chuyÊn ĐỀ: kiẾn thỨc chung vỀ phÁp luẠt...

605
Chuyên đề 1 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THANH TRA I. BỒI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT THANH TRA 1. Bối cảnh và yêu cầu xây dựng Luật Thanh tra Luật Thanh tra năm 2004 sau khi có hiệu lực đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Căn cứ vào quy định của Luật này và chương trình kế hoạch hoạt động của mình, hàng năm, các cơ quan thanh tra đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, thanh tra chuyên ngành...và thanh tra theo đơn thư khiếu nại, tố cáo. Thông qua thanh tra đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện nhiều quy định của Luật Thanh tra năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Những hạn chế này tập trung ở các vấn đề sau: Thứ nhất, những bất cập liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và phương thức hoạt động thanh tra. - Luật Thanh tra chưa thể hiện rõ cơ quan thanh tra vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, vừa là công cụ hữu hiệu tiến hành thanh tra phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, có nơi coi thanh tra chỉ đơn thuần là công cụ của Thủ trưởng cơ quan quản lý. Trong hoạt động, các cơ quan thanh tra chưa phát huy 1

Upload: others

Post on 10-Jan-2020

10 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Chuyên đề 1

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THANH TRA

I. BỒI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT THANH TRA

1. Bối cảnh và yêu cầu xây dựng Luật Thanh tra

Luật Thanh tra năm 2004 sau khi có hiệu lực đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Căn cứ vào quy định của Luật này và chương trình kế hoạch hoạt động của mình, hàng năm, các cơ quan thanh tra đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, thanh tra chuyên ngành...và thanh tra theo đơn thư khiếu nại, tố cáo. Thông qua thanh tra đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện nhiều quy định của Luật Thanh tra năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Những hạn chế này tập trung ở các vấn đề sau:

Thứ nhất, những bất cập liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và phương thức hoạt động thanh tra.

- Luật Thanh tra chưa thể hiện rõ cơ quan thanh tra vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, vừa là công cụ hữu hiệu tiến hành thanh tra phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, có nơi coi thanh tra chỉ đơn thuần là công cụ của Thủ trưởng cơ quan quản lý. Trong hoạt động, các cơ quan thanh tra chưa phát huy được tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

- Qua tổng kết thực hiện Luật Thanh tra cho thấy, quyền hạn của cơ quan thanh tra chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Mục đích của hoạt động thanh tra là phòng ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật, nhưng khi cơ quan thanh tra phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật lại không có quyền quyết định tiến hành thanh tra. Luật hiện hành cũng chưa quy định các cơ quan thanh tra giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thanh tra lại những vụ việc đã được cơ quan cấp dưới kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; chưa quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ việc tổng hợp, báo cáo kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra.

1

- Về tổ chức cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực, Luật Thanh tra chỉ quy định có Thanh tra bộ, Thanh tra sở. Hiện nay nhiều bộ được giao quản lý đa ngành, đa lĩnh vực nên cơ cấu tổ chức nhiều bộ có tổng cục, cục thuộc bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý theo phân cấp, vì vậy ở một số tổng cục, cục thuộc bộ đã thành lập cơ quan thanh tra và hoạt động có hiệu quả. Ở một số Sở còn có Chi cục và Thanh tra chi cục trực thuộc. Tuy nhiên, Luật Thanh tra chưa quy định về Thanh tra tổng cục, Thanh tra cục, Thanh tra chi cục dẫn đến việc tổ chức và hoạt động cơ quan thanh tra này còn lúng túng và thiếu thống nhất.

- Các quy định của Luật Thanh tra chưa bảo đảm cho việc thi hành các yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra; chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận thanh tra. Chính vì vậy, nhiều sai phạm được cơ quan thanh tra phát hiện nhưng chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời, làm giảm kỷ cương, kỷ luật hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước.

- Tổ chức và hoạt động thanh tra nhân dân đã được quy định tại Luật Thanh tra. Về bản chất, thanh tra nhân dân là hình thức giám sát tại chỗ, trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của thanh tra nhân dân hoàn toàn khác với thanh tra nhà nước. Vì vậy, việc quy định về thanh tra nhân dân trong Luật Thanh tra là chưa hợp lý, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hoạt động giám sát của tổ chức do nhân dân bầu ra với hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước.

Thứ hai, những năm qua nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, của Chính phủ đã đề cập đến công tác thanh tra. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định: “Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước các cấp… phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với hướng dẫn và thực hiện thanh tra, kiểm tra của cấp trên”; Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ”; Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12/5/2009 ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020: “Nghiên cứu sửa đổi pháp luật về thanh tra theo hướng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước... tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra... tăng cường hiệu lực thi hành các kết luận của cơ quan thanh tra”. Các yêu cầu trên cần phải được thể chế hóa trong Luật Thanh tra sửa đổi lần này.

2

Thứ ba, thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Nhà nước ta đã có chủ trương, chính sách đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có một số thỏa thuận hợp tác quan trọng liên quan đến ngành thanh tra (Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, Hiệp định thương mại thế giới, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ...). Nội dung các văn kiện này có những yêu cầu liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Từ những lý do trên, đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Luật Thanh tra năm 2004 nhằm khắc phục các hạn chế bất cập đang tồn tại trong hoạt động thanh tra, thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác thanh tra, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật Thanh tra

Quá trình nghiên cứu, xây dựng Luật Thanh tra sửa đổi các nội dung của Luật được quán triệt các quan điểm, nguyên tắc sau:

Thứ nhất, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, phương thức hoạt động thanh tra và sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra và những hạn chế, bất cập khác của Luật Thanh tra hiện hành, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra.

Thứ hai, quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra, đặc biệt là việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ ba, bảo đảm phối hợp có hiệu quả giữa các công cụ giám sát, kiểm tra, thanh tra của bộ máy nhà nước và của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ tư, Luật Thanh tra sửa đổi lần này phải dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra; kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Thanh tra năm 2004; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về công tác thanh tra.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THANH TRA HIỆN HÀNH

1. Mục đích và nguyên tắc của hoạt động thanh tra

a) Mục đích của hoạt động thanh tra

3

Mục đích thanh tra là nội dung quan trọng được đề cập trong Luật Thanh tra và mang tính định hướng cho hoạt động của các cơ quan thanh tra. Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì mục đích thanh tra cũng có sự bổ sung, phát triển. Nếu như Luật Thanh tra năm 2004 đề cao mục đích thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thì Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích thanh tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Điều 2 của Luật Thanh tra năm 2010 quy định về mục đích thanh tra như sau: "mục đích thanh tra nhằm phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân".

b) Nguyên tắc hoạt động thanh tra

Nguyên tắc hoạt động thanh tra là những quy tắc chỉ đạo, tiêu chuẩn hành động xuyên suốt trong quá trình tiến hành thanh tra của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra nhà nước. Theo quy định trong Luật Thanh tra năm 2004 thì “ hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng thanh tra”. Qua tổng kết công tác thanh tra cho thấy, về cơ bản nguyên tắc này là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các cơ quan nhà nước thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế công tác thanh tra cũng cho thấy vẫn còn tình trạng trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Để khắc phục tình trạng này, giúp các cơ quan thanh tra hoạt động theo đúng phạm vi được pháp luật quy định, bảo đảm cho công tác thanh tra góp phần thiết thực hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung thêm nguyên tắc hoạt động thanh tra “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra”.

b1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra

Phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - một nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra đòi hỏi tuân thủ nguyên tắc tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra hai yêu cầu căn bản dưới đây:

- Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra phải được thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành về Thanh tra.

4

- Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra. Khi có đầy đủ những căn cứ do pháp luật quy định, cơ quan thanh tra được quyền tiến hành hoạt động thanh tra một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc can thiệp không có căn cứ pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào đều là bất hợp pháp và tùy theo mức độ nặng, nhẹ sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật.

Những đòi hỏi nêu trên có nội dung rất rộng, theo đó, từ chương trình, kế hoạch hoạt động của các tổ chức thanh tra đến việc ra quyết định thanh tra, cử Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên...đến việc kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động thanh tra đều phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật hiện hành.

b2. Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan, dân chủ, công khai, kịp thời trong hoạt động thanh tra

5

Thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp, đảm bảo cho chính sách, pháp luật, kế hoạch được tôn trọng thực hiện. Mỗi kết luận, kiến nghị hay quyết định trong hoạt động thanh tra đều rất quan trọng bởi nó phải làm rõ tính đúng sai, nêu rõ tình hình, tính chất, hậu quả của sự việc, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nếu họ sai phạm và yêu cầu các đối tượng này có những biện pháp tích cực loại trừ những sai phạm đó. Vì vậy, tính chính xác phải được coi là một nguyên tắc của hoạt động thanh tra. Bản thân nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra đã tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo cho nguyên tắc chính xác. Điều này có nghĩa là hoạt động thanh tra phải được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ những căn cứ rõ ràng đã được quy định trong pháp luật; việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn, các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác hoàn toàn phải phù hợp với quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra.

Nguyên tắc khách quan trong hoạt động thanh tra đòi hỏi, mọi công việc tiến hành trong hoạt động này phải xuất phát từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Mọi quyết định, kết luận hay kiến nghị trong hoạt động thanh tra đều phải xuất phát từ thực tiễn khách quan đó chứ không phải là kết quả của việc suy diễn chủ quan, hời hợt hay mang tính áp đặt. Muốn khách quan trong hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra phải có trình độ hiểu biết về chính trị, pháp luật, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ để có thể độc lập, khách quan trong suy nghĩ và hành động của mình.

Công khai, dân chủ là bản chất chế độ xã hội của chúng ta và nó cũng đã trở thành một nguyên tắc trong hoạt động thanh tra. Các quy định pháp luật về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thanh tra đều thể hiện rõ nét những nội dung của nguyên tắc công khai, dân chủ. Nguyên tắc công khai, dân chủ đòi hỏi:

- Nội dung các công việc của hoạt động thanh tra phải được thông báo một cách đầy đủ và rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan biết;

- Cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động thanh tra, đảm bảo phát huy mạnh mẽ tính dân chủ của hoạt động này;

- Các kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra trong hoạt động thanh tra được thông báo công khai cho các đối tượng có liên quan biết.

6

Kịp thời là một yêu cầu mang tính đặc thù trong phương pháp hoạt động của thanh tra. Yêu cầu này nhằm đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những việc làm vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và các cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc kịp thời trong hoạt động thanh tra đòi hỏi:

- Khi có đầy đủ cơ sở tiến hành thanh tra, tổ chức thanh tra có thẩm quyền phải nhanh chóng tiến hành hoạt động thanh tra theo đúng quy định của pháp luật;

- Mọi công việc cần tiến hành trong hoạt động thanh tra đều phải thực hiện trong thời hạn được pháp luật quy định.

b3. Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra

Theo nguyên tắc này: Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cần nghiên cứu, xem xét kỹ các căn cứ và những điều kiện khác có liên quan trước khi ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để tránh trùng lặp, cố gắng tránh hiện tượng có thể xảy ra là 1 năm liên tiếp có nhiều Đoàn kiểm tra, thanh tra đến 1cơ quan, đơn vị, nhất là thanh tra, kiểm tra về cùng 1 nội dung. Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra cần thực hiện đúng kế hoạch thanh tra, đúng quyền hạn, trình tự thủ tục và đúng thời gian, thời hiệu thanh tra.

Thực hiện hoạt động thanh tra nhằm góp phần đảm bảo tuân thủ pháp chế và kỷ luật nhà nước, tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật trao cho cơ quan thanh tra những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt để tiến hành hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục tiêu quan trọng nêu trên. Tuy nhiên, khi tiến hành hoạt động thanh tra, trong đó có việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt này, cơ quan thanh tra phải đảm bảo không cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân là đối tượng thanh tra. Có như vậy, thanh tra mới thực sự là công cụ để củng cố và tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt khi trên thực tế xuất hiện tình trạng một bộ phận cán bộ thanh tra lợi dụng việc thanh tra để thực hiện nhưng hành vi tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của đối tượng thanh tra, đặc biệt là của các đơn vị thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

7

Nguyên tắc này cũng lấy nguyên tắc tuân theo pháp luật làm cơ sở để đảm bảo thực hiện. Luật Thanh tra đã quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra, trong đó có những hành vi bị cấm nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc không cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Khoản 1, Điều 13 Luật Thanh tra cấm “ lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra”.

2. Tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước

a) Tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước

Luật Thanh tra hiện hành không phân định tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước thành lập theo cấp hành chính và tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước thành lập theo ngành, lĩnh vực mà chỉ quy định về các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, bao gồm:

- Cơ quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ; Thanh tra tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh).

- Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (một số Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở).

Việc quy định về tổ chức như trên là nhằm nâng cao tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời xác định rõ đối tượng thanh tra, phạm vi thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra nhà nước với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, khắc phục sự trùng lặp trong hoạt động thanh tra.

Theo quy định của Luật Thanh tra, tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước được xây dựng phải bảo đảm tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, điều hành của cơ quan thanh tra cấp trên với cơ quan thanh tra cấp dưới. Các cơ quan thanh tra phải có tính độc lập, chủ động trong hoạt động thanh tra, nhất là sự chủ động trong kết luận, kiến nghị và xử lý về thanh tra, đồng thời phải quy định cho cơ quan thanh tra cấp trên bổ nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan thanh tra cấp dưới. Tuy nhiên, việc tổ chức các cơ quan thanh tra phải phù hợp với các quy định của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân. Xuất phát từ lý do đó, Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước như sau:

8

a1. Thanh tra Chính phủ

Theo Khoản 5 Điều 18 của Luật Tổ chức Chính phủ, trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp, Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra nhà nước; tổ chức và chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc trách nhiệm của Chính phủ; tại Điều 22 của Luật Tổ chức Chính phủ quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước”. Theo các quy định này thì Thanh tra Chính phủ có địa vị pháp lý như các bộ, cơ quan ngang bộ khác, tức là có địa vị pháp lý độc lập, có phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực riêng, đó là quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Thanh tra Chính phủ có vai trò giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thanh tra tương tự như các Bộ, cơ quan ngang bộ khác và theo đúng quy định của Luật Tổ chức Chính phủ. Đây chính là định hướng đã được xác định rõ tại Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị là “bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ”. Tại Nghị quyết số 21/2009/NQ-CP ngày 12/5/2009 về chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020, cụ thể là “nghiên cứu, sửa đổi pháp luật về Thanh tra theo hướng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước...tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan thanh tra...tăng cường hiệu lực thi hành các kết luận của cơ quan thanh tra”.

Như vậy, Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Cơ cấu của Thanh tra Chính phủ có Tổng Thanh tra Chính phủ, các Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, Thanh tra viên và cán bộ, công chức viên chức. Tổng Thanh tra Chính phủ là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu ngành thanh tra. Tổng Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Phó Tổng Thanh tra Chính phủ giúp Tổng Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Tổng Thanh tra Chính phủ.

a2. Thanh tra bộ

Thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh

9

tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ.

Phó Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra bộ. Phó Chánh Thanh tra bộ giúp Chánh Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ; giúp Chánh Thanh tra bộ phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh Thanh tra bộ về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ có các phòng nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra bộ có con dấu và tài khoản riêng.

Về mặt hoạt động, Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.

a3. Thanh tra tỉnh

Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Thanh tra tỉnh có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ, Phó Chánh Thanh tra tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra tỉnh giúp Chánh Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra tỉnh; giúp Chánh Thanh tra tỉnh phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chánh Thanh tra tỉnh về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh có các phòng nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra tỉnh có con dấu và tài khoản riêng.

10

Về mặt hoạt động, Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.

a4. Thanh tra sở

Thanh tra sở là cơ quan của Sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra sở được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.

Thanh tra sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra sở. Phó Chánh Thanh tra sở giúp Chánh Thanh tra sở thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra sở; giúp Chánh Thanh tra sở phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chánh Thanh tra sở trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra sở có con dấu và tài khoản riêng.

Về mặt hoạt động, Thanh tra sở chịu sự chỉ đạo, điều hành của Giám đốc sở; chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra và hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra tỉnh, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra bộ.

a5. Thanh tra huyện

Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Phó Chánh Thanh tra huyện giúp Chánh Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra huyện và chịu trách nhiệm trước phát luật, trước Chánh Thanh tra huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Thanh tra huyện có con dấu và tài khoản riêng.

11

Về mặt hoạt động, Thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra tỉnh.

b) Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thanh tra và người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước

Quán triệt quan điểm xác định rõ vai trò của các cơ quan thanh tra, đảm bảo hoạt động thanh tra thực sự có hiệu lực, hiệu quả, Luật Thanh tra năm 2010 đã tập trung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra cũng như người đứng đầu các cơ quan này. Đồng thời, phận định, làm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan thanh tra. Các nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra trong Luật Thanh tra năm 2010 về cơ bản được kế thừa từ Luật Thanh tra năm 2004, song Luật Thanh tra lần này đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn mới cho các cơ quan thanh tra. Cụ thể là:

- Bổ sung việc quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho Chánh thanh tra các cấp, các ngành. Việc bổ sung quyền năng này là nhằm tăng cường tính chủ động cho người đứng đầu các cơ quan thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, bảo đảm tính linh hoạt, nhanh nhạy của thanh tra trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

- Xác định rõ việc thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định thành lập. Đây là nội dung được bổ sung nhằm làm rõ hơn nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra đối với đối tượng thanh tra là các doanh nghiệp.

- Bổ sung việc kiển tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp.

- Bổ sung việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kết luận thanh tra; quyết định thanh tra lạivụ việc đã được thủ trưởng cơ quản quản lý cấp dưới của thủ trương cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp vụ việc đã được các cơ quan thanh tra cấp dưới tiến hành thanh tra, song vì lý do nào đó mà không thể phát hiện hết các vi phạm pháp luật, do vậy Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung quyền thanh tra lại vụ việc đã được thủ trưởng cơ quản quản lý cấp dưới của thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng thanh tra cấp trên phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nhằm

12

đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống các vi phạm pháp luật hiện nay, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện và xử lý kịp thời.

b1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ và người đứng đầu cơ quan Thanh tra Chính phủ

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ

Trong quản lý nhà nước về thanh tra, Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn: xây dựng chiến lược, định hướng chương trình, văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra trình cấp có thẩm quyền ban hành, phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền; hướng dẫn, tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh tra; lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ; hướng dẫn Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra; chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra; bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức bộ máy, biên chế thanh tra các cấp, các ngành, điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên các cấp, các ngành; yêu cầu Bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Bộ), Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo về công tác thanh tra, tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, tổng kết kinh nghiệm về công tác thanh tra, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ; thực hiện hợp tác quốc tế về công tác thanh tra.

Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn như thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi cần thiết; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao.

13

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thanh tra Chính phủ

Tổng Thanh tra Chính phủ là thành viên của Chính phủ. Với tư cách là người chịu trách nhiệm cao nhất trước Chính phủ về công tác thanh tra, Tổng Thanh tra có nhiệm vụ: lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ; lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thanh tra và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng chương trình thanh tra và tổ chức triển khai định hướng chương trình thanh tra; chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các Thanh tra bộ; giữa Thanh tra bộ với Thanh tra tỉnh; xem xét xử lý vấn đề mà Chánh Thanh tra bộ không nhất trí với Bộ trưởng, Chánh Thanh tra tỉnh không nhất trí với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về công tác thanh tra. Trường hợp Bộ trưởng không đồng ý với kết quả xử lý của Tổng Thanh tra Chính phủ thì Tổng Thanh tra Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

14

Tổng Thanh tra Chính phủ có quyền quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; đề nghị Bộ trưởng, yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của bộ, của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình; kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ quy định do Bộ đó ban hành trái với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, của Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra; trường hợp Bộ trưởng không đình chỉ hoặc không hủy bỏ văn bản đó thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ quy định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, của Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc huỷ bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của Thủ tướng Chính phủ có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.

b2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra bộ và người đứng đầu cơ quan Thanh tra bộ

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra bộ.

15

Để giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn: xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra bộ; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ; hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ, Thanh tra sở; hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng, Thanh tra bộ.

Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập; thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do Bộ phụ trách; kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ khi cần thiết; thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó, Thanh tra bộ còn có một số nhiệm vụ: hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ; tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành cho Thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành và công chức làm công tác thanh tra thuộc Bộ, ngành minh; tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Bộ thực hiện các quy định pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra bộ

16

Chánh Thanh tra bộ có nhiệm vụ: lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; lãnh đạo Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thanh tra và các quy định khác của pháp luật có liên quan; chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; phối hợp với Chánh Thanh tra tỉnh giải quyết việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trên địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương.

Chánh Thanh tra bộ có quyền quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về quyết định của mình; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ trưởng giao; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan đó khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về quyết định của mình; kiến nghị Bộ trưởng tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sai trái về thanh tra của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ; kiến nghị Bộ trưởng giải quyết vấn đề liên quan đến công tác thanh tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc huỷ bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; kiến nghị Bộ trưởng xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của Bộ trưởng có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.

Ngoài ra, Chánh Thanh tra bộ còn nhiệm vụ: báo cáo Bộ trưởng, Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm của mình; tham mưu, đề xuất với Bộ trưởng việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành đối với Tổng cục, Cục thuộc Bộ; thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Bộ trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra.

17

b3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh và người đứng đầu cơ quan Thanh tra tỉnh

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra tỉnh.

Trong quản lý nhà nước về thanh tra, Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó; yêu cầu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (sau đây gọi chung là Sở), Uỷ ban nhân dân cấp huyện báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra; chỉ đạo công tác thanh tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra hành chính đối với Thanh tra sở, Thanh tra huyện; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thanh tra tỉnh.

Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra tỉnh có quyền hạn: thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của Sở, của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm của nhiều Sở, Uỷ ban nhân dân cấp huyện; thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao; kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi cần thiết; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Bên cạnh đó, Thanh tra tỉnh còn có một số nhiệm vụ sau: hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của Thanh tra sở, Thanh tra huyện; tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra hành chính cho Thanh tra viên, công chức làm công tác thanh tra của Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện; tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Sở, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra tỉnh.

Chánh Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; lãnh đạo Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối

18

tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các Thanh tra sở, giữa Thanh tra sở với Thanh tra huyện; chủ trì phối hợp với Chánh Thanh tra bộ xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trên địa bàn Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương; xem xét xử lý vấn đề mà Chánh Thanh tra sở không nhất trí với Giám đốc sở, Chánh Thanh tra huyện không nhất trí với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện về công tác thanh tra. Trường hợp Giám đốc sở không đồng ý với kết quả xử lý của Chánh Thanh tra tỉnh thì Chánh Thanh tra tỉnh báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Chánh Thanh tra tỉnh có quyền quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quyết định của mình; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Giám đốc sở kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; yêu cầu Giám đốc sở, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thanh tra trong phạm vi quản lý của Sở, Uỷ ban nhân dân cấp huyện khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quyết định của mình; kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết vấn đề về công tác thanh tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.

Ngoài ra, Chánh Thanh tra tỉnh còn có những nhiệm vụ sau: báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm của mình; thanh tra trách nhiệm của Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; phối hợp với Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc xác định cơ cấu, tổ chức, biên chế, chế độ, chính sách đối với Thanh tra sở, Thanh tra huyện; phối hợp với Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân

19

dân cấp huyện trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển, điều động Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra huyện và các chức danh thanh tra; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra.

b4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra sở và người đứng đầu cơ quan Thanh tra sở

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra sở.

Với vị trí là cơ quan của Sở, Thanh tra sở không thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh tra, cho nên Điều 24 Luật Thanh tra không chia nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra sở trong quản lý nhà nước và nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra mà xác định nhiệm vụ, quyền hạn chung của của Thanh tra sở bao gồm:

Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Giám đốc sở phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra sở; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở; thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Sở; thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở giao; hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc Sở thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc sở báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý của Sở; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Giám đốc sở, Thanh tra sở; kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Sở khi cần thiết; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Ngoài ra, Thanh tra sở còn có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở; tổ chức việc tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành cho Thanh tra viên, công chức làm công tác thanh tra thuộc Sở và công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra

20

chuyên ngành thuộc cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở; tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Sở.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra sở

Chánh Thanh tra sở có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý của Sở; lãnh đạo Thanh tra sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thanh tra và các quy định khác của pháp luật có liên quan; xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trong phạm vi được phân cấp quản lý nhà nước của Sở.

Chánh Thanh tra sở có quyền quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Giám đốc sở về quyết định của mình; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Giám đốc sở giao; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở tiến hành thanh tra trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan đó khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Sở không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Giám đốc sở về quyết định của mình; kiến nghị Giám đốc sở tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sai trái về thanh tra của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở; kiến nghị Giám đốc sở giải quyết vấn đề về công tác thanh tra, trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Chánh Thanh tra tỉnh hoặc Chánh Thanh tra bộ; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc huỷ bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; kiến nghị Giám đốc sở xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của Giám đốc sở có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.

21

Ngoài ra, Chánh Thanh tra sở còn có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: báo cáo Giám đốc sở, Chánh Thanh tra tỉnh, Chánh Thanh tra bộ về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm của mình; thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra.

b5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện và người đứng đầu cơ quan Thanh tra huyện

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện.

Trong quản lý nhà nước về thanh tra, Thanh tra huyện có nhiệm vụ, quyền hạn: xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó; báo cáo kết quả về công tác thanh tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Thanh tra huyện.

Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra huyện có nhiệm vụ, quyền hạn: thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, của Uỷ ban nhân dân cấp Xã; thanh tra vụ việc phức tạp, có liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp Xã; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao.

Ngoài ra, Thanh tra huyện còn có nhiệm vụ tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp Xã trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra huyện

Chánh Thanh tra huyện có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp huyện; lãnh đạo Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

22

Chánh Thanh tra huyện có quyền quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về quyết định của mình; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc huỷ bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết vấn đề về công tác thanh tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Chánh Thanh tra tỉnh; kiến nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức khác xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.

Ngoài ra, Thanh tra huyện còn có nhiệm vụ Báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chánh Thanh tra tỉnh về công tác thanh tra trong phạm vi trách nhiệm của mình; thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp Xã trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan tham gia hoạt động thanh tra.

c) Tiêu chuẩn thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra

c1. Thanh tra viên

Thanh tra viên là công chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan Công an nhân dân được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Thanh tra viên được cấp trang phục và thẻ ngành thanh tra. Thanh tra viên phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Thanh tra viên có các tiêu chuẩn sau đây:

- Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan;

- Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và am hiểu pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó;

23

- Có văn bằng hoặc chứng chỉ về nghiệp vụ thanh tra;

- Có ít nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự), trừ trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác từ 05 năm trở lên chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước.

Thanh tra viên có các ngạch như sau: Thanh tra viên; Thanh tra viên chính; Thanh tra viên cao cấp.

c2. Cộng tác viên thanh tra

Cộng tác viên thanh tra là người được cơ quan thanh tra nhà nước trưng tập tham gia Đoàn Thanh tra. Cộng tác viên thanh tra là người không thuộc biên chế của các cơ quan thanh tra nhà nước.

Cộng tác viên thanh tra có tiêu chuẩn là công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra của cơ quan trưng tập.

Khi tham gia thành viên Đoàn Thanh tra, cộng tác viên thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Đoàn Thanh tra theo quy định của pháp luật thanh tra.

3. Tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Luật Thanh tra năm 2004 không quy định việc thành lập cơ quan thanh tra ở các tổng cục, cục và chi cục, song trên thực tế đã có không ít tổng cục, cục, chi cục thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành, song trên thực tế đã có không ít Tổng cục, Cục, Chi cục thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành. Theo kết quả tổng kết thực hiện hiện Luật Thanh tra năm 2004 thì các cơ quan thanh tra chuyên ngành đã góp phần phát hiện xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự kỷ luật, kỷ cương hành chính trên các lĩnh vực. Tuy nhiên việc thành lập các cơ quan thanh tra này đã dẫn đến hoạt động thanh tra bị trùng lặp về phạm vi; làm tăng biên chế, tổ chức bộ máy nhà nước; các cơ quan thanh tra ngày càng bị chia cắt. Mặc dù vậy, nếu khắc phục nhược điểm này bằng cách xóa bỏ các cơ quan thanh tra chuyên ngành ở các Tổng cục, Cục, Chi cục và giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho Thanh tra bộ, Thanh tra sở thì nhiều Thanh tra bộ, Thanh tra sở không thể đảm nhận được, vì nhiệm vụ thanh tra ngày càng lớn, trong khi đó số lượng biên chế của những cơ quan thanh tra là rất hạn chế.

24

Để đảm bảo được yêu cầu xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các vi phạm xảy ra ngày càng nhiều trong một số lĩnh vực liên quan đến đời sống sinh hoạt của nhân dân và khắc phục được khó khăn trên, Luật Thanh tra năm 2010 đã giao chức năng thanh tra chuyên ngành ở ngành, lĩnh vực cho các Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở thực hiện. Đây là nội dung phản ánh sự đổi mới về nhận thức trong tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì không phải bất kỳ Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở nào cũng được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành mà việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành phải xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý nhà nước và các cơ quan nào được giao thực hiện chức năng thanh tra này sẽ do Chính phủ quy định theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng.

Ngoài ra, để tránh việc thành lập các cơ quan thanh tra ở các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra cũng khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập mà hoạt động thanh tra ở các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thực hiện, tức là Thủ trưởng có trách nhiệm trực tiếp xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, thành lập Đoàn Thanh tra, cử cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành do chính các công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đó thực hiện. Quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các công chức được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra, được quyền xử phạt vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định, hành vi của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

a) Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

a1. Tổng cục và tương đương, Cục thuộc bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

+ Bộ Công thương: Cục Quản lý thị trường, Cục Hóa chất, Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp.

+ Bộ Giao thông vận tải: Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đường sắt Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam.

+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tổng cục Thống kê.

25

+ Bộ Khoa học và Công nghệ: Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân.

+ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Tổng cục Dạy nghề, Cục Quản lý Lao động ngoài nước.

+ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tổng cục Thủy lợi; Tổng cục Lâm nghiệp; Tổng cục Thủy sản; Cục Thú y; Cục Bảo vệ thực vật; Cục Trồng trọt; Cục Chăn nuôi; Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản; Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn; Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối.

+ Bộ Ngoại giao: Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài.

+ Bộ Nội vụ: Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ.

+ Bộ Tài nguyên và Môi trường: Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Tổng cục Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai.

+ Bộ Tài chính: Tổng cục Thuế; Tổng cục Hải quan; Kho bạc Nhà nước; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Tổng cục Dự trữ Nhà nước; Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm.

+ Bộ Thông tin và Truyền thông: Cục Tần số vô tuyến điện; Cục Viễn thông; Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử; Cục Báo chí; Cục Xuất bản.

+ Bộ Y tế: Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; Cục Quản lý dược; Cục Quản lý khám, chữa bệnh; Cục Quản lý môi trường y tế; Cục Y tế dự phòng; Cục An toàn vệ sinh thực phẩm.

a2. Cục thuộc tổng cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

+ Cục Dự trữ Nhà nước khu vực.

+ Cục Hải quan.

+ Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

+ Cục Thuế.

+ Cục Thống kê.

a3. Chi cục thuộc sở, Chi cục thuộc cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

26

+ Cảng vụ Hàng không, Cảng vụ Hàng hải, Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam.

+ Chi cục Thuế.

+ Trung tâm Tần số khu vực.

+ Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương.

+ Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế.

+ Chi cục về bảo vệ thực vật, thú y, thủy sản, quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, thủy lợi, đê điều, lâm nghiệp, phát triển nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

b) Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

b1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục và tương đương, Cục thuộc bộ, Cục thuộc Tổng cục và tương đương, Chi cục thuộc sở, Chi cục thuộc cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

- Tổng cục và tương đương (sau đây gọi chung là Tổng cục); Cục thuộc bộ; Chi cục thuộc sở có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Xây dựng kế hoạch thanh tra gửi Thanh tra bộ, Thanh tra sở tổng hợp trình Bộ trưởng, Giám đốc sở phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó;

+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực;

+ Thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở giao;

+ Thanh tra những vụ việc khác do Bộ trưởng, Giám đốc sở giao;

+ Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của mình;

+ Tổng hợp, báo cáo kết quả thanh tra chuyên ngành với Thanh tra bộ, Thanh tra sở.

27

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Cục thuộc tổng cục và tương đương, Chi cục thuộc Cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; Cục trưởng thuộc tổng cục và tương đương, Chi cục trưởng thuộc cục và tương đương; chế độ thông tin, báo cáo, hoạt động thanh tra chuyên ngành của Cục thuộc tổng cục và tương đương, Chi cục thuộc cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể.

b2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục trưởng và tương đương, Cục trưởng thuộc bộ, Chi cục trưởng thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Tổng cục trưởng và tương đương (sau đây gọi chung là Tổng cục trưởng); Cục trưởng thuộc bộ; Chi cục trưởng thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra chuyên ngành được giao.

+ Quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của Bộ trưởng, Chánh Thanh tra bộ, Giám đốc sở, Chánh Thanh tra sở; phân công công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành.

+ Kiến nghị người có thẩm quyền xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan mình.

+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra.

+ Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

c) Tiêu chuẩn của người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

- Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức thuộc biên chế của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (sau đây gọi là công chức thanh tra chuyên ngành) có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của ngạch công chức đang giữ và các tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

+ Am hiểu pháp luật, có chuyên môn phù hợp với lĩnh vực được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành;

28

+ Có nghiệp vụ thanh tra;

+ Có ít nhất 01 năm làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (không kể thời gian tập sự).

- Tiêu chuẩn cụ thể của công chức thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành: Công chức thanh tra chuyên ngành có trang phục, thẻ công chức và được hưởng chế độ bồi dưỡng khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chế độ bồi dưỡng đối với công chức thanh tra chuyên ngành; trang phục và thẻ công chức thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định.

4. Hoạt động thanh tra

Hoạt động thanh tra là nội dung rất quan trọng. Các quy định về hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp của pháp luật hiện hành đồng thời bổ sung những nội dung mới nhằm tăng cường tính linh hoạt, tích cực, chủ động và tính tự chụi trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Bên cạnh đó việc tiếp tục quy định hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước thông qua hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên ngành. Luật Thanh tra còn giao cho các cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Do đó nội dung hoạt động thanh tra nhất là hoạt động thanh tra chuyên ngành có những thay đổi nhất định như: thẩm quyền ra quyết định thanh tra, phân công nhiệm vụ thanh tra, nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra chuyên ngành….Điều đáng lưu ý là ở những ngành, không thành lập cơ quan thanh tra chuyên trách mà hoạt động thanh tra do người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đối với hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước, các quy định của Luật Thanh tra đã xác định rõ những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra; tiếp tục làm rõ hơn quy định về hình thức tiến hành thanh tra là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và thành viên Đoàn Thanh tra trong quá trình tiến thanh tra; quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra và nội dung khác liên quan đến hoạt động thanh tra như: hồ sơ thanh tra , trách nhiệm của cơ quan điều tra…Đặc biệt là việc bổ sung quy định về xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định về thanh tra; xử lý

29

hành vi vi phạm pháp luật của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra, công tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn Thanh tra.

a) Quy trình chung của hoạt động thanh tra

Các hoạt động thanh tra nhìn chung diễn ra theo quy trình sau đây:

a1. Chuẩn bị thanh tra

Công tác chuẩn bị giúp cho hoạt động thanh tra diễn ra thuận lợi, chủ động, có mục tiêu rõ ràng. Các công việc chuẩn bị cho cuộc thanh tra bao gồm những hoạt động chuẩn bị trước khi ban hành quyết định thanh tra và sau khi ban hành quyết định thanh tra.

- Trước khi ban hành quyết định thanh tra, cơ quan thanh tra có thể tiến hành thu thập các thông tin về đối tượng thanh tra và xây dựng kế hoạch cuộc thanh tra. Nguồn thông tin có thể được thu thập từ báo cáo, dữ liệu của các cơ quan, từ phản ánh của cơ quan truyền thông hoặc từ khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở phân tích những thông tin thu thập được đề xuất những nội dung cần thanh tra và xây dựng kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra gồm những nội dung cơ bản như: mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra, nội dung thanh tra, danh sách các tổ chức, đơn vị, cá nhân được thanh tra, xác minh, thời hạn thanh tra, đề xuất nhân sự Đoàn Thanh tra hoặc thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập.

- Sau khi quyết định thanh tra được ban hành, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức họp Đoàn Thanh tra để quán triệt kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt, bàn các biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện kế hoạch, giao nhiệm vụ cho từng thành viên, thống nhất phương pháp tiến hành. Đoàn Thanh tra hoặc thanh tra viên độc lập phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản pháp luật, các chính sách, chế độ liên quan đến nội dung thanh tra; chuẩn bị phương tiện, thiết bị, kinh phí và những điều kiện vật chất  cần thiết khác phục vụ cho hoạt động thanh tra.

a2. Ban hành quyết định thanh tra

Hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra. Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước (khi xét thấy cần thiết, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước) ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra (hoặc quyết định thanh tra viên độc lập, người được giao nhiệm vụ thanh tra) để thực hiện quyết định thanh tra. Ban hành quyết định thanh tra căn cứ vào kế hoạch thanh tra, khi có yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, có dấu hiệu vi phạm pháp luật, yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. Nội dung quyết định

30

thanh tra phải nêu rõ: phạm vi, đối tượng, nội dung, nhiệm vụ, thời hạn thanh tra; trưởng đoàn, thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn Thanh tra. Chậm nhất là 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra, quyết định thanh tra phải được gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất.

Người ban hành quyết định thanh tra đồng thời phê duyệt kế hoạch cuộc thanh tra. Trường hợp thanh tra có nội dung đơn giản, thanh tra đột xuất, quyết định thanh tra được ban hành trước khi có kế hoạch thanh tra, sau khi có quyết định thanh tra, trưởng Đoàn Thanh tra (hoặc thanh tra viên, người được giao thanh tra) xây dựng kế hoạch thanh tra trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt.

a3. Tiến hành thanh tra

* Công bố quyết định thanh tra

Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày ký, trưởng Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên độc lập có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra và nêu rõ mục đích, yêu cầu, cách thức làm việc, kế hoạch tiến hành thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc công bố phải được lập biên bản.

* Thực hiện thanh tra

Trong quá trình thanh tra, Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thanh tra tiến hành các công việc sau:

- Thu thập và nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu, kiểm tra, xác định tính hợp pháp, hợp lý, trung thực của các tài liệu, số liệu, thông tin. Tài liệu, số liệu được thu thập, sử dụng trong quá trình thanh tra được bảo quản, khai thác, sử dụng đúng mục đích. Nếu cần giữ nguyên trạng, Trưởng đoàn thanh tra ra quyết định niêm phong một phần hoặc toàn bộ tài liệu.

- Yêu cầu giải trình: đối với những sự việc, tài liệu chưa rõ, chưa đủ cơ sở kết luận, thì yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình bằng văn bản có chữ ký của người giải trình.

- Đối thoại, chất vấn: trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức đối thoại, chất vấn đối tượng thanh tra, cá nhân, tổ chức để làm rõ thêm nội dung vụ việc. Diễn biến, nội dung của đối thoại, chất vấn phải được lập biên bản đầy đủ, trường hợp cần thiết thì ghi âm lại toàn bộ cuộc đối thoại, chất vấn.

- Thẩm tra, xác minh: để làm rõ thêm về đối tượng thanh tra, các tài liệu, số liệu thì trưởng đoàn, thanh tra viên có thể quyết định thẩm tra, xác minh.

31

- Làm việc với cơ quan quản lý, cá nhân, tổ chức có liên quan: Đoàn Thanh tra, thanh tra viên có thể làm việc với cơ quan chủ quản của đối tượng thanh tra về những sự việc liên quan đến việc chỉ đạo, quản lý (nếu không đến làm việc trực tiếp thì có yêu cầu bằng văn bản). Nếu có phản ánh của cá nhân, tổ chức liên quan đến đối tượng, nội dung thanh tra thì Đoàn Thanh tra, thanh tra viên có thể làm việc trực tiếp với cá nhân, tổ chức đã phản ánh vụ việc.

- Trưng cầu giám định: với những vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật của các lĩnh vực khác nhau mà Đoàn Thanh tra không đủ khả năng kết luận thì Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên báo cáo người ra quyết định thanh tra quyết định trưng cầu giám định. Việc trưng cầu giám định thực hiện theo quy định của pháp luật.

Tất cả các hoạt động trong quá trình thực hiện thanh tra đều phải lập biên bản có xác nhận của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

* Thời hạn thanh tra

Thời hạn thanh tra hành chính: cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá 60 ngày (nếu phức tạp thì có thể kéo dài không quá 90 ngày, cuộc thanh tra đặc biệt phức tạp có thể kéo dài không quá 150 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không quá 70 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày.

Thời hạn thanh tra chuyên ngành: cuộc thanh tra do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc Bộ tiến hành không quá 45 ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không quá 70 ngày); cuộc thanh tra do Thanh tra sở, Chi cục thuộc sở tiến hành không quá 30 ngày (trường hợp phức tạp có thể kéo dài không quá 45 ngày).

Thời hạn thanh tra chuyên ngành độc lập đối với mỗi đối tượng thanh tra là 05 ngày làm việc, trường hợp cần thiết, có thể gia hạn thêm không quá 05 ngày làm việc.

Thời hạn thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.

a4. Kết thúc thanh tra 

* Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra

Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kết thúc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên độc lập phải có báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra gửi

32

người ra quyết định thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra phản ánh đầy đủ những nội dung công việc đã thực hiện, những nội dung chưa tiến hành hoặc tiến hành ngoài quyết định và kế hoạch được duyệt, nguyên nhân; những ý kiến không thống nhất của đối tượng thanh tra hoặc của thành viên Đoàn Thanh tra; những đề xuất về chính sách, chế độ và quản lý. Mỗi nội dung kết luận phải nêu rõ sự việc, căn cứ đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm, hình thức xử lý, thời hạn chấp hành.

Báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra phải có đầy đủ ý kiến tham gia bằng văn bản của các thành viên trong Đoàn Thanh tra. Ý kiến tham gia phải khẳng định có đồng ý hay không đồng ý với báo cáo, dự thảo kết luận của Trưởng đoàn về nội dung công việc của bản thân mình trực tiếp làm và các nội dung do người khác thực hiện; trường hợp không đồng ý thì phải nêu rõ nguyên nhân, căn cứ.

* Kết luận thanh tra

Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra xem xét nội dung báo cáo và ra kết luận thanh tra.

Trong quá trình ra kết luận, người có thẩm quyền có thể yêu cầu Trưởng Đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra hoặc đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề liên quan hoặc có thể tổ chức làm việc với đối tượng thanh tra về dự thảo kết luận thanh tra hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra trả lời bằng văn bản, nêu rõ những nội dung chưa thống nhất, nguyên nhân và chứng cứ. Trường hợp cần thiết, có thể yêu cầu tiến hành thanh tra bổ sung để có đủ căn cứ kết luận.

* Công khai kết luận thanh tra

Kết luận thanh tra phải được công khai (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) bằng một trong các hình thức: công bố tại cuộc họp giữa người ra quyết định thanh tra, Đoàn Thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc tổ chức họp báo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; cung cấp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm cung cấp kết luận thanh tra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khi có yêu cầu.

* Hồ sơ thanh tra và lưu giữ hồ sơ thanh tra

33

Tất cả các quyết định, giấy tờ, tài liệu được ban hành hoặc thu giữ trong quá trình thanh tra phải được lưu vào hồ sơ thanh tra. Hồ sơ thanh tra phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật.

Hồ sơ thanh tra phải có các tài liệu sau:

- Quyết định thanh tra; biên bản thanh tra; báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra;

- Kết luận thanh tra;

- Văn bản về việc xử lý, kiến nghị việc xử lý;

- Tài liệu khác có liên quan.

Khi tiến hành thanh tra độc lập, hồ sơ thanh tra gồm: văn bản phân công nhiệm vụ thanh tra; biên bản thanh tra (nếu có); quyết định xử lý hoặc văn bản kiến nghị việc xử lý; tài liệu khác có liên quan.

a5. Thực hiện kết luận thanh tra

Đối tượng thanh tra, cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra. Việc thực hiện kết luận thanh tra có thể bao gồm những hoạt động sau:

- Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân; xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức;

- Áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật;

- Yêu cầu bồi thường thiệt hại.

b) Hoạt động thanh tra hành chính

Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Trong hoạt động thanh tra hành chính, cơ quan quản lý (hoặc cơ quan thanh tra) có thể thanh tra toàn diện hoạt động của đối tượng thanh tra hoặc chỉ thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ trên một mặt hoạt động nhất định.

b1. Quyết định thanh tra hành chính

Quyết định thanh tra là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra và cho thấy một cuộc thanh tra sẽ được thực hiện trong đó xác định

34

những vấn đề hết sức quan trọng như phạm vi, đối tượng, nội dung, nhiệm vụ thanh tra và nhiều nội dung khác của cuộc thanh tra. Vì vậy, khi ban hành quyết định thanh tra, người có thẩm quyền phải căn cứ vào kế hoạch thanh tra đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Nếu là thanh tra đột xuất thì phải căn cứ vào yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật đã phát hiện được để ban hành quyết định thanh tra. Theo qui định của Luật Thanh tra thì hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra và những người sau đây có thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra: Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra; khi xét thấy cần thiết thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra.

Như vậy ra quyết định thanh tra chủ yếu do Thủ trưởng cơ quan thanh tra ban hành. Việc quy định này đề cao và tăng cường tính tích cực, chủ động theo chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước. Trường hợp vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp hoặc ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị - xã hội ở địa phương, bộ ngành hoặc vì lý do cần thiết khác thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thể tự mình ra quyết định thanh tra hoặc trên cơ sở đề nghị của cơ quan thanh tra.

* Đối với việc ra quyết định thanh tra hành chính theo kế hoạch:

- Căn cứ kế hoạch thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh thanh tra các cấp, các ngành ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

- Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị; căn cứ kế hoạch thanh tra, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

- Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cấp, nhiều ngành; căn cứ kế hoạch thanh tra, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

* Đối với việc ra quyết định thanh tra hành chính đột xuất:

- Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,

35

phòng, chống tham nhũng hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao.

- Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành ra quyết định thanh tra đột xuất, thành lập Đoàn Thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra và gửi quyết định thanh tra đột xuất đến Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp để báo cáo.

- Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất, thành lập Đoàn Thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

- Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất và thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

Hoạt động thanh tra hành chính chỉ được tiến hành khi có quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền và việc tiến hành thanh tra phải thành lập Đoàn, trong đó có Trưởng Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác.

b2. Gửi công bố quyết định thanh tra hành chính

Sau khi ra quyết định, cơ quan tiến hành thanh tra phải gửi quyết định thanh tra cho cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Việc gửi quyết định thanh tra phải được tiến hành trong khoảng thời gian 5 ngày, kể từ ngày ký quyết định.

Đối với các cuộc thanh tra đột xuất thì không áp dụng qui định nêu trên. Vì thanh tra đột xuất là những cuộc thanh tra mà cơ quan tiến hành không thể dự tính trước, thường xuất phát từ yêu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhà nước, yêu cầu của việc xử ý kịp thời đối với hành vi vi phạm của đối tượng hoặc yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Quyết định thanh tra phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định thanh tra. Việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành văn bản. Như vậy việc công bố quyết định thanh tra được hiểu dưới hai khía cạnh:

Thứ nhất, Đoàn Thanh tra công bố quyết định tại nơi tiến hành thanh tra sau 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra. Đây là qui định rất quan trọng vì nó là mốc thời gian để tính thời hạn tiến hành thanh tra trực tiếp tại cơ sở.

Thứ hai, việc công bố quyết định phải được lập thành văn bản, trong đó phải

36

có chữ ký xác nhận của Đoàn Thanh tra và đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, đồng thời là tài liệu của hồ sơ cuộc thanh tra.

Khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn Thanh tra, thời hạn thanh tra, quyền và trách nhiệm của đối tượng thanh tra, dự kiến kế hoạch làm việc của Đoàn Thanh tra với đối tượng thanh tra và những nội dung khác liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra yêu cầu Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung theo đề cương đã yêu cầu.

Việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản. Biên bản phải có chữ ký của Trưởng đoàn thanh tra và Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra.

b3. Thời hạn thanh tra hành chính

Theo qui định của Luật Thanh tra thì thời hạn cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra cho đến khi kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra, trong đó thời hạn một cuộc thanh tra được tính như sau:

- Cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá 60 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 90 ngày. Đối với cuộc thanh tra đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương thì thời gian có thể kéo dài hơn nhưng không quá 150 ngày;

- Cuộc thanh tra do Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 70 ngày;

- Cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, nơi nào đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Việc kéo dài thời hạn thanh tra do người ra quyết định thanh tra quyết định.

b4. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thanh tra hành chính

- Trưởng đoàn thanh tra hành chính có những nhiệm vụ, quyền hạn: tổ chức, chỉ đạo các thành viên trong Đoàn Thanh tra thực hiện đúng nội dung, đối tượng, thời hạn đã ghi trong quyết định thanh tra; kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng các biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; khi thấy cần thiết có thể kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng thanh tra; yêu

37

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp, thông tin tài liệu đó; yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý; quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt nghiêm trọng đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra.

- Thành viên Đoàn Thanh tra hành chính có nhiệm vụ, quyền hạn: thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng đoàn Thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó; kiến nghị với Trưởng đoàn Thanh tra áp dụng các biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn Thanh tra theo qui định của Luật Thanh tra để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ được giao; kiến nghị xử lý các vấn đề khác liên quan tới nội dung thanh tra; báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với Trưởng đoàn thanh tra và chịu trách nhiệm trước Trưởng đoàn thanh tra và trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo.

- Người ra quyết định thanh tra hành chính có nhiệm vụ, quyền hạn: chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn Thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó; trưng cầu giám định về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận hoặc xác mịnh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cua cơ quan, tổ chức và cá nhân; yêu cầu tổ chức tín dụng tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong toả tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tảu tán tài sản, không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của Thủ trưởng

38

cơ quan thanh tra nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định ký luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra; quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quuyền xử lý kết quả thanh tra; kiểm tra đôn đốc thực hiện quyết định xử lý về thanh tra; quyết định thu hồi tiền tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra; giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn Thanh tra; đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hoặc là người thân thích với đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra; kết luận về nội dung thanh tra; chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.

b5. Báo cáo kết quả, kết luận thanh tra hành chính

* Báo cáo kết quả thanh tra

Báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra là những công việc nội bộ giữa những người tiến hành thanh tra với cơ quan có thẩm quyền. Sau khi kết thúc thanh tra trực tiếp tại nơi cơ sở Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo kết quả về các nội dung đã tiến hành thanh tra với người ra quyết định thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức xây dựng báo cáo kết quả thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra phải có các nội dung theo quy định của Luật Thanh tra. Trưởng đoàn Thanh tra tổ chức họp Đoàn Thanh tra để thảo luận về dự thảo báo cáo kết quả thanh tra; trường hợp các thành viên Đoàn Thanh tra có ý kiến khác nhau thì Trưởng đoàn thanh tra xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra phải gửi tới người ra quyết định thanh tra. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì báo cáo kết quả thanh tra còn được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp.

Báo cáo kết quả thanh tra bao gồm các nội dung sau: kết luận cụ thể về từng

39

nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn Thanh tra với Trưởng đoàn Thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra (nếu có); biện pháp xử lý đã được áp dụng và kiến nghị các biện pháp xử lý. Trường hợp phát hiện có hành vi tham nhũng thì trong báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây: yếu kém về năng lực quản lý; thiếu trách nhiệm trong quản lý; bao che cho người có hành vi tham nhũng.

Báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ quy định pháp luật làm căn cứ để xác định tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp xử lý.

Báo cáo kết quả thanh tra là cơ sở để xây dựng kết lụân thanh tra. Người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn thanh tra dự thảo kết luận thanh tra. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, giải trình để làm rõ thêm nội dung thanh tra. Trước khi kết luận chính thức, nếu xét thấy cần thiết thì người ra quyết định thanh tra gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Việc giải trình những vấn đề chưa nhất trí (nếu có) của đối tượng thanh tra với nội dung của dự thảo kết luận thanh tra được thực hiện bằng văn bản và có các bằng chứng kèm theo.

* Kết luận thanh tra

Kết luận thanh tra là văn bản quan trọng nhất của cuộc thanh tra, phản ánh toàn bộ kết quả cuộc thanh tra, là đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc chấp hành chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân được thanh tra; về các ưu điểm, nhược điểm của cơ chế, chính sách pháp luật được thực hiện trên thực tế; phát hiện được các sai phạm trong hoạt động quản lý; xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân; từ đó có các biện pháp sửa chữa, khắc phục sơ hở, yếu kém, xử lý nghiêm minh các hành vi sai phạm.

Căn cứ báo cáo kết quả thanh tra, nội dung giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có) và các tài liệu liên quan, người ra quyết định thanh tra chỉ đạo việc hoàn thiện và ký kết luận thanh tra. Theo qui định của pháp luật hiện hành thì chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra của Trưởng đoàn Thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra.

Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau: đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra liên quan đến nội dung thanh tra;

40

kết luận về các nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); các biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các biện pháp xử lý.

Để giúp người ra quyết định thanh tra có được những đánh giá, nhận xét chính xác, khách quan đối với các nội dung đã tiến hành thanh tra, có được những kiến nghị xác đáng với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, Luật thanh tra qui định trong quá trình ra văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo các vấn đề liên quan tới nội dung thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra.

Sau khi kết luận thanh tra được ban hành, người ra quyết định thanh tra phải gửi kết luận thanh tra tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và đối tượng thanh tra. Nếu thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra thì kết luận phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp.

Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc công bố kết luận thanh tra hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Trường hợp cần thiết có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn thanh tra công bố kết luận thanh tra. Việc công bố kết luận thanh tra được lập thành biên bản.

c) Hoạt động thanh tra chuyên ngành

Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ xem xét, đánh giá đối tượng thanh tra trên một hoặc một số mặt hoạt động nhất định liên quan đến thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.

c1. Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành và phân công thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập

 - Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành theo kế hoạch

+ Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc bộ, Chi cục trưởng thuộc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra.

+ Đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của

41

nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra.

- Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành đột xuất

+ Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc phòng, chống tham nhũng hoặc theo yêu cầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh Thanh tra bộ, Giám đốc sở, Chánh Thanh tra sở.

+ Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở ra quyết định thanh tra đột xuất, thành lập Đoàn Thanh tra và gửi quyết định thanh tra đột xuất để báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Giám đốc sở. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc bộ, Chi cục trưởng thuộc sở thì quyết định thanh tra đột xuất được gửi để báo cáo Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở.

+ Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất và thành lập Đoàn Thanh tra.

c2. Công bố quyết định thanh tra chuyên ngành

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra. Khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn Thanh tra, thời hạn thanh tra, quyền và trách nhiệm của đối tượng thanh tra, dự kiến kế hoạch làm việc của Đoàn Thanh tra với đối tượng thanh tra và những nội dung khác liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra.

Việc công bố quyết định thanh tra phải được lập thành biên bản. Biên bản phải có chữ ký của Trưởng đoàn thanh tra và Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra.

c3. Thời hạn thanh tra chuyên ngành

Thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra chuyên ngành được quy định như sau:

+ Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ, Tổng cục, Cục thuộc bộ tiến hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày;

42

+ Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra sở, Chi cục thuộc sở tiến hành không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày.

Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra. Việc kéo dài thời hạn thanh tra do người ra quyết định thanh tra chuyên ngành quyết định.

c4. Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra chuyên ngành

- Trưởng đoàn thanh tra có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: tổ chức, chỉ đạo các thành viên trong Đoàn Thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra; kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng các biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao; yêu cầu đối tượng thanh tra xuất trình giấy phép, đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; lập biên bản về việc vi phạm của đối tượng thanh tra; kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp, thông tin tài liệu đó; yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý; quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt nghiêm trọng đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra; yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong toả tài khoản đó đê phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra có hành vi tẩu tán tài sản; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; báo cáo với người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó.

- Thành viên Đoàn Thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có những nhiệm vụ quyền hạn: thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng đoàn thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó; kiến nghị

43

Trưởng đoàn thanh tra áp dụng các biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn Thanh tra qui định của Luật thanh tra để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ được giao; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; kiến nghị xử lý các vấn đề khác liên quan tới nội dung thanh tra chuyên ngành; báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với Trưởng đoàn thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung đã báo cáo; các thành viên khác của Đoàn Thanh tra, trong quá trình thanh tra cũng có những nhiệm vụ, quyền hạn như Thanh tra viên, trừ quyền xử phạt vi phạm hành chính.

- Người ra quyết định thanh tra chuyên ngành có nhiệm vụ, quyền hạn: chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn Thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó; trưng cầu giám định về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu tổ chức tín dụng tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong toả tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra tảu tán tài sản, không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cua cơ quan, tổ chức và cá nhân; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra; quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quuyền xử lý kết quả thanh tra; kiểm tra đôn đốc thực hiện quyết định xử lý về thanh tra; quyết định thu hồi tiền tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra; giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn Thanh tra; đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hoặc là người thân thích với đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra; kết luận về nội dung thanh tra; chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.

44

c5. Báo cáo kết quả, kết luận thanh tra chuyên ngành

* Báo cáo kết quả thanh tra chuyên ngành

Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra, trừ trường hợp nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Báo cáo kết quả thanh tra chuyên ngành phải có các nội dung: khái quát về đối tượng thanh tra; kết quả kiểm tra, xác minh về từng nội dung thanh tra; đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn, chuyên môn - kỹ thuật của đối tượng thanh tra; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng trong quá trình tiến hành thanh tra; kiến nghị các biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra (nếu có); ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn Thanh tra (nếu có).

* Kết luận thanh tra chuyên ngành

+ Xây dựng kết luận thanh tra chuyên ngành

Người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn thanh tra dự thảo kết luận thanh tra. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra yêu cầu đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, giải trình để làm rõ thêm nội dung thanh tra.

Trước khi kết luận chính thức, nếu thấy cần thiết thì người ra quyết định thanh tra lấy ý kiến của cơ quan chuyên môn hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Việc giải trình của đối tượng thanh tra được thực hiện bằng văn bản và có các tài liệu chứng minh kèm theo.

+ Kết luận thanh tra chuyên ngành

Căn cứ báo cáo kết quả thanh tra, nội dung giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có), chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra; trừ trường hợp nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau đây: kết quả kiểm tra, xác minh về từng nội dung thanh tra; kết luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, chuyên môn - kỹ thuật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); kiến nghị các

45

biện pháp xử lý vi phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra (nếu có).

Trong quá trình ra văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục cho việc ra kết luận thanh tra.

Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc công bố kết luận thanh tra. Trường hợp cần thiết có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn thanh tra công bố kết luận thanh tra. Việc công bố kết luận thanh tra được lập thành biên bản.

Việc gửi kết luận thanh tra được thực hiện như sau:

• Đối với cuộc thanh tra do Thanh tra bộ tiến hành thì kết luận thanh tra phải gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng Thanh tra Chính phủ, đối tượng thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra (nếu có) và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

• Đối với cuộc thanh tra do Tổng cục, Cục thuộc Bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành tiến hành thì kết luận thanh tra phải gửi Thanh tra bộ, đối tượng thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra (nếu có) và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

• Đối với cuộc thanh tra do Thanh tra sở tiến hành thì kết luận thanh tra phải gửi Giám đốc sở, đối tượng thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra (nếu có) và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

• Đối với cuộc thanh tra do Chi cục thuộc Sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành tiến hành thì kết luận thanh tra phải gửi Thanh tra sở, đối tượng thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra (nếu có) và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Kết luận thanh tra chuyên ngành được lưu hồ sơ thanh tra.

5. Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra

Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra thể hiện quan điểm mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Trong quá trình chịu sự thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đối tượng thanh tra mà thực chất là đối tượng chịu sự quản lý có quyền chứng minh cho các cơ quan có thẩm quyền về

46

việc làm đúng đắn của mình hoặc có biện pháp bảo vệ tích cực như khiếu nại, tố cáo đối với những quyết định không đúng, hành vi lộng quyền, lạm quyền, vi phạm pháp luật từ phía những người tiến hành thanh tra. Mặt khác đối tượng thanh tra còn phải có những nghĩa vụ, trách nhiệm nhất định về những việc làm của mình, nhất là những hành vi vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, việc qui định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra xuất phát từ yêu cầu tăng cường tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ trong hoạt động thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Pháp luật hiện hành đã quy định các quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra. Cụ thể:

a) Quyền của đối tượng thanh tra

Thứ nhất, giải trình những vấn đề có liên quan đến nội dung thanh tra.

Thứ hai, khiếu nại về quyết định, hành vi của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn Thanh tra trong quá trình thanh tra; khiếu nại về kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

Thứ ba, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Lưu ý: việc qui định khiếu nại quyết định xử lý về thanh tra được hiểu là khiếu nại đối với các quyết định xử lý của Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, Trưởng đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình tiến hành thanh tra hoặc sau thanh tra. Đối tượng thanh tra không có quyền khiếu nại quyết định thanh tra, vì hoạt động thanh tra là một khâu của quá trình quản lý nhà nước, quyết định thanh tra nhằm thực hiện quyền quản lý của của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền quản lý của mình.

Thứ tư, yêu cầu bồi thường thiệt hại theo qui định pháp luật: yêu cầu được bồi thường là quyền quan trọng trong số các quyền của đối tượng thanh tra. Đối tượng thanh tra có quyền yêu cầu được bồi thường thiệt hại là vì trên thực tế hoạt động thanh tra cũng có thể dẫn đến những lầm lẫn hoặc vi phạm gây ra thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân được thanh tra. Việc ghi nhận quyền yêu cầu được bồi thường thể hiện rõ quan điểm của nhà nước ta trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân trước hành vi vi phạm, gây ra thiệt hại từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức. Tuy nhiên Luật thanh tra chỉ qui

47

định về nguyên tắc, còn các vấn đề cụ thể liên quan đến quyền yêu cầu bồi thường, trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước, việc bồi hoàn của cán bộ, công chức được thực hiện theo qui định của pháp luật về bồi thường.

Thứ năm, cá nhân là đối tượng thanh tra có quyền tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn Thanh tra theo quy định của pháp luật về tố cáo.

b) Nghĩa vụ của đối tượng thanh tra

Đối tượng thanh tra có các nghĩa vụ sau đây:

Thứ nhất, đối tượng thanh tra phải chấp hành quyết định thanh tra một cách nghiêm túc, đầy đủ.

Thứ hai, phải cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin, tài liệu theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn Thanh tra và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin, tài liệu đã cung cấp.

Mọi hành vi trốn tránh, cung cấp không kịp thời, không đầy đủ, thiếu chính xác các thông tin liên quan đến nội dung thanh ttra mà đối tượng thanh tra có được đề là hành vi vi phạm và sẽ bị xử lý tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm

Thứ ba, phải thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, quyết định xử lý của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn Thanh tra, thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn Thanh tra và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Các yêu cầu, kiến nghị, quyết định của những người tiến hành thanh tra trong quá trình thanh tra và các yêu cầu, kiến nghị, quyết định, kết luận sau thanh tra thì đối tượng thanh tra đều phải chấp hành, thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc. Mọi hành vi cản trở, chống đối, không chấp hành, chấp hành không đầy đủ, thiếu nghiêm túc đều phải bị xử lý trước pháp luật.

6. Hoạt động Thanh tra nhân dân

Thanh tra nhân dân là hoạt động giám sát của nhân dân, là một thiết chế quan trọng ở cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vì vậy Luật Thanh tra năm 2004 đã dành một chương

48

quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhân dân.

Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhân dân tương xứng với vị trí, vai trò của tổ chức thực hiện quyền giám sát của quần chúng là cần thiết, nhưng do điều kiện khách quan chúng ta chưa đánh giá, tổng kết đầy đủ về hoạt động thanh tra nhân dân trong thời gian qua. Cho nên trước mắt cần kế thừa các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhân dân. Luật Thanh tra năm 2010 tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của Ban thanh tra nhân dân trong việc giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, đồng thời quy định về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.

a) Tổ chức Ban thanh tra nhân dân

Thực hiện quy định của Luật Thanh tra năm 2004, tổ chức các Ban thanh tra nhân dân từng bước được củng cố và kiện toàn. Vị trí, vai trò của Ban thanh tra nhân dân ngày càng được nâng cao trong hệ thống các tổ chức thực hiện quyền giám sát của nhân dân. Kế thừa các quy định của Luật Thanh tra năm 2004, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức của các Ban thanh tra nhân dân vững mạnh, đủ sức thực hiện nhiệm vụ, Điều 65 Luật Thanh tra năm 2010 tiếp tục khẳng định: Thanh tra nhân dân được tổ chức dưới hình thức Ban thanh tra nhân dân. Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước.

b) Nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân

b1. Nhiệm vụ quyền hạn và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn

Kế thừa quy định của Luật Thanh tra năm 2004, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân về cơ bản vẫn được giữ nguyên tại Luật Thanh tra năm 2010. Tuy nhiên, Luật Thanh tra năm 2010 đã có sự phân biệt rõ hơn giữa nhiệm vụ và quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân. Theo đó, Điều 66 Luật Thanh tra quy định về nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân. Ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn.

49

Điều 67 Luật Thanh tra quy định về quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân. Theo đó, Ban thanh tra nhân dân có quyền:

- Kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó.

- Khi cần thiết, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã giao xác minh những vụ việc nhất định.

- Kiến nghị với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện hiện qua việc giám sát; trường hợp phát hiện người có hành vi vi phạm pháp luật thì kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý.

* Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn

Khoản 1, Khoản 2 Điều 69 quy định: Ban thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp trực tiếp chủ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, chương trình hành động và sự chỉ đạo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn đề ra phương hướng, nội dung, kế hoạch hoạt động của mình.

Trong quá trình thực hiện việc giám sát, Ban thanh tra nhân dân có quyền đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát. Trong trường hợp phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân hoặc có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, sử dụng sai mục đích tài sản nhà nước, ngân sách và các khoản đóng góp của nhân dân…mà nội dung thuộc phạm vi giám sát của mình thì Ban thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác xem xét, giải quyết, đồng thời báo cáo với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết thì Ban thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn. Khi cần thiết, Trưởng Ban thanh tra nhân dân được mời tham dự cuộc họp của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn.

50

b2. Nhiệm vụ quyền hạn và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước

* Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước

Tương tự như Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn, Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Ban thanh tra nhân dân có quyền:

- Kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và giám sát việc tực hiện kiến nghị đó.

- Khi cần thiết, được người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước giao xác minh những vụ việc nhất định.

- Kiến nghị với người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua việc giám sát; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân và người lao động, biểu dương những đơn vị, cá nhân có thành tích. Trường hợp phát hiện người có hành vi vi phạm pháp luật thì kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân có sự khác biệt với nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước và thanh tra nội bộ trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước. Thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của công nhân, viên chức, người lao động đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, còn thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhất định.

