cnc yeu cau dat chuan ngoai ngu lieu co phu hop
TRANSCRIPT
Yêu Cầu Đạt Chuẩn Ngoại Ngữ
Liệu Có Phù Hợp?
Gần đây đã có nhiều ý kiến trái chiều về
Yêu Cầu Đạt Chuẩn Ngoại Ngữ tại các
trường Đại Học, Cao Đẳng (ĐHCĐ), phần
tán thành xuất phát từ góc nhìn khi cho rằng
đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam có thể
hội nhập, là cơ sở để tiếp cận các cơ hội kinh
doanh, giao thương và không bị tụt hậu so
với các quốc gia trên thế giới. Việc giỏi một
hoặc một vài ngoại ngữ, trong đó không thể
không đề cập đến tiếng Anh, tiếng Trung,
tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng
Hàn, tiếng Nga lại càng có vai trò quan
trọng khi đây là những ngôn ngữ đại diện
cho các quốc gia hay các nền văn hóa có sự
hiện diện mạnh mẽ tại Việt Nam trong xu
thế quốc tế hóa ngày hôm nay. Tất nhiên,
đây là những ý kiến có giá trị và rất đáng
suy ngẫm, nhưng liệu Yêu Cầu Đạt Chuẩn
Ngoại Ngữ liệu có phải là một yêu cầu phù
hợp và sẽ giúp các bạn Sinh Viên có thêm
cơ hội khi bước ra cuộc sống thực tại. CNC
mong muốn được chia sẻ một số luận điểm
dưới đây để làm rõ hơn vấn đề này.
Có thể xuất phát từ góc độ phát triễn của xã
hội kéo theo sự thay đổi về gốc độ pháp lý
sao cho phù hợp, nên cơ sở để hướng đến
việc đặt ra các yêu cầu đạt chuẩn ngoại ngữ
này qua Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT
ngày 24/01/2014 của Bộ Giáo Dục & Đào
Tạo (GD&ĐT) về việc ban hành Khung
năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt
Nam có mục đích rất rõ ràng và hướng tới
những ý nghĩa tích cực, cụ thể tại Mục I quy
định:
“I. Mục đích 1. Làm căn cứ thống nhất về yêu cầu
năng lực cho tất cả ngoại ngữ được
giảng dạy trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
2. Làm căn cứ xây dựng chương trình,
biên soạn hoặc lựa chọn giáo trình,
sách giáo khoa, kế hoạch giảng dạy,
các tài liệu dạy học ngoại ngữ khác
và xây dựng tiêu chí trong kiểm tra,
thi và đánh giá ở từng cấp học, trình
độ đào tạo, bảo đảm sự liên thông
trong đào tạo ngoại ngữ giữa các
cấp học và trình độ đào tạo.
3. Làm căn cứ cho giáo viên, giảng
viên lựa chọn và triển khai nội dung,
cách thức giảng dạy, kiểm tra, đánh
giá để người học đạt được yêu cầu
của chương trình đào tạo.
4. Giúp người học hiểu được nội dung,
yêu cầu đối với từng trình độ năng
lực ngoại ngữ và tự đánh giá năng
lực của mình.
5. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp
tác, trao đổi giáo dục, công nhận
văn bằng, chứng chỉ với các quốc gia
ứng dụng Khung tham chiếu chung
Châu Âu (CEFR).”
Như vậy, có thể thấy đây là quy định mang
đầy đủ các yếu tố tích cực, rõ ràng và rất cần
thiết trong hệ thống giáo dục, đào tạo của
Việt Nam, và việc hướng dẫn triển khai,
hướng dẫn thực hiện sau đó của các cơ quan
liên quan cũng hướng tới mục đích này. Đây
không còn là vấn đề phải tranh luận hay bàn
cãi, nhưng liệu mục đích này đang được
thực hiện như thế nào trong cuộc sống là
điều mà CNC muốn độc giả được hiểu rõ
hơn.
Sau khi tham khảo các chương trình khung
về đào tạo và các yêu cầu bắt buộc để được
tốt nghiệp tại các trường ĐHCĐ hiện nay,
chúng tôi nhận thấy rằng:
Hầu hết, nếu như không nói là tất cả
những trường ĐHCĐ hiện tại đã và
đang áp dụng khung chuẩn ngoại
ngữ cho các Sinh Viên của mình.
