận cứng rắn: Tôi cương quyết không nhận tội là chứng tỏ lòng kính yêu của tôi với Bác, dầu có đem ra pháp trường bắn bỏ cũng chịu chớ không bao giờ nhận tội đó. Thế là những đêm sau, phải ngồi đồng dài dài... vô hạn định, đến khi có lệnh mới. Thằng nào thằng nấy hết thấy... lao động là vinh quang nữa... phải hôm đó đừng đến phiên lãnh bắp cải su su thì sướng cỡ nào! Mệt mỏi quá, không lối thoát, nhân lúc đứng đái bên rào cạnh thằng nói tôi dụ:

Hay là mày nhận đại cho xong, làm Lê Lai cứu anh em thoát cảnh ngồi đồng động não này, hắn quạt lại liền: Đừng xúi dại, tội đó là tội... chu di tam tộc đó mày... nhận là bị xếp vô thành phần ác ôn cho đi thăm lăng Bác liền. Chừng nào tất cả tụi bay dám nhận... cười phỉ báng Bác trước thì tao dám nhận... nói bôi bác Bác sau! Nghe vậy tôi cũng nín đái luôn! Cũng may thằng Quản Giáo mắc dịch được... đi phép... nên tội bôi bác... cái bóng Bác... mới... chìm xuồng. Hú hồn... từ đó trở đi... kỵ... Bác luôn! Thằng nói thằng cười, thằng nghe thằng không nghe cũng ngồi đồng đấu tranh khổ như nhau, bỏ tật... liếm dãi Bác! Vừa đi vừa sợ bóng sợ gió lũ nhỏ về kể nhau nghe nhờ hát... hôm qua em mơ gặp túi tiền... nên mấy chú cải tạo cho nhiều tiền... lọt tai Công An khu vực thì kể như hết phép! Đang đổ dốc đi nhanh, bỗng nghe nhạc trần đời thứ thiệt từ mép rừng bay ra, có tiếng guitar thùng trầm bổng đàng hoàng, giọng Khánh Ly cất cao giữa hư vô rừng thẳm như tiếng nhạc Trời hát lời sấm vang dội lòng tôi... Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam... Tôi chưa bao giờ nghe nhạc Trịnh công Sơn phê và cô hồn như lên đồng bằng lúc đó, mà lại đúng ngay câu đó mới độc! Anh bây giờ thì thân tàn ma dại thế này, còn Việt Nam thì thằng yêu nước cùng mình như tôi bây giờ lại đau như hoạn vì ở lại Việt Nam, mỗi sáng thức dậy vẫn thấy bầu trời Việt Nam là lòng dạ tan nát. Hối hận vì mình dại khờ để con tim lấn át cái đầu trong quyết định... ở, đi ... thì thử hỏi sao không tôi nghiệp anh, sao không tội nghiệp Việt Nam... mà thét lên... Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam... cho được! Nhạc Trịnh Công Sơn có cái hay là chỗ đó, diễn tả đúng lúc, đúng nơi tâm tình, tâm trạng mình như thơ Kiều Nguyễn Du vậy. Được quăng khúc củi nặng cấn vai, ngồi nghỉ ven đường trước cặp mắt thương hại của người dân thường rồi xổ: Xưa sao phong gấm lụa là

96

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường... thấy thấm cỡ nào, gãi đúng chỗ ngứa sau lưng. Như Nam Lùn OC 2 bên Australia nghe Hoàng Phi Long bên USA mất liền email qua tôi chia xẻ sáng nay lái xe đi làm bật nhạc nghe chơi lại trúng ngay bài... Cho một người nằm xuống... rồi thấy... mặt trời còn lên, mà bóng nó chìm xuống... buồn quá Việt, nước mắt rưng rưng! Mỗi người tùy hoàn cảnh thấm một câu riêng, riêng tôi... Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam... hay hơn bao giờ hết... lúc đó, nghe là quẳng gánh tại chỗ, thắng gấp, không chịu bước nữa... làm bạn đồng gánh ngạc nhiên hỏi: Gì vậy Việt... mặc kệ, không trả lời, bỏ gánh, như bị thôi miên đi về hướng phát ra tiếng nhạc thì thấy con đường mòn và miếng carton viết chữ Cà Phê đá, chưa thấy chòi gì cả nhưng cũng thấy... quán tre, quán trúc... trong đầu. Mừng rỡ chạy lại nói với Thành: Ê mạy, cà phê đá, nhạc cassette thâu băng Trịnh Công Sơn, Khánh Ly trong con đường mòn này, vô giải khát chơi nghỉ mệt, chắc quán nứa, quán lồ ô gì trong đó! Thành hết hồn bàn ra ngay, chắp tay lạy: Thành lạy Việt mà, Thành một vợ ba con, không cà nhổng độc thân ham vui quên nhiệm vụ như Việt được. Cho Thành xin hai chữ bình an. Mới đây mà Việt đã quên... hôm qua em mơ gặp túi tiền... chạy trối chết rồi hay sao mà bây giờ đòi nghe Khánh Ly hát trong rừng, theo Việt chắc sáng mai ngồi trên xe về trại chớ không phải về Sài Gòn quá. Lúc đó mới thức tỉnh không dám... quẳng gánh lo đi để vui sống nữa! Chưa thật sự đủ tư cách... quẳng ... buông... ngâm... Nghiêng vai trúc nhẹ đời giam cấm Tôi trở về tôi của cuộc đời... là vậy! Ra đến khu kinh tế mới là những dãy nhà hai bên đường cách quảng nhau không xa dựng lên bằng cây rừng, vách nứa, mái lồ ô như những láng trong trại. Gặp lại những đứa trẻ chúng nói ngay:

Mấy chú xui xẻo ra chậm một chút, mấy chú kia gặp xe be đi trước rồi, thôi mấy chú vô trường chúng cháu ngủ đêm nay, trường cũng gần ngay đó. Có được chỗ ngã lưng qua đêm, lo được chỗ ngủ bắt đầu tìm chỗ ăn. Vào quán duy nhất, hỏi có gì thì chủ quán nói: thích gì thì chạy tìm thứ đó, chớ không có sẵn, hiện giờ chỉ có mỳ gói với cà phê đen. Còn muốn ăn thịt phải chờ chạy đi mua như trong chuyện chú chuột đi chợ đường xa mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo vậy. Lâu ngày thèm thịt nên hai thằng đều kêu mỳ gói thịt. Ngồi chờ khá lâu, cũng may còn thịt, đến lúc tưởng sắp được ăn thì... keng keng kẻng đánh ba hồi, loa miệng kêu gọi bà con họp tổ đột xuất, khẩn trương, chủ quán xin lỗi phải qua nhà tổ trưởng họp. Trời sập tối ... bây giờ nếu ở trại cũng đang…... họp tổ. Rồi những chữ đấu tranh, phê bình, bình bầu, tự phê, tự kiểm, chỉ tiêu, phấn đấu, phân công lao động, phát quang ngày mai...v.v... bay ra từ bên kia đường, cũng căng thẳng, sôi động, ồn ào, ì sèo nhau... sống động đời... kinh tế mới... y như mình sống tối qua... vòng trong tù ngụy, vòng ngoài tù dân!!! Tối đó nằm trên đống rơm trong góc lớp ôn lại chuyện mắt thấy tai nghe trong ngày đầu... tôi trở về tôi của cuộc đời! Trằn trọc... nghe tiếng lòng thổn thức... còn động não hơn đêm đầu ngủ rừng... nghe tắt kè... tắt kè... nhau trên cây! Tội và thương cho lũ nhỏ nhưng mình còn lâu mới được như chúng nó... quyền công dân cùng mình... còn dám hát... hôm qua em mơ gặp túi tiền... còn mình chỉ nghe không thôi cũng sợ bóng sợ gió rồi. Muốn... tôi trở về tôi của cuộc đời... không phải dễ, phải nhảy qua hai vòng... trong, ngoài... trần ai lắm... Con đường máu và nước mắt đang chờ tôi trước mặt! Mãi đến chiều hôm sau mới về đến nhà sau khi phối hợp đủ mọi phương tiện xe be, xe lô ca chân, xe đò, xe ôm. Chuyến về phép này khác xa những chuyến về phép xa xưa... quá xệ... không

97

phải chỉ người nhà mừng mà cả lối xóm xúm lai mừng theo, nghẹn ngào trước những lời hỏi han thương hại làm những giọt nước mắt tự động tuôn trào không cách gì ngăn nổi phải chạy ngay vào nhà... trốn! Nó không phải là những giọt lệ rơi làm vơi khổ đau con người, mà là những giọt lệ tủi ... Càng chảy càng đầy đau thương... ao sầu tù đọng trong tâm... như ... Sầu đong càng lắc càng đầy... của Kiều vậy! Phải mấy hôm sau mới lấy lại được phong độ... Papillon! Tối đó, đạp xe đến nhà Cao văn Quân, OCS 8, bạn học từ Đệ Thất đến Đê Nhất ở Pétrus Ký xem nó về hay chưa thì chỉ gặp bà xã nó ở nhà. Ngồi nói chuyện uống chưa hết ly nước thì chị Ánh nhắc chuyện anh Nhơn thỉnh thoảng có ghé thăm hỏi... anh Quân về chưa... rồi đề nghi qua nhà anh Nhơn xem... ảnh đi chưa? Đến nơi, người ra mở cổng chính là anh Nhơn, mừng như gặp cứu tinh đời mình. Biết tôi chỉ về phép một tháng anh nói ngay: Hết phép kỳ này xách gói trình diện tao, đừng dại dột cá không ăn muối cá ươn cãi lời tao như lần trước... đi học mười ngày! Nhà đang hội họp anh em, chắc đang bàn chuyện đó vì anh nói mới từ Năm Căn Cà Mau về và kể chuyện thằng em ngồi kế bên mới ra tù vì vượt biên, một lát sau có thêm một người đến, đứng tuổi, anh giới thiệu với tôi là... Tài Công. Đó là lần đầu tiên tôi nghe hai chữ vượt biên và biết chuyện vượt biên là chuyện có thật bên ngoài, mấy ngày ở nhà không ai đá động gì đến chuyện đó! Vũng lầy cuộc đời, ao tù nước đọng... tưởng... sắp được khai thông! Một mũi tên dứt hai con nhạn, một bước nhảy vọt vượt hai vòng tù... quá đã... tôi ngây thơ nghĩ vậy! Thấy vậy không phải vậy, mà còn hơn vậy, chuyện vượt biên mà, đâu giản dị như vậy. Đó là chuyện... Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Một liều ba bảy cũng liều Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây!

Sẵn đây tán dóc tổng quát ngoài da không đi sâu vào chi tiết chuyện vượt biên để biết nó trần ai thế nào, như chuyện chơi dao. Tôi tham dự cả đi chui lẫn bán chính thức, kể cả làm khách đóng vàng ra đi do thằng em ruột bao, bị lừa, may không bị bắt. Thua không biết bao trận mà kể, ròng rã trên một năm trời nằm gai nếm mật. Bá tánh nuôi, bốn bể là nhà ngoại trừ... nhà mình, tên cũng vậy, xài nhiều tên giả phải ráng nhớ rồi lại ráng quên... tên mình... nên từ một... Lãng Tử Giang Hồ... Tứ Hải Giai Huynh Đệ... thành Thằng Cùng Tử... Tứ Cố Vô Thân... thứ thiệt mới chết! Ăn biết bao nhiêu tiệc tiễn đưa... ngày mai anh đi biển nhớ tên anh gọi về... tưởng... từ đây mãi mãi không thấy nhau... nhưng vài ngày sau lại vác mặt về. Chán đến độ chuyến đi sau cùng, biết mai lên đường, nhớ nhà lắm nhưng cũng không dám nhắn cha mình là người tôi thương yêu nhất đến gặp để tâm tình uống ly cà phê, hút điếu thuốc tiễn biệt, bàn giao lại cuốn Duton, chỉ âm thầm ra đi thì... chui lại lọt... không vác mặt sầu đời về và mất luôn cuốn sách qúy! Biết bao con tàu đi chui lẫn bán chính thức... chui... luôn vào lòng đại dương, có ngày đi mà không có ngày đến. Lúc đó đâu có mobile phone, điện thoại di động như bây giờ. Người thân ra đi thì người nhà chờ điện tín hay tin tức đài BBC, còn bặt vô âm tín thì chỉ còn nước hỏi... Đồng Cốt... để mò ngày... cúng giỗ ma chay! Đó là chưa kể biết bao con tàu ra đi tìm tự do mà lại tới bến... ngục tù, tan gia bại sản. OC Quân nhà mình chỉ thua một trận mà bay nguyên căn nhà khang trang ở Cư Xá Phú Lâm A, cũng may còn có gia đình bên Mỹ gởi đô la về chuộc nên mới được về sớm gầy lại cuộc chơi với tôi! Còn tôi trên răng dưới dái, nếu thua thì bóc lịch mệt nghỉ, còn hơn Bình mập, OC2, bóc 4 cuốn lịch, vì còn thêm tội cúp cua, trốn học! Chuyện vượt biên của Bình mập cũng hi hữu đủ cả vui buồn... hên xui... đề huề... hai anh em ra đi cùng một chuyến... Bình là tài công thì lại tới bến... tù... còn thằng em dắt theo làm khách

98

không tốn tiền thì đến bờ... tự do! Chuyện thật éo le, hôm tôi về VN năm 1991, thì Bình gặp ba tôi ở Tân Sơn Nhứt, một người đón con từ Anh, còn một người tiễn em về Canada. Biết tôi về là ngày hôm sau Bình đến thăm liền... mới biết... chuyến vượt biên của Bình thì thằng em dắt theo lại... thoát... còn Bình là nhân vật chánh Tài Công thì bị... kẹt... vì thằng em không quan trọng được cho xuống trước với đám coi ghe, còn Bình đi chung với chủ tàu. Bãi bị bể, bộ đầu não trên bờ bị hốt, ghe ngoài biển biết động... nhổ neo ra khơi và đến bến tự do an toàn nên mới có chuyện Bình ra Tân Sơn Nhứt tiễn thằng em nhờ mình mà nó mới được xuất ngoại đổi đời về thăm mình. Bình tuy thua nhưng còn an ủi là em mình được thoát và sau đó cũng đi được HO. Lúc ở VN, hai thằng thường Cà Phê tâm tình nhau, trong câu chuyện vô tình tôi làm bạn mình buồn nhưng lúc đó vụng về không hiểu vì sao bạn buồn. Bây giờ viết ra chia xẻ để bạn bè cảm thông nhau là... sau khi kể cuộc đời của tôi lúc làm Papillon cho Bình nghe thì Bình có hỏi: Lúc đó mày có niềm tin gì mà giữ tinh thần vững mạnh vậy hả Việt? Tôi trả lời ngay, không suy tư: Tao chỉ có niềm tin... ở hiền gặp lành... mà thôi? Bình buông liền: Vậy hả mạy?... rồi gục đầu, đau khổ hiện ra trên mặt. Tôi không nhạy cảm, không biết rằng chính câu mà tôi cho là chân lý đó làm bạn mình ôm ngực gục đầu. Sau này nghiệm lại mới thấy nổi đau của bạn mình... chẳng lẽ tao ở ác nên gặp dữ hay sao? Giờ viết giòng chữ này như những lời xám hối. Nói Chân Lý cũng làm bạn buồn nói gì... Phi Lý! Thật chí lý, cũng giống như Phật dạy không nên cố chấp... Chánh Pháp còn buông bỏ nói chi... Phi Pháp! Cách đây vài năm tôi có gặp lại Bình ở San José, hai thằng đi chơi với nhau vui vẻ như những ngày về phép ở Hải Đội 5 Zuyên Phòng, tình bạn như xưa. Cũng nhờ vậy mà chúng ta có một chuyện “thật” hay... như ... hư cấu!

Con đường máu và nước mắt là thế nhưng nó hấp dẫn như nặn bài cào... nhất chín nhì bù, được làm vua, thua làm giặc. Vả lại, không phải ai cũng chơi được, phải có tiền hay có tài... công... mới đánh được canh bạc đổi đời đó! Tôi may mắn không tiền nhưng có tài... công! Cũng nhờ vậy mới thấy... tài hơn tiền... và... làm lớn ông bé PCF hơn làm bé ông lớn PCE... là có lý, lái ghe nhí... nghề của chàng... lấy sở trường làm sở đoản nên rất tự tin, tinh thần vững mạnh như ca... Hải Quân Hành Khúc... Bao người con trai kiêu hùng cùng nhau tách bến, ra khơi mênh mông, gió, mưa, sóng ta không sờn. Bởi vì tham gia lăn lóc cuộc chơi này, thua bao nhiêu trận tôi vẫn còn vốn... chơi hoài. Còn người có tiền chỉ cần thua hay bị lừa một hai ván là sạch vốn hết đi. Chủ ghe tôi theo trên nửa năm từ đi chui qua bán chính thức giờ vẫn còn ở Việt Nam. Lúc bắt đầu tính chui ở Cần Thơ, nghe Vũng Tàu có bán chính thức, lái ra Vũng Tàu, sau đó Cần Thơ có bán chánh thức, chạy chọt về Cần Thơ. Sau cùng Cần Thơ kiểm kê, tất cả ghe lộ diện đăng ký bán chánh thức hết đường... chui luôn... bị tịch thu. Cốt khỉ hoàn cốt Tề Thiên... Ngộ Không... tôi là thằng Tài Công lái chiếc ghe bầu từ Cần Thơ ra Vũng Tàu, rồi từ Vũng Tàu trở lại Cần Thơ và cũng chính tay tôi lái nó đến đồn Công An Biên Phòng... nộp... trong ngày bị kiểm kê... mất luôn bằng OCS và giấy tờ có tên mình trong danh sách khoá 4 bằng chữ Mỹ vì dấu trong ghe. Cũng may là... nó không kiểm kê... người... nên tôi chỉ tắt đèn làm lại, thua keo này bầy keo khác, bán chính thức không được thì nhảy qua chui, còn chủ tàu thì trắng tay bỏ cuộc chơi luôn... tiền thua tài... là vậy! Trước khi về ông tài công có xin địa chỉ tôi. Vài ngày sau ông đến tìm tôi chở đi ăn hủ tiếu, uống cà phê, ăn xong ông mới đi thẳng vào đề: Tôi có chỗ này cần tài công, cậu muốn đi thì tôi giới thiệu cho. Tôi hỏi lại: Còn anh Nhơn thì sao? Ông nói liền:

99

Thằng Nhơn bây giờ còn chưa mua ghe thì biết chừng nào mới đi, trong khi chuyến này họ sẵn sàng cả rồi chỉ thiếu Tài Công mà thôi và tính đi ngay đêm Ba Mươi, lấy yếu tố bất ngờ, lợi dụng Công An Biên Phòng Đón Giao Thừa, an ninh lỏng lẻo, đêm không trăng, mình chui dễ lọt hơn. Tôi thấy ông có lý nên chụp ngay cơ hội bằng vàng này. Ông hẹn ngày mai gặp lại tôi với giấy tờ hình ảnh làm tin. Qua hôm sau, tôi đem theo bằng tốt nghiệp OCS và tấm hình thực tập trên PCF mặc áo phao. Địa điểm tới là phía sau lưng Bộ Tư lệnh Hải Quân, khá sang trọng, trước kia là khách sạn, vẫn còn bảng hiệu Hotel Gia Long nhưng hết hoạt động, phòng tiếp tân trống vắng. Một đám con nhà giàu ngồi chơi xơi nước tán dóc nhau bằng tiếng Tàu, áo quần bảnh bao, dép sapo cao dầy, thấy chúng tôi vào, nhìn nhìn ngó ngó, bỏ vào trong. Ngồi nơi phòng tiếp tân ông tài công già mới nói: Lát nữa, chỉ mình tôi vào nói chuyện với họ bằng tiếng Tầu, cậu ngồi đây chờ, ông là người Hoa. Bây giờ cậu cho tôi biết... điều kiện... của cậu để tôi nói với người ta. Tôi ngơ ngác hỏi lại: Điều kiện là điều gì tôi không rõ, bác giải thích cho tôi biết. Ông đi ngay vào liền: Điều kiện là cậu muốn bao nhiêu tiền, một ngàn hay hai ngàn nói cho tôi biết, đó là trả tiền công cho cậu. Tôi kinh ngạc, không ngờ lại có thêm chuyện này, một ngàn, hai ngàn quá nhiều đối với tôi, công nhân viên 50 đồng một tháng, còn tôi ròng rã mấy năm nay chế độ 2 đồng một tháng trong tù, thừa mua bánh thuốc lào thì thiếu mua cục xà bông, binh mệt nghỉ, trong túi chỉ còn hai chục đồng, tiền Toàn cho tôi mượn, biết tôi không trở lại, có dúi vào túi tôi nói, nếu mày trở lại thì trả lại tao còn đi luôn thì ... cho mày luôn. Toàn thuộc con nhà giàu, con Trung Tá Giám Đốc trường mù ở đường Nguyễn duy Dương, gần nhà tôi. Qua cơn chới với, lấy lại thăng bằng, thấy tiền không sáng mắt, tôi trả lời theo ý mình nghĩ:

Thú thật với bác, tôi hoàn toàn không nghĩ tới tiền thù lao, chỉ mong muốn tìm tự do mà thôi, nhưng bác hỏi thì tôi trả lời là: Điều kiện tùy bác quyết định, bác trong cuộc rành chuyện này, được bao nhiêu thì... chia hai! Ông gật đầu tán đồng liền: Vậy thì chia hai theo ý của cậu. Khá lâu sau ông mới ra, lên xe mobilet chở tôi đến một nhà hàng trên đường Tự Do, phong cách khác hẳn với lúc chưa vô họp, rất phong độ, đưa tôi menu nói: Cậu muốn gì cứ việc kêu. Tính nhà quan xa xưa của tôi trở lại thời thỉnh thoảng vô ... Chí Tài... cầm dao nỉa... kêu dĩa Bí Tết khoai Tây với chai 33. Ăn xong ông mới nói: Nếu chia hai thì cậu được... 10 cây!!! Càng kinh ngạc hơn nữa, ngoài sự tưởng tượng của mình... sao lại có chuyện này... sao vượt biên... lên hương dữ vậy. Tôi kêu thêm gói Craven A... hút để lấy lại... mình... đã mất mấy năm nay. Tôi trở về tôi của cuộc đời, thế thôi! Con ong đã tõ đường đi lối về! Tối đó về khoe ba, ông già nghe xong không mừng còn oà lên khóc, nước mắt dầm dề: Con ơi, sao liều vậy con, sao khổ vậy con, sao không ăn Tết với ba cái đã, sao không đợi đến khi được chính thức thả về mới tính chuyện đó. Lỡ đi không được thì sao? Con không làm gì nên tội mà còn bị đầy đọa đến giờ chưa cho ra, nếu trốn đi không thoát bị bắt lại chắc hết ngày ra, đâu phải đi là được ngay đâu con! Tôi phải lấy độc trị độc... lấy đau khổ trị khổ đau... đem chuyện Papillon nói với người cha thương yêu của mình: Ba biết không... mấy năm nay con chỉ mơ ước có được ngày này. Trong rừng con còn mưu toan trốn trại vượt rừng nguy hiểm hơn vượt biển nhiều. Lúc đó thật sự ... không phải... đi là chết trong lòng một ít... mà đi là làm Kinh Kha... vì... không biết đi đâu, đến đâu... chỉ xin bạn dắt đi theo. Không như chim sổ lồng là gặp ngay bầu trời môi sinh của nó. Còn con sổ tù vô rừng