Nhiệm vụ quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân chỉ là giám sát và khi phát hiện có vi phạm pháp luật thì kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý, còn nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước là tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.

51

Tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước, nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra thủ trưởng (thanh tra nội bộ) cũng là việc xem xét, đánh giá và xử lý của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị phục vụ cho hoạt động quản lý của Thủ trưởng đơn vị trong nội bộ cơ quan, đơn vị mình mà không phải để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước như các cơ quan thanh tra nhà nước. Cho nên nhiệm vụ, quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân cũng khác với nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra thủ trưởng.

Tuy nhiên, mục đích chung của hoạt động thanh tra nhà nước, thanh tra, kiểm tra nội bộ và thanh tra nhân dân đều nhằm phòng ngừa, phát hiện hành vi vi phạm chính sách, pháp luật của nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.

* Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước

Khoản 1, Khoản 2 Điều 73 Luật Thanh tra quy định: Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước do Ban chấp hành Công đoàn cơ sở trực tiếp chỉ đạo hoạt động. Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị công nhân, viên chức hoặc Hội nghị đại biểu công nhân, viên chức của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và sự chỉ đạo của Ban chấp hành Công đoàn cơ sở, Ban thanh tra nhân dân lập chương trình công tác theo từng quý, từng năm. Có thể hiểu, hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các công việc như xây dựng chương trình, kế hoạch, tiến hành các hoạt động giám sát, hoạt động xác minh cụ thể.

Việc xây dựng chương trình, kế hoạch hàng năm của Ban thanh tra nhân dân phải căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội công nhân, viên chức hoặc Nghị quyết của Đại hội đại biểu công nhân, viên chức trong cơ quan, đơn vị mình và sự chỉ đạo của Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Ban chấp hành Công đoàn cơ sở là tổ chức chỉ đạo trực tiếp hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, do đó kế hoạch hoạt động của Ban thanh tra nhân dân phải được Ban chấp hành Công đoàn cơ sở phê duyệt.

* Nội dung giám sát của Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, gồm:

- Việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị.

- Việc sử dụng kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước, việc sử dụng

52

các quỹ, việc chấp hành chế độ quản lý tài chính, tài sản và công tác tự kiểm tra tài chính của cơ quan, đơn vị.

- Việc thưc hiện nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.

- Việc thực hiện chế độ định mức, tiêu chuẩn đối với cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động theo quy định của pháp luật.

- Việc tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lâp; việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiêu lực pháp luật tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.

- Việc thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, đơn vị.

Nội dung giám sát của Ban thanh tra nhân dân ở doanh nghiệp nhà nước, gồm:

- Việc thực hiện nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân, viên chức, người lao động theo quy định của pháp luật.

- Việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội công nhân, viên chức.

- Việc thực hiện các nội quy, quy chế của doanh nghiệp; thoả ước lao động tập thể; các hợp đồng lao động; việc giải quyết các tranh chấp lao động.

- Việc thực hiện chính sách, pháp luật, chế độ của Nhà nước, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước, việc sử dụng các quỹ của doanh nghiệp.

- Việc tiếp dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước; việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật tại doanh nghiệp nhà nước.

- Việc thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước.

Hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân được tiến hành thường xuyên, liên tục. Trong quá trình thực hiện, Ban thanh tra nhân dân có quyền đề nghị người

53

đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát.

Trong trường hợp phát hiện có hành vi xâm phạm quyền làm chủ của cán bộ, công nhân, viên chức hoặc có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, sử dụng sai mục đích chi, thu ngân sách và các khoản đóng góp, quỹ phúc lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và các hành vi vi phạm khác mà nội dung thuộc thẩm quyền giám sát của mình thì Ban thanh tra nhân dân kiến nghị với người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết, đồng thời báo cáo với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Trong trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết thì có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp trên trực tiếp của người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước xem xét giải quyết

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT NGHIÊN CỨU

1. Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt.

2. Sắc lệnh số 138/SL ngày 18/12/1949 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ thuộc Phủ Thủ tướng.

3. Sắc lệnh số 26/SL ngày 28/3/1956 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập Ban Thanh tra Trung ương.

4. Nghị định số 136/CP ngày 29/9/1961của Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Ủy Ban Thanh tra của Chính phủ.

5. Pháp lệnh Thanh tra 1990.

6. Luật Thanh tra 2004.

7. Luật Thanh tra 2010.

8. Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ hướng dẫn Luật Thanh tra 2010.

9. Nghị định 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 của Chính phủ về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra.

10. Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 của Chính phủ quy định về cơ

54

quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành (hiệu lực: 05/4/2012).

11. Nghị định 65/2008/NĐ-CP ngày 20/5/2008 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức Thanh tra Chính phủ (hết hiệu lực: 01/12/2012).

12. Nghị định 83/2012/NĐ-CP ngày 09/10/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ (có hiệu lực: 01/12/2012).

13. Thông tư 02/2010/TT-TTCP ngày 02/3/2010 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.

14. Thông tư 08/2011/TT-TTCP ngày 12/9/2011 của Thanh tra Chính phủ quy định tiêu chuẩn Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ.

15. Thông tư 09/2011/TT-TTCP ngày 12/9/2011 của Thanh tra Chính phủ quy định tiêu chuẩn Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

55

Chuyên đề 2

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT KHIẾU NẠI, LUẬT TỐ CÁO

1. Khái quát chung về tình hình thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo

- Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân

+ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 1992. Điều 74 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn mà pháp luật quy định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo xuyên tạc sự thật và làm hại tới người khác. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.

+ Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Hiến pháp. Luật Khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 02/12/1988, được sủa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/06/2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/01/2005. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/1999/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo. Ngày 14/06/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/1999/NĐ-CP. Ngày 19/04/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 53/2005/NĐ-CP và Nghị định 136/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Khiếu nại 2011 và Nghị định số 75/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo 2011 và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Tố cáo.

- Khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Chính vì vậy, từ trước đến nay Đảng

56

và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX nhấn mạnh “Xác định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại của nhân dân; xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn, làm chậm trễ, làm sai lệch, can thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo”; Chỉ thị số 09 - CT/TW ngày 06 tháng 2 năm 2002 của Ban Bí thư TW khoá IX và thông báo Kết luận số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị khoá X về một số vấn đề cấp bách trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 05/CT-TTg chỉ đạo tập trung xử lý dứt điểm khiếu kiện của công dân trước, trong và sau Đại hội IX của Đảng; Chỉ thị số 26/2001/CT-TTg về việc tạo điều kiện để Hội nông dân tham gia giải quyết khiếu kiện của công dân là nông dân. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị về tổng kết công tác tiếp công dân trong các cơ quan hành chính nhà nước. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành tổng kết đánh giá kết quả, rút ra những tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp công dân ở địa phương mình.

- Với sự tập trung chỉ đạo cụ thể, đúng hướng của Đảng, Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực cố gắng của cấp uỷ, chính quyền các địa phương, bộ, ngành; sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra của Đảng, Thanh tra nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp và Hội nông dân cho nên công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu, nại tố cáo đã có chuyển biến tích cực, nhiều vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, tồn đọng kéo dài và “điểm nóng” đã được giải quyết dứt điểm. Nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến nhiều địa phương, nhiều ngành thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được xem xét, xác minh, kết luận rõ đúng sai, giải quyết kịp thời, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; các hành vi vi phạm pháp luật đã được xử lý nghiêm minh, thông qua đó góp phần ổn định tình hình tại địa phương, cơ sở.

- Cần phải khẳng định rằng các cơ quan thanh tra đã đóng vai trò tích cực và có hiệu qủa thông qua việc tham mưu xây dựng Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo, thông qua việc xác minh, kết luận, kiến nghị Thủ trưởng cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các cấp, các ngành; tham gia chỉ đạo giải quyết các vụ việc khiếu kiện phức tạp, bức xúc, có nguy cơ trở thành “điểm nóng” ở một số địa phương.

57

2. Một số vướng mắc, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, với sự cố gắng, nỗ lực của các cơ quan nhà nước và các cơ quan thanh tra trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tình hình khiếu nại, tố cáo cho đến nay đã có chiều hướng giảm song chưa vững chắc. Không ít vụ việc khiếu nại, tố cáo vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Một số vụ khiếu kiện đã qua nhiều cấp, nhiều ngành giải quyết nhưng người dân vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết, tiếp tục khiếu kiện vượt cấp lên Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại, tố cáo cũng như việc tồn tại vướng mắc, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là do:

+ Đất nước ta trải qua nhiều giai đoạn cách mạng, nhiều vấn đề thuộc về lịch sử để lại, nhất là những vấn đề có liên quan đến đất đai, nhà cửa … qua các thời kỳ cải tạo trước đây. Nhiều vụ việc đến nay chưa có chủ trương chính sách cụ thể làm căn cứ để giải quyết.

+ Một số vụ việc liên quan đến các thời kỳ lịch sử trước đây, Quốc hội đã có Nghị quyết không xem xét lại, nhưng người khiếu nại vẫn “đeo đẳng” đề nghị được giải quyết làm cho vụ việc trở thành dây dưa, kéo dài. Mặt khác, trong quá trình đô thị hoá do nhu cầu phát triển kinh tế, việc giải phóng mặt bằng diễn ra ở mọi nơi, cả nông thôn lẫn thành thị ảnh hưởng không ít đến đời sống, việc làm của người dân vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Nhiều nơi, trong quá trình triển khai công tác giải phóng mặt bằng đã phát sinh khiếu kiện do việc đền bù không đúng chính sách, không đúng đối tượng, thiếu công khai, dân chủ; giá đền bù thấp, không nhất quán, không công bằng, thậm chí còn nhiều trường hợp bớt xén tiền, tham nhũng, tiêu cực gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

+ Một số người đi khiếu kiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là không hiểu chính sách, pháp luật nên khiếu kiện thiếu căn cứ, vượt ra ngoài quy định của pháp luật hoặc cố tình đeo bám dai dẳng, cố chấp được thua, không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo có lý, có tình. Một số trường hợp có hành vi quá khích, gây rối, kích động, lôi kéo người khác khiếu kiện. Đây cũng là nguyên nhân làm phức tạp thêm tình hình khiếu nại, tố cáo.

+ Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức khi nhận được khiếu nại của công dân còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không thực hiện đúng thủ tục, trình tự,

58

thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo; nể nang, né tránh hoặc cố tính bao che cho cấp dưới… không ra quyết định giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, chưa quan tâm đầy đủ đến việc tiếp công dân, gặp gỡ đối thoại và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đáng lưu ý là những người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại lần đầu, không chủ động tích cực xem xét một cách nghiêm túc đối với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của mình bị khiếu nại, vẫn còn tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong việc tiếp công dân cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo. Những tồn tại, yếu kém trên làm cho tình trạng khiếu nại, tố cáo tiếp tục diễn biến phức tạp, chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cao, dẫn đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ…

+ Ở một số nơi, tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể ở cơ sở yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, một bộ phận cán bộ Đảng viên thoái hoá biến chất, quan liêu tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chính sách pháp luật của Nhà nước, có biết sai phạm nhưng không xem xét, kết luận, xử lý kịp thời, nghiêm minh; một số cán bộ có biểu hiện lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo phục vụ lợi ích cá nhân, bôi nhọ cán bộ, gây mâu thuẫn nội bộ, làm phát sinh khiếu kiện bức xúc, dễ biến thành “điểm nóng” khiếu kiện đông người phức tạp.

+ Hệ thống pháp luật nói chung, đặc biệt là các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn có nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Điều đáng lưu ý là Luật Khiếu nại, tố cáo quy định về thủ tục, trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong khi đó việc giải quyết những vụ việc cụ thể của nội dung khiếu nại, tố cáo lại phải căn cứ vào các luật chuyên ngành, nhất là các luật điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến đất đai, đầu tư, tài chính, xây dựng, doanh nghiệp, lao động.v.v… Ngoài ra còn phải căn cứ vào những văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, như quan hệ liên quan đến quá trình hội nhập và thực hiện cam kết quốc tế về giải quyết khiếu kiện hành chính, thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ.v.v…

+ Đáng chú ý là công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật khiếu nại, tố cáo chưa được thực hiện thường xuyên, dẫn đến công dân không nắm được quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tiến hành khiếu nại, tố cáo, dẫn đến nhiều sự việc mặc dù đơn giản nhưng công dân vẫn khiếu nại đến nhiều cơ quan, tổ chức làm mất nhiều thời gian, vật chất, tinh thần trong quá trình xem xét, giải quyết.

+ Một nguyên nhân vô cùng quan trọng đó là những tồn tại, hạn chế, bất cập của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước.

59

3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo

Luật khiếu nại, tố cáo ban hành năm 1998, được sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005 đã tạo lập khung pháp lý quan trọng để cơ quan, tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền khiếu nại, các cơ quan nhà nước có thẩm thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo; để người dân tích cực tham gia phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo trước đây đã góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, qua tổng kết cho thấy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế, hiệu quả giải quyết các vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cao, chưa đáp được yêu cầu thực tiễn đặt ra và đòi hỏi của quản lý. Do đó phải xây dựng Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo để khắc phục các thiếu sót bất cập…đã nêu trên.

a) Đối với khiếu nại (ở Luật năm 1998 được sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005) cho thấy:

Một là, cơ chế giải quyết khiếu nại chưa đảm bảo đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Toà án còn bị hạn chế; thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là giải quyết khiếu nại lần đầu còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết kéo dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm thực hiện công tác giải quyết khiếu nại; hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao; chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhất là trong lĩnh vực đất đai… còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại.

Hai là, trong những năm qua có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước đã đề cập tới công tác giải quyết khiếu nại, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong cải cách hành chính nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Nghị quyết số 48/NQ-TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020 đã nêu: “hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có thể bị khởi kiện trước Toà án; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời

60

đảm bảo tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính”; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân”; Thông báo Kết luận số 130 - TB/TW ngày 10/1/2008 của Bộ Chính trị về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong thời gian tới đã xác định: “Đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất là pháp luật về đất đai và khiếu nại, tố cáo…. Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại, Luật Tố cáo và giải quyết tố cáo”. Tuy nhiên, các chủ trương, quan điểm trên chưa được thể chế hóa đầy đủ trong pháp luật về khiếu nại.

Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020, ngày 21/11/2007 Quốc hội khóa XII đã ra Nghị quyết số 11/2007/QH12 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) và năm 2008, quyết định xây dựng Luật Khiếu nại và đưa vào chương trình chuẩn bị; đồng thời ngày 17/6/2009, Quốc hội khóa XII có Nghị quyết số 31/2009/QH12 đã đưa dự án Luật Khiếu nại vào chương trình chính thức để Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, dự kiến vào tháng 10/2010.

b) Đối với tố cáo (ở Luật năm 1998 được sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005) cho thấy:

Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm phát sinh nhiều tố cáo trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, cũng như tố cáo cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Số vụ việc tố cáo tiếp tục gia tăng, tính chất gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước xác định giải quyết tố cáo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo là nội dung quan trọng trong cải cách hành chính nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền công dân, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.

Tuy nhiên, qua tổng kết cho thấy công tác giải quyết tố cáo còn nhiều hạn chế, hiệu quả giải quyết các vụ việc tố cáo chưa cao. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có nguyên nhân là do các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa bao quát hết những tố cáo phát sinh trong thực

61

tiễn cần được điều chỉnh bằng pháp luật. Luật chỉ tập trung quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước; chưa quy định tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về các lĩnh vực quản lý nhà nước. Trong khi đó, nhiều văn bản pháp luật lại quy định việc giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được thực hiện theo Luật Khiếu nại, tố cáo.

Trong Luật Khiếu nại, tố cáo, việc xác định thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức trong việc tiếp nhận và xử lý các loại tố cáo mới chỉ mang tính nguyên tắc, chưa quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết của các cơ quan cũng như thủ tục, trình tự giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Luật cũng chưa quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh, kết luận nội dung tố cáo, xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; chưa quy định về việc công khai các quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; chưa quy định rõ cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ bị đe dọa, trả thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử; chưa quy định phạm vi, đối tượng, thời hạn bảo vệ cũng như quyền, nghĩa vụ của người tố cáo được bảo vệ...

Do đó, cần thiết phải xây dựng Luật Tố cáo thay thế Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành và năm 2011 Quốc hội đã thông qua Luật Tố cáo.

4. Luật Khiếu nại năm 2011

a) Những nội dung mới của Luật Khiếu nại

Luật sửa đổi bổ sung các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại theo hướng khách quan minh bạch.

Tiếp tục đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật, quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại.

Quy định rõ hơn thẩm quyền, thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại theo hướng khách quan, công khai, minh bạch, thuận tiện, đơn giản cho người dân.

Quy định rõ hơn về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong giải quyết khiếu nại.

Tiếp tục quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại.

62

Bổ sung quy định về công khai kết luận nội dung khiếu nại, quyết định xử lý khiếu nại.

Trong giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật: Luật quy định mới về quyền khởi kiện (Tổng cục trưởng trở xuống); xác minh nội dung khiếu nại, yêu cầu Hôị đồng kỷ luật xem xét kiến nghị người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết.

Luật đã lược bỏ một số nội dung trùng lặp với luật khác: Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp xử lý các hành vi vi phạm hành chính.

b) Chủ thể của quyền khiếu nại và đối tượng của khiếu nại

b1. Chủ thể và đối tượng khiếu nại

- Chủ thể khiếu nại

Trên thực tế, công dân, cơ quan, tổ chức chịu sự tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đồng thời, trong hoạt động quản lý, nhiều khi các cơ quan hành chính nhà nước có những quyết định hoặc hành vi hành chính làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước khác.

Luật Khiếu nại năm 2011 quy định:

Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Nhìn ở khía cạnh pháp lý, việc khiếu nại có các đặc điểm sau:

- Phạm vi của quyền khiếu nại là rất rộng, bao gồm mọi công dân, cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức bị kỷ luật.

- Mục đích của người khiếu nại nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi họ có căn cứ cho rằng những quyền và lợi ích hợp pháp đó bị các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức xâm hại.

- Các khiếu nại chủ yếu được giải quyết theo thủ tục hành chính và thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước và thủ tục tư pháp thuộc thẩm quyền của Toà án Hành chính và Toà án Nhân dân.

63

- Đối tượng khiếu nại:

Theo quy định của Luật Khiếu nại 2011, đối tượng của Luật Khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.

So với các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Khiếu nại 2011: đối tượng của khiếu nại vẫn được giữ nguyên, điểm khác là ở cách hiểu về quyết định hành chính. Ở Luật Khiếu nại, tố cáo, quyết định hành chính phải là quyết định bằng văn bản thì hiện nay quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành, để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Như vậy, quyết định hành chính được hiểu rộng hơn, không chỉ bao gồm các văn bản được ban hành dưới hình thức một quyết định mà bao gồm cả các văn bản dù không dưới hình thức quyết định nhưng chứa đựng những quy định có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và doanh nghiệp.

b2. Về khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức

Theo quy định của pháp luật, cán bộ, công chức có hành vi vi phạm đương nhiên sẽ phải chịu một hình thức kỷ luật tương ứng. Mặt khác luật cũng cho phép cán bộ, công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật: khiếu nại quyết định kỷ luật là việc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Khiếu nại của cán bộ, công chức là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…đối với quyết định kỷ luật thì áp dụng theo điều lệ và được giải quyết theo điều lệ của các tổ chức đó.

Việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại 2011; Luật quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức theo phân cấp, có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình đã ban hành. Trường hợp còn khiếu nại tiếp thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết. Đồng thời, Luật Khiếu nại 2011 cũng đã xác định Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm

64

quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại.

Đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết tiếp theo, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Ngoài ra, Luật Khiếu nại cũng có những quy định mới về thời hiệu khiếu nại, hình thức khiếu nại, thời hạn thụ lý và giải quyết khiếu nại; xác minh nội dung khiếu nại, tổ chức đối thoại…

5. Luật Tố cáo năm 2011

a) Những nội dung mới của Luật Tố cáo

Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo (năm 1998, 2004, 2005); căn cứ vào yêu cầu thực tiễn Luật Tố cáo đã bổ sung những nội dung mới.

Quy định và phân biệt rõ 2 loại tố cáo và có 2 quy trình giải quyết riêng đó là:

+ Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ công chưc, viên chức.

+ Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo (cán bộ, công chức, viên chức) của các cơ quan, tổ chức.

Quy định rõ về thủ tục, trình tự giải quyết.

Hình thức tổ chức, tiếp nhận xử lý thông tin tố cáo, thời hạn, xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo.

+ Tố cáo nhiều người;

+ Ghi nhận về việc tố cáo tiếp;

+ Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định hành vi vi phạm bị tố cáo.

Quy định rõ về giải quyết tố cáo trong các lĩnh vực theo nguyên tắc thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính.

65

Quy định thủ tục, trình tự giải quyết tố cáo có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay.

Quy định về bảo vệ người tố cáo đây là một chương quan trọng của Luật Tố cáo năm 2011.

Quy định khen thưởng người có công trong tố cáo.

Tiếp tục xác định rõ trách nhiệm của các quan nhà nước trong quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo.

Quy định rõ về tiếp công dân, giải quyết tố cáo, phối hợp giải quyết tố cáo, thi hành quyết định giải quyết tố cáo.

Luật Tố cáo tiếp tục ghi nhận và bổ sung trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết tố cáo; tham mưu giải quyết, xem xét kết luận giải quyết tố cáo của thủ trưởng cơ quan cấp dưới, khi nhận thấy có hành vi vi phạm pháp luật thì đề nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại.

Luật Tố cáo đã lược bỏ khái quát quy định về giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, quy định về xử lý hành vi vi phạm.

b) Theo quy định của Luật Tố cáo

Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do pháp luật quy định, báo cho cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

Khác với khiếu nại, chủ thể được quyền tố cáo chỉ là công dân. Quy định này nhằm cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp người tố cáo cố ý tố cáo sai sự thật. Đồng thời, Luật cũng đã chấp nhận việc tố cáo nhiều người và ghi nhận việc tố cáo tiếp.

Đối tượng bị tố cáo là bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước ở các lĩnh vực của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Đặc điểm của tố cáo:

- Người tố cáo là, công dân thực hiện quyền tố cáo; các tổ chức không phải là chủ thể của quyền tố cáo. Đối tượng của việc tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân mà người tố cáo biết được. Với

66

trách nhiệm công dân được pháp luật quy định, người tố cáo thông báo về hành vi vi phạm pháp luật đó, đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh nhằm đảm bảo kỷ cương và trật tự an toàn xã hội.

- Khi thực hiện việc tố cáo người tố cáo không chỉ vì lợi ích của bản thân mình mà với mục đích tố cáo để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của các tổ chức và các cá nhân khác.

6. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính

a) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính

Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại: Khi người khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại sẽ phát sinh những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho người khiếu nại và người bị khiếu nại. Người khiếu nại có các quyền sau:

+ Tự mình khiếu nại, trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì người đại diện hợp pháp theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại; trường hợp người khiếu nại ốm đau già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại;

+ Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại;

+ Tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại;

+ Được biết, đọc, sao chụp, sao chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

+ Được yêu cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra do việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại;

+ Đưa ra chứng cứ về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về chứng cứ đó;

+ Nhận văn bản trả lời về việc thụ lý giải quyết khiếu nại, nhận quyết định giải quyết khiếu nại;

67

+ Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;

+ Khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính;

+ Rút khiếu nại.

Bên cạnh những quyền vừa nêu trên, người khiếu nại cần phải thực hiện những nghĩa vụ luật định. Có như vậy mới bảo đảm cho việc giải quyết khiếu nại nhanh chóng, đúng pháp luật, quyền khiếu nại của họ do vậy mà được đảm bảo thực hiện tốt hơn. Người khiếu nại có các nghĩa vụ sau:

+ Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;

+ Trình bày trung thực sự việc, đưa ra chứng cứ về tính đúng đắn, hợp lý của việc khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó;

+ Chấp hành quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian khiếu nại;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

- Quyền của người bị khiếu nại:

+ Đưa ra chứng cứ về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại;

+ Được biết, đọc, sao chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

+ Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao cho người giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

+ Nhận quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.

- Người bị khiếu nại có nghĩa vụ sau đây:

+ Tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại;

68

+ Chấp hành quyết định xác minh nội dung khiếu nại của cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;

+ Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, giải trình về tính hợp pháp, đúng đắn của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại khi người giải quyết khiếu nại hoặc cơ quan, đơn vị kiểm tra, xác minh yêu cầu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật;

+ Sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại;

+ Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

b) Thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước

Luật Khiếu nại quy định thủ trưởng các cơ quan nhà nước các cấp, các ngành có thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại.

c) Thẩm quyền của Thủ trưởng các cơ quan thanh tra

Thẩm quyền của Tổng Thanh tra Chính phủ là giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.

Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm: giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp tiến hành kiểm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp khi được giao; giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của Thủ trưởng trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.

d) Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.

Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền: Lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp;

69

xử lý các kiến nghị của Tổng thanh tra Chính phủ; chỉ đạo, xử lý tranh chấp về thẩm quyền giải quyết khiếu nại giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

7. Những quy định về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại

- Luật Khiếu nại quy định chi tiết về thủ tục, trình tự khiếu nại, thụ lý để giải quyết khiếu nại: xác minh nội dung khiếu nại; thời hiệu; thời hạn giải quyết; nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai.

- Luật Khiếu nại bổ sung một số quy định mới về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại cho phù hợp với thực tiễn, theo hướng đơn giản, công khai, dân chủ, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại. Đặc biệt là Luật quy định việc gặp gỡ, đối thoại trong trường hợp cần thiết và có thể mời đại diện tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan tham dự. Đối với những vụ việc phức tạp, trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại, nếu thấy cần thiết người giải quyết khiếu nại có thể thành lập Hội đồng tư vấn để tham khảo ý kiến làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại.

+ Thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật. Theo quy định của Luật thì khiếu nại lần đầu, người khiếu nại có quyền khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định hành chính, hành vi hành chính. Hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án, mà không nhất thiết phải khiếu nại với người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại như trước đây. Việc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án còn có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết khiếu nại;

+ Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 1, lần 2, kiểm tra xem xét quá trình giải quyết;

+ Giải quyết về tranh chấp thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại;

+ Đối thoại lần 1 là cần thiết, đối thoại lần 2 là bắt buộc;

+ Hội đồng tư vấn;

+ Các khiếu nại không được thụ lý.

8. Về tố cáo và giải quyết tố cáo

- Luật Tố cáo đã qui định quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo.

- Thẩm quyền giải quyết tố cáo của thủ trưởng cơ quan nhà nước

70

Theo qui định của Luật Tố cáo, thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thủ trưởng các cấp, các ngành.

Luật qui định nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo. Cần chú ý rằng, trong Luật Tố cáo chỉ đề ra nguyên tắc chung nhất về thẩm quyền giải quyết tố cáo để từ đó phân loại tố cáo theo phạm vi điều chỉnh của các Luật liên quan và xử lý thích hợp.

- Thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan thanh tra

Theo quy định tại Luật Tố cáo, các cơ quan thanh tra có trách nhiệm: xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp khi được giao; xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại.

- Thủ tục, trình tự giải quyết tố cáo

Hình thức tổ chức, tiếp nhận xử lý thông tin tố cáo, thời hạn, xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo.

+ Tố cáo nhiều người;

+ Ghi nhận việc tố cáo tiếp;

+ Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định hành vi vi phạm tố cáo, quy định rõ về giải quyết tố cáo trong các lĩnh vực theo nguyên tắc thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, có thủ tục rút gọn.

9. Quy định về tiếp công dân

Tiếp công dân là công tác có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo đã có những quy định về việc tổ chức tiếp công dân. Nội dung bao gồm:

- Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tiếp công dân

Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân và tổ chức việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; bố trí

71

cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp công dân.

+ Tổ chức tiếp công dân (như bố trí nơi tiếp công dân, cử người tiếp công dân, tiếp nhận nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

+ Nội dung của công tác tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan tổ chức bao gồm:

Thứ nhất, bố trí nơi tiếp công dân ở địa điểm thuận lợi, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết và bảo đảm an toàn khi tiếp công dân.

Thứ hai, bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có kiến thức và nắm vững chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm trong công tác tiếp công dân.

Thứ ba, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chấn chỉnh kịp thời việc tiếp công dân của cơ quan, tổ chức.

- Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo

Là khâu quan trọng trong công tác tiếp công dân, xử lý tốt đơn thư khiếu nại, tố cáo sẽ giúp cho cơ quan, tổ chức có cơ sở để nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Xử lý kịp thời những hành vi vi phạm, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót, khuyết điểm của công tác quản lý hành chính nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo phải chính xác, kịp thời, đúng thẩm quyền.

10. Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm 06 nội dung:

- Ban hành các văn bản pháp luật, quy chế, quy định giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định về khiếu nại, tố cáo;

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về khiếu nại, tố cáo;

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác tiếp công dân;

72

- Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

11. Về các biện pháp bảo đảm

Nhà nước đề ra các biên pháp bảo đảm cho việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, tư tưởng và pháp lý; tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân sử dụng một cách tích cực các quyền và nghĩa vụ của mình; cũng như trong việc xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các biện pháp khen thưởng và xử lý vi phạm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo.

- Về kinh tế

Đảng và Nhà nước ngày càng cố gắng bảo đảm những điều kiện cần thiết để mọi người dân đều được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ của công dân. Có chính sách hoạch định cho nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân phát triển kinh tế làm giàu cho bản thân và đất nước, đảm bảo cho các quyền lợi của công dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo.

- Về chính trị

Quyền khiếu nại, tố cáo cũng như các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đảm bảo bằng hệ thống chính trị do Hiến pháp và pháp luật qui định với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngoài ra, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị, xã hội giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước để đảm bảo cho việc thực hiện các quyền của công dân.

- Về tư tưởng

Đảng và Nhà nước đẩy mạnh cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Phấn đấu xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện cho người dân ngày càng thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình. Các cấp, các ngành phải nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm các quyền của công dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo. Nhất là trong giai đoạn hiện nay cả đất nước đang hưởng ứng cuộc vận động “học và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

73

- Về pháp lý

+ Đối với người giải quyết khiếu nại, tố cáo. Luật quy định việc xử lý, kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu, cố tình trì hoãn việc giải quyết, làm sai lệch hồ sơ, ra quyết định trái pháp luật, đe doạ, trù dập, bao che.v.v…trong trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường;

+ Đối với người tiếp công dân. Luật quy định người tiếp công dân có các hành vi sau đây thì xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi thiếu trách nhiệm trong tiếp công dân: gây cản trở, phiền hà, sách nhiễu người khiếu nại, tố cáo; vi phạm nội quy tiếp công dân, không kịp thời xử lý hoặc làm sai lệch các thông tin, tài liệu do người khiếu nại, tố cáo kiến nghị, phản ánh, cung cấp;

+ Đối với các đối tượng khác.

Luật quy định việc xử lý với các hành vi như: kích động, xúi dục, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vu khống gây rối trật tự, gây thiệt hại…

+ Ngoài ra, Luật khiếu nại, Luật tố cáo còn xác định trách nhiệm của người chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

74

Chuyên đề 3

CÔNG TÁC THANH TRA TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

I. CÁC KHÁI NIỆM VỀ THANH TRA, KIỂM TRA, GIÁM SÁT

1. Khái niệm thanh tra

Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, thanh tra là: “kiểm soát xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, thanh tra bao hàm việc kiểm soát, xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy định. Thanh tra là hoạt động của một chủ thể có thẩm quyền: Người làm nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định.

Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước; về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:

Thời kỳ phong kiến, ở các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “Ngự sử đài”, người đứng đầu là “Quan ngự sử” với chức năng gần giống như cơ quan thanh tra nhà nước hiện nay. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua. Thời nhà Lê có hàm “Gián nghị đại phu” phong tặng cho bất cứ bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật, Gián nghị đại phu có quyền đề xuất ý kiến về những việc nhà vua nên làm và can gián nhà vua những việc không nên làm.

Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”, từ đây thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ..

Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành. Trong đó quy định quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho Ban Thường vụ của Nghị viện: “Khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền kiểm soát, phê bình Chính phủ”, thực chất đây là quyền giám sát của cơ quan dân cử (cũng như quyền giám sát của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với Chính phủ).

75

Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi hành các quyết định quản lý nhà nước: “Hội đồng Chính phủ ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các Thông tư và Chỉ thị ấy” và “Uỷ ban hành chính các cấp quản lý công tác hành chính... ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành Quyết định, Chỉ thị ấy”. Như vậy, thanh tra, kiểm tra ở đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính hay

Chính phủ còn mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng, ban hành, thực hiện các văn bản pháp quy.

Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Khoản 15 Điều 107 của Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước”, Điều 110 quy định: “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng”. Về Uỷ ban nhân dân, Điều 124 quy định: “Uỷ ban nhân dân các cấp chiểu theo quyền hạn do luật định, ra những Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”.

Đến Hiến pháp 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn qua các Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng, trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”. Điều 115 quy định “...Chính phủ ra Nghị quyết, Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...”. Đối với Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ “ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...” (Điều 116). Đối với Uỷ ban nhân dân, Điều 124 Hiến pháp 1992 cũng quy định “Uỷ ban nhân dân... ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó”.

Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Điều 8 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra nhà nước là: “thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra truy tố, xét xử của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của các cơ quan trọng tài kinh tế”.

76

Luật Thanh tra 2004 và Luật Thanh tra năm 2010 không quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà nước mà quy định cụ thể cho từng cơ quan thanh tra nhà nước, nhưng có thể khái quát nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà nước là: quản lý nhà nước về công tác thanh tra; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về chống tham nhũng.

Thanh tra có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước

Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.

Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những chức năng chung.

Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra.

Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.

Quản lý nhà nước và thanh tra, có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là chức năng, là công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước. Về mối quan hệ giữa thanh tra và công tác quản lý nhà nước sẽ được phân tích kỹ hơn trong mục III của chuyên đề này.

Hai là, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước

77

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.

Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước. Theo Mác, đến một giai đoạn nào đó, Nhà nước sẽ tự tiêu vong và khi đó, chức năng thanh tra sẽ cùng với Nhà nước được “xếp bên cạnh chiếc xa kéo sợi và chiếc rìu đồng cổ”.

Tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Ở các nước trên thế giới, dù mô hình tổ chức hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm này. Ở nước ta, Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra 1990 quy định: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.

Luật Thanh tra 2004 quy định: Thanh tra là cơ quan của cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh tra và thực hiện nhiệm vụ quyền hạn thanh tra trong phạm vi quản lý của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.

Luật Thanh tra năm 2010 quy định: cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những quyền hạn đó:

78

- Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch được phê duyệt.

- Trình thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính phê duyệt hoặc quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

- Yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan.

- Niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định.

- Tạm đình chỉ hành vi vi phạm, tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép, thu hồi tài sản.

- Xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (đối với thanh tra chuyên ngành).

- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý.

- Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.

Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối

Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Tính độc lập tương đối của thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thể hiện ở một số nội dung sau:

79

Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ truởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.

- Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên.

- Trong trường hợp những kiến nghị về thanh tra do Chánh Thanh tra đề nghị, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp không nhất trí, Chánh thanh tra có quyền bảo lưu báo cáo với người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên xem xét, quyết định.

- Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có quyền ra quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

- Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.

Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý.

Từ những phân tích nêu trên, Thanh tra được hiểu như sau:

“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra được thực hiện bởi cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với Nhà nước các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.

2. Khái niệm kiểm tra

80

Theo Từ điển tiếng Việt thì “kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”1. Theo Từ điển Luật học thì kiểm tra là xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét... Kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ quan cấp trên đối với cấp dưới, của thủ trưởng đối với nhân viên. Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội đối với các thành viên của mình (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ...); hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp: Kiểm tra của Giám đốc đối với các phòng ban, kiểm tra của quản đốc đối với người lao động. Trên một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đưa ra đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào.

Khi con người biết lao động một cách có ý thức là đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải kiểm tra. Ăngghen đã nói “Mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người đều chứa đựng trong đó những yếu tố của kiểm tra” và “đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để thực hiện mục đích”. Như vậy, kiểm tra xuất hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử. Có thể nói, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài người. Khi Nhà nước tự tiêu vong, thanh tra sẽ mất đi như đã nói ở trên, nhưng kiểm tra thì vẫn còn tồn tại cùng với “chức năng quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích của xã hội” như Ăngghen đã chỉ ra.

1 Từ điển Tiếng Việt, Nxb Ngôn ngôn ngữ 1992

81

Giữa kiểm tra và thanh tra có sự giao thoa về chủ thể, đó là Nhà nước; Nhà nước tiến hành cả hoạt động kiểm tra và hoạt động thanh tra. Bởi vì, kiểm tra và thanh tra đều là một chức năng chung của quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất “phản hồi” của chu trình quản lý. Qua thanh tra và kiểm tra người ta có thể phân tích, đánh giá, theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đã đề ra. Ở đây, quan hệ giữa thanh tra và kiểm tra là mối quan hệ đan chéo nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì Kiểm tra bao hàm Thanh tra, hay nói cách khác Thanh tra là một loại hình đặc biệt của Kiểm tra mà ở đó nó luôn luôn do một loại chủ thể là Nhà nước tiến hành và mang tính quyền lực nhà nước. Những nét đặc trưng này đủ để người ta có thể đưa ra một khái niệm riêng về Thanh tra, có thể tách rời nó ra khỏi khái niệm về Kiểm tra. Ngược lại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì thanh tra cũng bao hàm kiểm tra. Các hoạt động, các thao tác nghiệp vụ trong một cuộc thanh tra chính là kiểm tra. Ví dụ như việc kiểm tra sổ sách, giấy tờ, tài liệu; kiểm tra kho quỹ của đối tượng thanh tra; so sánh, đối chiếu, đánh giá các số liệu thu thập được trong quá trình thanh tra... đó chính là kiểm tra.

Sự phân biệt Thanh tra và Kiểm tra ở đây chủ yếu căn cứ vào mục đích và phương pháp. Hoạt động thanh tra tác động lên đối tượng bị quản lý; xem xét, kết luận và ở mức độ nào đó được người quản lý uỷ quyền xử lý những việc làm sai lệch của đối tượng bị quản lý nhằm bảo đảm cho các quyết định quản lý được chấp hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực, hiệu quả. Kiểm tra là xem xét những sự việc diễn ra có đúng với các quy tắc đã xác lập và các mệnh lệnh về quản lý đã ban ra hay không. Kiểm tra vốn là chức năng của mọi người quản lý, không phân biệt họ làm việc ở cấp bậc nào trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy quản lý nhà nước nói riêng. Ở các cấp bậc khác nhau thì quy mô và yêu cầu kiểm tra có khác nhau.

Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, một cán bộ, công chức nhất định và thường theo một số hướng sau:

- Theo dõi để cho hoạt động của tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và sự phân công giữa các đơn vị;

- Quan sát để đảm bảo rằng nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực hiện, phù hợp với thực tế. Hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo hiệu suất công việc của từng đơn vị:

- Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của các hoạt động theo kế hoạch đặt ra.

82

Về góc độ quản lý chung, kiểm tra hướng tới việc xem xét hợp lý hay không hợp lý của một chương trình công tác đã vạch ra, khả năng thực hiện trong thực tế.

Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có mục tiêu: đó là tìm kiếm động cơ, nguyên nhân cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được giao. Một sự kiểm tra như vậy có thể được thực hiện trong nội bộ của bộ máy quản lý, nhưng cũng có thể ở ngoài hệ thống đó mà người ta gọi là kiểm soát ngoại lai.

Như vậy, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta không thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công việc. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa các đơn vị phối hợp. Cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.

Nói tóm lại, trong mối quan hệ này, kiểm tra và thanh tra có quan hệ gần gũi, bổ sung lẫn nhau. Trong nhiều tác phẩm và bài viết của mình, khi đề cập mục đích, nhiệm vụ của thanh tra, kiểm tra, Lênin không phân biệt hai khái niệm này. Trong Báo cáo chính trị đọc trước Đại hội XI - Đảng cộng sản Nga (3/1922) Lênin nói: “chúng ta phải tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt công tác của chúng ta... Phải kiểm tra thật sự, đứng trên quan điểm của nền kinh tế quốc dân mà kiểm tra”,... “phải kiểm tra lại những chủ trương mà chúng ta đã tuyên bố từng giờ, quyết định từng phút, từng giây...”, và “Ban thanh tra công nông không chỉ có nhiệm vụ, thậm chí cũng phải nhiệm vụ chủ yếu “tóm tắt” và “vạch mặt” và phải cải tổ Bộ Dân uỷ thanh tra công nông... để tăng cường sự kiệm tra từ phía quần chúng nhằm tiêu diệt cái thứ cỏ dại - chủ nghĩa quan liêu”.

Ở nước ta, trong các Nghị quyết của Đảng, các Hiến pháp 1980, 1992 cũng xem thanh tra và kiểm tra như là những mặt, phương diện của quản lý nhà nước có chung mục đích, đều là những chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước.

3. Khái niệm giám sát

Trong Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Cũng trong từ điển tiếng Việt, giám sát còn được hiểu “là chức quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại việc nhất định”.

83

Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau nhưng chúng đều có đặc điểm là luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu hỏi: ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. Đồng thời “giám sát” cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi: giám sát ai, giám sát việc gì. Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ, nó phân biệt giữa “giám sát” và “kiểm tra”. “Kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động. Nói một cách khác, chủ thể tự mình xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc mình đang làm. Nhưng “giám sát” thì không thể tự mình giám sát hoạt động của chính mình. “Giám sát” là hoạt động của chủ thể ngoài hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ thống khác, tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu giám sát không nằm trong một hệ thống phụ thuộc nhau.

Trong hoạt động giám sát, cả chủ thể giám sát, đối tượng bị giám sát và nội dung, tính chất hoạt động giám sát đều rất đa dạng. Từ giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước đến giám sát thi công một công trình, giám sát kỹ thuật, giám sát một trận thi đấu thể thao... ở đây, chỉ đề cập đến hai loại hình giám sát chủ yếu sau đây:

a) Giám sát mang tính quyền lực nhà nước

Là loại giám sát được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ quan nhà nước khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà nước. Ở nước ta, đó là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; là hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương. Ngoài ra có thể kể thêm hoạt động giám sát của Toà án đối với bộ máy nhà nước thông qua hoạt động xét xử. Các phương pháp, cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước và nó trực tiếp mang lại những hậu quả có tính pháp lý.

84

- Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Về phạm vi giám sát: theo quy định của pháp luật hiện hành, Quốc hội thực hiện quyền kiểm tra, giám sát tính hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt động và trong văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Và như vậy, Quốc hội chỉ theo dõi, kiểm tra, xem xét tính hợp Hiến, hợp pháp trong nội dung các văn bản của các cơ quan nhà nước trực tiếp chịu sự giám sát của Quốc hội. Điều đó có nghĩa, Quốc hội không kiểm tra trực tiếp những hoạt động quản lý cụ thể của các cơ quan trên.

Như vậy, chúng ta có thể khái quát về quyền giám sát tối cao của Quốc hội như sau: quyền giám sát tối cao của Quốc hội là quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra tính hợp Hiến, hợp pháp đối với các văn bản và trong các hoạt động của Chủ tịch nước. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhằm bảo đảm cho Hiến pháp, Luật, các Nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành.

Đối với giám sát của Hội đồng nhân dân, do vị trí của Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cho nên mặc dù giám sát của Hội đồng nhân dân và giám sát của Quốc hội đều có chung một tính chất là giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước nhưng rõ ràng, giám sát của Hội đồng nhân dân có một cấp độ thấp hơn. Có thể nói, quyền giám sát của Hội đồng nhân dân là quyền theo dõi, xem xét, kiểm tra việc thi hành pháp luật và các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương nhằm bảo đảm cho các quy định của pháp luật và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thi hành nghiêm chỉnh trong địa bàn địa phương.

- Giám sát bằng hình thức tài phán. Theo quy định hiện hành, Tòa án nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giám sát thông qua hoạt động xét xử nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hoạt động giám sát của Tòa án nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước khác với các loại giám sát, thanh tra ở chỗ: sự giám sát của Tòa án chỉ tiến hành thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính... Trong quá trình xét xử, bên cạnh việc xác định tội phạm, Tòa án nhân dân còn kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi quản lý (bao gồm cả quyết định quản lý) của các cơ quan quản lý và người có chức vụ.

b) Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước

85

Là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước. Ở nước ta, đó là hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

- Giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận. Tại khoản 1 Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc có đưa ra khái niệm về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó là “tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Về quyền giám sát của Mặt trận, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân... giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước .

Về tính chất của hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định:

“1- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước nhằm góp phần xây dựng, bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.

2- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây:

Thứ nhất, động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát;

Thứ hai, tham gia hoạt động giám sát với các cơ quan Nhà nước;

Thứ ba, thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật...”.

86

Những quy định trên đây cho thấy sự khác nhau cơ bản giữa hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc với giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân (cơ quan quyền lực nhà nước ) và hoạt động kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước là ở tính chất giám sát và hình thức giám sát. Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là giám sát mang tính quyền lực nhà nước, do các đại biểu dân cử và các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân thực hiện. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có chức năng thanh tra, kiểm tra là hoạt động có tính chất hành chính. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra, thanh tra, các cơ quan nhà nước có quyền quyết định những biện pháp và hình thức xử lý (nếu phát hiện vi phạm pháp luật).

Do vậy, có thể khái quát về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau: đó là quyền giám sát của một tổ chức mang tính liên minh chính trị, liên hiệp, phối hợp và thống nhất hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước thông qua việc động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia hoạt động giám sát với cơ quan Nhà nước và tổng hợp ý kiến của nhân dân cũng như của các thành viên để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Hoạt động giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của Nhà nước, là hoạt động giám sát của chủ thể không phải là Nhà nước.

- Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân” và “các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân...lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”. Do vậy, quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước là quyền giám sát của những người chủ của quyền lực nhà nước.

Quyền giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua những hình thức sau:

- Xem xét, theo dõi, đánh giá hoạt động của các đại biểu dân cử, đó là các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Những người này đều do nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Theo quy định hiện hành, nhân dân có quyền xem xét, đánh giá tư cách của các đại biểu có xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân hay không. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân có thể bị bãi nhiệm khi không còn tín nhiệm của nhân dân. Thực chất, ở đây, nhân dân đã thực hiện quyền giám sát của mình đối với tư cách và hoạt động của các đại biểu.

87

- Trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Quan điểm của Đảng ta trong hoạt động quản lý nhà nước là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhân dân có quyền tham gia ý kiến, kiến nghị với Nhà nước về những vấn đề quan trọng của đất nước. Nhân dân cũng có quyền trực tiếp tham gia các hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc quản lý đời sống kinh tế, xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, tổ chức đời sống cộng đồng ở cơ sở. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị; quy chế dân chủ ở doanh nghiệp... những quy chế này đã tạo cơ sở pháp lý để nhân dân được biết, được bàn trước khi cơ quan tổ chức, đơn vị quyết định hoặc có những việc nhân dân được tự quyết định và thực hiện. Đó chính là một yếu tố của quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước.

- Thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Điều 74 Hiến pháp năm 1992. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo chính là việc nhân dân phát hiện ra những việc làm sai trái, những hành vi vi phạm pháp luật, thông qua một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Qua đó cũng góp phần bảo đảm cho hoạt động của bộ máy nhà nước được đúng đắn, ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước. Có thể nói, việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là biểu hiện cao độ cho quyền làm chủ của nhân dân, là một hình thức hữu hiệu để nhân dân giám sát bộ máy nhà nước.

- Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân. Đây là tổ chức do nhân dân và tập thể những người lao động bầu ra ở xã, phường, thị trấn và các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước. Thông qua tổ chức này nhân dân trực tiếp giám sát việc chấp hành pháp luật trong phạm vi địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, giám sát hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng cơ quan, đơn vị.

Như vậy, có thể khái quát quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước là một nội dung quan trọng của quyền dân chủ của nhân dân.

4. Mối quan hệ giữa các loại hình thanh tra, kiểm tra, giám sát

88

Qua nghiên cứu các khái niệm về thanh tra, kiểm tra, giám sát như trên giúp chúng ta có thể rút ra một vài tiêu chí phân định một số loại hình thanh tra, kiểm tra, giám sát ở nước ta hiện nay cũng như lý giải về mặt lý luận những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, có những loại hình kiểm tra rất gần gũi với hoạt động thanh tra của Nhà nước, có những loại hình bản chất là giám sát nhưng lại mang tên gọi thanh tra... Chúng chủ yếu tiến hành kiểm tra, giám sát.

Với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước, hoạt động theo một thể chế pháp luật thống nhất, giữa các chủ thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát có những mối quan hệ ràng buộc, tương hỗ, phối hợp với nhau khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Chẳng hạn, mối quan hệ giữa thanh tra với kiểm tra Đảng trong việc phát hiện, xử lý những vi phạm của cán bộ, công chức là đảng viên; mối quan hệ giữa thanh tra với các cơ quan điều tra, kiểm tra trong việc xử lý những hành vi phạm tội; mối quan hệ giữa thanh tra theo cấp hành chính với thanh tra theo ngành và lĩnh vực; mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm sát; mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan kiểm toán trong quá trình thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp nhà nước.v.v...

Xem xét mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát với việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước (được hiểu theo nghĩa hẹp, là hoạt động của Chính phủ và hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước) thì có thể phân chúng thành hai loại:

Thứ nhất, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước: đó là hoạt động kiểm tra của cơ quan hành chính cấp trên đối với cơ quan hành chính cấp dưới theo thứ bậc hành chính; là hoạt động thanh tra, bao gồm thanh tra theo chức năng quản lý về ngành, lĩnh vực và hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính.

Thứ hai, hoạt động kiểm tra, giám sát từ bên ngoài hướng vào các cơ quan hành chính nhà nước: đó là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận cũng như hoạt động giám sát của nhân dân đối với bộ máy hành chính Nhà nước.

Từ sự phân định này, có thể thấy các cơ quan thanh tra nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò là cầu nối trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát vì những lý do sau:

89

Một là, thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, vì thế, hoạt động thanh tra nhà nước là một chức năng trong hoạt động quản lý nhà nước. Đó là hoạt động tự kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của từng cơ quan hành chính nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành nói riêng, trên cơ sở đó các cơ quan thanh tra nhà nước được tổ chức ở các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước gồm: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra cấp huyện, Thanh tra bộ, Thanh tra sở.

Như vậy trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung của toàn xã hội, thanh tra gắn với cơ quan quản lý nhà nước, do đó, đối tượng thanh tra rộng hơn và trực tiếp hơn so với đối tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám sát.

Hai là, hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kiểm tra, giám sát. Qua hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước không những phát hiện các vi phạm để xử lý theo thẩm quyền của mình, mà còn phục vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung của xã hội (khi có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để xử lý theo pháp luật, nếu liên quan đến đảng viên hoặc cán bộ của các đoàn thể, tổ chức xã hội thì chuyển hồ sơ để các tổ chức này xử lý theo điều lệ).

Ngược lại, hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước tuy là hoạt động tự kiểm tra của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nhưng cũng luôn luôn được tiếp nhận kết quả kiểm tra, giám sát từ các "kênh" khác để làm tốt hơn công tác thanh tra của mình. Vai trò cầu nối và trung tâm trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở đây thể hiện rất rõ: kiểm tra của Đảng hỗ trợ cho thanh tra, thanh tra phục vụ cho kiểm tra của Đảng; giám sát, kiểm tra của nhân dân và các tổ chức xã hội phục vụ cho thanh tra, thông qua thanh tra để phục vụ cho công tác kiểm tra của Đảng.

90

Ba là, do cơ quan thanh tra nhà nước gắn với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, là hệ thống cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trên phạm vi toàn quốc và trên mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, vì vậy thanh tra có điều kiện phát hiện vi phạm, phát hiện những bất hợp lý, thậm chí cả những sơ hở, khiếm khuyết trong chính sách, pháp luật sớm hơn và dễ dàng hơn so với hoạt động của các chủ thể khác có chức năng kiểm tra, giám sát. Mặt khác do hoạt động thanh tra là hoạt động bao quát toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, nên hoạt động thanh tra nhìn chung, so với kiểm tra và giám sát, sẽ trực tiếp hơn, toàn diện hơn và có tính hệ thống hơn. Vì thế việc sửa đổi bổ sung đường lối chính sách, pháp luật, nhất là các quyết định quản lý sẽ nhanh chóng, kịp thời hơn.

Bốn là, các cơ quan thanh tra nhà nước chỉ phát huy được vị trí trung tâm, vai trò cầu nối trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung nếu như tổ chức tốt công tác kiểm tra và giám sát, nhất là giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng nhân dân và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, giám sát của nhân dân. Bởi vì, thanh tra là xem xét và đánh giá chính hiệu quả quản lý của cơ quan hành chính nhà nước, trong khi đó về mặt tổ chức thanh tra lại thuộc hệ thống các cơ quan này.Vì vậy dễ bị lợi ích cục bộ, chủ nghĩa thành tích chi phối, làm giảm tính khách quan trong hoạt động.

Một vấn đề cần được đặt ra là, trên thực tế hiện nay bên cạnh hoạt động thanh tra nhà nước được quy định trong Luật Thanh tra, thì còn có các loại hình khác cũng có tên là Thanh tra (thanh tra của Thủ trưởng, Thanh tra nhân dân), do vậy cần phải có sự tìm hiểu về đặc điểm, bản chất của các loại hình này.

91

-Về loại hình thanh tra của Thủ trưởng và Thanh tra nhân dân: thanh tra của Thủ trưởng được lập ra ở các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan nhà nước không có chức năng quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đặt dưới sự chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Nhiệm vụ của nó là xem xét, đánh giá việc thực hiện các quy trình, quy phạm, nội quy, quy chế của các đối tượng trong phạm vi quản lý nội bộ của tổ chức, cơ quan, đơn vị mình. Còn các tổ chức Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Thanh tra nhân dân do nhân dân, cán bộ, công chức, người lao động bầu ra, đặt dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc (ở xã, phường, thị trấn) hoặc của tổ chức công đoàn cơ sở (ở các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước). Nhiệm vụ của các Ban thanh tra nhân dân là giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở cơ sở.

Như vậy, hoạt động của cả hai loại hình này đều không được tiến hành nhân danh quyền lực nhà nước. Do đó, mặc dù có tên gọi là thanh tra nhưng về bản chất, hai loại hình trên đây không phải là thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước. Đối với thanh tra của thủ trưởng thì đó thực chất là một loại hình kiểm tra mang tính nội bộ trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Còn đối với Thanh tra nhân dân, thực chất đó là một hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở cơ sở.

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ THANH TRA

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh tra

Trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, Đảng và Nhà nước luôn luôn coi trọng và đặt thanh tra vào vị trí quan trọng. Chỉ sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập hai tháng, ngày 23 tháng 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL, thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Đó là sắc lệnh lịch sử đối với ngành thanh tra, đồng thời điều đó cũng nói lên sự quan tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác thanh tra. Theo Sắc lệnh 64/SL, Ban thanh tra đặc biệt có toàn quyền "nhận các đơn khiếu nại của dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của UBND hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBND hay của Chính phủ đã phạm lỗi".

92

Bốn năm sau, ngày 18 tháng 12 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ký sắc lệnh số 138B - SL thành lập Ban thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Ban thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ "xem xét sự thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ: thanh tra các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết; thanh tra các sự khiếu nại của nhân dân”.

Ngày 28 tháng 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 261- SL thành lập Ban thanh tra TƯ của Chính phủ, với nhiệm vụ "thanh tra công tác của các bộ; các cơ quan dân chính và chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp; thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô, lãng phí.

Từ năm 1945 đến năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp ký ba sắc lệnh về công tác thanh tra, với những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng giai đoạn, nhưng tựu trung có hai mảng công việc chính là giải quyết các khiếu nại của nhân dân và thanh tra, xem xét sự thi hành chủ trương, chính sách của Chính phủ. Điều đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Người đối với công tác thanh tra và qua đó cũng nói lên vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra trong sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.

Năm 1957, tại hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc, Hồ Chủ Tịch nói: “Thanh tra cũng không phải chỉ điều tra, nghiên cứu việc chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị đã được đến đâu mà còn phải theo dõi cho đến khi công việc đó được làm xong, làm tốt”.

Trong lúc này có những cán bộ, đảng viên vì việc này việc khác mà kêu, cán bộ thanh tra cũng phải xét kịp thời, chóng chừng nào hay chừng ấy. Đối với nhân dân việc kêu nài, có lúc không kêu nài đi nữa, cán bộ thanh tra cũng phải đi thăm dò ý kiến của nhân dân.

Tóm lại thanh tra “là tai mắt của trên, là người bạn của dưới, theo dõi chỉ thị, chính sách, thông tri đưa xuống cho đến lúc kết thúc”.

Năm 1961, trong bài huấn thị về công tác thanh tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Thanh tra là tai mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt sáng suốt thì người mới sáng suốt ".

2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra giai đoạn trước khi thực hiện đường lối đổi mới

93

Ngày 04 tháng 7 năm 1962, Ban bí thư TƯ có chỉ thị số 50/CT-TW về việc tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ. Chỉ thị đã xác định "tổ chức thanh tra chuyên nghiệp là tai mắt của cơ quan lãnh đạo các cấp, nó có trách nhiệm giữ gìn dân chủ, kỷ luật nhà nước, bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ... Thanh tra có nhiệm vụ theo dõi, xem xét sự chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết chỉ thị của Đảng và Chính phủ... Các bộ, các ngành, các cấp nhất định phải có cơ quan thanh tra của mình để theo dõi ngay từ đầu, để kịp thời uốn nắn, sửa chữa sai lầm, thiếu sót có thể xảy ra... Các cán bộ lãnh đạo (Bộ trưởng, Thứ trưởng...) nhất định phải trực tiếp chỉ đạo cơ quan thanh tra của mình".

Ngày 22 tháng 12 năm 1967 , Ban Bí thư TƯ có Thông tri số 210-TT/TW về việc tăng cường tổ chức Ủy ban Kiểm tra của Đảng và đẩy mạnh công tác cơ quan thanh tra của nhà nước. Trong Thông tri này, Ban Bí thư đã "lưu ý các cấp uỷ và các đảng đoàn phải hết sức chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, công tác thanh tra và xét thư khiếu tố của nhân dân; không những chỉ lãnh đạo về nội dung mà phải chấn chỉnh và bổ sung về mặt tổ chức, làm cho bộ máy tương xứng với nhiệm vụ”.

Ngày 18 tháng 4 năm 1970, Ban Bí thư TƯ Đảng có chỉ thị 176- CT/TW về việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm sát, thanh tra và giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo. Trong bản chỉ thị này, Ban Bí thư xác định "trong điều kiện Đảng lãnh đạo, chính quyền, càng phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, công tác kiểm sát, thanh tra của Nhà nước để kịp thời phát hiện những ưu điểm, khuyết điểm của các cấp, các ngành, ngăn chặn, sửa chữa các khuyết điểm của cán bộ đảng viên... Bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh".

94

Nghị quyết số 164/CP ngày 31 tháng 8 năm 1970 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước đã xác định "Thanh tra là một khâu công tác quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý của bộ máy nhà nước. Nó có mục đích giúp cơ quan lãnh đạo vừa kiểm tra sự đúng đắn của bản thân sự lãnh đạo của mình, vừa kiểm tra việc chấp hành của các cơ quan thuộc quyền nhằm tìm ra biện pháp chỉ đạo và quản lý tốt nhất, bảo đảm cho những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật của Nhà nước được chấp hành một cách đầy đủ và có hiệu lực". Cùng ngày 31 tháng 8 năm 1970, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 165/CP qui định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban thanh tra của Chính phủ. Theo Nghị định này "Uỷ ban thanh tra của Chính phủ là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thanh tra việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch và ngân sách của Nhà nước, nhằm tăng cường kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc trong bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở”.

Nghị định số 01- CP ngày 03 tháng 1 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban thanh tra Chính phủ đã xác định "Ủy ban thanh tra của Chính phủ là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm thay mặt Hội đồng Chính phủ thanh tra một cách thường xuyên, kịp thời, chính xác việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước chủ yếu về mặt kinh tế và chỉ đạo hướng dẫn công tác thanh tra của Nhà nước và công tác thanh tra nhân dân của các ngành, các cấp nhằm đảm bảo chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách, góp phần giữ gìn kỷ luật, cải tiến tổ chức, đồng thời giúp cơ quan lãnh đạo kiểm tra lại sự đúng đắn của bản thân các chủ trương, chính sách đó".

Tại Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc ngày 14/3/1972, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: "Thanh tra là một loại công việc cực kỳ trọng yếu, không thể thiếu; các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước dứt khoát phải tổ chức tốt công tác thanh tra, phải có người làm tai mắt cho mình, thường xuyên mắt phải thấy, tai phải nghe công việc chung và những công việc trọng yếu có chạy đều không, có cái gì không tốt, ở chỗ nào không tốt, do đâu mà không tốt và từ đó giúp cho người lãnh đạo kịp thời phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phát huy cái đúng, sửa cái sai. Không thấy tầm quan trọng, ý nghĩa trọng yếu, vị trí và tác dụng của thanh tra là không đúng, rất không đúng ".

95

Tại buổi nói chuyện với các Chủ tịch, Bí thư tỉnh, thành phố về công tác thanh tra ngày 24 tháng 3 năm 1972, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhấn mạnh: "... lãnh đạo, chỉ đạo thì đồng thời có kiểm tra, đó là một chứ không phải là hai... Các đồng chí không coi trọng thanh tra tức là tước một cái vũ khí cần thiết của người lãnh đạo”.

Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, hoạt động thanh tra được mở rộng trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương mới về công tác thanh tra. Ngày 20/2/1984 Ban bí thư TƯ Đảng có chỉ thị số 38 CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh tra. Chỉ thị của Ban bí thư xác định: "Trước mắt, cũng như lâu dài, công tác thanh tra có tác dụng quan trọng trực tiếp đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giữ gìn pháp luật của Nhà nước" và "cần tăng cường cho các tổ chức thanh tra có đủ số lượng cán bộ thanh tra có phẩm chất, đạo đức tốt và có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn".

Tiếp theo chỉ thị 38/CP của Ban bí thư Trung ương, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị quyết số 26-HĐBT ngày 15/2/1984 về việc tăng cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra. Nghị quyết 26-HĐBT đã xác định: "Thanh tra là một khâu không thể thiếu trong công tác lãnh đạo. Đường lối chủ trương của Đảng được Nhà nước cụ thể hoá bằng các chủ trương, chính sách và bằng việc tổ chức thực hiện, đồng thời phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc tiến hành các chủ trương chính sách đã đề ra. Mặt khác, đứng về Nhà nư-ớc và xã hội phải tăng cường xây dựng tổ chức ngành thanh tra" và "tổ chức thanh tra phải là một tổ chức có hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời phải là một hình thức tổ chức của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ của mình trong kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước".

3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới.

Đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội VI của Đảng đề ra đã làm cho đất nước có nhiều biến đổi, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, chính trị ổn định. Các ngành, các cấp đã từng bước vươn lên, vượt qua sự yếu kém, trì trệ bao cấp để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Trong nhận thức, đã dứt khoát từ bỏ cách quản lý theo kiểu quan liêu bao cấp cũ. Đối với công tác thanh tra, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo xây dựng và kiện toàn thêm một bước mới.

96

Ngày 01 tháng 4 năm 1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thanh tra, năm 2004 Quốc hội ban hành Luật Thanh tra đây là văn bản pháp lý cao nhất từ trước tới nay có phạm vi điều chỉnh tổng quát nhất, đề cập nhiều vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra. Luật Thanh tra ra đời có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn và lý luận. Đây là sự cụ thể ở mức cao quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với công tác thanh tra: “ thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước”. Hiến pháp năm 1992, Điều 112 khoản 7 qui định Chính phủ có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước”.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật Thanh tra năm 2004, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật Thanh tra năm 2010, dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra; kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Thanh tra năm 2004; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về công tác thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010 đã quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra, đưa ra nhiều nội dung thay đổi về tổ chức, hoạt động thanh tra như làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, phương thức hoạt động thanh tra và sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra; bảo đảm sự phối hợp có hiệu quả giữa các công cụ giám sát, kiểm tra, thanh tra của bộ máy nhà nước và của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta bước sang thời kỳ phát triển mới. Để đáp ứng yêu cầu Nhà nước đặt ra cho thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi phải có sự đổi mới về hoạt động thanh tra, kiểm tra. Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã thể hiện những định hướng lớn về hoạt động thanh tra, kiểm tra trong tình hình mới, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Quan điểm của Đảng và Nhà nước là phải tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra; đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều kiện mới; phát triển mạnh việc thực hiện thể chế về từng lĩnh vực như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh, y tế, xây dựng, công vụ... trong toàn xã hội.

97

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính Đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ. Đẩy mạnh hoạt động tự kiểm tra, thanh tra trong nội bộ các cơ quan nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn lãnh thổ...

Qua việc nghiên cứu quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra cho thấy, hơn nửa thế kỷ qua, cùng với sự lớn mạnh và phát triển của đất nước, công tác thanh tra luôn luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng và nhất quán phương châm tăng cường củng cố và phát triển để đáp ứng yêu cầu nhà nước qua mỗi thời kỳ cách mạng của đất nước. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác thanh tra những năm qua tiếp tục khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra: “ thanh tra để theo dõi, xem xét các kế hoạch chỉ thị, chính sách đó, các địa phương đã chấp hành như thế nào”; “nếu làm sai hay gặp khó khăn, còn giúp họ làm cho đúng nghị quyết, chỉ thị của trên đưa của bộ máy quản lý nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước”.

III. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC THANH TRA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1. Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước

a) Quản lý và vai trò của quản lý trong đời sống xã hội

Quản lý là một chức năng lao động xã hội, bắt nguồn từ tính chất xã hội hoá của lao động. Quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, sản xuất, chính trị, xã hội... Theo quan điểm của điều khiển học, quản lý là sự tác động có mục đích đến một hệ thống nào đó nhằm biến đổi nó từ trạng thái này sang trạng thái khác theo nguyên lý phá vỡ hệ thống, tạo lập hệ thống, điều khiển hệ thống...

Quản lý có rất nhiều dạng, dấu hiệu chung của các dạng quản lý là:

- Chia thành chủ thể quản lý (gây ra tác động điều hành) và đối tượng quản lý (chấp hành các động điều hành của chủ thể).

- Có mối liên hệ ngược và có mối liên quan đến việc trao đổi thông tin.

- Có khả năng tự thích nghi.

98

Gộp chung là quản lý gồm 3 loại: quản lý giới vô sinh (máy móc, đất đai, tài nguyên...), quản lý giới sinh vật (cây trồng vật nuôi...); quản lý xã hội (tập thể những con người). Trong các loại quản lý thì quản lý xã hội là phức tạp nhất. Một mặt, xã hội là một hệ thống trên của kinh tế, bao gồm toàn bộ các hoạt động cả về kinh tế, chính trị, đạo đức, tinh thần... nên nó chứa đựng tất cả những sự phức tạp của các đối tượng bị quản lý. Mặt khác, trong quản lý xã hội có những quan hệ phi kết cấu như quan hệ đạo đức, quan hệ cá nhân, quan hệ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các đối tượng, các quan hệ như quan hệ kinh tế với quan hệ hành chính, quan hệ pháp lý... làm cho việc quản lý càng phức tạp và khó khăn hơn.