Khung chuẩn này sẽ được lũy tiến
theo thời gian để đạt được cấp độ 6
vào những năm 2020; và
Các Trường ĐHCĐ hoặc các khoa có
đào tạo về một ngôn ngữ sẽ yêu cầu
các Sinh Viên của mình phải có được
một chuẩn về ngoại ngữ của một
ngoại ngữ khác. Ví dụ, Sinh Viên
theo học chuyên Anh Ngữ, thì ngoài
việc vượt qua số tín chỉ trong trương
chình đào tạo chính thức còn phải
học thêm một ngoại ngữ khác, chẳng
hạn tiếng Hàn, tiếng Nhật v.v. (có
thể kể tên các trường ĐHCĐ theo xu
hướng này là Đại học Khoa Học Xã
Hội và Nhân Văn, Đại Học Sư Phạm,
Đại Học Ngoại Ngữ v.v.); và
Tương tự như trường hợp thứ 2 nêu
trên, nếu Sinh Viên nào tham gia học
văn bằng 2 thì cũng phải có thêm
một ngoại ngữ nữa nếu như muốn
được nhà Trường cấp bằng.
Từ đây, chúng ta hãy đi vào phân tích những
bất cập và không mang tính khoa học trong
các “chuẩn” về ngoại ngữ, cụ thể:
Thứ nhất, học ngoại ngữ hay bất kỳ một môn
khoa học nào (Toán, Thể Dục, Thẩm Mỹ
v.v.) cũng cần đến trí thông minh.
Trên thế giới, người ta đã chỉ rõ có ít nhất 7
loại hình trí thông minh (thông minh về
ngôn ngữ học; thông minh về lô-gic; thông
minh về không gian; thông minh về âm
nhạc; trí thông minh cơ thể; thông minh xã
hội; thông minh nội tâm - Đây là 7 kiểu trí
thông minh cơ bản, với những phẩm chất và
khả năng cơ bản. Mỗi kiểu là một cách sử
dụng não bộ khác nhau. Mỗi kiểu đều có thể
được phát triển và bồi đắp chứ không phải là
một điều bẩm sinh và không bao giờ chỉnh
sửa được). Vì vậy, ở mỗi người, ở vào mỗi
giai đoạn khác nhau của cuộc đời, ở vào mỗi
hoàn cảnh sống nhất định, sẽ bộc phát những
loại hình trí thông minh nhất định, và những
loại hình trí thông minh khác sẽ bị mất đi,
hoặc ít nhất là bị ẩn giấu đi.
Điều này có nghĩa rằng, không thể có một
yêu cầu chung về ngoại ngữ cho tất cả mọi
người. Và Albert - Einstein đã có một câu
nói bất hủ để cụ thể hóa cho vấn đề này là:
"Tất cả mọi người đều là thiên tài. Nhưng
nếu ta đánh giá một con cá bằng khả năng
trèo cây, nó sẽ sống cả đời tin rằng mình là
kẻ ngu ngốc".
Hay nói cách khác, khi chúng ta cố gượng
ép để áp dụng cái mục đích cao cả mà chúng
ta tưởng là đúng đắn để buộc các bạn Sinh
Viên phải tuân theo chính là việc đang đi
ngược lại với khoa học, đang đi ngược lại
với sự phát triển của tự nhiên, và sẽ làm thui
chột đi những loại hình trí thông minh khác
mà họ lẽ ra phải dành thời gian để rèn rũa để
phát triển.
Thứ hai, chính việc đặt ra tiêu chuẩn như
vậy đã dẫn đến việc xem trọng bằng cấp, và
xem bằng cấp là một thước đo trong xã hội.
Học ngoại ngữ, ngoài những mục đích giáo
dục mà Thông tư 01 nêu trên đưa ra, thì việc
học ngoại ngữ chính là học văn hóa của một
nước, một vùng lãnh thổ hay một quốc gia
sử dụng ngôn ngữ đó. Nhưng mục đích này
lại không được Thông tư 01 đề cập và cũng
không được chính các bạn Sinh Viên để ý.