100

như cá gặp cạn, trốn tù nhỏ vô tù lớn, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, coi trời bằng vung, liều lĩnh như người không biết bơi mà muốn lội qua sông vậy. Chưa đi, chỉ nghĩ không thôi mà nước mắt con dầm dề trong đêm tối. Biết vậy, thế mà con vẫn muốn đi, chỉ để thoả mãn cái đầu khao khát tự do như hổ nhớ rừng, chim nhớ trời, may mà đi không được. Còn chuyện này là sở trường của con, như cá gặp nước, biết sẽ đi đâu và làm được việc đó. Mấy năm nay còn rèn luyện ý chí, văn ôn võ luyện, lẽ ra ba phải mừng và phải nói lời khích lệ, nung đúc tinh thần con sao lại khóc làm tâm hồn con bấn loạn. Trước kia vì thương ba, con ở lại, bây giờ vì thương ba, con phải ra đi. Nghe tới đây ông già quẹt mắt ngưng khóc ngay. Tội nghiệp ông già và tôi sao... chai đá quá... đó chính là những giọt nước mắt làm vơi khổ đau con người... sao ngăn chặn làm gì, không để ông già khóc cho đã. Đem mười cây vàng ra kể cũng không thấy mắt ông sáng lên, đâu nhằm nhò gì so với xắp xa con hay đúng hơn mất con một lần nữa không bao giờ gặp lại nếu đi thoát! Đúng là... sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu vui nhà rồi mới sinh ông... lúc đó có con đâu mà biết nổi lòng của người cha xắp mất con đau đớn thế nào? Lúc đó chỉ tưởng... từ nay mãi mãi không thấy nhau... ba tôi bỏ Bắc vào Nam trước 1945 lúc 19 tuổi, từ đó trở đi không gặp lại bố mẹ mình một lần! Đó chỉ là Bắc Nam cách nhau một con sông, bây giờ thì cả một Đại Dương bao la... Nghìn trùng xa cách... kể như kiếp sau mới gặp lại! Đâu ai ngờ chuyện... Vô Thường ... xảy ra... có thể ca... tung cánh chim tìm về tổ ấm... chúng ta là chim bốn phương bay về đây... với tư cách... du khách... công dân cường quốc thế giới... Passport Anh, Pháp, Mỹ... vv... chỉ trong khoảng mười mấy năm sau mà thôi! Tội tình gì không đi cho thoả lòng thương nhớ của mình và những người thương yêu của mình! Theo chương trình ông tài công gìa nói với tôi thì trước đêm 30 một ngày tôi đến nhà ông

gần sân đá banh Cộng Hoà gần nhà tôi, sẽ có người đưa ra Nha Trang để đêm hôm sau xuống tàu ra khơi, ông giao trước bốn cây. Tối đó hai cha con đến điểm hẹn thì ông nói chiều này người ở Nha Trang vào báo ngưng chuyển người ra đó, chuyến đi bị đình lại vì mấy can dầu chôn dấu ngoài đảo bị sóng gió bão táp cuốn trôi ra biển, lọt vào mắt Công An Biên Phòng. Không buồn không vui hai cha con về nhà ăn Tết! Bản nhạc có tên... Đêm chôn dầu vượt biển... là đây. Lúc qua đây, khi nghe tới tên bản nhạc này trong băng Thuý Nga Paris nhiều người thắc mắc không hiểu sao bản nhạc có tên kỳ vậy. Tôi đem kinh nghiệm chuyến đi đầu tiên không thành ra kể. Có tầu phải có dầu mới đi được, mà dầu rất khan hiếm. Lúc nằm ở Bến Đá Vũng tàu, mỗi đêm ra khơi đánh cá, mỗi ghe nhỏ chỉ mua được một can dầu 20 lít, đánh gần bờ, thấy gần hết là vô. Bán nhỏ giọt, kiểm soát gắt gao, vượt biên không dám tích trữ nhiều sợ bị lộ, mua từ từ, từng can, chôn dấu dưới cát chờ đủ mới đi nên lấy... Đêm chôn dầu vượt biển... đặt tên luôn cho bản nhạc! Hoàng Quốc Viêt. 01/2016

101

Lê Ngọc Trùng Dương

Kỷ Niệm Đời Quân Ngũ

Thân tặng các bạn thuộc các khóa đặc biệt (Lưu Đày), 21 Nha trang, và OCS. Sau mùa thi năm 1969, tôi giã từ trường

học, bước vào trường đời. Từ giã bạn thầy thân yêu và ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu thâm nghiêm cổ kính, để dấn thân vào cuộc chiến khốc liệt đang tàn phá quê hương.Tháng 9 năm 1969, tôi cùng các bạn: Lê văn Tính, Lê Minh Tiên, Lê Minh Bạch, Lê Hữu Đán, Trần Quang, và Ngô Hữu Tân.. ., gia nhập quân chủng Hải Quân; chúng tôi trải qua thủ tục khám sức khỏe, tại bệnh viện 3 Dã Chiến Mỹ Tho. Ngày đăng trình, đoàn xe lầm lũi chạy qua con đường Hùng Vương quen thuộc. Hàng me già âm thầm rũ bóng, nhạc ve sầu tấu khúc, hòa cùng tiếng hát u hoài từ đâu vọng lại: Anh đi rồi còn ai vuốt tóc, Lời tình thơm sách vở học trò ... Anh đi rồi còn ai tình tự Đêm đầy trời tiếc nhớ bơ vơ.. . (1)

Âm điệu buồn như vấn vương theo những cánh phượng hồng rơi lã chã, cuốn hút theo cơn gió giao mùa. Chúng tôi đến với Bạch Đằng 2 vào những ngày đầu tháng 10 năm 1969. Chỉ vài ngày sau, là thực sự khoác áo chinh nhân; sinh hoạt, tập họp điểm danh, xếp hàng theo đội hình, tập hát những bài hát quân hành và thực tập diễn hành. Ở Bạch Đằng 2 một tuần thì được về phép lần đầu. Hai tuần sau có lệnh đổi quân phục từ kaki vàng sang tím và mũ kepi đen. Hai anh Lê Sang và Nguyễn văn Báu tình nguyện mang quân phục đi nhuộm cho các bạn. Khóa sinh kỷ luật do các anh Lê văn Minh (Tề), Lý Tỷ, Nguyễn văn Báu, Lê Sang đảm nhận. Tôi vẫn còn nhớ các anh Nguyễn Kim Hoàn Mỹ, Nguyễn văn Nghiêm, Lê xuân Chiến, Phạm Ngọc Quỳnh, Phan Ban, Lưu Văn Mười, Trần Đăng Bé, Lâm Thanh Khiết, Nguyễn Cường Việt, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Đài, Tôn Thất Phước, Trần Ngọc Chiểu, Nguyễn Ngọc Dzao, Lê Văn Khá,

102

Nguyễn Văn Khá à Anh Phạm Khắc Khiêm vào những ngày đầu, trong bộ thường phục thường ôm đàn hát nhạc phẩm Ngày Trở Về của Phạm Duy cho các bạn cùng nghe, giọng anh trầm buồn đầm ấm: ...Ngày trở về, bên bếp vui Anh kể chuyện nghe, chuyện đời quân ngũ...

Qua bảng danh sách khóa 21 Home Page, tôi được biết một số bạn Bạch Đằng 2/69 gồm các anh: Đặng Qui, Văn In, Võ Tánh đã từ trần. Những ngày tạm trú ở Bạch Đằng 2 rồi cũng qua mau. Chúng tôi được gửi đi tiếp tục thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung; tại đây, tôi trực thuộc đại đội 18C. Đại Đội Trưởng là Thiếu Úy Tôn, người Bắc, dáng hao gầy. Đại Đội Phó là Chuẩn Úy Tây và một Thượng Sĩ Thường Vụ khoảng 50 tuổi mà tôi quên tên. Khóa sinh Đại Đội Trưởng là anh Huỳnh Văn Sang. Ở TTHL Quang Trung chúng tôi ngủ trên giường hai tầng. Hàng ngày, chúng tôi có nhiệm vụ canh gác phòng ngủ, doanh trại, thực tập tránh pháo kích. Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi thường mua chè, cháo lòng đựng trong thùng đạn đại liên, do các quân nhân cơ hữu hay thân nhân của họ bán. Buổi sáng thức dậy sớm, sau khi "chà láng " các hầm trú ẩn, giao thông hào, chúng tôi di hành ra bãi tập để học. Chúng tôi được huấn luyện về căn bản quân sự, di hành, bò hỏa lực, sử dụng các loại vũ khí, thực tập tác xạ, tác chiến, ứng chiến có khi ngủ đêm tại các bãi học. Trưa đến, có xe tiếp tế thực phẩm: cơm, canh, cá mối chiên, khẩu phần đạm bạc, nhưng vì vận động nhiều, nên ai cũng cảm thấy ngon ăn. Tôi vẫn nhớ các bạn Phạm Đình Nhật Hà, Nguyễn văn Điềm, Hà Đăng Ngân, Nguyễn Trọng Quýnh, Nguyễn Khắc Chinh, Phạm Quốc Nam, V# Xuân Long, Lương Quang Bình à Riêng bạn Trần Minh Dũng, sau giờ học tập, về trại thường ngâm nga vài câu thơ Phạm Công Thiện trong bài Ngày Sinh Nhật Của Rắn. Anh Trần Minh Dũng đã vĩnh biệt ra đi năm 2011..! Trong kỳ họp khóa 11OCS

tháng 6/2011tại Nam Cali, tôi rất vui khi gặp lại các bạn Bạch Đằng 2/69, các anh Nguyễn Văn Kế Ba, Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn văn Đài, Nguyễn Trung Hùng, Giang Nam, Hà Đăng Ngân à Bài hát di hành chắc nhiều bạn vẫn còn nhớ : Đây khúc ca nơi quân trường đầy hào hung. Vai sát vai ta thi tài trong tình quân ngũ. Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm .. . (?). Có những sáng sớm rạng đông đã nghe tiếng hát Thanh Tuyền, vang vọng từ chiếc quán bên kia đường : Con đường xưa em đi. Vàng lên mái tóc thề, Ngõ hồn dâng tái tê.. (?) Hay nhạc bản Bên Cầu Biên Giới của Phạm Duy mỗi lần ăn cơm nhà bàn: à Bên cầu biên giới, tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi. Sông nước xa xôi, mây núi khắp nơi, ... Quân trường Quang Trung đã lưu lại nơi tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Vào những ngày Chúa Nhật, khóa sinh được thân nhân đến thăm viếng như được diễn tả trong bản nhạc Vườn Tao Ngộ. Hôm nay ngày chúa nhật. Em đến thăm anh, Đường Quang Trung nắng đổ mà em đâu có ngại khi tình yêu ngun ngút cao...(2) Có lần tham dự sinh hoạt Chính Huấn cuối tuần , chúng tôi được thưởng thức chương trình ca, vũ, nhạc, kịch thật đặc sắc. Anh Nguyễn Văn Trào (Khóa 21 Nha Trang) biểu diễn những màn võ thuật VOVINAM hồi hộp và ngoạn mục. Chúng tôi cũng được vị Đại Úy chủ tọa buổi sinh hoạt CTCT đồng ý cho mặc quân phục Hải Quân màu tím khi xuất trại về phép. Từ giã Quang Trung, nhiều bạn (đa số thuộc đại đội 20 E) lên đường, tiếp tục thụ huấn khóa 21 Nha Trang, một số bạn về Sài Gòn, học Anh Văn, chờ đi du học. Riêng tôi và một số bạn, vì sĩ số khóa sinh quá đông (khoảng 650 ngươi ), Hải Quân không đủ quân trường huấn luyện nên được gửi đi thụ huấn tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức để ra trường và thụ hưởng quyền lợi Sĩ Quan sớm hơn. Tại trường Sĩ Quan Trừ Bị, tôi

103

thuộc đại đội 16, và cũng là Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân duy nhứt ở đại đội này. Đại Úy Đức làm đai đội trưởng, Sĩ Quan Cán Bộ gồm có: Trung Úy Hiểu, (sau nầy chết vì Việt Cộng pháo kích vào quân trường), Chuẩn Úy Bá (tốt nghiệp Fort Benning Texas). Thành phần Sinh Viên Sĩ Quan gồm các binh chủng: Hải, Lục, Không quân, nhưng đa số là SVSQ Bộ Binh. Tại trường Sĩ Quan Thủ Đức, khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi “được” đánh thức, di hành lên đồi Tăng Nhơn Phú để học tập. Ai tập họp trễ sẽ bị phạt bò, hít đất, nhảy xổm. Khoảng 10 giờ tối thì về đến trại. Chúng tôi trải qua thật nhiều gian khổ trong những tuần huấn nhục như bài thơ mà Nguyên Sa đã ghi lại như sau: Bây giờ khẩu Garant ta mang trên vai Bây giờ khẩu trung liên Bar ta mang trên vai Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế nào.. . .. . Bây giờ di chuyển đêm, di chuyển ngày, di chuyển nắng, di chuyển mưa Ăn không được, ngủ không được , cười không được, khóc không được.. . Tôi còn nhớ trong thời gian huấn nhục, có một SVSQ mang bịnh “buồn ngủ”, có lần sau khi mãn học ngoài bãi tập, thấy vắng anh, mọi người đổ xô tìm kiếm . Cuối cùng khám phá là anh đã leo lên cây, dùng dây nịt, buộc vào cành cây và “đi vào giấc mộng!”. Đêm Di Hành là bài hát được các bạn tại Đại Đội 16 ưa thích nhất, bản nhạc có lời như sau: Đêm di hành vượt qua ngàn núi non, dù gian nan, dù chiến đấu. Mặc bụi đường vẫn ghi lời hứa, " Hây!". Mong xua tan quân bạo tàn để nước non thanh bình. Tàn đêm nay, tàn đêm mai, sương mênh mông lạnh buốt núi non...." (?) Đầu tháng 5/70, chúng tôi về ứng chiến Sài Gòn, cũng trong lần nầy, tôi đã quen nhà tôi và chúng tôi đã thành hôn vào cuối năm 1974. Sau ngày mãn khóa, tôi lại được gửi đi học trường Tổng Quản Trị ở đường Đồng Khánh, Chợ Lớn, rồi về tòng sự tại ban Huy chương,

ban Hành Chánh 3, phòng TQT BộTư Lệnh Hải Quân. Được một thời gian ngắn, được biết có mở khóa du học OCS, tôi dự thi và trúng tuyển theo học Anh Văn trường Boat School ở góc đường Duy Tân- Hiền Vương Sài Gòn, tối đến sinh hoạt với các huấn luyện viên Hoa Kỳ bên Hải Quân Công Xưởng. Sau 2 tháng học tập, tôi được gửi đi thụ huấn hải nghiệp tại quân trường OCS. Danh Sách Khóa 11 OCS ( Tài liệu từ quân trường OCS )

Đến với quân trường OCS vào tháng 1 năm 1971. Tôi thuộc khóa 11 U/O ; (O là chữ viết tắt Officer, vì chúng tôi là Sĩ Quan Khóa Sinh). Có tất cả ba khóa 10, 11, và 12 mà đa số khóa sinh là những Sĩ Quan Chiến Binh đã tốt nghiệp tại các quân trường Võ Bị Đà Lạt hay Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức nhưng chưa có chuyên nghiệp quân sự. Sau ngày tốt nghiệp OCS, sẽ được cấp chuyên nghiệp quân sự nghành chỉ huy và được gọi là Hải Quân Thiếu Úy, hay Hải Quân Trung Úy. Trưởng toán của nhóm sĩ quan khóa sinh là Trung Úy Bùi văn Quang. Trưởng toán SVSQ là anh Trần Hải Mank. Sĩ Quan Mỹ đại đội trưởng là Trung Úy Robert W. Auve. Tại quân trường OCS, chúng tôi đã được huấn luyện: hải hành tập đội, cơ khí phòng tai, hải pháo, vận chuyển, lý thuyết tàu bè, cơ khí và lãnh đạo chỉ huy, hàng hải cận duyên (Piloting), dùng những điểm cố định trên bờ và la bàn để lấy hướng định tọa độ, vị trí chiến hạm trên hải đồ; hàng hải phỏng

104

định (Dead reckoning ), hàng hải viễn duyên về thiên văn (Celestial Navigation), dùng sextant đo vì sao biết được trong chòm sao, đưa xuống chân trời lấy góc độ, hướng, tra cứu sách thiên văn (Star finder, H.O. 214, Nautical Almanac) rồi vẽ lên hải đồ vị trí của con tàu; hàng hải điện tử, dùng ra đa để xác định vị trí. Chúng tôi được thực tập trên các tiểu đỉnh YP trong v#ng vịnh Narragansette. Học Trình tại quân trường OCS được hoạch định như sau: VNN CURRICULUM BY SUBJECT AREA SUBJECT AREA: ORGANIZATIONAL DIVISION HOURS English Language (Naval Terminology) 90 The Shipboard Team 10 Division Officer Duties 5 105 Total TECHNOLOGICAL DIVISION Operation and Maintenance of Shipboard Equipment Introduction 7 Engines 21 Propulsion Drives 15 Electricity 22 Auxiliary Equipment 15 80 Total Casualty Control (Ship Construction, Damage Control and fire fighting) Ship Compartmentation 2 Fire fighting 21 Dammage Control 6 NBC Warfare 2 Stability 4 Deck Seamanship 4 25 Total TACTICAL DIVISION OOD ProceduresYP' s 12 Tactical Trainer 6 Shiphandling Theory 6 Rada 4 OOD 2 30 Total Communication 25 CPA 8 Simple Formations 11 Rules of the Road 6 50 Total Weapons 14 Unconventional Warfare 8 Amphibious Operations 4 Mine Warfare 2 Gunfire Support 2 30 Total

NAVIGATION DIVISION Introduction 3 Charts and Aids to Navigation 12 DR, Piloting 14 Current 10 Compasses, Instruments 16 Sunrise and Sunset 4 P-Works 36 Celestial 56 151 Total Intro. To Celestial Navigation 2 Time 4 Time Diagram 2 Nautical Almanac 9 H.O. 214 6 Methode and Problem Solving 6 Celestial Line of Position 2 Sextant Familiarization and use 4 Practical Work in Sights and Piloting 12 Test 9 56 Total (Tài liệu từ quân trường OCS). Sau ngày hoàn tất việc huấn luyện tại OCS, Newport Rhode Island, các khóa sinh được gửi đi thụ huấn về “Chiến Tranh Sông Ngòi” (Riverine Warfare) tại Trung Tâm Huấn Luyện N.I.O.T.C. (Naval Inshore Operation Training Center) thuộc Mare Island, California. Các khóa sinh được thực tâp về đội hình, tác xạ, phục kích, tránh mìn, truyền tin, vận chuyển trong sông rạch trên những chiến đỉnh PBR, PCF. Trong những ngày thụ huấn tôi chỉ mong thời gian chóng qua mau để sớm trở về quê hương. Được biết các bạn cùng khóa: Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Ngọc Chót, Nguyễn Hữu Hạnh, Huỳnh Trọng Nghĩa, Phạm Quang Huy, Đỗ Anh Tuấn, Đinh Sĩ Vụ, hiện định cư tại Hoa kỳ. Riêng Nguyễn Văn Sĩ (my roomate/Thuyền Trưởng PCF ) đã tử nạn trong lúc đưa tàu đi tuần tiễu trên vùng biển Năm Căn . Xin các bạn mỗi người một lời cầu nguyện cho linh hồn anh Sĩ. Sau ngày tốt nghiệp từ quân trường OCS trở về, tôi được bổ nhiệm về phục vụ Giang Pháo Hạm Thiên Kích HQ 329. Hạm trưởng l# HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Sắc, khóa 11 Nha Trang, Hạm phó HQ Trung Úy Nguyễn Bích Ngân, khóa 17 NT. Sĩ quan gồm có Nguyễn Văn Phước khóa 19 NT, Lưu văn Nở, khóa 20 NT, V# văn Vân khóa 20 /CK/NT. Trần Trung Gấu,

105

khóa 21/CK/ NT. SQ các khóa OCS gồm có: Võ Văn Bé, Nguyễn Kim Tuấn, Trần văn Hai. Đa số sĩ quan ở tàu đều có gia đình ở Sài Gòn, riêng tôi và Trần văn Hai là “con bà phước” nên thường xuyên ở lại tàu trong khi hầu hết các sĩ quan khác đều về với gia đình trong những ngày tàu ở bến. Trong suốt thời gian tôi phục vụ tại HQ 329, hầu hết thời gian công tác của chiến hạm là hoạt động vùng Năm Căn, Vũng Tàu. Trong chuyến công tác vùng Năm Căn năm 1972. Tàu suýt bị trúng lance bomb do Việt Cộng phóng từ bờ. Lúc đó, tôi đang đứng cạnh khẩu đại pháo 76 ly, bỗng thấy vật lạ từ bờ nhảy trên mặt nước hướng về phía chiến hạm, nhưng rất may mắn chiến hạm chạy giữa dòng sông, lance bomb bị chìm trước khi tới chiến hạm. Sau đó, Hạm Trưởng Sắc thuyên chuyển, HQ Thiếu Tá Lê văn Quế về thay thế. Khoảng tháng Giêng năm 1972, tôi được chấp thuận theo học khóa Căn Bản Sĩ Quan Chiến Tranh Chánh Trị tại Trung Tâm Huấn Luyện/CTCT/ Sài Gòn. Sau ngày tốt nghiệp, được chỉ định đảm nhiệm chức vụ Hạm Phó Tuần Duyên Hạm Song Tử HQ 614. Vì chiến hạm đang công tác, tôi phải đáp phi cơ ra Phú Quốc trình diện tân đáo. Được biết vị Hạm Phó tiền nhiệm là HQ Trung Úy Nguyễn văn Quít khóa 19 Nha Trang, thường được nhân viên nhắc nhở, ca tụng vì ông là một sĩ quan tài giỏi, nhiều kinh nghiệm. Sĩ quan tạm thời thay thế Trung Úy Quít là HQ Chuẩn úy Nguyễn Bão Đồng khóa 8 OCS. Khi tôi đến đáo nhậm thì Chuẩn Úy Đồng đang nằm bịnh xá HQ Phú Quốc. Vài tháng sau, Chuẩn úy Đồng có lệnh thuyên chuyển đi đơn vị khác, và HQ Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Tòng khóa 22/NT về thay thế. Kỷ niệm đáng nhớ nhất về Chuẩn Úy Tòng đó là trong một lần công tác vùng biển Hà Tiên, sau khi bàn giao ca khoảng 12 giờ đêm lại cho anh. Tôi trở về phòng định đi ngủ, thình lình tôi nghe một tiếng "ầm" vang dội. Toàn thân tàu rung động, con tàu nghiêng ngửa, Đại Úy Cố Vấn Mỹ Dudley từ trên chiếc giường từng trên cao té xuống sàn tàu. Tôi có cảm

tưởng tàu sắp lật úp và sẽ bị chìm. Tôi vội vàng lên đài chỉ huy, con tàu vẫn còn chòng chành, Chuẩn Úy Tòng cho biết có lẽ chiến hạm bị tàu Sealand đụng, bên hữu hạm bị vỡ một khoảng gần nửa thước cạnh khẩu đại liên phòng không 20 ly. Tôi cho bắn hỏa châu để quan sát, nhưng chiếc tàu gây ra tai nạn đã biến dạng vì trời tối và có quá nhiều tàu qua lại lúc ấy nên không thể phát hiện được. Sau ngày mãn hạn công tác, chiến hạm về Sài Gòn, khi tàu về gần đến Nhà Bè, chúng tôi có nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ lái đâm đầu vào chiếc thương thuyền cỡ lớn, ghe bị chìm, chúng tôi dừng lại để cứu cấp, đợi khoảng 1 giờ, nhưng không thấy động tĩnh gì, chúng tôi tiếp tục giang hành. Riêng chiếc thương thuyền, không biết có nhận thức tai nạn hay không nhưn vẫn tiếp tục chạy và biến dạng. Tàu về nghỉ bến, đậu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Môt sáng sớm, khi tôi còn say ngủ, một thủy thủ đánh thức tôi dậy và cho biết tàu sắp chìm. Nhìn qua phòng Hạm trưởng thì thấy nước đã vào đến sàn tàu. Tôi vội vàng ra lệnh cột chặt chiến hạm vào hai tàu đậu kế bên, đồng thời gửi công điện thượng khẩn, yêu cầu BTL Hạm Đội cho toán phòng tai mang bơm xuống hút nước. Sau vài giờ làm việc chúng tôi đã cứu vãn được con tàu. Trong thời gian phục vụ tại tuần duyên hạm HQ 614. Chiến hạm thường công tác tại Phú Quốc, Vũng Tàu, Năm Căn, Qui Nhơn, Nha Trang; nhưng nhiều nhất là Phú Quốc. Đặc điểm của Phú Quốc là tại An Thới, mũi Ông Đội, có dấu bàn chân trên mỏm đá, luôn luôn có nước ngọt rịn ra. Dạo chơi An Thới ròng đôi bửa Dọc nước Bãi Kem tắm nắng đào. (3) Bãi biển khá đẹp, du khách có thể tắm thoải mái tại Bãi Kem, Bãi Dung, Gềnh Dâu ... Ngoài khơi quanh đảo Phú Quốc, du khách có thể thăm viếng các đảo Thổ Châu (Poulo Panjang), Hòn Sơn Rái (Tamassou). Quán phở Bò Vàng và Hội Quán Bi Da do gia đình thân hữu Đổ Kỳ Nam khóa 6 OCS làm chủ là nơi qui tụ nhiều