Khi phân tích về vai trò quan trọng của quản lý xã hội, Các Mác viết:

“ bất kỳ một xã hội hay cộng đồng nào được tiến hành trên qui mô tương đối lớn cũng đều cần có sự quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng rẽ là thực hiện chức năng chung nhất xuất phát từ vận động của toàn bộ cơ cấu sản xuất (khác với sự vận động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy). Một nghệ sĩ chơi đàn chỉ phải điều khiển chính mình, nhưng một dàn nhạc cần có nhạc trưởng”. Trình độ xã hội hoá càng cao thì tính chất, nội dung quản lý càng phức tạp và phong phú. Khi trình độ phân công lao động xã hội còn ở mức độ thấp thì tác động điều khiển để các hành vi hoạt động của con người ở các bộ phận riêng phát triển phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý còn tương đối đơn giản, nhưng khi xã hội phát triển, sự phân công lao động trong xã hội sâu hơn thì việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào quản lý để xã hội phát triển theo ý chí của chủ thể không còn đơn giản nữa. Do vậy, khi hướng sự tác động của mình vào đối tượng bị quản lý, chủ thể quản lý phải cần nhận biết qui luật vận động của nó, đồng thời, phải tự điều chỉnh ý chí của mình. Vậy quản lý là gì? Quản lý là sự tác động có tính chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với qui luật, đạt tới mục đích nhất định và đúng với ý chí của chủ thể quản lý. Như vậy quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó tác động lên hành vi của mỗi cá nhân, nhờ đó mà tạo nên hành động chung có sức mạnh lớn hơn của cả tập thể. Ở đâu có lao động của con người, có phân công, có hợp tác mà muốn đạt năng suất lao động chung lớn hơn thì ở đó phải có lao động quản lý, đây chính là mặt tổ chức, kỹ thuật của quản lý. Về bản chất của quản lý thì: quản lý là hoạt động có mục đích của giai cấp thống trị, của người chủ quản lý nhằm đảm bảo duy trì và đảm bảo lợi ích của mình. Cho nên bản chất của quản lý gắn liền với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất là cái mà giai cấp thống trị, người chủ nắm giữ. Đây chính là mặt kinh tế- xã hội của quản lý.

99

b) Quản lý nhà nước và chức năng thanh tra trong quản lý nhà nước

Những nội dung đề cập trên đây nói về quản lý với nghĩa chung nhất. Cái cần nghiên cứu trong chuyên đề này là quản lý nhà nước, vậy quản lý nhà nước là gì? Có thể hiểu đơn thuần quản lý nhà nước là sự quản lý bằng pháp luật của Nhà nước hay không? Về một phương diện nào đó có thể hiểu như vậy. Nhưng để làm rõ nội dung của khái niệm của quản lý nhà nước ta hãy luận bàn một số nội dung:

Chủ thể quản lý của nhà nước là ai? đối tượng chịu sự tác động và điều khiển của quản lý nhà nước là gì? có thể nói ngay rằng Nhà nước là chủ thể của quản lý nhà nước. Khái niệm quản lý nhà nước ở đây không chỉ có hệ thống các cơ quan hành pháp mà là cả cơ cấu bao gồm các cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp. Hệ thống các cơ quan này trong phạm vi trách nhiệm của mình đều thực hiện chức năng quản lý đối với xã hội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là tổ chức tập trung quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân; thực hiện quyền lực của mình để quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội bằng pháp luật theo đường lối, chính sách của Đảng. Như vậy đối tượng của quản lý nhà nước sẽ là các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người. Từ đó, có thể hiểu quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự xã hội nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.

Nội dung quản lý nói chung với tính cách là một quá trình được thực hiện qua các chức năng quản lý. Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu. Những chức năng này là những hình thức hoạt động nhờ đó chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý. Không có chức năng quản lý thì không thể hình dung được qúa trình quản lý ấy trong một hệ thống nhất định, chủ thể quản lý sẽ không thể điều hành được hệ thống quản lý.

Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa các bộ phận, các khâu, các cấp trong hệ thống quản lý. Từ những chức năng quản lý mà chủ thể xác định các nhiệm vụ cụ thể, thiết kế bộ máy và bố trí con người phù hợp. Đồng thời, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà chủ thể quản lý có thể theo dõi, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh sự hoạt động của mỗi bộ phận và toàn bộ hệ thống quản lý. Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các công việc của quá trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể là quá trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.

100

Có nhiều cách phân loại các chức năng quản lý khác nhau: ở phạm vi nghiên cứu về quản lý nhà nước với khái niệm và nội hàm được làm rõ trên đây và xét theo giai đoạn tác động quản lý thì quản lý nhà nước có 3 chức năng cơ bản sau đây: ra quyết định quản lý; tổ chức thực hiện; kiểm tra việc thực hiện quyết định ấy. Quyết định quản lý là hành vi sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm định ra chương trình và tính chất hoạt động của tập thể để giải quyết vấn đề đã chín muồi, trên cơ sở hiểu biết các qui luật vận động khách quan của hệ thống quản lý và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống. Quyết định quản lý là sản phẩm đặc biệt của lao động quản lý và có ở tất cả các cấp quản lý nhưng việc chuẩn bị và đề ra các quyết định mới chỉ là điểm xuất phát trong quá trình quản lý. Có thể có những quyết định đúng đắn, hứa hẹn hiệu quả cao, nhưng thiếu tổ chức thực hiện thì quyết định đó cũng chỉ nằm trên giấy hoặc cũng chỉ nằm trong đầu óc người ra quyết định mà thôi.

Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định là những giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Các giai đoạn này gồm những công việc như: truyền đạt quyết định; lập kế hoạch tổ chức; điều chỉnh quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định và tổng kết tình hình thực hiện quyết định. Ở đây kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có hướng đích nhằm quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp đảm bảo để đối tượng bị quản lý tự điều chỉnh hoạt động, để hoạt động của nó đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định.

Vấn đề ở đây là làm thế nào để tìm ra giải pháp phù hợp? Có tìm ra được giải pháp phù hợp hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố thuộc về chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm tra. Muốn cho công việc kiểm tra có kết quả, cần có những kế hoạch rõ ràng, làm căn cứ cung cấp những chỉ tiêu xác đáng cho việc kiểm tra; sắp xếp tổ chức khoa học, hợp lý nhằm xác định chính xác nhiệm vụ của từng bộ phận, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch. Cần tiến hành thường xuyên và kết hợp linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra: kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, kiểm tra định kỳ, kiểm tra bất thường, kiểm tra từ trên xuống, kiểm tra từ dưới lên...

101

Trong một phạm vi, chừng mực nhất định nào đó, hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp. Nhưng ở một cấp độ nào đó của công tác quản lý nhà nước, hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp phù hợp đó. Thực tiễn điều hành và quản lý nói chung và đặc biệt quản lý nhà nước nói riêng đòi hỏi phải có một phương thức kiểm tra khác với nghĩa kiểm tra thông thường. Loại phương thức kiểm tra này không chỉ dừng lại ở chỗ phát hiện sai lệch của đối tượng bị quản lý so với yêu cầu đề ra mà còn phải tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sự sai lệch đó. Nếu có yếu tố trách nhiệm thì đương nhiên phải chỉ rõ trách nhiệm đó thuộc về ai? tổ chức, cá nhân nào? chính từ việc tìm nguyên nhân và qui trách nhiệm cùng những yếu tố khác đã làm nảy sinh những yêu cầu mới đối với chính hoạt động kiểm tra như phải thu thập và xử lý; nhận xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên nhân, dữ liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn, loại hình kiểm tra như vậy hay nói cách khác phương thức kiểm tra như vậy rất gần với hoạt động thanh tra. Thực chất thanh tra là một phương thức của kiểm tra, là công cụ của quản lý. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành việc hoạt động thanh tra thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước. Chính vì vậy thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước.

2. Thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

102

Thực tiễn chỉ ra rằng: hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tuỳ thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định quản lý nhà nước. Hiệu lực quản lý nhà nước bị ảnh hưởng nếu quyết định quản lý nhà nước không đảm bảo tính giai cấp, tính Đảng, tính pháp luật; không dựa trên những luận cứ khoa học (phù hợp với quy luật và điều kiện thực tế, khách quan), không phù hợp nguyện vọng của quần chúng và không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hiệu lực quản lý nhà nước cũng bị ảnh hưởng ngay cả khi nội dung, chất lượng quyết định quản lý đã bảo đảm các yêu cầu cơ bản, nhưng lại thiếu biện pháp bảo đảm cho quyết định đó được thực hiện. Để các quyết định quản lý nhà nước được các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành quyết định, phải đề ra qui trình thực hiện quyết định. Trong qui trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định quản lý. Trong trường hợp nội dung và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp, nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra kiểm tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan), xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai để chấn chỉnh hoặc xử lý (khi có vi phạm), với ý nghĩa đó thanh tra thực chất đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Trong hoạt động thực tiễn, thanh tra không chỉ là một trong những phương thức đảm bảo các quyết định quản lý được tuân thủ một cách nghiêm túc, mà còn góp phần xem xét cả tính hiệu quả của quản lý nhà nước. Hiệu quả suy đến cùng, là chỉ tiêu so sánh giữa hai yếu tố: kết quả và chi phí. Hiệu quả trong quản lý là đạt kết quả và mục tiêu đề ra với chi phí ở mức tối thiểu.

103

Công tác thanh tra không chỉ hướng đến xem xét, đánh giá thực hiện một quyết định quản lý cụ thể, mà phải hướng đến xem xét kết luận, đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, nhiệm vụ của chính cơ quan quản lý nhà nước. Chỉ đánh giá kết quả mà không so sánh với chi phí đã bỏ ra thì chưa tiếp cận đến khái niệm hiệu quả. Chưa đánh giá được hiệu quả thì thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý. Chính vì vậy, công tác thanh tra còn hướng đến xem xét và tổ chức việc hoạt động cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước thông qua các yếu tố: cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, năng lực, uy tín, phong cách của cán bộ; thời gian đầu tư giải quyết các tình huống quản lý; tinh thần trách nhiệm, tính dân chủ và uy tín chính trị đối với xã hội . v. ... Tất cả những nội dung đó là nhằm cho công tác thanh tra hướng tới mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

3. Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước. Về phía các cơ quan nhà nước, nguyên tắc pháp chế thể hiện ở việc các cán bộ, công chức Nhà nước thực thi đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định. Ở bình diện rộng hơn, nó còn là việc mỗi cơ quan nhà nước thực thi đúng phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Ngay trong hoạt động ban hành các quyết định, các văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù hợp với các quy định trong các văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu lực cao hơn và mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp - đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Về phía các đối tượng quản lý, mọi công dân, cá nhân, tổ chức trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đều phải thực hiện theo các quy định của pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định cho mỗi công dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức có những quyền nhất định như quyền tự do kinh doanh, tự do đi lại, quyền được học tập, quyền có nhà ở... Đồng thời pháp luật cũng quy định cho họ những nghĩa vụ nhất định. Ngoài ra, pháp luật còn có những qui phạm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, pháp chế đòi hỏi tất cả những quy định đó đều phải được tuân thủ một cách tuyệt đối.

104

Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem xét tại chỗ việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa và làm cho đúng. Mục đích của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước. Muốn có pháp chế cần phải làm cho mọi người hiểu biết pháp luật. Mặc dù công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật không phải là chức năng chính của thanh tra, nhưng thông qua hoạt động của mình, công tác thanh tra đã góp phần tích cực vào việc giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và đó cũng là một hoạt động bảo đảm tăng cường pháp chế.

Tuy nhiên, trong thực tế không ít trường hợp vi phạm pháp luật, nhưng không phải do không hiểu đúng các quy phạm pháp luật, mà do thiếu trách nhiệm dẫn đến vi phạm, hoặc cố tình vi phạm. Trong những trường hợp đó đòi hỏi thanh tra phải có hình thức xử lý nghiêm khắc. Xử lý mạnh mẽ, nghiêm khắc là để cho đối tượng quản lý phải sửa chữa những vi phạm pháp luật và việc xử lý đó còn có tác dụng lâu dài đến đối tượng quản lý đó cũng như mang tính chất răn đe đối với các đối tượng quản lý khác.

Tóm lại, sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với nhiều lý do khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đó đều có thể được thực hiện thông qua công tác thanh tra, qua thanh tra có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào... Từ đó đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra là một phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.

4. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật

105

Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì đó chính là nguyên nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến tham ô, lãnh phí. Để chống bệnh quan liêu, Người cho rằng chỉ có một cách, đó là phải kiểm tra, kiểm soát. Người khẳng định: người lãnh đạo phải “kiểm soát kết quả công việc của cán bộ của mình”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Người viết: đối với người lãnh đạo “Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ”. Người còn khẳng định: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các Nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát” và “kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.

Ngay từ năm 1945, trong Sắc lệnh số 64/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23 tháng 11 năm 1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt đã có quy định quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt là: “Đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi”. Tiếp đó, trong Sắc lệnh số 138b/SL ngày 18 tháng 12 năm 1949 về việc thành lập Ban thanh tra Chính phủ có quy định nhiệm vụ của Ban là “ thanh tra các nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết”. Tại Sắc lệnh số 261/SL ngày 28 tháng 3 năm 1956 về việc thành lập Ban thanh tra Trung ương của Chính phủ có nhiệm vụ “ thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô, lãng phí”. Tháng 6/1978, Ban thanh tra Trung ương ra Thông tư số 44/TT về công tác chống quan liêu, cửa quyền, tham ô, lãng phí có nhấn mạnh: “ tổ chức thanh tra ở các cấp, các ngành được giao nhiệm vụ là cơ quan thường trực phụ trách theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp tình hình, nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo và chủ trì sự phối hợp với những cơ quan có liên quan để xử lý vụ việc được phát hiện”.

Ngày 21 tháng 5 năm 1988, Ban thanh tra Trung ương ra Chỉ thị số 38/CT-TW về việc tiến hành đợt thanh tra tài chính trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó đã khẳng định biện pháp “tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đặc biệt là thanh tra tài chính nhằm lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý kinh tế, tài chính, đấu tranh bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống mọi biểu hiện tiêu cực, tham ô, lãng phí”.

Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 và nhiều văn bản pháp luật khác cũng có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra và các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát khác trong việc đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật.

106

Trong các văn bản pháp luật về chống tham nhũng và pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đều có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan thanh tra cùng với các cơ quan khác như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; các cơ quan hành chính nhà nước; các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc phòng ngừa phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.

Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh việc “định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hoá”. Nghị quyết cũng xác định một trong những biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính Đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ”.

Tuy nhiên, vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện và xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật. Tính phòng ngừa của thanh tra đối với các hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Một là, thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật. Chỉ riêng sự hiện diện của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát đã là một sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật phải được tuân thủ. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một “sức ép” thường trực lên các đối tượng và nhờ đó, nó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật.

Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm pháp chế mà còn có chức năng tìm hiểu, giúp đỡ tìm hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Điều này sẽ càng trở nên quan trọng nếu chúng ta quan niệm về một Nhà nước làm dịch vụ công. Khi đó các cơ quan chức năng tham gia kiểm tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ mà các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, công dân... trông cậy để có thể nhận được những khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng pháp luật.

107

Hai là, thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ một cách sâu sắc đầy đủ nhất về nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất mức độ của hành vi vi phạm. Do vậy các giải pháp (các khuyến nghị, kiến nghị, yêu cầu, quyết định xử lý về thanh tra...) được đưa ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật mà nó phát hiện được mà nó còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật tương tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác.

Ba là, thanh tra, kiểm tra, giám sát dù là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra, kiểm tra, giám sát được đề cập ở đây là vai trò phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, qua thanh tra, kiểm tra, giám sát mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời.

Với bản chất dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; pháp luật là để thể hiện ý chí của nhân dân cho nên thanh tra góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật cũng chính là góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

IV. MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Nghị quyết hội nghị TW3 (khoá VIII) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh đã xác định: Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước phải tăng cường kiểm kê, kiểm soát, sản xuất và phân phối, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình trạng vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Đồng thời văn kiện này cũng xác định phải tăng cường tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội.

Như vậy đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã xác định rõ vị trí, vai trò của công tác thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nước.

1. Mục đích của hoạt động thanh tra

Mục đích vốn là mối quan tâm trong hoạt động của con người, là cái mà con người cần hướng tới (bằng các phương thức và giải pháp thích hợp) và “giành” cho được.

108

Suy cho cùng công tác thanh tra nhằm hướng tới cái gì thì đó là mục đích của thanh tra.

Lênin dạy rằng: thanh tra là để giúp sữa chữa “sửa chữa một cách chính xác, kịp thời đó là nhiệm vụ chính của Bộ dân uỷ kiểm tra công nông”.

Khi nói về thanh tra, kiểm tra, Bác Hồ cặn dặn: “ cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời giúp các địa phương kịp thời sữa chữa, uốn nắn nếu làm sai hoặc làm chậm”, “thanh tra là để theo dõi, xem xét kế hoạch, chỉ thị, chính sách đó các địa phương đã chấp hành như thế nào”... “nếu họ làm sai hay gặp khó khăn, còn giúp họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa xuống”.

Chỉ thị 38/ CTTW ngày 20 tháng 02 năm 1984 của Ban bí thư Trung ương Đảng nêu rõ “mục đích thanh tra là đánh giá chính xác những mặt làm đúng, làm sai trong việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật, kế hoạch nhà nước... Trước mắt cũng như lâu dài công tác thanh tra có tác dụng quan trọng, trực tiếp đối với việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, giữ gìn pháp luật nhà nước, tăng cường trách nhiệm quản lý kinh tế, quản lý xã hội của bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”.

Nghị quyết 26-HĐBT ngày 15 tháng 02 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng nêu rõ thanh tra là “nhằm mục đích phát huy mặt đúng, ngăn ngừa sữa chữa cái sai, làm cho chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thi hành có hiệu quả thiết thực’.

Pháp lệnh Thanh tra 1990 nêu rõ mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm, góp phần hoàn thành thúc đẩy nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân”.

Luật Thanh tra 2004 khẳng định “hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan

109

nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Như vậy, mục đích của hoạt động thanh tra bao gồm cả xây dựng, phát huy những nhân tố tích cực và chống những tiêu cực, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn có nhận thức khác nhau trên thực tế về mục đích của thanh tra là “xây dựng” hay “chống”.

110

+ Thực tiễn chỉ đạo hoạt động thanh tra, người lãnh đạo, quản lý thường hay giao cho thanh tra làm những việc như: chống tiêu cực, chống tham nhũng và thường vì cơ quan địa phương, bộ phận hay công việc nào đó có chỗ không đúng, chỗ sai làm mới cần thanh tra.

+ Thực tế cũng có nơi, có lúc thanh tra nặng về “bới lông tìm vết”, nặng về nêu thiếu sót, khuyết điểm, quan trọng hoá chỗ sai, chỗ chưa đúng. Do vậy có nơi, có chỗ, có lúc đã hiểu sai mục đích thanh tra. Hiểu thanh tra chỉ “ xây” mà không “chống” hoặc chỉ “ chống” mà không “xây” đều không đầy đủ và không đúng bản chất, mục đích của thanh tra.

2. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra

Nguyên tắc thanh tra là tập hợp các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành động mà các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức thanh tra, cán bộ, Thanh tra viên phải tuân theo hoạt động thanh tra.

Các nguyên tắc hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối các mối quan hệ trong thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra.

Hoạt động thanh tra phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

Một là, hoạt động thanh tra tuân theo pháp luật. Trong quá trình thanh tra, những người được giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra (Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra) phải tuân thủ đúng những qui định của pháp luật, bảo đảm tính độc lập, nghiêm minh khi thực hiện những thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm quyền cho phép. Việc ra quyết định thanh tra trong phạm vi thẩm quyền; việc tiến hành thanh tra trong phạm vi nội dung, thời hạn ghi trong quyết định thanh tra; việc áp dụng các quyền hạn được thực hiện theo quy định của pháp luật; việc kết luận thanh tra phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Người ra kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận và việc làm của mình trong quá trình thanh tra.

Các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thanh tra để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng thanh tra; thanh tra vượt quá thẩm quyền, phạm vi, nội dung thanh tra; cố ý kết luận sai sự thật, quyết định, xử lý trái pháp luật, bao che cho người có hành vi vi phạm... đều bị nghiêm cấm và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

111

Hai là, bảo đảm chính xác khách quan, công khai, trung thực, dân chủ, kịp thời. Đây là nguyên tắc quan trọng, vì bất kỳ một kết quả nào trong thanh tra không đảm bảo tính chính xác đều dẫn đến việc nhìn nhận, đánh giá sai đối tượng thanh tra, từ đó có những xử lý thiếu đúng đắn, trái pháp luật.

Phải bảo đảm chính xác trong hoạt động thanh tra mới có thể giúp cho việc đánh giá thực trạng tình hình được chính xác, giúp cho việc xử lý sai phạm đúng người, đúng lỗi, đúng pháp luật. Tính chính xác bảo đảm cho công tác thanh tra đạt hiệu quả cao, được đối tượng chấp nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo cơ sở thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra. Muốn đảm bảo tính chính xác trong hoạt động thanh tra nói chung và trong kết luận thanh tra nói riêng, không chỉ đòi hỏi có quan điểm đúng đắn, mà cần phải có kiến thức, năng lực và phương pháp nghiệp vụ mới có thể đem lại kết quả chính xác.

Tính khách quan cũng là vấn đề có tính nguyên tắc, nó bảo đảm phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp méo sự thật. Tính chính xác và tính khách quan có tác động qua lại lẫn nhau. Có khách quan mới bảo đảm chính xác, ngược lại có chính xác mới thể hiện được tính khách quan.

Để bảo đảm tính khách quan, phải sâu sát thực tế, tôn trọng sự thật, phản ánh đúng sự thật. Điều quan trọng là phải có bản lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm cao và có năng lực xem xét, phân tích chính xác, khoa học.

Trung thực là phản ánh đúng và đầy đủ bản chất của sự việc, không thêm, bớt đồng thời cũng viện dẫn đầy đủ không cắt xén các quy định pháp luật để xác định rõ đúng, sai.

Tính công khai trong hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ phải thông báo nội dung thanh tra để mọi người biết nhằm động viên đông đảo nhân dân tham gia phát hiện, giám sát, kiểm tra góp phần bảo đảm tính chính xác.

112

Việc công khai trong hoạt động thanh tra bao gồm: công khai quyết định thanh tra đối với đối tượng thanh tra; tiếp công khai đối tượng thanh tra và mọi người có liên quan ở nơi thanh tra; công khai kết luận thanh tra... Tuỳ theo từng tính chất vụ việc thanh tra mà có hình thức công khai cho thích hợp. Có trường hợp công khai lên báo chí, trong phạm vi địa phương, hoặc hẹp hơn là trong đơn vị được thanh tra. Tuy nhiên, không phải mọi vấn đề đưa ra công khai đều có lợi. Ví dụ vấn đề thuộc bí mật quốc gia, thuộc an ninh quốc phòng hoặc cần giữ bí mật về người tố cáo để bảo vệ họ... thì không được phép công khai. Cần phải hiểu cho đúng công khai không đồng nghĩa với việc đưa tất cả những thông tin về vụ việc cho bất cứ ai, mà công khai trên cơ sở đảm bảo đúng quy chế bảo mật và những quy định về báo cáo, cung cấp thông tin trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.

Vấn đề dân chủ trong hoạt động thanh tra là thể hiện sự tôn trọng và tin tưởng vào lực lượng đông đảo quần chúng góp phần tích cực vào kết quả kiểm tra, thanh tra. Trong quá trình thanh tra cần coi trọng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi trọng tính thuyết phục và việc thu thập, tiếp nhận thông tin có liên quan, kể cả tạo điều kiện cho đối tượng thanh tra được trình bày ý kiến của họ để rà soát lại tính đúng đắn từng việc làm cụ thể. Cần tránh mọi biểu hiện chủ quan áp đặt, bất chấp ý kiến người khác.

Tuy nhiên qua ý kiến đóng góp trình bày của nhiều người, Đoàn thanh tra, Thanh tra viên phải xem xét, cân nhắc, để có sự quyết đoán chính xác, dám chịu trách nhiệm về các quyết định và việc làm của mình. Nếu do dự hoặc không biết chọn lọc ý kiến sẽ rất lúng túng, mất tính chủ động trong kiểm tra, thanh tra.

Tính kịp thời trong hoạt động thanh tra cũng rất quan trọng bởi vì do yêu cầu quản lý nhà nước và những vấn đề cuộc sống đặt ra là phải được kiểm tra, thanh tra và trả lời đầy đủ, kịp thời mới có đối sách ứng xử cho sát hợp. Nếu hoạt động thanh tra tiến hành chậm trễ hoặc không gắn với chu trình quản lý sẽ kém hiệu quả.

Muốn bảo đảm kịp thời, không phải chỉ có đầy đủ những kiến thức sách vở mà phải có năng lực thực sự, đủ sức phát hiện, phân tích, giám sát chiều sâu, làm rõ các mối liên hệ mới có thể đánh giá đúng bản chất của sự vật, không lầm lẫn.

Ba là, tuân thủ trình tự thanh tra. Trong Luật Thanh tra và Nghị định 86/2011/NĐ-CP có một chương riêng về hoạt động thanh tra. Những nội dung cần xác định trong chương này là những qui tắc mà hoạt động thanh tra, đối tượng thanh tra và cả những người có liên quan phải chấp hành.

113

Theo nguyên tắc này, muốn tiến hành thanh tra trước hết phải có quyết định thanh tra do người có thẩm quyền ban hành. Quyết định thanh tra phải ghi rõ nội dung thời hạn thanh tra và xác định rõ người thực hiện. Khi thời hạn thanh tra đã hết, nếu cuộc thanh tra chưa kết thúc phải có quyết định kéo dài hoặc gia hạn thời hạn thanh tra. Thực hiện quyết định thanh tra là Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên. Kết thúc cuộc thanh tra, Đoàn thanh tra (Thanh tra viên) phải có báo cáo kết quả thanh tra, kiến nghị về các nội dung đã được thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận, quyết định, các kiến nghị. Người ra quyết định thanh tra phải ra kết luận thanh tra.

Kết luận thanh tra phải xác định rõ đúng, sai; xác định các nguyên nhân khách quan, chủ quan; quy rõ trách nhiệm. Tất cả các kết luận đều phải có hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, vật mang tin khác .v.v... bảo đảm.

Bốn là, xác định đúng đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra. Đối tượng, phạm vi, nội dung thanh tra luôn được xác định bởi yêu cầu quản lý nhà nước. Theo từng thời kỳ giai đoạn cụ thể, như một đòi hỏi mang tính tất yếu quản lý cần phải hướng dẫn kiểm soát hệ thống của mình để hướng đích.

Do vậy, việc xác định đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra có căn cứ từ hai phương diện:

- Mức khái quát, hệ thống quản lý cần thông tin về vấn đề gì và thanh tra đáp ứng theo phương pháp nào lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chính hay xử lý là chính.

- Mức cụ thể, hoạt động thanh tra thuộc quản lý nhà nước ở lĩnh vực nào thì có đối tượng phạm vi, nội dung cụ thể theo lĩnh vực đó và điều đó được thể hiện trực tiếp thông qua quyết định của cấp có thẩm quyền.

Năm là, sử dụng đúng quyền hạn trong hoạt động thanh tra. Quyền hạn trong hoạt động thanh tra là yếu tố mang tính nguyên tắc đảm bảo cho thanh tra đạt được mục đích đề ra. Hoạt động thanh tra là hoạt động nhân danh quyền lực hành chính nhà nước của cơ quan quản lý hành chính cấp trên đối với cấp dưới. Do vậy giới hạn, phạm vi sử dụng quyền trong thanh tra nằm trong khuôn khổ của quyền lực hành chính nhà nước. Việc sử dụng đúng quyền hạn trong thanh tra đòi hỏi trên các khía cạnh: phạm vi, tính chất vấn đề, hành động và không hành động trong sử dụng quyền.

114

Sáu là, hoạt động thanh tra không được làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Đây là nguyên tắc thể hiện mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra; giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi quyền lực nhà nước với đối tượng chịu sự quản lý.

Nhìn một cách tổng quát, mục đích cuối cùng của hoạt động thanh tra là góp phần bảo đảm sự phát triển ổn định và lành mạnh. Chính vì vậy mà thanh tra không được làm cản trở hoạt động của đối tượng. Các cơ quan thanh tra chỉ tiến hành thanh tra những nội dung ghi trong quyết định thanh tra, không được tự ý mở rộng phạm vi thanh tra hoặc kéo dài thời gian thanh tra… Việc kết luận phải chính xác, khách quan, không vì động cơ cá nhân, không được gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra. Đồng thời, cần khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra, Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định hoạt động thanh tra “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra”.

115

Chuyên đề 4

CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

Trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta đề cập đến công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ) và Thanh tra sở.

A. NỘI DUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

Nội dung đề cập của phần này bao gồm:

- Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan thanh tra trong bộ máy quản lý nhà nước.

- Nội dung chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước.

I. CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC TRONG BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1. Vài nét về quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước

Hiến pháp 1992 và các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ta quy định những vấn đề cơ bản về quản lý điều hành của Chính phủ, bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp như sau:

Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước, đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ lãnh đạo công tác của các Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp, tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Thứ hai, Bộ (bao gồm bộ và cơ quan ngang bộ) là cơ quan của Chính phủ thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực thống nhất trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng là thành viên Chính phủ, chịu trách nhiệm trước

116

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về công tác của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

Bộ là cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực bằng pháp luật thống nhất trong toàn quốc. Mỗi bộ đều có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối với ngành, lĩnh vực được phân công. Quản lý thông qua việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách tổ chức bộ máy và thống nhất việc áp dụng pháp luật về ngành và lĩnh vực mà Bộ quản lý.

Thứ ba, Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, có thẩm quyền quản lý nhà nước theo địa bàn lãnh thổ. Uỷ ban nhân dân là cơ quan thẩm quyền chung, thực hiện quyền quản lý nhà nước ở địa phương theo phạm vi hành chính trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội… theo quy định của pháp luật.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chính phủ; Uỷ ban nhân dân cấp trên chỉ đạo hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Uỷ ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ, quyền hạn chung là thực hiện quyền quản lý nhà nước ở địa phương trên các lĩnh vực: nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hoá, giáo dục, y tế, đất đai, tài nguyên và môi trường…; tuyên truyền giáo dục pháp luật; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, quyết định, chỉ thị của cơ quan cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp đối với cơ quan, tổ chức và công dân trong phạm vi quản lý của mình; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện phòng chống thiên tai; chống tham nhũng, chống buôn lậu; quản lý công tác tổ chức, biên chế lao động tiền lương, bảo hiểm xã hội theo phân cấp của Chính phủ; tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án theo quy định của pháp luật; tổ chức thu, chi ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý theo ngành hoặc lĩnh vực từ trung ương đến cơ sở. Các cơ quan chuyên môn chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên.

Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ là một trong những nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta. Mối quan hệ giữa các bộ với nhau, giữa bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể được xem xét theo hai góc độ:

117

Thứ nhất, là mối quan hệ hình thành từ chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực thuộc thẩm quyền của bộ đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các bộ, ngành khác dưới sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của Chính phủ. Chẳng hạn, bộ ban hành những quy định về chế độ, chính sách để hướng dẫn thực hiện các quy định của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật và tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật đó theo thẩm quyền quản lý nhà nước của bộ;

Thứ hai, là mối quan hệ hình thành trên cơ sở chỉ đạo theo thẩm quyền quản lý nhà nước về ngành và lĩnh vực chuyên môn của bộ đối với các sở thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan thuộc bộ, ngành khác. Theo hướng này, mỗi sở hoặc cơ quan thuộc bộ, ngành hoạt động trong sự phối hợp chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp và chỉ đạo hướng dẫn chuyên môn của cơ quan cấp trên.

Mối liên hệ trên cũng diễn ra tương tự trong quan hệ giữa sở và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; quan hệ giữa phòng ban thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã.

2. Về tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước

Luật Thanh tra năm 2010 quy định các cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực.

Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính gồm có:

- Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

- Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

- Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

118

Cơ quan thanh tra nhà nước theo ngành, lĩnh vực gồm có:

- Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Thanh tra sở là cơ quan của sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Thanh tra sở được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.

II. NỘI DUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

1. Chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định

Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác phòng, chống tham nhũng là một chức năng quan trọng của thanh tra các cấp. Theo quy định của Luật Thanh tra, Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện có trách nhiệm giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tập trung ở các nội dung sau:

a) Tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến quán triệt pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, và phòng, chống tham nhũng

Các cơ quan thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến các văn bản pháp luật về thanh tra, về khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng tại địa phương, tại các cơ quan, đơn vị thuộc ngành, giúp cho thủ trưởng các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và công dân hiểu và

119

nắm vững được những quy định của pháp luật để thực hiện đúng theo thẩm quyền và phạm vi trách nhiệm quản lý đối với địa phương, ngành. Việc tuyên truyền, hướng dẫn giáo dục pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng cần được thực hiện theo nhiều hình thức. Tuỳ theo tình hình thực tế, mỗi ngành, mỗi địa phương có thể áp dụng một số hình thức như mở các hội nghị tập huấn cho cán bộ chủ chốt và toàn thể cán bộ, công chức của địa phương, của ngành về các văn bản pháp luật về thanh tra, văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; phổ biến pháp luật thông qua cơ quan thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo chí; thông qua việc phát hành các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ; qua hoạt động thanh tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; qua việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành, các đơn vị trong việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

b) Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm

b1. Những căn cứ để xây dựng chương trình, kế hoạch

Hàng năm các cơ quan thanh tra nhà nước đều phải xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Căn cứ để xây dựng chương trình, kế hoạch là:

- Chương trình công tác, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của ngành, của chính quyền cùng cấp. Đây là căn cứ quan trọng bởi vì thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý.

- Sự chỉ đạo của cơ quan thanh tra cấp trên: hàng năm Thanh tra Chính phủ định hướng chỉ đạo chung, trên cơ sở đó Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ cân nhắc, xem xét cụ thể từ thực tiễn tình hình của địa phương, bộ, ngành chọn những đề tài thanh tra, chọn những vấn đề thiết thực đưa vào chương trình, kế hoạch cả năm để thực hiện. Tương tự như vậy, sự chỉ đạo của Thanh tra cấp tỉnh, cấp bộ là căn cứ quan trọng để Thanh tra cấp huyện, Thanh tra sở, xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của mình.

- Những dấu hiệu vi phạm pháp luật cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan thanh tra phát hiện phải đưa vào chương trình, kế hoạch thanh tra.

- Căn cứ vào nguồn lực của cơ quan thanh tra như: đội ngũ cán bộ Thanh tra viên, điều kiện vật chất, điều kiện thời gian…

b2. Nội dung của chương trình, kế hoạch

120

Trong chương trình, kế hoạch thanh tra phải đảm bảo tính toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm. Phải quan tâm tiến hành các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Như vậy, trong nội dung chương trình, kế hoạch thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng phải đề cập đến những vấn đề sau:

- Về thanh tra kinh tế - xã hội và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.

Đây là nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành thanh tra. Kết quả chung của toàn ngành phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cơ quan thanh tra.

Để hoạt động thanh tra có hiệu quả, đạt mục đích, yêu cầu đề ra, nội dung phải tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề nổi cộm, bức xúc, tránh tình trạng thanh tra tràn lan, tuỳ tiện, chồng chéo.

Trọng tâm là “lựa chọn việc đích đáng nhất”,“việc quan trọng nhất”, “làm được việc này, kết luận cho tốt thì có thể phát huy ảnh hưởng rộng lớn, sâu sắc, có lợi cho nhiều mặt” (ý kiến chỉ đạo của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Mỗi địa phương, mỗi ngành có nhiều vấn đề bức xúc, nhưng chỉ có thể chọn một số nội dung quan trọng, bức xúc nhất để đưa vào chương trình, kế hoạch thanh tra. Triển khai thực hiện tốt, hiệu quả sẽ có tác dụng thiết thực, góp phần tăng cường công tác quản lý.

Trọng điểm chính là xác định địa bàn, những “nút” quan trọng, mà ở đó có phát sinh “vấn đề” trong triển khai thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội. Địa bàn, đơn vị, cơ sở đó nếu được người quản lý, cơ quan quản lý và cơ quan thanh tra xem xét, giải quyết kịp thời, giúp tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn sẽ khắc phục được những sai lầm, khuyết điểm, khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý, trong điều hành, sẽ tạo thế ổn định để phát triển.

Đối với cơ quan thanh tra theo cấp hành chính phải đặc biệt quan tâm đến việc điều hoà, phối hợp hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp của các cơ quan có chức năng trên địa bàn nhằm tránh chồng chéo, trùng lắp, tránh gây phiền hà cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.

b3. Ban hành hoặc tham mưu với chính quyền cùng cấp ban hành các văn bản về công tác thanh tra vgiải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

121

Ban hành các văn bản về nghiệp vụ thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng là khâu quan trọng trong hoạt động thanh tra. Đối với các cơ quan thanh tra, ngoài việc tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến và quán triệt các văn bản pháp luật còn phải tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp, lãnh đạo bộ, ngành theo thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, điều hành, văn bản hướng dẫn về công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Hình thức và nội dung của các văn bản thực hiện theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quản lý nhà nước.

Căn cứ vào chương trình, kế hoạch thanh đã được phê duyệt, Chánh thanh tra tham mưu cho thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước cùng cấp ra văn bản để chỉ đạo các cấp, các cơ quan chức năng và các đơn vị có liên quan thực hiện và có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thanh tra để công tác thanh tra đạt kết quả. Đặc biệt đối với các cuộc thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng, thanh tra trách nhiệm thì việc ra văn bản chỉ đạo để thực hiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp cho việc tiến hành thanh tra được thuận lợi và đạt kết quả cao.

b4. Hướng dẫn về nghiệp vụ công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

Chỉ đạo là phải có hướng dẫn về nghiệp vụ công tác chuyên môn. Thanh tra cấp trên phải hướng dẫn cho cấp dưới nghiệp vụ thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết hoặc tham mưu đề xuất giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo, đồng thời giúp cấp dưới biết cách thức, phương tổng hợp báo cáo theo các tiêu chí thống nhất, như vậy mới có cơ sở, căn cứ để đánh giá, nhận xét.

Hướng dẫn có thể bằng các văn bản hoặc tổ chức tập huấn nghiệp vụ theo từng lĩnh vực như thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, xử lý phân loại đơn thư, kèm theo là những biểu mẫu thống kê tổng hợp từng loại… Trong hướng dẫn nghiệp vụ cần chú ý cập nhật những văn bản pháp luật mới về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng các văn bản pháp luật khác có liên quan để vận dụng vào thực tiễn cho phù hợp.

b5. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm đối với các ngành, các cấp thuộc quyền quản lý của Uỷ ban nhân dân và thủ trưởng cùng cấp theothẩm quyền; kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng cáccơ quan, đơn vị trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

122

Thứ nhất, ngoài việc xây dựng chương trình, kế hoạch và chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch của cấp mình, Thanh tra tỉnh còn phải chỉ đạo thanh tra cấp huyện và thanh tra sở, xây dựng chương trình, kế hoạch và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chương trình, kế hoạch đó.

Xây dựng chương trình, kế hoạch là một khâu quan trọng trong quản lý điều hành hoạt động thanh tra, nhưng quan trọng hơn là việc chỉ đạo triển khai thực hiện có kết quả chương trình, kế hoạch đó. Vì vậy, Thanh tra tỉnh cần chỉ đạo đồng bộ giữa chương trình, kế hoạch của Thanh tra tỉnh với Thanh tra huyện, Thanh tra sở. Những cuộc thanh tra được triển khai theo diện rộng trong toàn tỉnh, cần huy động lực lượng Thanh tra huyện, Thanh tra sở thì Thanh tra tỉnh cần chỉ đạo tập trung thống nhất. Những cuộc thanh tra điển hình phức tạp, Thanh tra tỉnh cần theo dõi chặt chẽ và yêu cầu Thanh tra huyện, Thanh tra sở phải báo cáo tiến độ thường xuyên, bao gồm cả những khó khăn, vướng mắc, từ đó Thanh tra tỉnh có kế hoạch phối hợp với Giám đốc sở, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện thống nhất chỉ đạo, đồng thời có biện pháp hỗ trợ giúp đỡ kịp thời. Những cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, sở tiến hành độc lập, Thanh tra tỉnh yêu cầu phải báo cáo kết quả để từ đó có kế hoạch và biện pháp chỉ đạo tốt, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh và nhiệm vụ do Thanh tra Chính phủ giao.

Các biện pháp kiểm tra, đôn đốc được thực hiện như sau:

Trước hết, Thanh tra tỉnh cần xây dựng và củng cố hệ thống thông tin thông suốt, nhạy bén để nắm bắt kịp thời việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của tỉnh và chương trình, kế hoạch thanh tra của huyện, sở. Căn cứ chương trình, kế hoạch thanh tra đã phê duyệt Chánh Thanh tra tỉnh chủ động tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định chế độ kiểm tra đối với huyện, sở trong việc thực hiện.

Mặt khác, cùng với việc yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, Giám đốc sở kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra đối với Thanh tra huyện, Thanh tra sở, Thanh tra tỉnh chủ động tổ chức các đoàn kiểm tra đến các huyện, sở về việc thực hiện chương trình, kế hoạch. Thông qua việc kiểm tra, Thanh tra tỉnh đề ra các biện pháp đôn đốc, hỗ trợ, giúp đỡ Thanh tra huyện, Thanh tra sở thực hiện có hiệu quả, đúng mục đích, yêu cầu chương trình, kế hoạch đã đề ra.

Thứ hai, Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc chấp hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng:

123

Những năm qua, pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng ngày càng hoàn thiện, công tác thanh tra, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác phòng, chống tham nhũng có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đã coi trọng công tác thanh tra tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. Qua hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm trong quản lý được phát hiện, chấn chỉnh kịp thời, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân đã được giải quyết đúng pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước và quyền và lợi chính đáng của công dân, công tác phòng, chống tham nhũng có chuyển biến tích cực, từng bước đi vào nền nếp. Tuy nhiên, ở một số nơi, việc hiệu quả hoạt động thanh tra còn hạn chế. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc, có nơi còn nhiều hạn chế, yếu kém, vẫn còn nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân chưa được giải quyết kịp thời, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đã có văn bản giải quyết của cấp có thẩm quyền nhưng những vi phạm vẫn chưa được xử lý, hậu quả chưa được khắc phục, người khiếu nại, tố cáo vẫn bức xúc, tiếp tục khiếu nại, tố cáo gay gắt, vượt cấp. Công tác phòng, chống tham nhũng nhiều nơi chưa đi vào chiều sâu, còn hình thức, nạn tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân không ít cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chưa chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, chưa thực sự quan tâm tới công tác thanh tra, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhận thức chưa đúng và chưa coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng.

Để khắc phục mặt hạn chế, yếu kém nêu trên cần phải có sự thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới, qua đó chấn chỉnh các vi phạm, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các quy định pháp luật về thanh tra, pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Đây là một trong các giải pháp quan trọng tăng cường và nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.

b6. Tổng hợp tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,phòng chống tham nhũng định kỳ báo cáo cấp trên

Thông qua kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra, việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm và thông qua báo cáo của các cấp, các ngành trên

124

địa bàn, thanh tra các cấp tổng hợp tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng định kỳ báo cáo cấp trên theo quy định. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích tình hình rút ra những nhận xét đánh giá về những biến động liên quan tới kinh tế - xã hội, về tình hình chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, về việc chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành trong địa phương, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị với lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên những vấn đề cần được chỉ đạo giải quyết, hoặc cần được thanh tra, xem xét, kết luận, giải quyết dứt điểm.

b7. Hướng dẫn, chỉ đạo thanh tra cấp dưới trong việc xây dựng lực lượng thanh tra

Căn cứ vào những quy định của Luật Thanh tra và những văn bản pháp luật có liên quan, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn công tác, tổ chức và bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra trên toàn quốc. Thanh tra tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính, phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan hướng dẫn chế độ chính sách, tổ chức biên chế đối với Thanh tra huyện, Thanh tra sở. Thanh tra bộ có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra sở.

Như vậy, để hoạt động thanh tra có hiệu quả, Thanh tra bộ cần nắm được số lượng, chất lượng cán bộ thanh tra, Thanh tra viên cấp sở thuộc các tỉnh và thành phố, phối hợp với Thanh tra tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn Thanh tra sở về công tác tổ chức cán bộ.

Thanh tra tỉnh có trách nhiệm củng cố, chỉ đạo hoạt động của thanh tra cấp huyện, thanh tra sở theo quy định của pháp luật về thanh tra và sự chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ. Nghiên cứu đề xuất với Uỷ ban nhân dân tỉnh có những quy định cụ thể về tổ chức thanh tra trong tỉnh. Khi cần thiết làm việc với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc sở, khẳng định rõ yêu cầu và sự cần thiết phải có tổ chức thanh tra nhà nước ở cơ quan, đơn vị theo quy định. Thanh tra tỉnh cần hướng dẫn chỉ đạo về tổ chức bộ máy sao cho phù hợp yêu cầu nhiệm vụ duy trì chặt chẽ chế độ làm việc giữa thanh tra tỉnh với thanh tra huyện, sở. Củng cố đội ngũ cán bộ thanh tra đủ về số lượng, có chất lượng. Xây dựng quy chế tuyển dụng cán bộ vào ngành đảm bảo tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực chuyên môn. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra, nghiệp vụ quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, pháp luật, tin học... Nắm vững khả năng và yêu cầu công tác để bố trí và sử dụng cán bộ

125

hợp lý, phát huy tốt năng lực, sở trường của cá nhân, tạo điều kiện để cán bộ, công chức phát huy tính năng động sáng tạo.

Thanh tra cấp huyện là cấp sát cơ sở, nên có nhiều vụ việc khiếu kiện phát sinh ở xã, phường đòi hỏi cần phải giải quyết kịp thời. Do đó Thanh tra tỉnh cần chỉ đạo Thanh tra huyện phải đề cao trách nhiệm, quan tâm giúp Chủ tịch cấp xã giải quyết kịp thời, đúng pháp luật những vụ việc khiếu nại, tố cáo ngay tại cơ sở, để hạn chế việc gửi đơn thư vượt cấp; khiếu kiện đông người vượt cấp... ở cấp xã còn có lực lượng thanh tra nhân dân có trách nhiệm giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật ở cơ sở. Tổ chức thanh tra quận, huyện phối hợp với Uỷ ban mặt trận tổ quốc quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ để thanh tra nhân dân hoạt động đúng pháp luật. Cần củng cố và giữ vững thông tin với xã, phường để chỉ đạo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật ngay tại cơ sở.

Thanh tra sở hoạt động mang tính đặc thù chuyên sâu theo ngành, lĩnh vực. Trong phạm vi thẩm quyền, Chánh thanh tra tỉnh cần xây dựng mối quan hệ, phối hợp tốt với Giám đốc sở trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch, thanh tra, xây dựng đội ngũ cán bộ, thanh tra viên tại sở. Thanh tra sở cần nắm vững lực lượng thanh tra của thủ trưởng, đồng thời phối hợp với Liên đoàn Lao động quận, huyện giúp đỡ thanh tra nhân dân tại các đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp thuộc ngành, lĩnh vực quản lý. Cần xây dựng và củng cố mạng lưới thông tin thông suốt nhạy bén với các đơn vị trực thuộc sở để chỉ đạo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời có hiệu quả.

b8. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng nhằm bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, thanh tra viên

+ Tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng là nội dung quan trọng trong công tác của các cơ quan thanh tra. Công tác tổng kết và rút kinh nghiệm có liên quan mật thiết với nhau. Chỉ có tổ chức tổng kết, tổng hợp tình hình đầy đủ, đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo mới rút ra được kinh nghiệm tốt trong chỉ đạo điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước, của các cơ quan thanh tra, các Đoàn thanh tra. Đó còn là biện pháp quan trọng trong việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, Thanh tra viên. Việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm không chỉ được tiến hành định kỳ mà còn phải được thực hiện thường xuyên ngay sau mỗi cuộc thanh tra, nhất là sau mỗi cuộc thanh tra chuyên đề diện rộng và sau mỗi vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp.

126

+ Chỉ đạo nghiên cứu khoa học về nghiệp vụ thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Nghiên cứu khoa học đã được tổ chức triển khai thường xuyên và có nề nếp của Thanh tra Chính phủ, song đến nay cần phải trở thành chủ trương của Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ và từng bước trở thành nề nếp, thói quen tư duy sáng tạo của cán bộ, Thanh tra viên, góp phần nâng cao về lý luận nghiệp vụ và thực tiễn công tác, khắc phục những thủ tục hành chính rườm rà. Đối với Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ nên tập trung nghiên cứu những vấn đề như quy trình giải quyết một vụ khiếu nại hành chính, trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, nhằm bảo đảm đúng thời gian, trình tự, thủ tục theo quy định, nhất là các khâu chuẩn bị thanh tra, phương pháp chất vấn trong thanh tra, kết thúc cuộc thanh tra (hiện nay còn quá dài). Hoặc nghiên cứu việc quản lý hồ sơ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm gọn nhẹ, nhưng đầy đủ, thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng.

2. Tiến hành các cuộc thanh tra thuộc thẩm quyền

Thanh tra là khâu thiết yếu của quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra là nhằm:“phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Hoạt động thanh tra là một khâu quan trọng của quá trình quản lý, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra hành chính, của người lãnh đạo. Người lãnh đạo cần thanh tra để nắm được thông tin liên quan đến quản lý để tác động và điều chỉnh quá trình quản lý nhằm đạt được mục đích đề ra. Mặt khác, hoạt động thanh tra cũng là nội dung quản lý của các cấp, các ngành. Để hoạt động thanh tra có kết quả, đạt được mục đích đề ra thì thủ trưởng các ngành, các cấp phải thường xuyên chăm lo chỉ đạo hoạt động thanh tra, tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thông thường khi tổ chức tiến hành các cuộc thanh tra, cần tập trung chỉ đạo, điều hành các nội dung sau:

a) Chỉ đạo chọn nội dung ra quyết định thanh tra

Hoạt động thanh tra luôn được xác định bởi yêu cầu của công tác quản lý, vì vậy đối tượng và nội dung thanh tra rất đa dạng. Trong khi đó, lực lượng có hạn

127

nên phải chọn được nội dung thanh tra phù hợp, những vấn đề bức xúc, thiết thực phục vụ yêu cầu quản lý để ra quyết định thanh tra.

Chọn nội dung để ra quyết định có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động thanh tra. Chọn nội dung đúng, vừa rút ngắn thời gian thanh tra, vừa có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý. Ngược lại, chọn không đúng, không “trúng” những vấn đề cần thanh tra sẽ mất thời gian, gây tốn kém, ảnh hưởng đến quá trình quản lý, làm mất lòng tin của đối tượng thanh tra và dư luận xã hội, có khi phản tác dụng đối với công tác thanh tra.

Chọn nội dung thanh tra phải căn cứ vào chương trình, kế hoạch thanh tra đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; căn cứ vào yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan quản lý nhà nước, của tổ chức thanh tra; chọn nội dung để ra quyết định thanh tra còn căn cứ vào sự phát hiện những vụ, việc vi phạm pháp luật. Tuy đã có chương trình thanh tra nhưng đó là những vấn đề còn rất rộng, vì vậy ở từng thời điểm phải chọn được các vấn đề trọng tâm, trọng điểm.

Mục đích của hoạt động thanh tra là làm rõ đúng, sai, tìm ra nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định trật tự xã hội, phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nội dung thanh tra được chọn phải là những lĩnh vực có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của ngành, của địa phương hoặc những vấn đề bức xúc mà lãnh đạo ngành, lãnh đạo địa phương và nhân dân quan tâm.

Theo Luật Thanh tra, Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước có quyền ra quyết định thanh tra. Quyết định thanh tra là cơ sở pháp lý để Đoàn thanh tra tiến hành cuộc thanh tra và đối tượng thanh tra chấp hành việc thanh tra. Vì vậy, quyết định thanh tra phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức.

Thẩm quyền thanh tra được xác định theo thẩm quyền quản lý nhà nước với hai phân hệ: quản lý theo ngành, lĩnh vực và quản lý theo vùng lãnh thổ. Vì vậy, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở khi quyết định thanh tra ở địa phương nào thì cần phối hợp với Chánh Thanh tra tỉnh, Chánh Thanh tra huyện ở địa phương ấy. Ngược lại, khi Chánh Thanh tra tỉnh, Chánh Thanh tra huyện quyết định thanh tra nội dung thuộc ngành, lĩnh vực hoặc cơ quan do cấp bộ, cấp sở quản lý thì cần phối hợp với Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở quản lý ngành, lĩnh vực đó.

Đối với cuộc thanh tra đột xuất do cấp trên giao, các cuộc thanh tra phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau cần trưng tập lực

128

lượng tham gia Đoàn thanh tra hoặc những cuộc thanh tra trên diện rộng thì Chánh Thanh tra báo cáo và tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp ra văn bản chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho Chánh Thanh tra và thủ trưởng các đơn vị có liên quan phối hợp thực hiện. Trên cơ sở uỷ quyền của lãnh đạo, Chánh Thanh tra ra quyết định thành lập Đoàn thanh tra thực hiện nhiệm vụ do cấp trên giao (chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên được thực hiện bằng văn bản). Đối với những cuộc thanh tra này, khâu quan trọng ban đầu là bố trí lực lượng, chọn cán bộ tham gia. Đối với Trưởng Đoàn thanh tra, ngoài các yêu cầu về phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn sâu còn phải có hiểu biết rộng, có khả năng tổ chức tốt “đội quân liên ngành”. Các thành viên Đoàn thanh tra do các cơ quan, đơn vị phối hợp cử đến phải có năng lực

chuyên môn về các lĩnh vực thanh tra, phải nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Muốn vậy, khi cần thiết, Chánh Thanh tra phải trực tiếp làm việc với lãnh đạo các cơ quan, đơn vị cử người tham gia, nêu rõ mục đích cuộc thanh tra và yêu cầu cán bộ có năng lực chuyên môn tham gia. Việc xin người tham gia đoàn thanh tra có thể chỉ đích danh hoặc ít ra cũng được chọn trong số những người mà cơ quan, đơn vị giới thiệu, kiên quyết không nhận những cán bộ không đủ điều kiện về phẩm chất và năng lực chuyên môn tham gia Đoàn thanh tra.

b) Chỉ đạo tiến hành cuộc thanh tra

Kể từ khi quyết định thanh tra được ban hành thì việc tiến hành thanh tra do Đoàn thanh tra thực hiện, nhưng người ra quyết định thanh tra vẫn có trách nhiệm rất lớn trong việc chỉ đạo thực hiện.

Để cuộc thanh tra đi đúng hướng, đạt kết quả đáp ứng được mục đích, yêu cầu đề ra thì người ra quyết định thanh tra phải chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ Đoàn thanh tra.

Việc đầu tiên là chỉ đạo Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch thanh tra. người ra quyết định thanh tra trực tiếp phê duyệt kế hoạch thanh tra. Việc phê duyệt kế hoạch phải chi tiết, những vấn đề chưa cụ thể phải làm rõ và yêu cầu Đoàn thanh tra phải điều chỉnh bổ sung, sửa đổi.

Theo quy định, Trưởng đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người ra quyết định thanh tra về hoạt động của Đoàn. Trong quá trình tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra hoàn toàn chủ động sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để thực hiện nội dung thanh tra trên cơ sở kế hoạch đã được duyệt. Tuy vậy, thủ

129

trưởng cơ quan thanh tra phải thường xuyên chỉ đạo theo dõi tiến độ hoạt động của Đoàn thanh tra.

Về trách nhiệm, người ra quyết định thanh tra phải chủ động có kế hoạch trực tiếp chỉ đạo Đoàn thanh tra, khi cần thiết kiểm tra tại chỗ để giúp Đoàn khắc phục những thiếu sót, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, kịp thời giải quyết những đề nghị của Đoàn thanh tra.

Tuỳ theo tình hình cụ thể, thủ trưởng cơ quan thanh tra có thể dự một số cuộc họp tổ chức tại cơ quan, tổ chức, đơn vị được thanh tra, như công bố quyết định thanh tra hoặc họp bất thường khi cần tháo gỡ vướng mắc khó khăn…

Khi cần thiết thủ trưởng cơ quan thanh tra cũng có thể tham gia một số buổi làm việc giữa Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra như việc tiếp công dân, việc nghe đối tượng thanh tra giải trình.

Việc báo cáo tiến độ cuộc thanh tra, tuỳ theo tình hình cụ thể và đặc điểm mỗi cuộc thanh tra, Người ra quyết định quy định chế độ báo cáo, nội dung và các vấn đề báo cáo, thời gian báo cáo, hình thức báo cáo (bằng văn bản hay báo cáo trực tiếp). Chế độ báo cáo cũng có thể quy định rõ những công việc gì Trưởng Đoàn phải báo cáo người ra quyết định xem xét, cho ý kiến trước khi tiến hành, việc gì Trưởng Đoàn chủ động quyết định. Nội dung báo cáo do Trưởng Đoàn chuẩn bị, song về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo,

Thủ trưởng cơ quan thanh tra chủ động thời gian, chủ động chuẩn bị những nội dung cần tập trung chỉ đạo, cung cấp thông tin cần thiết cho Đoàn thanh tra.

Trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra, người ra quyết định tìm hiểu, phân tích các mối quan hệ cơ bản có liên quan đến hoạt động của các cơ quan, đơn vị được thanh tra, của những người trực tiếp là đối tượng thanh tra để dự kiến các tình huống xảy ra. Với những tình huống phức tạp hoặc vượt quá thẩm quyền của Trưởng Đoàn, Người ra quyết định phải có các phương án xử lý kịp thời, hữu hiệu, đặc biệt là ngăn chặn các hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Đoàn thanh tra, các hành vi chống đối của đối tượng thanh tra.

Trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra, bao giờ cũng có những tình huống phát sinh phải xử lý. Việc xử lý mỗi tình huống cụ thể phải trên cơ sở các quy định của pháp luật. Mặt khác mỗi tình huống cụ thể lại có nhiều phương án xử lý khác nhau nên người ra quyết định thanh tra phải hết sức quan tâm đến việc chỉ đạo thực hiện các nghiệp vụ này. Việc xử lý phải nghiêm túc, đúng pháp luật, hiệu quả,

130

nhưng phương pháp cần thận trọng, mềm dẻo, tránh căng thẳng gây không khí nặng nề đối với đơn vị là đối tượng thanh tra, ảnh hưởng đến quá trình thanh tra.

Trong quá trình thanh tra cũng có thể phải thay đổi, bổ sung nội dung thanh tra, kéo dài hoặc gia hạn thời gian thanh tra, thay đổi thành viên Đoàn thanh tra.

Việc ban hành các quyết định kéo dài hoặc gia hạn thời gian thanh tra, thay đổi thành viên Đoàn thanh tra thường ảnh hưởng không tốt tới tâm lý đối tượng và các thành viên Đoàn thanh tra. Vì vậy, trước khi ban hành quyết định, người ra quyết định thanh tra phải yêu cầu Trưởng đoàn phân tích làm rõ lý do, sự cần thiết phải ban hành quyết định này. Mặt khác, khi cần thiết người ra quyết định phải làm tốt công tác chính trị - tư tưởng cho đối tượng thanh tra, đoàn viên Đoàn thanh tra.

Thông thường việc xử lý các sai phạm được thực hiện sau khi kết luận thanh tra có hiệu lực pháp luật. Song, trong thực tế nhiều vấn đề xử lý ngay trong quá trình thanh tra lại có hiệu quả hơn, nhất là việc xử lý về kinh tế. Trong quá trình thanh tra nếu phát hiện những sai phạm về kinh tế đã rõ ràng, đủ căn cứ pháp lý để kết luận thì người ra quyết định thanh tra chỉ đạo thu hồi ngay.

Cuối cùng của giai đoạn này là chỉ đạo Đoàn thanh tra xây dựng báo cáo kết quả thanh tra. Văn bản báo cáo kết quả thanh tra phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục. Trưởng Đoàn thanh tra phải phát huy cao trí tuệ tập thể trong Đoàn, lắng nghe ý kiến của các cơ quan liên quan để báo cáo kết quả thanh tra có chất lượng cao.

Sau khi nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét nội dung báo cáo, xây dựng, ký và ban hành kết luận thanh tra.

Trong quá trình soạn thảo kết luận thanh tra, người ra quyết định có quyền yêu cầu Trưởng Đoàn, thành viên Đoàn thanh tra báo cáo khi cần thiết, yêu cầu đối tượng giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra.

Trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra giao cho Đoàn thanh tra tiến hành thanh tra, làm rõ thêm một số nội dung theo yêu cầu. Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản, làm cơ sở cho việc ra văn bản kết luận thanh tra.

Trước khi có kết luận chính thức, nếu xét thấy cần thiết thì Người ra kết luận thanh tra có thể gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Đối tượng

131

có quyền giải trình về những vấn đề chưa nhất trí với nội dung của dự thảo kết luận thanh tra.

Sau khi kết luận thanh tra được ký, ban hành, người ra quyết định chỉ đạo công bố công khai kết luận thanh tra theo quy định Điều 39 Luật Thanh tra, Điều 46 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ.

Với những cuộc thanh tra có nhiều vấn đề phức tạp, người ra quyết tra chủ động bố trí thời gian dự hội nghị công bố kết luận thanh tra. Sau khi nghe công bố kết luận, đại biểu các đơn vị có liên quan phát biểu, đối tượng thanh tra giải trình, Người ra quyết định phải có ý kiến kết luận. Ý kiến của Người ra quyết định cần khẳng định những nội dung chính mà Đoàn thanh tra đã kết luận, kiến nghị trong văn bản kết luận; yêu cầu đối tượng thanh tra thực hiện nghiêm túc những kiến nghị của Đoàn thanh tra, những quyết định xử lý về thanh tra.

c) Những nội dung cần chỉ đạo xử lý sau thanh tra

Để đạt được mục đích đề ra thì vấn đề bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thanh tra là vô cùng quan trọng. Kết luận, kiến nghị thanh tra của Đoàn thanh tra phải được thực hiện trên thực tế.

Kết luận thanh tra là văn bản có giá trị pháp lý, là cơ sở để người ra quyết định thanh tra báo cáo cấp trên và ra quyết định xử lý theo thẩm quyền. Sau khi kết luận đã có hiệu lực pháp luật , người ra quyết định phải tổ chức thực hiện trong đó có một số nội dung sau::

+ Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế quản lý, những quy định trái pháp luật hoặc những văn bản ban hành trái thẩm quyền cần sửa đổi, huỷ bỏ. Người ra quyết định phải báo cáo và kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, quyết định.

+ Những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình phải có quyết định xử lý kịp thời. Sau khi ban hành quyết định xử lý phải phân công cán bộ theo dõi, đôn đốc việc thực hiện. Những vấn đề phức tạp phải dự kiến các tình huống để có biện pháp xử lý thích hợp.

+ Những vụ việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm phải quyết định chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.

Trong tình hình hiện nay, những vấn đề sai phạm về kinh tế rất phức tạp vì vậy khi xử lý cần thận trọng, không nên hình sự hoá các quan hệ kinh tế nhưng với

132

những vi phạm pháp luật nghiêm trọng cần thiết phải chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

+ Những cá nhân có sai phạm nhưng chưa đến mức phải xử lý bằng hình sự thì kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hành chính.

+ Phối hợp với cấp trên của đối tượng thanh tra chỉ đạo cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra kiểm điểm rút kinh nghiệm, chấn chỉnh các sai phạm, khắc phục kịp thời những thiếu sót khuyết điểm.

+ Một việc làm có ý nghĩa quan trọng thuộc trách nhiệm của Chánh thanh tra là chỉ đạo, tổ chức rút kinh nghiệm về công tác chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra. Đối với những cuộc thanh tra diện rộng hoặc thanh tra những chuyên đề lớn, có thể tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm với quy mô sâu rộng. Thông qua đó đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, điều hành, việc xác định trọng tâm, trọng điểm, phương pháp tiến hành thanh tra, việc chấp hành kỷ luật, nội quy của Đoàn thanh tra. Đây là một trong những biện pháp tốt nhất giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thanh tra.

+ Việc cuối cùng là giải quyết các khiếu nại của đối tượng thanh tra (nếu có).

Một số trường hợp, sau khi nhận được kết luận thanh tra và các quyết định xử lý về thanh tra, đối tượng thanh tra vẫn có văn bản đề nghị xem xét, hoặc khiếu nại một số nội dung của kết luận hoặc quyết định xử lý của thanh tra. Văn bản này có thể gửi cho Trưởng Đoàn hoặc Người ra quyết định, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.

Khi nhận được văn bản đề nghị, người ra quyết định phải xem xét để trả lời đối tượng. Với những nội dung đối tượng phản ứng gay gắt hoặc nội dung phản ánh có căn cứ thì có thể tham mưu tổ chức thanh tra lại theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010.

3. Tham mưu cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật

Việc tham mưu cho thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những là nhiệm vụ có tính chất truyền thống mà còn là thẩm quyền quan trọng, cơ bản của các cơ quan thanh tra nhà nước.

a) Tham mưu công tác tiếp công dân.

- Tham mưu cho thủ trưởng về công tác tiếp công dân.

133

Tiếp công dân là công tác có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo thì thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân và trực tiếp tiếp công dân theo định kỳ. Để giúp Thủ trưởng thực hiện tốt trách nhiệm của mình, các cơ quan thanh tra cần tham mưu tốt các việc sau:

Tổ chức công tác tiếp công dân phải thực hiện theo Đề án đổi mới công tác tiếp công dân ban hành theo Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ.

Cán bộ tiếp công dân phải có trình độ nghiệp vụ, có kiến thức pháp luật, có hiểu biết xã hội, có phẩm chất đạo đức, nhiệt tình và đặc biệt có kiến thức về tâm lý xã hội, có kỹ năng giao tiếp, có phương pháp và kinh nghiệm làm công tác vận động quần chúng.

Chánh Thanh tra có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho bộ phận này. Thông qua việc tham mưu cho lãnh đạo ban hành quy chế, quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ phận tiếp công dân cũng như quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân.

Hiện nay, một số nơi hiểu không đúng, coi bộ phận tiếp công dân như một nơi có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi tiếp công dân, cán bộ tiếp công dân đã đưa ra những nhận xét, đánh giá chủ quan, hứa hẹn với công dân làm khó khăn cho quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, vấn đề này cần lưu ý và khắc phục.

+ Tham mưu về bố trí nơi tiếp công dân:

Trụ sở tiếp công dân phải bố trí tại địa điểm thuận lợi cho công dân đi lại, phải có phòng chờ, phòng tiếp công dân. Nơi tiếp công dân phải khang trang, thể hiện sự nghiêm túc và gây ấn tượng tốt cho công dân đến cơ quan nhà nước. Việc lựa chọn nơi tiếp công dân không nên quá cầu kỳ hình thức nhưng cũng không nên quá đơn giản, tuỳ tiện.