Việc học ngoại ngữ của các bạn như là việc
bằng cách nào đó để có thể đạt được chuẩn
mà họ phải theo.
Hàng loạt các Trung Tâm Ngoại Ngữ mọc
lên trên khắp đất nước Việt Nam, nhưng thử
hỏi được bao nhiêu Trung Tâm như vậy đề
cập đến vấn đề ngôn ngữ, văn hóa, được bao
nhiêu trung tâm như vậy hiểu hết được giá
trị và ý nghĩa của một ngôn ngữ mà họ đang
đại diện?, Hầu như tất cả các Trung tâm
Ngoại Ngữ được dựng lên với mục tiêu hàng
đầu là đảm bảo “luyện” cho các bạn Sinh
Viên đạt được chuẩn ngoại ngữ mà hệ thống
giáo dục đang yêu cầu.
Xin lưu ý rằng, luyện kỹ năng để đạt được
điểm số, để đạt được bằng cấp là khác hoàn
toàn so với rèn luyện để thành thạo một
ngoại ngữ, bởi ở đó nhu cầu được thưởng
thức, được trải nghiệm, được mở mang kiến
thức, được mở rộng tầm nhìn, được giao lưu
với những nền văn hóa trên thế giới sẽ giúp
cho người học ngoại ngữ thấy hạnh phúc, tự
hào và thấy bản thân có thể lĩnh hội và thấu
hiểu nó, còn học để lấy điểm số, lấy bằng
cấp chỉ là áp lực, là những nỗi sợ vô hình, đè
nén những bạn Sinh Viên.
Tuy nhiên, điều đó còn không đáng sợ và
không đáng nguy hiểm như hiện nay khi
Sinh Viên không có bằng cấp, không có đủ
chuẩn ngoại ngữ như vậy thì sẽ không có cơ
hội để nhận được tấm bằng Đại Học; và
không có Bằng Đại học thì cũng có nghĩa
điều kiện “tiên quyết” để ứng tuyển vào một
doanh nghiệp cũng theo đó mà bay mất/ bị
lỡ mất. Không biết tự khi nào trong các yêu
cầu tuyển dụng của doanh nghiệp lại để “Tốt
Nghiệp Đại Học” như là một điều kiện tất
yếu, hiển nhiên?
Chuẩn ngoại ngữ thậm chí không chỉ dừng ở
bậc đào tại ĐHCĐ, chuẩn ngoại ngữ thậm
chí còn được được yêu cầu cho bậc sau đại
học (nghiên cứu sinh), và yêu cầu về chuẩn
ngoại ngữ này rõ ràng là cao hơn so với bậc
đại học. Thử dừng lại và tự hỏi chúng ta một
câu hỏi nhỏ: “for what?” – “để làm gì” với
yêu cầu đó? Phải chăng, chuẩn đó như là
một đòi hỏi tất yếu để đảm bảo một người có
thể nghiên cứu về đề tài mà họ đang theo
đuổi?!
Một xã hội trọng bằng cấp cũng từ đó mà ra,
từ chính những quy định tưởng chừng như
tốt, như hữu ích, như là đúng đắn nhưng
thực ra lại là những mệnh lệnh hành chính
cứng nhắc, và việc quản lý xã hội bằng
những nghiệp vụ hành chính thiếu linh động
rồi hy vọng vào một điều gì đó có thể tốt đẹp
hơn như chính những chuẩn mực đã đặt ra
ban đầu là điều rất khó khả thi.
Thật đáng lo ngại và đáng để suy ngẫm khi
trong xã hội rộ lên một trào lưu “sưu tầm
bằng cấp”. Không chỉ dừng ở bằng Đại Học,
giờ phải là hai bằng Đại Học; không chỉ là
bậc đào tạo Đại Học, giờ phải là sau đại học
(thạc sĩ, tiến sĩ); không phải chỉ giỏi về lĩnh
vực mình nghiên cứu, mà phải giỏi về tất cả
các lĩnh vực, từ ngoại ngữ đến tin học;…Đã
không ít trường hợp chúng tôi bắt gặp những
bạn Sinh Viên trường Luật hoặc ít nhất là
học Khoa Luật của một trường Đại Học
nhưng đi làm kế toán, bởi bạn đã dành thêm
gần 4 tháng để học thêm nghiệp vụ kế toán.