106

quân nhân đến ăn uống và giải trí . Trong lúc tuần tiễu vùng bắc đảo Phú Quốc, chúng tôi có dịp viếng thăm xứ Cao Miên. Có lần, Hạm trưởng Thiếu Tá Tùng, Đại Úy Cố Vấn Dudley với tôi vào hoang đảo, ném lựu đạn bắt được rất nhiều cá Thác Lác, có con dài hơn 1 mét. Khi chiến hạm tuần tiễu vùng cửa sông Ông Đốc, chúng tôi bắt được một ghe đánh cá Thái Lan vi phạm lănh hải nước ta, chúng tôi áp giải ghe nầy về CCHQ/ Năm Căn. Sĩ Quan và Thủy Thủ đoàn mỗi người được tưởng thưởng sáu ngàn đồng. Trong lần yểm trợ hải pháo gần Căn Cứ Hải Quân Năm Căn, HQ 614 đã giải tỏa được áp lực địch đang tấn công mănh liệt vào đơn vị bộ binh, và đã đẩy lui được kẻ thù. Năm Căn muỗi đói vo ve khóc Sông chụm đầu nhau quẫy sóng ca. (4) Sau ngày hiệp định Paris được ký kết đầu xuân 1973. Cùng lúc với lệnh ngưng bắn được ban hành là thông điệp của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đọc sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, kêu gọi đề cao cảnh giác âm mưu lấn đất giành dân, đừng mắc vào cạm bẫy của cộng sản. Chúng tôi đang sắp khởi hành đi tuần tiễu thì nhận được lệnh công tác đến vùng Hòn Heo, gần tháp Hải Đăng Hà Tiên, theo chỉ thị, chúng tôi, phải triệt hạ lá cờ của Việt Cộng đang treo trên ngọn Hải Đăng đồng thời yểm trợ cho Biệt Động Quân đang hành quân trong vùng. Địch quân đã phục kích sẵn, chờ khi chúng tôi tiến sát gần bờ, chúng dùng đại bác 57 ly, B40, AK 47, bắn tới tấp, chúng tôi vừa phản pháo, vừa rút lui ra vùng an toàn, tránh khỏi hỏa lực uy hiếp của địch. Trong một chuyến công tác khác , chúng tôi ghé lại Hòn Heo, được chúa đảo là một cụ già khoảng 70 tuổi ra đón rước, chúng tôi được dân hải đảo thết tiệc bằng món cháo lươn, nấu với bẹ môn, và họ trình diễn cho chúng tôi xem điệu múa Cao Miên rất ngoạn mục. Khi mọi người đã trở về chiến hạm, chúa đảo còn gửi một cô gái độ 20 tuổi mang tặng thủy thủ đoàn 1 buồng

chuối, chúng tôi nhận quà và ngỏ lời cảm ơn hảo ý của dân hải đảo. Sau chuyến công tác Năm Căn, chúng tôi về BTL Hạm Đội, nghỉ bến được 1 tuần lễ, thì nhận được lệnh công tác vùng 2 Duyên Hải. Nha Trang nổi tiếng là nơi danh lam thắng cảnh, với hàng thùy dương và bãi biển cát trắng chạy dài từ Đại Lãnh-Văn Phong- Cà Ná; ngoài khơi có khoảng 6 hải đảo mà lớn nhất là Hòn Tre. Ở Hòn Yến, người ta có thể tìm thấy yến sào do loài chim yến (Salegane) dùng nước miếng tạo ra, tổ yến được dùng làm thực phẩm rất quí và đắt tiền. Non nước hữu tình nhất trời Nam Nhàn du ngoạn cảnh ngắm danh lam Tháp Bà nhẹ bước người vào viếng Cầu Đá chen chân khách đến thăm. .. (5) Khi cập bến Cầu Đá, tôi có gặp anh Phạm Đình Nhật Hà khóa 12 OCS và cũng là người bạn từ trại Bạch Đằng 2 & TTHL Quang Trung. Anh Hà là thuyền trưởng Coast Guard. Khi tàu nhập vùng được 1 tuần thì Hạm trưởng đi phép về Sài Gòn thăm gia đình, còn lại một mình, trẻ tuổi, lại ham vui; nghe theo lời “dụ dỗ” của thủy thủ đoàn, tôi và đoàn tùy tùng, khoảng tám người kéo nhau vào bờ dạo chơi gần căn cứ Đại Hàn ở Vũng Rô rồi ở lại ngủ đêm, sáng hôm sau, nhờ ghe đánh cá đưa ra tàu. May mắn cho chúng tôi đã không bị sát hại! Một lần khác, chúng tôi tắt liên lạc vô tuyến vào Đại Lãnh, tìm thịt heo rừng cho thủy thủ đoàn có thêm chút dinh dưỡng. Chúng tôi có tặng một ít gạo cho vài gia đình tử sĩ có thân nhân bị cộng sản sát hại. Trong lúc đang quan sát lớp học với đám học trò trẻ con nghèo xơ xác thì có đoàn ghe Yabuta, và phi cơ bay lượn vờn quanh. Những người lính trên tàu cho biết, vùng 2 Duyên Hải đang báo động vì nghĩ rằng chúng tôi là tàu Bắc Việt xâm nhập. Chúng tôi vội vàng tách bến, trở lại vùng công tác. Khoảng tháng 4 năm 1974, tôi mang chiến hạm HQ 614 ra đại kỳ ở Căn Cứ Hải Quân Sơn Chà. Sau ngày nghỉ phép từ Sài gòn trở ra Đà Nẵng,

107

Tôi đã gặp lại anh Trần Văn T, người bạn thời niên thiếu cùng làng . Lúc gặp tôi, anh T là Thiếu Úy Bộ Binh ra Đà Nẵng tân đáo đơn vị, T có nhờ tôi trao lại phong thư cho người yêu của anh ở Mỹ Tho. Tôi đã làm điều mà anh căn dặn; nhưng “ tiếc thay rằng tình chung không ngủ trên môi” (?), chỉ sau ba ngày sau, trên đường trở về Sài Gòn để đáp phi cơ ra Đà Nẳng, tôi đã gặp người tình của T đan tay dạo phố với một HQ Trung Úy! Trong thời gian tàu đại kỳ ở Đà Nẵng, quân số chiến hạm đã giảm thiểu chỉ còn độ 1/3, chỉ đủ canh gác và thử đường trường. Tôi và Hạm Trưởng Tùng ngoài thời gian liên lạc hợp tác với hải xưởng Đà Nẵng để cho công việc Đại Kỳ tiến hành tốt đẹp, chúng tôi có được chút thời giờ viếng thăm thành phố Đà Nẵng. Rất tiếc, dạo đó tôi đã không có dịp ra Huế để viếng Cố Đô. Du lịch Đà Nẵng, du khách nên viếng những thắng cảnh và di tích lịch sử địa phương như: Đèo Hải Vân, Ngũ Hành Sơn, Núi Bà Nà, Chùa Linh Ứng, và Viện Bảo Tàng Chàm. Mỗi chiều cuối tuần Lê Văn Nhẫn (cùng làm chung với tôi ở phòng TQT /BTL/ HQ năm 1970 ), Nguyễn Cao Bách, Bác Sĩ Phạm Khắc Hiệu, Dược Sĩ Cao Thái Thành (tất cả các bạn đều là Trung Úy), mang xe jeep đón chúng tôi đi dạo phố Đà Nẵng, ghé quán Thiên Nga, Thạch Thảo, nghe nhạc, uống cà phê. Đôi khi, những ngày cuối tuần, tôi còn có cơ hội bay về Sài Gòn để thăm người yêu. Cuối tháng 7 thì công việc đại kỳ đã hoàn tất. Hải quân Đại Úy Nguyễn Hữu Thiện về thay thế HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Tùng. Đại Úy Thiện và tôi đưa chiến hạm về Sài Gòn. Sau hơn ba năm phục vụ trên 2 chiến hạm thuộc Hạm Đội, tôi được ân thưởng bằng Tưởng Lục, Chiến Dịch, Quân Vụ, Kỹ Thuật, và Hải Vụ Bội Tinh. Tôi xin học khóa Trung Cấp CTCT và được chấp thuận. Sau khi bàn giao chức vụ Hạm phó cho HQ Trung Úy Nguyễn Hữu Minh, tôi về trình diện BTL/HQ/ P. CH, và được gửi đi thụ huấn tại Đại Học CTCT Đà Lạt. Ban giảng

huấn trường Đại Học CTCT gồm có: Tiến Sĩ Nguyễn Thị Huệ, Tiến Sĩ Phó Bá Long, Tiến Sĩ Nguyễn Hoàng Giáp, Tiến Sĩ Thượng Tọa Thích Giác Đức, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng , Luật Sư Nguyễn Hữu Thống ,và các Sĩ Quan cơ hữu của trường. Chúng tôi học về Tình Báo, Tâm Lý Chiến, Chính Huấn... Trường Đại Học CTCT tọa lạc trong thành phố Đà Lạt, thị trấn nổi tiếng với Trường V# Bị, thác Cam Ly, hồ Than Thở, à Đứng trên triền dốc nhìn xuống hàng thông. Hàng cây thẫm màu đèn lên phố phường. … Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ. Màu lam tím Đà Lạt sương phủ mờ... (6) Sau ngày ra trường, tôi được bổ nhậm vào ban Giáo Dục Chính Trị thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân/ Phòng Chính Huấn. Trưởng Phòng là HQ Trung Tá Phạm Thành Long. Sĩ Quan gồm có các Đại Úy CTCT: Đỗ Hữu Danh, Lê Văn Soại, Phạm Ngọc Hòa. Sĩ Quan OCS: Lê Tín Thành, Nguyễn Thái Hùng. Thiếu Úy Đoàn Viên Lê Thùy Anh. Trong thời gian nầy, tôi có gặp bạn Hà Đăng Ngân (OCS 8), người về từ Hoàng Sa; anh kể lại trận chiến lịch sử mà các chiến hữu HQVN đã can trường chiến đấu chống quân xâm lược Trung Cộng vào tháng Giêng năm 1974. Được biết Ngân hiện định cư tại Hoa Kỳ, mong anh tường thuật lại thiên phóng sự hãn hữu mà anh được vinh dự tham chiến. Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tôi có nhiệm vụ tiếp đón các đơn vị di tản chiến thuật từ miền Trung về tạm trú tại Căn Cứ Hải Quân Cát Lái. Từng đoàn tàu từ miền Trung, đưa binh sĩ, gia đình quân nhân cùng đồng bào tị nạn. Hàng vạn đồng bào và quân nhân đã được đón nhận tại căn cứ này . Thực phẩm không đủ phân phối cho tất cả mọi người. Tôi cũng nhận được tặng vật của một nhà hảo tâm trao tặng gồm hai xe chở đầy chao và phân phối cho tất cả mọi người. Khoảng 1 tuần lễ trước ngày 29/4/75, trong khi tôi đang thuyết trình tại Câu Lạc Bộ nổi BTL/HQ thì được lịnh hoàn trả súng đạn lại kho vũ khí. Các chiến hạm cập bến tại Sài Gòn được tiếp tế thực phẩm, nhiên liệu đầy

108

đủ. Đêm 28/4/1975, Việt Công pháo kích, đạn pháo rớt xuống sông Sài Gòn và khách sạn Majestic . Trưa ngày 29/4/1975, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy đồng bào đổ xô xuống tàu càng lúc càng đông. Khoảng 4 giờ chiều, tôi quá giang Đại Úy CTCT Đỗ Hữu Danh về nhà. Khi tôi trở lại Bộ Tư Lịnh Hải Quân và khoảng 6 giờ chiều thì có lệnh tập hợp, HQ Đại Tá Đỗ Kiểm thông báo: Sĩ Quan hãy về nhà đưa gia đình theo Hạm Đội di chuyển chiến thuật ra Côn Sơn. Tôi vội ra trước cổng BTL/HQ thì gặp HQ Trung Úy Lê Minh Đạo khóa 10 OCS. Anh Đạo hốt hoảng hỏi nên làm gì? Tôi khuyên anh nên đưa gia đình di tản theo Hạm Đội. Khi ra khỏi cổng, tôi gặp được người lính cũ ở HQ 614. Anh đã dùng xe Honda đưa tôi về nhà tận phi trường Tân Sơn Nhất. Khi tôi vào nhà thì cả gia đình đang chờ tôi. Nhạc mẫu tôi cùng gia đình mang hành lý rời nhà khoảng 100 mét thì đạn pháo kích nổ gần bên làm mọi người hoảng sợ chạy trở về nhà. Mẹ vợ tôi đưa tiền cho vợ tôi và khuyên chúng tôi hãy ra đi. Những người đi theo tôi lúc bấy giờ chỉ còn có đứa cháu thuộc binh chủng Không Quân, hai mẹ con người hàng xóm và vợ tôi . Khi chúng tôi rời nhà khoảng một cây số thì may gặp một quân nhân thuộc binh chủng Nhảy Dù đang lái xe jeep, chúng tôi xin quá giang và được anh đưa đến cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Tôi ngỏ ý là nếu anh muốn, tôi có thể giúp anh cùng xuống tàu theo Hạm Đội, anh cám ơn, nhưng từ chối, và cho biết sẽ ở lại tử thủ. Tôi tặng anh số tiền mà mẹ vợ tôi vừa cho. Vào tới Bộ Tư Lệnh thì đã 10 giờ tối, Thượng Sĩ Định, Quản Nội Trưởng có đưa tôi khẩu súng Carbine mang theo để phòng thân, tôi không lấy, chỉ mang theo chiếc chăn ngủ. Khi tôi và gia đình đến bến, tàu đã đầy ứ người. Bình thường, Khu Trục Hạm Trần Hưng Đạo/ HQ 1 chỉ chứa được khoảng 200 người. Lúc đó, theo tôi phỏng định, có vào khoảng 2000 người. Một số quân nhân khóc nức nở vì không mang được gia đình theo! Vài sĩ quan trẻ quá thất vọng, đã nông nổi vứt cả

súng ống xuống sông. Khi tầu ra gần Vũng Tàu thì Phó Đề Đốc .. .(?) ghé tàu để đón gia đình. Khi tàu cập bến bị bể bên hông phía sau lái. Đến Côn Sơn, tất cả chiến hạm tụ họp lại với nhau và được loan báo là Hạm Đội sẽ rời Việt Nam để đi Phi Luật Tân; sẽ có chiến hạm đưa những người muốn ở lại trở về Vũng Tàu. Gia đình tôi chuyển sang Cơ Xưởng Hạm Cần Thơ HQ 801 vì H.Q 1 chứa quá nhiều người và bị hư hại. Trên hải trình đi Phi, HQ 801 cũng đón nhận thêm nhiều quân nhân cùng đồng bào muốn quá giang. Chiến hạm cũng cho phép một phi cơ trực thăng hạ cánh mang theo một Đại Tá Bộ Binh, đoàn tùy tùng và viên Phi Công. Tình trạng sinh hoạt trên chiến hạm ngày thêm tồi tệ, khan hiếm thực phẩm và nước uống; may mắn, tôi tìm được ít cơm khô mà ai đó đã phơi cạnh bên ống khói tàu. Có lần vợ tôi quá đói, đau lòng khi thấy thai nhi bò quậy trong bụng mẹ, tôi liều lĩnh vào khu ẩm thực định tìm chút nước uống và thực phẩm cho vợ thì bị một Thiếu Úy Bộ Binh (?) cản đường không cho vào. Tôi lên phòng Sĩ Quan tìm bạn, tôi may mắn, gặp được HQ Trung Úy CK Lê Đăng Bảo, (Khóa 21 Nha Trang), anh Bảo cho vài hộp cá hộp, nhờ đó mà vợ con tôi đỡ đói. Hôm sau lại được tàu chở dầu của anh Lý Thái Thạnh (thân hữu Bạch Đằng 2 & Quang Trung ), anh Thạnh tặng hai thùng chao. Tôi chia sẻ lại cho đồng bào, chỉ giữ lại vài hộp. Lúc đó, tôi thật vô cùng cảm kích, các bạn đã nhường thực phẩm của chính mình cho chúng tôi trong lúc khan hiếm, Miếng khi đói, gói khi no, Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng. (?) Trước khi chiến hạm vào lãnh hải Phi Luật Tân, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi nhìn thấy lá quốc kỳ VNCH được hạ xuống để chuyển giao tàu lại cho người Mỹ. Từ Phi, chúng tôi được chuyển sang một thương thuyền khác để sang đảo Guam. Tại Guam, nhiều trại lính bằng vải bố đã được dựng sẵn. Trên đoạn đường dài và rộng, có nhiều nhà tắm và nhà vệ sinh lộ thiên. Ngày ba buổi, người tị

109

nạn xếp hàng đi nhận thức ăn. Sống ở trại tỵ nạn được khoảng một tháng thì chúng tôi được chuyển đến trại Indiantown Gap tiểu bang Pensylvania. Tại đây, vợ tôi đã hạ sanh đứa con đầu lòng và chúng tôi đã đặt tên cho con là Hoài Nam để tưởng nhớ về Quê Hương Việt Nam. Khi tình nguyện gia nhập binh chủng Hải Quân, tôi chỉ có một ý niệm đơn thuần: Thi hành nhiệm vụ công dân. "Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách" (?). Tuy nhiên, qua Trại Bạch Đằng 2 và những quân trường thụ huấn (Tổng Quản Trị, Đại Học CTCT, Sĩ Quan Trừ Bị, OCS), ngoài những kiến thức cần thiết cho một Sĩ Quan Hải Quân học hỏi được, tôi còn may mắn quen thân nhiều bằng hữu quí mến, các bạn là những thanh niên ưu tú, đã nhiệt tình đáp ứng lời kêu gọi của Tổ Quốc khi Sơn Hà nguy biến. Binh Chủng Hải Quân đã cho tôi cơ hội trực tiếp đi, thấy, phụng sự quê hương, và thủ đắc được nhiều kinh nghiệm mà tôi khó có thể tìm thấy ở đời sống dân sự. Với tất cả tấm lòng chân thành của một người dân yêu nước, chúng tôi đã dâng hiến quãng đời thanh niên tươi đẹp nhất để chiến đấu cho Quê Hương Việt Nam được độc lập, tự

do, dân chủ, thịnh vượng vàtiến bộ. Nhưng rồi vận nước không may," mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên!" (?). Biến cố đổi đời 30 tháng 4 năm 1975 đã đưa đẩy tôi lưu lạc hơn nửa vòng trái đất. Ngày nay, dù cuộc sống ở Hoa Kỳ đã tương đối được ổn định, nhưng mỗi lần hồi tưởng về cuộc chiến cũ, tôi không khỏi ngậm ngùi: Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng ! (7) Thượng Đế vẫn còn dành cho Quê Hương Việt Nam nhiều khổ lụy! " Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” (8). Ghi Chú: (?) Không nhớ tên. (1) Nhạc phẩm Lời Tình Buồn. Vũ Thành An. (2) Nhạc phẩm Vườn Tao Ngộ. Nhật Hà. (3)&(4) Thơ Thiên Cổ Bùi Ngùi. Phạm Hồng Ân. Thơ Nha Trang Tâm Bút. Nguyễn Vĩnh Châu. Nhạc phẩm Đà Lạt Hoàng Hôn. Minh Kỳ & Dạ Cầm. (7) & (8) Thơ Truyện Kiều. Nguyễn Du.