Tại trụ sở tiếp công dân phải được bố trí trang thiết bị cần thiết để phục vụ tiếp công dân chu đáo, đồng thời phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để cán bộ tiếp công dân làm việc.

134

Tại trụ sở tiếp công dân phải có nội quy tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cán bộ tiếp công dân; quyền và nghĩa vụ của công dân; hướng dẫn trình tự, thủ tục công dân đến khiếu nại, tố cáo. Ngoài ra còn phải niêm yết lịch tiếp công dân. Trên bàn làm việc còn phải có biển ghi rõ họ, tên, chức danh cán bộ tiếp công dân.

Trụ sở tiếp công dân cần bố trí riêng biệt, không nên bố trí chung với trụ sở làm việc của lãnh đạo ngành hoặc trong trụ sở làm việc của Uỷ ban nhân dân để tránh ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các đồng chí lãnh đạo và các bộ phận chuyên môn khác. Tuy vậy, cũng không nên bố trí quá xa khu trung tâm hành chính, mà nên đặt ở nơi thuận tiện để tạo cảm giác gần gũi, tin tưởng của dân với cơ quan nhà nước, đồng thời cũng tạo điều kiện để các đồng chí lãnh đạo chỉ đạo, điều hành, xử lý các tình huống trong quá trình tiếp công dân.

Với chức năng tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp, Chánh Thanh tra chủ động sẵn sàng phối hợp với bộ phận tiếp công dân dự kiến các tình huống phát sinh để xử lý và đề nghị thủ trưởng các cơ quan, tổ chức có liên quan giúp lãnh đạo ngành, lãnh đạo địa phương tiếp công dân trong trường hợp khẩn thiết.

Luật Khiếu nại năm 2011 quy định thủ trưởng cơ quan nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải trực tiếp tiếp công dân theo định kỳ và tiếp công dân đột xuất trong trường hợp khẩn thiết. Thông thường những buổi tiếp công dân này rất căng thẳng, phức tạp nên Chánh Thanh tra phải phối hợp với bộ phận tiếp công dân chuẩn bị thật tốt để lãnh đạo tiếp công dân chu đáo, đạt hiệu quả. Tuỳ theo tình hình cụ thể đề nghị với lãnh đạo huy động các cơ quan chức năng có liên quan tham gia tiếp công dân.

Về nội dung, với những vấn đề đã chủ động được, cần phải thảo luận kỹ đưa ra phương án tốt nhất trả lời công dân. Mặt khác, thông qua việc nắm bắt thông tin từ các kênh khác nhau, Chánh Thanh tra phải tham mưu cho lãnh đạo dự kiến các tình huống xảy ra để có biện pháp xử lý thích hợp.

- Chỉ đạo việc tổ chức tiếp công dân tại cơ quan thanh tra

Tổ chức tiếp công dân là công việc thường xuyên của các tổ chức thanh tra vì vậy địa điểm tiếp công dân phải được bố trí ngay tại trụ sở làm việc của cơ quan thanh tra.

Nơi tiếp công dân phải là phòng riêng có đủ các điều kiện về trang thiết bị cần thiết theo quy định. Do điều kiện về biên chế, các cơ quan thanh tra không phải tổ chức bộ phận riêng để tiếp công dân (trừ cơ quan Thanh tra Chính phủ) nhưng

135

cũng phải có cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ này. Chánh Thanh tra chủ động bố trí lịch tiếp công dân định kỳ, ngoài ra những việc đột xuất có thể trực tiếp hoặc giao cho Phó Chánh thanh tra thay mặt mình để tiếp công dân.

b) Tham mưu xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo

- Tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp về xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Tiếp nhận, xử lý đơn thư là khâu đầu tiên của quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Đơn thư khiếu nại, tố cáo đến với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có nội dung hết sức đa dạng, phức tạp và chứa đựng nhiều vấn đề, do đó việc nghiên cứu, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo là khâu hết sức quan trọng.

Xử lý tốt các đơn thư khiếu nại, tố cáo giúp cho cơ quan nhà nước tiết kiệm được thời gian, giải quyết nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo. Những hành vi trái pháp luật phải xử lý kịp thời, những thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước phải được chấn chỉnh; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức được bảo vệ, khôi phục.

Xử lý tốt đơn thư trực tiếp làm giảm các chi phí vật chất không cần thiết, tiết kiệm thời gian, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Để xử lý đơn thư, các cơ quan thanh tra cần thực hiện tốt các việc sau đây:

+ Chánh Thanh tra phải tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp xây dựng và ban hành quy chế phối hợp, xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan thuộc ngành, thuộc Uỷ ban nhân dân trong việc quản lý, phân loại, theo dõi, xử lý đơn thư và thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu theo quy định của pháp luật.

Hướng dẫn cán bộ tiếp công dân làm tốt nghiệp vụ xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Đơn thư đến với cơ quan nhà nước bằng nhiều con đường khác nhau, có thể trực tiếp, có thể qua bưu điện, có thể do cơ quan, tổ chức khác chuyển đến. Đơn thư cũng có thể gửi chung cho cơ quan, gửi tập thể các đồng chí lãnh đạo, cũng có thể gửi cá nhân từng đồng chí lãnh đạo. Vì vậy để tập hợp được đầy đủ tình hình đơn thư, phải tập trung về một đầu mối, cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân và xử lý đơn thư phải nắm chắc quy trình tiếp nhận đơn thư và lượng đơn thư ở từng thời điểm. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, cán bộ làm nhiệm vụ xử lý đơn thư phân tích được tình hình khiếu nại, tố cáo theo những tiêu chí nhất định phuc vụ cho yêu càu lãnh đạo trong việc đánh giá tình hình và chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo.

136

- Chỉ đạo việc xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo

Các cơ quan thanh tra nhà nước là một đầu mối quan trọng trong việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đơn thư đến với các tổ chức thanh tra bao gồm các loại đơn thư không thuộc thẩm quyền và một loại thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng hành chính cùng cấp.

Những đơn thư không thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, Chánh Thanh tra chỉ đạo bộ phận chuyên môn xử lý theo quy định chung (đã trình bày ở mục a).

Đối với các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, Chánh Thanh tra có trách nhiệm xử lý kịp thời với thái độ nghiêm túc và với tinh thần khẩn trương theo quy định của pháp luật.

c) Tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo

Từ những quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và giải quyết tố cáo thuộc về các cơ quan hành chính nhà nước mà trước hết thuộc về người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan thanh tra có trách nhiệm tham mưu, giúp thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.

Công tác tham mưu được thể hiện thông qua các công việc cụ thể sau:

Một là, tham mưu để thủ trưởng giao việc xác minh, kết luận và đề xuất việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cơ quan chuyên môn phù hợp.

- Đối với những vụ việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ thì Chánh Thanh tra bộ nghiên cứu, tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung khiếu nại đề xuất để thủ trưởng giao cho thủ trưởng Cục, Vụ, Đơn vị chức năng chuyên môn phù hợp xem xét, xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết.

- Đối với những vụ việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Chánh Thanh tra tỉnh phải nghiên cứu nội dung khiếu nại, đề xuất với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp giao cho thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc giao cho mình thực hiện việc xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết.

137

- Tố cáo cán bộ, công chức hoạt động ở lĩnh vực chuyên môn nào thì giao cho thủ trưởng cơ quan đó xác minh, kết luận và kiến nghị hướng xử lý.

- Tố cáo cán bộ, công chức liên quan đến nhiều cơ quan có trách nhiệm quản lý, như một cán bộ lãnh đạo nhưng lại là cấp uỷ viên hoặc một cán bộ do một cơ quan bổ nhiệm, một cơ quan sử dụng thì phải tham mưu cho thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp chủ động trao đổi, phối hợp với cơ quan hữu quan giải quyết hoặc phân công cho một cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh sự trùng lắp, chồng chéo.

Hai là, theo dõi và hướng dẫn nghiệp vụ cho các cơ quan chuyên môn được giao trách nhiệm xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Việc giao trách nhiệm xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thủ trưởng cơ quan chuyên môn nào phải tùy thuộc vào tính chất, nội dung vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể và tình hình thực tế của từng ngành, từng địa phương. Song, để thực hiện việc xem xét, xác minh, kết luận và kiến nghị giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo được giao một cách nhanh chóng, dứt điểm từ cơ sở nơi phát sinh, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân, Chánh Thanh tra phải hướng dẫn và có thể cùng với thủ trưởng cơ quan chuyên môn chỉ đạo thường xuyên, chặt chẽ quá trình giải quyết. Với những vụ việc phức tạp có thể đề xuất tổ chức Đoàn thanh tra. Chánh Thanh tra có thể tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ hoặc cử người có kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ tham gia Đoàn thanh tra.

Ba là, tham mưu để thủ trưởng gặp gỡ, đối thoại với công dân.

Tuy việc xác minh, kết luận các vụ việc khiếu nại đã được giao cho các cơ quan chuyên môn đảm nhiệm, nhưng trong những trường hợp đặc biệt phức tạp, như khiếu kiện đông người, nội dung sự việc có tính bức xúc liên quan trực tiếp đến ổn định trật tự xã hội thì Chánh Thanh tra tham mưu để thủ trưởng - người có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với công dân, nghe tâm tư nguyện vọng của dân để định hướng, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.

Bốn là, tham mưu để thủ trưởng tổ chức hội nghị tư vấn giải quyết khiếu nại, tố cáo

Với những vụ việc phức tạp, gay gắt, đông người Chánh Thanh tra tham mưu để thủ trưởng cùng cấp tổ chức hội nghị tư vấn giải quyết khiếu nại.

138

Mục đích của Hội nghị tư vấn là tranh thủ những ý kiến về góc độ chuyên môn và quan điểm xử lý của các ngành để thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền ra văn bản kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng đắn, tạo nên sự thống nhất khi thi hành.

Mặc dù ý kiến của các thành viên dự hội nghị chỉ có tính chất tư vấn cho người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, nhưng việc mở hội nghị tư vấn còn có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành hữu quan trong việc giải quyết khiếu nại nói chung cũng như việc thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

Để đạt được mục đích trên khi mở Hội nghị tư vấn, Chánh Thanh tra cần cân nhắc thành phần tham gia hội nghị, nội dung cần tư vấn, nhất là những vấn đề phức tạp, do lịch sử để lại, những vấn đề thiếu căn cứ pháp lý để kết luận nhưng chưa được văn bản pháp luật quy định, hoặc quy định không đầy đủ hoặc chồng chéo; những vấn đề có nhiều phương án giải quyết.

Năm là, tham mưu việc ra quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo

Việc ký quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước. Thông thường thì cơ quan chuyên môn nào được giao thẩm tra, xác minh sẽ dự thảo quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo. Khi được giao thì Chánh Thanh tra cần phối hợp với các đơn vị có liên quan kiểm tra lại hình thức và nội dung văn bản trước khi trình lãnh đạo ký. Về hình thức, phải đầy đủ các yếu tố của một quyết định hành chính được ban hành đúng thẩm quyền. Về nội dung, phải thể hiện rõ những vấn đề trong vụ việc khiếu nại, tố cáo.

Sáu là, tham mưu cho thủ trưởng trong việc xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại và tham gia việc tranh tụng trước Toà hành chính.

Đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu người khiếu nại không đồng ý mà khởi kiện tại Toà hành chính, khi được giao thì Chánh Thanh tra phải phối hợp với văn phòng, các bộ phận có liên quan kiểm tra, xem xét lại hồ sơ, chứng cứ và các căn cứ đã giải quyết. Nếu việc giải quyết không đúng phải chủ động sửa đổi, nếu sự việc đã được giải quyết đúng, không có tình tiết mới phát sinh thì phải chuẩn bị chứng lý giúp thủ trưởng tham gia tố tụng hành chính.

139

Bảy là, tham mưu cho thủ trưởng tổ chức và đôn đốc cấp dưới tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

Sau khi công bố kết luận và quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo thì việc có ý nghĩa quan trọng là đôn đốc người có trách nhiệm thi hành và tổ chức việc thi hành, thực hiện như: người khiếu nại, người bị khiếu nại, người bị tố cáo và cơ quan có trách nhiệm xử lý tố cáo thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

Quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo được thực hiện nghiêm chỉnh thì hiệu lực công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo mới phát huy trên thực tế. Đối với những vụ việc có nội dung phức tạp hoặc kéo dài cần tham mưu cho thủ trưởng chỉ đạo các đơn vị, cơ quan, cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, dứt điểm.

B. PHƯƠNG PHÁP CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

Nói phương pháp là nói đến cách thức, biện pháp, thủ tục sử dụng để giải quyết một công việc, thực hiện một hoạt động nào đó. Từ đó ta hiểu phương pháp chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng cơ quan thanh tra chính là cách thức, biện pháp, thủ tục được sử dụng để chỉ đạo, điều hành công việc của cơ quan thanh tra.

Hoạt động chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng cơ quan thanh tra bao gồm các loại công việc:

- Xây dựng chương trình, kế hoạch.

- Kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn cấp dưới.

- Thu thập, xử lý thông tin.

- Xây dựng nội quy, quy chế nội bộ cơ quan và quy chế phối hợp với các cơ quan tổ chức có liên quan.

- Xử lý các mối quan hệ.

I. CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH BẰNG CHƯƠNG TRÌNH KẾ HOẠCH

Chương trình, kế hoạch là công cụ, là phương tiện quan trọng của quản lý, chỉ đạo, điều hành. Thủ trưởng cơ quan thanh tra phải có chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm trên tất cả các lĩnh vực về quản lý nhà nước và tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội; giải quyết các khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

140

Việc xác định chương trình, kế hoạch thanh tra là một quá trình đòi hỏi tư duy sáng tạo và tính năng động, phù hợp với chủ trương, cơ chế chính sách, trên cơ sở quy định của pháp luật. Chương trình, kế hoạch phải xác định đúng hướng thể hiện sự nhạy bén chính trị và đưa ra các quyết định trên cơ sở mục tiêu rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao, mang tính toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm.

Chỉ đạo, điều hành bằng chương trình, kế hoạch là phương pháp khoa học nhất của công tác quản lý nói chung và người quản lý nói riêng, vì vậy thủ trưởng các cơ quan thanh tra phải chỉ đạo, điều hành chương trình, kế hoạch nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo gây phiền hà cho đơn vị cơ sở, nhất là với các doanh nghiệp. Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước có trách nhiệm điều hoà và chỉ đạo phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn và trên từng lĩnh vực thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp.

Trong công tác thanh tra, tính mục đích luôn luôn chi phối mọi hoạt động của các cơ quan thanh tra. Trong chương trình, kế hoạch phải chọn lựa được các nội dung thanh tra để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị của ngành, của địa phương và chỉ đạo của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên. Vì thế trong chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra phải coi trọng kế hoạch, phải chọn lựa vấn đề, nội dung quan trọng đưa vào chương trình, kế hoạch. Muốn khắc phục được tình trạng chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra thì vấn đề quan trọng là phải thống nhất, xây dựng được chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra.

Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước phải là người tham mưu đề xuất và tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Bộ trưởng và thủ trưởng các ngành là người phê duyệt chương trình, kế hoạch công tác thanh tra hàng năm.

II. KIỂM TRA, ĐÔN ĐỐC, HƯỚNG DẪN CẤP DƯỚI

Muốn biết chương trình kế hoạch có sát thực tế hay không, thực hiện tốt hay không tốt, thủ trưởng cơ quan thanh tra phải kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện của cấp dưới và người dưới quyền. Kiểm tra để có nhận định, đánh giá và uốn nắn chấn chỉnh việc thực hiện; khi cần thiết thì điều chỉnh, bổ sung một số giải pháp kịp thời nhằm tháo gỡ cho cấp dưới, cho cơ sở.

Trên địa bàn một tỉnh, một thành phố, có nhiều quận, huyện, thị xã có những đặc điểm riêng, Chánh Thanh tra cấp tỉnh cần nắm vững để chỉ đạo sao cho phù

141

hợp. Trong những yêu cầu chung, phải chú ý đến đặc thù riêng của từng địa bàn nhất là những nơi có nhiều khó khăn, phức tạp. Thực tiễn đặt ra cho Chánh Thanh tra phải có tác phong làm việc sâu sát và cụ thể theo chức trách và bổn phận của người quản lý. Trong chỉ đạo phải thể hiện tính bao quát trên toàn địa bàn, nhưng phải có trọng điểm; mặt khác không để phát sinh tâm lý có nơi bị bỏ quên hoặc coi nhẹ.

Đối với cơ quan Thanh tra bộ, căn cứ vào chức năng từng loại hình bộ, ngành để chỉ đạo công tác thanh tra cho sát hợp.

- Với các bộ, ngành có tính chất đặc thù như Ngân hàng, Công an..., Thanh tra cấp bộ có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ và xây dựng lực lượng trong toàn ngành.

- Đối với các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ công thương, Bộ Thông tin và truyền thông,... ) Chánh Thanh tra cấp bộ phải tham mưu giúp Bộ trưởng kiểm tra việc chấp hành chính sách pháp luật, nhiệm vụ kế hoạch của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của bộ trưởng; đồng thời phối hợp với thanh tra cấp tỉnh chỉ đạo về chuyên môn, tạo điều kiện cho thanh tra sở thực thi nhiệm vụ một cách thuận lợi.

Tăng cường trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cấp dưới, đồng thời có phương pháp tốt phối hợp tổ chức triển khai nhiệm vụ giữa thanh tra cấp bộ với thanh tra cấp tỉnh sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn ngành thanh tra.

III. THU THẬP, XỬ LÝ THÔNG TIN PHỤC VỤ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH

Trong thời đại bùng nổ thông tin, nhu cầu được tiếp nhận thông tin và nhu cầu truyền đạt thông tin với bên ngoài, với cấp dưới là vô cùng quan trọng. Đối với cơ quan thanh tra, thủ trưởng cơ quan thanh tra điều đó càng có ý nghĩa thiết thực. Chính qua thông tin mà bất cứ một cơ quan, tổ chức nào cũng trở thành một hệ thống mở, tác động tương hỗ và quan hệ hữu cơ với nhiều cơ quan, tổ chức khác. Cấp trên phải nắm bắt đầy đủ được tình hình của cấp dưới; cấp dưới phải báo cáo kịp thời, đầy đủ với cấp trên, đồng thời được quyền yêu cầu cấp trên cung cấp thông tin để triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Hoạt động thanh tra kinh tế xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo thực chất là quá trình thu thập, xử lý thông tin, lựa chọn thông tin nhằm phục vụ cho việc xem xét, kết luận đúng - sai và kiến nghị xử lý.

142

Xuất phát từ yêu cầu của người quản lý, thủ trưởng có quan thanh tra phải chủ động xây dựng được những kênh thông tin chuẩn xác, độ tin cậy cao, trong đó bao gồm từ cấp trên xuống, từ dưới lên, từ bên ngoài vào và các kênh thông tin theo chiều ngang. Trong chỉ đạo, điều hành, thông tin phải phục vụ thiết thực cho hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì thế phải biết chọn lọc để có những thông tin chính xác, khách quan, độ tin cậy cao. Thông tin nhiều là tốt, nhưng không xem nhẹ mặt trái của nó, việc quá tải lượng thông tin, việc nhiễu thông tin cũng dễ dẫn đến một số sai lầm. Nếu bị chìm ngập trong khối lượng thông tin quá lớn, mà dễ mắc lỗi khi xử lý như giải quyết chậm trễ, không đảm bảo thời gian quy định; hoặc những thông tin quan trọng, thiết yếu, lại bị xử lý chậm, trong khi đó việc dễ, không quan trọng lại được xử lý, giải quyết trước… Vì thế, để giúp thủ trưởng cơ quan thanh tra tránh mắc lỗi trong xử lý thông tin, cần phải có cán bộ có trình độ, năng lực, am hiểu công việc, có tác phong làm việc khoa học; đồng thời phải yêu cầu cấp dưới thực hiện chế độ báo cáo nghiêm túc theo định kỳ hoặc đột xuất.

IV. XỬ LÝ CÁC MỐI QUAN HỆ TRONG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH

- Với cấp trên trực tiếp:

Chánh Thanh tra phải bằng nhiều biện pháp tích cực để khẳng định được uy tín với cấp uỷ, chính quyền, thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp và với cơ quan thanh tra cấp trên. Để có được điều đó phải bằng công việc cụ thể và có quá trình. Trong tham mưu đề xuất và triển khai nhiệm vụ phải thể hiện trách nhiệm cao và có hiệu quả thiết thực. Trong báo cáo công tác phải đảm bảo đúng theo quy định về thời gian, có chất lượng, thể hiện độ chính xác, tin cậy, qua đó, thể hiện tinh thần trách nhiệm, ý thức chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của cấp trên; đồng thời phản ánh được năng lực, trình độ tư duy sáng tạo, sự vận dụng linh hoạt, sát thực tế của cấp dưới.

- Với cấp dưới:

Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, nhưng khi đã có chủ trương, quyết định đúng thì kiên quyết, nhất quán trong chỉ đạo, điều hành, tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới thực hiện.

Lãnh đạo (nói chung) là sự tác động đến con người, dẫn dắt một tập thể, ở đó mỗi con người đều có chức trách nhiệm vụ rõ ràng. Vì vậy, cần phải có phương pháp, cách thức lãnh đạo tốt để sao cho cấp dưới sẵn sàng cố gắng, nhiệt tình trong suy nghĩ và hành động vì mục đích công việc chung phát huy tối đa khả năng làm

143

việc của họ. Đồng thời thông qua công việc mà xây dựng được tập thể đoàn kết, thống nhất.

Sự lãnh đạo bao hàm ý nghĩa tuân thủ và sự phục tùng. Con người nói chung có xu hướng tuân theo những người lãnh đạo mà họ thấy ở đó sự tin tưởng, tính quyết đáp và lòng vị tha.

Thủ trưởng cơ quan thanh tra là người lãnh đạo quản lý, thực hiện chức năng lãnh đạo trực tiếp một tập thể cán bộ, công chức, viên chức. Thông qua hoạt động thực tiễn để hiểu được tâm tư tình cảm, những nguyện vọng chính đáng của từng người, tạo điều kiện giúp đỡ và kịp thời động viên người tốt, việc tốt. Trong một tập thể, người quản lý phải xây dựng được những hạt nhân lãnh đạo ở từng bộ phận dưới quyền.

Trong chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch và triển khai công việc phải chắt lọc được những ý tưởng tốt, từ cấp dưới đầu mối các phòng, ban, các bộ phận chuyên môn, thể hiện tính toàn diện, tính bao quát công việc trong tổng thể nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Trong đó phải coi trọng xây dựng tổ chức, luôn quan tâm đến con người, xây dựng lực lượng và chăm lo những điều kiện phục vụ công tác. Làm sao không bộ phận và cá nhân nào cảm thấy mình chỉ luôn luôn “đóng vai phụ”. Điều đó không chỉ bởi yếu tố tâm lý mà thực chất công việc cần làm. Trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đã tính đến khả năng hoàn thành của từng bộ phận gắn với đội ngũ cán bộ, thanh tra viên mà ở đó đều phải có những con người cụ thể thực thi công việc cụ thể.

Đối với cơ quan thanh tra cấp tỉnh, cấp dưới là cơ quan thanh tra cấp huyện, thanh tra cấp sở. Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo công tác thanh tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra hành chính đối với Thanh tra sở, Thanh tra huyện. Chánh Thanh tra tỉnh chỉ đạo thanh tra huyện, thanh tra sở, trực tiếp qua Chánh Thanh tra huyện, Chánh Thanh tra sở. Chánh Thanh tra tỉnh phải sâu sát, giúp đỡ Chánh Thanh tra huyện, Chánh Thanh tra sở, xây dựng được sự tin cậy bằng việc giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong công việc, giữ uy tín cho họ, khơi dậy lòng nhiệt tình, trách nhiệm và động viên đúng lúc, đúng chỗ.

Đối với Chánh Thanh tra bộ quản lý theo ngành dọc, Chánh Thanh tra bộ phải quan tâm sâu sát trong chỉ đạo cả về tổ chức, về chuyên môn nghiệp vụ. Chánh Thanh tra sở chính là “cánh tay dài” của Chánh Thanh tra bộ vươn tới các vùng lãnh thổ thuộc lĩnh vực quản lý của bộ.

- Với các cơ quan hữu quan:

144

Trong hoạt động thanh tra, với tư cách người quản lý, thủ trưởng cơ quan thanh tra phải tiếp nhận rất nhiều thông tin và phải xử lý thông tin thật chính xác, khách quan. Vì thế, ngoài việc xác lập các mối quan hệ theo cấp bậc trên, dưới, quan hệ giữa các bộ phận ngay trong cơ quan một cách ổn định bền vững, thủ trưởng cơ quan thanh tra còn phải xử lý các mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với nhiều cơ quan hữu quan, trong đó đặc biệt quan tâm mối quan hệ giữa thanh tra với các cơ quan thuộc khối nội chính, cơ quan kiểm tra đảng và các cơ quan thông tấn báo chí. Bởi vì, xét cho cùng thì giữa thanh tra với các cơ quan này đều có một mục đích chung là góp phần vào việc tăng cường pháp chế, làm trong sạch đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, lành mạnh hoá các mối quan hệ xã hội.

Tạo dựng được các mối quan hệ đó sẽ có lợi trên nhiều phương diện, thể hiện trên các mặt sau:

- Trong xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra tránh được sự chồng chéo, hoặc bỏ trống địa bàn và lĩnh vực quan trọng. Sự phối hợp tốt giữa thanh tra với các cơ quan sẽ là cơ sở tốt cho việc tham mưu đề xuất các vấn đề thanh tra với cấp uỷ, chính quyền địa phương, với lãnh đạo bộ.

- Trong triển khai thực hiện nhiệm vụ thanh tra kinh tế xã hội, giải quyết khiếu nại tố cáo, rất cần tranh thủ sự đồng tình của các ngành trong khối nội chính, kiểm tra đảng. Sự hợp tác trong quá trình xác minh, kết luận, xử lý những vụ việc phức tạp, quan trọng để có tiếng nói chung giữa thanh tra với kiểm tra đảng, các cơ quan trong khối nội chính là rất quan trọng, rất cần thiết. Thực tế cho thấy, sở dĩ còn nhiều cuộc thanh tra kinh tế xã hội, giải quyết các vụ việc khiếu tố kéo dài, kết thúc khó khăn, một trong những nguyên nhân là do trong quá trình thanh tra, xác minh, kết luận không phối hợp tốt, không tham khảo và tranh thủ sự đồng tình của các ngành hữu quan, vì thế khó khăn cho người có thẩm quyền quyết đáp cuối cùng.

- Trong việc phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, cũng cần có tiếng nói chung của các ngành, các cơ quan hữu quan. Uy tín của cơ quan thanh tra, của ngành thanh tra tuỳ thuộc chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, đồng thời tiếng nói của các cơ quan thông tấn báo chí cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn vấn đề thanh tra, góp phần nâng uy tín của cơ quan, của ngành thanh tra. Sự phối hợp, tạo được mối quan hệ tốt với cơ quan thông tấn báo chí sẽ bớt đi những thông tin nhiễu, tăng thông tin chính xác, thiết thực phục vụ hoạt động thanh tra.

145

Quan hệ tốt giữa trên - dưới, trong - ngoài nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, qua đó củng cố thêm vị thế của cơ quan thanh tra, ngành thanh tra.

C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA

Những năm qua, trong thực hiện đường lối đổi mới mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, thanh tra các cấp, các ngành đã có những đổi mới trong chỉ đạo, điều hành hoạt động, thể hiện trên những nội dung chủ yếu:

- Phối hợp hoạt động giữa thanh tra và các cơ quan, đơn vị hữu quan và các cơ quan bảo vệ pháp luật, đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

- Bước đầu đổi mới công tác chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra. Xác định chương trình, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm theo năm, quý và giai đoạn.

- Đổi mới và chuyển hướng mạnh mẽ việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Việc tiến hành thanh tra có chọn lọc, có trọng tâm, trọng điểm.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, trong công tác chỉ đạo, điều hành của thanh tra các cấp, các ngành còn có những hạn chế sau:

- Thứ nhất, vấn đề “công tác chỉ đạo, điều hành" trong hoạt động của các cơ quan thanh tra chưa được coi trọng và nhận thức đúng mức. Đặc biệt là còn thiếu sự gắn kết trong chỉ đạo công tác thanh tra với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan quản lý cùng cấp.

- Thứ hai, trong chỉ đạo, điều hành thực hiện quyền thanh tra trực tiếp thông qua các cuộc thanh tra hoặc tham mưu trong giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thấu suốt tinh thần của cải cách thủ tục hành chính, còn nhiều thủ tục rườm rà, còn gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Thứ ba, trong chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch mặc dù đã có chuyển biến song còn lúng túng, bị động. Một số cơ quan thanh tra chưa làm tốt vai trò chính trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động thanh tra, kiểm tra. Hiện tượng

146

chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được khắc phục triệt để.

- Thứ tư, chỉ đạo công tác xây dựng lực lượng, phát triển đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên có nhiều bất cập, còn thiếu chủ động, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

- Thứ năm, việc chỉ đạo tổng kết, đánh giá về công tác thanh tra, xây dựng hệ thống thông tin chỉ đạo, báo cáo của thanh tra cấp, thanh tra ngành còn chậm, chất lượng hạn chế, thậm chí có nơi rất yếu kém.

Từ thực trạng trên, để nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra cần tập trung vào các biện pháp cơ bản sau:

I. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THANH TRA VÀ QUẢN LÝ

Đây là vấn đề vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. Bởi lẽ, về phương diện lý luận, thanh tra là một “nội dung” của quản lý. Chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra là trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành. Nhưng trên thực tế, lãnh đạo các cấp, các ngành còn có nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này. Cá biệt, có tỉnh hoặc bộ coi việc chỉ đạo, thực hiện các chương trình, kế hoạch thanh tra như là công việc riêng của ngành thanh tra. Đặc biệt, khi các cấp thanh tra này thực hiện những cuộc thanh tra diện rộng, hoặc tham gia phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo trong chương trình, kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thanh tra Chính phủ. Đây là rào ngăn, cản trở cho công tác chỉ đạo, điều hành của Thanh tra các cấp, các ngành. Từ đó dẫn đến tình trạng là xây dựng lực lượng và củng cố tổ chức thanh tra gặp nhiều khó khăn; còn nhiều cấp, nhiều ngành có nhận thức sai lệch về vị trí của thanh tra trong công tác quản lý của cấp mình.

II. BÁM SÁT NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, SỰ CHỈ ĐẠO TRỰC TIẾP CỦA THỦ TRƯỞNG CÁC NGÀNH, CÁC CẤP VÀ CHỈ ĐẠO, HƯỚNG DẪN CỦA THANH TRA CẤP TRÊN

Công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra, trước hết phải là sự thể hiện thống nhất trong công tác quản lý nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Thanh tra cấp phải thường xuyên bám sát chủ trương, kế hoạch, nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Thanh tra bộ, ngành phải bám sát sự chỉ đạo thực hiện những chủ trương, chính sách cụ thể theo ngành, theo lĩnh vực trên toàn quốc. Đồng thời, nêu cao ý thức chấp hành sự chỉ đạo theo chương trình,

147

kế hoạch, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ để phối hợp điều hoà hoạt động thanh tra trong toàn quốc. Do vậy, một mặt phải nắm chắc nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị ở mỗi giai đoạn, thời kỳ; mặt khác tranh thủ sự hướng dẫn, chỉ đạo phối hợp chung của cơ quan thanh tra cấp trên.

Thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra những năm qua cho thấy, nơi nào bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, quán triệt đầy đủ tinh thần chỉ đạo nghiệp vụ của ngành thì nơi đó tiến hành cuộc thanh tra thuận lợi, đạt kết quả tốt và phục vụ thiết thực cho công tác quản lý.

III. ĐỔI MỚI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG THANH TRA: PHÒNG NGỪA, NGĂN CHẶN ĐI ĐÔI VỚI PHÁT HIỆN, XỬ LÝ

Tập trung chỉ đạo chuyển hướng mạnh vào thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp. Phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện xử lý là hai mặt cơ bản có tác động qua lại với nhau, không được quá coi trọng hoặc xem nhẹ mặt nào. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng phối hợp phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện, xử lý là quan điểm cơ bản của công tác thanh tra, kiểm tra, là “xây” đi đôi với “chống”. Thanh tra các cấp phải thấu suốt quan điểm cơ bản của thanh tra là kết hợp tốt giữa “xây” và “chống”. Lấy “xây là chính, là đích” ngay cả khi xử lý các vi phạm cũng là nhằm làm tốt công tác phòng ngừa, ngăn chặn.

Thực tiễn cho thấy, thời gian vừa qua công tác chỉ đạo của các cơ quan thanh tra hướng vào xử lý vi phạm pháp luật là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là cần chuyển hướng chỉ đạo chủ động bám sát nhiệm vụ chính trị, chủ trương, chính sách, chọn trúng vấn đề, từ đó dự báo trước được những hạn chế, tiêu cực phát sinh của quản lý, để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn một cách hiệu quả.

Khắc phục tình trạng thanh tra chưa đúng tầm, không làm hết chức năng là cơ quan thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật; giúp chính quyền các cấp tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Nhiều khi chúng ta quá thiên về mục tiêu phát hiện các vi phạm và thu hồi về kinh tế nên chưa đưa ra được những kiến nghị thật xác đáng, hợp lý, hợp tình để các cấp, các ngành sửa chữa, khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý. Một cuộc thanh tra đúng tầm phải đưa ra được những kết luận một cách toàn diện, đầy đủ giúp cho lãnh đạo nhìn nhận đánh giá đúng tình hình và phải kiến nghị được những giải pháp cả về vi mô lẫn vĩ mô.

IV. XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

1. Xác định nội dung chỉ đạo, điều hành

148

Trước hết các cơ quan thanh tra cần xác định và cụ thể nội dung chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ thanh tra được quy định tại Luật Thanh tra.

Thanh tra các cấp, các ngành cần xác định rõ các nội dung cụ thể trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; việc tiến hành thanh tra trực tiếp và tham mưu về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

2. Đổi mới về phương thức chỉ đạo, điều hành

a) Tăng cường chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra theo chương trình, kế hoạch quý, năm tuỳ theo cấp độ, yêu cầu của quản lý

Chỉ đạo, điều hành theo chương trình, kế hoạch là biện pháp hữu hiệu nâng cao tính chủ động, tính kế hoạch của mỗi cơ quan thanh tra. Đồng thời, qua đó giúp cho cơ quan quản lý kiểm tra, đánh giá có tính toàn diện, cơ bản về các mặt hoạt động trong mỗi chu trình của quản lý.

Muốn vậy, các cơ quan thanh tra phải nâng cao chất lượng xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng năm. Có sự phối hợp đồng bộ về chương trình, kế hoạch của cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan thanh tra cấp dưới đồng thời dự phòng triển khai nhiệm vụ đột xuất. Chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm phải được thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp phê duyệt và theo chỉ đạo, hướng dẫn của thủ trưởng thanh tra cấp trên. Qua đó xử lý được những vướng mắc về thanh tra, kiểm tra chồng chéo giữa các cơ quan và trong nội bộ ngành thanh tra.

b) Đổi mới về phương thức chỉ đạo tiến hành thanh tra kinh tế xã hội

Thứ nhất, cùng với công tác kế hoạch, cần phải lựa chọn đúng đề tài, nội dung thanh tra phù hợp và yêu cầu, tầm chỉ đạo của quản lý. Bởi lẽ, một cuộc thanh tra đúng tầm phải thể hiện ở “điểm”, ở nội dung cụ thể, từ đó đánh giá “diện”; thông qua kết quả thanh tra ở một hoặc một số địa bàn, cơ sở để nhận định tình hình ở cả một lĩnh vực, một địa phương từ đó có những giải pháp thích hợp.

Thứ hai, tập trung chỉ đạo tiến hành cuộc thanh tra nhanh, gọn, giải quyết chính xác, kịp thời những vấn đề do yêu cầu của công tác quản lý đặt ra. Chỉ đạo chặt chẽ từng cuộc thanh tra, xử lý kịp thời các tình huống phát sinh bảo đảm đúng mục đích, yêu cầu và tiến độ cuộc thanh tra ở tất cae các khâu các khâu: chuẩn bị, tiến hành, kết thúc và xử lý sau thanh tra.

149

Thứ ba, chỉ đạo tập trung nâng cao chất lượng các kết luận, kiến nghị của thanh tra và đôn đốc theo dõi thi hành tốt các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Mỗi cơ quan thanh tra chủ động trong giám sát, đôn đốc thi hành kết luận thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

c) Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra trách nhiệm

Những năm gần đây, hoạt động thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân và phòng, chống tham nhũng có nhiều chuyển biến tích cực, đã góp phần chấn chỉnh, khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý, ổn định an ninh chính trị, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực và địa phương. Tuy nhiên, còn nhiều nơi, nhất là cấp cơ sở chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; chưa quan tâm tới việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động thanh tra, chưa đề cao trách nhiệm giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, chưa thật sự coi trọng công tác phòng, chống tham nhũng. Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thì các cấp, các ngành cùng với việc quan tâm chỉ đạo đề cao trách nhiệm, quan tâm đúng mức tới việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, tiếp công dân và giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn cần phải đẩy mạnh việc thanh tra trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền trong việc chấp hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

d) Tăng cường sự phối hợp; đổi mới chế độ thông tin, báo cáo bảo đảm hoạt động thanh tra thông suốt, hiệu quả

Xây dựng quy chế phối hợp là công việc cần thiết, quan trọng trong chỉ đạo, điều hành. Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện cần có quy chế phối hợp hoạt động với các cơ quan bảo vệ pháp luật, kiểm tra đảng, các bộ phận chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Với Thanh tra bộ, đó là mối quan hệ với các vụ chức năng và trong chỉ đạo nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra sở.

Thực hiện chế độ thông tin báo cáo thông suốt, chính xác, kịp thời là biện pháp nghiệp vụ quan trọng trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cấp thanh tra. Mặc dù những năm gần đây, ngành thanh tra đã có nhiều cải tiến về chế độ thông tin, báo cáo, song trên thực tế sự chuyển biến còn chậm. Việc tổng hợp kết quả thanh tra còn gặp nhiều khó khăn, các tiêu chí lựa chọn báo cáo chưa thống nhất.

150

V. HOÀN THIỆN BỘ MÁY TỔ CHỨC, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐỦ VỀ SỐ LƯỢNG, MẠNH VỀ CHẤT LƯỢNG

Hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành hoạt động của mỗi cơ quan thanh tra phụ thuộc trực tiếp tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra. Sau khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu lực, bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra tra nhà nước có sự thay đổi đáng kể. Việc bố trí, sử dụng cán bộ có tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm, tâm lý của cán bộ trong ngành, nhất là đối với đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh đó, lực lượng cán bộ hiện có còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về cơ cấu ngành nghề. Do vậy, trong thời gian tới một mặt hoàn chỉnh bộ máy của các cơ quan thanh tra nhà nước; mặt khác phải nâng cao năng lực công tác cho cán bộ, Thanh tra viên:

Thứ nhất, tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước theo quy định của Luật Thanh tra và các Nghị định của Chính phủ.

Đối với Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện cần tập trung làm rõ vị trí, vai trò của tổ chức này với tư cách là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về công tác thanh tra trên địa bàn lãnh thổ; tăng cường bổ sung đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên đủ về số lượng và có chất lượng để hoạt động. Đối với Thanh tra bộ, ngành cần nhanh chóng ổn định về tổ chức, thống nhất về một đầu mối chịu sự quản lý chung của Thanh tra bộ.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra với nhiều cấp độ, nâng cao năng lực cho cán bộ, Thanh tra viên, trong đó chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước.

Thứ ba, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên ổn định, sử dụng gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng. Thông qua tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ Thanh tra viên ổn định, đủ mạnh. Đặc biệt cần có kế hoạch, chính sách tạo nguồn cán bộ quản lý, kết hợp phát triển tại chỗ đảm bảo tính liên tục, tính kế thừa, trẻ hoá cán bộ; sử dụng cán bộ, Thanh tra viên gắn liền với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng, tiêu chuẩn hoá.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi là đòi hỏi có tính nguyên tắc trong định hướng chiến lược phát triển ngành Thanh tra đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để ngành Thanh tra phát triển ngang tầm với

151

nhiệm vụ, những đòi hỏi đó, phải được thể hiện trước hết ở công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước.

VI. NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN THANH TRA

Mỗi cơ quan thanh tra nhà nước là cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước cùng cấp, đồng thời là tổ chức có vị trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước. Thủ trưởng cơ quan thanh tra có vai trò quyết định chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan thanh tra cùng cấp và là người trực tiếp thực hiện công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan thanh tra đó. Vì vậy, để nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan thanh tra cần thiết phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chánh Thanh tra, cụ thể ở những nội dung sau:

Một là, với vai trò trách nhiệm của người quản lý, Thủ trưởng cơ quan thanh tra phải làm tốt chức năng đầu mối, tổng hợp chương trình, kế hoạch thanh tra, điều hoà phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát trong ngành thanh tra và trong các cơ quan có chức năng kiểm tra, khắc phục tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp.

Hai là, đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh tra và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Tăng cường thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Ba là, tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền và thủ trưởng cùng cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Tập trung giải quyết những vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài, tránh phát sinh “điểm nóng”. Đối với các vụ việc có quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật thì thủ trưởng cơ quan thanh tra phải tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp, lãnh đạo bộ, ngành giám sát, kiểm tra và đôn đốc cấp dưới tổ chức thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, dứt điểm.

Bốn là, quan tâm cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khắc phục thủ tục hành chính rườm rà, kéo dài ở tất cả các khâu tiến hành thanh tra trực tiếp, báo cáo và kết luận thanh tra nhằm tránh phiền hà cho cơ sở và đảm bảo phục vụ kịp thời cho công tác quản lý điều hành của chính quyền cùng cấp./.

152

Chuyên đề 5

THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

1. Khái niệm về quyền trong hoạt động thanh tra

a) Khái niệm về quyền

Quyền là một khái niệm được đề cập trên nhiều phương diện khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông: “Quyền (dt) 1. Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi; 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm”.

Quyền là một thuộc tính được xã hội thừa nhận hay pháp luật quy định được hưởng hoặc được đòi hỏi trong cuộc sống, trong thực hiện nhiệm vụ. Khi nói tới quyền là nói tới địa vị của con người trong một chế độ xã hội nhất định hoặc một chức vụ nhất định ở một cơ quan, tổ chức. Quyền cũng chính là thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, quyền của con người phát sinh và tồn tại là một tất yếu khách quan. Con người sinh ra với tư cách là thành viên của xã hội, chịu tác động và sự chi phối bởi rất nhiều mối quan hệ như mối quan hệ với tự nhiên, với Nhà nước, với cộng đồng xã hội; trong quá trình xử lý những mối quan hệ đó, để tồn tại và phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải xác lập những mối quan hệ mới, đó chính là “quyền” của con người.

Về phương diện xã hội có hai loại quyền sau:

+ Quyền con người, quyền công dân. Đây là những quyền cơ bản để bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển cuộc sống của con người như quyền được sống, quyền được tự do, quyền ứng cử, bầu cử, quyền khiếu nại, tố cáo… Những quyền này được xã hội thừa nhận, pháp luật quy định và bảo vệ.

+ Quyền lực Nhà nước: là những quyền Nhà nước sử dụng để bắt mọi người phải tuân theo. Đây thực chất là những quyền nhằm bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Đồng thời, những quyền này cũng là để duy trì trật tự xã hội và bảo đảm những quyền cơ bản của con người. Nếu ai đó vượt quá khuôn khổ pháp luật cho phép thì đều bị pháp luật điều chỉnh. Loại quyền này có đặc trưng là khi sử dụng luôn nhân danh Nhà nước, nhân danh pháp luật để bắt mọi người phải tuân theo, nên

153

nó mang tính chất bất bình đẳng. Một bên là ra lệnh, còn bên kia phải phục tùng, đó là đặc trưng cơ bản của quyền lực Nhà nước.

b) Quyền trong hoạt động thanh tra

Trong Mục 2 và 3, Chương IV của Luật Thanh tra năm 2010 (sau đây goi là Luật Thanh tra) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành.

Quyền trong hoạt động thanh tra là những quyền mà chủ thể thanh tra - Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành - khi thực hiện nhiệm vụ buộc đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện các yêu cầu, kiến nghị hoặc các quyết định về thanh tra.

Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền lực Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, nhưng có sự phân công trong bộ máy Nhà nước để thực hiện 3 quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan Hành chính nhà nước cao nhất. Theo Luật Thanh tra 2010, cơ quan Thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật (Điều 5- Luật Thanh tra năm 2010). Vì vậy, quyền của các cơ quan Thanh tra nhà nước nói chung và quyền trong hoạt động thanh tra nói riêng là thuộc quyền hành pháp.

Thanh tra là một chức năng tất yếu, khách quan của hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra phục vụ cho quá trình quản lý bằng chính việc thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Thông qua đó giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thấy được tình hình hoạt động của các cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình. Trên cơ sở đó để các cơ quan quản lý nhà nước chấn chỉnh, xử lý kịp thời các vi phạm. Đồng thời hoạt động thanh tra còn xem xét tính đúng đắn của cơ chế, chính sách, pháp luật; nhằm phát hiện những sơ hở, bất cập, chồng chéo trong cơ chế quản lý, trong chính sách, pháp luật để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các quy định mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi.

154

Để bảo đảm và tạo điều kiện cho các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ, đòi hỏi pháp luật cần phải trao cho các cơ quan này những quyền hạn nhất định, tương ứng với chức năng, nhiệm vụ cũng như tính chất, đặc điểm của hoạt động thanh tra. Từ những lý lẽ trên, kế thừa và phát triển các quy định pháp luật về thanh tra trước đây, Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, đã quy định cụ thể việc sử dụng các quyền của các chủ thể thanh tra trong quá trình thanh tra. Khi sử dụng các quyền này, các chủ thể thanh tra cần phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đồng thời luật cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể khi sử dụng quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Tóm lại: Quyền trong hoạt động thanh tra là quyền lực nhà nước được pháp luật quy định cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sử dụng trong quá trình thanh tra, nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.

2. Cơ sơ hình thành quyền trong hoạt động thanh tra

a) Cơ sở lý luận

Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là một khâu quan trọng trong chu trình quản lý. Tại Hội nghị cán bộ thanh tra năm 1977 cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “không coi trọng thanh tra tức là tước bỏ một cái vũ khí cần thiết của người lãnh đạo”.

Qua hoạt động thanh tra, người quản lý mới thấy được một cách chính xác, khách quan tình hình thực tế, có cơ sở đánh giá sự đúng đắn hoặc sai lầm của cấp thực thi hay của chính bản thân hoạt động quản lý, từ đó mới có chủ trương giải pháp cần thiết để khắc phục, cải tiến sửa chữa những sai lầm thiếu sót nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Do đó, có thể nói hoạt động thanh tra là chức năng không thể thiếu trong bản thân hoạt động quản lý và là một trong những công cụ quan trọng của người quản lý.

Xã hội càng phát triển, sự chuyên môn hoá lao động ngày càng cao, đã tác động và đòi hỏi lao động quản lý cũng phải được chuyên môn hoá và phát triển. Vì vậy, chính hoạt động quản lý cũng lại làm nảy sinh và thúc đẩy sự phân cấp trong hoạt động quản lý. Quá trình phân cấp cũng như yêu cầu ngày càng cao của hoạt động quản lý, tự nó đã tách dần chức năng thanh tra, kiểm tra và hình thành cơ quan chuyên môn để giúp người lãnh đạo, quản lý, đó là các cơ quan thanh tra,

155

kiểm tra. Để thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, đòi hỏi Nhà nước phải trao cho các cơ quan này những quyền hạn nhất định, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quyền hạn ấy phải đảm bảo cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra thực hiện tốt được nhiệm vụ của mình, đây là một yêu cầu bắt buộc, không thể thiếu đối với hoạt động thanh tra nói riêng và các hoạt động quản lý khác nói chung.

Như vậy, xét về mặt lý luận, sự phát sinh các quyền trong hoạt động thanh tra là một yêu cầu không thể thiếu của các cơ quan thanh tra. Các quyền trong hoạt động thanh tra có mối quan hệ mật thiết và biện chứng với chất lượng và kết quả của hoạt động thanh tra, đồng thời các quyền này cũng là một trong những điều kiện cơ bản góp phần đảm bảo sự thành công của hoạt động quản lý.

b) Cơ sở pháp lý

Nghiên cứu các văn bản pháp luật về công tác thanh tra của nước ta từ khi thành lập cơ quan thanh tra đến nay, như: Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt; Sắc lệnh số 138/SL ngày 18 tháng 12 năm 1949 về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ; Sắc lệnh số 261/SL ngày 23 tháng 11 năm 1956 thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ; Nghị định số 165/CP ngày 31 tháng 8 năm 1970 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ; Nghị định số 01/CP ngày 03 tháng 01 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về tổ chức hoạt động của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ; Nghị quyết số 26/HĐBT ngày 15 tháng 02 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Chỉ thị số 38/BBT ngày 20 tháng 02 năm 1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác thanh tra; Pháp lệnh Thanh tra 1990, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra và Luật Phòng, chống tham nhũng cho thấy, bên cạnh các quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra; tuy ở mức độ khác nhau, các văn bản pháp luật nói trên đều quy định khá cụ thể về các quyền trong quá trình thanh tra.

Như vậy, có thể nói rằng, tất cả các quy định về quyền thanh tra trong các văn bản pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng chính là cơ sở pháp lý của các quyền trong quá trình tiến hành thanh tra.

c)

Cơ sở thực tiên

156

Mỗi giai đoạn lịch sử, các quyền về thanh tra được nhà nước quy định khác nhau. Thời Lý (thế kỷ thứ XI), có các quan Gián nghị đại phu thường tháp tùng các cuộc kinh lý của Vua về các vùng thôn dã để xem xét việc quan, việc dân. Đến thời Trần (thế kỷ XIII), có Ngự sử đài - một “cơ quan” có nhiệm vụ quyền hạn khá quan trọng như: quyền can gián Vua, quyền đàn hạc các quan trong triều, quyền xét xử tại chỗ các quan lại lộng hành… Trong các Bộ luật của các triều đại phong kiến sau này như: Bộ luật Hồng đức thế kỷ XV, Bộ Khán tụng điều lệ thế kỷ XVIII cuối thời hậu Lê; Bộ Luật Gia long thế kỷ XIX v.v… đã có những quy định về quyền và trách nhiệm của các quan thanh tra trong quá trình thanh tra và giải quyết khiếu kiện của dân chúng.

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt ngày 23 tháng 11 năm 1945 giao cho những quyền hạn quan trọng như: đình chức, bắt giam, tịch biên, niêm phong, truy tố, đặc biệt là có quyền giải quyết tại chỗ rồi về báo cáo sau. Chính có được những quyền hạn đặc biệt ấy mà trong thời gian ngắn, Ban Thanh tra đặc biệt đã hoàn thành trọng trách của mình, góp phần an dân và củng cố chính quyền non trẻ.

Trải qua hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và quá trình xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tuy tên gọi của tổ chức thanh tra có một số thay đổi, song hoạt động thanh tra luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Đặc biệt là, đã quy định rõ và bổ sung thêm nhiều quyền, tạo điều kiện cho các tổ chức thanh tra làm tốt nhiệm vụ chính trị của mình.

Thực tiễn hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy, hoạt động thanh tra thời gian qua diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, hàng năm ngành Thanh tra đã thực hiện hàng vạn cuộc thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tập trung vào những vấn đề quản lý điều hành vĩ mô của Chính phủ, những vấn đề cấp bách phục vụ cho công tác quản lý của lãnh đạo các cấp, các ngành. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các quyền thanh tra là điều kiện không thể thiếu, là yếu tố quan trọng để các cơ quan thanh tra, cán bộ công chức thanh tra thực hiện tốt nhiệm vụ, góp phần lập lại kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, phát huy dân chủ của nhân dân, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.

3. Phân loại quyền trong hoạt động thanh tra

157

Căn cứ Điều 46, 47, 48, 53, 54, 55 Luật Thanh tra năm 2010 tính chất và tình huống sử dụng quyền trong hoạt động thanh tra, có thể phân thành các loại quyền chủ yếu sau:

a) Quyền yêu cầu

Trong quá trình thanh tra, khi xét thấy cần thiết Thủ trưởng các cơ quan thanh tra, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước mà trực tiếp là người ra quyết định thanh tra; Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được quyền đòi hỏi, yêu cầu đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các thông tin, tài liệu, báo cáo, giải trình... nhằm làm rõ nội dung thanh tra, phục vụ cho việc đánh giá, kết luận cuộc thanh tra. Quyền yêu cầu gồm có:

- Yêu cầu đối tượng thanh tra xuất trình giấy phép, đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề;

- Yêu cầu đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra;

- Yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra;

- Yêu cầu tổ chức tín dụng phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra;

- Trưng cầu giám định về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra.

b) Quyền quyết định

Trong quá trình thanh tra, để đảm bảo cho cuộc thanh tra được tiến hành một cách thuận lợi và đạt kết quả tốt, trong trường hợp cụ thể và cần thiết thì Thủ trưởng các cơ quan nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, Thành viên Đoàn thanh tra và Công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được quyền quyết định buộc đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thi hành. Theo Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành, quyền quyết định bao gồm:

- Quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra;

- Quyết định kiểm kê tài sản của đối tượng thanh tra;

- Quyết định tạm đình chỉ việc làm của đối tượng thanh tra;

158

- Quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật;

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

- Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng Đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra;

- Quyết định đình chỉ, thay đổi Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra;

- Quyết định thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép;

- Quyết định xử lý theo thẩm quyền kết quả thanh tra.

c) Quyền kiến nghị

Trong quá trình thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, Thành viên Đoàn thanh tra và Công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đưa ra các đánh giá, nhận xét, kết luận về nội dung thanh tra, đồng thời kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp xử lý. Theo Luật Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành, quyền kiến nghị bao gồm:

- Kiến nghị đình chỉ việc làm của đối tượng thanh tra;

- Kiến nghị tạm đình chỉ việc thi hành quyết định của đối tượng thanh tra;

- Kiến nghị tạm đình chỉ công tác cán bộ, công chức, viên chức;

- Kiến nghị xử lý kết quả thanh tra;

- Kiến nghị chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra.

d) Quyền kết luận về nội dung thanh tra

Kết luận về nội dung thanh tra là một trong những quyền cơ bản, quan trọng của người ra quyết định thanh tra. Nó phản ánh kết quả của cuộc thanh tra và sự nhận xét, đánh giá, kết luận về nội dung thanh tra của người ra quyết định thanh tra. Đồng thời, qua đó đưa ra các giải pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới nội dung thanh tra.

II. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Trên cơ sở nguyên tắc chung của hoạt động thanh tra, khi sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra cần nắm vững và thực hiện tốt một số nguyên tắc chủ yếu sau:

159

1. Bảo đảm đúng thẩm quyền

Thực hiện đúng thẩm quyền trong hoạt động thanh tra có nghĩa là người sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra không chỉ thực hiện đúng quyền hạn pháp luật quy định mà còn phải làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong quá trình thực thi công vụ. Khi nói đến thẩm quyền là nói đến quyền hạn và trách nhiệm. Trong công tác quản lý nhà nước nói chung và trong hoạt động thanh tra nói riêng, việc sử dụng đúng quyền hạn và làm hết trách nhiệm là một vấn đề có tính nguyên tắc cực kỳ quan trọng mà các cán bộ, công chức nhà nước cũng như Thủ trưởng các cơ quan nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải nắm chắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao để nhanh chóng đạt được mục đích, yêu cầu của hoạt động thanh tra đặt ra. Nó xác định tổ chức, cá nhân nào được sử dụng quyền gì, sử dụng trong trường hợp nào, với những đối tượng nào và sử dụng như thế nào cho đúng pháp luật.

Sử dụng đúng thẩm quyền là chỉ được sử dụng những quyền mà pháp luật cho phép, tránh sự tùy tiện, lạm dụng quyền hạn, vượt quá giới hạn pháp luật cho phép. Đồng thời, nguyên tắc này cũng bắt buộc người có thẩm quyền trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng những quyền mà pháp luật yêu cầu, để tránh sự đùn đẩy, né tránh, dây dưa giữa các cấp, các ngành làm ảnh hưởng tới quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác phòng, chống tham nhũng.

Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi các chủ thể thanh tra phải xác định rõ vị trí, vai trò của mình trong quá trình thanh tra; nắm vững những quyền hạn mà Luật Thanh tra năm 2010, văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật khác quy định. Đồng thời, cũng phải nắm rõ trình tự, thủ tục và cách thức sử dụng các quyền này sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Có như vậy, khi sử dụng các quyền trong hoạt động thanh tra mới nhanh chóng đạt kết quả và tránh sự vi phạm pháp luật.

2. Bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực

Nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho việc sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra được đúng, chính xác, tránh sự chủ quan dẫn đến sự vi phạm pháp luật, gây tâm lý không tốt đến đối tượng thanh tra và ảnh hưởng đến kết quả cuộc thanh tra.

160

Nguyên tắc khách quan đòi hỏi các chủ thể thanh tra, mà trực tiếp là người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra và thành viên Đoàn thanh tra phải biết khi nào sử dụng quyền gì và sử dụng như thế nào cho đúng pháp luật. Để sử dụng một quyền nào đó, phải xác định được, sử dụng quyền đó để làm gì? Việc sử dụng các quyền này không thể tùy thuộc vào ý muốn chủ quan hay ý thích của mình, mà nó phải xuất phát từ yêu cầu, tính chất, nội dung của công việc đòi hỏi hay với từng đối tượng cụ thể.

Trong quá trình làm việc, đòi hỏi các chủ thể thanh tra, đặc biệt là Trưởng đoàn và các thành viên phải trung thực, khách quan, các số liệu thu thập phải đầy đủ, chính xác, đúng sự thật, không phỏng đoán, suy diễn, làm sai lệch bản chất vấn đề.

Khi nhận xét, đánh giá, kết luận một vấn đề, phải xem xét một cách toàn diện và phải đặt trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, phải có cái nhìn biện chứng, xem xét theo quan điểm phát triển, tránh dập khuôn, máy móc… Có như vậy, chúng ta mới nhìn sự việc được khách quan, chính xác, mới thấy rõ được thực chất hoạt động của đối tượng thanh tra và đưa ra được những nhận xét, đánh giá đúng đắn, chính xác… Trên cơ sở đó, chủ thể thanh tra mới đưa ra được những giải pháp phù hợp, đủ sức thuyết phục cả đối tượng thanh tra lẫn người có thẩm quyền và công luận, báo chí...

Để thực hiện nguyên tắc này, yêu cầu các chủ thể thanh tra phải có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật, về ngành, lĩnh vực mà mình thanh tra và đặc biệt là về nghiệp vụ công tác thanh tra. Cụ thể, Trưởng đoàn thanh, các Thanh tra viên phải có đủ những tiêu chuẩn mà pháp luật quy định. Trước khi đi thanh tra, ngoài việc nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra, người đi thanh tra còn phải nghiên cứu kỹ, nắm vững các văn bản pháp luật, các văn bản quản lý cũng như đặc điểm tình hình của ngành, lĩnh vực mà mình thanh tra... Có như vậy, khi thực hiện nhiệm vụ mới không bị tản mạn, chệch hướng và nhanh chóng đạt kết quả tốt.

3. Bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời

Nguyên tắc này vừa bảo đảm tính hợp pháp của hoạt động thanh tra, vừa là phương thức thực hiện quyền dân chủ trong hoạt động kiểm tra, giám sát. Đồng thời, nó có tác dụng giáo dục, thuyết phục đối tượng thanh tra hiểu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung của cuộc thanh tra, từ đó họ tự nguyện, tự giác cộng tác với Đoàn thanh tra, chấp hành tốt các yêu cầu, kiến nghị của Đoàn thanh tra. Mặt khác, nguyên tắc này còn động viên quần chúng tích cực tham gia giám sát, phát hiện,

161

đấu tranh với những sai trái, tiêu cực, chống tham ô, lãng phí… góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra và phòng, chống tham nhũng.

Thứ nhất, thực hiện nguyên tắc công khai, dân chủ, trước hết phải được thực hiện ngay trong nội bộ Đoàn thanh tra. Mọi hoạt động của Đoàn đều phải được chuẩn bị, bàn bạc dân chủ, thống nhất và chuẩn bị trước khi thực hiện. Khi đánh giá, kết luận, nếu nội dung nào chưa thống nhất thì Trưởng đoàn phải quyết định và các thành viên phải chấp hành; nhưng các thành viên vẫn được quyền bảo lưu ý kiến và Trưởng đoàn phải báo cáo với người ra quyết định thanh tra.

Thứ hai, công khai với đối tượng thanh tra về mục đích, yêu cầu và nội dung cuộc thanh tra; Đồng thời thống nhất với đơn vị về lịch làm việc và biện pháp tổ chức thực hiện. Đối với từng vụ việc cụ thể, khi sử dụng một quyền nào đó cần phải có kế hoạch, thông báo trước cho đối tượng hoặc những người có liên quan để tổ chức thực hiện (trừ những trường hợp phải giữ bí mật). Khi thông báo, cần nêu rõ nội dung làm việc, thời gian, địa điểm thực hiện hoặc các tài liệu, sổ sách kèm theo. Trong quá trình làm việc, mọi người phải được tôn trọng, bình đẳng, được trình bày rõ quan điểm của mình hoặc giải trình những vấn đề mà họ thấy chưa thoả đáng… Đồng thời, họ cũng được bảo lưu các ý kiến của mình hoặc khiếu nại các nhận xét, kết luận của Đoàn với người ra quyết định thanh tra...

Thứ ba, với các cơ quan chuyên môn cũng cần phải thực hiện việc công khai, dân chủ và khi thực hiện, cũng có thể có nhiều phương thức. Trong các trường hợp cần thiết, khi cần nhận xét, đánh giá, kết luận hoặc thực hiện một công việc nào đó liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật như: đánh giá chất lượng tài sản trong kiểm kê, xác định chữ ký giả hay thật trong các văn bản, hợp đồng hoặc kết luận về xây dựng cơ bản hay trong tài chính, ngân hàng... thì chủ thể thanh tra có thể trưng cầu giám định, tổ chức lấy ý kiến tư vấn hoặc mời họ cùng tham gia...

Thứ tư, về hình thức công khai, dân chủ, có thể có nhiều hình thức, tùy theo từng trường hợp cụ thể để chọn những hình thức thích hợp. Có những nội dung cần công khai rộng rãi, có những nội dung chỉ thông báo trong phạm vi hẹp, có nội dung cần công khai ngày đầu, nhưng cũng có nội dung kết thúc mới công khai… Vì vậy, tùy từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể, người đi thanh tra hay Người ra quyết định thanh ra vận dụng cho phù hợp.

Đối với những quyền có tính chất cưỡng chế hoặc ngăn ngừa, như: quyền niêm phong tài liệu, quyền kiểm kê tài sản… thì không thể thông báo trước và khi thực hiện, phải lập biên bản để bảo đảm tính khách quan và hợp pháp.

162

4. Không làm cản trơ đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra

Thực tế, trong hoạt động thanh tra, nếu các chủ thể thanh tra có trình độ hạn chế, thiếu kinh nghiệm trong thực tiễn và đặc biệt là chưa có kiến thức về nghiệp vụ thanh tra thì khi sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng.

Để thực hiện tốt nguyên tắc này, trong quá trình thanh tra, người sử dụng quyền cần thực hiện tốt các công việc sau:

- Trước khi sử dụng quyền phải có sự chuẩn bị chu đáo, có kế hoạch hay lịch làm việc cụ thể. Nếu không phải giữ bí mật thì thông báo trước cho đối tượng thanh tra rõ về thời gian, địa điểm, nội dung làm việc… Có trường hợp, cần tìm hiểu hay thống nhất với đối tượng trước khi thực hiện, để họ có thể chủ động thu xếp công việc, chuẩn bị thông tin, tài liệu làm việc cho hiệu quả hơn.

- Khi làm việc với đối tượng, nếu họ gặp những trở ngại, khó khăn khách quan hay công việc quan trọng đột xuất... nếu thấy cần thiết, có thể điều chỉnh lịch làm việc hoặc tìm các giải pháp khắc phục để tạo điều kiện cho đối tượng khắc phục sự cố, hoàn thành được nhiệm vụ của họ...

- Trong quá trình thanh tra, nhất là khi nhận xét, đánh giá, kết luận hoặc khi phát hiện đối tượng thanh tra có những hành vi vi phạm... các chủ thể thanh tra cần phải thực hiện nghiêm “Các hành vi bị nghiêm cấm” ghi trong Điều 13 của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật khác, tuyệt đối không được gây khó dễ, gợi ý hay đe doạ, vòi vĩnh đối tượng thanh tra…

Thực tế trong hoạt động thanh tra cho thấy, khi sử dụng các quyền đúng nguyên tắc sẽ bảo đảm cho hoạt động thanh tra đúng pháp luật, nhanh chóng đạt được mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra đặt ra, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc thanh tra... Vì vậy, Trưởng Đoàn thanh tra và các thành viên Đoàn thanh tra khi sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra phải hết sức thận trọng, bảo đảm đúng nguyên tắc của hoạt động thanh tra.

III. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Để thực hiện các quyền trong hoạt động thanh tra được nhanh chóng, đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao, về cơ bản khi thực hiện một quyền nào đó cần thực hiện theo trình tự, thủ tục sau:

163

1. Công tác chuẩn bị

Để sử dụng quyền trong quá trình thanh tra đạt hiệu quả, bắt bộc phải có công tác chuẩn bị. Việc chuẩn bị không nên hiểu là phải soạn thảo thành công văn, kế hoạch… mà cái chính là “chuẩn bị” để tính toán, dự liệu xem sử dụng quyền đó như thế nào cho đạt hiệu quả nhất.

Để chuẩn bị sử dụng một quyền, cần xác định rõ: mục đích sử dụng quyền ấy để làm gì, nội dung của nó gồm những vấn đề gì, cách thức tổ chức hay biện pháp thực hiện ra sao, khi nào thực hiện và thực hiện trong bao lâu, các tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện quyền đó? Tức là phác thảo ra một kế hoạch, cách thức thực hiện quyền đó.

Trên thực tế, đối với từng loại quyền khác nhau sẽ có cách chuẩn bị khác nhau và trong những trường hợp khác nhau cũng sẽ có cách chuẩn bị khác nhau. Có trường hợp chỉ cần chuẩn bị trong “tư duy”, phải tổ chức thực hiện ngay như quyền tạm đình chỉ hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra. Có những trường hợp không chỉ chuẩn bị trong tư duy mà còn phải chuẩn bị bằng những hành động thực tế như: soạn thảo công văn, tài liệu, báo cáo cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan hữu quan. Ví dụ: quyền yêu cầu cử người tham gia cuộc thanh tra, quyền trưng cầu giám định, quyền kết luận, kiến nghị, quyền chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra… Có những quyền trước khi thực hiện cần phải thảo luận lấy ý kiến của các thành viên như quyền báo cáo kết quả cuộc thanh tra. Do vậy, tuỳ từng quyền và điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà vận dụng cho thích hợp.