Dĩ nhiên không thể phủ định nhu cầu muốn
học hỏi và tự nâng cao trình độ ở mỗi người
nhưng sẽ không tránh khỏi những tiêu cực
phát sinh: ai cũng cố sưu tầm cho được càng
nhiều bằng cấp càng tốt, và xem đây như là
những tấm bùa, như là một tờ giấy thông
hành, như là một vật bảo vệ trước các yêu
cầu về bằng cấp, và không biết tự bao giờ
mọi cơ chế và suy nghĩ đều hướng con
người ta đến học vị, bằng cấp , không có
bằng cấp thì không thể làm gì được thảy. Từ
đó dẫn đến tâm lý coi trọng bằng cấp, đỗ
đạt, tâm lý muốn vào đại học bằng mọi
giá… ở nước ta lại được sự hỗ trợ của việc
cánh cửa vào đại học, cao đẳng ngày càng
nới lỏng. Trong khi đó, các trường trung
cấp, dạy nghề mỗi năm lại hụt thêm chỉ tiêu
đầu vào. Thừa thầy, thiếu thợ không phải
đến bây giờ mới được nói tới. Và dường
như, bất chấp nhiều nỗ lực của xã hội, thực
trạng này ngày càng nặng nề hơn, thậm chí
nó còn dẫn đến hệ lụy khác: thầy không ra
thầy, mà thợ cũng không ra thợ.
Người ta đã quyên đi mục đích và ý nghĩa
đích thực của việc học là để tìm hiểu, là để
khám phá thế giới, khám phá bản thân, là để
tìm ra những khả năng còn tiềm ẩn trong
chính con người, trong chính xã hội mà họ
đang sống thay vì học là để có được điểm
số, để có được bằng cấp.
Thứ ba, việc yêu cầu học một ngoại ngữ
khác như vậy cũng đang gián tiếp làm nghèo
đi nền kinh tế của đất nước, tại sao vậy?
Bởi vì, khi tiêu chuẩn về bằng cấp, về điểm
số được đặt ra hàng đầu thì Sinh Viên phải
tìm Trung Tâm để rèn, để luyện, và thời gian
để các bạn tập trung vào việc học một cái gì
đó có ý nghĩa với cuộc đời của họ bị rút
ngắn đi, và cũng bởi vậy mà chẳng có gì
sáng tạo được các bạn Sinh Viên tạo ra trong
suốt quãng đời Sinh Viên của mình. Phải
nhớ rằng, để học một ngoại ngữ người ta
phải đầu tư vào đó nhiều hơn 50% thời gian
trong tổng quỹ thời gian mà bất kỳ một
người nào có, để có thể đảm bảo được tính
“lưu loát” và “thuần thục” trong việc sử
dụng một ngôn ngữ, vậy điều gì đến với yêu
cầu 2 ngoại ngữ xin những người trong cuộc
cho lời giải.
Việc ban hành chuẩn ngoại ngữ với mục
đích như đã nói ở trên là rất tốt, là rất hữu
ích tuy nhiên họ đã không đặt chính họ vào
người thực thi nó, họ đã không đi đúng theo
những nghiên cứu khoa học hay chính xác
hơn là đã lãng quên đi các nghiên cứu về
những loại hình trí thông minh mà con
người nắm giữ.
Nền kinh tế còn bị nghèo đi, lạc hậu đi bởi
yêu cầu chuẩn ngoại ngữ khi tiền để theo
học tại các Trung Tâm không hề rẻ một chút
nào. Mỗi người đọc bài viết và tự xem là đã
thuần thục một ngoại ngữ nhất định, xin hãy
dành một phút và tổng kết lại lượng tiền tệ
(tài chính) mà mình đã bỏ ra để theo học
một ngoại ngữ như vậy, và tự tìm thấy ở đâu
đó câu trả lời của mình. Rõ ràng, nếu như
không có một quy định như vậy, có khi nào
bạn đã dành số tiền đó để làm điều mà bạn
khát khao, bạn ước mong theo đuổi, và cũng
biết đâu, bạn đã có thêm thời gian để nhận ra
và nắm lấy những cơ hội được tạo ra trước
mặt mình, nay tìm lại không còn nữa.