110

thú Phaåm Höìng Ên .tháng mười một, ngưỡng mộ em đứng giữa đời, ta là kẻ ngu si đem nước mắt tặng cho người thất chí năm mươi năm làm toàn điều phi lý đạp đất đội trời cũng khoác lác hào nhân ta thua em, một cô bé lên năm cầm biểu ngữ hô chống tàu xâm lược giữa vạn người, em xông pha đi trước bóp bàn tay làm nắm đấm đuổi thù đứng giữa đời, ta như ngọn gió thu giỡn từng chiếc lá vàng nơi phố chợ năm mươi năm mất dần phần trí nhớ quên gốc quên nguồn quên thân phận lưu vong ta thua em, những hào kiệt má hồng chen chúc giữa dòng người bất khuất cờ tự do đưa lên cao cứ phất ngưỡng mộ em cả thế giới theo sau đứng giữa đời, tóc ta đã bạc màu vẫn ôm mộng mò trăng đáy biển mãi yếm thế trước quê hương nguy biến ngồi nhả thơ với ngọn bút đã cùn ta thua em, một cô bé anh hùng giăng biểu ngữ sục sôi chưởi giặc ôi giọng chim oanh bỗng trở thành thép sắc cất lên từ lòng yêu nước vô biên đứng giữa đời, từng là hạng võ biền múa kiếm bạc giữa rừng hoa thơm ngát dưới bóng giai nhân ta đành tự sát chí làm trai như rơm rác trôi sông ta thua em, những cô bé lạc hồng những cô bé chỉ lên năm lên tám Trần Quốc Toản ngày xưa, gương can đảm hừng hực về trong nhiệt huyết các em. PHẠM HỒNG ÂN (Hiên Thư Các 08/11/2015)

111

.THÁNG MƯỜI, THU ÚP MẶT tháng mười, thu úp mặt rướm vàng những hàng phong trời trong như tròng mắt người con gái phương đông. em ngồi bên cửa sổ giọc nắng rơi đầu ngày tiếng cười treo lưng gió đuổi theo bầy chim bay. mẩu bánh mì ngắt khúc rơi xuống mỏ chim non sợi nắng thu vàng hực phết nhẹ cánh tay tròn. tháng mười, thu lác đác khóc hàng phong mồ côi quê hương em tan nát bởi bom nổ đạn rơi. tôi bàng hoàng ngó ảnh xác thành phố điêu tàn bên thây người bất hạnh đàn chim non lang thang. tôi trải tình ra biển như trải rộng lương tâm một màu tang tận hiến đánh động trái tim câm. em nằm trong lòng nước với tay tìm tự do tôi, hàng phong lộn ngược thương mùa thu bơ vơ... PHẠM HỒNG ÂN ( Moonglow Park, 19/10/2015)

112

Ngủ Đò với Thiền Trăng Khoang trước chồng nách con thổi lửa Mui sau vợ mở cửa bán thân Đêm nay trăng xuống thật gần Trăng soi nồi sắn, soi quần khách chơi Tiếng chuông xa từng hồi vang vọng Chồng, Thiền sư. Ai rộng tâm tu ? Đò chao lay động sương mù Chồng ngồi bất động. Đạo sư tọa Thiền ?! Đò trần truồng lướt trên bánh lái Nước rách da, lành lại. Mặc đò trôi Miếng cơm manh áo nợ đời Nghiệp duyên em trả, nổi trôi mạn thuyền Tiễn khách, vợ đếm tiền mắt đỏ Mảnh trăng đời vàng võ xanh xao Phấn son tô lại má đào Dấu đời khuya sớm, làm sao dối lòng ? Đạo vợ chồng trắng trong, chung thủy Chịu tiếng đời hệ lụy truân chuyên Với con, mẹ một lời nguyền Nghiến răng cam chịu, kiếm tiền vì con !!! XUÂN CẢM Đông tàn ngoài ngỏ sương sa Nghe trời còn lạnh, nghe ta thấm buồn Trắng tinh cành bưởi sau vườn Mùi thơm thoang thoảng, chạnh lòng nhớ quê Anh từ đôi nẻo sơn khê Bao năm lưu lạc, chưa về viếng thăm

Lắng nghe sáo thổi cùng tranh Lòng anh như ở quê mình em ơi Huế xa mấy chục năm trời Vẫn còn trọ trẹ : Huế tôi… Huế mình … Đã đành Huế đẹp, Huế xinh Mà trong dòng máu, con tim vẫn là … Nhớ xưa dĩa mắm, chén cà Quốc hồn quốc túy, quê cha vốn nghèo Từ đi thân phận bọt bèo Ngư ông cúi mặt, sớm chiều câu cơm ! Đèn khuya thao thức bao đêm Thương rà nhớ ruột buồn tênh nghẹn lời Thương ta ngơ ngẩn xứ người Nửa hồn mắc cạn trên đồi Nam Dao ! Tháng tư gãy cội Mai, Đào Chim đàn tung cánh vẫy chào xa bay Bàng hoàng tung gió tìm mây Cố Đô khuất nẻo trời tây “mất rồi” Trông thơ trăng tựa lưng trời Từ nay trăng ngủ ai ngồi chờ trăng ? Tìm ai Xuân viếng hằng năm ? Kim Long cô lái ngút ngàn bến xưa. XUÂN THA HƯƠNG Bao năm sống cạnh lưng chùa Nghe bao kinh kệ vẫn chưa thấm nhuần Tâm tư đày ắp bụi trần Quét ta như quét bóng trăng. Quét hoài !!! Nghe kinh mưa đổ sân ngoài Tâm hồn tắm gội, thảnh thơi khác thường Tách trà đủng đỉnh ra vườn Cành mai cười đón đón báo Xuân đã về Chậu lan nở rộ sum sê Cành đào chim chóc rủ rê… nắng vàng Gío Xuân lay nhánh phượng vàng Tàn đông sót lại nhẹ nhàng rụng rơi Ừ, ta cũng chớm đông rồi Lông mày thưa bạc, da mồi, lưng cong Răng cỏ cũng rụng thưa dần Nghe đời đón Tết mừng Xuân mà buồn Nén nhang đốt vọng cố hương Ly cà phê đắng ra vuờn ngắm hoa. Dương Phi

113

BÀ KA

114

(*) Xin phép vong linh Thầy Nguyên Sa được thay đổi vài chữ

115

Dr. Vlad Huỳnh Kim Khanh

Marlene ngồi trên ghế trong clinic đã gần một giờ mà chả có ai kêu.. Nàng nhìn quanh chỉ thấy những người đàn bà khác cũng đang chờ đợi như nàng. Một điều chắc chắn là nàng là người trẻ nhất. Nàng ôm nỗi hoang mang lo sợ viễn vông. Sau lần đi du lịch Ý vượt qua những xứ lân cận trước đó và những chuyến phiêu du kỳ bí vùng đất hiểm trở theo truyền thuyết là quê quán của Dracula kể cả những đêm phiêu lưu mạo hiểm trong lâu đài của Công Tước Dracula, Marlene trở về Montreal với những nỗi lo lắng chồng chất. Nàng đã bỏ gần nửa năm học. Giờ lại lo lắng về tương lai sau mấy tháng du lịch Âu Châu và đặc biệt là nàng đã dâng hiến trinh tiết cho người tình người Ý. Tính ra thì từ lúc ra đi cho đến bây giờ đã gần bốn tháng. Tự nhiên nàng lo sợ cho tương lai. Trễ khoá học chỉ là một mối lo nhỏ. Mối lo lớn nhất là những biến đổi gần đây trong cơ thể của nàng. Mario đã ở lại Ý để chầu chực quyết định tương lai của gia đình chàng. Marlene trở về Montreal một mình với cõi lòng tan nát. Nàng còn quá trẻ để hiểu cuộc đời.

Tuy lớn lên trong một gia đình cao cấp trong xã hội, Marlene vẫn cảm thấy không an toàn khi bước ra đường đời. Cuộc tình ngây thơ đến vội vàng như cơn bão táp. Bây giờ thì nàng một mình phải đối phó với thực tại phũ phàng mà nàng chưa biết phải nhờ ai. Marlene cố hít vào và thở ra chậm rãi để bớt bồn chồn. Nàng không biết mình đã chờ đợi bao lâu. Nhưng khi có tiếng người đàn ông gọi tên nàng, nàng chợt bừng tỉnh. Nàng mở mắt ra thì thấy một người đàn ông cao ráo, mặc áo choàng của bác sỹ đang nhìn thẳng vào mặt nàng. Ánh mắt hắn sâu thẫm màu ve chay, nửa vàng nửa xanh lục và có một nền nâu đậm. Tự nhiên Marlene nghĩ đến ánh mắt của một loài dã thú nguy hiểm mà nàng chưa biết rõ.

- Marlene? - (Yes) Ừ! Nàng trả lời một cách máy

móc Nàng nhìn né một bên để tránh ánh mắt xuyên thủng của hắn. Hắn ra dấu cho Marlene đi vào trong phòng khám. Nàng làm theo.

116

Khi hai người đã vào trong hắn khóa cửa lại. Nàng nhìn quanh, chỉ thấy một chiếc băng dài trải thảm trắng và hai chiếc ghế nhỏ gần bên. Trên mặt thảm trắng là một tờ giấy trắng đục dài như để bao che rồi sẽ được thảy đi sau khi dùng. Bên cạnh chiếc băng dài là một bureau bằng da màu nâu sẫm với một chiếc bàn rộng và một chiếc ghế bành đồ sộ màu rượu chát chễm chệ phía sau. Tên đàn ông bước vào sau chiếc bàn và ngồi xuống ghế bành. Hắn ra hiệu cho Marlene cởi đồ. Nàng cảm thấy e thẹn nhưng cũng phải nghe theo. Hắn ra hiệu cho Marlene xoay vòng quanh 360 độ. Sau đó hắn bảo Marlene nằm lên bàn khám, lõa lồ. Nàng cảm thấy hơi lạnh thấm vào làn da thịt. Hắn bước tới gần nàng từ sau chiếc bàn đồ sộ. Hắn đã mang gang trắng từ lúc nào. Mắt hắn vẫn sâu thẫm như từ lúc đầu. Hắn chỉ nhìn xuống cơ thể Marlene, chỉ xoa vùng bụng của nàng rồi đưa tay lướt nhanh trên vùng ngực của Marlene. Nàng tự nhủ thầm là mình đã may mắn vì hắn không khám âm đạo của nàng. Xong đâu đấy, có lẽ chỉ sau năm bảy phút, hắn ra hiệu cho nàng đứng dậy và mặc đồ. Marlene tự nhủ, không tệ lắm cho cuộc khám đầu tiên. Nàng hớn hở bước trở ra phòng mạch chính. Tên bác sỹ bước nhanh theo nàng và trao nàng một tấm giấy nhỏ với những nét chữ màu đỏ ngoằn ngoèo. Nàng nhìn xuống, đọc vội vã và chỉ thấy mấy chữ tiếng Pháp: Gặp lại tối nay… Te vois ce sois! Marlene không hiểu lý do hắn muốn gặp lại tối đêm đó. Chưa hỏi, hắn đã trả lới:

- Thử máu! Marlene lại càng hoang mang hơn và bắt đầu có cảm giác lo sợ. Tên bác sỹ kỳ bí, cao ráo vuốt nhẹ lưng nàng, rồi đưa nàng ra cửa. Nàng vội vã rời phòng mạch của hắn, rồi bước nhanh ra đường phố. Nàng cố định hướng để đi về ấp của mình. Lúc bấy giờ, trời chắc đã gần xế trưa. Marlene rảo bước xuống con dốc núi, lòng hoang mang cùng cực. Sau khi đi một đỗi, nàng

mới nhận ra rằng nàng chưa trả tiền cho dịch vụ vừa rồi. Nàng không biết có nên trở lại hay cứ tiếp tục đi. Một cơn trốt mãnh liệt làm bay nhiều bụi đường và lá khô. Trong giây lát nàng tự biết mình đang lảo đảo giữa cơn gió cuốn kỳ lạ. Chiếc váy của nàng bị tốc lên không kiểm soát được. Trực giác bảo nàng phải nên ngồi ngay xuống để khỏi bị cơn gió mạnh cuốn đi. Nàng làm theo phản ứng tự nhiên. Nàng bất giác nhìn lên thì thấy một bóng dáng mặc toàn đen, cao ráo với ánh mắt màu đỏ thẫm đang nhìn chăm chú vào mắt nàng. Mặc dù hình dạng bên ngoài có đổi khác, nhưng trong thâm tâm, Marlene có thể khẳng định hắn chính là tên bác sỹ kỳ lạ mà nàng vừa xem. Chừng hơn mười phút sau, mọi sự trở lại bình thường. Nàng nhìn xung quanh thì chỉ thấy mọi người đi lại rất là hồn nhiên. Marlene tiếp tục rảo bước xuống dốc núi, trở về ấp của mình. Sau đó nàng nằm vật vã trên giường, để nguyên quần áo. Nàng cảm thấy đầu nhức như búa bổ. Nàng lịm đi không lâu sau đó trong giấc ngủ mù sương… Khi nàng tỉnh dậy thì trời đã tối. Nhìn ra cửa sổ nàng chỉ thấy bóng tối chập chùng. Nàng chợt cảm thấy đói bụng. Đứng dậy máy móc rồi đi vào nhà bếp. Nàng lục tủ lạnh để tìm một thức gì để ăn. Tủ lạnh trống trơn không còn nhiều thức gì lắm. Nàng lấy đại một miếng phô mai để ăn đỡ. Nhìn ra ngoài cửa sổ, bóng tối đã vây quanh. Trong khoảng tối tù mù, nàng thấy dạng của một người đang nhìn vào, thẳng vào mặt nàng. Ánh mắt của hắn màu đỏ rực. Tóc hắn xỏa dài xuống đôi vai. Hắn mặc áo dài màu đen, phủ xuống. Trời chưa mùa thu mà hắn đã mặc áo choàng thật dài. Marlene cảm thấy khó chịu và một cách máy móc, lui vào bên trong phòng khách. Trong lúc vội vã, nàng đánh rơi mảnh phô mai xuống sàn nhà bếp. Ngồi trên chiếc sofa ở phòng khách mà nàng cảm thấy lạnh lẽo toàn thân. Nàng nhìn quanh để tìm một chiếc chăn mỏng để khoác lên mình nhưng chả thấy đâu. Ngay lúc đó, có tiếng đập cửa. Nàng ngồi yên

117

không trả lời. Tiếng đập lập lại và có vẻ cấp bách hơn. Marlene chưa biết phải làm sao thì nàng thấy nắm cửa lay động rồi cánh cửa phòng khách hé mở! Nàng rụt lùi một cách máy móc. Thế nhưng nàng cũng vẫn ngồi trên sofa. Hắn đẩy cửa bước vô không cần chào hỏi. Tóc hắn dài hơn và phủ xuống hai vai, khác hẳn mái tóc gọn ghẽ mà nàng thấy ban trưa. Trong lúc nàng đang tìm hiểu tại sao hắn có thể đột nhập vào ấp của nàng một cách dễ dàng thì hắn đã đặt xuống sàn chiếc túi dụng cụ y khoa của hắn. Tuy chưa thường đi bác sỹ, nhưng Marlene cũng biết ngay, đây là một trường hợp ngoài sức tưởng tượng. Đáng lẽ hắn đã khám toàn diện cho Marlene trong ngày nhưng hắn muốn gặp nàng đêm nay để làm gì? Marlene cảm thấy sợ hãi cùng cực. Nàng nhìn quanh để tìm một cái gì để bảo vệ thân mạng của mình thì thấy rằng chả có gì đáng tin tưởng. Hắn cúi xuống, mở chiếc túi dụng cụ và lấy ra một ống chích to tổ bố và hai ba ống nghiệm nhỏ thường dung để chứa máu hoặc nước tiểu cho phòng thí nghiệm. Nàng nghĩ trong đầu chắc hắn muốn lấy máu để thử nghiệm. Chưa đầy mười lăm giây sau, hắn đã tiến đến gần sofa chỗ Marlene ngồi và nhìn thẳng trong mắt nàng. Một huyền lực mãnh liệt nào đó khiến nàng cảm thấy toàn thân yểu nhược. Nàng khứng chịu dưới quyền lực vô hình của hắn. Hình ảnh cuối cùng trước khi Marlene té xỉu tại chỗ là hắn xăn tay áo của nàng bằng bàn tay đầy móng vuốt như của loài chim ưng và tay kia hắn cầm ống chích to tổ bố chích vào tỉnh mạch ở cườm tay phải của nàng. Trong lúc mơ màng nàng thấy rõ khuôn mặt hắn cận kề, cúi xuống, đôi mắt đỏ ngầu, miệng hắn hé mở để lộ cặp răng nanh vàng khè của loài chó sói. Lưỡi hắn thè ra liếm nhanh hai khoé mép nhanh nhẹn như lưỡi của loài bò sát. Rồi nàng chết lịm lúc nào không hay. Khi nàng tỉnh lại thì trời đã khuya. Nhìn ra cửa sổ nhà bếp, nàng thấy lá khô bay mù mịt ngoài kia. Màn đêm đã bao trùm khắp nẻo. Nàng cảm thấy lạnh buốt toàn thân. Nàng đứng lên đi về

phía tủ lạnh để tìm nước uống. Uống ực một hơi dài, nàng cảm thấy đỡ khát hơn. Bỗng nhiên nàng cảm thấy ngứa ngáy bên cổ trái.Nàng đưa tay gãi nhẹ một cách máy móc. Nàng cảm thấy ngón tay mình ướt át. Nhìn xuống thì là màu đỏ thẫm. Tay nàng ướt đẫm máu!. Marlene hốt hoảng, chạy ngay vào phòng tắm và nhìn mìmh trong gương. Dưới ánh sáng vàng vọt của phòng tắm, nàng có thể thấy rõ hai vết sâu xéo bên cổ trái, cách nhau chừng hai inch, đỏ sẫm và vẫn còn rỉ máu. Chuyện gì đã xảy ra từ trưa ngày hôm qua, nàng tự hỏi. Sau khi ôn lại trí nhớ, nàng chợt hiểu ra. Tên bác sỹ mà nàng gặp ban ngày, trở lại lúc chiều tối đòi lấy máu để thử nghiệm. Rồi hắn thôi miên nàng và lấy máu bằng cách gì nàng không biết rõ. Thế nhưng nhìn dáng dấp cao ráo của hắn và mái tóc dài, và chiếc áo choàng cổ lổ sỉ, nàng biết rằng hắn không phải là người thời này mà là một thứ dân man di mọi rợ đã trải qua nhiều kiếp. Nàng chợt nhớ lại chuyến du lịch vừa rồi với Mario và cuộc phiêu du nguy hiểm trong lâu đài của Dracula ở vùng Transylvania. Bên ngoài gió càng lúc càng mạnh. Lá khô bay bay quyện thành cơn trốt, đập vào cửa kiến nhà bếp. Rồi trong khoảng mù mịt đó, một dáng người bắt đầu thành hình, đứng lơ lửng ngoài cửa sổ trong khoảng mù sương. Đôi mắt hắn đỏ ngầu như bao giờ. Mái tóc hắn phủ dài xuống đôi vai. Hắn vẫn mặc chiếc áo choàng màu đen cố hữu. Marlene định chạy vào trong phòng ngủ để trốn, thế nhưng đã quá trễ. Không hiểu làm sao hắn bỗng đột nhập tự nhiên qua cửa sổ và đứng sừng sững trước mặt nàng, ngăn chận bước chân nàng. Nàng bỗng cảm thấy ngứa ngáy cực độ bên cổ trái, ngay vết cắn hôm qua, đồng thời cảm thấy lòng rạo rực kỳ lạ như lúc muốn làm tình. Cảm giác này có vẻ mới lạ đối với nàng, đồng thời chợt đến một cách tự nhiên. Nàng biết mình đang ở trong một vị trí nguy hiểm chưa từng kinh nghiệm trong đời. Ngay cả những lúc trước khi làm tình với Mario, nàng cũng chưa từng có cảm giác rạo rực kỳ quái như thế này.

118

Nàng cảm thấy quyền lực mãnh liệt trong ánh mắt của hắn. Và trong giây phút, nàng tự động mở dây cột cổ áo ngủ và mở toang cổ áo ngủ, để tuột xuống sàn nhà. Cơ thể nàng nóng bỏng như đang lên cơn sốt. Trong khoé mắt, nàng có thể nhìn rõ miệng hắn đang mở ra, để lộ cặp răng nanh vàng khè của loài dã thú. Mắt hắn tiếp tục thôi miên….Rồi cơ thể nàng mềm nhủn, yểu nhược, vô lực. Nàng cảm thấy đau nhói bên cổ trái và hồn bắt đầu đê mê trôi vào cõi mù sương không biên giới không gian hoặc thời gian… Sáng hôm sau nàng thức dậy thì đã giữa trưa. Nàng cảm thấy khát nước kinh khủng. Cố trở dậy để đi vào nhà bếp tìm nước uống, Marlene cảm thấy toàn thân rũ rượi, uể oải. Uống nước xong, nàng nhìn ra cửa sổ. Mùa thu đã tàn úa ngoài kia. Vài chiếc lá khô rơi rụng đó đây, thong thả và lặng lẽ. Những gì đã xảy ra đêm qua chỉ còn lại vài nét mù mờ trong ký ức mù sương. Một cách máy móc, nàng đưa tay gãi vào vết ngứa bên cổ trái. Nàng cảm thấy ươn ướt ở đầu ngón tay. Nhìn xuống thì là màu máu đỏ sẫm… Marlene tự nhiên hiểu ra những gì đã xảy ra trong đời nàng những ngày gần đây. Vì một lý do kỳ bí nào đó, nàng đã đánh thức hồn ma của Dracula từ lúc phiêu du vào lâu đài bí mật ở vùng biên giới Lỗ Ma Ni, và đặt biệt là nàng đã làm tình với Mario trên chiếc giường cổ điển của công tước đêm đó. Theo nàng hiểu thì Ma Cà Rồng là loài bất tử, không chết được. Chúng sẽ tiếp tục sống mãi trong bóng tối nếu có dịp hút máu loài người hoặc tất cả sinh vật nào khác. Một điều chắc chắn là nàng đã bị ma cà rồng hút máu từ ít nhất hai đêm qua. Chuyện gì sẽ xảy ra cho đời nàng? Nàng hoang mang tự hỏi. Nàng sẽ thành một trong những nô lệ của Dracula hay nàng sẽ thoát khỏi vùng ảnh hưởng của loài ma khó tả? Theo những gì nàng nghiên cứu về loại ma cà rồng thì chúng có thể vượt không gian và thời gian nhiều thế kỷ và có thể hiện ra dưới dạng của bất cứ sinh vật nào. Nàng đang phải đương đầu với một đối thủ lợ hại và chưa biết có

toàn mạng hay không..Marlene có cảm tưởng rằng phải có một phương thức nào đó để trị Dracula…Nàng chỉ ước muốn như thế. Tương lai là một khoảng mù mịt không đầu mối. Nàng chưa hiểu cuộc tình với Mario sẽ đến đâu. Chỉ biết chàng chia tay vội vã và để nàng trở lại Montreal một mình, hoang mang trước một tương lai đầy gai gốc. Cuộc tình với Mario vẫn chưa ổn thỏa. Chương trình đại học đã bị trì hoãn nhiều tháng nay. Một nỗi ưu tư hiện tại là có thể nàng đang mang bầu. Nàng chưa biết phải đối phó ra sao với những vấn đề cấp bách.

oOo Hai hôm sau Marlene nhận được thư bảo đảm của Mario gửi từ Ý. Chàng xin lỗi đã để nàng về Montreal một mình, và nhất là chuyện chàng muốn nói: Chàng phải nghe lời gia đình để lấy vợ Ý. Nói vắn tắt, cuộc tình giữa chàng và Marlene phải cáo chung! Marlene lảo đảo không đứng vững. Nàng cố vịn lang cang để đi đến phòng khách và ngồi xuống sofa. Thế giới của nàng bỗng xụp đổ dưới chân. Từ nay nàng phải sống một mình với chiếc bào thai trong bụng… Nguyên một tháng sau đó, Marlene tiếp tục cúp cua ở đại học và cảm thấy buồn nản. Trời bắt đầu vào đông. Montreal vẫn lạnh như bao giờ. Marlene thấy ngao ngán khi nghĩ đến chuỗi ngày sắp tới. Tên bác sĩ quái gỡ không thấy trở lại làm quấy nhiễu nàng nữa. Cho đến một đêm tuyết phủ đầy trời. Cơn gió mùa đông gào thét từ phương Bắc, vượt qua đỉnh đồi Mont Royal thổi tấp vào ấp nhỏ của Marlene. Nàng đang nằm vật vã trên sofa, trùm chăn, cố tìm giấc ngủ muộn. Có tiếng ai đập cửa ngoài khung cửa kính. Nhìn ra đêm đen, Marlene có thể hình dung dạng một người đàn ông mặc áo mùa đông trùm kín từ đầu xuống khỏi vai in lên hậu cảnh màu xám nhạt. Tên gian ác đã trở lại! Marlene định chạy vào phòng ngủ hoặc nhà bếp để lẫn tránh nhưng quá trễ. Một làn khói xanh xám len