2. Trình tự, thủ tục thực hiện một số quyền của người ra quyết định thanh tra và Trương đoàn thanh tra

Theo Luật Thanh tra 2010, trong quá trình thanh tra, khi xét thấy cần thiết Thủ trưởng các cơ quan thanh tra, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước mà trực tiếp là người ra quyết định thanh tra; Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và người được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được quyền đòi hỏi, yêu cầu đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các thông tin, tài liệu, báo cáo, giải trình... nhằm làm rõ nội dung thanh tra, phục vụ cho việc đánh giá, kết luận cuộc thanh tra. Tuy nhiên, để tránh trùng lặp với các chương trình khác, trong phạm vi của chương trình này chúng tôi chỉ đề cập đến một số quyền mà người ra quyết định thanh tra và Trưởng Đoàn thanh tra thường sử dụng. Dưới đây là trình tự, thủ tục thực hiện một số quyền đó.

a) Thực hiện quyền trưng cầu giám định

164

Trong hoạt động thanh tra, trưng cầu giám định là việc làm rõ những tình tiết của sự việc, sự vật hoặc một hành vi, tài liệu nào đó thông qua việc sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại kết hợp với kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp của giám định viên để đánh giá, kết luận về chuyên môn, kỹ thuật làm cơ sở cho những nhận xét, đánh giá, kết luận về nội dung thanh tra.

Thực tế, trong quá trình thanh tra, có những hành vi, sự việc liên quan đến vấn đề chuyên môn hoặc kỹ thuật, Đoàn thanh tra không thể đánh giá, kết luận được, như: thuốc thật hay giả, chữ ký thật hay giả, chất lượng công trình xây dựng... Vì vậy, để đảm bảo cho việc đánh giá, kết luận của Đoàn thanh tra được chính xác, khách quan và đúng pháp luật thì Trưởng Đoàn thanh tra phải đề nghị Người ra quyết định thanh tra trưng cầu giám định. Việc trưng cầu giám định phải bằng văn bản, ghi rõ yêu cầu, nội dung, thời gian thực hiện, cơ quan, tổ chức giám định (theo mẫu công văn số 26).

Để tiến hành trưng cầu giám định, Đoàn thanh tra cần phải chuẩn bị các thông tin, tài liệu, vật chứng hoặc lấy mẫu để giám định. Khi lấy mẫu, cần phải bảo đảm tính chính xác, khách quan, công khai và đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, tại một địa phương cũng có thể có những cơ quan có thẩm quyền giám định, vậy vấn đề đặt ra là, lựa chọn cơ quan nào và dựa theo tiêu chí nào? Việc lựa chọn cơ quan nào là căn cứ vào từng đối tượng và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể (trừ pháp luật có quy định cụ thể) và dựa trên một số các tiêu chí cơ bản sau: trình độ của giám định viên, phương tiện máy móc thiết bị giám định và kinh phí giám định.

Khi tổ chức thực hiện cần phải làm hợp đồng giám định, giao nhận các thông tin, tài liệu cần thiết hay các vật chứng để cung cấp cho cơ quan giám định và phải làm biên bản giao nhận theo mẫu biên bản số 15.

Trong quá trình giám định cần theo dõi, đôn đốc tiến độ giám định để đảm bảo về mặt thời gian, nhưng tuyệt đối không được can thiệp vào hoạt động chuyên môn và kết quả giám định.

Kết thúc việc giám định, khi giao nhận kết quả giám định cũng phải lập biên bản. Biên bản giao nhận, gồm hai phần cơ bản: Kết luận giám định và các tài liệu liên quan tới kết luận giám định hoặc những tài liệu đã cung cấp cho cơ quan giám định. Khi thu nhận kết quả giám định hoặc trong quá trình khai thác, sử dụng kết quả giám định, nếu xét thấy chưa đáp ứng yêu cầu đã đặt ra hoặc thấy kết quả giám định chưa chính xác, không phù hợp với thực tế khách quan… thì có thể đề nghị cơ

165

quan, đơn vị đã giám định hoặc cơ quan đơn vị khác giám định lại. Những tài liệu về việc trưng cầu và kết quả giám định đều được lưu vào hồ sơ cuộc thanh tra.

b) Yêu cầu tổ chức tín dụng phong toả tài khoản của đối tượng thanh tra

Trong quá trình thanh tra, khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra có hành vi tẩu tán tài sản hoặc không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của người ra quyết định thanh tra hoặc của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì Người ra quyết định thanh tra yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản, phong tỏa tài khoản để phục vụ việc thanh tra.

Văn bản yêu cầu phong tỏa tài khoản của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra phải nêu rõ mục đích phong tỏa, đối tượng có tài khoản bị phong tỏa, thời điểm, thời gian phong tỏa; trách nhiệm thực hiện của tổ chức tín dụng.

Tổ chức tín dụng nơi có tài khoản của đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện kịp thời, đầy đủ theo yêu cầu của Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng Đoàn thanh tra và phải báo cáo bằng văn bản về việc thực hiện phong tỏa tài khoản với người có văn bản yêu cầu phong tỏa.

Khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản thì Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng Đoàn thanh tra phải ra quyết định huỷ bỏ việc áp dụng biện pháp đó.

c) Quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép

Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện các khoản tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật cần phải ngăn chặn hoặc để xác minh làm rõ cho việc kết luận, xử lý thì Trưởng đoàn kiến nghị người ra quyết định thanh tra ra quyết định tạm giữ.

Để thực hiện quyền tạm giữ, cũng cần phải xác định giao cho ai quản lý tiền, đồ vật đó? Đối với tiền thì yêu cầu đối tượng nộp vào tài khoản của cơ quan chủ trì tiến hành cuộc thanh tra. Đối với các tài sản thông thường có thể giao cho đối tượng tự quản lý, đối với những tài sản đặc biệt thì giao cho cơ quan chức năng quản lý. Quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép phải bằng văn bản, trong đó ghi rõ tiền, đồ vật, giấy phép bị tạm giữ, thời gian tạm giữ, trách nhiệm của người ra quyết định tạm giữ, nghĩa vụ của đối tượng có tiền, đồ vật, giấy phép tạm giữ. Việc tạm giữ phải được lập thành biên bản.

166

Sau khi tạm giữ, Đoàn thanh tra phải khẩn trương xác minh làm rõ các khoản tiền, đồ vật hay giấy phép đã tạm giữ và báo cáo người ra quyết định thanh tra có hướng chỉ đạo giải quyết. Những khoản tiền, đồ vật hay giấy phép sau khi xác minh thấy không có sai phạm hoặc không cần thiết phải tạm giữ thì người đã ra quyết định tạm giữ phải ra quyết định hủy bỏ ngay biện pháp tạm giữ đó. Đối với những tài sản không thể xác minh được nguồn gốc hoặc đã có đủ căn cứ kết luận có sự vi phạm pháp luật thì kiến nghị người ra quyết định thanh tra xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình tạm giữ, nếu phát hiện đối tượng có hành vi tẩu tán tài sản thì Trưởng Đoàn thanh tra yêu cầu tổ chức tín dụng nơi có tài khoản của đối tượng thanh tra phong toả tài khoản đó, buộc đối tượng phải chấp hành nghiêm việc tạm giữ.

Khi xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp tạm giữ thì người ra quyết định tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép phải ra quyết định hủy bỏ ngay biện pháp đó.

d) Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc làm

Trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra, nếu phát hiện thấy cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra có những việc làm sai chế độ, chính sách; vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội; lạm dụng quyền hạn hoặc cố tình không thực hiện trách nhiệm… đang hoặc sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thì Trưởng Đoàn thanh tra hoặc người ra quyết định thanh tra ra quyết định tạm đình chỉ hành vi đó. Trong trường hợp cần thiết như phát hiện đối tượng chiếm đoạt tài sản, trốn thuế, buôn lậu, kinh doanh trái phép, tuyên truyền văn hoá đồi trụy v.v… thì Trưởng đoàn hoặc người ra quyết định thanh tra phải kiến nghị với người có thẩm quyền (theo mẫu công văn số 28), ra quyết định đình chỉ ngay việc làm đó.

Để xác định ai là người có thẩm quyền đình chỉ việc làm trên, về nguyên tắc, trước hết phải xem việc làm đó, ai là người quyết định - ai là người ra mệnh lệnh để thực hiện việc làm đó; Thứ hai, việc làm đó thuộc lĩnh vực nào và do cơ quan nào quản lý? Cụ thể, để đình chỉ việc làm sai của đối tượng thanh tra, thì trước hết, yêu cầu thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó đình chỉ; nếu họ không thực hiện, theo thứ bậc về hành chính thì kiến nghị cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra hoặc kiến nghị với người do pháp luật quy định cụ thể trong từng lĩnh vực.

Quyết định tạm đình chỉ phải bằng văn bản (theo mẫu quyết định số 06), ghi rõ lý do, nội dung hoặc thời hạn tạm đình chỉ, trách nhiệm, nghĩa vụ của người có

167

hành vi vi phạm… Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ đều phải được lưu vào hồ sơ cuộc thanh tra để làm căn cứ kết luận về nội dung thanh tra.

Khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp đình chỉ hoặc tạm đình chỉ, người đã ra quyết định phải ra quyết định hủy bỏ ngay biện pháp đã đình chỉ hoặc tạm đình chỉ (theo mẫu quyết định số 07), để đối tượng thanh tra trở lại hoạt động bình thường.

e) Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Trong quá trình thanh tra chuyên ngành, khi phát hiện đối tượng thanh tra có hành vi vi phạm, tùy theo mức độ xử phạt và thẩm quyền xử phạt mà có thể xử phạt trực tiếp hoặc lập biên bản theo mẫu quy định để làm cơ sở cho việc xử phạt.

Khi tiến hành thanh tra, theo Luật Thanh tra và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, những người sau đây có thẩm quyền xử phạt: người ra quyết định thanh tra chuyên ngành (Chánh Thanh tra), Trưởng Đoàn thanh tra chuyên ngành (Chánh Thanh tra, Thanh tra viên), Thanh tra viên khi tiến hành thanh tra độc lập, Công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành và người có thẩm quyền. Để xác định xem ai là người có thẩm quyền thì phải căn cứ vào từng hành vi vi phạm cụ thể thuộc lĩnh vực nào, thẩm quyền xử phạt và mức độ xử phạt.

Về hình thức xử phạt, đối với mỗi hành vi vi phạm, có hai hình thức là cảnh cáo hoặc phạt bằng tiền. Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn có thể bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt bổ sung như: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm...

f) Quyết định thu hồi tiền, tài sản

Theo Luật Thanh tra, khi có căn cứ kết luận những khoản tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát thì người đã ra quyết định cuộc thanh tra phải ra quyết định thu hồi.

Theo quy định trên, trong quá trình thanh tra hoặc khi kết thúc cuộc thanh tra, nếu Đoàn thanh tra có đủ căn cứ kết luận đối tượng thanh tra có sự vi phạm về chế độ quản lý kinh tế tài chính như: tham ô, lập quỹ trái phép, trốn lậu thuế, khai khống chi tiêu, những khoản tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái pháp luật… Trưởng Đoàn thanh tra phải kiến nghị với người ra quyết định cuộc thanh tra ra quyết định thu hồi.

168

Khi nhận được những kiến nghị này, người đã ra quyết định thanh tra căn cứ vào thẩm quyền, chức năng và quy định của pháp luật để ra quyết định thu giữ hoặc giao cho cơ quan chức năng thu giữ. Nội dung của quyết định phải ghi rõ khoản tiền, tài sản bị thu hồi, thời gian thực hiện, trách nhiệm của cơ quan thực hiện và trách nhiệm của đối tượng thanh tra (theo mẫu quyết định số 11 hoặc 12).

Trong thực tế, các yêu cầu, kiến nghị hay quyết định của các cơ quan thanh tra không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để. Vì vậy, người ra quyết định thanh tra hoặc người được uỷ quyền phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện. Nếu đối tượng thanh tra không thực hiện quyết định thu hồi tiền tài sản thì Người ra quyết định thanh tra yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.

g) Quyết định đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn, thành viên Đoàn thanh tra

Trong quá trình thanh tra khi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra hoặc có hành vi vi phạm pháp luật (Điều 76, Luật Thanh tra) hoặc là người thân thích với đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể thực hiện được nhiệm vụ thanh tra thì người ra quyết định phải đình chỉ, thay đổi, hoặc bổ sung Trưởng đoàn thanh tra hoặc các thành viên khác của Đoàn thanh tra.

Để thực hiện quyền này, có thể người ra quyết định thanh tra tự mình nhận thấy Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra có biểu hiện hay dấu hiệu vi phạm hoặc Trưởng đoàn phát hiện có thành viên Đoàn thanh tra có dấu hiệu vi phạm hoặc do đối tượng thanh tra tố cáo… thì người ra quyết định thanh tra cần phải yêu cầu những người đó báo cáo, giải trình và cho tiến hành thẩm tra, xác minh. Khi có đầy đủ căn cứ, thông tin, tài liệu chính xác, kết luận người đó có hành vi vi phạm hoặc không đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ… thì người ra quyết định thanh tra mới quyết định việc đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra hoặc thành viên Đoàn thanh tra.

Việc đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra phải thực hiện bằng văn bản; tùy từng trường hợp cụ thể có thể dùng các mẫu quyết định số 03, 04 hoặc 05.

169

h) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra

Xem các chuyên đề: Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại và thủ tục giải quyết tố cáo.

i) Kiến nghị tạm đình chỉ thi hành quyết định của đối tượng thanh tra

Thi hành kỷ luật đối với cán bộ có sai phạm, quyết định thuyên chuyển công tác hoặc cho cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị nghỉ hưu là việc làm bình thường trong hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, ngoại trừ yếu tố chủ quan của đối tượng thanh tra thì ngay những việc làm bình thường này, cũng có thể gây trở ngại cho việc thanh tra, nếu như các cán bộ, nhân viên này đang là người cộng tác với Đoàn thanh tra hoặc là đối tượng thanh tra. Do vậy, theo Luật Thanh tra, trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra, nếu những người đang cộng tác với Đoàn thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra mà bị thủ trưởng cơ quan đơn vị ra quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác khác hoặc cho nghỉ hưu thì người ra quyết định thanh tra, kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó, nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra.

Khi kết thúc cuộc thanh tra hoặc khi xét thấy việc tạm đình chỉ không cần thiết thì người đã ra quyết định tạm đình chỉ, ra quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ đó. Các quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác hoặc nghỉ hưu; quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ đều phải lưu vào hồ sơ cuộc thanh tra.

k) Kiến nghị tạm đình chỉ công tác và xử lý cán bộ, công chức, viên chức

Để đảm bảo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thanh tra, theo Luật Thanh tra, khi thấy các cán bộ, công chức có hành vi cố ý gây cản trở việc thanh tra hoặc cố tình không thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra thì người ra quyết định thanh tra kiến nghị với người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức đó. Đây là một trong những quyền có tính cưỡng chế cao, dễ ảnh hưởng đến uy tín, lợi ích kinh tế của các cán bộ, công chức hoặc của cơ quan, đơn vị đó. Do vậy, khi thực hiện quyền này phải thận trọng, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền pháp luật quy định.

Trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra, nếu phát hiện các cán bộ, công chức, cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng thanh tra hay là đối tượng có liên quan tới những hành vi bị nghiêm cấm thì người ra quyết định thanh tra kiến nghị với người

170

có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác hoặc tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trong thực tế, việc tạm đình chỉ công tác hoặc xử lý cán bộ, công chức chỉ tiến hành sau khi Đoàn thanh tra đã nhắc nhở, ngăn chặn nhưng đối tượng vẫn vi phạm hoặc có những hành vi nghiêm trọng hơn. Khi gặp những tình huống này, Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra. Căn cứ vào đối tượng và quy định về phân cấp quản lý cán bộ, người ra quyết định thanh tra kiến nghị người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ công tác hoặc xử lý cán bộ, công chức đó.

Quá trình thực hiện quyết định tạm đình chỉ công tác cán bộ, công chức, Trưởng Đoàn thanh tra hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện, nhằm làm cho hoạt động thanh tra được thuận lợi đồng thời cũng không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị có cán bộ, công chức bị tạm đình chỉ. Khi xét thấy việc tạm đình chỉ công tác không còn cần thiết nữa, hoặc chậm nhất là khi kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra phải báo cáo để người đã ra quyết định tạm đình chỉ ra quyết định chấm dứt việc tạm đình chỉ.

l) Thực hiện quyền kết luận thanh tra

Kết luận là một trong những quyền cơ bản, quan trọng trong hoạt động thanh tra. Quyền kết luận thường được sử dụng tập trung ở giai đoạn kết thúc cuộc thanh tra và được thể hiện chủ yếu ở báo cáo kết quả cuộc thanh tra và kết luận thanh tra. Về mặt pháp lý, kết luận thanh tra là quyền của người ra quyết định thanh tra, nhưng về mặt thực tế, Trưởng Đoàn thanh tra hoặc các thành viên Đoàn thanh tra phải kết luận rõ từng nội dung thanh tra và đề xuất các giải pháp xử lý để làm cơ sở cho Người ra quyết định thanh tra hiện quyền kết luận. Khi kết luận, chủ thể thanh tra phải căn cứ vào những thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra; các chế độ, chính sách, quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của đối tượng thanh tra… để xem xét, kết luận cho chính xác, khách quan, trung thực và đưa ra được các giải pháp xử lý thích hợp.

Yêu cầu đặt ra khi kết luận, chủ thể thanh tra phải kết luận rõ đúng, sai về những nội dung được thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm; nguyên nhân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân và đưa ra các giải pháp xử lý thích hợp. Nội dung và kết cấu của báo cáo Kết luận thanh tra thực hiện theo mẫu số 23.

171

Các giải pháp xử lý thường tập trung chủ yếu vào đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới nội dung thanh tra; cơ quan cấp trên của đối tượng thanh tra và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nội dung của các giải pháp xử lý, trước hết tập trung vào việc khắc phục những sơ hở, yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý. Thứ hai, xử lý các hành vi vi phạm bằng các hình thức về kinh tế, hành chính, hình sự hoặc kết hợp giữa các hình thức đó. Thứ ba, kiến nghị với Đảng, Nhà nước để sửa đổi cơ chế quản lý và chính sách, pháp luật...

Về trình tự, thủ tục thực hiện, mỗi tổ, nhóm hoặc từng cá nhân phải nhận xét, đánh giá và kết luận những nội dung hoặc những phần việc mà mình được giao và phải đề xuất các giải pháp xử lý. Trên cơ sở đó, Trưởng Đoàn thanh tra tổng hợp, viết dự thảo Báo cáo kết quả cuộc thanh tra. Khi viết xong dự thảo, Trưởng đoàn phải tổ chức họp Đoàn để thảo luận, thống nhất về nội dung báo cáo hoặc yêu cấu đối tượng thanh tra giải trình về một nội dung nào đó (nếu thấy cần thiết). Nếu trong Đoàn còn có ý kiến khác nhau thì Trưởng đoàn phải xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; đồng thời, Trưởng đoàn phải ghi rõ những ý kiến khác nhau này trong Báo cáo kết quả thanh tra. Khi Trưởng đoàn đã quyết định, các thành viên phải chấp hành nhưng được quyền bảo lưu ý kiến của mình đối với Người ra quyết định thanh tra.

Khi nhận được Báo cáo kết quả cuộc thanh tra, trong vòng 15 ngày (kể từ khi nhận được báo cáo), người ra quyết định thanh tra phải ban hành Kết luận thanh tra. Để soạn thảo Kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có thể tự soạn thảo hoặc giao cho Trưởng đoàn dự thảo. Trong quá trình dự thảo, Người ra quyết định thanh tra có thể yêu cầu Trưởng đoàn hoặc các thành viên báo cáo rõ thêm về nội dung thanh tra; vấn đề nào chưa rõ hoặc chưa chặt chẽ, người ra quyết định thanh tra có thể yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết cho kết luận thanh tra...

Kết luận thanh tra cần phải phản ánh đầy đủ, làm rõ các nội dung đã ghi trong quyết định và kế hoạch thanh tra, trong đó phải nêu bật những nội dung chủ yếu, trọng tâm của cuộc thanh tra và kết luận rõ về những nội dung đó cũng như các giải pháp xử lý của Người ra quyết định. Nội dung và kết cấu của Kết luận thanh tra thực hiện theo mẫu số 24. Trước khi kết luận chính thức, nếu xét thấy cần thiết, người ra quyết định thanh tra có thể gửi dự thảo Kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra xem trước để kết luận của mình được chính xác, khách quan và đúng mức...

Kết luận và các giải pháp xử lý trong thanh tra là sản phẩm của quá trình thanh tra, là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các

172

quyết định xử lý, hoàn thiện cơ chế quản lý, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế. Nội dung kết luận, giải pháp xử lý về thanh tra có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra. Mặt khác, kết luận, giải pháp xử lý về thanh tra cũng là tiêu chuẩn để nhận xét, đánh giá chất lượng của cuộc thanh tra nói chung và khả năng thực hiện nhiệm vụ của Trưởng Đoàn thanh tra, các Thanh tra viên nói riêng. Vì vậy, khi thực hiện việc kết luận thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra hoặc Người ra quyết định thanh tra phải hết sức thận trọng, khách quan, thực hiện đúng các nguyên tắc trong quá trình thanh tra nhưng cũng không được dập khuôn, máy móc, xa rời thực tế và đặc biệt không để tình cảm, vật chất chi phối...

m) Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra

Theo Luật Thanh tra năm 2010 và Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP ngày 22/3/2012 quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ quan Thanh tra, cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan Thanh tra kiến nghị khởi tố: Trong quá trình thanh tra hoặc khi kết thúc thanh tra, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan thanh tra (người ra quyết định thanh tra) phải chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan điều tra, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát cùng cấp biết.

Để chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra được chặt chẽ và đúng pháp luật cần thực hiện như sau: khi phát hiện vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu cấu thành tội phạm (xem Bộ luật Tố tụng hình sự) thì tùy theo từng trường hợp cụ thể, cơ quan Thanh tra phải chuyển cho cơ quan Điều tra theo Điều 3 hoặc Điều 4 của Thông tư này. Đồng thời, thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát cùng cấp biết theo quy định tại Điều 48 và Điều 55 của Luật Thanh tra.

Khi chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra, người ra quyết định thanh tra phải thực hiện bằng văn bản (theo mẫu công văn số 27) và chỉ đạo việc bàn giao hồ sơ vụ việc. Việc giao nhận hồ sơ giữa cơ quan Thanh tra và cơ quan Điều tra phải lập thành biên bản (theo mẫu biên bản số 21).

Hồ sơ kiến nghị khởi tố gồm có:

- Văn bản kiến nghị cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án hình sự

- Quyết định thanh tra; biên bản xác minh sự việc có vi phạm pháp luật do Đoàn thanh tra, Thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra

173

chuyên ngành lập; báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra; những thông tin, tài liệu khác có liên quan.

- Báo cáo của Trưởng đoàn thanh tra về những vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra có dấu hiệu tội phạm hoặc bản trích văn bản kết luận thanh tra về vụ việc vi phạm pháp luật mà cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố.

Khi nhận được hồ sơ vụ việc, trong thời hạn 20 (hai mươi) ngày hoặc tối đa 60 (sáu mươi) ngày đối với vụ việc phức tạp, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cơ quan điều tra phải ra một trong các quyết định sau đây:

- Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

- Quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Nếu quá thời hạn trên, mà cơ quan thanh tra không nhận được thông báo bằng văn bản về việc xử lý thì có quyền kiến nghị với Viện Kiểm sát cùng cấp và cơ quan điều tra cấp trên xem xét, giải quyết.

IV. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUYỀN TRONG

HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Sử dụng các quyền thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao là đặc trưng cơ bản của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, để nâng cao kết quả thực hiện các quyền hạn đó, ngoài các “chế tài” quy định trong các văn bản pháp luật cần có các biện pháp bảo đảm để thực hiện. Thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy, các biện pháp bảo đảm thực hiện là yêu cầu cần thiết và có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả, hiệu lực các quyền thanh tra. Để đảm bảo thực hiện các quyền thanh tra, cần làm tốt các biện pháp sau đây:

1. Về nghiệp vụ

Một là, phải thực hiện đúng thẩm quyền; các quyền đưa ra phải đúng lúc, đúng chỗ, nội dung của chúng phải phục vụ đúng mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra. Việc thực hiện đúng thẩm quyền và nội dung các quyền phù hợp với mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra có tác dụng thiết thực, tạo được lòng tin, tránh được sự hoài nghi, do dự từ phía người thực hiện. Trên thực tế không ít trường hợp đối tượng có trách nhiệm thực hiện cho rằng, một số quyền sử dụng chưa đúng mục đích, chưa chính xác, khách quan… nên họ không có trách nhiệm phải đáp ứng. Do vậy, trong quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra cần thực hiện tốt nguyên tắc công khai, dân chủ; chú trọng việc giải thích cho đối tượng thanh tra

174

hoặc đối tượng có liên quan đến nội dung thanh tra hiểu được nghĩa vụ của họ trong việc chấp hành các yêu cầu của người có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra.

Hai là, các quyền hạn về thanh tra phải thực hiện bằng văn bản, đúng thể thức, đúng trình tự, thủ tục; văn bản thực hiện quyền phải nêu rõ tên cơ quan thanh tra, tên và chức danh của người có thẩm quyền, loại quyền hạn, tên chức danh của đối tượng có trách nhiệm thực hiện, thời gian phải thực hiện … Việc thực hiện các quyền thanh tra bằng văn bản, đúng thể thức và trình tự, thủ tục sẽ làm tăng sự chặt chẽ và tính nghiêm minh của các quyền hạn được đưa ra, tạo cho đối tượng phải thực hiện, không có lý do để trì hoãn hoặc từ chối thực hiện.

Ba là, các quyền đưa ra phải đảm bảo tính “khả thi”, phù hợp với khả năng thực hiện của đối tượng, phù hợp với tình hình thực tế nhưng vẫn phải đáp ứng được yêu cầu đặt ra về mặt nội dung, tiến độ của cuộc thanh tra. Trong việc thu thập thông tin, tài liệu, cần phải xác định trước mục đích cần khai thác thông tin gì, có thể sử dụng các báo cáo, tài liệu đã có sẵn của đối tượng hay phải xây dựng đề cương báo cáo, biểu bảng số liệu mới…để từ đó có yêu cầu hợp lý. Đây là cách làm “khôn ngoan”, tạo cho việc sử dụng các quyền thanh tra được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả cao.

2. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các quyền thanh tra

Việc kiểm tra, đôn đốc các đối tượng thực hiện các quyền thanh tra là một việc làm không thể thiếu của công tác quản lý và là một biện pháp quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện các quyền thanh tra. Để thực hiện biện pháp này cần có sự nỗ lực và sự phối hợp chặt chẽ giữa người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra và các thành viên của Đoàn thanh tra.

a) Đối với người ra quyết định thanh tra

Với cương vị là người lãnh đạo, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm vừa phải theo dõi hướng dẫn, chỉ đạo Đoàn thanh tra thực hiện đúng các quyền trong quá trình thanh tra; vừa phải tổ chức việc kiểm tra, đôn đốc đối tượng thanh tra và các cơ quan hữu quan nghiêm chỉnh thực hiện những yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định thực hiện.

Thông qua công tác kiểm tra để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc hoặc xử lý kịp thời những thiếu sót trong quá trình thực hiện quyền của Trưởng Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên; xử lý hoặc kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý kịp thời các trường hợp đối tượng thanh tra hoặc các cơ quan hữu quan cố tình không

175

thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc các yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định về thanh tra.

b) Đối với Đoàn Thanh tra và Thanh tra viên

Trưởng Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên là người trực tiếp đưa ra các yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định trong quá trình thanh tra và chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyết định của mình. Trong quá trình thực hiện cuộc thanh tra, hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ đặc điểm, tình hình và khả năng thực hiện các quyền này của đối tượng. Do đó, nên giao cho họ giúp người ra quyết định thanh tra giám sát, kiểm tra, đôn đốc đối tượng thực hiện các yêu cầu, kiến nghị hay quyết định về thanh tra. Vấn đề nào phải thông qua thủ trưởng cơ quan thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước hoặc các cơ quan liên quan thì phải kiến nghị kịp thời, đôn đốc thúc đẩy các bên hữu quan tổ chức thực hiện. Quá trình kiểm tra, phát hiện vấn đề nào không được thực hiện, hoặc vì lý do nào đó mà không thể thực hiện được thì phải kịp thời xử lý hoặc báo cáo ngay với người có thẩm quyền xử lý, tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi” ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả các quyền thanh tra

3. Tăng cường phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Trong quá trình tổ chức thực hiện các quyền thanh tra, phát sinh nhiều vấn đề liên quan hoặc thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác, đòi hỏi phải có sự cộng tác, phối hợp thì mới có thể giải quyết tốt và nhanh chóng được. Thực tế cho thấy, nơi nào cơ quan thanh tra phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý và được Thủ trưởng cơ quan nhà nước cùng cấp quan tâm thì kết quả hoạt động thanh tra nói chung và kết quả thực hiện các quyền thanh tra nói riêng đạt kết quả tốt. Do đó, để bảo đảm kết quả thực hiện các quyền thanh tra, cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền và có liên quan.

Về phương pháp, có nhiều biện pháp và cách thức phối hợp; tuy nhiên, lựa chọn biện pháp nào, cách thức nào tuỳ thuộc vào điều kiện, tình hình thực tế của từng nơi, phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu, tính chất, mức độ đòi hỏi đối với từng quyền… Vấn đề mấu chốt ở chỗ, Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên phải là người chủ động nắm bắt tình hình, tìm hiểu thực tế để xác định cơ quan cần phối hợp, phương pháp và thời gian phối hợp… có như vậy mới nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các quyền thanh tra.

4. Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về thanh tra

176

Tuyên truyền pháp luật về thanh tra, nhất là các quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong công tác thanh tra nhằm tạo điều kiện cho công dân hiểu rõ các quy định của pháp luật; qua đó, để họ tự nguyện, tự giác thực hiện tốt các yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra phải được tiến hành sâu, rộng, thường xuyên liên tục, thậm chí ngay cả trong suốt quá trình tiến hành cuộc thanh tra. Các cơ quan thanh tra, Đoàn thanh tra và các Thanh tra viên cần tự mình hoặc phối hợp, hoặc đề xuất với Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra. Chẳng hạn như phối hợp với Đài truyền hình, Đài phát thanh, các cơ quan thông tấn báo chí để thông tin tuyên truyền pháp luật về thanh tra, thông qua các hình thức như: in ấn, phát hành tài liệu pháp luật về thanh tra; tuyên truyền, giải thích pháp luật về thanh tra thông qua các hội nghị, thông qua việc đưa các thông tin, kết quả của các cuộc thanh tra…

5. Làm tốt công tác khen thương và ky luật

Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra cần làm tốt công tác khen thưởng đối với các Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên hoàn thành tốt nhiệm vụ thanh tra, thực hiện tốt các quy định pháp luật về thực hiện các quyền thanh tra và phát huy được hiệu lực, hiệu quả các quyền thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đối với các Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên, nếu có các hành vi vi phạm như: lạm dụng quyền lực vì mục đích cá nhân, nhũng nhiễu đối tượng, thiếu trách nhiệm để xẩy ra hậu quả xấu, ảnh hưởng tới kết quả cuộc thanh tra và uy tín của ngành thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý…

6. Các biện pháp khác

Thực tiễn hoạt động thanh tra cho thấy, bên cạnh các biện pháp nói trên, các biện pháp sau đây cũng có tác dụng không nhỏ tới việc nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền thanh tra. Cụ thể:

đối với các đối tượng thanh tra hoặc các cơ quan tổ chức, cá nhân hữu quan cố tình không thực hiện, chậm trễ hoặc viện lý do thực hiện không nghiêm các yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra: sau khi đã nhắc nhở, đề nghị cơ quan cấp trên của đối tượng yêu cầu đối tượng thực hiện mà không có hiệu quả, thì người ra quyết định thanh tra phải đề nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có biện pháp buộc đối tượng thực hiện.

Đối với các quyết định thu hồi, nếu đối tượng chậm trễ hoặc cố tình không thực hiện, thủ trưởng cơ quan thanh tra có thể đề nghị thủ trưởng cơ quan quản lý

177

nhà nước cùng cấp yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền phong toả tài khoản của cơ quan hoặc đơn vị đó, hoặc chỉ định thu hồi theo cách “nhờ thu không chờ chấp nhận “giống như các biện pháp xử lý kinh tế tài chính khác...

Tuy nhiên việc thực hiện các quyền thanh tra có tác động trực tiếp tới những vấn đề rất nhạy cảm của đối tượng thanh tra và các đối tượng hữu quan. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả các quyền thanh tra, các cơ quan thanh tra, các Đoàn thanh tra và các Thanh tra viên phải nắm chắc các quyền mà pháp luật cho phép, những điều mà pháp luật nghiêm cấm... để tránh sự lạm dụng quyền hạn hoặc không dám sử dụng quyền, làm ảnh hưởng tới kết quả cuộc thanh tra.

Tuy nhiên, tất cả những giải pháp trên đây mới chỉ là những định hướng hay những khả năng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các quyền trong quá trình thanh tra. Để biến nó thành hiện thực, đòi hỏi các cơ quan thanh ra và các Thanh tra viên phải vận dụng một cách sáng tạo trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời, đây cũng là một trong những vấn đề đang đặt ra cho chúng ta cần nghiên cứu tiếp, tìm giải pháp khắc phục để việc sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra có hiệu quả hơn./.

178

Chuyên đề 6

PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CUỘC THANH TRA

Mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Như vậy, thanh tra là một khâu không thể thiếu trong chu trình quản lý nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, là một nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện thành công các chính sách, mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Thông qua hoạt động thanh tra nhằm phát hiện những sơ hở trong công tác quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, góp phần đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách. Hoạt động thanh tra còn góp phần to lớn đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; làm lành mạnh hóa các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế - xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thực chất tiến hành một cuộc thanh tra là quá trình: sử dụng tổng hợp các biện pháp nghiệp vụ thanh tra để thu thập, thông tin, tài liệu; nhận xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và các quy định của Nhà nước đối với đối tượng thanh tra theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.

Sau khi kết thúc thanh tra phải đưa ra được kết luận, kiến nghị hoặc quyết định biện pháp chấn chỉnh, phòng ngừa, xử lý các sai phạm.

- Kết luận thanh tra phải làm rõ tính chất, mức độ, tác hại của hành vi vi phạm pháp luật; làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân đối với những sai phạm; nguyên nhân khách quan và chủ quan của những sai phạm.

- Kiến nghị qua thanh tra hoặc quyết định xử lý của cấp thẩm quyền nhằm phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm, xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm, góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật. Vì vậy, kiến nghị phải bao gồm

179

những nội dung, như: Việc chấn chỉnh quản lý, bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, cơ chế quản lý; các kiến nghị xử lý về hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm; xử lý về kinh tế; chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra nếu có dấu hiệu của tội phạm. Các kiến nghị trong kết luận thanh tra phải khách quan, có tính khả thi và phải kịp thời theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước.

- Phải công khai kết luận thanh tra theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi năm 2012).

- Sau khi có kết luận thanh tra phải tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm cuộc thanh tra; thực hiện công tác khen thưởng, kỷ luật đối với tập thể, cá nhân theo quy định của pháp luật; tổ chức lập hồ sơ cuộc thanh tra và bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý.

Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, cơ quan thanh tra nhà nước có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra của cơ quan có thẩm quyền. Thông thường, nhiệm vụ này thường được cơ quan có thẩm quyền giao cho Trưởng đoàn Thanh tra hoặc cơ quan có Trưởng đoàn Thanh tra.

Sự chỉ đạo, điều hành của người ra quyết định thanh tra là nhân tố quan trọng để các cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, nên mọi cuộc thanh tra đều được sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của người ra quyết định thanh tra.

II. CÁC LOẠI HÌNH CUỘC THANH TRA

1. Phân loại theo tính kế hoạch

Theo cách phân loại này, có hai loại hình cuộc thanh tra.

a) Cuộc thanh tra theo kế hoạch

Thanh tra theo kế hoạch là cuộc thanh tra được tiến hành theo kế hoạch đã được Người có thẩm quyền phê duyệt.

Định hướng chương trình thanh tra là văn bản xác định phương hướng hoạt động thanh tra trong một năm của ngành thanh tra do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ.

Kế hoạch thanh tra là văn bản xác định nhiệm vụ về thanh tra của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra trong một năm do Thủ trưởng cơ quan thực hiện

180

chức năng thanh tra xây dựng để thực hiện Định hướng chương trình thanh tra và yêu cầu quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.

Chương trình, kế hoạch thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng, Giám đốc sở phê duyệt.

Thanh tra theo chương trình, kế hoạch có thuận lợi là giúp Đoàn Thanh tra chủ động trong việc bố trí thời gian và lực lượng tiến hành.

* Cuộc thanh tra thường xuyên

Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

Thanh tra thường xuyên được áp dụng phổ biến của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khi tiến hành thanh tra đối với một loại đối tượng thanh tra cụ thể, như thanh tra công tác phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm...

Đặc điểm của những cuộc thanh tra thường xuyên là hướng vào những nội dung cụ thể, việc thực hiện các quy trình có tính chất bắt buộc nhằm kịp thời chấn chỉnh, xử lý những sai phạm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý.

b) Cuộc thanh tra đột xuất

Đây là cuộc thanh tra được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao.

Thanh tra đột xuất được xác định tức thời vì mới xuất hiện trong kỳ kế hoạch. Lý do dẫn đến cuộc thanh tra đột xuất là:

- Những vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, nổi cộm buộc cơ quan quản lý nhà nước xem xét, giải quyết tức thời.

- Đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo của quần chúng, công luận báo chí, nhất là các vụ, việc tiêu cực, tham nhũng cần được làm rõ.

- Những yêu cầu của cơ quan Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan, các đoàn thể đặt ra có tính chất bức thiết mà cơ quan quản lý hành chính nhà nước phải xem xét giải quyết kịp thời.

181

- Những yêu cầu của Hội đồng bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp khi xem xét những khiếu nại, tố cáo có liên quan đối với các ứng cử viên.

Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra tỉnh, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra huyện, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền ra quyết định thanh tra đột xuất.

Đặc điểm của những cuộc thanh tra đột xuất là hướng vào giải quyết những vấn đề bức bách, cần xem xét kết luận chính xác, cụ thể nhưng trong thời hạn tương đối ngắn, nhằm đáp ứng kịp thời cho yêu cầu của lãnh đạo, của quản lý.

2. Phân loại theo chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra

Theo cách phân loại này, có ba loại hình cuộc thanh tra:

a) Cuộc thanh tra kinh tế - xã hội

Đây là loại hình thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong phạm vi quản lý hành chính của Nhà nước.

Cuộc thanh tra kinh tế - xã hội được tiến hành chủ yếu là do yêu cầu của chỉ đạo, điều hành quản lý nhà nước đặt ra. Cũng có khi là do yêu cầu của tổ chức Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các đoàn thể quần chúng và từ các phản ảnh, đơn thư của quần chúng nhân dân, của công luận báo chí mà cấp có thẩm quyền quyết định nội dung cần thanh tra.

Ví dụ: Thanh tra hoạt động của ngành ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia; thanh tra việc quản lý các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia; thanh tra việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; thanh tra việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; thanh tra việc quản lý và sử dụng đất đai… là loại hình thanh tra kinh tế - xã hội.

b) Thanh tra việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo

Đây là loại hình thanh tra việc chấp hành các quyết định của pháp luật về công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm nhằm chấn chỉnh khắc phục các sơ hở, thiếu sót trong quá trình thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

182

c) Thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí

Đây là loại hình thanh tra các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí... theo quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí...

3. Phân theo quy mô và phạm vi tiến hành thanh tra

a) Thanh tra về vụ việc cụ thể

Đây là loại hình thanh tra được áp dụng phổ biến khi tiến hành thanh tra hoạt động của một đơn vị; một địa phương; thanh tra để giải quyết vụ việc cụ thể có tính chất phức tạp; thanh tra giải quyết một vụ việc vi phạm chính sách, cơ chế quản lý; một vụ việc tiêu cực, tham nhũng do nhân dân phản ánh qua đơn thư khiếu nại, tố cáo.

b) Thanh tra diện rộng

Đây là hình thức thường được áp dụng khi tiến hành thanh tra để đánh giá kết quả thực hiện một vấn đề có tầm vĩ mô, nhằm chấn chỉnh, đổi mới công tác của một ngành hay một lĩnh vực, hay trên một địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kết quả thanh tra phải đánh gía kết qủa triển khai chủ trương, chính sách hoặc cơ chế quản lý để nâng cao hiệu lực quản lý; để giải quyết một hay một số vấn đề của nền kinh tế, xã hội mà quản lý nhà nước đòi hỏi.

III. NGUYÊN TẮC TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA

Hoạt động thanh tra góp phần giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, thực hiện công bằng xã hội. Để bảo đảm cho cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, khi tiến hành một cuộc thanh tra phải đảm bảo nguyên tắc “tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra” (Điều 7 Luật Thanh tra 2010). Đó chính là:

1. Coi trọng công tác chính trị - tư tương

Công tác chính trị - tư tưởng nhằm thống nhất chung về mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra cần đạt được trong nội bộ Đoàn Thanh tra, giữa những thành viên

183

Đoàn Thanh tra với đối tượng thanh tra và đạt được sự nhất trí cao trong các cơ quan chức năng có liên quan đến cuộc thanh tra.

Nội bộ Đoàn Thanh tra cần nhận thức thống nhất về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu mà cuộc thanh tra đã đề ra. Việc quán triệt yêu cầu, nội dung, phương pháp tiến hành, nội quy, kỷ luật, quy chế làm việc của Đoàn Thanh tra được thảo luận dân chủ, sự điều hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ của Trưởng Đoàn là những vấn đề quan trọng tạo sự nhất trí về nhận thức và hành động trong Đoàn Thanh tra. Đây là nhân tố quan trọng để cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

Đối tượng thanh tra và đơn vị được thanh tra cũng cần có nhận thức đúng, thông suốt về cuộc thanh tra. Do vậy họ cũng là một trong những đối tượng của công tác chính trị - tư tưởng. Việc công bố quyết định thanh tra phải làm cho các thành viên trong đơn vị được thanh tra hiểu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung tầm quan trọng của cuộc thanh tra. Trên cơ sở đó hạn chế sự chống đối, thiếu tinh thần cộng tác, không cung cấp đầy đủ tài liệu, báo cáo cho Đoàn Thanh tra để che dấu khuyết điểm sai phạm của đối tượng, phát huy dân chủ, giữ vững được vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, sự đóng góp của các đoàn thể, tinh thần thẳng thắn đấu tranh xây dựng của cán bộ, đảng viên và quần chúng vào cuộc thanh tra, phát huy được hiệu lực, hiệu quả cuộc thanh tra.

2. Tuân thủ quy định của pháp luật, trong quá trình thanh tra

Trong quá trình tiến hành một cuộc thanh tra thì người tham gia cuộc thanh tra phải luôn luôn ý thức và thường trực trong suy nghĩ và việc làm phải tuân theo pháp luật, thể hiện trên một số vấn đề:

- Không vượt quyền, không lạm dụng quyền;

- Không che dấu, hoặc bao che hành vi vi phạm;

- Sai phạm đến đâu, nhận xét, đánh giá đúng mức đến đó, không áp đặt ý chí chủ quan. Mọi đánh giá, kết luận về đối tượng thanh tra đều phải có căn cứ pháp luật, có chứng cứ rõ ràng.

Trong quá trình thanh tra thì việc thu thập chứng cứ là yếu tố quan trọng nhằm đánh giá, kết luận chính xác, khách quan.

Khi thu thập, đối chiếu, xác minh thẩm tra các thông tin, tài liệu và chứng cứ, Đoàn Thanh tra cần tuân theo quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm phải làm rõ

184

được tính chất, mức độ, nguyên nhân sai phạm, trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân đối với các hành vi vi phạm.

a) Đối với Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn Thanh tra

- Không vi phạm những điều cấm trong hoạt động thanh tra (Điều 13 Luật Thanh tra năm 2010)

- Bảo đảm chính xác, khách quan trong thu thập thông tin, tài liệu và chứng cứ.

Thông tin, tài liệu được thu thập xác minh phải dựa trên những biện pháp, cách thức mà pháp luật cho phép, bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, làm căn cứ để đối chiếu với các quy định của pháp luật để phân định đúng - sai của các hoạt động cụ thể.

b) Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra

Đối tượng thanh tra phải tuân thủ pháp luật, phải chấp hành việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chấp hành nghiêm túc các yêu cầu của Đoàn Thanh tra; hợp tác với Đoàn Thanh tra; không che dấu khuyết điểm, sai phạm.

Thông tin, tài liệu, báo cáo của đối tượng thanh tra cung cấp, biên bản hội nghị, giám định, kiểm kê, niêm phong, xác minh, đối chiếu, ghi trả lời giải trình ... các hoá đơn, chứng từ, các văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan v.v... nhất thiết phải là văn bản có giá trị pháp lý, có đầy đủ các yếu tố: ngày lập văn bản, chữ ký, họ tên, địa chỉ, có đóng dấu (nếu có). Nếu là các văn bản sao chụp, phải được công chứng hợp pháp hoặc người sao lục ký tên, đóng dấu.

c) Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, cơ quan hữu quan

Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và các cơ quan hữu quan phải tuân theo pháp luật thể hiện ở việc đáp ứng các yêu cầu liên quan đến cuộc thanh tra theo quy định của pháp luật, không được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra.

3. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thanh tra và kế hoạch thanh tra

Do tính chất đặc thù của hoạt động thanh tra, cuộc thanh tra được thực hiện phải trên nguyên tắc chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thanh tra. Đó là nguyên tắc rất cơ bản đòi hỏi Đoàn Thanh tra phải nghiêm chỉnh chấp hành, nhằm:

- Kết quả cuộc thanh tra phải đạt được mục đích, yêu cầu đã đề ra;

185

- Tiến hành thanh tra theo đúng nội dung, đúng thẩm quyền; đúng phạm vi, đối tượng đã ghi trong quyết định thanh tra. Những nội dung mới xuất hiện trong quá trình thanh tra, nếu thấy cần thiết phải báo cáo người có thẩm quyền để ra quyết định bổ sung bằng văn bản một cách kịp thời;

- Bảo đảm thời gian hoàn thành cuộc thanh tra theo quyết định thanh tra; nếu kéo dài thời hạn thanh tra phải có quyết định gia hạn của cấp có thẩm quyền;

- Chấp hành tốt kỷ luật về chế độ báo cáo.

4. Bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan; tính hợp pháp và hợp lý trong nội dung báo cáo kết quả thanh tra

Hoạt động thanh tra là một nội dung của hoạt động quản lý nhà nước. Kết luận, kiến nghị hoặc quyết định xử lý từ kết quả thanh tra, đòi hỏi tổ chức, cá nhân liên quan có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện. Tác động của nó không những đối với đối tượng thanh tra mà còn tác động trực tiếp hay gián tiếp đối với xã hội; thông qua thanh tra góp phần chấn chỉnh quản lý, hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý. Vì vậy, bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan, hợp pháp, hợp lý là một nguyên tắc mang tính tổng hợp.

Tính chính xác, trung thực, khách quan biểu hiện ở chỗ: số liệu, chứng cứ phải chính xác, kết luận thanh tra đánh giá sự việc phải khách quan, đúng với sự thật, không suy diễn, áp đặt ý chí chủ quan, không cắt xén, bóp méo sự thật.

Báo cáo kết quả thanh tra, kết luận hoặc quyết định xử lý là một dạng “sản phẩm” của cuộc thanh tra. Do đó, người tiến hành cuộc thanh tra bảo đảm nguyên tắc chính xác, trung thực, khách quan, hợp pháp, hợp lý trong suốt quá trình tiến hành thanh tra là nhằm làm cho “sản phẩm” của cuộc thanh tra có giá trị pháp lý và có tác dụng tích cực đối với công tác quản lý.

Coi trọng công tác chính trị - tư tưởng, chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thanh tra, tuân thủ theo quy định của pháp luật và bảo đảm các thể thức hành chính trong quá trình tiến hành thanh tra, cho ta những cơ sở rất cơ bản để có được kết luận thanh tra đúng đắn. Một kết luận thanh tra chỉ thực sự trung thực, khách quan, có lý, có tình, khi biết tổng hợp, phân tích các thông tin, tài liệu đã được đối chiếu với các quy định của pháp luật nhưng phải gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xem xét một cách toàn diện nguyên nhân khách quan và chủ quan bằng quan điểm lịch sử cụ thể.

Tính hợp pháp biểu hiện ở chỗ: Kết luận thanh tra làm rõ đúng hay sai của sự

186

việc so với chuẩn mực do Nhà nước ban hành trong Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, quyết định, chỉ thị, các định mức kinh tế - kỹ thuật của cơ quan có thẩm quyền ban hành, các cơ chế quản lý của Nhà nước.

Tính hợp lý biểu hiện ở chỗ: Kết luận thanh tra được xem xét, đánh giá một cách toàn diện, đồng thời xem xét giải quyết trong mối quan hệ tổng thể, sát với thực tế đang xảy ra và đặt trong từng thời điểm lịch sử nhất định. Quá trình chuyển đổi về cơ chế, chính sách có nhiều sự vật và hiện tượng mới phát sinh trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, nên các quy định pháp luật chưa kịp chuyển đổi cho phù hợp, Vì vậy, kết luận thanh tra phải đồng thời vừa bảo đảm tính hợp pháp, vừa bảo đảm tính hợp lý. Khi xem xét những hành vi vi phạm pháp luật hiện hành, Đoàn Thanh tra còn cần xem xét cả các mặt:

- Sự phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn.

- Hiệu quả kinh tế - xã hội.

- Sự phù hợp với xu thế phát triển chính sách của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

IV. QUY TRÌNH TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA

1. Trách nhiệm của người Ban hành quyết định thanh tra

Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là người có thẩm quyền ban hành quyết định thanh tra.

a) Ban hành quyết định thanh tra

Quyết định thanh tra phải được thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền ban hành; nội dung ghi trong quyết định đó không vượt quá thẩm quyền mà pháp luật quy định.

Đúng thẩm quyền và đúng thể thức hành chính là hai tiêu thức về tính hợp pháp của quyết định thanh tra.

- Thẩm quyền người ký quyết định thanh tra là thủ trưởng các cơ quan thanh tra (như Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra tỉnh, Chánh Thanh tra huyện) hoặc thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước (như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Giám đốc sở…) hoặc thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (như Tổng Cục trưởng, Cục trưởng, Chi Cục trưởng...).

187

- Nội dung ghi trong quyết định thanh tra phải quy định rõ về lĩnh vực thanh tra, phạm vi thanh tra, đối tượng thanh tra, thời hạn tiến hành thanh tra.

- Văn bản quyết định thanh tra đúng thể thức, bảo đảm đầy đủ các yếu tố về thể thức văn bản: chữ ký, đóng dấu, số văn bản, ngày tháng ban hành. Ngoài ra còn ghi rõ cấp ra quyết định thanh tra, căn cứ ra quyết định thanh tra, các điều khoản ghi rõ nội dung, đối tượng thanh tra, người có thẩm quyền thực hiện thanh tra, người có trách nhiệm chấp hành quyết định thanh tra.

Để chuẩn bị cho việc ban hành quyết định thanh tra, cần phải chú ý đến các vấn đề sau:

- Thu thập các tài liệu, thông tin cần thiết, phân tích những trọng tâm, trọng điểm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thuộc quyền quản lý nhà nước của ngành, địa phương, đánh giá chính xác thực trạng diễn biến tình hình thực tiễn để xác định những nội dung, địa bàn còn nhiều vướng mắc tồn tại cần thanh tra.

- Thu thập và phân tích những đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, những phản ánh của công luận, báo chí đã nêu, nhất là các vụ, việc tiêu cực tham nhũng, buôn lậu, cố ý làm trái chính sách, cơ chế quản lý.

- Tiến hành những cuộc thanh tra do cấp trên giao, để phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành quản lý. Trong khi chấp hành chỉ đạo của cấp trên giao, phải biết chọn lọc tìm ra các vấn đề bức xúc cần giải quyết theo thẩm quyền, cần thực hiện một cách nghiêm túc có hiệu quả nhất; các vấn đề thuộc thẩm quyền cấp dưới thì giao cho cấp dưới tiến hành; những vụ, việc không thuộc thẩm quyền thì báo cáo lại với cấp trên xem xét, điều chỉnh lại cho phù hợp, nhằm thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, đúng thẩm quyền.

b) Chỉ đạo chặt chẽ Đoàn Thanh tra tiến hành cuộc thanh tra

- Trước hết, người ban hành quyết định thanh tra phải chọn những người có năng lực, trình độ, phù hợp với yêu cầu của cuộc thanh tra. Trong đó, việc chọn cử Trưởng Đoàn là rất quan trọng, Trưởng Đoàn là người trực tiếp chỉ đạo, điều hành tiến hành cuộc thanh tra, chịu trách nhiệm trước người ra quyết định và trước pháp luật về kết quả cuộc thanh tra.

- Chỉ đạo Đoàn Thanh tra xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra. Người ban hành quyết định thanh tra phê duyệt kế hoạch đó, tạo điều kiện kinh phí, phương tiện kỹ thuật cho Đoàn Thanh tra hoạt động thuận lợi.

188

- Tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động của Đoàn Thanh tra. Việc kiểm tra của người ra quyết định thanh tra đối với Đoàn Thanh tra rất quan trọng, giúp Đoàn Thanh tra khắc phục kịp thời những thiếu sót, tháo gỡ những vướng mắc, đảm bảo cho cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.

c) Chỉ đạo xử lý và đôn đốc thực hiện sau thanh tra

Chỉ đạo xử lý, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra.

2. Quy trình tiến hành thanh tra của Đoàn Thanh tra

Quy trình tiến hành một cuộc thanh tra gồm 3 bước:

- Chuẩn bị thanh tra;

+ Xây dựng Kế hoạch thanh tra;

+ Phổ biến Kế hoạch thanh tra;

+ Xây dựng Đề cương;

+ Thực hiện các thủ tục công bố Quyết định thanh tra.

- Trực tiếp thanh tra;

- Kết thúc thanh tra.

Các bước có liên quan chặt chẽ và mật thiết với nhau; bước trước tạo tiền đề để tiến hành bước sau; bước sau tiếp tục và hoàn thiện bước trước, đảm bảo cho cuộc thanh tra đạt mục đích, yêu cầu đã đề ra.

Bước 1: Chuẩn bị thanh tra.

Chuẩn bị thanh tra được tính từ khi chuẩn bị ban hành quyết định thanh tra (bao gồm cả việc thu thập tài liệu, thông tin khi chưa thành lập Đoàn Thanh tra – Khảo sát ban đầu) cho đến khi Đoàn Thanh tra công bố quyết định thanh tra.

Để cho bước chuẩn bị này được đầy đủ, chu đáo, Đoàn Thanh tra phải thực hiện một số yêu cầu cụ thể:

- Phải hiểu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra. Tiếp xúc, tìm hiểu các thông tin có liên quan để nắm bắt tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra.

189

tìm hiểu kỹ các chính sách, cơ chế quản lý đối với lĩnh vực hoạt động của đối tượng thanh tra.

- Thống nhất, quán triệt nội dung quyết định thanh tra, kế hoạch, phương pháp tiến hành cuộc thanh tra.

- Chuẩn bị đầy đủ kinh phí, phương tiện, vật chất, tạo điều kiện cho cuộc thanh tra tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.

Nội dung bước chuẩn bị gồm:

a) Nghiên cứu quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra

Trước khi ra quyết định thanh tra, Người ra quyết định thanh tra phải lựa chọn Trưởng đoàn Thanh tra.

Người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn Thanh tra phải nghiên cứu kỹ nội dung thanh tra, nguồn gốc và tài liệu làm căn cứ ra quyết định thanh tra để từ đó xác định mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra; xác định trọng tâm, trọng điểm, phương pháp tiến hành cuộc thanh tra; bố trí lực lượng, kinh phí phục vụ cho cuộc thanh tra. Người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn Thanh tra phải lường được những thuận lợi, khó khăn, những yếu tố tác động đến cuộc thanh tra. Đây là việc quan trọng, có tác dụng định hướng xuyên suốt quá trình hoạt động thanh tra.

Người phản biện hỏi: (Sao lại lẫn lộn việc của người ra QĐ TT với việc của Đoàn Thanh tra. Từ khâu nắm tình hình (khảo sát) đến khi ra Quyết định thanh tra là việc của người ra Quyết định thanh tra. Trong đó, theo quy định TT 02/2010, chỉ khảo sát khi cần thiết và đây là quản lý hành chính, không phải của Đoàn Thanh tra.....)

b) Khảo sát, nắm tình hình để ban hành quyết định thanh tra

Trong trường hợp cần thiết, Người ra quyết định thanh tra có thể quyết định việc khảo sát, nắm tình hình của đối tượng thanh tra.

Thông thường, việc khảo sát, nắm tình hình trong những trường hợp: nội dung thanh tra là việc thực hiện một chủ trương, chính sách hay lĩnh vực công tác lớn, phải tiến hành trên diện rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; cuộc thanh tra phức tạp, liên quan đến nhiều đầu mối, nhiều cấp quản lý có trách nhiệm liên quan.

190

Việc khảo sát, nắm tình hình được thực hiện theo trình tự:

- Tổ chức khảo sát, nắm tình hình:

Người ra quyết định thanh tra có thể thành lập tổ khảo sát hoặc giao cho Thanh tra viên (tối thiểu là 2 người) trực tiếp tiến hành (gọi chung là Người khảo sát). Người được Người ra quyết định thanh tra dự kiến bố trí là Trưởng đoàn phải trực tiếp chủ trì, chỉ đạo việc khảo sát.

- Nội dung khảo sát, nắm tình hình:

+ Hệ thống các văn bản quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn liên quan đến hoạt động của đối tượng;

+ Các đặc điểm, tình hình hoạt động của đối tượng; các báo cáo của đối tượng về kết quả hoạt động, kết quả thực hiện và chấp hành chính sách pháp luật;

+ Các mối quan hệ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của đối tượng;

+ Việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra của các cơ quan chức năng và hoạt động tự kiểm tra, kiểm soát của đối tượng trong thời kỳ dự kiến được thanh tra;

+ Nội dung các đơn khiếu nại, tố cáo trong nội bộ; các thông tin trên công luận, báo chí và dư luận về những tiêu cực, vi phạm của đối tượng;

+ Các thông tin liên quan đến những nội dung dự kiến thanh tra.

- Phương pháp khảo sát, nắm tình hình. Được thực hiện thông qua nhiều kênh, như:

+ Nắm trực tiếp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng;

+ Cơ quan cấp trên của đối tượng;

+ Cơ quan thống kê, cơ quan Thuế nơi quản lý đối tượng; các cơ quan hữu quan khác có liên quan;

+ Tập hợp thông tin qua báo chí, dư luận, mạng internet;

+ Tổ chức tiếp xúc với những người đi khiếu nại, tố cáo; người am hiểu về những nội dung dự kiến thanh tra.

- Báo cáo kết quả khảo sát: Người khảo sát có trách nhiệm tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin thu nhận được, lập báo cáo Khảo sát gửi người ra quyết định thanh tra và người giao nhiệm vụ khảo sát với các nội dung sau:

191

+ Khái quát về tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng;

+ Kết quả khảo sát, nắm tình hình theo từng nội dung;

+ Nhận định những vấn đề nổi cộm, có dấu hiệu sai phạm, kiến nghị, đề xuất những nội dung cần thanh tra và phương pháp tổ chức thực hiện.

- Thời gian khảo sát: do Người ra Quyết định thanh tra quyết định nhưng không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày giao nhiệm vụ khảo sát (khoản 3 Điều 3 – Thông tư 02/2010/TT-TTCP).

c) Ban hành quyết định thanh tra

Dựa trên các căn cứ để ra quyết định thanh tra và báo cáo kết quả khảo sát, nắm tình hình (nếu có), Người ra quyết định thanh tra giao nhiệm vụ cho cá nhân, đơn vị chuyên môn của mình soạn thảo quyết định thanh tra.

Nội dung quyết định thanh tra được quy định tại khoản 1 Điều 44; khoản 1 Điều 52 Luật Thanh tra năm 2010 gồm: căn cứ pháp lý để thanh tra; đối tượng, nội dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra; thời hạn tiến hành thanh tra; Trưởng đoàn Thanh tra và các thành viên khác của Đoàn Thanh tra; cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ chỉ đạo, giám sát hoạt động Đoàn Thanh tra.

Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm ký quyết định thanh tra và chậm nhất là 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra, quyết định thanh tra phải được gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất. Quyết định thanh tra phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra.

d) Xây dựng và trình duyệt kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra

Quyết định thanh tra là một văn bản có giá trị pháp lý, là căn cứ để chỉ đạo tiến hành thanh tra. Kế hoạch tiến hành thanh tra là thể hiện phương án để Đoàn triển khai lực lượng thực hiện quyết định.

Trưởng Đoàn Thanh tra có trách nhiệm dự thảo và hoàn chỉnh kế hoạch thanh tra trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt.

Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm họp Đoàn để thảo luận dự thảo kế hoạch tiến hành thanh tra. Những ý kiến khác nhau phải được báo cáo Người ra quyết định thanh tra xem xét trước khi phê duyệt.

192

Thời gian xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra do Người ra quyết định thanh tra quyết định, nhưng không quá 5 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra.

Kế hoạch phải cụ thể hoá mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra; xác định rõ đối tượng, những trọng tâm và trọng điểm, bố trí lực lượng tiến hành và phương pháp tiến hành; chế độ báo cáo; thời hạn kết thúc cuộc thanh tra; những yêu cầu chuẩn bị về kinh phí, phương tiện vật chất cho cuộc thanh tra.

Sau khi kế hoạch tiến hành thanh tra được phê duyệt, Trưởng đoàn Thanh tra tổ chức họp Đoàn để phổ biến và phân công nhiệm vụ cho các tổ, nhóm, thành viên của Đoàn; thảo luận về phương pháp, cách thức tổ chức tiến hành thanh tra, sự phối hợp giữa các tổ, nhóm, các thành viên trong Đoàn. Kế hoạch tiến hành thanh tra là tài liệu nội bộ, không gửi cho đối tượng thanh tra. Trưởng Đoàn phải bám sát kế hoạch để chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Đoàn Thanh tra. Từng thành viên Đoàn Thanh tra xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với Trưởng đoàn Thanh tra.

e) Tổ chức tập huấn

Thành phần Đoàn Thanh tra có thể bao gồm cán bộ thuộc nhiều cơ quan, đơn vị ngành nghề khác nhau, do đó cần tập huấn để thống nhất chung quan điểm, nhận thức về mục đích, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ, phương pháp tiến hành. Tập huấn cũng là để thành viên Đoàn Thanh tra được bổ túc những kiến thức cần thiết, nhất là về cơ chế quản lý, các căn cứ pháp luật có liên quan đến nội dung thanh tra.

Việc tổ chức tập huấn được tiến hành trong trường hợp có nhiều nội dung phức tạp, nhất là cuộc thanh tra trên diện rộng, có nhiều cấp thanh tra chỉ đạo tiến hành trên nhiều địa bàn.

Người ra quyết định thanh tra cần chỉ đạo biên soạn tài liệu tập huấn về nghiệp vụ. Đối với cuộc thanh tra diện rộng cần thành lập tổ biên soạn tài liệu và phân công trách nhiệm cụ thể từng nội dung.

Nội dung chính của tập huấn gồm:

+ Quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung quyết định thanh tra và kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra.

+ Nghiên cứu các chính sách, pháp luật cơ chế quản lý các lĩnh vực liên quan đến nội dung thanh tra.

193

+ Tìm hiểu đặc điểm và tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra.

+ Thảo luận tình huống, nhận diện các sai phạm chủ yếu và các biện pháp xử lý;

+ Thống nhất nội quy làm việc và Quy chế hoạt động của Đoàn Thanh tra;

+ Về phương pháp tiến hành.

+ Một số vấn đề khác có liên quan.

f) Xây dựng nội quy làm việc của Đoàn Thanh tra

Nội quy làm việc của Đoàn Thanh tra cần tập trung vào các nội dung sau:

+ Chế độ kỷ luật công tác về bảo mật, phát ngôn, trách nhiệm trước pháp luật trong khi thu thập, xác minh chứng cứ, chế độ báo cáo …

+ Để giữ gìn phẩm chất người cán bộ thanh tra, nội quy cần ghi rõ những hành vi bị cấm trong quá trình tiến hành thanh tra.

g) Xây đựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo

Báo cáo theo đề cương của Đoàn Thanh tra về những nội dung thanh tra là yêu cầu bắt buộc đối với đối tượng thanh tra. Báo cáo của đối tượng thanh tra là một văn bản có giá trị pháp lý được lưu giữ trong hồ sơ cuộc thanh tra.

Báo cáo của đối tượng thanh tra có tác dụng quan trọng. Trước hết, báo cáo này đã giúp Đoàn Thanh tra nhanh chóng tiếp cận, nghiên cứu, xác định trọng tâm, trọng điểm thanh tra và là căn cứ để đánh gía thái độ hợp tác, mức độ trung thực của đối tượng thanh tra. Mặt khác, báo cáo của đối tượng thanh tra là một căn cứ để từ đó Đoàn Thanh tra cân nhắc, chọn lọc những vấn đề chưa rõ cần tập trung xác minh và thu thập thông tin, tài liệu.

Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm chủ trì cùng các thành viên trong Đoàn Thanh tra xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung được thanh tra. Đề cương yêu cầu báo cáo gồm một số nội dung:

+ Đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra trong thời kỳ được thanh tra; việc quản lý tổ chức, bộ máy, con người; việc phân cấp giữa đối tượng thanh tra và các đơn vị trực thuộc; mối quan hệ giữa đơn vị là đối tượng thanh tra với các đơn vị cấp dưới, với đơn vị cấp trên; quy chế quản lý tài chính, tài sản…

194

+ Đề cương yêu cầu báo cáo của Đoàn thanh tra cần gợi ra những điểm thật sát với nội dung cuộc thanh tra, như: kết quả thực hiện các nội dung được thanh tra; ưu, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, điều hành; nguyên nhân khách quan, chủ quan. Đây là một trong những căn cứ quan trọng cho kết luận cuộc thanh tra sau này không bị sai lệch, phiến diện.

+ Những vướng mắc và kiến nghị của đối tượng thanh tra với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Cần chú ý: không tiết lộ những sai phạm của đối tượng mà Đoàn thanh tra đã nắm được; không tiết lộ kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra cũng như những trọng tâm, trọng điểm và phương pháp tiến hành của Đoàn thanh tra để hạn chế sự bao che, chống đối của đối tượng.