Trong suốt những năm tháng theo học tại
trường ĐHCĐ, nếu thời gian bạn dùng để
trải nghiệm cuộc sống, dùng để biến điều
bạn khát khao, đam mê thành hiện thực thì
hiện giờ bạn sẽ như thế nào.
Thứ tư, đó là vấn đề về lòng tự hào dân tộc.
Như đã nói, học một ngôn ngữ chính là
mình đang học một nền văn hóa (mà Ngôn
Ngữ là một thành phần đặc biệt quan trọng),
sự chênh lệch quá rõ giữa số lượng người
nước ngoài học tiếng Việt và số lượng người
Việt học một ngoại ngữ khác chỉ càng chứng
tỏ rằng tiếng Việt đẹp đẽ của chúng ta đang
không có một chỗ đứng nào cả trên thế giới,
và chúng ta cũng chẳng có niềm tự hào nào
về ngôn ngữ của cha ông ta cả.
Tất nhiên, đây không phải là sự so sánh giữa
tiếng Việt và ngôn ngữ nước ngoài vì mọi sự
so sánh đều khập khiểng, mà chúng tôi chỉ
muốn dùng tình trạng đó để nói lên một thực
tại là vị thế ngôn ngữ của chúng ta cũng biểu
hiện một phần vị thế quốc gia khi hội nhập.
Chúng tôi hiểu rõ, để một ngôn ngữ được
nhiều người theo đuổi thì nó phụ thuộc rất
nhiều vào các yếu tố như (i) lịch sử; (ii) tính
chất đẹp đẽ của ngôn ngữ; (iii) sự phát triển
của nền kinh tế mà ngôn ngữ đó đang được
sử dụng; (iv) tính chất dễ dàng, thuận tiện
của việc học và sử dụng ngôn ngữ đó; (v)
v.v. Do vậy, chúng tôi chỉ muốn nói rằng:
Mọi giải pháp đều không thể giải quyết triệt
để một thực trạng khi cả trong chính sách và
tâm lý xã hội chưa thực sự thể hiện được
cách nhìn nhận đúng đắn cho vấn đề này. Sẽ
luôn có hai mặt đối lập là: tích cực và tiêu
cực luôn tồn tại trong mỗi một hiện tượng.
Nhưng quan trọng hơn hết là cách chúng ta
nhìn nhận và tiếp cận chúng ở khía cạnh và
góc độ nào thì mới mang lại được hiệu quả
tích cực cao nhất để từ đó thấy rằng: Hiển
nhiên, những quy định về tiêu chuẩn ngoại
ngữ đã được đề cập là hữu ích vì mục đích
tiến bộ và phát triễn mạnh mẽ cho một đất
nước muốn hội nhập sâu rộng và bền vững
trong tương lai như Việt Nam nhưng điều
chúng ta thấy trước tiên là quy định ấy chưa
phù hợp với thực tiễn và tình hình chung
hiện nay khi mà điều kiện của đa số các bạn
sinh viên ở những bậc đào tạo khác nhau
còn nhiều hạn chế và còn bởi xuất phát từ
nhiều rào cản đã được phân tích như trên.
Thứ năm, đó là cơ hội trực tiếp của các bạn
Sinh Viên bị tước đoạt một cách không
thương tiếc.
Bạn cứ hãy hình dung, mọi người có ngang
nhau về những cơ hội được làm việc, được
cống hiến nhưng khi bạn đặt ra chỉ tiêu phải
tốt nghiệp Đại Học, thì tất cả những người
không có bằng Đại Học sẽ bị loại ngay vòng
đầu tiên, tiếp đến khi bạn đặt ra chỉ tiêu phải
thông thạo một ngoại ngữ nhất định, bạn
cũng đang loại đi những cơ hội của những
người không thông thạo ngoại ngữ đó, và cứ
như vậy, cứ như vậy, những cơ hội của
những người không giỏi ở loại hình trí thông
minh ngôn ngữ sẽ bị tước đi (i) số lượng; và
(ii) chất lượng của cơ hội mà họ có thể có.