119

vào thành cửa sổ và bò xuống sàn nhà rồi tỏa ra khắp chốn. Chen lẫn trong làn khói ma quái là những hình bóng cổ quái khó định nghĩa hoặc mô tả được. Khi làn khói xanh xám tan đi thì tên bác sỹ gian ác đã hiện ra rõ rệt trước mặt Marlene với hai con sói trắng gầm gừ đứng hai bên. Mắt chúng đỏ ngầu, đói khát. Hắn tiến đến gần Marlene, đưa tay nâng cằm nàng lên, nhìn xuống mắt nàng. Sức thôi miên cố hữu làm toàn thân nàng mềm nhủn. Miệng hắn mở ra để lộ cặp răng nanh vàng khè của loài dã thú. Nàng nghe đau nhói bên cổ trái rồi nghe toàn thân rã rượi, hứng chịu dưới quyền lực của Dracula. Khi Marlene tỉnh dậy thì trời đã hừng sáng. Nàng cảm thấy mất nhiều sức lực. Nàng nghĩ đến chiếc bào thai trong bụng và hoang mang nghĩ ngợi đến tương lai. Tất cả đều là một khoảng tối mù. Tư nhiên nàng muốn chết! Có thể sự chết sẽ giải quyết được vấn đề? Nàng cũng không chắc. Trong tiềm thức của nàng, Marlene nhớ lờ mờ rằng, nếu bị ma cà rồng hút máu ba lần thì mình sẽ thành một ma cà rồng làm nô lệ cho tên đó suốt đời. Làm sao có thể tự giải thoát? Marlene đang tìm câu giải đáp.

oOo Vlad nhìn xuống hồ sơ bệnh nhân. Hắn đã biết nhiều về bệnh nhân này. Thật ra, hắn đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của người đàn bà trẻ. Vượt qua nhiều thử thách và nhiều giai đoạn thực hành kế quạch đã bày ra từ nhiều năm trước và có thể nói từ nhiều thế kỷ trước. Cuộc di dân bí mật bắt đầu năm năm trước. Sau khi bị tiết lộ và tiêu trừ ờ Luân Đôn, đám đệ tử trung thành đã phải giải quyết nhanh chóng kế hoạch di dân. Nói đúng hơn là mưu đồ để bảo tồn xương cốt còn lại để chờ ngày quật khởi. Montreal, Quebec là địa điểm thích hợp lúc bấy giờ. Bánh xe lịch sử bắt đầu quay nhanh từ đó. Đám đệ tử trung thành gom góp hết những gì cần thiết rồi đưa nhau xuống tàu vượt biển ra khơi. Tên đầu sỏ phải hối lộ đám cảnh sát địa phương để không phải qua

những trạm kiểm soát quan thuế và cảnh binh. Xong đâu đấy, cả bọn ra khơi. Cuộc hải trình trải qua nhiều ngày đêm song gió trên Đại Tây Dương. Thế nhưng cuối cùng đâu cũng vào đấy. Tổng cộng trên ba mươi chiếc hòm to tổ bố phải được đem lên bến tàu rồi sau đó thuyên chuyển vào con đường hầm bí mật dưới núi Mont Royal. Đám để tử lại phải thuê thêm nhiều dân địa phương để đục đẽo thêm hầm mộ bí mật để chất chứa xương cốt của “thầy”. Gần sáu tháng sau thì đâu đã vào đấy. Để đánh thức thầy thì phải cần một nạn nhân nào đó để cống hiến máu tươi. Vào một đêm thu lạnh lẽo trên con đường phố nỗi tiếng ở Montreal, một cô gái trẻ trở nên nạn nhân đầu tiên của master (thầy) Dracula. Vì quá trẻ, nàng đã chế luôn sau đó. Vlad được tiếp tế máu tươi trở nên mạnh mẽ hơn và bay trở về nơi cư ngụ bí mật dưới núi Mont Royal. Một tuần lễ sau đó, hắn tiếp tục tìm hút máu những nạn nhân vô tư trên những đường phố Montreal về đêm. Đến tuần lễ thứ ba thì hắn đã hoàn toàn hồi phục sinh lực bất tử của hắn. Từ đó, hắn trở thành Dr

120

Vlad của vùng Mont Royal. Và một ngày đẹp trời, hắn găp Marlene. Nàng mang vẻ đẹp bí hiểm của người tình thế kỷ! Mái tóc, làn môi và dáng dấp đi đứng đều giống y như người tình cố hữu, Elizabetha. Hắn đã tìm lại từ sau nhiều thế kỷ người tình bất tử. Và hắn biết rằng mình phải giữ lấy nàng! Hôm nay là lần thứ hai nàng trở lại phòng mạch. Những ký ức của nàng đã bị xoá hết từ nhiều tuần qua. Vlad biết rằng sau hôm nay, nàng sẽ thành một môn đồ trung thành và sẽ cống hiến cho hắn nguồn sinh lực. Hắn gọi tên bệnh nhân. Năm phút sau, nàng đã bước đến trước mặt hắn. Hắn ra dấu cho nàng vào phòng khám. Hắn cảm thấy có tiếng tim đập bên cạnh nhịp tim của người mẹ. Hắn ra dấu cho nàng nằm xuống chiếc băng. Hắn bắt đầu để ống nghe lên ngực khi nàng đã nằm xuống. Như đã định trước, hai nhịp tim đập. Hắn mỉm cười khoái trá. Thế có nghĩa hắn sẽ được hưởng gấp đôi nguồn sinh lực bây giờ. Hắn để tay xuống ngực nàng. Nhịp tim đập vẫn gấp đôi. Hắn mỉm cười khoái trá. Không ngờ hắn đã tìm ra nguồn sinh lực vô biên ở xứ Montreal này!. Hắn cúi xuống cổ của ngưòi con gái. Nhịp đập của tim vẫn còn rộn rực, hai tiếng vào một. Hắn cảm thấy rạo rực và một cách máy móc, hắn cắn vào cổ trái của người đàn bà trẻ. Nguồn sinh lực chảy tràn trề vào cơ thể hắn. Hắn nhìn xuống đôi bờ ngực trắng nõn của người đàn bà. Khi hắn rút ra ngoài cổ trái của người đàn bà thì nàng đã gục xuống một bên và đã sẵn sàng dâng hiến cuộc đời cho Dracula! … Marlene bước ra khỏi phòng mạch, lòng hoang mang. Những gì đã xảy ra vừa qua có vẻ mơ hồ không đầu mối. Nàng tiếp tục đi xuống giốc núi trở về chiếc ấp của mình. Đêm mênh mông không đầu mối. Marlene tự hỏi mình phải làm gì? Bị hắn cắn hai lần chắc nàng sẽ thành ma cà rồng. Nhưng những gì sẽ xảy ra cho đứa con nàng? Không có câu giải đáp ổn thỏa. Marlene cảm thấy đầu óc quay cuồng. …

Nàng không hiểu sao mình có thể trở về ấp an toàn. Nàng lảo đảo đi vào phòng ngủ và nằm vật xuống giường rồi lịm đi trong giấc ngủ mệt mỏi đầy mộng mỵ. Khi nàng tỉnh dậy thì thấy xung quanh tối đen. Thì ra hôm qua nàng quên vặn đèn phòng ngủ. Nàng cảm thấy ngứa ngáy bên cổ trái. Đưa tay sờ thì càm thấy mấy ngón tay mình ướt át. Nàng hiểu ra rằng đã bị hắn hút máu lần nữa. Có lẽ nàng sẽ trở thành nô lệ suốt đời cho hắn. Ý nghĩ tự sát lại hiện lên trong đầu óc của nàng. Điều tiên quyết là nàng phải ghi nhận những kinh nghiệm của mấy tháng qua vào nhật ký và cất dấu kỹ càng để gia đình nàng hiểu được những gì vừa xảy ra trong đời nàng. Luôn hai tuần sau đó, Marlene đóng cửa phòng viết nhật ký. Nàng cảm thấy bào thai trong bụng lớn nhanh và có nhiều biến đổi trong cơ thể của mình. Nàng quyết định sẽ không để cho hắn hút máu lần nữa. Trong tiềm thức của Marlene, một ý nghĩ chợt loé lên. Nàng nghĩ đến chiếc thánh giá bằng vàng mà mẹ nàng tặng nàng khi nàng mới lên một tuổi. Nàng lục lọi trong hộp nữ trang thì tìm ra chiếc thánh giá kỷ niệm nằm dưới đáy hộp. Nàng vội vã đeo nó vào cổ. Ngay lúc đó, có tiếng ai đập cửa ngoài cửa sổ. Nhìn ra ngoài thì trời đang bão tuyết. Tuyết bay trắng xóa phủ khắp bầu trời. Giữa khoảng trắng mù mịt đó, một bóng dáng người đàn ông cao ráo mặc toàn đen đứng ngay ngoài cửa sổ. Hắn vừa trở lại để hút máu Marlene. Nàng vân vê chiếc thánh giá vàng trong ngực áo. Như những lần trước, hắn chợt biến thành một làn khói màu

121

xanh xám rồi len thành dưới cửa sổ để đột nhập vào trong nhà. Vài giây sau đó, tự nhiên hắn che mặt rồi thối lui vài bước. Mặt hắn trở nên tái nhợt dưới ánh đèn tù mù. Rồi nhanh như cắt, hắn nhảy tung qua cửa sổ như con thú bị thương. Marlene nhìn theo và có thể nhìn rõ bóng một con chó sói màu trắng bạc biến vào vùng bão tuyết ngoài kia. Khi Marlene hoàn hồn trở lại thì đêm đã gần về sáng. Nàng vừa thoát khỏi lần hút máu vừa rồi. Thế nhưng tính ra, nàng đã bị cắn ba lần. Theo sự hiểu biết của nàng thì nàng sẽ trở thành nô lệ cho tên bác sỹ kì dị, và sẽ trở thành một loài ma cà rồng hút máu để có thể tiếp tục cuộc sống bất tử trong thế giới đen thẫm dưới tầng địa ngục. Marlene không muốn cuộc đời đó. Một lối thoát cuối cùng chỉ là từ bỏ thế gian này. Marlene đã viết nhật ký từ trên hai tuần nay. Nàng sẽ gói ghém những dòng tâm sự đó trong quyển nhật ký. Và trước khi từ giã cuộc đời này, Marlene muốn cất giấu nhật ký của nàng vào hộp và sẽ giấu kín trong một chỗ bí

hiểm. Thế nhưng, chiếc ấp quá nhỏ. Nàng biết rồi cũng có lúc gia đình nàng khám phá ra… Một tháng sau, Marlene chuẩn bị tất cả những gì phải làm trước khi ra đi: chiếc dây nịt da để thắt cổ. Tờ viết từ tạ cuối cùng để trên sofa. Nàng không muốn đứa con tương lai sẽ là nô lệ cho loài quỉ dữ. Và nàng cũng không muốn chính mình làm nô lệ muôn đời cho tên bác sỹ kỳ dị chuyên hút máu người. … Không lâu sau đó, Marlene thực hành những dự tính đã quyết định từ nhiều tháng nay. Đâu đó, trong khoảng tối mịt mù, nàng nhìn rõ những hình bóng gần nhất trong cuộc đời bay vụt theo cơn trốt thời gian và không gian diễn ra trong tiềm thức. Trong một thoáng, hồn nàng lìa khỏi xác. Huỳnh Kim Khanh 2015.08.04

122

Lý Văn Thanh

Kính Chị Giáp Tiên, Cám ơn Chị đã hỏi thăm. Số là, mấy hôm trong dịp Lễ Giáng Sinh, Bác

Nguyễn Trọng Quýnh và Phu Nhân có nhã ý mời tất cả các bạn OC ở Atlanta, vùng phụ cận và một số bạn ở phương xa, mãi tận Miền Bắc như Bác Nguyễn Quang Lãm, Bác Nguyễn Văn Nhàn, Bác Thái Văn Bình và Quý Phu Nhân của các Bác ấy cùng tham dự Tiệc Giáng Sinh. Trong lời mở đầu nhập tiệc, Bác Quýnh còn cho biết thêm, nay cũng là 44th Anniversary cuộc hôn nhân của Bác Quýnh và Phu Nhân ; chúng tôi cùng ồ lên (Bác Quýnh khiến chúng tôi làm người " đoản ", ngày vui lớn của bạn mà không có quà mừng .)

Cuộc vui kéo dài liên tục mấy ngày, những người bạn trẻ ngày xưa, đã chớm già ngày nay, ôn chuyện cũ. Những câu chuyện dàn trải như những thước phim sống động về quãng đời đáng yêu nhất của một đời người...

Trong những câu chuyện, đã thấy được nét tươi trẻ, lửa mê say trong ánh mắt của các đôi mắt có tuổi. Tôi vẫn tự hỏi, phải chăng khi chúng ta vui vẻ nhắc lại kỷ niệm ngày tháng cũ, thì sự phấn khích đã kích thích, sản sinh ra những "chemical" giúp những tế bào được tươi trẻ lại, khiến chúng ta có thể tăng thêm tuổi thọ. Có lẽ đây là lý do mà những Hội Đoàn, Đoàn Thể thường tổ chức họp mặt, để những tham dự viên được hưởng hết cái lợi Trời cho đó.

123

Chúng tôi rất yêu thích căn gác cao sau nhà Bác Quýnh; từ đây, cái nhìn bao quát mặt hồ rộng, những " hard wood " như cây sồi...vươn mình sừng sững trong bầu trời xanh vào những lúc nắng đẹp, hoặc những lúc xám xịt của bầu trời âm u đầy hơi nước. Có ngồi trong không khí tĩnh lặng của chiều tà, ngắm ánh dương rải những tia sáng yếu ớt xuống mặt hồ, hoặc có đêm trăng tỏ nhìn ánh sáng bạc lung linh trên mặt hồ lặng sóng, những làn gió thoảng nhẹ, như bàn tay người tình xưa, mơn man trên những đôi má có mòi nhăn nheo, chứng tích vết hằn cuộc đời và năm tháng, mới hiểu được vì sao những người bạn đến đây đã yêu thích căn gác này đến thế; đến nổi người bạn Thái VănBình đã cười nói, sau này mỗi lần, như "con chim trốn tuyết" từ Miền Bắc xuôi Nam, sẽ không ngại tốn thêm chút tiền xăng, chạy vòng, ghé qua Atlanta để hưởng cái thú ngồi nhâm nhi café trong buổi sớm mai hoặc khề khà chiêu từng ngụm bia, rượu với bằng hữu trong đêm đã quá khuya...

Khi biết Bác Bình đã từng sống ở Hòa Lan, tôi nhắc đến một người bạn của tôi đã định cư bên đó từ nhiều năm trước, Thái Tăng An. Cuộc đời có những cái duyên, mà sự kết nối thật huyền nhiệm, khó giải thích, Bác Bình khi từ thành phố đang sống Zwolle, lên Tỉnh Ultrecht để ghi danh nhập học ở Đại Học NAVSET ( Noordelijke Academy Voor Scheepvaart En Technik) ở thành phố Delfzijl cách biên giới West Germany 45 phút lái xe, đã ở lại nhà An.

Thời gian đầu ở Hòa Lan, An không muốn nhận trơ cấp của chính phủ, nên đi xin việc ở một nhà in. An chấp nhận những công việc bình thường như làm thợ sắp chữ, hoặc chạy chuyện vặt...Khi biết An đã tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật ở Việt Nam và là một họa sĩ, ông chủ không thể nhận An làm những công việc tạp nham, bởi Luật Lao Động ở Hòa Lan, người chủ phải trả lương cho công nhân đúng với khả năng của họ. Thay vì nhận An vào làm việc, người chủ tốt bụng này gọi Phòng Lao Động trình bày trường hợp của An, Phòng Lao động Hòa Lan đồng ý trợ cấp cho An khoản tiền cần thiết để sắm sửa những vật dụng thiết yếu cho một họa sĩ, đồng thời cung cấp cho An phương tiện sinh sống trong thời gian làm việc, với điều kiện mỗi một năm cần có hai cuộc triển lãm. Sáu tháng sau, An mở cuộc triển lãm tranh. Đôi vợ chồng người Pháp, đã từng sống ở Việt Nam, mua hai bức tranh lụa trong số những tranh lụa và tranh sơn dầu của An, khoảng 1500. 00 dollars. Sau cuộc triển lãm, An ra Sở Thuế để khai thuế lợi tức. Anh Trưởng Sở Thuế khi biết lợi tức An chỉ 1500 dollars, anh ta bảo, anh thành thật

124

khai báo, rất tốt, nhưng lợi tức nhỏ nhoi như thế, tôi làm giấy tờ mât công quá, thôi, anh hãy về đi.

Bác Lãm, Bác Quýnh, Bác Nhàn...chúng tôi lan man những câu chuyện xa lắc,

có những câu chuyện đã nhiều lần kể lại trong những bàn tiệc trước, vẫn được kể lại như mới, những chuyện tình có kết cục có hậu, trở nên bách niên giai lão, có những chuyện tình chung cục không tròn...

Cảnh trí dù đẹp đến đâu, cũng không toát lên được hết vẻ yêu kiều của nó, nếu không được thổi hồn vào, đó là cái Tình của "Chủ Nhân", như một người bạn cười đùa bảo, đó là chất keo gắn kết cái Tình OCS. Sự vui vẻ , cởi mở , hết lòng săn sóc những người bạn chiến đấu xưa của chồng, của Phu Nhân Bác Nguyễn Trọng Quýnh, khiến chúng tôi rất cảm động và biết ơn, cho chúng tôi cảm giác là người thân trong gia đình…

Cuộc hội tụ nào cũng phải đến lúc chia tay, chúng tôi rời trong bùi ngùi, hẹn sẽ nhiều dịp trở lại Nguyễn Gia Trang, cùng với Chủ Nhân hàn huyên thế sự...

Vài hàng xin tường trình cùng Chị Giáp Tiên, các Bác OC và Quý Phu Nhân. Thân mến, Lý Văn Thanh

125

Huyền thoại trồng cây

Hai Khiêm

Các bạn cho rằng vợ chồng Hai lúa trồng cây mát tay. Xin được cám ơn, nhưng trồng cây có cái huyền thoại của nó. Đó là hay không bằng hên. Thí dụ trong mùa bưởi năm nay 2015, chúng tôi đã thu hoạch trên 200 trái, tổng cộng hai cây, trung bình 4 lbs mỗi trái.

Nhìn lại năm 2014, thu hoạch 25 trái trên một cây. Cây kế bên không trái. Trái lại nhỏ khoảng 2 lbs. Xin xem ảnh ba lần thu hoạch trong năm 2015. Lần thứ nhất :

126

Lần thứ hai:

127

Lần thứ ba:

Lúc nầy, trên cây còn khoảng 25 trái. Thấy mà ham phải không các bạn. Tại sao ?

Dec 2014, cắt tất cả cành khô, cành èo ọt. Feb 2015, bón phân 13-13-13 ( 2 Lbs ) March 2015, đổ một xe truck mulch lấy ở City Trash Center xuống gốc hai cây bưởi, mục đich là

làm chỗ vựa mulch. Rồi xoay qua cây bưởi không trái nói dọa : “không trái sẽ chặt bỏ.” June, move đất mulch vào chậu thì phát hiện rễ bưởi ra đầy chỗ mulch đó. A ha, càng nhiều rễ thì

có nhiều miệng ăn. Lúc nầy hai cây bưởi đã có trái non. Chỉ có thế mà kết quả thật ngoạn mục như trên. Bác Thanh “Dê” hỏi bưởi có ngọt không ? Doc Vàn trả lời đầy tự tin … Nay tôi xin lỗi Quý Bà. Bưởi non thì ngọt, bưởi già lại chua. Hai Khiêm

128

Bây giờ thì xin nhắc lại một ít sử lược về xứ An Nam Mít. Là một tiểu quốc nằm về phía Nam Trung Hoa, vì nhỏ bé nên thường xuyên bị các triều thần Bắc phương mang quân mã tràn sang xâm lấn và đã có thời gian bị cai trị dài cả ngàn năm. Sau khi đánh đuổi được giặc Hoa thì An Nam Mít lại rơi vào vòng đô hộ của bọn mắt xanh mũi lõ, Tây Hầu Phú-Lãng-Xa, cách xa vạn dặm cũng không quản đường xa, mang quân binh đến thống trị. Lại thêm một thế kỷ máu đổ đầu rơi. Mãi cho đến 1954 AD ngoại bang mới chịu cuốn gói rút lui về xứ. Tưởng là thái bình an lạc đã tới nhưng hỡi ơi, âu cũng là vận nước, An Nam Mít lại lâm vào nội chiến, nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn. Dòng Bến Hải chia đôi đất nước. Miền Bắc cai trị bởi Hồ Ly Ác Đế, âm mưu, xảo quyệt, lúc nào cũng lén lút xua quân quấy nhiễu với tham vọng chiếm cứ hết miền Nam. Tình trạng chính trị, xã hội phía Nam thì cũng lộn xộn, bầy nhầy như tương bần. Ngô Diệm Tông Tông nắm ngôi được gần thập niên thì sụp đổ. Sử gia cho rằng sự suy thoái của triều Ngô một phần là do việc lộng hành quá đáng của

người em gái với hỗn danh là Cố Nhu Bà Bà, một phần có thể vì Tông Tông không chịu cho Kỳ Huê Đại Quốc nhúng tay vào nội bộ, để đến cuối cùng hai anh em nhà Ngô bị thảm sát bởi bàn tay lông lá của Ngũ Giác Đài Bang. Tiếp sau đó là cả chục lần thay ngôi đổi vị rồi quyền lực rơi vào tay Cao Kỳ Công Tử. Là lãnh tướng trẻ tuổi, thích màu mè (Cao Kỳ thường xuất hiện trong bộ chiến bào mầu cam lòe loẹt, phóng thiết mã chạy vòng vòng trong phố dzượt le thiên hạ). Y là kẻ có nhiệt huyết nhưng lại thiếu kinh nghiệm trên chính trường nên thường gây ra nhiều hiềm khích nội bộ, nhất là với đám quần hào lão thành, rảnh rỗi không biết làm gì chỉ ngồi uống quý tửu Ách-Ô (XO) và mưu chuyện đảo chánh cho đỡ buồn. Lại thêm một vài màn chỉnh lý, thay đổi hiến chương trước khi Thiệu Nguyên Đa Nhiệm chiếm ngôi. Với ngón chưởng Độc-Diễn-Nhất-Ngôi tài tình, Thiệu Nguyên khăng khăng "hy sinh thêm vài nhiệm kỳ" và cù cưa giữ được ngai vàng cho đến niên kỷ 1975 AD mới ngã đổ.