Để báo cáo của đối tượng thanh tra sát với thực tế; tận dụng được những tài liệu mà đối tượng thanh tra đã có; hạn chế yêu cầu những số liệu, tài liệu mà đối tượng thanh tra phải đầu tư nhiều công sức vào việc hoàn thiện báo cáo thì Đoàn Thanh tra nên trao đổi trực tiếp với đối tượng thanh tra về đề cương yêu cầu báo cáo. Nếu nội dung báo cáo nhiều, có thể xây dựng biểu mẫu để yêu cầu đối tượng tổng hợp.

Tại điểm c khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 53 Luật Thanh tra năm 2010, Trưởng đoàn Thanh tra ký văn bản có kèm theo đề cương yêu cầu báo cáo và gửi cho đối tượng thanh tra ít nhất là 5 ngày trước khi công bố quyết định thanh tra. Trong văn bản, Trưởng đoàn Thanh tra phải quy định cách báo cáo (báo cáo bằng văn bản, gửi file qua hộp thư điện tử), thời gian, địa chỉ nộp báo cáo về Đoàn Thanh tra.

h) Thông báo về việc công bố quyết định thanh tra

Theo Điều 8 Thông tư 02/2010/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ thì Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Trong Thông báo phải nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung buổi làm việc công bố quyết định thanh tra, thành phần tham dự, nghe đối tượng thanh tra báo cáo theo đề cương hướng dẫn của Đoàn tại buổi công bố quyết định thanh tra.

Thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra gồm có: người ra quyết định thanh tra (nếu có); Đoàn Thanh tra; thủ trưởng cơ quan, tổ chức và các cá nhân là đối tượng thanh tra. Trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn Thanh tra mời

195

đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.

Để tạo điều kiện cho đối tượng thanh tra chủ động sắp xếp, bố trí thời gian, thành phần, địa điểm thì Trưởng đoàn Thanh tra nên trao đối trước nội dung thông báo cho thủ trưởng đơn vị là đối tượng thanh tra.

g) Chuẩn bị kinh phí, phương tiện kỹ thuật

Đây là một trong những điều kiện cần thiết để Đoàn Thanh tra thực thi công vụ. Chuẩn bị chu đáo sẽ hạn chế việc phát sinh, gây phiền hà.

+ Phải bảo đảm kinh phí, phương tiện đi lại, ăn ở cho các thành viên Đoàn Thanh tra nhằm tạo những điều kiện cho Đoàn Thanh tra.

+ Cố gắng tạo điều kiện tối đa về phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất phục vụ tốt cho việc thu thập thông tin, tài liệu, xử lý thông tin nhanh nhạy, chính xác, có độ tin cậy cao.

Việc xây dựng kế hoạch về lực lượng và điều kiện kinh phí, phương tiện vật chất, kỹ thuật cho Đoàn Thanh tra cần thiết thực, tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm điều kiện tối thiểu cho Đoàn Thanh tra hoàn thành nhiệm vụ.

Bước 2: Trực tiếp thanh tra.

Trực tiếp thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra cho đến khi kết thúc việc thanh tra tại đơn vị được thanh tra. Thời hạn thanh tra cụ thể được ghi trong quyết định thanh tra. Do yêu cầu, nếu cần kéo dài thời cuộc thanh tra phải có quyết định bằng văn bản và không được quá thời hạn pháp luật quy định.

Đây là bước quyết định chất lượng cuộc thanh tra, do đó phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình thu thập, xác minh, thông tin, tài liệu.

Bước trực tiếp thanh tra gồm các công việc sau:

a) Công bố quyết định thanh tra

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra.

Tại phiên họp công bố quyết định thanh tra nhất thiết phải có mặt Thủ trưởng đơn vị, Thủ trưởng các phòng, ban, đơn vị có liên quan trực thuộc của đối tượng.

196

Trong một số cuộc thanh tra có thể mở rộng đến đại diện tổ chức Đảng, công đoàn, thanh tra nhân dân, đại diện cơ quan quản lý đơn vị được thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra chủ trì buổi công bố quyết định thanh tra; đọc toàn văn quyết định thanh tra; quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung, thời hạn cuộc thanh tra đã ghi trong quyết định; làm công tác chính trị - tư tưởng để đối tượng thanh tra thông suốt quan điểm, có nhận thức đúng đắn về cuộc thanh tra; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người tiến hành thanh tra cũng như đối tượng thanh tra theo quy định của pháp luật; đề ra chương trình và quan hệ công tác; thống nhất với đối tượng thanh tra về lịch làm việc; lề lối và phương pháp công tác; các nội dung cần thiết khác khi làm việc tại cơ quan đơn vị là đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra yêu cầu thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra báo cáo trực tiếp về những nội dung thanh tra theo đề cương đã gửi. Qua nghe báo cáo của đối tượng thanh tra, nếu thấy cần thiết phải bổ sung, Trưởng đoàn Thanh tra có thể yêu cầu đối tượng thanh tra tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo.

Trưởng đoàn Thanh tra phân công thành viên Đoàn Thanh tra ghi biên bản về việc công bố quyết định thanh tra. Biên bản này được ký giữa Trưởng đoàn Thanh tra và Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.

Việc công bố quyết định thanh tra tại đơn vị là đối tượng thanh tra có một ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện ý chí của Nhà nước trong hoạt động thanh tra. Đây là buổi làm việc đầu tiên nên Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm giữ thế chủ động thông qua một số việc:

+ Xây dựng nội dung chương trình làm việc bằng văn bản để thông báo ngay từ đầu buổi công bố quyết định thanh tra;

+ Kiểm tra, đôn đốc các thành viên của Đoàn mặc trang phục theo quy định.

+ Tập trung Đoàn Thanh tra đến cuộc họp công bố quyết định thanh tra trước giờ quy định;

+ Bố trí để Đoàn Thanh tra ngồi tập trung, theo thứ bậc;

+ Phân công thành viên của Đoàn Thanh tra theo dõi danh sách người dự họp của đối tượng thanh tra để đưa vào Biên bản công bố quyết định thanh tra và thuận lợi khi giao tiếp, xưng hô trong cuộc họp;

+ Giữ không khí làm việc nghiêm túc, thoải mái nhưng không căng thẳng....

197

Thời gian buổi công bố quyết định thanh tra cần ngắn gọn; không tranh luận. Việc công bố quyết định thanh tra phải làm thành biên bản.

b) Thực hiện các nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra

Sau khi công bố quyết định thanh tra, các thành viên Đoàn Thanh tra phải tiến hành phần việc được giao. Để tiến hành thanh tra, Đoàn Thanh tra phải yêu cầu đơn vị được thanh tra cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra.

+ Khi đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ tài liệu, cán bộ thanh tra phải kiểm tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu có đúng yêu cầu và đảm bảo đúng quy định của pháp luật không. Khi nhận hồ sơ tài liệu phải có văn bản giao nhận, đồng thời khẩn trương nghiên cứu khai thác tài liệu đó để phát hiện những bất cập, bất hợp lý, đồng thời có kế hoạch những việc tiếp theo.

+ Trong quá trình thanh tra, Đoàn Thanh tra phải trực tiếp quản lý hồ sơ tài liệu nhưng phải yêu cầu đơn vị được thanh tra có các biện pháp bảo vệ an toàn tài liệu. Cán bộ thanh tra tuyệt đối không được để thất lạc, làm hư hỏng cũng như tiết lộ các thông tin tài liệu của đơn vị được thanh tra. Việc thu giữ hồ sơ tài liệu là rất cần thiết, nhưng Đoàn Thanh tra cần lưu ý không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.

+ Phương pháp kiểm tra hồ sơ tài liệu rất phong phú, đa dạng. Đoàn Thanh tra có trách nhiệm nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá; yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; tiến hành kiểm tra, xác minh thực tế (nếu cần) và chịu trách nhiệm về tính chính xác, khách quan của những thông tin, tài liệu đã kiểm tra, xác minh. Tùy theo yêu cầu và nội dung mỗi cuộc thanh tra hay mỗi vấn đề cần thanh tra để áp dụng những biện pháp khác nhau.

Quá trình nghiên cứu, xem xét hồ sơ tài liệu nếu phát hiện những vấn đề sai phạm phải phân tích rõ nguyên nhân, mối quan hệ của vấn đề sai phạm với các nội dung khác; lập biên bản với đối tượng thanh tra xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nguyên nhân dẫn đến vi phạm. Những vấn đề nghi vấn phải tổ chức xác minh kịp thời.

+ Trường hợp vi phạm về kinh tế cần phải xử lý thu hồi ngay hoặc phải áp dụng các biện pháp xử lý khác thì Trưởng đoàn Thanh tra đề xuất và dự thảo văn bản để Người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý theo thẩm quyền.

Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm báo cáo với người ra

198

quyết định thanh tra xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra (Điều 48; Điều 55 Luật Thanh tra năm 2010).

+ Cùng với việc kiểm tra hồ sơ tài liệu do đối tượng thanh tra cung cấp, khi cần thiết thì tiến hành xác minh. Kết qủa xác minh được ghi lại bằng biên bản. Các biên bản khi lập xong, cán bộ thanh tra phải đọc để đối tượng nghe và yêu cầu họ ký vào biên bản.

Trường hợp kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu tại cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là đối tượng thanh tra thì thành viên Đoàn Thanh tra phải đề xuất xin ý kiến Trưởng đoàn Thanh tra và phải được sự đồng ý của Trưởng đoàn Thanh tra. Kết quả kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra phải được thể hiện bằng văn bản.

c) Tổ chức nghe ý kiến phản ảnh của quần chúng và của công luận báo chí

Việc tổ chức nghe ý kiến phản ảnh của quần chúng trong đơn vị được thanh tra cần tập trung vào những nội dung liên quan đến cuộc thanh tra và luôn có ý thức bảo vệ họ. Đối với những thông tin do công luận, báo chí đã nêu có liên quan đến nội dung thanh tra, Đoàn Thanh tra tổ chức gặp gỡ trao đổi làm rõ nguồn thông tin, những căn cứ có thể chứng minh vấn đề đã nêu.

Việc tổ chức nghe ý kiến phản ảnh của quần chúng và của công luận báo chí cần tiến hành trên nguyên tắc tôn trọng ý kiến quần chúng và công luận. Phát huy quyền dân chủ và tiến hành đúng thủ tục hành chính, có ghi biên bản và lấy chữ ký xác nhận của người đã tham gia.

d) Thu thập thông tin từ các cơ quan, đơn vị hữu quan, các cơ quan đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát

Đoàn Thanh tra cần nghe ý kiến của các cơ quan chức năng có liên quan đến nội dung thanh tra.

Khai thác sử dụng những hồ sơ tài liệu của các cơ quan đã kiểm tra, thanh tra, giám sát hoặc của các cơ quan hữu quan khác để tránh đi vào những vấn đề đã có kết luận đúng đắn hoặc vô tình hợp pháp hoá các hành vi sai phạm. Thanh tra viên cần đi sâu, sử dụng có chọn lọc những tài liệu phục vụ cho kết luận của mình.

Các cơ quan quản lý tổng hợp như tài chính, ngân hàng, kế hoạch, thống kê... sẽ giúp Đoàn Thanh tra nắm vững hơn các cơ chế quản lý chuyên ngành với đối tượng thanh tra, cung cấp cho Đoàn Thanh tra những đánh giá ưu, khuyết điểm, sai

199

phạm có đối chiếu so sánh với tình hình phát triển chung của vùng hoặc của cả nước. Cung cấp những tư liệu, báo cáo mà đối tượng thanh tra trước đó đã báo cáo để Đoàn Thanh tra đối chiếu với kết quả thanh tra.

Để nắm vững cơ chế quản lý chuyên ngành, Đoàn Thanh tra cần tranh thủ nghe ý kiến của cơ quan quản lý chuyên ngành và có thể sử dụng những ý kiến đánh giá bằng văn bản như một căn cứ khi kết luận.

e) Nghe ý kiến của cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra

Việc nghe ý kiến của cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra giữ vai trò quan trọng:

Thứ nhất, cung cấp ý kiến đánh giá ưu, khuyết điểm, sai phạm của đối tượng là tài liệu tham khảo rất quan trọng cho Đoàn Thanh tra.

Thứ hai, qua trao đổi, Đoàn Thanh tra tranh thủ sự đồng tình của cơ quan chủ quản cấp trên đối với các dự kiến đánh giá của đoàn hoặc lường trước được những ý kiến không nhất trí để có biện pháp tiến hành thanh tra bổ sung, củng cố hồ sơ vững chắc hơn, nhờ đó khi chính thức kết luận sẽ đạt hiệu quả cao.

f) Tổ chức đối thoại, chất vấn

Khi cần thiết, Đoàn Thanh tra có thể tổ chức đối thoại hoặc chất vấn đối tượng.

Đối thoại là hình thức tổ chức tranh luận, hội thảo hoặc trao đổi ý kiến chủ yếu với những vấn đề không có dấu hiệu sai phạm lớn nhưng cần làm sáng tỏ như: cơ chế quản lý, phương pháp chỉ đạo, điều hành v.v...

Chất vấn là hình thức tổ chức có tính bắt buộc đối tượng phải trả lời những câu hỏi để làm rõ những vấn đề mà Đoàn Thanh tra yêu cầu, cũng là hình thức cho đối tượng thanh tra giải trình.

Đối thoại, chất vấn thực chất là để làm rõ đúng - sai, thấy rõ trách nhiệm của đối tượng, nên rất phức tạp. Đoàn Thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra cần chuẩn bị chu đáo, đưa ra những nội dung, những câu hỏi có trọng tâm để đối tượng trả lời. Đoàn Thanh tra phải chủ động trong suốt quá trình tiến hành đối thoại, chất vấn.

Trong đối thoại hoặc chất vấn, cần thực sự vận dụng nguyên tắc phát huy cao quyền dân chủ của mọi người, tránh những lệch lạc như áp đặt quan điểm, gợi ý theo chủ quan của mình. Chỉ đưa ra kết luận khi đối tượng thanh tra không đủ chứng cứ bảo vệ hoặc khi Đoàn Thanh tra đã có chứng cứ được thẩm tra, xác minh.

200

Việc tiến hành đối thoại hoặc chất vấn phải làm đúng thủ tục hành chính, có biên bản, những ý kiến tiếp thu hoặc giải trình của đối tượng có thể kèm theo băng ghi âm, ghi hình. Biên bản đối thoại, chất vấn được đọc lại cho đối tượng nghe và ký tên. Việc làm này rất cần thiết vì bảo đảm giá trị pháp lý của hồ sơ.

g) Xử lý các hành vi chống đối

Hành vi chống đối thường xảy ra khi đối tượng cố tình muốn che giấu hành vi vi phạm pháp luật. Biểu hiện của hành vi chống đối thường là: cố tình làm chậm trễ hoặc không cung cấp tài liệu, báo cáo; sửa chữa hoặc thay đổi hiện vật, chứng cứ, làm chứng từ giả hoặc hủy bỏ chứng cứ tài liệu; cố ý thuyên chuyển, kỷ luật, điều động… hoặc trù dập, đe doạ để ngăn cản người muốn tố cáo với Đoàn Thanh tra hoặc người có ý thức cộng tác với Đoàn Thanh tra; hối lộ, mua chuộc, đe dọa cán bộ thanh tra hoặc hối lộ cấp trên để che đỡ khuyết điểm, sai phạm cho mình hoặc can thiệp trái pháp luật vào cuộc thanh tra; xúi giục, xuyên tạc để kích động quần chúng hiểu sai sự thật, hiểu sai mục đích cuộc thanh tra và có khi dùng cả bạo lực chống lại người thi hành công vụ.

Để xử lý tình huống “đối tượng thanh tra có hành vi chống đối" cần vận dụng kết hợp tổng hợp nhiều biện pháp với sự tham gia của các cơ quan chức năng. Khi có sự chống đối, Đoàn Thanh tra phải nghiên cứu, phân tích nguyên nhân vì sao đối tượng thanh tra có hành vi chống đối; cùng với việc vận động, thuyết phục, làm tốt công tác tư tưởng, đồng thời phải củng cố hồ sơ, tài liệu, chứng cứ vững chắc và khi cần thiết phải vận dụng các quyền được quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Thanh tra năm 2010.

Cũng cần phải phân biệt rõ giữa hành vi chống đối với quyền được giải trình, khiếu nại của đối tượng. Chống đối là sự cố ý vi phạm quy định của pháp luật bằng những thủ đoạn gian trá, thâm hiểm để cản trở hoặc chống đối hoạt động của Đoàn Thanh tra.

h) Phải xử lý tốt các mối quan hệ

Trong khi tiến hành cuộc thanh tra, phải quan tâm giải quyết tốt các mối quan hệ:

+ Quan hệ nội bộ Đoàn Thanh tra: Đoàn Thanh tra phải đoàn kết nhất trí, bảo đảm tôn trọng nguyên tắc cơ bản nhất là tập trung dân chủ và ý thức kỷ luật cao. Trưởng Đoàn Thanh tra phải là hạt nhân đoàn kết thống nhất, thể hiện vai trò trách nhiệm cao, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm.

+ Quan hệ với người ra quyết định thanh tra: nguyên tắc cơ bản nhất là phải

201

tôn trọng kỷ luật, chế độ báo cáo, thỉnh thị và chấp hành nghiêm chỉnh sự chỉ đạo điều hành của người ra quyết định thanh tra.

+ Quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng: Trong quan hệ này, cần chú ý mối quan hệ giữa Đoàn Thanh tra với các cơ quan trong khối nội chính như: Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân và các mối quan hệ giữa thanh tra với các cơ quan quản lý tổng hợp như kế hoạch, tài chính, thống kê, cơ quan kiểm tra của Đảng. Những quan hệ phối hợp chủ yếu là: cung cấp thông tin, phối hợp xác minh, điều tra, nhất là việc phối hợp xử lý các vi phạm pháp luật bằng các hình thức xử lý kinh tế, hành chính hoặc hình sự, xử lý đảng viên có chức vụ.

k) Lập biên bản, hoàn chỉnh hồ sơ từng phần của cuộc thanh tra

Mỗi Thanh tra viên phải phụ trách từng chuyên đề hoặc tổ công tác tiến hành thanh tra từng chuyên đề, lĩnh vực hoặc từng phòng, ban, đơn vị… Phải lập biên bản và lập hồ sơ từng phần theo mục đích, yêu cầu, nội dung mà kế hoạch cuộc thanh tra đã đề ra.

Hồ sơ báo cáo phải bao gồm đầy đủ các tài liệu sau:

- Báo cáo tường trình;

- Biên bản đối thoại, chất vấn, đối tượng (nếu có);

- Biên bản kiểm tra, kiểm kê, biên bản xác minh, đối chiếu;

- Biên bản tổng hợp kết quả thanh tra từng phần.

Kinh nghiệm cho thấy, nếu biên bản từng phần rõ ràng, chi tiết, hồ sơ, tài liệu, chứng cứ đầy đủ thì báo cáo kết quả thanh tra cuối cùng hay kết luận cả cuộc thanh tra sẽ đạt chất lượng cao.

l) Ghi Nhật ký Đoàn Thanh tra

Nhật ký Đoàn Thanh tra là sổ ghi chép những hoạt động của Đoàn Thanh tra và những nội dung có liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra diễn ra trong ngày, từ khi có quyết định thanh tra đến khi bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền.

Hàng ngày, Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm ghi chép sổ nhật ký và ký xác nhận về nội dung đã ghi chép. Trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn Thanh tra giao việc ghi chép sổ nhật ký cho thành viên Đoàn Thanh tra, nhưng Trưởng đoàn

202

Thanh tra phải có trách nhiệm về việc ghi chép và ký xác nhận nội dung ghi chép đó vào sổ nhật ký Đoàn Thanh tra.

Nội dung nhật ký Đoàn Thanh tra cần phản ánh:

- Ngày, tháng, năm; các công việc đã tiến hành; tên cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra hoặc có liên quan được kiểm tra, xác minh, làm việc;

- Ý kiến chỉ đạo, điều hành của người ra quyết định thanh tra, của Trưởng đoàn Thanh tra (nếu có);

- Khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động thanh tra của Đoàn Thanh tra (nếu có);

- Các nội dung khác có liên quan đến hoạt động của Đoàn Thanh tra (nếu có);

Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm quản lý sổ nhật ký Đoàn Thanh tra trong quá trình thanh tra. Trường hợp bị mất hoặc hư hỏng thì Trưởng đoàn phải báo cáo với Người ra quyết định thanh tra xem xét, giải quyết.

Việc ghi nhật ký Đoàn Thanh tra được thực hiện theo mẫu và phải đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực, rõ ràng và phản ánh đầy đủ công việc diễn ra trong quá trình thanh tra. Sổ nhật ký Đoàn Thanh tra được lưu trong hồ sơ cuộc thanh tra.

m) Kết thúc việc thanh tra trực tiếp

Chuẩn bị kết thúc việc thanh tra trực tiếp, Trưởng đoàn Thanh tra tổ chức họp Đoàn Thanh tra để thống nhất các nội dung công việc cần thực hiện cho đến ngày dự kiến kết thúc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra báo cáo với người ra quyết định thanh tra về dự kiến kết thúc việc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra thông báo bằng văn bản về thời gian kết thúc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra và gửi cho thủ trưởng đối tượng thanh tra biết hoặc nếu cần thiết, có thể tổ chức buổi làm việc với đối tượng thanh tra để thông báo việc kết thúc thanh tra; buổi làm việc được lập thành biên bản và được ký giữa thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra với Trưởng đoàn Thanh tra.

n) Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn Thanh tra

Từng thành viên Đoàn Thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với Trưởng đoàn Thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của báo cáo đó.

203

Trường hợp nhận thấy nội dung báo cáo chưa rõ, chưa đủ thì Trưởng đoàn Thanh tra yêu cầu thành viên Đoàn Thanh tra bổ sung, làm rõ thêm.

Bước 3. Kết thúc cuộc thanh tra

Những căn cứ để kết thúc cuộc thanh tra

- Đối chiếu với mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra.

- Đối chiếu nội dung Kế hoạch tiến hành thanh tra và kết quả Đoàn Thanh tra triển khai thực hiện.

- Đối chiếu các thủ tục Đoàn Thanh tra đã thực hiện trong quá trình thẩm tra, xác minh.

- Sự đòi hỏi bức xúc kết luận sớm nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu công tác quản lý, yêu cầu công luận... ở thời điểm có các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng (kỳ họp HĐND, họp Quốc hội, Đại hội Đảng...).

Kết thúc cuộc thanh tra được chia làm hai giai đoạn và phải tuân thủ một số yêu cầu cụ thể sau:

a) Xây dựng báo cáo kết quả thanh tra

Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày kết thúc việc thanh tra tại cơ quan, đơn vị được thanh tra, Trưởng Đoàn Thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra gửi người ra quyết định thanh tra.

Báo cáo kết quả thanh tra có các nội dung sau đây:

- Kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra;

- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm;

- Ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn Thanh tra với Trưởng đoàn Thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra (nếu có); Trưởng đoàn Thanh tra phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung kết quả thanh tra.

- Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị biện pháp xử lý.

Sản phẩm cuối cùng của Đoàn Thanh tra là bản báo cáo kết quả thanh tra. Vì

204

vậy, để báo cáo kết quả thanh tra đảm bảo tính chính xác, trung thực, khách quan, hợp pháp, hợp lý thì cần phải có bước dự thảo báo cáo kết quả thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm chủ trì xây dựng báo cáo kết quả thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra phải bám sát nội dung, kế hoạch tiến hành thanh tra, kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra; chỉ rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với những vi phạm; đưa ra những kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm; nêu rõ các quy định pháp luật làm căn cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật, kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm.

Trong quá trình xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn Thanh tra tham khảo ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Trưởng đoàn Thanh tra lấy ý kiến tham gia bằng văn bản của các thành viên Đoàn Thanh tra đối với dự thảo báo cáo kết quả thanh tra và hoàn chỉnh báo cáo kết quả thanh tra. Trong trường hợp các thành viên Đoàn Thanh tra có ý kiến khác nhau về nội dung của dự thảo thì Trưởng đoàn Thanh tra xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Người ra quyết định thanh tra về quyết định của mình.

Khi xây dựng báo cáo kết quả thanh tra hoặc trong trường hợp đề xuất chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra, Trưởng đoàn Thanh tra phải tổ chức để các thành viên trong đoàn tham gia đánh giá chứng cứ đối với từng nội dung kết luận, kiến nghị, đề xuất và phải được lập thành biên bản họp Đoàn Thanh tra.

* Xem xét báo cáo kết quả thanh tra

Người ra quyết định thanh tra trực tiếp nghiên cứu hoặc giao cho cơ quan, đơn vị chuyên môn giúp việc nghiên cứu, xem xét các nội dung trong báo cáo kết quả thanh tra.

Trường hợp cần phải làm rõ hoặc bổ sung thêm nội dung trong báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra tổ chức họp Đoàn Thanh tra để nghe Đoàn Thanh tra báo cáo trực tiếp hoặc có ý kiến chỉ đạo bằng văn bản, yêu cầu Trưởng đoàn và các thành viên trong Đoàn Thanh tra báo cáo.

Nếu cần phải tiến hành thanh tra bổ sung, người ra quyết định thanh tra có quyết định thanh tra bổ sung để Đoàn Thanh tra thực hiện.

* Thực hiện ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra về báo cáo kết quả thanh tra

205

Trưởng đoàn Thanh tra tổ chức thực hiện ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra; họp Đoàn Thanh tra để thảo luận báo cáo bổ sung, làm rõ báo cáo kết quả thanh tra.

Trưởng đoàn Thanh tra trình báo cáo bổ sung, làm rõ thêm báo cáo kết quả thanh tra với người ra quyết định thanh tra kèm theo những ý kiến khác nhau của thành viên Đoàn Thanh tra (nếu có).

b) Xây dựng và công bố kết luận thanh tra

* Xây dựng kết luận thanh tra

Theo quy định của luật Thanh tra năm 2010, Kết luận thanh tra có các nội dung sau đây:

+ Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra;

+ Kết luận về nội dung được thanh tra;

+ Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật;

+ Biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị biện pháp xử lý.

Sau khi nhận được báo cáo kết quả thanh tra và báo cáo bổ sung (nếu có) của Đoàn Thanh tra, người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn Thanh tra chủ trì xây dựng dự thảo kết luận thanh tra. người ra quyết định thanh tra tự nghiên cứu hoặc giao cho đơn vị chuyên môn nghiên cứu dự thảo kết luận thanh tra và tham mưu cho mình. Ý kiến tham mưu được thể hiện bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ thanh tra.

Trong qúa trình ra kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra giao cho Đoàn Thanh tra tiến hành thanh tra, làm rõ thêm một số nội dung theo yêu cầu. Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản, làm cơ sở cho việc ra văn bản kết luận thanh tra.

Trường hợp người ra quyết định thanh tra gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra và đối tượng thanh tra có văn bản giải trình thì việc giải trình của đối tượng thanh tra phải thực hiện bằng văn bản và có các chứng cứ để chứng

206

minh cho ý kiến giải trình của mình. Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm nghiên cứu và đề xuất với người ra quyết định thanh tra hướng xử lý nội dung giải trình của đối tượng thanh tra.

* Ký ban hành và công bố kết luận thanh tra

Căn cứ vào báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn Thanh tra, sau khi xem xét giải trình của đối tượng thanh tra, người ra quyết định thanh tra ra văn bản kết luận thanh tra. Để nâng cao hiệu qủa công tác thanh tra, kết luận thanh tra phải nêu rõ được đúng, sai; tính chất, mức độ và tác hại; nêu rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan; quy rõ trách nhiệm; kiến nghị các giải pháp hoặc quyết định các hình thức xử lý kinh tế, hành chính và hình sự (nếu có).

Kết luận thanh tra phải có sức thuyết phục cao, biểu hiện ở tính đúng đắn, khách quan và có giá trị thiết thực về kinh tế, xã hội bao gồm: ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật để góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

Trưởng đoàn Thanh tra hoàn chỉnh kết luận thanh tra để người ra quyết định thanh tra ký ban hành. Kết luận thanh tra được gửi cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định.

Trường hợp trong kết luận có những biện pháp xử lý thuộc thẩm quyền của Người ra quyết định thanh tra thì Trưởng đoàn Thanh tra xây dựng dự thảo quyết định xử lý theo quy định của pháp luật, trình người ra quyết định thanh tra ký ban hành. Trường hợp trong kết luận có biện pháp xử lý không thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra thì kết luận thanh tra được gửi cho thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm cơ sở xem xét xử lý.

Đối với kết luận thanh tra chuyên ngành, thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Thanh tra năm 2010.

Theo quy định tại Điều 39 Luật Thanh tra năm 2010 và Thông tư số 02/2010/TT-TTCP thì Kết luận thanh tra phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận thanh tra và lựa chọn ít nhất một trong các hình thức công khai theo quy định của Chính phủ, cụ thể là:

- Công bố tại cuộc họp.

207

- Tổ chức họp báo;

- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

- Đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp;

- Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra;

- Cung cấp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

* Xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra

Theo Điều 40 Luật Thanh tra năm 2010, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ký kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra.

Theo khoản 2 Điều 41 Luật Thanh tra năm 2010 thì “Đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thi hành kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

c) Hoàn tất hồ sơ cuộc thanh tra

Hồ sơ cuộc thanh tra phải được lập theo quy định tại Điều 59 Luật Thanh tra năm 2010 và Thông tư số 02/2010/TT-TTCP. Hồ sơ thanh tra gồm có:

- Quyết định thanh tra; kế hoạch tiến hành thanh tra, các văn bản bổ sung, sửa đổi quyết định, kế hoạch tiến hành thanh tra, thay đổi, bổ sung Trưởng đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra (nếu có); biên bản thanh tra; biên bản làm việc, biên bản kiểm tra, xác minh; báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra; báo cáo tiến độ, báo cáo thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn Thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra;

- Kết luận thanh tra;

- Văn bản về việc xử lý, kiến nghị việc xử lý;

- Nhật ký Đoàn Thanh tra và các tài liệu khác có liên quan đến cuộc thanh tra;

208

- Tài liệu khác có liên quan.

Khi tiến hành thanh tra độc lập, hồ sơ thanh tra gồm có:

- Văn bản phân công nhiệm vụ thanh tra;

- Biên bản thanh tra (nếu có);

- Quyết định xử lý hoặc văn bản kiến nghị việc xử lý;

- Tài liệu khác có liên quan.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc lập hồ sơ cuộc thanh tra, bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn Thanh tra. Trường hợp trở ngại do khách quan thì thời gian bàn giao hồ sơ thanh tra có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày. Trong trường hợp người ra quyết định thanh tra không phải là thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn Thanh tra thì Trưởng đoàn Thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra để xin ý kiến chỉ đạo việc bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền.

Việc bàn giao hồ sơ thanh tra phải được lập thành biên bản; việc lập, quản lý, sử dụng hồ sơ thanh tra được thực hiện theo quy định của pháp luật.

V. CÔNG TÁC SAU THANH TRA

1. Tổng kết hoạt động của Đoàn Thanh tra

Để phát huy hiệu lực, hiệu quả cuộc thanh tra, người ban hành quyết định thanh tra cần tiến hành các công việc:

- Báo cáo kết quả cuộc thanh tra lên cấp trên theo quy định của pháp luật.

- Ra quyết định xử lý thuộc thẩm quyền đối với những vấn đề Đoàn Thanh tra đã phát hiện.

- Quyết định chuyển hồ sơ những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra xem xét để khởi tố hình sự (nếu có). Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền quyết định xử lý kỷ luật hành chính hoặc kinh tế đối với các sai phạm.

- Xem xét giải quyết những khiếu nại, tố cáo của đối tượng đối với kết luận, quyết định về thanh tra hoặc với khiếu nại, tố cáo đối với Đoàn Thanh tra.

- Tổ chức kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị, quyết định xử lý của người ra

209

quyết định thanh tra, của cơ quan có thẩm quyền.

- Quyết định các biện pháp tuyên truyền, giáo dục để phát huy hiệu quả cuộc thanh tra, khen thưởng những người có thành tích trong hoạt động thanh tra.

2. Những công việc của người ra quyết định thanh tra

Đây là việc làm rất quan trọng, có tác dụng trực tiếp rèn luyện cán bộ, nâng cao năng lực cán bộ, hiệu quả hoạt động của ngành, nhưng lại là vấn để yêu nhất hiện nay.

- Để đánh giá một Đoàn Thanh tra hoặc thành viên hoàn thành cuộc thanh tra cần chú ý các vấn đề:

- Việc hoàn thành cuộc thanh tra có chất lượng và đúng thời hạn.

- Không để xảy ra vi phạm kỷ luật, đoàn kết nội bộ cùng hoàn thành nhiệm vụ.

- Có ý thức tổ chức, chấp hành nghiêm kỷ luật, chế độ thỉnh thị, báo cáo.

- Trong quá trình thanh tra, sau thanh tra không để phát sinh những tình huống phức tạp; giải quyết trọn vẹn những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đoàn Thanh tra.

210

Chuyên đề 7

CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA

1. Vị trí, vai trò của Trương đoàn thanh tra

Theo quy định tại Điều 5 Luật Thanh tra năm 2010 (sau đây gọi tắt là Luật Thanh tra), các cơ quan thanh tra nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Hoạt động thanh tra hành chính cũng như hoạt động thanh tra chuyên ngành chủ yếu thông qua việc tiến hành các cuộc thanh tra và được thực hiện bởi các Đoàn thanh tra (trừ trường hợp Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành như quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Thanh tra).

Đoàn thanh tra được thành lập theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước hoặc Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước để tiến hành cuộc thanh tra theo nội dung, đối tượng, thời gian đã ghi trong quyết định thanh tra. Đoàn thanh tra có Trưởng đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra. Trưởng đoàn là người chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Đoàn thanh tra, vì thế vai trò của Trưởng đoàn có tầm quan trọng, là một trong các yếu tố quyết định kết quả hoạt động của Đoàn thanh tra.

Thời hạn thanh tra được xác định từ khi công bố quyết định thanh tra đến khi Đoàn thanh tra kết thúc việc thanh tra tại cơ quan, đơn vị. Đoàn thanh tra hoạt động với cơ cấu, tổ chức chặt chẽ, thành viên của Đoàn bao gồm các cán bộ, thanh tra viên của các cơ quan thanh tra nhà nước và cán bộ được trưng tập từ các cơ quan khác (khi cần thiết). Đoàn thanh tra hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp của Trưởng đoàn nhằm thực hiện theo mục đích, nội dung, yêu cầu cuộc thanh tra đặt ra. Do vậy, Trưởng đoàn thanh tra phải thoả mãn những yêu cầu nhất định.

Trưởng đoàn thanh tra trước hết phải là người có năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động Đoàn thanh tra. Trưởng đoàn có vai trò, trách nhiệm cao nhất,

211

phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ký quyết định thanh tra về kết quả cuộc thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra vừa phải trực tiếp tiến hành thanh tra một số nội dung trong quyết định thanh tra, vừa phải chỉ đạo các thành viên tiến hành thanh tra và quyết định cuối cùng về kết quả cuộc thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra có vai trò là người tổ chức và quản lý, nên phải là cán bộ có năng lực tổ chức và chỉ đạo, điều hành. Hoạt động của Đoàn thanh tra trong quá trình thanh tra phải được quản lý chỉ đạo chặt chẽ và rất cụ thể, tính kỷ luật cao. Mỗi thành viên trong Đoàn được giao một hoặc một số nội dung cụ thể với thời gian nhất định, nhưng tất cả đều phải tuân theo nội dung, mục đích và yêu cầu chung của cuộc thanh tra. Do vậy, ở đây không phải là sự quản lý, điều hành hoạt động thông thường của một tổ chức, mà là hoạt động của Đoàn thanh tra theo một chương trình, kế hoạch với nội dung, nhiệm vụ và thời gian cụ thể, trong đó Trưởng đoàn giữ vai trò quyết định trong suốt quá trình tiến hành thanh tra. Trưởng đoàn phải am hiểu về hoạt động quản lý, điều hành thì mới đề ra được nhiệm vụ, kế hoạch thanh tra sát, đúng, phân công cho mỗi thành viên và hướng dẫn họ hoạt động có trọng tâm, trọng điểm cụ thể để thực hiện theo đúng kế hoạch.

Mỗi thành viên trong Đoàn được phân công xem xét, kết luận từng vấn đề cụ thể, nhưng Trưởng đoàn phải từ những vấn đề cụ thể đó, nghiên cứu, tổng hợp, rút ra thành những kết luận chung của cuộc thanh tra. Với vai trò đó, đòi hỏi Trưởng đoàn không phải chỉ là người chỉ đạo cụ thể, mà phải có nhận thức bao quát hơn, có trình độ tổng hợp cao mới có thể từ những sự việc cụ thể, khác nhau, phân tích làm rõ mối liên hệ hữu cơ giữa các sự việc, hành vi đảm bảo cho việc kết luận chính xác, khách quan và kiến nghị xử lý đúng người, đúng lỗi và khả thi.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn

Theo quy định tại Điều 46, Điều 53 Luật Thanh tra thì Trưởng đoàn thanh tra có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Tổ chức, chỉ đạo các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung quyết định thanh tra;

- Kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra quy định tại Điều 48 của Luật này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao;

- Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; khi cần thiết có thể tiến hành kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng thanh tra;

212

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó;

- Yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý;

- Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra có hành vi tẩu tán tài sản;

- Quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật;

- Tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

- Kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra;

- Báo cáo với người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó.

Ngoài ra, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành còn có các nhiệm vụ, quyền hạn:

- Yêu cầu đối tượng thanh tra xuất trình giấy phép, đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề.

- Lập biên bản về việc vi phạm của đối tượng thanh tra.

- Xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định trên đây, Trưởng đoàn thanh tra phải:

- Chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thanh tra và trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật;

213

- Khi xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp: yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng trái pháp luật; yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản; niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ hành vi; kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra thì Trưởng đoàn thanh tra phải quyết định hoặc kiến nghị hủy bỏ ngay việc áp dụng biện pháp đó.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra hành chính được sử dụng dấu của cơ quan chủ trì tiến hành thanh tra khi ban hành những văn bản để áp dụng các biện pháp thực hiện quyền thanh tra theo hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ.

II. NỘI DUNG CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA

1. Tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Đoàn thanh tra

Trong hoạt động thanh tra có hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Theo quy định tại Điều 56 Luật Thanh tra; Điều 33 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP thì trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành do Chính phủ quy định tại các Nghị định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, việc tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động thanh tra chuyên ngành của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Các nội dung dưới đây, chủ yếu áp dụng đối với việc tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành của Trưởng đoàn thanh tra hành chính.

a. Bước chuẩn bị

Bước chuẩn bị thanh tra được tính từ khi chuẩn bị ban hành quyết định thanh tra cho đến khi Đoàn thanh tra công bố quyết định thanh tra tại cơ quan là đối tượng thanh tra trực tiếp.

Bước chuẩn bị thanh tra là giai đoạn đầu của cuộc thanh tra, người được dự kiến làm Trưởng đoàn thanh tra cần chủ động làm tốt một số việc sau đây:

a1. Nghiên cứu nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra

214

Trưởng đoàn thanh tra phải nghiên cứu kỹ kế hoạch thanh tra của cơ quan thanh tra đã được thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; nội dung thanh tra, nguồn gốc và tài liệu làm căn cứ ra quyết định thanh tra để từ đó xác định mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra; xác định trọng tâm, trọng điểm, phương pháp tiến hành cuộc thanh tra; bố trí lực lượng, kinh phí phục vụ cho cuộc thanh tra. Quá trình nghiên cứu, người ra quyết định thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra phải lường hết được những thuận lợi, khó khăn, những yếu tố tác động đến cuộc thanh tra để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm đạt được những mục đích mà cuộc thanh tra đặt ra. Đây là việc làm rất quan trọng, có tác dụng định hướng, xuyên suốt quá trình hoạt động thanh tra.

a2. Khảo sát, nắm tình hình để ban hành quyết định thanh tra

Căn cứ vào mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra, trước khi ra quyết định thanh tra, trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra có thể giao việc khảo sát, nắm tình hình của đối tượng thanh tra cho người được dự kiến là Trưởng đoàn thanh tra.

Thông thường, việc khảo sát, nắm tình hình của đối tượng thanh tra được đặt ra trong những trường hợp như: nội dung thanh tra là việc thực hiện một chủ trương, chính sách hay lĩnh vực công tác lớn, phải tiến hành trên diện rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; cuộc thanh tra phức tạp, liên quan đến nhiều đầu mối, nhiều cấp quản lý có trách nhiệm liên quan; để kết luận, đánh giá, Người ra quyết định thanh tra cần có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng.

Đối với cuộc thanh tra chuyên ngành có tính chất thường xuyên, không nhất thiết phải thực hiện khảo sát.

Việc khảo sát, nắm tình hình của đối tượng thanh tra được thực hiện theo trình tự như sau:

- Tổ chức khảo sát, nắm tình hình

Người ra quyết định thanh tra có thể thành lập tổ công tác hoặc giao cho Thanh tra viên (tối thiểu là 2 người) trực tiếp tiến hành khảo sát (gọi chung là người khảo sát) do người được dự kiến bố trí là Trưởng đoàn trực tiếp chủ trì, chỉ đạo việc khảo sát. Kinh nghiệm cho thấy việc bố trí như trên giúp cho Đoàn thanh tra rút ngắn được thời gian thanh tra ban đầu, không mất nhiều thời gian khi thanh tra trực tiếp đồng thời tạo điều kiện cho Trưởng đoàn thanh tra nhập cuộc ngay từ đầu và làm quen với đối tượng thanh tra.

215

- Nội dung khảo sát, nắm tình hình

Nội dung khảo sát, nắm tình hình cần tập trung vào những việc sau đây:

+ Hệ thống các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn pháp luật liên quan đến hoạt động của đối tượng thanh tra;

+ Các thông tin liên quan đến đặc điểm, tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra; các báo cáo của đối tượng thanh tra về kết quả hoạt động tài chính, kết quả thực hiện nhiệm vụ và chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước;

+ Các thông tin liên quan đến các mối quan hệ chủ yếu gắn với công tác tổ chức và hoạt động của đối tượng thanh tra;

+ Việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra của các cơ quan chức năng và hoạt động tự kiểm tra, kiểm soát của đối tượng thanh tra trong thời kỳ được thanh tra;

+ Nội dung các đơn khiếu nại, tố cáo trong nội bộ; các thông tin trên công luận, báo chí và dư luận về những tiêu cực, vi phạm của đối tượng thanh tra;

+ Các thông tin liên quan đến những nội dung dự kiến thanh tra.

- Phương pháp khảo sát, nắm tình hình:

Phương pháp khảo sát, nắm tình hình được thực hiện thông qua nhiều kênh, chủ yếu là:

+ Nắm trực tiếp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra;

+ Cơ quan cấp trên của đối tượng thanh tra;

+ Cơ quan thống kê, cơ quan Thuế nơi quản lý đối tượng thanh tra (nếu là doanh nghiệp); các cơ quan hữu quan khác có liên quan;

+ Tập hợp thông tin qua báo chí, dư luận, mạng internet;

+ Tổ chức tiếp xúc với những người đi khiếu nại, tố cáo; người có trách nhiệm am hiểu về những nội dung dự kiến thanh tra.

- Báo cáo kết quả khảo sát

Người khảo sát có trách nhiệm tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin thu nhận được, lập báo cáo gửi người ra quyết định thanh tra và người giao nhiệm vụ khảo sát các nội dung sau:

216

+ Khái quát về mô hình tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra;

+ Kết quả khảo sát, nắm tình hình theo từng nội dung được thanh tra;

+ Nhận định những vấn đề nổi cộm, có dấu hiệu sai phạm, kiến nghị, đề xuất những nội dung cần thanh tra và phương pháp tổ chức thực hiện.

- Thời gian khảo sát

Để tránh gây cản trở, phiền hà, khó khăn cho hoạt động bình thường của đơn vị là đối tượng thanh tra, thời gian khảo sát, nắm tình hình do người ra quyết định thanh tra quyết định nhưng không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày giao nhiệm vụ khảo sát.

a3. Giúp người ra quyết định thanh tra ban hành quyết định thanh tra

Dựa trên các căn cứ để ra quyết định thanh tra được quy định tại Điều 38 Luật Thanh tra và báo cáo kết quả khảo sát, nắm tình hình (nếu có), người ra quyết định thanh tra giao nhiệm vụ cho cá nhân, đơn vị chuyên môn của mình soạn thảo quyết định thanh tra. Thông thường, người ra quyết định thanh tra giao việc này cho người được dự kiến là Trưởng đoàn thanh tra soạn thảo.

Nội dung quyết định thanh tra được quy định tại khoản 1 Điều 44; khoản 1 Điều 52 Luật Thanh tra, gồm các nội dung: căn cứ pháp lý để thanh tra; đối tượng, nội dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra; thời hạn tiến hành thanh tra; Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên khác của Đoàn thanh tra; cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ chỉ đạo, giám sát hoạt động Đoàn thanh tra.

Đối với cuộc thanh tra hành chính, theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm ký quyết định thanh tra và chậm nhất là 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra, quyết định thanh tra phải được gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất; Quyết định thanh tra phải được công bố chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày ký quyết định thanh tra. Đối với cuộc thanh tra chuyên ngành, thời hạn gửi quyết định thanh tra, thời hạn kể từ ngày ký quyết định thanh tra đến ngày công bố quyết định thanh tra được thực hiện theo quy định tại Điều 56 Luật Thanh tra.

a4. Tổ chức xây dựng kế hoạch thanh tra trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt.

Quyết định thanh tra là một văn bản có giá trị pháp lý, là căn cứ để chỉ đạo tiến hành thanh tra. Kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra là tài liệu nội bộ của Đoàn

217

thanh tra mang tính bí mật nhà nước, thể hiện mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp để Đoàn thanh tra thực hiện quyết định thanh tra. Vì vậy, Kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra phải được quản lý theo chế độ tài liệu “MẬT”, không được gửi cho đối tượng thanh tra.

Song song với việc dự thảo quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chủ trì xây dựng dự thảo kế hoạch tiến hành thanh tra.

Dự thảo Kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra phải cụ thể các nội dung sau đây:

- Mục đích, yêu cầu; nội dung thanh tra, trong đó xác định rõ trọng tâm và trọng điểm nội dung thanh tra; yêu cầu phải đạt được trong từng nội dung cụ thể phù hợp với thời gian quy định;

- Đối tượng thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra;

- Phương pháp tiến hành thanh tra

Tuỳ theo nội dung thanh tra và khả năng cung cấp hồ sơ, tài liệu của đối tượng thanh tra mà đề ra các phương pháp thanh tra và biện pháp khác như: nghiên cứu sổ sách, tài liệu tổng hợp và chi tiết, đối chiếu so sánh giữa các nguồn tài liệu khác nhau, trực tiếp gặp gỡ đối tượng, nhân chứng và người có liên quan, kiểm tra xác minh tại chỗ và những nơi khác, vấn đề niêm phong tài liệu, đình chỉ một số hoạt động của nơi được thanh tra...;

Trong Kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra phải dự kiến các tình huống có thể xảy ra và các biện pháp hạn chế hoặc xử lý tình huống, như: tài liệu để xem xét không đầy đủ; cán bộ nhân viên có liên quan đến nội dung cần thanh tra ốm đau, đi công tác phải vắng mặt dài ngày; đối tượng thanh tra có thể có hành vi đối phó, cản trở hoạt động thanh tra...;

- Dự kiến phân công nhiệm vụ cho các thành viên Đoàn thanh tra.

- Tiến độ thực hiện, chế độ thông tin báo cáo, việc sử dụng phương tiện, thiết bị, kinh phí và những điều kiện vật chất cần thiết khác phục vụ hoạt động của Đoàn thanh tra.

Kế hoạch thanh tra mặc dù đã được soạn thảo, chuẩn bị kỹ, song trong quá trình tiến hành thanh tra thường phát sinh những tình huống, những vấn đề mới nảy sinh. Do vậy, Trưởng đoàn phải nhạy bén, kịp thời nắm bắt tình hình để kịp thời, báo cáo người ra quyết định thanh tra điều chỉnh kế hoạch cho thích hợp.

218

Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm họp Đoàn thanh tra để thảo luận dự thảo kế hoạch tiến hành thanh tra, trọng tâm cần tập trung thảo luận là:

- Mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra;

- Trình tự các bước tiến hành thanh tra và phương pháp cụ thể tiến hành thanh tra;

- Trách nhiệm cụ thể mỗi người được phân công;

- Nguyên tắc, mối quan hệ phối hợp công tác giữa các bộ phận và cá nhân.

Yêu cầu đặt ra trong thảo luận nhằm làm cho mọi người nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ chung cũng như nhiệm vụ riêng của từng bộ phận và cá nhân, đồng thời qua đó mỗi thành viên có những góp ý bổ sung, hoàn chỉnh bản kế hoạch thanh tra của Đoàn.

Những ý kiến khác nhau phải được báo cáo người ra quyết định thanh tra xem xét trước khi phê duyệt.

Theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì thời gian xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra do Người ra quyết định thanh tra quyết định, nhưng không quá 5 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra; trường hợp thanh tra đột xuất thì thời hạn không quá 03 ngày; bản kế hoạch thanh tra phải được người ra quyết định thanh tra phê duyệt.

a5. Phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra

Theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, sau khi kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra được phê duyệt, Trưởng đoàn thanh tra tổ chức họp Đoàn để quán triệt kế hoạch tiến hành thanh tra, phân công nhiệm vụ cho các thành viên Đoàn thanh tra; thống nhất phương pháp, cách thức tiến hành thanh tra; khi cần thiết tập huấn nghiệp vụ cho thành viên Đoàn thanh tra.

Do đặc thù của thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao nên nhiệm vụ thanh tra thường rất đa dạng. Mặt khác, thành phần tham gia Đoàn thanh tra còn bao gồm cán bộ có trình độ khác nhau, thuộc nhiều cơ quan, đơn vị ngành nghề khác nhau. Vì vậy, việc tập huấn để thống nhất chung quan điểm, nhận thức đối với nhiệm vụ, phương pháp tiến hành thanh tra là rất cần thiết; tạo điều kiện để thành viên Đoàn thanh tra được bổ túc những kiến thức, nhất là về cơ chế quản lý, các căn cứ pháp luật có liên quan đến nội dung thanh tra, đặc biệt là cuộc thanh tra có nhiều nội

219

dung phức tạp, cuộc thanh tra trên diện rộng, có nhiều cấp thanh tra chỉ đạo, tiến hành thanh tra trên nhiều địa bàn.

Khi tổ chức tập huấn, Trưởng đoàn thanh tra cần biên soạn tài liệu tập huấn về nghiệp vụ. Nội dung chính của tập huấn gồm:

- Quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung quyết định thanh tra và kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra;

- Nghiên cứu các chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý các lĩnh vực liên quan đến nội dung thanh tra;

- Tìm hiểu đặc điểm và tình hình hoạt động của đối tượng thanh tra về những nội dung được thanh tra;

- Thảo luận các tình huống và các biện pháp xử lý;

- Quán triệt Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006; số 2894/2008/QĐ-TTCP ngày 23/12/2008 của Tổng thanh tra về Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra;

- Một số vấn đề khác có liên quan.

Căn cứ kế hoạch tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra chỉ đạo các thành viên Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với Trưởng đoàn thanh tra.

a6. Xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo

Báo cáo theo đề cương của Đoàn thanh tra về những nội dung thanh tra là yêu cầu bắt buộc với đối tượng thanh tra và là một văn bản có giá trị pháp lý được lưu giữ trong hồ sơ cuộc thanh tra, đồng thời thể hiện tính dân chủ của Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra, tạo cơ hội cho đối tượng thanh tra được báo cáo, được tự đánh giá. Mặt khác, qua báo cáo, Đoàn thanh tra cũng thấy được mức độ trung thực, tinh thần hợp tác và sự tuân thủ pháp luật của đối tượng thanh tra.

Báo cáo của đối tượng thanh tra có một tác dụng rất quan trọng. Trước hết, báo cáo này đã giúp cho Đoàn thanh tra nhanh chóng tiếp cận, nghiên cứu, xác định trọng tâm, trọng điểm thanh tra. Mặt khác, báo cáo của đối tượng thanh tra là một căn cứ để từ đó, Đoàn thanh tra cân nhắc, chọn lọc những vấn đề cần tập trung xác minh và thu thập chứng cứ. Muốn vậy, Báo cáo của đối tượng thanh tra phải rõ ràng; có số liệu, có sự đánh giá của đối tượng thanh tra, tự xác định trách nhiệm;

220

phải đúng thời gian quy định, phải kịp thời phục vụ cho Đoàn thanh tra. Ngoài báo cáo chung, khi cần thiết có thể yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo theo bảng, biểu do Đoàn thanh tra xây dựng.

Yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo là việc làm bắt buộc với bất cứ cuộc thanh tra nào, nó giúp cho Đoàn thanh tra nắm được những vấn đề chung về đối tượng thanh tra và nội dung hoạt động của cơ quan, đơn vị được thanh tra.

Song song với việc dự thảo quyết định và kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chủ trì cùng các thành viên trong Đoàn thanh tra xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung được thanh tra. Đề cương yêu cầu báo cáo gồm một số nội dung chủ yếu là:

- Đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng tới quá trình thực hiện nhiệm vụ của đối tượng thanh tra trong thời kỳ được thanh tra; việc quản lý tổ chức, bộ máy, con người; việc phân cấp giữa đối tượng thanh tra và các đơn vị trực thuộc; việc phân cấp bộ máy kế toán; mối quan hệ giữa đơn vị là đối tượng thanh tra với các đơn vị cấp dưới, với đơn vị cấp trên; quy chế quản lý tài chính, tài sản, chi tiêu nội bộ…

- Căn cứ kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra đã được phê duyệt, đề cương yêu cầu báo cáo của Đoàn thanh tra cần gợi ra những điểm thật sát với nội dung cuộc thanh tra, nhất là những nội dung quan trọng, như: kết quả thực hiện các nội dung được thanh tra; ưu, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, điều hành khi thực hiện nhiệm vụ là nội dung thanh tra; nguyên nhân khách quan, chủ quan của ưu, khuyết điểm. Đây là một trong những căn cứ quan trọng cho kết luận cuộc thanh tra sau này không bị sai lệch, phiến diện.

- Những vướng mắc và kiến nghị của đối tượng thanh tra với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Cần chú ý khi xây dựng đề cương yêu cầu báo cáo là: không tiết lộ những vi phạm của đối tượng mà Đoàn thanh tra đã nắm được; không tiết lộ kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra cũng như những trọng tâm, trọng điểm và phương pháp tiến hành của Đoàn thanh tra để hạn chế sự bao che, chống đối của đối tượng.

Kinh nghiệm cho thấy, để báo cáo của đối tượng thanh tra sát với thực tế; tận dụng được những tài liệu mà đối tượng thanh tra đã có; hạn chế yêu cầu những số liệu, tài liệu mà đối tượng thanh tra phải đầu tư nhiều công sức vào việc hoàn thiện báo cáo thì Đoàn thanh tra nên trao đổi trực tiếp với đối tượng thanh tra về đề cương yêu cầu báo cáo.

221

Căn cứ kế hoạch tiến hành thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo; ký văn bản có kèm theo đề cương yêu cầu báo cáo và gửi cho đối tượng thanh tra trước ngày công bố quyết định thanh tra. Trong văn bản, Trưởng đoàn thanh tra phải quy định cách báo cáo (báo cáo bằng văn bản, gửi file qua hộp thư điện tử), thời gian, địa chỉ nộp báo cáo về Đoàn thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tiếp nhận văn bản báo cáo của đối tượng thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra tổ chức cho Đoàn thanh tra nghe đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung thanh tra theo đề cương đã yêu cầu.

a7. Thông báo về việc công bố quyết định thanh tra

Theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra; trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chuẩn bị văn bản để người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Thông báo phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.

Thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra gồm có đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì thanh tra, Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra; trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra mời đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.

Để tạo điều kiện cho đối tượng thanh tra chủ động sắp xếp, bố trí thời gian, thành phần, địa điểm thì Trưởng đoàn thanh tra nên trao đối trước nội dung thông báo cho thủ trưởng đơn vị là đối tượng thanh tra.

a.8. Chuẩn bị kinh phí, phương tiện vật chất

Đây là một trong những điều kiện cần thiết để Đoàn thanh tra thực thi công vụ. Căn cứ vào định mức, tiêu chuẩn và quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo thành viên Đoàn thanh tra xây dựng dự trù kinh phí, phương tiện, vật chất phục vụ hoạt động thanh tra để người có thẩm quyền phê duyệt. Việc chuẩn bị chu đáo của Trưởng đoàn thanh tra sẽ hạn chế tiêu cực, hạn chế việc phát sinh, gây phiền hà cho cơ quan, đơn vị được thanh tra.

222

b. Trực tiếp tiến hành thanh tra

Trực tiếp tiến hành thanh tra được xác định tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến khi kết thúc việc thanh tra tại đơn vị được thanh tra.

Đây là giai đoạn quan trọng nhất đòi hỏi Trưởng đoàn thanh tra phải tập trung chỉ đạo khẩn trương, linh hoạt, năng động và sáng tạo mới có thể kết thúc cuộc thanh tra theo đúng yêu cầu về nội dung và tiến độ.

Trong giai đoạn này, Trưởng đoàn cần tập trung chỉ đạo các công việc sau:

b1. Công bố quyết định thanh tra

Phiên làm việc đầu tiên của Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra có nội dung chủ yếu là công bố quyết định thanh tra.

Theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra.

Tại phiên họp công bố quyết định thanh tra, nhất thiết phải có mặt Thủ trưởng đơn vị là đối tượng thanh tra; thủ trưởng các đơn vị có liên quan trực thuộc đối tượng thanh tra. Trong một số cuộc thanh tra có thể mở rộng đến đại diện tổ chức Đảng, công đoàn, thanh tra nhân dân, đại diện cơ quan quản lý đơn vị được thanh tra tham dự cuộc họp.

Trưởng đoàn thanh tra chủ trì buổi công bố quyết định thanh tra; đọc toàn văn quyết định thanh tra; quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung, thời hạn cuộc thanh tra đã ghi trong quyết định; làm công tác chính trị - tư tưởng để đối tượng thanh tra thông suốt quan điểm, có nhận thức đúng đắn về cuộc thanh tra.

Khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn thanh tra, quyền và trách nhiệm của đối tượng thanh tra theo quy định của pháp luật; đề ra chương trình và quan hệ công tác; thống nhất với đối tượng thanh tra về lịch làm việc; lề lối và phương pháp công tác; các nội dung cần thiết khác khi làm việc tại cơ quan đơn vị là đối tượng thanh tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra báo cáo về những nội dung theo đề cương đã yêu cầu. Qua nghe báo cáo của đối tượng thanh tra chuẩn bị, nếu thấy đối tượng thanh tra chưa nhận thức đầy đủ nội dung trong quyết định thanh tra, hoặc đối tượng báo cáo chưa đầy đủ thì có thể gợi ý đối tượng thanh tra để báo cáo rõ thêm. Trưởng đoàn có nhận xét bước đầu, nêu lên một số vấn đề

223

cần chú ý, yêu cầu đối tượng thanh tra chuẩn bị tiếp để báo cáo bổ sung theo yêu cầu của Đoàn thanh tra. Trường hợp đối tượng thanh tra chưa chuẩn bị kịp báo cáo bằng văn bản theo yêu cầu thì Trưởng đoàn thanh tra cân nhắc, có thể chấp nhận để đối tượng thanh tra báo cáo và yêu cầu thời gian phải gửi báo cáo cho Đoàn.

Trên cơ sở báo cáo và làm việc trực tiếp với đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn phải nghiên cứu kỹ, khai thác từ trong báo cáo, kết hợp các nguồn thông tin khác, chọn vấn đề cần tập trung chỉ đạo thanh tra, xác minh đối chiếu để làm rõ bản chất của từng sự việc, đồng thời chỉ đạo các thành viên trong Đoàn triển khai thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch.

Trưởng đoàn thanh tra phân công thành viên Đoàn thanh tra ghi biên bản về việc công bố quyết định thanh tra. Biên bản này được ký giữa Trưởng đoàn thanh tra và thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.

Việc công bố quyết định thanh tra tại đơn vị là đối tượng thanh tra có một ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện ý chí của Nhà nước trong hoạt động thanh tra. Đây là buổi làm việc đầu tiên nên Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm giữ thế chủ động thông qua một số việc cụ thể là:

- Xây dựng nội dung chương trình làm việc bằng văn bản để thông báo ngay từ đầu buổi công bố quyết định thanh tra;

- Kiểm tra, đôn đốc các thành viên của Đoàn mặc trang phục theo quy định tại Thông tư số 03/2010/TT-TTCP ngày 16/7/2010 của Thanh tra Chính phủ.

- Tập trung Đoàn thanh tra để đến cuộc họp công bố quyết định thanh tra trước giờ quy định;

- Bố trí để Đoàn thanh tra ngồi tập trung, theo trật tự thứ bậc, nhằm tạo sự thống nhất của Đoàn đồng thời giữ thế chủ động trong giao;

- Phân công thành viên của Đoàn thanh tra theo dõi danh sách người dự họp của đối tượng thanh tra để đưa vào Biên bản công bố quyết định thanh tra và thuận lợi khi giao tiếp, xưng hô trong cuộc họp;

- Giữ không khí làm việc nghiêm túc, nhưng không căng thẳng, tạo tâm lý tin tưởng cho đối tượng thanh tra.

Thời gian dành cho buổi công bố quyết định thanh tra cần ngắn gọn; không tranh luận giữa Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra.

224

b2. Thu thập thông tin tài liệu, đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật

Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, Đoàn thanh tra có trách nhiệm thu thập, nghiên cứu, phân tích thông tin, tài liệu, chứng cứ; đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra liên quan đến nội dung thanh tra. Trường hợp cần phải tiến hành kiểm tra, xác minh để việc đánh giá bảo đảm tính khách quan, chính xác thì thành viên Đoàn thanh tra báo cáo Trưởng đoàn thanh tra xem xét, quyết định.

Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xem xét, xử lý kịp thời kiến nghị của thành viên Đoàn thanh tra; trường hợp vượt quá thẩm quyền thì báo cáo ngay người ra quyết định thanh tra xem xét, quyết định.

Đây là giai đoạn quyết định đến kết quả, chất lượng của cuộc thanh tra. Vì vậy, Trưởng đoàn thanh tra cần làm tốt một số việc sau đây:

b2.1. Sử dụng các quyền trong hoạt động thanh tra

Sau khi công bố quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 53 Luật Thanh tra.

Các nhiệm vụ, quyền hạn trên là quyền lực Nhà nước được pháp luật quy định, cho phép Trưởng đoàn thanh tra sử dụng nhằm đảm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ trong các cuộc thanh tra. Khi sử dụng các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên cần chú ý:

- Phải sử dụng đúng thẩm quyền được pháp luật cho phép; các quyền đưa ra phải đúng lúc, đúng chỗ và nội dung các quyền đó phải phục vụ đúng mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra. Việc thực hiện đúng thẩm quyền và nội dung các quyền gắn với việc công khai, dân chủ, chú trọng việc giải thích đến quyền và nghĩa vụ có tác dụng thiết thực, tạo được lòng tin, tránh được sự hoài nghi, do dự từ phía đối tượng thanh tra.

- Việc thực hiện các quyền phải bằng văn bản, đúng thể thức, đúng trình tự, thủ tục sẽ làm tăng tính nghiêm minh của quyền hạn được đưa ra, buộc đối tượng thanh tra phải thực hiện, không có lý do trì hoãn hoặc từ chối thực hiện.

Trưởng đoàn thanh tra áp dụng và chỉ đạo áp dụng chủ yếu là quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu. Cần lưu ý là: việc yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ, tài liệu phải bằng văn bản; trong văn bản phải ghi rõ tên, loại tài liệu cần cung

225

cấp; thời gian, địa điểm cung cấp tài liệu; tên thành viên Đoàn thanh tra tiếp nhận tài liệu. Văn bản này được lập thành hai bản, một bản lưu hồ sơ, một bản giao cho đối tượng thanh tra. Cả hai bản đều ghi rõ ngày, giờ giao văn bản cho đối tượng thanh tranh tra, người nhận văn bản (đối tượng thanh tra) ký và ghi rõ họ, tên.

- Các quyền đưa ra phải đảm bảo tính “khả thi”, phù hợp với khả năng thực hiện của đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo tiến độ cuộc thanh tra.

b2.2. Có phương pháp làm việc khoa học.

Khi thanh tra trực tiếp, Trưởng đoàn thanh tra cần tránh sa đà vào những sự việc cụ thể mà cần tập trung vào việc thanh tra tổng quan tình hình của đối tượng thanh tra. Trên cơ sở thanh tra tổng quan, Trưởng đoàn thanh tra sẽ làm rõ từng chi tiết từng nội dung, từng sự việc cấu thành tổng quan. Cách làm này giúp cho Trưởng đoàn thanh tra nhìn thấy “rừng” (tức là tổng thể) và trên cơ sở đó sẽ nhìn được “cây” (tức là từng sai phạm cá biệt hay hệ thống).

Căn cứ của phương pháp làm việc này là mối quan hệ biện chứng: mọi sự vật, hiện tượng, mọi sai phạm của đối tượng thanh tra đều có mối liên hệ mật thiết với nhau trong mối quan hệ thống nhất trong một thời gian, không gian, địa điểm nhất định. Thực hiện tốt phương pháp này có một tác dụng thiết thực, giúp cho Trưởng đoàn thanh tra nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện; không bỏ sót các sai phạm của đối tượng thanh tra.

Ngay từ đầu cuộc thanh tra, nếu quá tập trung vào một vài sai phạm của đối tượng thanh tra sẽ cho tác dụng ngược: chỉ nhìn thấy “cây” nhưng không thấy “rừng”; các sai phạm phát hiện sau sẽ không có thời gian củng cố.

Kinh nghiệm cho thấy: Trưởng đoàn thanh tra phải trực tiếp thanh tra tổng quan; nếu cuộc thanh tra có nhiều nội dung phức tạp, Trưởng đoàn thanh tra có thể giao nhiệm vụ này cho một nhóm thành viên Đoàn thanh tra có kinh nghiệm thực hiện và nhóm này đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Trưởng đoàn; thời gian tối đa dành cho việc thanh tra tổng quan phụ thuộc vào mức độ phức tạp, thái độ cầu thị, khả năng cung cấp hồ sơ, tài liệu của đối tượng thanh tra, thông thường khoảng 5 đến 7 ngày làm việc thực tế, có trường hợp tới 1/3 thời gian ghi trong quyết định thanh tra.

Khi thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra cần tránh cầu toàn; việc triển khai nhiệm vụ thanh tra cần hết sức uyển chuyển, nhịp nhàng, các nội dung thanh tra được triển khai đan xen với nhau. Ngay từ đầu cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra

226

không nên lao vào những việc phức tạp, căng thẳng; việc có nội dung đơn giản, dễ làm, hồ sơ tài liệu có sẵn thì khẩn trương hoàn chỉnh trước; việc có nội dung khó, có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành thì thanh tra sau.

Khi nội dung thanh tra đã hoàn thành ở mức độ cơ bản, Trưởng đoàn thanh tra cần chỉ đạo thành viên Đoàn thanh tra chuyển dần Biên bản thanh tra cho đối tượng thanh tra nghiên cứu để có ý kiến phản biện. Khi nghe ý kiến phản biện của đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và thành viên Đoàn thanh tra cần có thái độ khách quan, cầu thị, lắng nghe; nội dung thanh tra nào yếu về chứng cứ cần tiếp tục củng cố, thu thập hồ sơ, tài liệu bổ sung.