Thế nên, hãy nhìn lại yêu cầu về ngoại ngữ
để có cái nhìn thực tế và bao quát hơn về các
mục đích mà Thông tư 01 đang hướng tới.
Dẫu vậy, chúng tôi cũng một lần nữa nêu rõ
rằng:
Chúng tôi không phản đối hay bất đồng về
việc khuyến khích học, hiểu về một ngôn
ngữ, nhưng chúng ta cũng cần thấy rằng xây
nhà phải xây từ nền móng vững chắc, không
thể xây bằng phần ngọn như hiện tại. Điều
này có nghĩa rằng, thay vì yêu cầu các chuẩn
về ngoại ngữ, người ta nên đẩy mạnh hoạt
động tự nghiên cứu, tự lựa chọn lĩnh vực,
ngành nghề mà mỗi người sẽ theo đuổi, từ
đó mới có khả năng phát huy trí tuệ/trí thông
minh mà họ có, hoặc ít nhất là để họ được
sống với niềm đam mê, với khát khao được
thể hiện chính bản thân họ; Hơn nữa, cũng là
để phù hợp với sự phân cấp nghề nghiệp
trong xã hội vì mỗi người chỉ có thể làm tốt
nhất khi họ được đặt ở đúng vị trí của mình
khi đó mới có thể phát huy tốt nhất khả
năng, sở trường vốn có gắn với niềm đam
mê cá nhân sẽ là động lực rất quan trọng để
bản thân từng người biết cách lựa chọn và
phấn đấu để đáp ứng cho những yêu cầu
chung trong nghề nghiệp của họ cũng như
những yêu cầu và tiêu chuẩn riêng cần phải
thích ứng về ngoại ngữ.
Để làm được những điều đó, các yêu cầu về
những môn học cơ sở, về những bài giảng
còn mang nặng tính lý thuyết nhưng không
có tính áp dụng trên thực tế và những môn
học không thực sự thiết thực v.v. cần được
nhìn nhận lại. Thiết nghĩ, trong tổng số thời
gian theo học của hệ thống giáo dục ĐHCĐ,
thời gian để học những vấn đề ngoài luồng
đã chiếm tới ½ những nội dung trong
chương trình đào tạo. (Cụ thể: khối lượng
của mỗi chương trình từ 180 – 190 tín chỉ
đối với khoá đại học 6 năm; 150 – 160 tín
chỉ đối với khoá đại học 5 năm; 130 – 140
tín chỉ đối với khoá đại học 4 năm; 90 –100
tín chỉ đối với khoá cao đẳng 3 năm hoặc
Liên thông từ TCCN lên Đại học; 60 – 70
tín chỉ đối với Liên thông từ Cao đẳng lên
Đại học 2 năm).
Do vậy, cần nghiêm túc chú trọng vào việc
cải cách chất lượng, cung cấp khối lượng
kiến thức thực sự hữu ích, nếu cần hãy giảm
bớt những môn học “ra rời thực tế” vì không
có tính vận dụng để tiết kiệm thời gian đó
cho việc sinh viên tập trung nghiên cứu kỹ
tài liệu cần thiết và thực hành nhiều hơn sẽ
mang lại hiệu quả cho việc hiểu, khắc sâu
kiến thức hơn. Bởi, điều cốt lõi trong việc
đào tạo mà mọi thời đại đều hướng đến vẫn
là: THỰC HỌC và THỰC LÀM ? Và cũng
đừng để việc học trở thành áp lực, nó có thể
là con dao hai lưỡi vừa thúc đẩy nhưng cũng
vừa kiềm hãm niềm đam mê học hỏi, tư duy
sáng tạo để kích thích mỗi cá nhân luôn vận
động và phát triễn theo thiên hướng tự
nhiên. Đó mới là quy luật nội tại của sự phát
triễn.
Mọi ý kiến thắc mắc hoặc đóng góp cho bài
viết, xin quý độc giả gửi về địa chỉ:
Công ty TNHH Tư Vấn CNC Việt Nam Lầu 8, Tòa nhà Vietnam Business Center, Số 57-59
Hồ Tùng Mậu, Quận 1
Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam
[W] www.consultantcnc.com
[E]: [email protected]