Phong Nhĩ Dị Nhân

129

Một Ngày Hè Tại Bình Ba Cốc Đối với Tôn Ngộ Không (tục danh là Tôn Lèo) cũng như những trai tráng cùng thế hệ thì thời gian dưới triều Thiệu Nguyên đánh dấu một biến chuyển lớn lao. Nếu không mắc bệnh "dính quân chột" (trốn quân dịch) thì ai cũng được mời đi tòng quân giúp nước. Kẻ trấn đóng phương Nam người cưỡi sóng ngăn chặn đám rợ nô miệt Bắc. Riêng phần Ngộ Không được chiếu chỉ của vua đẩy về Bình Ba Cốc, trên một hòn đảo nhỏ chỉ cách Cam Ranh thị xã khoảng vài chục dặm, nhưng nếu di chuyển bằng đường biển thì cũng phải mất cả giờ. Trước khi nói về Bình Ba thì xin đề cập qua về khung cảnh của Cam-Ranh thị xã lúc bấy giờ. Sau khi Ngô Tông Tông mất ngôi, Tây Hầu (cả hai loại Hắc và Bạch) từ xứ Kỳ Huê Đại Quốc được mời sang với vai trò quân sư quạt mo, giúp đỡ An Nam Mít trong việc chống trả sự bành trướng của đám khỉ đít đỏ Bắc phương. Cam Ranh là một trong những nơi qui tụ đông đảo của đám hảo hán Hắc, Bạch Tây Hầu và thị xã nhờ Mỹ kim trở thành phồn thịnh vô cùng. Dọc theo Cửu Lộ ( Cây số 9) tửu quán mọc lên như nấm, đường sá lúc nào cũng tấp nập, đông đảo. Đèn màu lờ mờ, âm nhạc "sai -cơ-đê- lích" (psychedelic) dậm dật suốt đêm thâu. Tửu quán nào thì cũng đầy mùi yên thảo Ma-ri-zu-a-na (Marijuana). Tiếng cười nói ồn ào của khách tìm hoa từ trong các quán vọng ra và những bóng đen to lớn của vài tên Hắc Hầu (còn gọi là Mỹ Mun) lảo đảo trong đêm khuya tạo cho Cam Ranh thị xã một không khí vô cùng kỳ bí. . . Cách xa chốn vui chơi phồn hoa Cửu Lộ chỉ vài chục phút đường chim bay là Bình Ba Cốc, nơi ẩn thân của Đông Tà Tiền Bối và một đám đệ tử đa số thuộc một trong hai trường phái võ lâm: Ô-Xi Niu Pọt và Trang Nha Đà Cấu ( Nha Trang Cầu Đá). Tuy xuất thân từ hai võ phái khác

nhau, đám võ sinh chung sống trong tình huynh đệ thuận hòa. Nếu xếp theo thứ tự “đệ tử ruột của thầy” thì người đáng đề cập nhất trong đám Bình Ba võ hiệp là Trúc Thư Học Sĩ. Thật là kẻ văn võ kiêm toàn, ngoài quyền chưởng cao siêu Trúc Thư còn có một vốn liếng văn chương thi phú ít ai bì kịp. Nói về tửu lượng thì cũng chẳng ai dám thách thức, ngay cả Cử Sư Ống Cống (lão tiền bối trong bang Trang Nha, được mệnh danh Ống Cống vì có biệt tài tu nguyên vò rượu thẳng từ miệng vào bao tử mà không cần nghỉ lấy hơi ) cũng còn bái phục. Thứ hai là Ngọc Thắng Quái Hầu. Sư tổ của món võ độc hiểm Kỳ Xạ. Ngọc Thắng "đì vê lốp" được ngón chưởng khí kỳ bí này qua một thói quen hàng ngày. Sinh trưởng ở miền Bắc, hồi còn là nhi đồng Ngọc Thắng thường bị bà vú em đè ra tắm mỗi ngày. Mùa đông phương Bắc thì lạnh thấu xương mà cứ bị giội nước mưa từ đầu đến chân cho nên khi trưởng thành y đâm ra rất ghét việc tắm rửa. Để giữ cho cơ thể sạch sẽ, trong những khi rảnh rỗi Ngọc Thắng thường vén áo làm một đường "tắm bún", tức là kỳ khô trên bụng cho đến khi nào ghét đóng lại như cọng bún thì vo thành một viên nhỏ rồi búng vào trong không gian. Thói quen búng ghét lâu ngày trở thành chính xác và từ đó đẻ ra môn Kỳ Xạ vô cùng lợi hại. Thứ ba là Định Nguyên Tăng Gồ. Như đã đề cập trước đây Định Nguyên là người duy nhất trong đám võ sinh bỏ ra không biết bao công lao thì giờ cố luyện cho bằng được ngón chưởng lực Tăng Gồ. Hàng đêm khi mọi người đã gần yên giấc, dưới ánh đèn cầy leo lét Định Nguyên hai tay đưa ra phía trước như đang ôm một thân thể kiều diễm, vô hình, bước tới bước lui, miệng lẩm bẩm như mất trí : một, hai, ba, bốn,. . . một, hai, ba, bốn. . . Nhiều lúc tiếng động cũng làm mọi người khó ngủ. Ngọc Thắng hay cằn nhằn,

130

than phiền : “Tập cái con mẹ gì suốt đêm vậy, làm ơn im cho anh em ngủ mai còn có sức đi tuần”. Chắc hẳn là không thuộc loại người có khiếu cho món chưởng Tăng Gồ nên đã bao nhiêu tháng khổ luyện Định Nguyên vẫn bị sư phụ chê trách là : “Ta không biết đệ tử học bao lâu rồi mà giờ này bước đi vẫn lạng quạng như mấy thằng đẩy xe bò trong chợ Ba Ngòi. . .” Thứ tư là Nhất Cư Kiệt Khẩu. Một trong những hảo hán với chủ trương mồm miệng đỡ tay chân. Mà quả thật với tài mồm nhanh miệng giỏi Nhất Cư được sư phụ giao phó cho vấn đề đại diện giao tiếp ngoại bộ, nhất là với đám Tây Hầu của Kỳ Huê Đại Quốc. Mặc dầu chưa ra khỏi cái đất An-Nam-Mít và chẳng phải là người tinh thông ngoại ngữ nhưng không hiểu sao Nhất Cư vẫn giao thiệp với đám Tây Hầu một cách ngon lành, bằng chứng y lôi về được cả đống nệm, tủ, giường sắt, mang xuống làng chài bán lấy tiền rủ bằng hữu chè chén say sưa.

oOo

Mặt trời đã bắt đầu lò mò bò lên khỏi đường chân trời phía Đông nhưng Bình Ba Cốc vẫn còn lịm trong cơn mê ngủ. Tiếng gà gáy trong làng chài rộn rã như muốn đánh thức hết cả mọi người trên hòn đảo nhỏ. Có bóng dáng gầy gò lảo đảo của Đông Tà sư phụ trên con dốc đưa vào võ đường, hình như sư phụ vẫn chưa qua khỏi cơn xỉn, sau một đêm tiệc tùng với nhóm Trang Nha Lão Bá.

Đứng trước đám đệ tử tụ tập đầy đủ trong võ đường Đông Tà ban lệnh. - Này các đệ tử, hôm nay ta được tin là có một số quần hồng trong bang gõ đầu trẻ từ Trang Nha huyện xa xôi có thiện cảm đến thăm Bình Ba Cốc. Họ sẽ ở qua đêm, rạng đông mới về. Ta muốn các đệ tử chuẩn bị vấn đề ẩm thực và nơi ăn chỗ ngủ chu đáo cho khách vì chẳng mấy dịp có người lạ viếng thăm. Đừng để mang tiếng là cái bang Hải Lực Bình Ba cà chớn, không biết ga-lăng với phụ nữ. Công việc thì chia cắt như thế này: Nhất Cư miệng lưỡi giỏi nên đem thuyền đi đón khách. Trúc Thư và đám còn lại thì huy động bọn lâu la, lo vấn đề ăn uống và thu dọn trang thất cho gọn ghẽ. Vừa ban lệnh xong thì Đông Tà thoắt một cái khinh công thẳng về tư thất, hình như sợ hiền thê cằn nhằn vì đợi lâu mà chưa thấy về dùng điểm tâm. Được trách nhiệm mang ghe đi đón khách Nhất Cư rất là mừng rỡ vì biết mình sẽ là người đầu tiên gặp đám má hồng, tha hồ mà lựa chọn. Nhất Cư ra lệnh đi kêu tên trưởng ghe, một mặt trở về nội thất thay y phục chỉnh tề rồi tà tà xuống bến. Đang ngồi đợi thì thấy một bóng dáng to lớn chạy lúp xúp xuống bến thuyền. Nhìn kỹ thì ra tên Bạch Hầu Tuyên Úy Pít-Tờ Cờ-Rít-Chi-An-Sân ( Peter Christiansen). Vì họ của y khó phát âm nên mấy bô lão dưới làng chài cứ gọi y là “Cứt-trong-sân” cho dễ. Chắc hôm qua xuống làng thuyết giảng sáng nay mới tìm phương tiện trở về đất liền. Nhất Cư vồn vã xổ ra một tràng thổ ngữ tả-pí-lù vừa Ăng-Lê vừa An-Nam-Mít.

- Ai si iu (I see you) rõ-ràng. Pít-Tờ Tuyên Úy ăn mắm tôm trên đất An-Nam lâu ngày rồi nên muốn nói gì y cũng hiểu. Sau vài câu qua lại Nhất Cư bằng lòng cho Pít-Tờ theo ghe về nội địa. Chỉ một lúc sau thì thấy tên trưởng ghe, quần xà-lỏn, dép Nhật lật đật chạy xuống. Tưởng là bị gọi đi chở Pít-Tờ Tuyên Úy

131

qua bờ, y có vẻ không bằng lòng, vừa tháo dây vừa càm ràm. - Đ. M. ở dưới làng mà không chịu quá giang ghe chài vô bờ mà lên đây làm phiền mọi người. Vừa nói xong thì nghe thấy Pít Tờ Tuyên Úy trả lời. - Trời ơi, thấy mấy huynh qua bển thì xin đi ké chớ có gì mà chửi bần tăng dzậỵ Thằng trưởng ghe giật mình vì nó không ngờ tay Bạch Hầu này lại hiểu tiếng An-Nam-Mít cỡ ấy. Từ đó nó lặng thinh, ôm tay lái nhắm Cam-Ranh trực chỉ. Thằng trưởng ghe đâu có biết dưới lớp áo tu hành Pít-Tờ còn là một cao thủ của bang Ngũ Giác Đài được phái đến thăm dò tình hình quân binh của bọn gian tặc Bắc phương. Chẳng mấy chốc mà tới bờ bên kia, đằng xa đã thấy đám quần hồng thấp thoáng đứng đợi trên bến. Có lẽ lâu ngày trên đảo không thường gặp phái nữ nên khi thấy đám nữ hầu xinh xắn, dễ thương Nhất Cư vừa nuốt nước bọt ừng ực vừa lùng bùng trong miệng: “Ố là là, bố già con khỉ... thế này thì quả là trúng mối rồi...” Sau khi cột ghe đón khách xuống thuyền Nhất Cư vồn vã mở đầu câu chuyện. - Chẳng mấy khi được mấy mỹ nương quá bộ đến thăm Độc Cốc. Thật là hân hạnh vô vàn. Có tiếng nhỏ nhẹ. - Ấy sao lại cứ gọi mỹ nhân cho khách sáo xin xưng hô là huynh, muội cho thân tình. Không khí thật vui vẻ đến nỗi Pít-Tờ cũng muốn quay đầu trở lại đảo, nhưng thấy không tiện y đành hậm hực chào từ biệt, leo lên bờ vẫy một chiếc thổ mộ thẳng đường về hướng Nam. Nghe đâu ngày mai y sẽ cỡi thiết điểu bay hội kiến sư phụ, thu nhập thêm vài đòn chưởng mới. Thằng trưởng ghe nhổ neo rời bến, một tay điều khiển động cơ, chân thì gác cao, khoèo vào bánh lái phía đuôi. Kiểu lái này có tên là “chó đái”,

thường thì Nhất Cư chẳng bận tâm tới vấn đề kỹ thuật của bọn đàn em nhưng lần này tên trưởng ghe lại mặc quần xà-lỏn ống rộng, phía trong không nai nịt kỹ càng nên giữa đám quần hồng cảnh thế không được đẹp mắt. Nhất Cư bèn đi lại bên cạnh tên trưởng ghe, móc hầu bao lấy ra vài hào, kín đáo dúi vào tay y và thì thầm. “Mi lấy tiền này về mua một cái sìa -líp Dzốc-Kỳ (Jockey) mà mặc chứ cứ phô trương hai cái quả chôm chôm và cây trượng thần đen ngòm giữa chốn thanh thiên bạch nhật như thế này coi không đặng.” Thằng em bẽn lẽn bỏ chân xuống, nhường tay lái cho Nhất Cư, còn y thì lui về phía sau dùng tay điều khiển bánh lái. Trong khi ấy trên đảo đám Trúc Thư lính quýnh lo chuyện ăn ngủ cho khách. Mới kiểm điểm lại thì ngoài mấy khẩu phần ra-sông-xê của bọn Tây Hầu do Nhất Cư giao thiệp thu nhập được và một vài thùng gạo sấy thì lương thực chẳng còn gì để đãi khách. Trúc Thư vấn kế. - Các huynh tính thế nào? Nếu sư-phụ cho biết sớm thì mình còn đủ thời gian đá xuống biển vài thùng kiếm ít tiền đi chợ. Bây giờ thì trễ cả rồi. Ngày hôm qua sóng lớn bọn dân chài lại không ra biển, mình có chặn ghe lại xin cá thì cũng chẳng có gì. Định Nguyên giúp ý. - Hay là cứ sai mấy thằng ẩm thực xuống làng xin vài con mực, được món gì hay món đó huynh ạ. Ngọc Thắng đề nghị - Mực thì cũng được nhưng đám nữ hầu đâu phải là dân nhậu nhẹt. Theo đệ nếu kẹt quá thì. . . (vừa nói y vừa liếc nhìn con hắc khuyển của Trúc Thư đang chạy lăng quăng trong sân). . . Nói tụi ẩm thực nấu cho ngon rồi mình bảo là món thịt dê nấu giả cầy thì có ai nghi ngờ. Tội nghiệp con khuyển không hiểu ất giáp ra sao, thấy được chú ý lại tưởng được cho ăn vẫy đuôi chạy tới chứ không biết là sắp bị ăn tới nơi.

132

Trúc Thư thở dài nhưng rồi cũng xiêu lòng. - Bảo tụi nó mang ra xa mà làm chứ dân giả biết được là mất mặt anh hùng. Thời gian qua mau, gần Ngọ thì thấy ghe Nhất Cư xăm xăm tiến vào. Bá quan đầy đủ trên bến để đón mừng khách quí. Sau khi lên bờ đám quần hồng được mời dạo một vòng thắng cảnh.

Qua hòn non bộ của Đông Tà Tiền Bối rồi đến chỗ nuôi chim chóc.Đủ cả chẳng thiếu gì: hoàng yến, họa mi, công, phụng. . . Đám nữ hầu không ngớt miệng khen : “Nhìn mấy con công ngủ sao mà dễ thương thế!!!” Cũng có ả nữ phán là : “Các huynh may mắn vô cùng, được ở trên hòn đảo thật thơ mộng, biển trời xanh mơ, thảo mộc muôn mầu, tuyệt vời như thế này ai mà còn muốn thuyên chuyển đi chốn khác.” Nhất Cư mau mắn đáp lời : “Các hiền muội nói đúng lắm thay. Ít ai có diễm phúc đặt chân lên độc cốc thần tiên này.” Nghe Nhất Cư nói đám võ sinh nhìn nhau tủm tỉm cười. Không hổ danh là Kiệt Khẩu, miệng lưỡi chẳng ai bì kịp. Ai cũng biết Nhất Cư là kẻ thường xuyên than thở: Bình Ba cốc quá u buồn, được dịp là y quá giang ghe chài qua Cửu Lộ tìm kiếm Nhiệt Thủy Lục Bà (tên thật là Bà Sáu Nước Nóng) hay Nhất Chỉ Ngũ Cô (bí danh Chị Năm Cụt) để giải buồn qua đêm. Nếu không thì y cũng lùng cho ra Hách Nôi Tam Hầu Nữ (con Ba hôi nách), mặc dầu cô ả lúc nào cũng có một tí ám khí bao tỏa quanh người nhưng nhan sắc thì thật mặn mà. Khách tìm hoa nào cũng nói về

cái vết xâm trên đùi của thị : một mũi tên xuyên qua con tim rướm máu còn được phụ đề với hai câu bất hủ; “Hận kẻ bạc tình. Thù người đ... chạy.” Quanh đi quẩn lại mà trời cũng đã xế bóng, mọi người trở về phạn xá dùng cơm chiều. Phải khâm phục bọn lâu la ẩm thực, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng cũng tìm được một ít rau sam mọc hoang trên núi để nấu canh, một ít mực xào và độc đáo nhất là món thịt “dê” nấu giả cầy thơm phức làm đám thượng khách luôn miệng tấm tắc khen: “Các huynh đa tài như thế thì đấng má hồng này nào ai dám qua mặt.” Cơm rượu ê hề, tiếng cười vui rộn rã. Hai bên nam nữ đua nhau góp chuyện, thi đố thơ văn. Trúc Thư được dịp nhả ngọc phun châu, xuất khẩu ngay vài vần thơ tặng Mộng Thi Kỳ Nữ, là bóng hồng xinh đẹp nhất nhì trong đám mỹ nhân.

Mộng Thi hay đúng Thị Mông Văn hay thơ giỏi má hồng mấy ai. Thơ tình nàng thả lai-rai. Hầu nam vớ đọc củ khoai cứng đờ. Định Nguyên Tăng Gồ thì miệng lẩm bẩm như trong cơn hôn mê... một...hai...ba...bốn, con mắt láo liên rình rập xem có cơ hội làm một vài chưởng Tăng Gồ với bóng hồng đêm nay. Nhất Cư thì vừa nuốt nước miếng vừa không ngừng tán tỉnh gió mây. Chỉ có Ngọc Thắng là trầm ngâm trong một góc, nhưng ai cũng để mắt dòm chừng, chỉ sợ hắn quen tay vén áo làm một đường Kỳ-Xạ thì bể mặt các đấng nam nhi trên đảo. Rượu cạn tiệc tàn, bầu trời đen dần và đã thấy thấp thoáng bóng trăng sau ngọn núi cao. Đông Tà Tiền Bối đề nghị đưa quý khách ra bãi biển ngắm trăng, còn Ngộ Không được giao phó

133

nhiệm vụ chỉ huy bọn lâu la dọn dẹp và lo chỗ nghỉ ngơi cho nữ khách. Cũng mất cả giờ mới hoàn thành nhiệm vụ sư phụ giao phó. Mọi người đã rời phạn xá đi về hướng biển. Bây giờ Ngộ Không mới có dịp tản bộ ra bãi. Hàng ngàn vì sao rơi rụng rải rác trên mặt biển đen ngòm, lấp lánh như những chuỗi minh châu vô giá. Trong cái khung cảnh tĩnh mặc tuyệt vời ấy Ngộ Không bỗng nghe thấy tiếng rù rì từ sau vách đá. - Ơ kìa sao đại huynh lại nắm tay muội như vậy. Lỡ kẻ nào nhìn thấy có phải là không ổn không? Đúng là tiếng của Đại Nhũ Cô Nương, một trong những bông hoa "dầy cơm" nhất trong bang gõ đầu trẻ. Ngay cả sư phụ Đông Tà cũng phải công nhận là cô ả có cái vóc dáng “chan chứa tình người”. - Hiền muội cứ lo chuyện con bò trắng răng. Trời tối thui như thế này thì ai mà thấy. Vả lại huynh cũng chỉ muốn cầm tay coi bói cho hiền muội chứ có gian ý gì mà muội quýnh quáng lên như dzậy?

Rõ ràng là tiếng nói của Nhất Cư Kiệt Khẩu. Quả là kẻ có bản lãnh siêu cường, quay qua quay lại mà hắn đã câu được một con mồi để dẫn ra bờ biển tư tình. Đại Nhũ Cô Nương cũng không kém cỏi trong vấn đề đối đáp. - Hiền huynh vừa nói là tối thui thì làm sao nhìn thấy chỉ tay mà đòi xem bói?

- Ồ, lẩn thẩn quá. Hiền muội có thấy thày bói giỏi toàn là mấy thằng cha mù mắt hay không?

- Chịu thua huynh rồi đó. Đây, thì xem thử số mạng của muội thế nào. - … - Độc nhất vô nhị! Độc nhất vô nhị! "Ai si ít rõ- ràng". Đường chỉ tay trái của muội có hình con rùa, bên phải mang hình con ngựa, tiếng Hán là Qui Mã hay nói lái lại là Qua Mỹ. Như vậy thì chẳng chóng thì chầy muội cũng xuất ngoại qua xứ Kỳ Huê Đại Quốc. Mà này, lạ chưa? nếu đọc từ tay phải qua trái thì là Mã Qui... tức là Mỹ Qua. Ô la la, đây cũng là điềm tốt lắm đó hiền muội. . . - … Sau một khoảng im lặng dài... - Xích qua đây một chút, hòn đá nhọn đâm vào bàn tọa làm muội khó chịu quá. Có tiếng Nhất Cư lầm bầm. - Huynh cũng vậy, chu choa mấy cái hòn sỏi mắc dịch cấn vào đầu gối đau thấu mây xanh. Nghe đến đây Ngộ Không bèn rón rén rời xa vách đá sợ vô ý gây tiếng động làm phiền tên thầy bói giả mù đang... thực hiện tình yêu. Có tiếng nô đùa của đám mỹ nương vọng lên từ bãi biển, tiếng thì thào của làn gió chui luồn qua cây cỏ hòa với tiếng thở dồn dập vọng ra sau vách đá. Càng về khuya Bình Ba Cốc càng đắm chìm trong âm hưởng ái ân. Phong Nhĩ Dị Nhân Tiết Đông - năm Canh Thìn

134

Từ Vũ và Gái Xuân

Kính tặng Từ Vũ Trần Đỗ Lộc “… Em như cô gái hãy còn Xuân Trong trắng thân chưa lấm bụi trần Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân ….. Xuân đi, Xuân đến hãy còn Xuân Cô gái trông Xuân đến bao lần” Thú thật, từ những ngày xa xưa, người viết bài nầy vẫn cứ tưởng nhạc phẩm Gái Xuân phổ thơ thi sĩ Nguyễn Bính là của nhạc sĩ Phạm Duy. Mà hình như, giới thưởng ngoạn, hễ cứ nghe một nhạc phẩm nào thành danh và để đời là cứ kháo nhau rằng của Phạm Duy. Khẳng định thế, mà không cần phải tìm hiểu, điều tra ngọn nguồn. Còn nhớ, vào đầu thập niên 80, thời mà bên ni, bên tê còn là một cách biệt ngàn trùng. Chưa có những thông tin chính xác như bây chừ. Chúng tôi, những anh em hoặc còn trong trại tập trung, hoặc đã may mắn trở về với gia đình thường tụ tập lén lút chuyền tay nhau tất cả những tin tức lượm lặt được từ bên nầy. “Vĩnh biệt Sài Gòn” của “Phạm Duy” đã dược đón nhận với tất cả niềm thương nổi nhớ cho bạn bè, người thân phải tha hương. Chúng tôi đã khóc cho một mất

mát lớn lao của không những người đã ra đi, mà kể cả những người còn ở lại; bởi Sài Gòn, thành phố đã mất tên. “ Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời … Sài Gòn ơi, tôi đã mất thời gian tuyệt vời. …. Tôi giờ như con thú hoang lạc bầy tìm kiếp sống quên thời gian…” “Viết tình thế nầy!!! thì chỉ có Phạm Duy”; bởi, Nam Lộc vẫn còn là một tên tuổi xa lạ. Giới thưởng ngoạn cứ hè nhau “ đem râu ông nọ, cắm cằm bà kia” một cách vô tội vạ. Kể thêm cho người đọc nghe về một tin đồn thuộc loại “đại vịt cồ” thời bấy giờ. Khoảng năm 1977, trong trại tập trung, không biết xuất xứ từ đâu bỗng tung ra một tin thật là xúc động: “…trong một buổi trinh diễn văn nghệ ở bên trời Tây, Phạm Duy hát và đã xúc động qua đời trên sân khấu…” Miên man với tin vịt thời bấy giờ và còn rất nhiều chuyện động trời để kể; tuy nhiên bây giờ người viết xin trở về Từ Vũ với Gái Xuân. Một cơ duyên đã đưa tôi đến gần với gia đinh Từ Vũ, để được nghe chính ông và người con gái đầu lòng Diễm Thu của ông kể về cuộc đời và những bước thăng trầm của Từ Vũ.