Khi chỉ đạo thành viên Đoàn thanh tra lập Biên bản với đối tượng thanh tra cần phản ảnh nguyên trạng sự việc, tránh đưa ra những nhận định, kết luận sẽ dẫn tới những tranh luận chưa cần thiết.

b2.3. Khẩn trương nghiên cứu, xử lý tài liệu đã thu thập

Khi đối tượng thanh tra cung cấp hồ sơ tài liệu, Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo kiểm tra thực trạng tài liệu, chất lượng hồ sơ tài liệu có đúng yêu cầu và đảm bảo đúng quy định của pháp luật không; khi nhận hồ sơ tài liệu phải có văn bản giao nhận, đồng thời khẩn trương nghiên cứu khai thác tài liệu đó để phát hiện những bất cập, bất hợp lý, đồng thời có kế hoạch những việc tiếp theo.

Phương pháp kiểm tra hồ sơ tài liệu rất phong phú, đa dạng. Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo thành viên Đoàn thanh tra nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá; yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; tiến hành kiểm tra, xác minh thực tế (nếu thấy cần thiết) và chịu trách nhiệm về tính chính xác, khách quan của những thông tin, tài liệu đã kiểm tra, xác minh. Tùy theo yêu cầu và nội dung mỗi cuộc thanh tra hay mỗi vấn đề cần thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra cần áp dụng những biện pháp khác nhau.

Quá trình nghiên cứu, xem xét hồ sơ tài liệu nếu phát hiện những vấn đề sai phạm, Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo phân tích rõ nguyên nhân, mối quan hệ của vấn đề sai phạm với các nội dung khác; lập biên bản với đối tượng thanh tra để xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nguyên nhân dẫn đến vi phạm; yêu cầu đối tượng thanh tra ký biên bản. Những vấn đề nghi vấn phải tổ chức xác minh kịp thời.

Trường hợp vi phạm về kinh tế cần phải xử lý thu hồi ngay hoặc phải áp dụng các biện pháp xử lý khác thì Trưởng đoàn thanh tra đề xuất và dự thảo văn bản để

227

Người ra quyết định thanh tra xem xét, xử lý theo thẩm quyền được quy định tại Điều 48; Điều 55 Luật Thanh tra.

Cùng với việc kiểm tra hồ sơ tài liệu do đối tượng thanh tra cung cấp, khi cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo xác minh thực tế để củng cố hoặc bổ sung cho kết qủa kiểm tra. Trường hợp kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu tại cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là đối tượng thanh tra thì Trưởng đoàn thanh tra phải trực tiếp chỉ đạo; kết quả kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra phải được thể hiện bằng văn bản.

b2.4. Việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra

Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo với Người ra quyết định thanh tra xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra như quy định tại Điều 48; Điều 55 Luật Thanh tra.

b2.5. Việc quản lý hồ sơ, tài liệu

Trong qúa trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo trực tiếp quản lý hồ sơ tài liệu; tuyệt đối không được để thất lạc, làm hư hỏng cũng như tiết lộ các thông tin tài liệu của đơn vị được thanh tra; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.

Để làm tốt những nội dung trên đây, trong chỉ đạo, điều hành, Trưởng đoàn cần chú ý một số phương pháp sau:

- Duy trì nghiêm túc lịch giao ban, hội ý, báo cáo tiến độ công việc hàng ngày, qua đó phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, uốn nắn những nhận thức, việc làm chưa đúng với yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra; chỉ đạo, hướng dẫn các thành viên, những việc phải làm tiếp;

- Trực tiếp kiểm tra, xem xét và hướng dẫn thành viên gặp khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Trong trường hợp cần thiết, đối với nội dung quan trọng, khó khăn, phức tạp, Trưởng đoàn phải trực tiếp cùng các thành viên trong Đoàn tập trung xem xét, xác minh làm rõ để kết luận chính xác, khách quan, kịp thời;

- Quá trình thanh tra, nếu có thành viên nào đã hoàn thành nhiệm vụ được phân công, Trưởng đoàn có thể quyết định để thành viên đó không tham gia tiếp cuộc thanh tra, khi cần thiết có thể triệu tập trở lại hoặc chuyển sang thực hiện nhiệm vụ cùng với bộ phận khác. Đây là sự linh hoạt trong chỉ đạo, vừa làm cho

228

Đoàn thanh tra được gọn nhẹ, nhưng vẫn bảo đảm yêu cầu của cuộc thanh tra.

b3. Nghe ý kiến cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp của đối tượng thanh tra

Trong hoạt động thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải lắng nghe ý kiến của cơ quan chủ quản cấp trên đối tượng thanh tra. Đây là việc làm quan trọng, vì:

Thứ nhất, cung cấp những ý kiến đánh giá ưu, khuyết điểm, sai phạm của đối tượng là tài liệu tham khảo rất quan trọng cho đoàn thanh tra;

Thứ hai, qua trao đổi, Đoàn Thanh tra tranh thủ sự đồng tình của cơ quan chủ quản cấp trên đối với các dự kiến đánh giá của đoàn hoặc lường trước được những ý kiến không nhất trí để có biện pháp tiến hành thanh tra bổ sung, củng cố hồ sơ vững chắc hơn, nhờ đó khi chính thức kết luận sẽ đạt hiệu qủa cao hơn.

b4) Tổ chức đối thoại, chất vấn

Khi cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có thể tổ chức đối thoại hoặc chất vấn đối tượng thanh tra.

Đối thoại là hình thức tổ chức tranh luận, hội thảo hoặc trao đổi ý kiến. Hình thức này áp dụng chủ yếu đối với những vấn đề không có dấu hiệu sai phạm lớn nhưng cần làm sáng tỏ như: cơ chế quản lý, phương pháp chỉ đạo, điều hành v.v…

Chất vấn là hình thức có tính bắt buộc đối tượng thanh tra phải trả lời những câu hỏi nhằm làm rõ những vấn đề mà Trưởng đoàn thanh tra quan tâm; đây cũng là hình thức để đối tượng thanh tra giải trình.

Đối thoại, chất vấn thực chất là để làm rõ đúng, sai, thấy rõ trách nhiệm của đối tượng, nên rất phức tạp. Trưởng Đoàn thanh tra cần chuẩn bị chu đáo, đưa ra những nội dung, những câu hỏi có trọng tâm để đối tượng trả lời và phải chủ động trong suốt qúa trình tiến hành đối thoại, chất vấn.

Trong khi đối thoại hoặc chất vấn, Trưởng đoàn thanh tra cần vận dụng nguyên tắc phát huy quyền dân chủ; tránh những lệch lạc như áp đặt quan điểm, gợi ý theo chủ quan của mình; chỉ đưa ra kết luận khi đối tượng thanh tra không đủ chứng cứ bảo vệ hoặc khi Đoàn Thanh tra đã có chứng cứ được thẩm tra, xác định.

Việc tiến hành đối thoại hoặc chất vấn phải làm đúng thủ tục hành chính; có biên bản ghi câu hỏi và trả lời; những ý kiến tiếp nhận hoặc giải trình của đối tượng có thể kèm theo băng ghi âm, ghi hình. Biên bản đối thoại, chất vấn được

229

đọc lại cho đối tượng nghe và ký tên. Việc làm này rất cần thiết vì bảo đảm giá trị pháp lý của hồ sơ.

b5. Tổ chức nghe ý kiến phản ảnh của quần chúng và của công luận báo chí

Việc tổ chức nghe ý kiến phản ảnh của quần chúng trong phạm vi đơn vị được thanh tra cần tập trung vào những nội dung liên quan đến cuộc thanh tra và Trưởng đoàn thanh tra phải luôn có ý thức bảo vệ họ để tránh tình trạng họ bị trù úm. Đối với những thông tin do công luận, báo chí đã nêu có liên quan đến nội dung thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra tổ chức gặp gỡ, trao đổi làm rõ nguồn thông tin; những căn cứ có thể chứng minh vấn đề đã nêu.

Việc tổ chức nghe ý kiến cần tiến hành trên nguyên tắc tôn trọng ý kiến quần chúng và công luận; thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, Luật Báo chí; phát huy quyền dân chủ và tiến hành đúng thủ tục hành chính, có ghi biên bản và lấy chữ ký xác nhận của người đã tham gia.

b6. Thu thập thông tin từ các cơ quan, đơn vị hữu quan, các cơ quan đã tiến

hành thanh tra, kiểm tra, giám sát

Thông qua tiếp xúc với các cơ quan, đơn vị hữu quan, các cơ quan đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát, giúp cho Trưởng đoàn thanh tra có được cái nhìn tổng quát, toàn diện về đối tượng được thanh tra, thấy rõ hơn được mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, bản chất của vấn đề; phát hiện kịp thời những vấn đề mới cần xem xét, hoặc những vấn đề cần được tiếp tục làm rõ thêm đảm bảo mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra cần nghe ý kiến của các cơ quan chức năng có liên quan đến nội dung thanh tra.

Khai thác sử dụng những hồ sơ tài liệu của các cơ quan đã kiểm tra, thanh tra, giám sát hoặc của các cơ quan hữu quan khác để tránh đi vào những vấn đề đã có kết luận đúng đắn hoặc vô tình hợp pháp hoá các hành vi sai phạm.

Các cơ quan có chức năng quản lý tổng hợp, như: tài chính, ngân hàng, kế hoạch, thống kê…sẽ giúp Đoàn Thanh tra nắm vững hơn các cơ chế quản lý chuyên ngành với đối tượng thanh tra; cung cấp cho Đoàn Thanh tra những đánh giá ưu, khuyết điểm, sai phạm có đối chiếu so sánh với tình hình phát triển chung của vùng hoặc của cả nước; cung cấp những tư liệu, báo cáo mà đối tượng thanh tra đã báo cáo để Đoàn Thanh tra đối chiếu với kết qủa thanh tra.

230

Để nắm vững cơ chế quản lý chuyên ngành, Trưởng đoàn thanh tra cần chỉ đạo thành viên của Đoàn tranh thủ nghe ý kiến của cơ quan quản lý chuyên ngành và có thể sử dụng những ý kiến đánh gía (bằng văn bản) như một căn cứ khi kết luận.

b7. Xử lý các hành vi chống đối

Hành vi chống đối thường xảy ra khi có hành vi vi phạm nhưng đối tượng cố tình muốn che giấu. Biểu hiện của hành vi chống đối thường là: cố tình làm chậm trễ hoặc không cung cấp tài liệu, báo cáo; sửa chữa hoặc thay đổi hiện vật, chứng cứ, làm chứng từ giả hoặc hủy bỏ chứng cứ tài liệu; cố ý thuyên chuyển, kỷ luật, điều động…hoặc trù dập, đe doạ để ngăn cản người muốn tố cáo với Đoàn Thanh tra hoặc người có ý thức cộng tác với Đoàn Thanh tra; hối lộ, mua chuộc, đe dọa cán bộ thanh tra hoặc hối lộ cấp trên để che đỡ khuyết điểm, sai phạm cho mình hoặc can thiệp trái pháp luật vào cuộc thanh tra; xúi giục, xuyên tạc để kích động quần chúng hiểu sai sự thật, hiểu sai mục đích cuộc thanh tra và có khi dùng cả bạo lực chống lại người thi hành công vụ.

Khi có sự chống đối, Trưởng đoàn thanh tra phải nghiên cứu, phân tích nguyên nhân vì sao đối tượng thanh tra có hành vi chống đối; cùng với việc vận động, thuyết phục, làm tốt công tác tư tưởng, đồng thời phải củng cố hồ sơ, tài liệu, chứng cứ vững chắc và khi cần thiết phải vận dụng các quyền được quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Thanh tra.

Cũng cần phải phân biệt rõ giữa hành vi chống đối với quyền được giải trình, khiếu nại của đối tượng. Chống đối là sự cố ý vi phạm quy định của pháp luật bằng những thủ đoạn gian trá, thâm hiểm để cản trở hoặc chống đối hoạt động của Đoàn Thanh tra.

Để xử lý tình huống "đối tượng thanh tra có hành vi chống đối" cần vận dụng kết hợp tổng hợp nhiều biện pháp với sự tham gia của các cơ quan chức năng.

b8. Chỉ đạo lập biên bản, hoàn chỉnh hồ sơ từng phần của cuộc thanh tra

Mỗi Thanh tra viên phải phụ trách từng chuyên đề hoặc tổ công tác tiến hành thanh tra từng chuyên đề, lĩnh vực hoặc từng phòng, ban, đơn vị… Trưởng đoàn thanh tra phải chỉ đạo các thanh tra viên lập biên bản và lập hồ sơ từng phần theo mục đích, yêu cầu, nội dung mà kế hoạch cuộc thanh tra đã đề ra.

Hồ sơ báo cáo phải bao gồm đầy đủ các tài liệu sau:

- Báo cáo tường trình;

231

- Biên bản đối thoại, chất vấn, đối tượng (nếu có);

- Biên bản kiểm tra, kiểm kê, biên bản xác minh, đối chiếu;

- Biên bản tổng hợp kết quả thanh tra từng phần.

Kinh nghiệm cho thấy, nếu biên bản từng phần rõ ràng, chi tiết, hồ sơ, chứng cứ đầy đủ thì báo cáo kết quả thanh tra cuối cùng hay kết luận cả cuộc thanh tra sẽ đạt chất lượng cao.

Từng thành viên Đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với Trưởng đoàn thanh tra về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của báo cáo đó.

Trường hợp nhận thấy nội dung báo cáo chưa rõ, chưa đủ thì Trưởng đoàn thanh tra yêu cầu thành viên Đoàn thanh tra bổ sung, làm rõ thêm.

b9. Báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra

Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo với người ra quyết định thanh tra về tiến độ thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra theo kế hoạch tiến hành thanh tra đã được phê duyệt hoặc theo yêu cầu đột xuất của người ra quyết định thanh tra; Báo cáo được thể hiện bằng văn bản, gồm các nội dung: tiến độ thực hiện nhiệm vụ; nội dung đã hoàn thành; nội dung đang tiến hành; công việc thực hiện trong thời gian tới; những kiến nghị, đề xuất (nếu có) với người ra quyết định thanh tra.

b10. Kết thúc việc thanh tra trực tiếp

Chuẩn bị kết thúc việc thanh trực tiếp, Trưởng đoàn thanh tra tổ chức họp Đoàn thanh tra để thống nhất các nội dung công việc cần thực hiện cho đến ngày dự kiến kết thúc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra báo cáo với người ra quyết định thanh tra về dự kiến kết thúc việc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra thông báo bằng văn bản về thời gian kết thúc thanh tra trực tiếp với đối tượng thanh tra và gửi cho thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra biết hoặc nếu cần thiết, có thể tổ chức buổi làm việc với đối tượng thanh tra để thông báo việc kết thúc thanh tra; buổi làm việc được lập thành biên bản và được ký giữa thủ trưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra với Trưởng đoàn thanh tra.

232

c) Kết thúc cuộc thanh tra

c1. Báo cáo kết quả thanh tra

Báo cáo kết quả thanh tra khi kết thúc cuộc thanh tra là văn bản quan trọng phản ánh kết quả của cuộc thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra là sản phẩm trí tuệ, công sức của cả Đoàn và Trưởng đoàn là người phải trực tiếp nắm tình hình kết quả thanh tra, nghiên cứu, phân tích đánh giá các sự kiện đó, tổng hợp và viết báo cáo kết quả thanh tra. Trưởng đoàn với tư cách là người quản lý, chỉ đạo, điều hành phải là người nắm chắc mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra, nắm chắc tình hình kết quả, kết luận các sự việc qua thanh tra. Trưởng đoàn là người chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về kết quả cuộc thanh tra, Trưởng đoàn phải trực tiếp xây dựng và hoàn thiện báo cáo kết quả thanh tra.

Việc chuẩn bị Báo cáo kết quả thanh tra phải là một quá trình được tích luỹ, phân tích, đánh giá các sự kiện thu thập trong quá trình tiến hành thanh tra. Khi cuộc thanh tra đã giải quyết được về cơ bản một số nội dung quan trọng, thì Trưởng đoàn thanh tra cần chuẩn bị đề cương và bắt đầu viết dự thảo Báo cáo kết quả thanh tra. Việc chủ động dự thảo Báo cáo kết quả thanh tra có những thuận lợi:

- Trưởng đoàn có điều kiện thực tế để kiểm tra, xem xét, đối chiếu lại tính đúng đắn, chính xác của các tài liệu, số liệu, chứng cứ... mà các thành viên trong Đoàn đã thanh tra, kết luận và báo cáo với Trưởng đoàn; nếu có những điểm còn chưa chặt chẽ thì kịp thời chỉ đạo xác minh, bổ sung cho đầy đủ, chính xác. Quá trình dự thảo báo cáo kết quả thanh tra Trưởng đoàn phải luôn đối chiếu những vấn đề đã được xem xét, đánh giá, kết luận với yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra.

- Do thời hạn thanh tra đã được quy định chặt chẽ, nếu như sau khi Đoàn đã rút khỏi nơi được thanh tra mà Báo cáo kết quả thanh tra chưa được hoàn chỉnh sẽ gây ra rất nhiều trở ngại. Trước hết, đối tượng thanh tra sẽ có một khoảng cách thời gian chờ đợi kết luận thanh tra, gây lãng phí thời gian và tâm lý căng thẳng không cần thiết, do thời gian này Đoàn đã rút khỏi nơi được thanh tra, do vậy nếu quá trình chuẩn bị dự thảo báo cáo kết quả thanh tra thấy còn những vấn đề chưa đạt yêu cầu, những tài liệu, số liệu... chưa thật yên tâm tin tưởng về tính đúng đắn, chính xác thì cũng khó có điều kiện để xem xét, xác minh, bổ sung và như vậy sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác và khách quan của kết luận thanh tra.

Chuẩn bị sớm dự thảo báo cáo kết quả thanh tra và luôn bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh trong quá trình thanh tra để đến khi các thành viên trong Đoàn đã kết thúc nhiệm vụ của họ, thì về cơ bản dự thảo báo cáo kết quả thanh tra thanh tra đã được

233

viết xong. Muốn được như vậy, đòi hỏi một quá trình liên tục tập trung suy nghĩ của Trưởng đoàn, phải luôn kết hợp giữa yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra với những vấn đề đã được mỗi thành viên của Đoàn xem xét, kết luận để có được cái nhìn tổng quát, thấy rõ được mối liên hệ giữa chúng và xác định rõ bản chất của sự việc, kịp thời phát hiện thấy rõ những thiếu sót cụ thể trong xem xét, kết luận từng sự việc đó, để chỉ đạo các thành viên tiếp tục xem xét, bổ sung cho đầy đủ, chính xác hơn.

Trong một số trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có thể thông báo một phần dự thảo Báo cáo kết quả thanh tra cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị được thanh tra (không gửi phần kiến nghị, xử lý nếu thấy phức tạp). Trưởng đoàn và Đoàn thanh tra nghiên cứu các ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra, trao đổi thẳng thắn với họ, những ý kiến đúng được tiếp thu để sửa chữa, bổ sung vào dự thảo, những ý kiến nào cho là không đúng thì giải thích cho họ rõ; có thể có những điểm mà đối tượng chưa đồng tình với Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn, nhưng việc quyết định cuối cùng về nội dung báo cáo kết quả thanh tra thuộc trách nhiệm và quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra. Việc báo cáo kết quả thanh tra là trách nhiệm của Trưởng đoàn, nhưng trước khi báo cáo chính thức, Trưởng đoàn cần tranh thủ ý kiến của người ra quyết định thanh tra.

Theo quy định tại Điều 49 Luật Thanh tra, chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra và gửi tới người ra quyết định thanh tra. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì báo cáo kết quả thanh tra còn phải được gửi cho thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp.

Báo cáo kết quả thanh tra phải có các nội dung sau đây:

- Kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra;

- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật;

- Ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn thanh tra với Trưởng đoàn thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra;

- Biện pháp xử lý đã được áp dụng và kiến nghị biện pháp xử lý.

Trường hợp phát hiện có hành vi tham nhũng thì trong báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ: yếu kém về năng lực quản lý; thiếu trách nhiệm

234

trong quản lý; bao che cho người có hành vi tham nhũng. Báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ quy định của pháp luật làm căn cứ để xác định tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp xử lý.

Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức xây dựng báo cáo kết quả thanh tra; tổ chức họp Đoàn thanh tra để thảo luận về dự thảo báo cáo kết quả thanh tra; trường hợp các thành viên Đoàn thanh tra có ý kiến khác nhau thì Trưởng đoàn thanh tra xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

c2. Xây dựng, hoàn thiện, công bố và gửi kết luận thanh tra

Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm giúp người ra quyết định thanh tra xây dựng, hoàn thiện, công bố và gửi kết luận thanh tra, cụ thể là:

- Theo quy định tại Điều 30, Điều 31 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm giúp người ra quyết định thanh tra xây dựng dự thảo kết luận thanh tra; gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra; nghiên cứu giải trình của đối tượng thanh tra về những vấn đề chưa nhất trí (nếu có) của đối tượng thanh tra với nội dung của dự thảo kết luận thanh tra.

- Căn cứ báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra; kết quả xem xét nội dung giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có) và các tài liệu liên quan, Trưởng đoàn thanh tra hoàn thiện và trình người ra quyết định thanh tra ký kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra gồm các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 50 Luật Thanh tra, cụ thể là:

+ Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra;

+ Kết luận về nội dung thanh tra;

+ Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật;

+ Biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị biện pháp xử lý.

Để nâng cao hiệu qủa công tác thanh tra, kết luận thanh tra phải nêu rõ được đúng, sai; tính chất, mức độ và tác hại; nêu rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan; quy rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân; trách nhiệm của cấp trên và của cấp dưới; kiến nghị các giải pháp sửa chữa của đối tượng và của cấp trên; kiến nghị hoặc quyết định các hình thức xử lý kinh tế, hành chính và hình sự (nếu có).

235

Kết luận thanh tra phải có sức thuyết phục cao, biểu hiện ở tính đúng đắn, khách quan và có giá trị thiết thực về kinh tế, xã hội bao gồm: ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật để góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

- Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm giúp người ra quyết định thanh tra tổ chức việc công bố kết luận thanh tra hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra; trường hợp cần thiết, khi được người ra quyết định thanh tra thể ủy quyền, Trưởng đoàn thanh tra công bố kết luận thanh tra.

Theo quy định tại Điều 39 Luật Thanh tra thì Kết luận thanh tra phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận thanh tra và lựa chọn ít nhất một trong các hình thức công khai theo quy định của Chính phủ, cụ thể là:

+ Công bố tại cuộc họp

Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng đoàn thanh tra được ủy quyền thông báo bằng văn bản cho thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra về thời gian, địa điểm, thành phần tham dự buổi công bố kết luận thanh tra. Thành phần tham dự buổi công bố kết luận thanh tra gồm: người ra quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

Người ra quyết định thanh tra hoặc Trưởng đoàn thanh tra đọc toàn văn kết luận thanh tra; nêu rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kết luận thanh tra; việc công bố kết luận thanh tra có thể kèm theo công bố những quyết định xử lý về thanh tra (nếu có).

Đối tượng thanh tra được quyền giải trình và khiếu nại những vấn đề kết luận chưa thỏa đáng. Các đại biểu tham dự được phát biểu ý kiến tham gia.

Việc công bố kết luận thanh tra được lập thành biên bản.

+ Tổ chức họp báo;

+ Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

+ Đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp;

236

+ Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra;

+ Cung cấp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Thanh tra, Kết luận thanh tra được gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra. Trường hợp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra thì kết luận thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp.

c3. Giao trả hồ sơ, tài liệu cho đối tượng thanh tra

Sau khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc giao trả hồ sơ, tài liệu không cần thu giữ cho đối tượng thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra có thể quyết định giao trả hồ sơ, tài liệu trước khi kết luận thanh tra, nhưng phải đảm bảo những hồ sơ, tài liệu đó không cần thu giữ hoặc không liên quan đến nội dung kết luận thanh tra.

Việc giao trả hồ sơ, tài liệu được lập thành biên bản giao nhận giữa Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra.

c4. Tổng kết hoạt động của Đoàn thanh tra

Sau khi có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức họp Đoàn thanh tra để tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của Đoàn thanh tra. Nội dung tổng kết gồm các nội dung sau:

- Đánh giá kết quả thanh tra so với mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra.

- Đánh giá kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc thực hiện Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra, Quy chế giám sát, kiểm tra hoạt động Đoàn thanh tra, Quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra và các quy định khác có liên quan đến hoạt động Đoàn thanh tra.

- Những bài học kinh nghiệm rút ra qua cuộc thanh tra.

- Những kiến nghị, đề xuất của Đoàn thanh tra (nếu có).

Để đánh giá kết quả một cuộc thanh tra cần chú ý đến các nội dung: đánh giá một cách chính xác, đúng mức các ưu điểm, khuyết điểm, sai phạm, có chứng cứ chính xác, bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý; nguyên nhân khách quan, chủ quan của khuyết điểm, sai phạm, quy rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân đối

237

với vi phạm, có địa chỉ rõ ràng; kiến nghị được những giải pháp có tính khả thi (theo từng cấp độ yêu cầu khác nhau) khắc phục sai phạm.

- Khen thưởng, kỷ luật đối với Đoàn thanh tra và đề nghị cấp có thẩm quyền xét khen, thưởng;

+ Việc bình bầu, đề nghị khen, thưởng phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Tổng Thanh tra về thi đua khen thưởng;

+ Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra vi phạm điều cấm trong hoạt động thanh tra hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật phải được xem xét, xử lý theo quy định hiện hành.

Để đánh giá một Đoàn Thanh tra hoặc thành viên hoàn thành cuộc thanh tra cần chú ý các vấn đề: chất lượng và thời hạn hoàn thành cuộc thanh tra; không để xảy ra vi phạm kỷ luật, nội bộ đoàn kết cùng hoàn thành nhiệm vụ; có ý thức tổ chức, chấp hành nghiêm kỷ luật, chế độ báo cáo; trong qúa trình thanh tra, sau thanh tra không để phát sinh những tình huống phức tạp; giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đoàn Thanh tra.

- Kết thúc việc tổng kết hoạt động của Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có báo cáo bằng văn bản về những nội dung tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của Đoàn thanh tra với người ra quyết định thanh tra và thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc thanh tra.

c.5. Lập, bàn giao hồ sơ thanh tra

Theo quy định tại Điều 59 Luật Thanh tra, hồ sơ cuộc thanh tra gồm có:

- Quyết định thanh tra; kế hoạch tiến hành thanh tra, các văn bản bổ sung, sửa đổi quyết định, kế hoạch tiến hành thanh tra, thay đổi, bổ sung Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra (nếu có); biên bản thanh tra; biên bản làm việc, biên bản kiểm tra, xác minh; báo cáo, giải trình của đối tượng thanh tra; báo cáo tiến độ, báo cáo thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra;

- Kết luận thanh tra;

- Văn bản về việc xử lý, kiến nghị việc xử lý;

- Nhật ký Đoàn thanh tra và các tài liệu khác có liên quan đến cuộc thanh tra;

238

- Tài liệu khác có liên quan.

Khi tiến hành thanh tra độc lập, hồ sơ thanh tra gồm có:

- Văn bản phân công nhiệm vụ thanh tra;

- Biên bản thanh tra (nếu có);

- Quyết định xử lý hoặc văn bản kiến nghị việc xử lý;

- Tài liệu khác có liên quan.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc lập hồ sơ cuộc thanh tra, bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn thanh tra. Trường hợp trở ngại do khách quan thì thời gian bàn giao hồ sơ thanh tra có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày. Trong trường hợp người ra quyết định thanh tra không phải là thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn thanh tra thì Trưởng đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra để xin ý kiến chỉ đạo việc bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền.

Việc bàn giao hồ sơ thanh tra phải được lập thành biên bản; việc lập, quản lý, sử dụng hồ sơ thanh tra được thực hiện theo quy định của pháp luật.

2. Về xử lý quan hệ giữa Đoàn Thanh tra với đối tượng thanh tra

Nói chung, mọi thành viên trong Đoàn đều tiếp xúc, làm việc với mọi người ở nơi được thanh tra, nhưng chủ yếu về những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của thành viên đó. Trưởng đoàn là người quyết định chính đối với mọi hoạt động thanh tra tại cơ quan, đơn vị được thanh tra, chịu trách nhiệm về kết quả cuộc thanh tra, nên mọi việc làm, thái độ ứng xử, giải quyết sự việc trong quá trình thanh tra đều có tác động quan trọng trực tiếp đến đối tượng thanh tra. Do vậy, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Trưởng đoàn và đối tượng thanh tra có tác động tích cực đến kết quả cuộc thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra cần làm tốt những việc sau đây:

a. Làm cho đối tượng thanh tra hiểu rõ được mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh tra và trách nhiệm đối tượng phải cộng tác, hợp tác với Đoàn thanh tra

Để cuộc thanh tra thực hiện nhanh chóng, đạt kết quả, Trưởng đoàn có kế hoạch và dành thời gian thích hợp tiếp xúc với đối tượng và những người có trách

239

nhiệm ở nơi được thanh tra để vừa làm tốt công tác tư tưởng với họ, vừa giúp Trưởng đoàn có thêm những thông tin cần thiết về các nội dung cần thanh tra. Quá trình thanh tra, khi đi vào giai đoạn xem xét kết luận, kiến nghị, thì càng cần thiết phải có những biện pháp thích hợp làm cho nhận thức và trách nhiệm của đối tượng được thanh tra đúng đắn hơn, nhằm hạn chế mức thấp nhất những ý nghĩ, việc làm tiêu cực phát sinh và cố gắng phát huy những mặt tích cực của họ.

b. Quan hệ với đối tượng thanh tra trên cơ sở kế hoạch làm việc cụ thể

Đây là biện pháp nhằm bảo đảm cho Đoàn thanh tra chủ động trong việc bố trí thời gian, nhân lực để xem xét, nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc với người có liên quan ở nơi được thanh tra; ngược lại nơi được thanh tra cũng chủ động trong việc sắp xếp thời gian, nhân lực, tài liệu nhằm bảo đảm cho cuộc thanh tra tiến hành thuận lợi và không gây tác động lớn, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân được thanh tra.

c. Quá trình dự thảo Báo cáo kết quả thanh tra, Trưởng đoàn quyết định việc thăm dò, tham khảo ý kiến của đối tượng hoặc người có liên quan một cách thích hợp.

Việc thăm dò, tham khảo ý kiến của đối tượng hoặc người có liên quan, nhất là những người có trách nhiệm tại nơi được thanh tra nhằm mục đích, để họ được trình bày hết ý kiến với từng nội dung hoặc toàn bộ dự thảo báo cáo kết quả thanh tra; qua đó Trưởng đoàn xem xét, giải thích, đấu tranh làm cho họ thấy rõ những mặt đúng, sai của họ, bảo đảm cho những nhận xét, đánh giá, kết luận của Đoàn được đúng đắn và sự tiếp thu của đối tượng được thuận lợi.

3. Về xử lý mối quan hệ với người ra quyết định thanh tra

Tuy không trực tiếp giải quyết các công việc cụ thể của Đoàn thanh tra nhưng người ra quyết định thanh tra có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với Đoàn thanh tra. Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung, thời hạn ghi trong quyết đinh thanh tra.

Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn có thẩm quyền quyết định những việc liên quan đến hoạt động của Đoàn tại cơ quan, đơn vị được thanh tra nhằm bảo đảm cho cuộc thanh tra đạt kết quả, nhưng đồng thời Trưởng đoàn cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định thanh tra về hoạt động của Đoàn về những nội dung có liên quan trong kết luận của cuộc thanh tra. Do vậy, để vừa phát huy đầy đủ quyền chủ động trong chỉ đạo của Trưởng đoàn, vừa thực hiện sự chỉ đạo chặt chẽ của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải báo cáo với người ra quyết định thanh tra về các vấn đề sau:

240

- Kế hoạch thanh tra

Trước khi triển khai phải được người ra quyết định xem xét có ý kiến và phê duyệt.

- Báo cáo tiến độ cuộc thanh tra

Tiến độ thanh tra theo từng thời gian, những tình huống phức tạp, những vấn đề đặc biệt được phát hiện hoặc nảy sinh trong thanh tra cần báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra.

- Khi chuẩn bị kết thúc thanh tra, cần báo cáo

Dự kiến đánh giá tình hình, đánh giá những yêu cầu, nội dung đã đạt được, các vấn đề tồn tại cần giải quyết; dự kiến nhận xét, đánh giá, kết luận thanh tra; dự kiến việc kết thúc cuộc thanh tra. Những vấn đề này cần được người ra quyết định thanh tra xem xét và có ý kiến chỉ đạo.

- Trong quá trình ra kết luận thanh tra

Người ra kết luận thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra báo cáo làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra. Trường hợp cần thiết, người ra kết luận thanh tra yêu cầu Đoàn thanh tra tiến hành thanh tra bổ sung để làm rõ thêm một số nội dung thì Trưởng đoàn thanh tra phải chấp hành nghiêm túc. Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản và Trưởng đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của nội dung báo cáo.

4. Về xử lý mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác

Đoàn thanh tra muốn thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Trưởng đoàn cần xây dựng mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức liên quan khác:

- Với cơ quan, tổ chức cấp trên, cấp dưới trực tiếp của đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra coi mối quan hệ này là cần thiết để họ cung cấp cho Đoàn thanh tra các thông tin, nhằm tạo điều kiện cho việc thẩm tra, xác minh được thuận lợi. Thậm chí, theo yêu cầu của Đoàn thanh tra, họ có sự phối hợp cần thiết theo đúng quy định của pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra.

- Với cơ quan bảo vệ pháp luật, Trưởng đoàn thanh tra có sự phối hợp để họ giúp mình phòng ngừa, đấu tranh chống hành vi vi phạm pháp luật. Theo đề nghị của Đoàn thanh tra, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể cung cấp thông tin, điều

241

tra, xác minh một nội dung cụ thể nào của cuộc thanh tra. Đặc biệt cơ quan bảo vệ pháp luật có thể phối hợp với Đoàn thanh tra trong việc xử lý các vi phạm pháp luật trong quá trình thanh tra và sau thanh tra.

- Với cơ quan chuyên môn, để họ giúp Đoàn thanh tra về văn bản, tài liệu có liên quan đến cuộc thanh tra. Khi cần thiết, họ giúp Đoàn thanh tra nhanh chóng thu thập thông tin chính xác cho việc thẩm tra, xác minh, trưng cầu giám định…

III. NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA

Để quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động của Đoàn thanh tra đạt kết quả thì Trưởng đoàn phải tuân thủ những nguyên tắc và có phương pháp công tác phù hợp, đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn.

1. Nguyên tắc công tác của Trương đoàn

a. Coi trọng công tác chính trị, tư tưởng trong suốt quá trình thanh tra

Công tác chính trị, tư tưởng nhằm tạo ra sự thống nhất cao trong nội bộ Đoàn về mục đích, yêu cầu cuộc thanh tra, tạo ra nhận thức đúng đắn của đối tượng được thanh tra về cuộc thanh tra và trách nhiệm của họ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ trong các cơ quan chức năng có liên quan đến cuộc thanh tra.

Để quá trình thanh tra được thuận lợi và đạt kết quả tốt thì việc tạo ra sự thống nhất về nhận thức, ý nghĩa, mục đích của cuộc thanh tra trong nội bộ Đoàn là yêu cầu quan trọng đầu tiên và phải được tiến hành trong suốt cuộc thanh tra. Trưởng đoàn cần tổ chức thảo luận dân chủ trong nội bộ Đoàn để mọi người quán triệt, đồng thời luôn chú ý uốn nắn nhận thức và việc làm không đúng của các thành viên hoặc kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thanh tra.

Điều 2 Luật Thanh tra quy định “hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Tuy nhiên, không ít đơn vị và cá nhân chưa nhận thức đúng, nhiều trường hợp dấu diếm, né tránh, có khi cản trở, chống đối. Do vậy, công tác tư tưởng phải làm cho mọi người ở nơi được thanh tra, nhất là với những cán bộ có trách nhiệm ở đó hiểu rõ mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra và trách nhiệm của

242

họ, trên cơ sở đó phân hoá đối tượng, hạn chế các nhân tố tiêu cực, phát huy nhân tố tích cực, góp phần vào kết quả cuộc thanh tra.

b. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và thực thi chế độ thủ trưởng trong Đoàn thanh tra

Trên cơ sở bàn bạc, thảo luận dân chủ trong Đoàn, Trưởng đoàn quyết định và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Đoàn thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra với vai trò người quản lý, chỉ đạo, điều hành phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ và thực thi chế độ thủ trưởng trong Đoàn thanh tra.

Trong Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra như người chỉ huy dàn nhạc. CacMac đã chỉ ra rằng: tất cả mọi hoạt động xã hội có nhiều người tham gia thì đều cần đến sự quản lý và Người đã ví người quản lý như một chỉ huy dàn nhạc. Với những nhạc công giỏi, bản nhạc hay nhưng người chỉ huy tồi sẽ tạo ra những âm thanh chói tai, còn những người chỉ huy tài sẽ tạo ra những âm thanh hài hoà, tuyệt mỹ. Trưởng đoàn thanh tra phải là người quản lý giỏi, có vậy mới phát huy được trí tuệ của tập thể các thành viên trong Đoàn thực thi công vụ. Trưởng đoàn phải biết phối hợp hoạt động của các thành viên trong Đoàn, trên cơ sở phân công và hợp tác hành động hợp lý, nhịp nhàng, đồng bộ theo một kế hoạch thống nhất, nhất quán và xử lý các mối quan hệ nhanh nhạy, chính xác.

Trưởng đoàn thanh tra có vai trò quyết định trong cuộc thanh tra. Vì thế, quyền lực và trách nhiệm phải tập trung ở người Trưởng đoàn. Người Trưởng đoàn phải biết sử dụng quyền lực đúng pháp luật, đồng thời luôn luôn phải tự xác định trách nhiệm cao nhất trước pháp luật, trước tập thể Đoàn thanh tra về toàn bộ kết quả của cuộc thanh tra.

Trong quản lý điều hành, Trưởng đoàn phải biết làm công tác lãnh đạo, phải là người biết bao quát và điều khiển công việc của tập thể để đạt mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của Đoàn thanh tra. Thực chất của lãnh đạo là tìm hiểu mối tương quan giữa các cá nhân trong Đoàn và động viên, thúc đẩy họ hoàn thành nhiệm vụ chất lượng cao và nhanh chóng. Trưởng đoàn phải quyết đoán đúng và dám chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình.

Như vậy, Trưởng đoàn thanh tra chính là người quản lý, người lãnh đạo cao nhất trong Đoàn, có quyền quyết định về các vấn đề liên quan đến nội dung, phương pháp thanh tra, đến phân công phân nhiệm các thành viên trong Đoàn để thực hiện cuộc thanh tra đạt kết quả cao. Đương nhiên Trưởng đoàn phải chịu trách nhiệm cao nhất trước tập thể, trước người ra quyết định thanh tra. Trưởng đoàn

243

thanh tra thực thi công việc của người Thủ trưởng trong tập thể Đoàn.

2. Phương pháp công tác của Trương đoàn

Trưởng đoàn trực tiếp chỉ đạo, quản lý, điều hành mọi hoạt động của các thành viên trong Đoàn. Do vậy, phương pháp công tác của Trưởng đoàn phải biết kết hợp được giữa hoạt động nghiệp vụ thanh tra và hoạt động lãnh đạo, tổ chức, quản lý.

a. Nắm chắc kế hoạch thanh tra và các vấn đề trọng tâm, nhưng đồng thời phải linh hoạt trong chỉ đạo trước những diên biến của tình hình

Trưởng đoàn chịu trách nhiệm chỉ đạo chung, nên phải có tầm nhìn bao quát để thấy rõ được diễn biến các hoạt động thanh tra đối với kế hoạch chung của cuộc thanh tra, nhưng phải biết nắm lấy những nội dung trọng tâm để tập trung chỉ đạo, thúc đẩy tiến độ chung. Tuy nhiên, cuộc thanh tra thường diễn biến phức tạp, có thể nảy sinh những vấn đề mới chưa dự kiến được; cho nên trong phong cách chỉ đạo của Trưởng đoàn không được cứng nhắc mà phải biết bám sát thực tế, từ thực tế hoạt động thanh tra của Đoàn mà xử lý tình huống linh hoạt để điều chỉnh kịp thời, chính xác.

b. Giữ được vai trò là hạt nhân đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đoàn thanh tra, tạo mối quan hệ tốt với đối tượng được thanh tra, tranh thủ được sự đồng tình của cán bộ, nhân viên ở nơi được thanh tra, sự đồng tình ủng hộ của các cơ quan có trách nhiệm và có liên quan đến nội dung và đối tượng thanh tra.

Đoàn thanh tra có nhiều người, trình độ nhận thức không đồng đều, mỗi người lại có phong cách làm việc khác nhau và mỗi người có nhiệm vụ cụ thể. Để chỉ đạo Đoàn thanh tra hoạt động theo mục tiêu chung, trước hết đòi hỏi Trưởng đoàn phải là hạt nhân đoàn kết trong nội bộ Đoàn, thực hiện dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các thành viên, đồng thời đấu tranh thẳng thắn nhằm duy trì kỷ luật trong Đoàn, được như vậy mới tạo ra sự tín nhiệm, tin cậy của các thành viên trong Đoàn, đảm bảo uy tín của Đoàn.

Nhiều cuộc thanh tra đề cập đến nhiều nội dung phức tạp và có liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau, đến cả các cơ quan chỉ đạo bên trên của đối tượng. Do vậy, cần “tranh thủ” được sự đồng tình, ủng hộ của các cơ quan nói trên để tạo điều kiện cho cuộc thanh tra được tiến hành thuận lợi.

c. Tăng cường công tác kiểm tra của Trưởng đoàn đối với các thành viên

Trưởng đoàn thanh tra với nhiệm vụ chính là chỉ đạo, quản lý, điều hành

244

Đoàn thanh tra thực hiện quyết định thanh tra và kế hoạch thanh tra đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nên đương nhiên Trưởng đoàn thanh tra phải kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được phân công của mỗi nhóm công tác, mỗi thành viên của Đoàn thanh tra.

Nội dung kiểm tra bao gồm một số điểm chính sau:

- Kiểm tra việc thực hiện quyết định thanh tra và kế hoạch công tác của các thành viên trong Đoàn thanh tra đã được người có thẩm quyền phê duyệt;

- Kiểm tra việc vận dụng các biện pháp nghiệp vụ để thu thập, kiểm tra, xác minh chứng cứ;

- Kiểm tra việc áp dụng các quy định của pháp luật để kết luận từng chuyên đề, từng lĩnh vực mà mỗi đoàn viên, mỗi nhóm đoàn viên được phân công phụ trách;

- Kiểm tra việc thực hiện thực hiện các hành vi bị cấm theo quy định của Luật Thanh tra, các quy chế (quy chế đoàn thanh tra; quy chế ứng xử; giám sát, kiểm tra hoạt động của Đoàn thanh tra) do Tổng Thanh tra Chính phủ ban hành.

Để xét duyệt các báo cáo kết quả thanh tra của mỗi thành viên trong Đoàn, Trưởng đoàn không chỉ nghe báo cáo, mà còn phải trực tiếp đọc, nghiên cứu, đối chiếu các tài liệu, số liệu, chứng cứ... mà thành viên đã báo cáo; khi cần thiết có thể trực tiếp gặp đối tượng, nhân chứng để khẳng định thêm tính chính xác của các báo cáo kết quả trên.

Khi nhận định, đánh giá, kết luận một vấn đề, sự việc nào, Trưởng đoàn đặt nó trong tổng thể tình hình ở đó để thấy rõ mối quan hệ tác động lẫn nhau và từ đó mà thấy rõ được bản chất của các sự kiện đó. Đồng thời cũng phải xem xét diễn biến của sự việc đó trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có như vậy mới nhận định, đánh giá đúng những thành tích, những tồn tại, tính chất, mức độ sai phạm và nguyên nhân của nó. Từ đó, mới đưa ra được sự đánh giá một cách khách quan, chân thực và kiến nghị xử lý đúng đắn, khả thi.

d. Ghi nhật ký đoàn thanh tra theo quy định

Nhật ký đoàn thanh tra là tài liệu ghi lại những diễn biến cuộc thanh tra, những hoạt động chủ yếu của Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra là người có trách nhiệm trực tiếp ghi nhật ký của Đoàn. Sổ nhật ký được làm theo mẫu của Thanh tra Chính phủ; được ghi chép từ sau khi có quyết định thanh tra cho đến khi Đoàn thanh tra hoàn thành báo cáo kết quả thanh tra. Sau mỗi một ngày làm việc,

245

Trưởng đoàn phải ghi lại những sự kiện, những diễn biến của cuộc thanh tra, những hoạt động chủ yếu của Đoàn Thanh tra và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của những nội dung đó. Nhật ký Đoàn thanh tra được lưu trong hồ sơ cuộc thanh tra.

IV. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA

Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới về mọi mặt, nhất là trong quản lý kinh tế, từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã phát sinh nhiều quan hệ mới. Nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật mới về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế được ban hành. Nền kinh tế thị trường, bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển cũng nảy sinh rất nhiều tiêu cực, nhiều thủ đoạn làm ăn gian dối, phi pháp rất tinh vi và trắng trợn. Tình hình đó đặt ra cho công tác thanh tra những yêu cầu mới phải có sự đổi mới hơn nữa về nhận thức, về nội dung, về đối tượng thanh tra, về phương pháp thanh tra.

Trưởng đoàn thanh tra với vai trò là người trực tiếp điều hành cuộc thanh tra càng cần phải tự đổi mới, nâng cao, hoàn thiện hơn nữa trong nhận thức, trong học tập và phương pháp công tác của mình.

Thực tế hoạt động thời gian qua cho thấy, trong mỗi cuộc thanh tra dù lớn hay nhỏ Trưởng đoàn thanh tra cũng cần phấn đấu vươn lên trên một số lĩnh vực chủ yếu sau:

1. Trình độ hiểu biết chủ trương, chính sách, pháp luật và thực tế xã hội

Mỗi cuộc thanh tra đều đề cập đến nhiều chủ trương, chính sách, nhiều văn bản pháp luật khác nhau, đó là cơ sở pháp lý để xem xét và đánh giá đúng - sai đối với việc làm của đối tượng được thanh tra. Nếu mỗi đoàn viên khi được giao nhiệm vụ cụ thể phải tìm hiểu, nghiên cứu những văn bản pháp luật liên quan, thì Trưởng đoàn lại càng phải nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu, quán triệt nhiều hơn. Tuy nhiên hiện nay, trình độ hiểu biết của nhiều Trưởng đoàn đang còn nhiều hạn chế, nhiều Thanh tra viên chưa thật quan tâm thích đáng tìm hiểu những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc lĩnh vực thanh tra mà mình phụ trách để tích luỹ hiểu biết thường xuyên. Do vậy, khi bắt tay vào nhận nhiệm vụ mới tìm hiểu nghiên cứu, sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng.

Trước yêu cầu đổi mới hoạt động thanh tra hiện nay, càng đòi hỏi mỗi Thanh tra viên phải trau dồi, học tập, tìm hiểu thường xuyên chủ trương chính sách và

246

thực tế xã hội, coi đó là một quá trình tích luỹ đối với mỗi Thanh tra viên, tạo cho mình sự hiểu biết đa dạng, phong phú; đó là điều kiện cần thiết để có thể đảm nhiệm và làm tốt được vai trò Trưởng đoàn trong tình hình mới.

2. Trình độ và khả năng phân tích và tổng hợp để nâng cao chất lượng Kết luận thanh tra

Mỗi thành viên trong Đoàn được giao xem xét kết luận một hoặc một số nội dung cụ thể, để phục vụ cho kết luận chung của cuộc thanh tra. Trong trách nhiệm của mình, Trưởng đoàn không chỉ quản lý, chỉ đạo các thành viên thực hiện kế hoạch chung, mà còn phải trực tiếp nghiên cứu, phân tích để đánh giá chính xác, khách quan, kết luận đúng bản chất sự vật, hiện tượng trong từng phần mà mỗi thành viên đã nêu ra, đặt nó trong mối liên hệ chung của toàn cuộc thanh tra, qua đó tổng hợp lại, nêu lên được bản chất của nội dung trong đánh giá, kết luận toàn cuộc thanh tra nâng cao chất lượng báo cáo kết quả thanh tra.

Thực tế, nhiều Trưởng đoàn thanh tra chưa thực hiện được tốt yêu cầu trên. Một số Trưởng đoàn nhìn sự việc tản mạn, chưa tập trung được vào những vấn đề chính yếu, hoặc chỉ thấy biểu hiện bên ngoài mà chưa làm rõ được bản chất của vấn đề, như vậy là chưa làm đúng chức trách của Trưởng đoàn.

Để làm tốt chức trách của mình, Trưởng đoàn cần rèn luyện thói quen tư duy từ những vấn đề cụ thể đi đến khái quát, từ hiện tượng đi vào bản chất, đồng thời phải thực hiện được “miệng nói, tay làm”, không chỉ biết “cho ý kiến chỉ đạo” mà còn phải biết “tự mình suy nghĩ và trực tiếp hành động” khi cần thiết. Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn không chỉ nghe báo cáo của các đoàn viên, mà phải tìm đọc, nghiên cứu rất nhiều tài liệu, số liệu liên quan, không chỉ gặp gỡ một vài đối tượng mà cả nhiều người khác có liên quan để trao đổi, tìm hiểu thêm; qua đó so sánh, đối chiếu, tìm ra mối liên hệ giữa các sự việc, khái quát hoá tình hình chung để đưa ra được những nhận xét, kết luận chung đúng với bản chất của nó. Đó là phong cách chỉ đạo và yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra phải phấn đấu phải đạt tới.

3. Trương đoàn thanh tra phải chủ động tham mưu với người ra quyết định thanh tra để kết luận cuộc thanh tra và xử lý sau thanh tra

Sau khi nhận được báo cáo kết quả thanh tra của Trưởng đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét nội dung báo cáo, xây dựng và ban hành kết luận thanh tra.

Mặc dù kết luận cuộc thanh tra là trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra và trong quá trình tiến hành thanh tra người ra quyết định thanh tra đã thường

247

xuyên theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Đoàn thanh tra nhưng không ai hiểu đặc điểm, tình hình, những ưu điểm và thiếu sót, khuyết điểm của đối tượng thanh tra hơn Trưởng đoàn thanh tra. Vì vậy, Trưởng đoàn thanh tra cần tham mưu cho người ra quyết định thanh tra xây dựng và ban hành kết luận thanh tra, cụ thể là:

- Trong quá trình ra kết luận thanh tra, nếu người ra quyết định thanh tra yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra báo cáo để làm rõ thêm những vấn đề trong báo cáo kết quả thanh tra hoặc giao cho Đoàn thanh tra tiến hành thanh tra, làm rõ thêm một số nội dung để phục vụ cho việc kết luận thanh tra thì Trưởng đoàn và các thành viên của Đoàn phải thực hiện nghiêm túc.

Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản, làm cơ sở cho việc ra văn bản kết luận thanh tra.

- Trong trường hợp đối tượng thanh tra giải trình về những vấn đề chưa nhất trí với nội dung của dự thảo kết luận thanh tra mà việc giải trình đó được thực hiện bằng văn bản và có các chứng cứ để chứng minh cho ý kiến giải trình của mình thì Trưởng đoàn thanh tra giúp người ra quyết định thanh tra xem xét giải trình và các chứng cứ của đối tượng thanh tra (nếu người ra quyết định thanh tra yêu cầu). Việc xem xét này phải thực hiện vô tư, khách quan, nghiêm túc với tinh thần cầu thị.

- Kết luận thanh tra là sản phẩm cuối cùng của cuộc thanh tra, do người ra quyết định thanh tra ký, ban hành. Các kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra vô cùng quan trọng, có giá trị pháp lý buộc các đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan đến cuộc thanh tra có trách nhiệm thi hành. Vì vậy, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tham mưu giúp người ra kết luận thanh tra phân tích, chỉ rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân, các kiến nghị và các quyết định xử lý thanh tra chính xác, khách quan và khả thi.

Trưởng đoàn phải tham mưu chỉ đạo và tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra./.

248

Chuyên đề 8

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH

I. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN, CÁC PHƯƠNG CHÂM CHỦ YẾU TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH

Để bảo đảm cho việc giải quyết khiếu nại đúng đắn, đạt được mục đích, yêu cầu chấm dứt khiếu nại, quá trình giải quyết phải thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản và quán triệt các phương châm chủ yếu sau đây:

1. Các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết khiếu nại hành chính

Nguyên tắc 1. Giải quyết khiếu nại hành chính phải thực hiện theo quy định của pháp luật

Phải thực hịên theo quy định của pháp luật là nguyên tắc cơ bản, bao trùm toàn bộ hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính.

Tại Điều 4 Luật Khiếu nại nêu rõ: "việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật".

Thực hiện theo quy định của pháp luật khi khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân là một nguyên tắc bắt buộc, mà cả người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại phải tuân theo.

Nguyên tắc giải quyết khiếu nại hành chính phải thực hiện theo quy định của pháp lụật bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, khiếu nại, giải quyết khiếu nại hành chính phải tuân theo thủ tục, trình tự, thẩm quyền mà pháp luật đã quy định.

Đối với công dân, cơ quan, tổ chức khi khiếu nại, phải gửi đơn hoặc trình bày với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Họ phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về chế độ đại diện, chế độ ủy quyền.

Đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó là nghĩa vụ, trách nhiệm. Giải quyết khiếu nại phải đúng thẩm quyền, theo đúng trình tự, thủ tục và đúng thời hạn. Đó là những yếu tố thuộc trình tự, thủ tục khi giải quyết khiếu nại được quy định cụ thể trong Luật Khiếu nại và Nghị định 75/2012/NĐ - CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại.

249

Hiện nay hầu hết văn bản pháp luật chuyên ngành đều có các quy định về nội dung, khiếu nại và thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Đặc biệt, trước tình hình gia tăng, tồn đọng khiếu nại hành chính ở nước ta trong những năm gần đây và từ yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước, những vấn đề thủ tục thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các bộ, ngành đã được Nhà nước đề cấp rất rõ trong các văn bản của các cấp, các ngành và các văn bản của Đảng (Chẳng hạn: Nghị quyết số 30/2004/NQ-QHXI, kì họp thứ 5 Quốc hội khoa IX về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; Chỉ thị số 36/2004/CT–TTg ngày 27/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị 14/CT – TTg, ngày 18/5/2012 về tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị 09-CT/TW ngày 06/3/2001 của Ban Bí thư Trung ương về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, Thông báo kết luận số 130: TB/TW ngày 10 tháng 01 năm 2008 của Bộ Chính trị…)

Thứ hai, giải quyết khiếu nại hành chính phải căn cứ vào chính sách, pháp luật, các quy định của cấp có thẩm quyền.

Các văn bản pháp luật và chính sách của nhà nước, quy định của cấp có thẩm quyền là căn cứ pháp lý để xem xét, giải quyết khiếu nại. Chính sách, pháp luật xác định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, quyền và lợi ích, nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân. Các qui định đó phải được tất cả mọi người tôn trọng và thực hiện nhiêm chỉnh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nếu nảy sinh khiếu nại thì những qui định này cũng chính là các căn cứ để cơ quan giải quyết khiếu nại đối chiếu, xem xét để giải quyết, khôi phục quyền, lợi ích của người khiếu nại.

Giữa những quy định chung của pháp luật với cái riêng, cụ thể của chính sách cần phải được quán triệt và vận dụng một cách phù hợp trong giải quyết từng vụ, việc. Dù trong trường hợp nào, khi căn cứ vào văn bản pháp luật và chính sách đều phải xem xét đến thời điểm phát sinh khiếu nại, thời điểm giải quyết khiếu nại. Khi cần thiết phải cập nhật đầy đủ các văn bản có liên quan. Các văn bản này phải là văn bản được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền mà pháp luật qui định và phải đang có hiệu lưc.

Tương tự như vậy, khi xem xét đánh giá hành vi hành chính bị khiếu nại thì cần căn cứ vào các qui định của pháp luật về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan hay cán bộ công chức đã có hành vi bị khiếu nại để kết luận hành vi đó là tráI pháp lụât hay không trái pháp luật, có vi phạm hay không có vi phạm...

250

Thứ ba, không một cơ quan, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở, trả thù, trù dập, kích động người khiếu nại.

Nội dung này thể hiện tập trung tại Điều 6, Luật Khiếu nại. Thông thường khi xảy ra việc khiếu nại, cả bên khiếu nại và bên bị khiếu nại đều tìm mọi khả năng để bảo vệ ý kiến, quyết định hoặc hành vi của mình. Khai thác các quan hệ để can thiệp vào quá trình giải quyết. Những người này hoặc vì lợi ích cục bộ, vì động cơ cá nhân mà có những hành vi can thiệp, cản trở khiếu nại, gây khó khăn, làm cho giải quyết khiếu nại bị sai lệch...

Bởi vậy, để bảo đảm cho giải quyết khiếu nại đúng đắn, pháp luật về khiếu nại đã đưa ra những quy định để ngăn chặn, xử lý những hành vi cản trở, can thiệp trái phép việc giải quyết khiếu nại.

Thứ tư, đòi hỏi công dân, cơ quan, tổ chức phải chấp hành đầy đủ quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực.

Nội dung này thể hiện tập trung tại Điều 45, 46 của Luật Khiếu nại.

Việc chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực được nói rõ tại các quy định về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại, và cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Theo những quy định này, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu cơ quan, cá nhân có liên quan không chấp hành thì tùy theo mức độ và tính chất của hành vi mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Việc chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại cũng như thực hiện kết luận, kiến nghị đối với các vụ việc khiếu nại hành chính là thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực của hệ thống quản lý nhà nước được phản ánh rõ nét qua việc thực hiện các quyết định, các kiến nghị này.

Nguyên tắc 2. Giải quyết khiếu nại phải bảo đảm tính khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời

Nếu nguyên tắc "thực hiện theo quy định của pháp luật" phản ánh tính chuẩn mực của pháp luật trong giải quyết khiếu nại thì nguyên tắc khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời ngoài việc phản ánh những khía cạnh pháp lý, nó còn phản ánh khía cạnh chính trị - xã hội. Nguyên tắc này là sự thể hiện những yêu cầu pháp lý tương ứng với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và trình độ dân trí...

251

Nguyên tắc khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời thể hiện những yêu cầu có tính thực tiễn trong giải quyết. Một mặt bảo đảm cho quá trình giải quyết được công minh, có giám sát, được tin cậy, khách quan và công tâm. Dân chủ trong giải quyết khiếu nại đòi hỏi các ý kiến trình bày của công dân phải được tôn trọng, lắng nghe. Thông tin từ quần chúng, dư luận lành mạnh cũng là những cơ sở quan trọng để thúc đẩy giải quyết khiếu nại nhanh chóng và đạt kết quả tốt.

Đồng thời, việc giải quyết, bảo vệ quyền, lợi ích của công dân dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến của các cơ quan hữu quan, các thành phần có liên quan, cũng chính là nhằm bảo đảm công khai, dân chủ thực sự. Quyền khiếu nại, quyền tố cáo được coi là một trong những hình thực thực hiện quyền dân chủ trực tiếp đã được pháp luật ghi nhận. Đây là một biện pháp để khôi phục và bảo đảm công bằng xã hội, nó phù hợp với nguyện vọng của mỗi người dân và toàn xã hội.

Kịp thời là một yêu cầu có tính nguyên tắc. Giải quyết khiếu nại kịp thời là thể hiện mối quan tâm của chế độ xã hội đối với công dân, thể hiện thái độ tôn trọng của cơ quan, nhà nước đối với yêu cầu, nguyện vọng của dân. Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ: "Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ ngày càng được củng cố tốt hơn"

Tính kịp thời còn được nhấn mạnh ngay cả trong phòng ngừa, sửa chữa các sai phạm của các cấp có thẩm quyền nhằm tránh phát sinh các khiếu nại.

Nguyên tắc 3. Giải quyết khiếu nại hành chính phải thể hiện bằng văn bản

Nguyên tắc thể hiện bằng văn bản nhằm bảo đảm tính nhất quán và tính hợp pháp của quá trình giải quyết khiếu nại. Theo nguyên tắc này, khi thực hiện quyền khiếu nại, nội dung khiếu nại phải được thể hiện bằng văn bản theo đúng quy định. Văn bản này có thể do người khiếu nại thực hiện, hoặc có thể do nơi tiếp nhận khiếu nại thực hiện. Đây là thủ tục pháp lý ban đầu để làm căn cứ thụ lý, giải quyết vụ, việc khiếu nại.

Nguyên tắc thể hiện bằng văn bản đòi hỏi quá trình giải quyết khiếu nại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải phản ánh các hoạt động thông qua hình thực văn bản. Quá trình thụ lý, thu thập thông tin, tài liệu, đánh giá, kết luận… đều phải ghi nhận bằng mẫu biểu, biên bản, báo cáo theo đúng thể thực của văn bản quản lý nhà nước quy định.

Kết thúc việc giải quyết khiếu nại phải bằng quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền. Đây là quy định bắt buộc đối với quá trình giải quyết khiếu nại. Việc thay thế quyết định giải quyết khiếu nại bằng thông báo, biên bản

252

cuộc họp hoặc các hình thực văn bản khác... là vi phạm quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại đã được Luật Khiếu nại quy định. Tình trạng vi phạm đó làm cho công tác thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại hành chính vốn đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn.

Tóm lại, nguyên tắc thực hiện theo quy định của pháp luật; nguyên tắc bảo đảm tính khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời; nguyên tắc thể hiện bằng văn bản là những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình giải quyết khiếu nại hành chính. Trong đó, nguyên tắc thực hiện theo quy định của pháp luật là nguyên tắc bao trùm, chi phối các nguyên tắc. Thực tiễn cho thấy việc giải quyết khiếu nại hành chính cần vận dụng các nguyên tắc này một cách linh hoạt và có sự phối hợp với nhau thì mới đạt hiệu quả tốt.

2. Phương châm chủ yếu trong giải quyết khiếu nại hành chính

Phương châm 1. Quan điểm toàn diện

Quan điểm toàn diện đòi hỏi giải quyết khiếu nại phải xem xét các yếu tố tác động tích cực, tiêu cực của vụ việc trong quỏ trỡnh được giải quyết.

Đặc biệt với mỗi vụ, việc khi giải quyết phải xem xét, đánh giá những tác động về:

- Phương dịên kinh tế;

- Phương diện chính trị;

- Phương diện văn hóa, xã hội.

Nhìn vụ việc và giải quyết xem xét toàn diện là loại trừ cách làm phiến diện, chủ quan. Từ đó, cũng tránh đi những phát sinh phức tạp có thể xảy ra.

Phương châm 2. Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể

Vụ, việc khiếu nại có thể liên quan đến nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội. Mỗi vụ, việc xảy ra bị khiếu nại đều gắn với một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cụ thể với những đặc thù về địa lý, phong tục, tập quán..

Bởi vậy, trên cơ sở những nguyên tắc chung của pháp luật, đòi hỏi khi giải quyết khiếu nại phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể. Phải tính đến những yếu tố văn hóa, xã hội cụ thể ở từng nơi, từng vụ, việc để làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến vụ, việc hành vi bị khiếu nại. Căn cứ vào điều kiện kinh tế,

253

trình độ dân trí, đặc điểm vùng lãnh thổ, tập quán địa phương mà lựa chọn những phương án giải quyết phù hợp.

Đây chính là căn cứ để đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại hiệu quả phù hợp với hòan cảnh, điều kiện cụ thể.

Phương châm 3. Thận trọng, trách nhiệm, cầu thị

Xem xét, giải quyết khiếu nại hành chính là giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và nó mang tính xã hội sâu sắc. Vì vậy, quá trình giải quyết khiếu nại đòi hỏi người giải quyết phải có thái độ, thận trọng, trách nhiệm, cầu thị. Mỗi vụ, việc phản ánh một khía cạnh riêng của đời sống xã hội và công dân. Mỗi công dân đến khiếu nại đều có cách thể hiện thái độ, cử chỉ riêng đề trình bày mục đích của mình. Do đó, khi tiếp nhận, xem xét giải quyết khiếu nại, cần phải hết sức thận trọng, có trách nhiệm trong giao tiếp với công dân.

Đồng thời đòi hỏi người giải quyết phải am hiểu những lĩnh vực có liên quan, có hiểu biết về văn hóa, xã hội, hiểu biết tâm lý ứng xử, luôn cầu thị học hỏi để nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu nại của công dân.

Phương châm 4. Khuyến khích hòa giải, tăng cường đối thoại

Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phân tích các nguyên nhân phát sinh khiếu nại; việc khuyến khích hòa giải trong cộng đồng dân cư cũng đã được Luật Khiếu nại quy định nhằm tránh phát sinh khiếu nại.

Điều 5, Luật Khiếu nại: "... Nhà nước khuyến khích việc hòa giải tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trước khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó".

Khuyến khích hòa giải là một phương châm quan trọng trong giải quyết khiếu nại hành chính, bước đầu phòng ngừa, tránh phát sinh mâu thuẫn, tạo thuận lợi cho nội bộ nhân dân tự nguyện giải quyết các tranh chấp, hạn chế sự can thiệp giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây xem như là một biện pháp ngăn chặn nảy sinh khiếu nại hành chính ngay từ cơ sở. Đối với pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình, hòa giải là một việc bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp các bất đồng, trước khi Toà án xét xử.

Hòa giải trong nội bộ nhân dân đạt kết quả, cũng có nghĩa là cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải can thiệp giải quyết. Do vậy, có thể tránh được phức tạp không cần thiết nảy sinh phải giải quyết tranh chấp theo con đường hành

254

chính nhà nước. Hơn thế nữa, hòa giải nội bộ đạt kết quả làm cho cộng đồng dân cư ổn định, phù hợp tập quán, truyền thống "hòa hiếu làm trọng" của người Việt Nam.

Tuy nhiên cũng cần phải nhận rõ, loại trừ những thỏa thuận hòa giải trái pháp luật, trái đạo đức và không phù hợp nếp sống truyền thống văn hoá... Việc hòa giải phải tuân theo các nguyên tắc:

+ Phù hợp đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân;

+ Tôn trọng tự nguyện của các bên;

+ Khách quan, công minh, có lý có tình, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, của nhà nước và của cộng đồng.

+ Ngăn chặn hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra sau hòa giải.

Khi khiếu nại phát sinh, nếu người khiếu nại thay đổi ý kiến thì họ có thể rút đơn khiếu nại của mình, vấn đề này còn được quy định tại Điều 12, Luật Khiếu nại: "... Rút khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại". Đây là biện pháp bảo đảm cho người khiếu nại được chủ động về quyết định của mình, đưa đến khả năng người khiếu nại được "giải phóng khỏi vướng mắc tâm lý" và tránh được những khó khăn tốn kém của một vụ, việc khiếu nại.

Gặp gỡ, đối thoại giữa các bên để làm rõ nội dung vụ việc trong giải quyết khiếu nại là một trong những phương châm cơ bản được pháp luật quy định. Đối thoại được quy định tại các Điều 30 (đối thoại giải quyết lần đầu), Điều 39 (đối thoại giải quyết lần 2) của Luật Khiếu nại.