135

Nhạc sĩ Từ Vũ Được biết tác giả nhạc phẩm Gái Xuân là Từ Vũ tên thật Trần Đỗ Lộc. Từ Vũ phổ bài thơ Gái Xuân vào năm 1953, lúc ông mới ngoài 20. Từ Vũ theo gia đình vào Nam năm 1950, lúc ông vừa 18. Phải mất thời gian khá dài để ổn định lại cuộc sống mới. Năm sau ông theo học năm cuối bậc trung học. Vào lứa tuổi 20 thời ấy, tuy rất nhiều mộng mơ, lãng mạn, nhưng còn nhút nhát lắm. Thương ai đó, chỉ biết “đứng ngẩn trông vời aó tiểu thư”, hoặc làm dăm ba bài thơ… thẩn. Thuở học trò của ông cũng là thế giới của Đinh Hùng “… làm học trò, nhưng không sách cầm tay Có tâm sự, đi nói cùng cây cỏ…” Hoặc của Tế Hanh “Những ngày nghỉ học tôi hay tới đếm chuyến tàu đi đến những ga Tôi đứng bơ vơ, trông tiễn biệt Lòng buồn không biết nói năng chi” Một hôm tình cờ, cậu học trò Trần Đỗ Lộc vớ được tập thơ Mây tần của cố thi sỹ Nguyễn Bính.Trong đó có “Lỡ bước sang ngang, Cô hái mơ, Ghen… Từ Vũ dừng lại với Gái Xuân… chỉ vì trong Gái Xuân có nhắc đến tên người con gái của cậu học trò Lộc thầm thương trộm nhớ. “… Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân” T. Vân cũng chính là tên người trong mộng của Từ Vũ. Cảm xúc ý thơ, Từ Vũ đã hoàn tất tác

phẩm Gái Xuân trong vòng 15 phút không sửa chữa.

Nhạc phẩm Gái Xuân được ca sỹ Linh Sơn trình bầy lần đầu tiên, tuy vậy phải đợi đến ca sỹ Tâm Vấn trên đài phát thanh Pháp Á và Quốc Gia thì Gái Xuân mới đến cùng giới thưởng ngoạn. Và cứ mỗi độ Xuân về, không ai không biét đến Ly rượu mừng của Phạm Đình Chương và Gái Xuân của Từ Vũ qua làn sóng phát thanh hoặc từ giàn nhạc bên nhà hàng xóm vẳng sang Sau Gái Xuân, hầu như Từ Vũ chỉ còn viết cho chính ông và cho những người thân yêu. “… Quên rồi chăng Em hỡi mấy cung dàn Quên rồi chăng Em hỡi giấc mơ tan… …Em giờ đây như gió thắm mây ngàn …người hỡi sao thờ ơ…..” Người tình (xưa) giờ đây đã như “hạc nội mây ngàn” bỏ Từ Vũ ở lại một mình, để ông viết nên ca khúc “khung trời năm tháng”. Sau khi lập gia đình, an hưởng hạnh phúc bình yên một thời gian dài, bất chợt đôi lúc trong ông, con người nghệ sĩ hồi sinh cho một thoáng nhớ về người tình ngày nào. Và cảm thấy niềm cô

136

đơn vây bủa đè kín tâm tư để phải trốn chạy, tìm về những nơi chốn hẹn hò của ngày tháng cũ. “Cô đơn chiều Dalat”, “Đường vào cô đơn”, “ Mưa cao nguyên” được Từ Vũ ghi lại vào giai doạn nầy ( 1963-1964) Vào cuối năm 71, sau khi người bạn đời vĩnh viễn ra đi, bỏ ông ở lại cùng 5 con thơ dại trong cảnh gà trống nuôi con. Niềm đớn đau và nỗi mất mát lớn lao nầy được ông gói ghém qua ca khúc “ Tiếng Hát cho người tình”. Còn nỗi đau đớn nào lớn hơn, còn niềm cô đơn mất mát nào khủng khiếp hơn, khi mà: “… Quê hương Em biền biệt cuối trời nghìn trùng xa xôi khép kín tình anh trong đơn côi.” Và “ từ đó, anh mang theo dòng nhạc rã rời, tiếng hát ấm ru người tình năm xưa. … Anh nghẹn ngào suy tư từng hồi, từng hồi… rồi thôi. Trời lấy mất đi người Yêu.” Thời gian qua đi, nỗi đớn đau rồi cũng nguôi ngoai, thêm vào những bận rộn sinh kế nuôi đàn con dại. Mãi đến cuối năm 1996, khi các con đã trưởng thành. Có những đứa đã sống xa ông nửa vòng trái đất. Cảm thấy, một đôi lúc cô đơn vây kín và chợt thấy thèm sống lại với cung đàn, tiếng hát (lúc nầy ông đã ngoài 60). Tất cả chỉ còn là một hoài niệm nhớ nhung. Có thể gọi đây là giai đoạn Từ Vũ và những ngày mưa. Khác với những giọt mưa vui của Văn Phụng “ mưa rơi rơi bên đường…” Cũng không tha thiết van xin mưa như Nguyên Sa “ …trời không mưa, tôi cũng lạy trời mưa”. Hình như Từ Vũ muốn trốn chạy những ngày mưa, thế nhưng mưa trong ông, mưa trong đời vẫn cứ tràn ngập bủa vây.

“Mưa tháng sáu “ thơ của P.N. Thường Doan được ông phổ thành ca khúc “Con dốc hoa vàng”. “Mưa đời lãng du”, ca khúc tiếp theo được Từ Vũ phổ từ bài thơ “Mưa”của Trần Hữu Ngư. “… Bao giờ trời mới thôi mưa… …mưa nhung nhớ, mưa thiết tha Mưa đừng mưa nữa, lòng ta ướt rồi …. Chờ mưa ráo tạnh, đền bù cho em Một mai em có qua đây, ta xin đốt lửa những ngày thôi mưa.” Tuy vậy, những u buồn của ngày mưa rồi cũng qua đi. Thời gian vẫn là liều thuốc nhiệm mầu hàn gắn lại tất cả những mất mát, đổ vỡ. Bình minh sẽ tới, nắng sẽ lên và từng đàn chim sẽ về ca hát tiếp nối lại ngày vui. Trong dịp qua thăm các con ở vùng Cali nắng ấm. Mầu vàng tươi sắc thắm của Cali Poppy ngút ngàn trên những con đường chạy dài vùng Bắc Cali cũng đã nở hoa trong Từ Vũ. Và ông đã ghi lại thành ca khúc “Thung lũng hoa vàng” như là một kỷ niệm trong những ngày vui vơí các con ở Cali. “Tôi đến Cali một ngày trời nắng ấm, lung linh vàng sắc thắm với ngàn hoa Thung lũng vàng ngây ngất khách phương xa Vàng ươm nắng, dệt tơ vàng xuân mới Hoa vàng ơí! mềm lả lướt bên đường Mầu hoa daị vàng hơn vàng sắc bướm. ….. Em yêu ơi, tình nở muộn có ngờ Người tình hỡi, hoa vàng bay theo gió” Tuy ngây ngất với hoa vàng, nắng ấm Cali, Từ Vũ vẫn không quên quê nhà. “… Xa quê hương, thấy lại quê nhà đó Ở quê người, vẫn laị thấy quê ta.” Lê Minh Sang Thu 1999

137

Thân tặng những người đã có lần mẹ già sang thăm

Cuối cùng, má tôi cũng đặt chân đến Canada sau bao nhiêu thủ tục giấy tờ phiền toái. Cái xứ, khi còn ở Việt Nam, má tôi đã nghe nhiều cuộc tranh cãi về quốc gia có lá cờ “không giống ai”. Người cho hình chiếc lá in trên cờ là lá thu đủ, người cho lá nho. Chưa kể đến cái lạnh chết người. Mùa đông, bên ngoài trời lạnh gấp mấy chục lần thùng cà rem. Ra đường, không trùm kín đầu, hai tai bẻ gẫy như bánh tráng,..v.v và v.v... Vừa từ phi trường về, má tôi đã thèm trầu, vội vàng đem trầu ra nhai. Suốt ngày ngồi trên phi cơ, không ăn được miếng trầu, thấy người uể oải chi lạ! Nghe nói trên phi cơ cấm ăn trầu, hút thuốc. Ăn trầu, đỏ miệng, người Tây Phương cho là dị hợm. Ấy chưa kể bã trầu, biết nhả nơi mô? Bẵng đi thời gian lâu, có dịp nhìn lại cái cái cối nghiền trầu của má tôi, bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu sống với cha mẹ, anh chị em thân yêu trở về với tôi. Nhìn má ngoáy trầu, tôi có dịp quan sát người kỹ hơn. Vẫn cái lưng cong

trườn về phía trước, dồn sức nặng vào cái cối trầu lên nước bóng loáng. Cái miệng nhóm nhém nhai bã. Vài cái răng đã rụng. Má bây giờ già hơn trước rất nhiều, chậm chạp, đi đứng bắt đầu khó khăn. Tôi thấy thương má quá... Bây giờ đầu mùa xuân, cây cỏ bắt đầu xanh lá. Một cơn tuyết cuối mùa bỗng nhiên kéo đến. Tuyết rơi lất phất, phủ lên các lối đi, đọng trên các cành cây vừa trổ lá non, trải đầy trên những cánh hoa tulip vừa chớm nở. Má nhìn tuyết rơi có vẻ thích thú. Lần đầu trong đời mới tận mắt thấy tuyết. Ở quê nhà chỉ thấy tuyết trên phim ảnh hoặc báo chí. Má ra sau hè, bốc nắm tuyết để biết cảm giác lạnh. Bóp chặt, thả ra, có tiếng sồn sột trong lòng bàn tay và cảm giác tê lạnh. Má cười nói: - Giống nước đá bào quá hén! - Má thấy tuyết có đẹp không? – Tôi hỏi. - Ở Việt Nam, có tuyết này để ướp cá biển đỡ tiền mua nước đá biết chừng nào! Tôi hơi thất vọng, má nhìn tuyết không đẹp giống như tôi. Má thực tế hơn. Nha Trang quê tôi vùng biển, sống nghề lưới cá. Những chuyến

138

tầu đi lưới tốn nhiều tiền để mua đá ướp cá. Xứ này nhiều tuyết không biết tận dụng. Phí thật. Ở Canada, họ phung phí quá chừng. Từ cái bao ny-long, cái hộp, cái chai thật đẹp họ đều vứt vào thùng rác. Mỗi lần thấy tôi ném bỏ cái hộp, cái chai đẹp là má tiếc. Biết giữ lại cũng không dùng. Bán chẳng ai mua. Má chỉ làm theo thói quen và vì tiếc. Má thích nhất bao ny-long đựng gạo Thái Lan. Đẹp mà chắc. Đựng đồ không sợ bao mục. Mỗi lần có bao gạo là má tôi giữ lại, xếp ngay ngắn để khi cần dùng. Đồ ngày một nhiều, chúng tôi lén bỏ bớt. Chiều bà già một tí để có chút việc làm cho vui! Mỗi lần dự tiệc cưới, thấy đồ ăn để lại đầy bàn, má tiếc vô cùng. Ở quê nhà, khách vào quán ăn đã thấy người chờ chực sẵn để vơ những đồ ăn thừa sống qua ngày. Xứ này họ ăn uống phí phạm quá, đồ ăn còn lại nuôi được biết bao gia đình nghèo. Lúc nào má cũng nghĩ đến những người ở lại, và ước mong quê hương mình có cuộc sống sung túc như xứ người. Ở đây cái gì cũng đầy đủ, chỉ thiếu cái má thích nhất là trầu và cau. Mua trầu của những người từ Việt Nam mang sang bằng ở Việt Nam mua ăn cả bốn, năm tháng. Nhờ người mách, tôi mua cho má trầu tại tiệm thực phẩm người Ấn. Má nói trầu Ấn Độ lá to nhưng lạt, không có vị trầu. Còn trầu mua từ Việt Nam gởi sang là trầu Bà Điểm. Ăn tạm được chứ không ngon lắm. Vậy trầu ở đâu ngon? Má cho biết trầu ở Phan Rang ngon nhất. Cay và đậm đà. Không hiểu vì má thương quê ngoại, nên Phan Rang gì cũng nhất. Từ hành tây, tép tỏi cho đến lá trầu. Nhất là hãnh diện người cùng quê với Tổng Thống Thiệu. Một bà cụ biết má tôi ăn trầu. Bà thích lắm, mời về nhà dùng trầu cho vui. Thật đúng với câu “Bạn trầu, bạn rượu là bạn thảo”. Sau tiệc trầu, bà cụ chia cho má tôi ít trầu do con cụ mang sang từ Việt Nam. Bà cụ bày má tôi giữ trầu tươi bằng cách để tủ lạnh. Má thích lắm. Bà vuốt ve từng lá trầu cho thẳng thắn, để ngay ngắn trong tủ lạnh. Vả lại,

trầu trồng sau vườn, muốn ăn ra hái. Trầu tươi thơm phức. Cây nhà lá vườn, quê ta là nhất. Qua cuộc đối thoại giữa hai cụ trong lúc dùng trầu, má tôi tâm sự: - Đi máy bay, đường xa, họ không cho ăn trầu thèm quá! - Tôi về Việt Nam hoài, lên máy bay tôi vẫn dùng trầu đấy chứ! - Vậy bã trầu làm sao? - Tôi bày cụ, trước mặt chỗ ngồi họ để cho mình cái túi, nhỡ ói mửa thì nhổ vào đó. Mình dùng túi đó nhổ trầu, sau đó đem vào cầu tiêu bỏ vào thùng rác. Má tôi phục lăn. Đúng là đi xa học được nhiều điều hay. Không hiểu chuyến về má có áp dụng không! Thời gian trôi qua nhanh, mới chợp mắt đã sáu tháng. Mùa hè qua mau, mấy đứa con tôi bắt đầu trở lại trường. Không có mấy đứa nhỏ ở nhà, vắng tiếng cười đùa, tiếng tranh cãi nhau, má cũng thấy buồn. Trời bắt đầu sang Thu. Buổi sáng lành lạnh. Một vài lá vàng chớm rụng sớm. Má cảm thấy nhớ nhà. Chúng tôi muốn má ở thêm vài tháng nữa, đến mùa Đông để biết xứ người đón Giáng Sinh và năm mới ra sao? Vả lại, má về rồi biết bao giờ trở lại thăm con, thăm cháu. Mỗi lần ra nước ngoài là một lần khó khăn. Chúng tôi nài nỉ má ở thêm vài tháng. Mà không muốn nói thật sợ chúng tôi buồn. Buổi sáng, chúng tôi thấy má dậy sớm, xếp lại đống đồ trong va-li, sửa đi, xấp lại bao nhiêu lần các món quà để về cho người này, người nọ. Lòng má nôn nao không yên. Thương con cũng thương, nhưng nỗi nhớ nhà thật khó tả. Mặc dầu xứ này vật chất khá đầy đủ, nhưng má vẫn cảm thấy có cái gì xa cách. Tâm tình ở đây không giống như mình. Không giống như quê hương má đã lớn lên. Ở Việt Nam, thấy buồn có thể sang hàng xóm để nói chuyện. Đói ra đường ăn hàng rong. Bên đây mạnh nhà ai nấy ở. Ra ngoài, không thấy bóng người hàng xóm. Muốn nói chuyện cũng không biết tiếng để nói. Các cháu, má vẫn thương,

139

chúng cố gắng trao đổi với má vốn liếng tiếng Việt hiếm hoi của chúng. Sau đó, quay lại nói tiếng Anh với nhau. Má không hiểu chúng nói gì. Má không tìm thấy tình cảm sâu đậm như bà cháu ở Việt Nam. Các cháu sinh và lớn lên ở xứ này nên tâm tình cũng khác. “Ăn theo thuở, ở theo thì”, má biết vậy! Được ra xứ ngoài thăm con tưởng như giấc mơ. Về nhà biết bao chuyện kể. Má sẽ kể cho bà con nghe về người Canada. Má thích nhất là các cô đứng bán hàng, họ đẹp như búp bê, vui vẻ, bặt thiệp, tận tình giúp đỡ khách hàng. Hình ảnh thật hiếm thấy ở các cửa hàng tại quê nhà. Kế đến các cô y tá và bác sĩ. Họ chăm sóc bệnh nhân chu đáo, nói năng ôn tồn, nhỏ nhẹ làm má cảm thấy vui và an tâm. Không biết trong bụng họ nghĩ gì, nhưng bên ngoài dân bên đây lịch sự, nhã nhặn. Điều làm má ngạc nhiên nhất, ngoài đường không thấy cảnh sát đứng gác nhưng xe cộ chạy thật trật tự. Mọi sinh hoạt an ninh, không chút khuấy động. Má mong người mình

học hỏi được những cái hay của xứ người, dân mình sẽ có ngày sung sướng. Trên đường đi ra phi trường, lòng má buồn vời vợi. Má thấy nhớ con, nhớ cháu. Mấy tháng lưu lại với bao kỷ niệm. Biết khi nào mới gặp lại con, và có dịp trở lại cái xứ thật đẹp và thật bình yên này. Khi gởi hành lý lên phi cơ, má như trở về thực tại. Má lo không biết hành lý có về tới Việt Nam không? Đồ đạc mang theo có bị xét hỏi lôi thôi không? Theo lời dặn của những người đã về Việt Nam, má để riêng ra hai chục đô, sẽ kẹp dưới hộ chiếu, làm tiền trà nước khi qua cổng Hải Quan, Má cẩn thận kiểm soát một lần nữa để chắc chắn tiền còn nằm trong túi. Tiễn má ra cổng, nhìn lại hình ảnh người một lần nữa. Vẫn cái lưng còm, mái tóc đã bạc nhiều. Má quay lại nhìn. Gượng cười, vẫy lại chào từ giã. Lúc ra xe, tôi thấy má để quên lại cái cối trầu trên ghế. Tôi sẽ giữ nó như một kỷ vật. Biết bao giờ gặp lại má tôi . . . Trịnh Hoài Phương

140

Tặng Phượng và các bạn OC của tôi ta trở lại gặp những người từ ba mươi năm cũ từ dạo đó đã bao nhiêu nước chảy bên cầu và còn nhiều những khuôn mặt bạn ta chưa hề gặp chuyến bay ngày thứ sáu hối hả lượn cánh đáp bên dưới sông hồ, gò đống, cù lao Seattle, Thung Lũng Tình Xanh như người đã gọi bên lưng thành phố lòng hỏa diệm đầu bạc tuyết ngủ vùi mây trắng phau chạy đuổi như từng nhánh kẹo bông dưới cánh buổi họp mặt đầu tiên, chiều Olympia dưới bóng thông già nhà Đường Hào người bạn thiếu thời Nhatrang và những Sang, Lễ, Quý ly bia ngọt thấm mát suốt từng thớ thịt làn da câu chuyện kể Cam Ranh, Bình Ba, Giang đoàn Thủy bộ...

141

đêm hội ngộ “Dô! Dô! Dô!…” tiếng Nguyễn Quang Trúc vang rân phòng hội lầu ba, phòng ba năm chín đầy ấp tình thân “Dô! Dô! Dô!…” âm vang những chiều về bến thau nước đá, một cái ly và dăm ba chai ông già chống gậy bạn bè ngồi quay quần của những tháng ngày cuối biển đầu sông... “Dô! Dô! Dô!…” hơi men chếnh choáng những khuôn mặt cũ nhòe mờ lá phong đỏ trải ngập trên những đường dài sâu hun hút mùa thu một chín bảy mươi, Newport, Rhode Island chiều bến cảng chiếc cầu treo và những chàng lính biển tha hương gió thu gợn lăn tăn lòng mặt vịnh bờ bên kia em có dõi mắt chờ trông ? “Dô! Dô! Dô!…” “Tôi sẽ gởi Biển Khơi hai bài thơ,” nhà thơ Mây Hải Đảo hứa hẹn bài thứ nhất về hồn Yên Bái, dao đoạn đầu thép lạnh với hùng khí ngất trời và bài thứ hai cho người Sào Phủ, Hứa Do, nghe công danh phù phiếm nổi trôi hai tâm tình nghe như những đêm dài hoang sử người mất người, ta mất ta, đâu ánh trăng ban sơ ? một thời lang bạt trai thời loạn đứng lên đáp lời sông núi đời lênh đênh, chuyến hải hành cắt đứt nửa vời vùi dập đã nhiều, oan khiên chưa nói hết lật sách cổ tìm đọc vài chuyện Hứa, Sào đêm hội ngộ “Dô! Dô! Dô!…” Tạ Quốc Quang tóc đen, da chưa nhăn một nếp, thời gian như đứng lại bên song Phan Thiện Ái mày ngài, hàm én, mới trông như tay Từ Hải vùng vẫy biển đông gặp Quý Nguyện siết ôm tình bằng hữu nhắc chuyện hoài, trận đấm đá sân trường ba mươi năm dấu mòn còn lưa thưa vài sợi tóc lắm phong trần, chuyện dâu bể ngổn ngang “Dô! Dô! Dô!…” tay bắt tay Trương Như Quảng, Nguyễn Hạt cùng đại đội một thời Quang Trung cá mối hàng bã đậu dài, chà láng những sáng mờ sương Vũ Gia Khánh, Hùng Sữa với chuyến tàu đêm hối hả bay ngay Seattle cho kịp giờ, kịp chuyến gặp bạn bè Hồ Minh Đức, Nguyễn Bình Du trở về từ chuyến vượt biên chớp nhoáng Vancouver cùng Lý Thy Dân hô hào anh em dồn vào góc “Đứng dô đi! Chụp hình! Chụp hình!”

142

ghi vội vã nét cười trên khuôn mặt một khắc thôi vì mai đây bao ngả khó tìm ... còn bao khuôn mặt bạn, ta không kể hết Dực, Liêm, Tường, Nam, Thanh, Thắng, Hiếu ... ... Toại, Kim, Linh, Quang Baby ... đêm dạ tiệc mừng …“Dô! Dô! Dô!…” như không muốn dứt bạn bè quen qua tên, mới gặp mặt lần đầu: Thạnh, Thanh Dundee, Đức đen, Hùng Đakao, Thương Fulro, Khánh, Châu Ti Tu ... đêm hội ngộ kéo dài ngất ngây qua biên giới Phan văn Hợp, Đỗ Khang An, Nguyễn Trung Nghĩa vùng Vancouver, Gia Nã Đại mở rộng gia trang khao đãi hơn trăm bạn có bạn quen và có bạn chưa quen nhưng cần gì quen hay không quen nhỉ ? dăm ba ngàn thực khách theo gương cũ Mạnh Thường Quân treo bảng lớn, mở liền ngay đại hội OCS sáu chấm rưởi, bạn bè kết tụ đến khuya cùng nâng ly uống mãi không say đêm họp cuối nhà An tình thân thắm đậm nồi canh chua cá như mạ với con bữa cơm chiều ngon như chưa bao giờ ngon văn nghệ bỏ túi, Ngô Văn Sơn với tiếng đàn guitar réo rắt giọng ấm trầm Đỗ Khang An mang khách về miền ký ức xa xưa “... ôi ánh sao đẹp sao cuối trời đi về đâu ... đêm quá sâu hồn ta rã rời trong trời nâu ...” đêm ra về, lời sao đêm nghe lãng đãng ánh tinh cầu như đọng khóe mắt ai cơn giông bất chợt mùa hạ oi nồng mưa sàigòn thoáng bay trong trí nhớ đêm thật sâu ta muốn ôm ghì chặt một loài hoa nở đỏ thắm sân hè ... cám ơn em cám ơn bạn và những đêm hội ngộ không cùng ... Võ Anh Tuấn Seattle, Tháng 7, 2000

143

Quý đang vất vả với đôi dép râu cứ bị trơn tuột ra khỏi đôi chân như là thoa mỡ phần do ẩm ướt của sương mai trộn lẫn đất bùn bẩn của khu rừng nứa thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn, Đã hơn 3 năm qua từ ngày bước chân vào trại cải tạo với sự “ hồ hởi phấn khởi “ trong đầu là mười ngày sẽ về để góp phần xây dựng đất nước sau bao năm dài chiến tranh tàn phá, rồi mỏi mòn chờ đợi đến tháng thứ tư, mười tháng sau mới được học tập chính sách 12 điểm quy định thời gian cải tạo là một năm, rồi một năm lại qua đi,mọi người thắc mắc trong các buổi thảo luận thì lại được trả lời một cách rõ ràng là - Một năm chỉ là cái mốc, các anh học tập tốt sẽ được cứu xét cho về, còn học tập tốt hay không là tùy ở sự thành khẩn khai báo và sự ăn năn tội lỗi của các anh mà thôi Mọi người như quả bóng xì, mới thấy rõ thủ đoạn vét lưới của cộng sản thật tinh vi đã tung ra hốt trọn các cấp sĩ quan một cách dễ dàng. Đôi giầy bata của Quý cũng như sự tin tưởng nơi chế

độ mới đã theo nhau rách bươm sau năm đầu, đây là chiếc dép râu mà Quý cùng với các bạn trong tổ đã chia nhau từ cái vỏ xe cũ được nhặt về hồi còn ở trại cải tạo Long Giao trong Nam,tốn công mất hai ngày trời cắt xén, nó đã thành đôi dép “ Xăng -đan hiện đại “ mà mọi người đặt tên cho nó, đã dai dẳng lê lết cùng đôi chân chàng ra tới miền Bắc và giờ đây đang khổ sở vì nó cứ trật vuột ra khỏi chân khi cố leo lên cái dốc đứng của ngọn đồi chằng chịt những bụi nứa vút cao, đạp lên những cành cây cứng, gai góc làm đau thốn bàn chân. Tổ của Quý được phân công đi bẻ măng về cải thiện cho trại, Những đọt măng non vừa nhú ra khỏi gốc sau những cơn mưa đầu mùa mơn mởn xanh mượt lông tơ, có những cái phải khó khăn lắm mới lách con dao rừng vào giữa các gốc nứa và cứa từ từ chứ không có đủ chỗ để vung dao lên chặt được mà tiêu chuẩn thì phải đầy cái bao tải được cột dây khoác ở sau lưng. Có những con vắt chỉ bé bằng cọng tăm, cong người đo từng bước trên lá tre nứa khô, có chỗ ẩm ướt nhiều đến độ khi đánh được hơi người đi ngang cả đàn vươn người lên đo bước trên lá nghe xào xạc đến rợn

Thoát nợ Mắc Cạn

144

người, mỗi lần đi bẻ măng về là thế nào cũng ít nhất là bị bốn năm vết máu chảy do vắt cắn - Ê coi đã chưa kìa Nghe tiếng Hòa vẳng lại ở bụi nứa gần bên, Quý dừng chân một tay giữ vào thân nứa để đứng thẳng người lên thở dốc hỏi vọng qua - Cái gì đó Hòa - Qua đây coi nè Quý vòng qua phía bên Hòa thấy nó đang nhìn chằm chằm vào bụi cây rậm rạp tua tủa những gai nhọn và dài ra tứ phía ở phía trên cao có vài ba trái to bằng bàn tay xanh như màu lá và có một trái màu đỏ hồng tươi sáng thật bắt mắt gần cạnh cũng có vài trái héo khô queo quắt màu xám đen vẫn còn bám vào thân gần đó - Coi chừng trái độc đó mày Quý nói rồi quày quả trở lại bụi nứa lúc nãy vì còn vài búp măng nằm ở bên trong chưa bẻ được.

oOo Hòa là một người thầm lặng, những đau khổ trong lòng không bộc lộ cùng ai nhưng hiện ra ở khuôn mặt khắc khổ của anh, ở nơi những vết nhăn xẻ rãnh dọc trên trán giữa hay hàng lông mày rậm chứng tích của nhiều lần Hòa cau mặt lại một mình, đôi mắt mất thần mà Quý đã tình cờ thấy được vào một ngày mưa gió cả đội không phải ra lao động bên ngoài, anh em trùm chăn, kẻ ngồi người nằm bụng đói chờ đợi cho đến giờ ăn trưa. Hòa nằm sát cạnh Quý, ra Bắc với nhau mới được hai tuần lễ, sau những lần thăm hỏi nhau hai đứa trở nên thân thiện hơn, trong lần được nghỉ lao động đó là lần Quý mới được nghe Hòa kể về gia cảnh của mình nhiều hơn. Hòa là trung úy an ninh tình báo của một đơn vị bộ binh đóng tại Ban mê Thuột, ngày được lệnh di tản chiến thuật bỏ ngõ tỉnh lỵ này anh đã cùng đơn vị rút về miền duyên hải qua quốc lộ 19, cộng quân phục kích và pháo như mưa như muốn nuốt trọn đoàn quân rút lui này khi mới vừa ra khỏi tỉnh, đám dân lành gồng gánh kéo nhau theo đoàn quân nhốn nháo la hét khi bị

pháo kích, người chết la liệt trên đường cùng những chiếc quân xa cháy ngổn ngang, Hòa phải bỏ xe phóng vào rừng cùng với người lính dưới quyền, lẫn trong đám dân băng rừng sát dọc theo quốc lộ về tới Quy Nhơn thì nơi này dân chúng đã kéo nhau túa về Nha Trang, mất liên lạc với đơn vị Hòa lại thất thểu cùng đoàn người về đến Nha Trang, cứ như cơn lốc thổi đoàn người đi đến đâu lại kéo theo dân cư vùng đó bỏ nhà cửa hối hả chạy theo, tiếng súng của địch chưa đến các thành phố lớn nhưng những tiếng súng lẻ tẻ của những thành phần xấu lợi dụng cướp bóc làm dân chúng hoảng loạn lên thêm, không ai dám ở lại, cứ thế mà Hòa đi mười hai ngày sau Hòa mới mò về lại được nhà. Nhà chàng nằm ngay vòng đai của phi trường Tân sơn Nhất, mò về đến nhà trong sự nhốn nháo của dân chúng chung quanh, khu nhà Hòa ở bị pháo kích vào một đêm của tuần trước, đạn đã rơi ngay bên hông nhà làm sập nát thêm vài căn chung quanh trong đó mẹ Hòa và đứa em gái bị chết dưới đống gạch vụn, đó là hai người thân yêu duy nhất trên đời của Hòa mà nay lại chết một cách thảm thương, chú của Hòa đến lấy xác đem chôn. bên cạnh nhà Hòa là nhà của Thúy bạn với đứa em gái Hòa và cũng là người yêu của Hòa, hai gia đình đã thuận nhau và chờ ngày Thúy học xong sư phạm sẽ làm đám cưới, bên nhà của Thúy thì chỉ có bố chết, tuy nhiên Thúy và mẹ thì bị thương nặng, Thúy bị thương nặng ở đầu vẫn mê man không biết gì, đau khổ đến tột cùng, những ngày mệt mỏi của những ngày qua làm chàng như rũ người ra, muốn ngất đi ở trước sân của một người đầu xóm. Hòa đã đưa tấm ảnh cũ chụp chung cả gia đình khi Hòa còn học đệ tứ ra cho xem và nó là đồ vật quý giá nhất của Hòa nó còn giữ được hình ảnh của những người thân yêu sát bên người. Ở tạm với gia đình của ông chú, Hòa thường xuyên lên bệnh viện chăm sóc cho Thúy và mẹ, Thúy càng lúc càng nặng vẫn mê man, mẹ của Thúy chết một ngày trước khi Hòa trình diện học tập cải tạo, còn Thúy thì chỉ thoi thóp xem ra không qua khỏi, những đau đớn đến với Hòa dồn dập làm chàng trở nên thẫn thờ hầu như tê dại đi, nếu không có ông chú lo sợ hối thúc chở đến tận nơi trình diện học tập thì Hòa vẫn cứ ngơ ngáo sống qua ngày nơi nhà của ông chú và lang thang quanh quẩn nơi nhà thương Thúy đang nằm

145

oOo

Cơm chiều vừa được chia xong, ngoài món bột luộc còn có thêm phần măng nấu muối trông ai có vẻ háo hức hơn vì khẩu phần được tăng thêm phần măng tươi, - Măng này mà có đùi vịt nhỉ Mẹ! Hết sẩy - Còn phải nói, ăn với bún là tuyệt nhất Cứ thế mỗi người một câu chêm vào, nhốn nháo tiếng cười đùa vang cả láng trại, kể nhau nghe từng nơi chốn có gánh hàng bún măng ngon nhất từ thành đến tỉnh, sau đó lại lan man đến các món ăn khác, bữa ăn nào hầu như các câu chuyện chỉ loanh quanh như thế nhưng hình như chả ai thấy nhàm chán cả. Quý lấy phần mình xong, ngồi dựa vào vách nơi đầu nằm của mình, ngồi khoanh tròn chân, khoác tấm chăn lên trùm qua đầu chỉ chừa một khoảng trước để thò tay ra bưng ca bột luộc lõng bõng như bánh canh và một tay cầm muỗng xúc chậm rãi từng chút một, quay sang bên cạnh thấy Hòa vẫn ngồi im, phần ăn trước mặt vẫn chưa động tới - Mệt hả Hòa vẫn không trả lời, mặt như đang suy nghĩ, ngồi thừ ra Quý hỏi thêm - Mày bệnh hay sao vậy Lúc này Hòa mới uể oải trả lời - ờ. . .ờ Rồi Hòa quay sang Quý đẩy cái ca bột sang nói nhỏ - Mày lấy thêm mà ăn, tao mệt chắc không ăn được đâu - Để dành chốc hết mệt mà ăn, khuya đói chết đó mày, chắc bị cảm lạnh rồi, chốc tao cạo gió cho - Không cần đâu Hòa ậm ừ rồi lặng yên nằm xuống, tấm chăn trùm kín chỉ chừa khuôn mặt, Quý đậy cái ca bột đầu giường và phần măng lại để trên đầu giường cho Hòa. Bữa ăn tối kéo dài gần đến kẻng đi ngủ, ai cũng muốn kéo dài cái thời gian sung sướng nhất trong ngày này dù là thức ăn nếu ăn bình thường húp cái xoẹt là hết thôi, ăn xong Quý ra ngoài rửa ca, súc miệng lúc vào thì thấy Hòa đã bỏ mùng nằm yên lặng, Quý móc xong mùng nằm xuống nghiêng mặt qua hỏi Hòa

- Mày thấy đỡ không Không nghe tiếng trả lời, Quý đoán chắc Hòa mệt mỏi vì leo đồi bẻ măng trong ngày, và rồi Quý thiếp đi trong cơn ngủ, rồi bỗng giật mình vì chân Hòa đạp trúng người, Quý chợt tỉnh vì thấy Hòa rên nhỏ và đang lăn lộn vội vàng ngồi dậy, - Sao vậy, Hòa Không có tiếng trả lời, một số anh em khác nằm chung quanh cũng lên tiếng hỏi, Quý vén mùng của mình và Hòa lên thấy Hòa ôm bụng vật vã người. Anh tổ trưởng nghe ồn ào cũng thức dậy cầm đèn dầu vặn lớn lên đứng dưới chân giường, Đầu giường Hòa là một nửa trái màu đỏ tươi còn sót lại nằm chênh vênh trơ những vết răng cắn lởm chởm, đúng là cái trái mà Hòa chỉ cho Quý thấy lúc ban ngày khi đi bẻ măng - Chắc nó ăn trúng trái độc rồi, báo cáo cán bộ nhanh đi Anh đội trưởng đưa đèn dầu cho Quý cầm rồi chạy ra cổng trại báo cáo. Một lúc sau khi cán bộ và vài vệ binh vào thì Hòa đã tắt thở, người cong lại khuôn mặt đau đớn nhăn nhúm xám xịt. Xác Hòa được lệnh khiêng lên để tại phòng khám bệnh của trại nằm bên ngoài hàng rào gần trạm gác để chờ đến sáng đem chôn. Mấy ngày sau đó, tư trang của Hòa được thu góp đem lên trại để giao trả cho gia đình như lời cán bộ nói. Suốt 3 ngày liền các tổ các đội phải kiểm điểm, học tập không được cải thiện bất cứ thứ gì khi ra ngoài lao động, Riêng Quý và người nằm bên cạnh Hòa bị đấu tranh phê bình gay gắt đã không theo dõi giúp đỡ cho bạn để cùng nhau học tập tốt, một hôm tình cờ lục trong túi đồ của mình tìm đôi vớ, Quý thấy tấm ảnh, lấy lên xem, tấm ảnh cũ của gia đình Hòa,là tấm ảnh duy nhất Hòa còn giữ đem theo, lâu lâu đem ra khoe với Quý, tấm hình lúc Hòa được phần thưởng của năm trung học chụp chung với cha mẹ và cô em gái, lật phía sau Quý thấy hàng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, “ Tặng mày, cất giữ giùm tao”. Hòa đã chọn con đường đi nhanh nhất để về sum họp với gia đình mà không qua con đường học tập tốt của Xã Hội chủ nghĩa. Mắc Cạn

146

Vũ Hoàng Thư

Gửi Ph.

Nat King Cole luôn gợi tôi kỷ niệm, đặc biệt vào mùa lá bay. Khi ấy tôi phải đi làm lính thú xa nhà ở Santa Barbara. Trên đường khăn gói rời nhà đầu tuần, giọng khàn đục của Cole thả lá bay kín hồn,

The autumn leaves of red and gold I see your lips, the summer kisses The sun-burned hands I used to hold [1] Những chiếc lá thu lên màu hoàng hỗ Môi em về, ghé nụ hạ thơm nồng Và đôi tay ủ nắng tôi từng nâng

Thu ở nhạc Tây phương như thế. Thẳng ngay vào nụ hôn, bàn tay rám nắng đời thường ta vẫn thường ấp ủ. Qua phương Đông, thu man mác gợi nhớ và những ước ao không nói nên lời.

Luôn luôn đợi chờ và khung cửa khép hờ. Có dáng em nhưng lãng đãng sương khói, chỉ một đụng nhẹ sợ tan biến đi thôi. Autumn Leaves xuất phát từ bản nhạc “Les Feuilles Mortes”, lời của thi sĩ Jacques Prévert sáng tác năm 1945 và do Yves Montand hát trong phim Les Portes de la Nuit năm 1946. Bài thơ “Les Feuilles Mortes” êm ái, thơ mộng, đi gần với nhạc thu Đoàn Chuẩn, Từ Linh hay Cung Tiến của ta hơn. Ghi lại bài thơ và phỏng dịch dưới đây trong không khí thu đang đi vào giữa mùa.

Les Feuilles Mortes Oh! je voudrais tant que tu te souviennes Des jours heureux où nous étions amis En ce temps-là la vie était plus belle, Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui

Khuác Thu Ca

147

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle Tu vois, je n'ai pas oublié... Les feuilles mortes se ramassent à la pelle, Les souvenirs et les regrets aussi Et le vent du nord les emporte Dans la nuit froide de l'oubli. Tu vois, je n'ai pas oublié La chanson que tu me chantais. (Jacques Prévert) Lá Vàng Khô Ôi ! ta ước em thường hằng luyến nhớ Đầm ấm xưa tình thân thiết cận kề Ngày tháng ấy hương đời dâng tuyệt đẹp Và mặt trời nồng cháy vạn lần hơn Lá vàng rơi phong kín ngõ sân dầy Quên sao được ta chưa hề người hỡi Lá vàng rơi phong kín ngõ sân dầy Kỷ niệm ơi cùng tiếc nuối còn đây Rồi cơn bấc cuốn trôi về xa thẳm Ngập vào đêm trong buốt giá phôi pha Quên sao được ta chưa hề người hỡi Một bài ca em cất tiếng hôm nao (Vũ Hoàng Thư phỏng dịch)

Cứ thế hàng tuần, Autumn Leaves tiễn tôi lên đường. Chiếc lá bay mãi trong không, đợi chờ về cội. Ở cuối tuần. Và điện đàm hàng đêm, tôi kể P. nghe những chòm sao, chỉ sáng rõ vào mùa thu vùng Bắc Mỹ. Nổi bật nhất phải là chòm sao Hiệp Sĩ (Orion) hay Lạp Hộ. Thần thoại Hy Lạp thuật lại, Orion, chàng thợ săn tài ba, đầy tự hào làm Hera, vợ của thần Zeus, ghen tức nên bà sai một con bọ cạp cắn chết Orion. Thương tiếc Orion, thần Zeus đặt chàng lên bầu trời. Con bọ cạp cũng được đem lên trời thành chòm sao Scorpius (Thiên Hạt). Tuy nhiên vốn là hai kẻ tử thù nên khi chòm sao này mọc ở chân trời thì chòm kia bắt đầu lặn. Orion đến Trung Hoa thành sao Sâm và chuyện kể sao Sâm Thương,

phát nguồn từ hai kẻ yêu nhau thắm thiết, ngọc nữ Thanh Thương và tiên đồng Bảo Sâm. Trong một đại yến vì vô ý đánh rớt chén ngọc nên Ngọc Hoàng đày mỗi người một góc, tuy chung bầu trời mà không gặp được nhau. Sâm Thương đi vào văn chương có thơ Đỗ Phủ, Nhân sinh bất tương kiến / Động như Sâm dữ Thương (Đời người không gặp được nhau / Như là sao Sâm và sao Thương). Nguyễn Du cũng mượn sao Sâm Thương để Thúy Kiều thổ lộ sự khó khăn cách trở cùng Thúc Sinh, Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng / Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân. Qua đến nước ta, hai chòm sao đổi thành sao Hôm và sao Mai, tên nghe gần gũi và dễ thương.

ở hôm tôi đợi em ngồi chờ mai em hẹn đêm bồi hồi đêm

Nhưng thật có Đêm và Ngày không nhỉ ? Trên tầng cao vô tận chỉ có nắng muôn trùng và không gian xanh. Ngày ngự trị thường hằng trên ấy, người đứng dưới không thấy, người chạy quanh ôm vòng nhật nguyệt. Từ đó có đợi chờ và ngóng trông. Lá bay đi và lá bay về. Thu mười năm cũ rộn rã ghé về vì một ánh trăng đêm nay. P. nhắc đến bờ Santa Barbara đêm nguyệt vờn những nụ hôn đẫm màu trăng bạc. Sóng lung linh như hạt lân tinh chờn vờn Stardust, những hạt bụi tinh vân kéo màu tím của chiều tới chân trời... Nơi ấy những đêm trăng, sáng như chưa từng bao giờ sáng. Hai chúng tôi chạy dọc ven biển, xa lộ 101 hun hút đêm chấp cánh vào trời sao, P. và tôi loãng tan trong bầu không gian vô tận. Cho đến một hôm P. phải về hẳn dưới phố vì bệnh, tôi âm thầm đếm sao hàng đêm một mình nơi góc biển. Như thế, cũng Nat King Cole gọi hoàng hôn về bằng giọng đại hồ Stardust,

chòm sao nhỏ lên lặng thinh gọi tôi-em khoảng cách mình đang xa

148

(High up in the sky the little stars climb Always reminding me that we're apart) [2]

Trăng sao muôn đời làm chứng nhân khi người xa người. Stardust gọi nắng nơi khu vườn hồng ngày hạ, mang về đồi hoa dại vàng ngút mắt chân trời của xuân. Bấy giờ là mùa lá rụng, Santa Barbara chìm trong sương. Nhớ P. trong quạnh quẽ. Giọng Nat King Cole theo chân tôi khi lòng vịnh đổi sang màu đen thẫm, chiếc lá rơi bất ngờ gõ một cung trầm,

But I miss you most of all, my darling When autumn leaves start to fall... [1]

Vũ Hoàng Thư Thu 2013 [1] Autumn Leaves, lời Johnny Mercer, nhạc Joseph Kosma [2] Stardust, lời Mitchell Parish, nhạc Hoagy Carmichael, sáng tác 1929.

149

Mục Lục Thư Đặc San 3 Thư Gửi Bạn Ngày ĐH/OCS – XV Việt Dân 4 Thơ Phạm Hồng Ân 7 Từ khi trăng là nguyệt Phan Thái Yên 8 Khúc sông chia Phạm Hồng Ân 15 Sương khói mờ nhân ảnh Cỏ Biển 19 Thơ Vũ Hoàng Thư 23 Điệu ru Đường Du Hào 25 Thơ Nguyễn Phước 29 Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu, Những dòng thơ cũ Huỳnh Kim Khanh 30 Thơ Phan Hải Đăng 33 Da rừng Phạm Hồng Ân 36 Thơ Mây Hải Đảo 40 Đất trời đang giữa mùa Xuân Phan Thái Yên 41 Đêm nghe sóng vỗ Lê Đình Quang 43 Thơ Lê Ngọc Trùng Dương 46 Tranh ăn hay đấu trí? Gió Đồng Nội 47 Thơ Lamartine – Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch 49 Bài thơ còn lại Hà Bạch Trúc 50 Thơ Phạm Hồng Ân 53 Báo mộng Ngô Thụy Chương 54 Thơ Lamartine – Lê Ngọc Trùng Dương phỏng dịch 57 Một ngày đầu hạ Meocali 58 Chỉ là giấc chiêm bao Lê Phạm Kim Phượng 60 Thơ Lý Thy Dân 72 Thơ Huỳnh Kim Khanh 74 Biển ân nhân Hoàng Quốc Việt 79 Kỷ niệm đời quân ngũ Lê Ngọc Trùng Dương 101 Thơ Phạm Hồng Ân 110 Thơ Dương Phi 112 Biển – Em – Saigon BĐ KA 113 Dr. Vlad Huỳnh Kim Khanh 115 Thư trả lời một người bạn Lý Văn Thanh 122 Huyền thoại trồng cây Hai Khiêm 125 Tân Tây Du Ký Phong Nhĩ Dị Nhân 128 Từ Vũ và Gái Xuân Lê Minh Sang 134 Bà già trầu thăm con nước ngoài Trịnh Hoài Phương 137 Đêm hội ngộ Võ Anh Tuấn 140 Thoát nợ Mắc Cạn 143 Khúc thu ca Vũ Hoàng Thư 146