Khuyến khích hòa giải, tăng cường đối thoại trong giải quyết và việc tạo thuận lợi cho việc rút đơn khiếu nại là nhằm hạn chế phát sinh vụ, việc và sớm chấm dứt quá trình giải quyết vụ, việc.

II. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH

Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính là thứ tự công việc phải làm để giải quyết vụ, việc khiếu nại trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc cơ bản và vận dụng các phương châm chủ yếu.

Dù ở cấp thẩm quyền nào, việc giải quyết khiếu nại hành chính về cơ bản cũng đều phải thực hiện theo các bước sau:

255

- Tiếp nhận, và xử lý đơn thư khiếu nại;

- Chuẩn bị giải quyết vụ, việc khiếu nại;

- Thẩm tra, xác minh vụ, việc khiếu nại;

- Ra quyết định và công bố quyết định giải quyết khiếu nại;

- Thi hành quyết định và lưu trữ hồ sơ vụ, việc.

Các bước trong quá trình giải quyết khiếu nại được tiến hành kế tiếp nhau. Tuy nhiên việc tiếp nhận và xử lý đơn thư được coi như một nghiệp vụ riêng. Do vậy, dưới đây chỉ trình bày những bước còn lại trong trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính. Việc giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai về cơ bản đều phải tuân theo các bước cơ bản như nhau.

Bước 1: Chuẩn bị giải quyết khiếu nại

Bước chuẩn bị giải quyết khiếu nại được bắt đầu từ khâu nghiên cứu sơ bộ vụ việc đến khi xây dựng được kế hoạch, giải quyết bước này cần thực hiện các công việc sau:

a) Nghiên cứu sơ bộ vụ, việc

Nghiên cứu sơ bộ vụ việc khiếu nại là một khâu quan trọng của bước chuẩn bị. Mục đích của khâu này nhằm làm rõ và củng cố nội dung chủ yếu về vụ, việc: Chẳng hạn, tên, địa chỉ, tư cách người khiếu nại; yêu cầu cụ thể của người khiếu nại; cơ sở, căn cứ của các yêu cầu trong khiếu nại; thẩm quyền giải quyết, và tính chất của vụ, việc... Cho nên, kết quả nghiên cứu sơ bộ vụ, việc là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định theo một trong hai hướng sau:

- Thông báo không giải quyết vụ, việc theo quy định của pháp luật;

- Thụ lý giải quyết vụ, việc theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.

Nghiên cứu sơ bộ vụ, việc có thể thực hiện như sau:

- Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc

Sau khi khiếu nại của công dân đã đến với cơ quan thẩm quyền giải quyết thì hồ sơ vụ, việc khiếu nai được xác lập. Đôi khi khiếu nại đến với cơ quan giải quyết thông qua con đường công văn, thư từ, chuyển đơn. Do vậy, nghiên cứu hồ sơ vụ, việc sẽ là công việc đương nhiên khi làm công tác chuẩn bị. Tuy nhiên, hồ sơ vụ, việc ở thời điểm này thường là thông tin, tài liệu do bên khiếu nại cung cấp: Đơn

256

hoặc biên bản ghi lời khiếu nại; bằng chứng về quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại; tài liệu có liên quan.

- Nghiên cứu vụ, việc qua người khiếu nại, người bị khiếu nại và những người liên quan

Khi việc nghiên cứu qua hồ sơ chưa làm rõ được các yêu cầu thì có thể kết hợp qua tiếp xúc với người khiếu nại, người bị khiếu nại và những người liên quan, yêu cầu họ trình bày, cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ. Thông qua đó, các bên có cơ hội hiểu kĩ hơn về các vấn đề liên quan quyền, lợi ích, nghĩa vụ của mình trong vụ, việc. Người khiếu nại có thể nhận thực lại và thay đổi quyết định của mình về khiếu nại như điều chỉnh nội dung khiếu nại, rút đơn khiếu nại. Nguời bị khiếu nại có thể kịp thời nhận ra sai phạm để khắc phục, sửa chữa hoặc giải trình về nội dung bị khiếu nại...

- Nghiên cứu tại nơi có vụ, việc

Nhìn chung việc nghiên cứu khảo sát ban đầu phải xuống địa bàn nơi có vụ, việc khiếu nại. Trên thực tế, nhiều vụ việc khiếu nại nhờ có khảo sát tại địa bàn mà cán bộ nghiệp vụ đã sớm đề xuất được cách giải quyết kịp thời để khiếu nại chấm dứt hoặc có cách giải quyết thích hợp sau này. Đặc biệt với vụ, việc được nhận định phức tạp thì việc nghiên cứu sơ bộ tại địa bàn thường là một công việc bắt buộc trước khi thụ lý.

Qua nghiên cứu sơ bộ ban đầu nội dung khiếu nại, tính chất vụ, việc sơ bộ được xác định rõ.

Cũng có khả năng khiếu nại có thể chấm dứt do người khiếu nại tự nguyện rút đơn khi đó việc rút đơn phải làm thành văn bản. Đối với vụ, việc đơn giản, tài liệu đầy đủ thì khiếu nại có thể được giải quyết ngay, khiếu nại chấm dứt; sau khi hòan tất việc nghiên cứu sơ bộ, cán bộ nghiệp vụ kết thúc khâu này bằng báo cáo khảo sát vụ, việc gửi lên cấp có thẩm quyền để làm căn cứ xử lý, giải quyết vụ việc.

b) Thụ lý giải quyết vụ, việc

Đây là khâu tiếp theo sau khi đã hòan tất việc nghiên cứu sơ bộ vụ việc. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, nếu khiếu nại thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 27, Điều 36 của Luật Khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người giải quyết khiếu nại lần hai phải thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại

257

biết, (đối với giải quyết lần hai thì phải báo cho người giải quyết khiếu nại lần đầu biết).

Căn cứ hồ sơ và báo cáo của cán bộ nghiệp vụ người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định thụ lý giải quyết vụ việc và thông báo cho người khiếu nại biết. Ngược lại, nếu khiếu nại không đủ điều kiện thụ lý thì trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại, và nêu rõ lý do.

Quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền là căn cứ pháp lý để tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Thực tế cho thấy còn nhiều cơ quan, đơn vị còn xem nhẹ thủ tục này, chưa xác định việc quyết định thụ lý vụ việc là một khâu bắt buộc trong giải quyết khiếu nại, là cơ sở để tính thời hạn giải quyết khiếu nại.

Sau khi có thụ lý giải quyết, hồ sơ vụ việc có thể được chuyển tiếp bàn giao cho các cán bộ nghiệp vụ để thẩm tra, xác minh. Do vậy, việc bàn giao hồ sơ phải chặt chẽ, đầy đủ, bảo đảm tính liên tục của thông tin, tài liệu đã được xử lý.

c) Xây dựng kế hoạch giải quyêt vụ việc

Kế hoạch giải quyết cần nêu ra các công việc phải làm, tiến độ thời gian của từng việc cụ thể, dự kiến được các tình huống phát sinh khi thực hiện và các điều kiện bảo đảm cần thiết khi tiến hành giải quyết vụ, việc khiếu nại. Kế hoạch giải quyết chi tiết, đầy đủ ở mức nào hòan toàn phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm cụ thể của từng vụ việc.

Căn cứ vào nghiên cứu hồ sơ, cần phải xác định tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp của vụ việc (đối tượng liên quan, phạm vi liên quan, mức độ thiệt hại do vi phạm pháp luật gây ra, đã qua cấp nào giải quyết...) để xây dựng kế hoạch cho phù hợp.

Nội dung kế hoạch phải dự kiến được những vấn đề sau:

+ Vấn đề cần phải thẩm tra, xác minh;

+ Nội dung cần phải nghiên cứu bổ sung;

+ Yêu cầu cơ quan cá nhân giải trình và nội dung giải trình;

+ Gặp gỡ (cơ quan, cá nhân, người liên quan,…) để thu thập thông tin, thẩm tra, xác định chứng cứ;

258

+ Các điều kiện về kinh phí, nhân lực, phương tiện phục vụ cần thiết;

+ Khả năng vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết;

+ Dự kiến phương pháp, cách thực tiến hành;

+ Tiến độ, thời gian ...

Kế hoạch giải quyết vụ, việc được báo cáo người đã ra quyết định thụ lý vụ việc và là căn cứ để tiến hành thanh tra, xác minh, thu thập chứng cứ và giải quyết vụ, việc.

d) Tập hợp và nghiên cứu tài liệu liên quan

Để có căn cứ pháp lý và tài liệu giúp cho giải quyết vụ việc nhanh chóng, người thụ lý giải quyết phải sưu tầm, tập hợp các tài liệu có liên quan như:

- Văn bản, tài liệu do người khiếu nại đề cập trong đơn khiếu nại làm căn cứ cho yêu cầu được khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.

- Văn bản, tài liệu liên quan đến quyết định, hành vi bị khiếu nại. Đây cũng là tài liệu phục vụ cho việc xem xét, bảo đảm tính đúng đắn, hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi bị khiếu nại;

- Văn bản tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn, chỉ đạo giải quyết khiếu nại và các lĩnh vực có liên quan.

- Văn bản, tài liệu tham khảo; đặc điểm lãnh thổ, dân cư, tài liệu phục vụ đã giải quyết tương tự...

Trên cơ sở kế hoạch giải quyết đã được thông qua, và tài liệu về vụ, việc cần thiết phải nghiên cứu, tập huấn nghiệp vụ nếu cần trước khi triển khai chính thực.

Bước 2. Thẩm tra, xác minh vụ, việc

Quyết định giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền phụ thuộc vào những báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị của cán bộ thụ lý giải quyết. Báo cáo, kết luận phải trên cơ sở các tài liệu, thông tin về vụ, việc đã được thu thập, kiểm tra, xác minh phù hợp những quy định của pháp luật.

Do vậy, đây là bước quyết định trong xem xét, giải quyết vụ, việc khiếu nại. Đồng thời, nó cũng là bước đòi hỏi cao nhất về trình độ nghiệp vụ, năng lực hoạt động nghề nghiệp của cán bộ thụ lý giải quyết vụ, việc.

259

a) Vận dụng các biện pháp nghiệp vụ cơ bản

Khi tiến hành thẩm tra, xác minh vụ, việc cần vận dụng một số biện pháp nghiệp vụ cơ bản sau:

Biện pháp 1. Làm việc với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có liên quan

Thực chất đây là quá trình khai thác thông tin từ các đối tượng có liên quan đến vụ việc. Phải chủ động và chuẩn bị kỹ về nội dung, phai nghiên cứu đối tượng, chuẩn bị các biện pháp nghiệp vụ để mau chóng xác định được vấn đề cần quan tâm xác minh.

Biện pháp 2. Kiểm tra đối chiếu, xem xét thực tế

Việc kiểm tra, đối chiếu xem xét cụ thể hồ sơ, tài liệu, kho, quỹ liên quan hoặc đến tại nơi có sự kiện, vụ việc là cần thiết. Đây là một trong những biện pháp chủ yếu của công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản và các phương châm chủ yếu, cán bộ nghiệp vụ chỉ có thể đưa ra kết luận nội dung gì, điều gì sau khi đã thẩm tra, xác minh các tài liệu sự kiện... Do vậy, việc kiểm tra đối chiếu xem xét đến tận nơi vừa là khâu kết thúc đánh giá thông tin, tài liệu, nhưng cũng có thể là khâu khởi đầu cho việc đưa đến thu thập thông tin, tài liệu tiếp theo.

Khâu chuẩn bị cho công việc bao gồm những vấn đề đã thu thập được, những vấn đề còn phải làm rõ, những số liệu, hiện vật, địa điểm đã được cung cấp... Đó là nội dung cần thiết phải làm rõ.

Chọn yếu tố, tiêu chí nào là cơ bản để kiểm tra; lựa chọn, thiết lập phương pháp kiểm tra như thế nào cho phù hợp lại là hai vấn đề then chốt quyết định trong sử dụng biện pháp nghiệp vụ này.

Các phương tiện, điều kiện phục vụ như kinh phí, kĩ thuật nghiệp vụ... sẽ giúp cho khâu kiểm tra, xem xét có kết quả tốt.

Biện pháp 3. Tổ chức đối chất, đối thoại giữa các đối tượng liên quan

Khi cần thiết, tổ chức đối chất giữa các đối tượng cung cấp thông tin có sự mâu thuẫn để khẳng định tính trung thực của mỗi bên là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn của tài liệu thông tin làm chứng cứ cho việc kết luận vụ việc. Đối chất có thể tiến hành khi một trong hai bên đề nghị hoặc do chủ động của cán bộ thẩm tra, xác minh yêu cầu.

260

Đối thoại được quy định cụ thể tại Điều 30, Điều 39, Luật Khiếu nại.

Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai người giải quyết khiếu nại gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại.

Theo đó, quy định về đối thoại bao gồm làm rõ nội dung, yêu cầu của người khiếu nại, hướng giải quyết vụ, việc. Cần có chuẩn bị kĩ về mục đích, nội dung, phương pháp tiến hành đối thoại.

Để việc vận dụng các biện pháp nghiệp vụ trên có kết quả tốt, cán bộ nghiệp vụ cần phải chuẩn bị nghiên cứu kĩ đối tượng và dự kiến về quá trình tác nghiệp.

Biện pháp 4. Trưng cầu giám định (nếu cần)

Trưng cầu giám định được sử dụng khi các thông tin, tài liệu, vật chứng thu thập được đòi hỏi việc đánh giá phải có đủ trình độ, khả năng chuyên môn và phương tịên để xem xét, kết luận. Khi đó, cán bộ thẩm tra, xác minh phải báo cáo người có thẩm quyền để yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành giám định. Thủ tục trưng cầu giám định và giao, nhận kết quả giám định phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

Bịên pháp 5. Xác nhận của cơ quan có thẩm quyền

Trong quá trình thanh tra xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, nếu thấy cần thiết người có thẩm quyền có thể yêu cầu các cơ quan tổ chức có thẩm quyền tiến hành xác nhận giúp cho quá trình làm rõ sự thật về khiếu naị được thuận lợi.

Văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp là một căn cứ pháp lý để cán bộ nghiệp vụ xem xét, kết luận vấn đề trong quá trình thẩm tra xác minh vụ việc.

Biện pháp 6. Sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ

Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật một cách hợp lý sẽ thúc đẩy quá trình giải quyết khiếu nại được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và hiệu quả.

Các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ như máy ảnh, máy ghi âm, ghi hình, máy tính cùng các phương tiện kỹ thuật khác bảo vệ thông tin, tài liệu trong thanh tra, xét khiếu tố… phải được xác định đúng vị trí trong hoạt động nghiệp vụ. Người sử dụng cần thiết phải nghiên cứu để sử dụng chúng một cách hiệu quả, hợp lý.

Qua thực tế cho thấy, hiện nay các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ được trang bị và sử dụng vào hoạt động nghiệp vụ còn rất hạn chế và chưa hiệu quả. Thậm chí

261

chưa có cách nhìn thống nhất về vấn đề này. Một số loại phương tiện kỹ thuật và việc sử dụng các phương tiện này chưa thực sự trở thành một biện pháp nghiệp vụ trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Máy vi tính, kĩ thuật mạng thông tin… cần phải được nghiên cứu triển khai như một phương tiện kỹ thuật thực thụ trong tương lai gần (trước mắt phục vụ cho việc tra cứu, lưu giữ thông tin sau này là xử lý nghiệp vụ...). Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan thanh tra cần xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của các phương tiện kĩ thuật, đầu tư và có biện pháp để sử dụng nó cho hiệu quả để nó thực sự trở thành một biện pháp nghiệp vụ trong quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo

Biện pháp 7. Đánh giá thông tin, xác định căn cứ

Khác với các biện pháp trên, ở đây cán bộ nghiệp vụ tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh trên tài liệu, qua tiếp xúc với các bên, qua đối chất, kiểm tra, xem xét thực tế... để đánh giá thông tin, tài liệu đã thu thập được xác định, kiểm tra tính chính xác, chân thực để làm cơ sở cho việc kết luận, giải quyết khiếu nại.

Bằng phân tích, tổng hợp, so sánh... đối chiếu với các quy định của văn bản pháp luật, chính sách của Nhà nước để đưa ra những nhận xét, kết luận chính; làm rõ nguyên nhân sai phạm, mục đích, động cơ của các hành vi vi phạm..., xác định tính đúng sai, chân thực của từng nội dung cụ thể để giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả.

Trình tự vận dụng các biện pháp nghiệp vụ phụ thuộc vào quá trình giải quyết cụ thể của vụ, việc khiếu nại. Quá trình vận dụng các biện pháp này được thực hiện đan xen và liên tục: kiểm tra xem xét - gặp gỡ đương sự - phân tích so sánh... Quá trình đó phải là quá trình sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp và linh hoạt nhằm làm cho việc vận dụng các biện pháp có hiệu quả.

b) Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh

Khi kết thúc bước thu thập thông tin, các cán bộ nghiệp vụ được phân công thẩm tra, xác minh vấn đề nào phải làm báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh vấn đề đó.

Đây là kết quả công việc của cán bộ, Thanh tra viên về phần việc được giao thẩm tra, xác minh. Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh phải trả lời được những vấn đề của kế hoạch giải quyết và văn bản thụ lý yêu cầu. Đây là cơ sở để cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết vụ, việc.

Bước 3. Ra quyết định và công bố quyết định

a) Tổng hợp báo cáo, chuẩn bị tài liệu

Nếu vụ việc được phân công cho nhiều người thực hiện thì việc tổng hợp báo cáo là việc làm cần thiết. Đây là khâu tổng hợp toàn bộ phần công việc đã làm từ

262

khi thụ lý giải quyết. Báo cáo tổng hợp chỉ rõ công việc đã thẩm tra, xác minh để đi đến kết luận, kiến nghị phục vụ cho việc đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại.

Báo cáo tổng hợp bao gồm nội dung cơ bản sau:

- Tóm tắt khái quát nôị dung vụ việc khiếu nại.

- Quá trình thụ lý giải quyết của các cấp có thẩm quyền.

- Quá trình thẩm tra, xác minh.

- Kết luận, kiến nghị.

Báo cáo tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh và tài liệu kèm theo được trình lên cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết khiếu nại.

Căn cứ báo cáo tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh của Chánh Thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp ra quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định.

b) Dự kiến và hòan chỉnh phương án giải quyết

Phương án giải quyết được dự kiến và hòan chỉnh sau khi đã có báo cáo tổng hợp cuối cùng. Để bảo đảm cho vụ việc được giải quyết chính xác, khách quan, hợp lý, phương án dự kiến giải quyết cần phải được tham khảo các bên hữu quan, các đoàn thể và thông báo cho các bên liên quan truớc khi ra quyết định chính thực

Trong những trường hợp cụ thể, đối với vụ, việc phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nếu cần thiết có thể mở Hội nghị tư vấn, tham khảo ý kiến các cơ quan liên quan. Thông qua hội nghị tư vấn, tranh thủ ý kiến đóng góp của các cơ quan, đơn vị tạo sự thống nhất trong xử lý, giải quyết vụ, việc chọn ra phương án tốt nhất cho việc ra quyết định giải quyết. Đồng thời, đây là dịp tuyên truyền, tạo dư luận ủng hộ sau khi vụ việc khiếu nại được giải quyết.

Phương án dự kiến được trình lên cấp thẩm quyền xem xét, quyết định.

Phương án giải quyết khiếu nại lần hai có thể lấy ý kiến tham khảo Hội đồng tư vấn nếu cần thiết.

c) Ra quyết định và công bố quyết định giải quyết khiếu nại

Ra quyết định giải quyết

Ra quyết định giải quyết là khâu kết thúc xem xét, giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền. Quyết định giải quyết khiếu nại được ban hành khi đã có báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh và xem xét các khía cạnh khác nhau của phương án dự kiến.

263

Quyết định giải quyết khiếu nại xác định quan hệ, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các cá nhân có liên quan trước pháp luật: Người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức phải thực hiện quyết định để khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích của các bên theo nội dung quyết định của người có thẩm quyền.

Quyết định giải quyết khiếu nại phải bảo đảm được những yêu cầu về hình thực, nội dung theo quy định:

- Về hình thực: Phải thể hiện đầy đủ các yếu tố của một quyết định hành chính được ban hành theo thẩm quyền.

- Về nội dung: Phải thể hiện được thái độ dứt khoát của cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết vụ, việc khiếu nại. Luật Khiếu nại quy định tại Điều 31, quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và Điều 40, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, về cơ bản bao gồm các nội dung sau:

+ Ngày, tháng, năm ra quyết định;

+ Tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;

+ Nội dung khiếu nại;

+ Kết quả thẩm tra, xác minh;

+ Kết quả đối thoại;

+ Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;

+ Kết luận về nội dung khiếu nại (đối với giải quyết khiếu nại lần hai có yêu cầu việc hủy bỏ, sửa đổi quyết định họăc chấm dứt hành vi tương ứng)

+ Giữ nguyên hoặc sửa đổi huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại;

+ Quyền khiếu nại lần hai (đối với giải quyết khiếu nại lần đầu)

+ Việc bồi thường thiệt hại nếu có;

+ Quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án.

Gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu

264

Trong thời hạn 03 ngày, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gửi quyết định giải quyết đến:

+ Người khiếu nại;

+ Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của mình;

+ Người có quyền, nghĩa vụ liên quan;

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến;

+ Cơ quan Thanh tra nhà nước cùng cấp.

Gửi quyết định giải quyết khiếu nại lần hai

Trong thời hạn 07 ngày, người giải quyết khiếu nại lần hai phải gửi quyết định giải quyết đến:

+ Người khiếu nại và Người bị khiếu nại;

+ Người giải quyết khiếu nại lần đầu;

+ Người có quyền, nghĩa vụ liên quan;

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến;

Công khai quyết định giải quyết khiếu nại lần hai

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ khi có quyết định giải quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai có trách nhiệm công khai quyết định giải quyết khiếu nại theo một trong các hình thực sau:

+ Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị khiếu nại công tác.

+ Niêm yết tại trụ sở làm việc họăc nơi tiếp công dân của cơ quan đó giải quyết

+ Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng

+ Trường hợp công bố tại cuộc họp thỡ thành phần tham dự cuộc họp phải bao gồm: người ra quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại hoặc người đại diện, người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Trước khi tiến hành cuộc họp công khai người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải có văn bản thông báo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan biết. Thời gian thông báo phải trước 3 ngày làm việc.

265

+ Việc thông báo quyết định giải quyết khiếu nại trên các phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện trên báo nói, báo hình, báo viết, báo điện tử. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm lựa chọn một trong các phương tiện thông tin đại chúng để thực hiện việc thông báo. Trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử, phải công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử.

Số lần thông báo trên báo nói ít nhất 02 lần phát sóng; trên báo hình ít nhất 02 lần phát sóng; trên báo viết ít nhất 02 số phát hành; thời gian đăng tải trên báo điện tử, trên cổng thông tin điện tử hoặc trên trang thông tin điện tử ít nhất là 15 ngày, kể từ ngày đăng thông báo.

+ Trường hợp niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đó giải quyết khiếu nại, thời gian niờm yết quyết định giải quyết khiếu nại ít nhất là 15 ngày, kể từ ngày niêm yết.

Bước 4: Thi hành quyết định và lưu trữ hồ sơ

a) Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại

Người ra quyết định có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra và áp dụng các biện pháp cần thiết hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết yêu cầu những người có trách nhiệm, nghĩa vụ phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định đã có hiệu lực.

Thủ trưởng cơ quan hành chính có vụ, việc bị khiếu nại căn cứ vào quyết định giải quyết để kịp thời sửa đổi hoặc thay thế quyết định hành chính, điều chỉnh hành vi hành chính có vi phạm; bồi thường thiệt hại; khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Thực tế hiện nay cho thấy, không ít quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật không được chấp hành đầy đủ, kịp thời. Điều đó càng làm cho các vụ, việc khiếu nại vốn đã phức tạp lại càng thêm phức tạp hơn.

b) Lưu trữ hồ sơ

Hồ sơ vụ, việc được lập gửi vào lưu trữ để giúp cho quản lý, theo dõi công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đồng thời nó còn là căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết khiếu nại ở cấp tiếp theo hoặc các vụ, việc có liên quan khác.

266

Hồ sơ được lập bao gồm:

+ Đơn thư khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại;

+ Văn bản trả lời của người bị khiếu nại;

+ Các văn bản về thẩm tra, xác minh;

+ Quyết định giải quyết khiếu nại;

+ Tài liệu khác có liên quan…

Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang theo thứ tự và lưu giữ theo quy định. Khi người khiếu nại khởi kiện vụ án hành chính thì hồ sơ có thể chuyển giao theo yêu cầu của Toà án.

Tóm lại, quy trình giải quyết khiếu nại hành chính bao gồm các bước sau: tiếp nhận vụ, việc; chuẩn bị giải quyết; thẩm tra, xác minh; ban hành quyết định và công bố quyết định; thi hành quyết định và lưu trữ hồ sơ. Mỗi bước lại được thực hiện thông qua những công việc cụ thể. Các bước và các công việc có mối liên hệ qua lại với nhau tạo thành một quy trình xác định./.

267

Chuyên đề 9

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

1. Về đối tượng của tố cáo

Tại Điều 1 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Luật này quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo và quản lý công tác giải quyết tố cáo”.

Quy định trên đây cho thấy đối tượng của tố cáo có phạm vi rất rộng. Bất kỳ hành vi vi phạm trái pháp luật nào; hành vi ấy của bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào nếu đe dọa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại, đều là đối tượng của tố cáo. Như vậy, người bị tố cáo rất đa dạng: có thể là người làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và những người ở ngoài cơ quan, tổ chức đó; có thể là những người có chức vụ, quyền hạn hoặc những cá nhân bất kỳ. Hành vi bị tố cáo có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của bất kỳ thành viên nào trong xã hội. Không buộc hành vi ấy phải liên quan trực tiếp đến người tố cáo.

Luật Tố cáo mở rộng phạm vi điều chỉnh, nhằm bao quát hết việc tố cáo và giải quyết tố cáo đang diễn ra, trên cơ sở phân định rõ hành vi vi phạm pháp luật và đối tượng có hành vi bị tố cáo để xác định quy trình giải quyết cho phù hợp.

Đối tượng của tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật (hành động hoặc không hành động). Tính nguy hiểm của hành vi bị tố cáo thường ở mức độ cao hơn so với hành vi bị khiếu nại. Tính công khai của hành vi bị tố cáo thường rất thấp bởi sự che đậy, ngụy trang của chủ thể hành vi bị tố cáo, điều này khác nhiều so với hành vi bị khiếu nại.

Tố cáo có đối tượng là các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể được nêu khái quát lại như sau:

- Tố cáo về những hành vi vi phạm quy định chung của cộng đồng, của xã hội thuộc phạm trù đạo đức, lối sống;

268

- Tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng gây thiệt hại cho xã hội, cho con người;

- Tố cáo về những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ;

- Tố cáo về những hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.

Bên cạnh đó, Luật tố cáo bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo; công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý người có hành vi vi phạm bị tố cáo; bảo vệ người tố cáo ... Những quy định mới đó nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong việc tố cáo, giải quyết tố cáo, đề cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo.

2. Về chủ thể của tố cáo

Chủ thể của tố cáo (hay người thực hiện quyền tố cáo) được quy định tại Điều 2 Luật Tố cáo là công dân.

Chủ thể của tố cáo có thể xuất phát từ việc bảo vệ quyền lợi của chính mình hoặc vì trách nhiệm với Nhà nước, tập thể, cộng đồng hoặc do nghĩa vụ phải tố cáo.

Chủ thể của tố cáo thường bị đặt vào tình thế bất lợi, dễ bị trả thù, cô lập. Đặc điểm này hoàn toàn khác so với hoạt động khiếu nại. Chính đặc điểm này đã dẫn đến việc giải quyết tố cáo thường phải trải qua nhiều công đoạn rất phức tạp, không ít trường hợp phải sử dụng lực lượng phối hợp của nhiều ngành, nhiều tổ chức, thậm chí cả biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn để giải quyết.

Người tố cáo được quyền: giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết; tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết; được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Tố cáo đã bổ sung người tố cáo có thêm các nghĩa vụ: cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo

269

mà mình có được; bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.

3. Về ý nghĩa tầm quan trọng của công tác giải quyết tố cáo

Công tác giải quyết tố cáo có ý nghĩa, tầm quan trọng sau:

- Góp phần chủ động, tích cực trong đấu tranh phòng ngừa, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

- Ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp lụât bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

- Thông qua việc giải quyết tố cáo đúng đắn của công dân sẽ củng cố lòng tin của dân đối với Đảng, Nhà nước;

- Góp phần tạo ra một hệ thống dự phòng, răn đe đấu tranh phòng chống tham nhũng, nâng cao ý thức pháp luật của mỗi công dân trong xã hội.

4. Thẩm quyền giải quyết tố cáo

Nguyên tắc xác định thẩm quyền theo quy định tại Điều 12 Luật Tố cáo

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết.

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo được quy định tại Điều 31 Luật Tố cáo

270

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết.

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính Nhà nước:

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn trực thuộc cơ quan mình và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

271

- Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương được phân cấp quản lý cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị thuộc Tổng cục, Cục và cấp tương đương, cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức trong cơ quan khác của Nhà nước:

- Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp có thẩm quyền:

+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình quản lý trực tiếp;

+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong thực việc hiện nhiệm vụ, công vụ của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới.

- Tổng Kiểm toán Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực và công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

272

- Người đứng đầu cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Cơ quan có thẩm quyền quản lý đối với cán bộ là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ do mình quản lý.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập:

- Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.

- Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức quản lý do mình bổ nhiệm.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội:

Người đứng đầu cơ quan của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý trực tiếp.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức:

Người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.

Trách nhiệm của Chánh Thanh tra các cấp và Tổng Thanh tra Chính phủ

- Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh Thanh tra sở, Chánh Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm sau đây:

273

+ Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp khi được giao;

+ Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp xem xét, giải quyết lại.

- Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm sau đây:

+ Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao;

+ Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết lại.

II. NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

Giải quyết tố cáo phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:

Nguyên tắc 1. Giải quyết phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật

- Giải quyết tố cáo phải căn cứ vào pháp luật để xác định tính chất, mức độ vi phạm của hành vi bị tố cáo; phải ngăn chặn kịp thời mọi hành vi đe doạ, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

- Tố cáo của công dân phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật.

Điều 20 và Điều 21 Luật Tố cáo năm 2011 quy định:

“Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu;

274

trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày; Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo, nếu có yêu cầu. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết”

“Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo. Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn thời hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.”

Điều 18 Luật Tố cáo quy định:

“Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây:

- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;

- Xác minh nội dung tố cáo;

- Kết luận nội dung tố cáo;

- Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;

- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.”

- Để bảo đảm giải quyết tố cáo chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định pháp luật, cần phải tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh sự thật khách quan về nội dung tố cáo. Trước hết, cần phải thẩm tra xác minh những chứng cứ do chủ thể tố cáo và người bị tố cáo cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền.

- Khi xem xét, nhìn nhận, đánh giá và kết luận sự việc phải chính xác, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan, phiến diện của mỗi người, không cảm tình nể nang hoặc thành kiến cá nhân; phản ánh sự việc phải đúng với bản chất vốn có của nó. Vì mỗi một sự việc tố cáo xảy ra bao giờ cũng nằm trong bối cảnh không gian, thời gian cụ thể, đều có nguyên nhân và diễn biến khác nhau. Do vậy, giải quyết các tố cáo của công dân dựa trên cơ sở chứng cứ chính xác, khách quan, các cơ quan có thẩm quyền mới đủ cơ sở để xem xét, kết luận và có những biện pháp xử lý đúng đắn.

275

Đồng thời, để đảm bảo giải quyết tố cáo chính xác, khách quan, Luật Tố cáo đã quy định về công khai nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo bằng các hình thức: công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. - Để bảo đảm tính khách quan, khi xem xét một sự việc phải đánh giá toàn diện các yếu tố, các mặt có liên quan. Do đó, mỗi cán bộ được giao giải quyết vụ, việc tố cáo của công dân phải biết đi sâu vào tất cả các khía cạnh, phát hiện làm rõ nguyên nhân và quá trình diễn biến của sự việc để nhận xét và kết luận cho chính xác, chống tư tưởng bảo thủ, chủ quan, phiến diện.

Nguyên tắc 2. Bảo đảm an toàn cho người tố cáo

- Bảo vệ người tố cáo là nội dung quan trọng và càng trở nên cần thiết hơn trong việc đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng trong điều kiện hiện nay. Luật Tố cáo đã bổ sung mới Chương V, từ Điều 34 đến Điều 40 về bảo vệ người tố cáo bao gồm các quy định về nơi thực hiện bảo vệ người tố cáo, đối tượng bảo vệ, thời hạn bảo vệ và người có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo.

- Để đảm bảo nguyên tắc này Luật Tố cáo quy định người tố cáo phải có văn bản yêu cầu bảo vệ chỉ áp dụng trong trường hợp họ có căn cứ cho rằng bị phân biệt đối xử về việc làm, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ công dân, hay nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan xác định các biện pháp bảo vệ phù hợp, bảo đảm tính khả thi trên thực tiễn, phù hợp với nguyên tắc bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo.

Nguyên tắc 3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo

Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Khoản 1 Điều 10 Luật Tố cáo:

“Người bị tố cáo có các quyền sau đây:

- Được thông báo về nội dung tố cáo;

- Đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;

- Nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo;

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật;

276

- Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.”

Tại điểm c Khoản 2 Điều 11 Luật Tố cáo quy định nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo “không tiết lộ thông tin gây bất lợi cho người bị tố cáo khi chưa có kết luận về nội dung tố cáo”

Đối với người bị tố cáo

- Mặc dù bị tố cáo, nhưng người bị tố cáo chưa phải là bị can, bị cáo. Hành vi của họ chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận.

- Để đảm bảo công bằng và khách quan, pháp luật quy định cho họ có những quyền và nghĩa vụ nhất định trong quá trình giải quyết tố cáo. Trong đó, điều đáng chú ý là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo cần phải tạo điều kiện để họ giải trình, đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không có cơ sở, không đúng sự thật. Không được có hành vi truy bức đối với họ hoặc kết luận vụ việc một cách chủ quan vội vàng. Những lý lẽ giải trình hoặc các bằng chứng mà người bị tố cáo đưa ra phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét đầy đủ, thận trọng, khách quan. Sau khi đã có kết luận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nếu nội dung tố cáo không đúng sự thật, thì người bị tố cáo có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra.

III. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

1. Đặt vấn đề

Tại Điều 32 Luật Tố cáo quy định trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo. Theo đó, thủ tục giải quyết tố cáo được xác định bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận nội dung tố cáo đến việc xem xét, giải quyết, lập hồ sơ đến khi kết luận, xử lý vụ, việc và công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo

Cơ quan nhà nước nhận đơn tố cáo có trách nhiệm phân loại và thực hiện thủ tục giải quyết như sau:

Tại Điều 20 Luật Tố cáo quy định về việc tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo

“Khi nhận được tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:

277

- Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày;

- Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo, nếu có yêu cầu. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.”

Tại Điều 30 Luật Tố cáo quy định về việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo và theo Điều 11 Nghị định số 76/2012/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm thực hiện việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo”.

- Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, hoặc không thuộc thẩm quyền giải quyết, hoặc đơn tố cáo nặc danh, mạo danh, chữ ký sao chụp...

- Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo hoặc thủ trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ xác minh phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh nội dung tố cáo.

- Việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình xác minh, giải quyết tố cáo phải được lập thành văn bản. Sau khi kết thúc xác minh, người được giao nhiệm vụ xác minh phải có kết luận về nội dung tố cáo đã được xác minh.

- Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, sau khi kết thúc việc xác minh, kết luận thì ra quyết định xử lý những sai phạm theo nội dung đơn tố cáo và theo quy định của pháp luật.

- Người giải quyết tố cáo phải gửi văn bản kết luận vụ, việc tố cáo, quyết định xử lý tố cáo cho những cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và thông báo cho người tố cáo kết quả giải quyết nếu họ yêu cầu, trừ những nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước.

- Việc giải quyết tố cáo phải được lập thành hồ sơ bao gồm:

278

+ Đơn tố cáo hoặc bản ghi nội dung tố cáo;

+ Quyết định thụ lý giải quyết tố cáo;

+ Biên bản xác minh, kết quả giám định, tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết;

+ Văn bản giải trình của người bị tố cáo;

+ Báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo trong trường hợp người giải quyết tố cáo giao cho người khác tiến hành xác minh;

+ Kết luận về nội dung tố cáo;

+ Quyết định xử lý, văn bản kiến nghị biện pháp xử lý (nếu có);

+ Các tài liệu khác có liên quan.

2. Các bước giải quyết tố cáo

a) Chuẩn bị giải quyết

Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ xác minh, kết luận nội dung tố cáo giao nhiệm vụ cho cán bộ nghiệp vụ, Thanh tra viên:

- Nghiên cứu đơn và các tài liệu, bằng chứng mà người tố cáo cung cấp. Có thể liên hệ với người tố cáo để tìm hiểu thêm sự việc (nhưng phải bảo đảm nguyên tắc giữ bí mật cho người tố cáo).

- Viết báo cáo tóm tắt nội dung đơn tố cáo, nêu rõ nội dung sự việc, họ tên, chức vụ người bị tố cáo; phạm vi, tính chất, mức độ vi phạm và đề xuất những biện pháp giải quyết.

- Xây dựng kế hoạch giải quyết. Kế hoạch giải quyết phải đầy đủ các nội dung sau:

+ Phạm vi sự việc cần làm rõ và bước tiến hành.

+ Các bằng chứng liên quan cần xác minh.

+ Đối tượng có liên quan.

+ Thời gian cần thiết để tiến hành.

279

+ Các yêu cầu, điều kiện khác như giám định hoặc yêu cầu đề nghị các cơ quan có liên quan bổ sung cán bộ.

+ Các điều kiện phục vụ như tài chính, phương tiện làm việc, phương tiện giao thông ...

Kế hoạch phải được người có thẩm quyền phê duyệt.

b) Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thụ lý để giải quyết

Quyết định này là căn cứ pháp lý để tiến hành công việc giải quyết tố cáo, và xác định trách nhiệm của người tiến hành thẩm tra, xác minh trước thủ trưởng đơn vị và trước pháp luật. Trong quyết định cần nêu rõ:

- Họ tên, chức vụ của cán bộ được giao nhiệm vụ xác minh.

- Nội dung cần xác minh.

- Thời gian tiến hành.

- Quyền hạn và trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ xác minh.

c) Tiến hành thẩm tra, xác minh

Đây là bước thực hiện các biện pháp nghiệp vụ có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa quyết định nhất trong quá trình giải quyết nội dung tố cáo. Những việc cần làm trong bước này:

- Tiếp xúc với người tố cáo, yêu cầu họ cung cấp thêm tài liệu, bằng chứng (nếu có) để làm rõ thêm sự việc.

- Làm việc với người bị tố cáo về nội dung mà người tố cáo nêu ra và yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản kèm theo các bằng chứng (nếu có) để tự bảo vệ.

- Tiến hành thu thập, thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu từ các nguồn khác để làm rõ nội dung sự việc.

Nếu người bị tố cáo giải trình không rõ và bằng chứng không bảo đảm giá trị pháp lý thì yêu cầu giải trình lại.

- Khi làm việc với người bị tố cáo, phải ghi biên bản cụ thể, rõ ràng: những nội dung gì đã được giải trình có căn cứ pháp luật, những nội dung nào chưa giải trình được hoặc không giải trình được; hai bên cùng ký biên bản.

280

Trong quá trình giải quyết tố cáo người được giao nhiệm vụ xác minh phải tạo điều kiện để người bị tố cáo giải trình, đưa ra các bằng chứng để chứng minh tính đúng, sai của nội dung tố cáo.

Phương pháp thẩm tra, xác minh vụ, việc rất đa dạng, song một trong những phương pháp thường được áp dụng là: khi làm việc với người bị tố cáo, thì đưa ra những cơ sở lập luận của người tố cáo để người bị tố cáo giải trình và ngược lại, khi làm việc với người tố cáo đưa những lý lẽ của người bị tố cáo để người tố cáo làm rõ hơn nội dung tố cáo.

d) Kiểm tra các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đối chiếu với các chế độ, chính sách và pháp luật hiện hành của Nhà nước

- Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ giải quyết tố cáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là căn cứ pháp lý để giúp cho việc kết luận đầy đủ, chính xác về tính chân thực của nội dung tố cáo. Do đó, trước khi kết luận một vấn đề gì nhất thiết phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ làm cơ sở giải quyết vụ việc.

- Đối chiếu sự việc, tài liệu, bằng chứng với các quy định của chính sách, pháp luật (có hiệu lực trong thời gian xảy ra vụ, việc) để xác định đúng, sai từng sự việc.

e) Dự thảo và hoàn chỉnh Kết luận thẩm tra, xác minh

Khi hoàn thành công tác thẩm tra, xác minh cần dự thảo và ban hành Kết luận vụ, việc

- Dự thảo Kết luận

- Tiến hành thông báo Dự thảo Kết luận cho người bị tố cáo.

Nếu người bị tố cáo chưa đồng ý với kết luận thì yêu cầu cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ để làm rõ (có thể thẩm tra, xác minh lại nếu cần). Nếu bên bị tố cáo không cung cấp thêm tài liệu, bằng chứng thì ghi biên bản lưu hồ sơ.

Đây là phần quan trọng, quyết định hiệu quả của quá trình giải quyết tố cáo. Kết luận phải gọn, rõ ràng, chính xác, viện dẫn điều luật hoặc chính sách phải đầy đủ cả về nội dung và hình thức văn bản. Thông thường, văn bản kết luận có thể chia làm ba phần:

- Phần thứ nhất: nêu tình hình đặc điểm chung

+ Giới thiệu khái quát về đương sự.

281

+ Tóm tắt nội dung tố cáo.

+ Kết quả đã giải quyết lần trước (nếu có).

- Phần thứ hai: nêu nội dung cụ thể

+ Nêu quá trình thẩm tra, xác minh và kết quả thẩm tra, xác minh từng nội dung.

+ Khẳng định nội dung đúng - sai của các bên đương sự.

+ Chỉ ra nguyên nhân (khách quan, chủ quan), trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

+ Làm rõ những sai phạm về kinh tế, chính trị, xã hội và tổ chức.

- Phần thứ ba: nêu kết luận, kiến nghị

+ Nêu những hành vi vi phạm chủ yếu như tham ô, lạm dụng chức vụ, quyền hạn...

+ Quy rõ trách nhiệm đối với cá nhân hoặc tập thể.

Nếu hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì đề nghị thủ trưởng cho làm thủ tục chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xét xử, Viện kiểm sát xử lý theo pháp luật tố tụng hình sự.

f) Căn cứ vào kết quả xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo tiến hành xử lý theo thẩm quyền

- Trong trường hợp người bị tố cáo không vi phạm các quy định về nhiệm vụ công vụ thì phải có kết luận rõ và thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật.

- Trong trường hợp người bị tố cáo có vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ phải xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý, đồng thời áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để quyết định, kiến nghị xử lý được chấp hành nghiêm chỉnh.

282

- Trong trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

- Người giải quyết tố cáo phải gửi văn bản kết luận vụ việc tố cáo và quyết định xử lý tố cáo (theo mẫu quy định) cho cơ quan thanh tra, cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp, thông báo cho người tố cáo biết kết quả giải quyết nếu họ có yêu cầu, trừ những nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước.

g) Những việc cần làm sau khi giải quyết tố cáo

- Tổ chức rút kinh nghiệm giải quyết vụ, việc; Tập hợp và hoàn chỉnh bàn giao hồ sơ lưu trữ (theo quy định của luật định).

- Căn cứ quyết định xử lý, thủ trưởng giải quyết tố cáo giao cho các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện.

Giải quyết tố cáo của công dân là trách nhiệm, là nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước. Làm tốt công tác giải quyết tố cáo chính là mở rộng và củng cố các điều kiện cần thiết, bảo đảm cho công dân thực hiện trọn vẹn quyền và nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội; phát huy quyền dân chủ, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Mặt khác, giải quyết tố cáo của công dân đúng đắn là góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và làm trong sạch, lành mạnh bộ máy quản lý nhà nước./.

283

Chuyên đề 10

VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

I. KHÁI NIỆM VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Hoạt động thanh tra là một khâu trong chu trình quản lý nhà nước, thực hiện quyền kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động thanh tra nhằm bảo đảm tính ổn định, hợp pháp, lành mạnh của quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng. Hoạt động thanh tra phục vụ cho hoạt động quản lý bằng cách xem xét, đánh giá các hoạt động của quá trình quản lý thông qua tiến hành các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội; xét giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng. Từ đó, thực hiện xử lý theo thẩm quyền hoặc đưa lại những thông tin cần thiết cho chủ thể quản lý qua những yêu cầu, kiến nghị, kết luận, quyết định... để điều chỉnh quản lý. Đồng thời, thông qua việc tiến hành thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo với những vụ việc có nội dung cụ thể, hoạt động thanh tra cũng xem xét đánh giá các điều kiện pháp lý, cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để duy trì, phát huy những yếu tố tích cực của hoạt động sản xuất, kinh doanh của đời sống kinh tế xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, lành mạnh hoá quan hệ giữa các cơ quan hành chính với công dân và các cơ quan, tổ chức.

Xem xét đánh giá các sự kiện, kết quả vận động của quá trình quản lý là một thao tác rất cơ bản trong hoạt động thanh tra, những kiến nghị, kết luận, quyết định phải được thể hiện dưới dạng văn bản - sản phẩm mang tính đặc thù của loại hình hoạt động này.

Từ cách nhìn nhận phân tích trên, cho thấy: các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh tra, cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, người ra quyết định thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra hoặc các cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành khi tiến hành thanh tra, thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra cần phải ban hành các văn bản để bảo đảm cho việc thực hiện các hoạt động của cơ quan, đơn vị mình theo chức năng, nhịêm vụ đã được quy định.

Theo Điều 5 Luật Thanh tra 2010, các cơ quan thanh tra nhà nước có chức năng “thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham

284

nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”.

Để thực hiện các chức năng trên, trong Chương II của Luật Thanh tra 2010 cũng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước. Trong đó có các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước, trước hết là các cơ quan thanh tra chỉ đạo về tổ chức và hoạt động thanh tra đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức hữu quan, tuyên truyền hướng dẫn thực hiện pháp luật về thanh tra, pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Văn bản được ban hành khi thực hiện nhiệm vụ này mang tính chất văn bản hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của các cơ quan thanh tra trong phạm vi ngành và các cơ quan đơn vị...

Thứ hai, thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quyết định thành lập. Thực hiện nhiệm vụ này, các cơ quan thanh tra tiến hành các cuộc thanh tra theo thẩm quyền trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh, quốc phòng...

Trong quá thanh tra đặt ra, các cấp có thẩm quyền, Đoàn Thanh tra và các cán bộ, Thanh tra viên phải đưa ra những biện pháp, quyết định để tổ chức, triển khai cuộc thanh tra nhằm xem xét đánh giá kết luận vụ việc. Các cán bộ nghiệp vụ phải sử dụng những văn bản mang tính công cụ trong quá trình làm việc. Đó là văn bản được ban hành, khi các chủ thể thực hiện nhiệm vụ trong tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội.

Thứ ba, giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo.

Khi tiến hành xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, các cơ quan thanh tra, cán bộ nghiệp vụ phải làm việc với các bên (người khiếu nại, người bị khiếu nại, người và tổ chức có liên quan) mà nội dung làm việc phải thể hiện thông qua các văn bản cụ thể. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc trong quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong suốt quá trình đó, các văn bản được ban hành

285

hướng vào xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo đều thuộc về văn bản trong hoạt động thanh tra.

Thứ tư, giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Cũng như khi thực hiện các nhiệm vụ trên, quá trình thực hiện nhiệm vụ này, các cơ quan thanh tra phải dùng văn bản như một công cụ, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ của mình…

Trong số các văn bản được ban hành khi thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thì không có sự khác biệt nhiều so với các văn bản quản lý nhà nước nói chung.

Ngược lại, các văn bản được ban hành khi thực hiện quyền thanh tra, trực tiếp xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thì không như vậy. Việc ban hành các loại văn bản này phản ánh một loại hoạt động mang tính đặc thù của quản lý nhà nước và có nét đặc thù riêng, ta gọi đó là văn bản nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra (gọi tắt là Văn bản nghiệp vụ thanh tra).

Các cơ quan thanh tra, cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, người ra quyết định thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra hoặc các cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành trong quá trình tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng phải thông qua văn bản để thể hiện công việc, yêu cầu, quyết định phù hợp quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra. Những văn bản đó được xây dựng, ban hành trên cơ sở của hoạt động mang tính nghiệp vụ của việc tiến hành các cuộc thanh tra, tính nghiệp vụ của công việc xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Trên thực tế, do sự quan tâm và định hướng thường xuyên của hoạt động thanh tra đến nhiệm vụ thứ hai, thứ ba và thứ tư, cho nên khi nói đến văn bản trong hoạt động thanh tra, là nhằm chủ yếu nói về văn bản nghiệp vụ thanh tra.

Như vậy, khi nói đến văn bản trong hoạt động thanh tra là đề cập đến toàn bộ văn bản liên quan đến việc thực hiện bốn nhiệm vụ nói trên. Để thuận tiện cho việc sử dụng, từ đây chúng ta gọi Văn bản trong hoạt động thanh tra với tên gọi là Văn bản thanh tra.

Vì vậy, có thể khái quát văn bản thanh tra như sau:

Văn bản thanh tra là một loại văn bản quản lý nhà nước do cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra hoặc người có thẩm quền ban

286

hành trong quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

II. PHÂN LOẠI VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA

Việc phân loại văn bản cũng như đề cập phân loại khái niệm nói chung, khi dựa trên những cơ sở phân loại khác nhau chúng ta có các loại văn bản với tên gọi khác nhau.

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu văn bản, người ta xem xét theo hướng phân loại nào là tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu cụ thể. Trong phạm vi nội dung nghiên cứu dưới đây, chúng ta đề cập đến một số cách phân loại cơ bản đã và đang được sử dụng phổ biến như sau:

1. Phân loại dựa trên tính chất pháp lý của văn bản

Xem xét phân loại dựa trên khía cạnh này, tức là dựa trên những đòi hỏi mang tính chất pháp lý của nội dung điều chỉnh mà văn bản đề cập đến. Theo cách phân loại này ta có các loại văn bản dưới đây:

a) Văn bản thanh tra mang tính quyền lực nhà nước

Đây là những văn bản thanh tra chứa đựng những quy phạm pháp luật chung như: văn bản chỉ đạo nghiệp vụ theo chức năng quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra của ngành hoặc những văn bản được ban hành nhằm áp dụng những quy định cụ thể của pháp luật để tiến hành thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.… Văn bản loại này bao gồm chủ yếu các quyết định, kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý của các cơ quan thanh tra, cán bộ thanh tra và Thanh tra viên.

Chẳng hạn:

- Các văn bản chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ của ngành thanh tra như:

+ Thông tư: Thông tư 02/2010/TT-TTCP quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra, Thông tư 05/2011/TT-TTCP Quy định về phòng, chống tham nhũng trong ngành thanh tra…

+ Quyết định: Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Quyết định 2189/QĐ-TTCP về Mẫu

287

văn bản trong hoạt động rà soát vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài; Quyết định 2151/2006/QĐ-TTCP về Quy chế hoạt động Đoàn Thanh tra; Quyết định 1657/2005/QĐ-TTCP về Quy chế bảo vệ bí mật nhà nước trong ngành Thanh tra…

Và các Chỉ thị của Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

- Các văn bản nghiệp vụ thanh tra do cơ quan thanh tra ban hành khi thực hiện nhiệm vụ như:

+ Quyết định thanh tra;

+ Quyết định sửa đổi, bổ sung quyết định thanh tra;

+ Quyết định kiểm kê tài sản, niêm phong tài liệu;

+ Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hành vi vi phạm;

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

+ Quyết định chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra hình sự;

+ Quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo;

+ Quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo;

+ Kết luận thanh tra...

+ Quyết định về xử lý về thanh tra

b) Văn bản thanh tra mang tính chất hành chính

Đây là những văn bản được các cơ quan thanh tra, cán bộ thanh tra ban hành trong hoạt động thanh tra nhằm phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện văn bản thanh tra mang tính quyền lực hành chính. Loại văn bản này là một phương tiện phản ánh các sự kiện, các vấn đề khi các cơ quan thanh tra hoặc cán bộ thanh tra thực hiện nhiệm vụ.

Ví dụ:

- Các loại biên bản trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.;

288

- Các loại báo cáo nghiệp vụ về thẩm tra, xác minh theo yêu cầu các cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng;

- Các văn bản hành chính mang tính nghiệp vụ khác như công văn yêu cầu đối tượng cung cấp thông tin, đề cương yêu cầu đối tượng báo cáo…

Văn bản thanh tra mang tính hành chính thực hiện chức năng mang tin là chủ yếu, nó không chứa đựng những điều khoản mang tính quy phạm hoặc đưa ra mệnh lệnh đối với đối tượng liên quan. Nhưng thực sự, nó không thể thiếu được trong hoạt động thanh tra và cần phải được nghiên cứu xây dựng, ban hành theo những quy định nghiệp vụ chặt chẽ, để bảo đảm giá trị pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện những hoạt động nghiệp vụ tiếp theo.

2. Phân loại văn bản thanh tra dựa trên chức năng nhiệm vụ của các cơ quan Thanh tra

a) Văn bản về tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội

Loại văn bản này bao gồm các văn bản được ban hành khi thành lập Đoàn Thanh tra, quá trình hoạt động của Đoàn Thanh tra, xử lý các kết quả theo kết luận thanh tra v.v ...

Ví dụ:

- Kế hoạch thanh tra, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo

- Đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo

- Các loại biên bản trong quá trình thanh tra

- Các báo cáo thu thập thông tin ban đầu, báo cáo thẩm tra, xác minh thu thập chứng cứ trong thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra…

- Các quyết định của cấp có thẩm quyền và tổ chức thanh tra phục vụ cho cuộc thanh tra...

- Kết luận thanh tra.

b) Văn bản về tiếp công dân, giải quyết khiếu nai, tố cáo

Văn bản loại này bao gồm các văn bản được ban hành khi xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do tổ chức

289

thanh tra, cán bộ nghiệp vụ ban hành từ khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo đến khi xem xét giải quyết và xử lý, kết luận vụ, việc...

Ví dụ:

- Phiếu biên nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.

- Biên bản ghi lời khiếu nại, tố cáo.

- Biên bản thẩm tra, xác minh khiếu nại, tố cáo.

- Báo cáo thẩm tra, xác minh vụ việc khiếu nại, tố cáo.

- Quyết định của cơ quan thẩm quyền và xem xét, giải quyết, xử lý vụ việc...

c) Văn bản về phòng, chống tham nhũng

Cho đến nay, nhóm văn bản này chưa hình thành rõ nét và không khác biệt nhiều so với văn bản thanh tra kinh tế, xã hội và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

d) Văn bản quản lý nhà nước về công tác thanh tra

Văn bản loại này bao gồm các văn bản chỉ đạo hoạt động thanh tra, mà chủ yếu là văn bản chỉ đạo nghiệp vụ của ngành nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra. Đó là các quyết định, chỉ thị, thông tư của Tổng thanh tra; các văn bản hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của các bộ, ngành.

Qua cách phân loại trên ta thấy văn bản thuộc nhóm a, b và c có những đặc trưng riêng, được gọi là Văn bản Nghiệp vụ.

3. Đặc điểm của văn bản nghiệp vụ thanh tra

a) Văn bản được ban hành trong thanh tra kinh tế – xã hội, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng không đơn thuần chỉ là cung cấp thông tin để hệ thống quản lý tự điều chỉnh, mà đó còn là những kết luận, phán xét mang tính pháp lý.

Tiêu chí chuẩn mực mà văn bản nghiệp vụ đề cập, xem xét điều chỉnh quản lý không phải chỉ là bản thân cơ sở, đơn vị quản lý hoạt động thanh tra hướng đến, mà từ đối tượng điều chỉnh cụ thể đó, văn bản còn hướng đến tiêu chí, chuẩn mực chung của pháp luật, phục vụ lợi ích của tập thể, Nhà nước, của sự bảo đảm tuân thủ nghiêm minh pháp chế XHCN.

290

Những nội dung thông tin được đề cập trong văn bản nghiệp vụ thanh tra cũng chứa đựng những mệnh lệnh, quy định mang tính bắt buộc thi hành. Chẳng hạn, những quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hành vi vi phạm của đối tượng, yêu cầu đối tượng cung cấp thông tin, tài liệu... để đảm bảo cho hoạt động thanh tra thực hiện đúng tiến độ hoặc xử lý những vi phạm pháp luật sau khi có kết quả xem xét, đánh giá kết luận của Đoàn Thanh tra...

Tuy nhiên, thẩm quyền xử lý giải quyết vụ việc, theo pháp luật quy định là giới hạn trong phạm vi hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

b) Mục đích xây dựng, ban hành hướng đến đánh giá, kết luận về việc chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện nhịêm vụ, quyền hạn của đối tượng quản lý, đối tựơng thanh tra

Nội dung văn bản đề cập đến là các quyết định, hành vi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động tuân theo pháp luật, chính sách, trong giới hạn của quản lý hành chính nhà nước. Trên cơ sở đánh giá yếu mạnh, đúng sai của các hoạt động, từ đó đưa ra những yêu cầu, kiến nghị, kết luận, quyết định giải quyết những khó khăn, vướng mắc, khắc phục những điểm yếu kém, phát huy những nhân tố tích cực. Vì vậy, văn bản nghiệp vụ thanh tra thường hướng đến phân tích, đánh giá, kết luận các hoạt động tuân theo chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra. Từ đó nêu ra những mặt làm được, chưa làm được, những việc làm đúng, làm sai của đối tượng thanh tra và nguyên nhân, trách nhiệm, biện pháp khắc phục những yếu kém, tồn tại đó.

Văn bản nghiệp vụ thanh tra được phân biệt với văn bản được ban hành và sử dụng trong hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác là ở chỗ: mục đích ban hành văn bản, nội dung, hình thức kết cấu văn bản.

c) Đối tượng tác động của văn bản

Đối tượng của văn bản là cơ quan, tổ chức, cá nhân mà hoạt động thanh tra hướng đến. Nhưng về cơ bản, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó vẫn đang phải thực thi nhiệm vụ, duy trì quản lý, sản xuất, tham gia vào các hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội như thường lệ. Điều đó, không giống với một số văn bản được ban hành trong hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng như: Công an, Viện kiểm sát, Toà án. Các đối tượng mà văn bản trong hoạt động thanh tra hướng đến bao gồm chủ thể quản lý, đối tượng của quản lý và các đối tượng khác có liên quan. Giữa họ có xác lập mối liên hệ lệ thuộc hành chính, cùng thực hiện nhiệm vụ, chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước.

291

Văn bản thanh tra nói chung và văn bản nghiệp vụ thanh tra nói riêng có vai trò quan trọng đối với hoạt động quản lý và hoạt động thanh tra.

Văn bản nghiệp vụ thanh tra là công cụ, phương tiện chủ yếu của hoạt động nghiệp vụ thanh tra. Trong quá trình hoạt động thanh tra, các tổ chức thanh tra, cán bộ nghiệp vụ phải sử dụng văn bản thanh tra như một công cụ, phương tiện chủ yếu để phản ánh kết quả hoạt động của mình. Chính việc phản ánh đầy đủ, liên tục chính xác, cụ thể quá trình hoạt động đó đã tạo nên giá trị trung thực, độ tin cậy cao của thông tin chứa trong văn bản. Nó cũng là yếu tố ràng buộc trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức liên quan không thể tuỳ tiện trong quá trình xem xét, đánh giá các sự kiện khi thể hiện qua văn bản.

Hoạt động thanh tra không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi sản phẩm, sản lượng sản phẩm của một doanh nghiệp hoặc của một đơn vị nó hướng đến, mà kết quả cuối cùng của nó đem lại cho người quản lý, cho cấp thẩm quyền các kết luận, yêu cầu, kiến nghị, quyết định để điều chỉnh các hoạt động quản lý từ đó nó tác động trở lại quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động quản lý của bất kỳ hệ thống nào đều cần có thông tin cụ thể, trung thực, chính xác, khách quan để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời điều khiển hệ thống. Văn bản nghiệp vụ thanh tra là phương tiện, công cụ chuyển tải thông tin hữu hiệu, bảo đảm cho thanh tra đáp ứng được những đòi hỏi đó của quản lý.

Văn bản vốn được coi là một dạng sản phẩm rất đặc thù trong hoạt động quản lý, điều hành của bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Do vậy, văn bản nghiệp vụ thanh tra là thể hiện kết quả lao động của các cán bộ nghiệp vụ, của tổ chức thanh tra. Sản phẩm đặc biệt này phản ánh tính chất nghiệp vụ của thanh tra và phản ánh trình độ chuyên môn rõ nét về hoạt động nghiệp vụ của cán bộ thanh tra và Thanh tra viên.

Quá trình hoạt động thanh tra, cơ quan thanh tra, cán bộ nghiệp vụ phải xử lý thông tin, phân tích, tổng hợp dữ liệu... đấu tranh với đối tượng trên nhiều phương diện. Nhưng cuối cùng ý chí của người mang thẩm quyền nhà nước phải được biểu đạt bằng các văn bản đã được pháp quy hoá. Đó sẽ là căn cứ pháp lý để kết luận vấn đề và quyết định xử lý tiếp theo. Nội dung, phạm vi điều chỉnh của văn bản nghiệp vụ thanh tra tuy chỉ dừng ở xem xét các mối quan hệ pháp luật trên phạm vi xử lý hành chính, nhưng nó có tác động mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, đặc biệt cả vấn đề tâm lý xã hội đối với tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu đưa ra một quy trình kỹ thuật về xây dựng, ban hành văn bản nghiệp vụ thanh tra là hết sức cần thiết. Chúng ta cần sớm có những quy trình

292

nghiệp vụ chung để bảo đảm tính thống nhất, tính pháp lý, tính khoa học, tính hiệu quả đối với các văn bản nghiệp vụ khi được ban hành.

III. CÁC YÊU CẦU CỦA VĂN BẢN NGHIỆP VỤ THANH TRA

Cũng như một số lĩnh vực hoạt động chuyên môn của các ngành khác, trong hoạt động thanh tra đã thể hiện những đặc trưng rõ nét của quy trình ban hành, thể hiện nội dung văn bản nghiệp vụ. Từ đó hình thành một trật tự, đòi hỏi phải xác định tính nhất quán, tính pháp lý đối với việc xây dựng ban hành các văn bản quản lý nói chung và văn bản trong hoạt động thanh tra nói riêng. Thực tế, quá trình xây dựng, ban hành, quản lý văn bản nghiệp vụ thanh tra cho ta thấy một số vấn đề sau:

- Mỗi đơn vị, tổ chức, thanh tra viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền đã xây dựng, ban hành văn bản nghiệp vụ nhằm đáp ứng hoạt động theo nhiệm vụ của mình.

Các văn bản nghiệp vụ được ban hành về cơ bản đảm bảo được những yêu cầu, giá trị thực tiễn và hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, quy trình, hình thức, thể thức, thủ tục ban hành... còn chưa đạt được sự thống nhất trên các tiêu chí cơ bản.

Việc việc quản lý thống nhất về văn bản nghiệp vụ trong phạm vi toàn ngành phải sớm được đề cập đầy đủ, khắc phục tình trạng hình thức thủ tục, trình tự ban hành văn bản nghiệp vụ phụ thuộc vào chủ thể trực tiếp ban hành. Điều đó, phần nào phản ánh thực trạng về văn bản nghiệp vụ thanh tra và cũng là nguyên nhân đưa đến quá trình xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản nghiệp vụ gặp khó khăn, kéo dài.

- Kỹ thuật xây dựng văn bản nghiệp vụ thanh tra hiện nay đang là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.

Một mặt, việc soạn thảo hoàn thiện văn bản quản lý hoặc văn bản nghiệp vụ của ngành đều phải có những quy trình mang tính nghiệp vụ chuyên biệt. Điều đó được xem là những yếu tố kỹ thuật của công việc xây dựng ban hành văn bản quản lý nói chung và văn bản nghiệp vụ thanh tra nói riêng. Mặt khác, phải trên cơ sở tính chất của mỗi lĩnh vực, mỗi chuyên môn cụ thể, mà có kỹ thuật xây dựng, hoàn thiện phù hợp mục đích ban hành.

Công việc xây dựng, hoàn thiện văn bản nghiệp vụ thanh tra vốn đã được quan tâm chú ý nhiều của các tổ chức và cán bộ nghiệp vụ, song việc đưa ra những quy trình nghiệp vụ mang tính đặc trưng kỹ thuật của quá trình xây dựng, hoàn thiện còn rất hạn chế. Như một kỹ năng hành chính của công tác văn bản, việc tổ

293

chức cho cán bộ nghiệp vụ nghiên cứu về tiêu chuẩn pháp lý, tính nghiệp vụ, các kỹ năng về văn bản nghiệp vụ là cần thiết.

Trên thực tế, các cơ quan thanh tra đã chủ động trong công tác văn bản của cơ quan mình, từ đó đã đáp ứng được những yêu cầu thực tế của cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo đặt ra.

Các cơ quan thanh tra đều thấy rõ, việc non yếu về kỹ thuật soạn thảo văn bản nghiệp vụ đã làm hạn chế tiến độ và hiệu quả của hoạt động thanh tra. Nhiều cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy về mặt nội dung cơ bản đã hoàn thành, nhưng về hồ sơ, văn bản chưa hoàn chỉnh. Tài liệu, hồ sơ văn bản mang tính quyết định của cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo không được thông qua, không công bố được, một phần do quá trình soạn thảo không chặt chẽ, chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Do đó, kỹ thuật soạn thảo văn bản nghiệp vụ có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kết thúc cuộc thanh tra.

- Việc chấp hành đầy đủ, triệt để kịp thời những kiến nghị, yêu cầu của văn bản nghiệp vụ thanh tra luôn là những vấn đề được quan tâm

Trên phương diện chung, điều đó phản ánh vị trí, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhưng khi xét về khía cạnh nghiệp vụ, điều đó cũng phản ánh tính hiệu lực văn bản và giá trị pháp lý của những mệnh lệnh được văn bản truyền đạt còn hạn chế. Là chủ thể trực tiếp ban hành các văn bản nghiệp vụ, song trên thực tế một số các yêu cầu của các cơ quan thanh tra, cán bộ nghiệp vụ lại phải thông qua những chủ thể khác để thực hiện yêu cầu của mình. Vì vậy, các yêu cầu, kiến nghị trong các văn bản nghiệp vụ chưa được thực hiện kịp thời và đầy đủ.

- Tính hệ thống trong các văn bản pháp luật về thanh tra và văn bản nghiệp vụ thanh tra

Do tính đặc thù của hoạt động thanh tra là đi liền với quản lý. Bởi thế, khi pháp luật đưa ra quy định điều chỉnh bất kỳ quan hệ xã hội nào, thì đồng thời cũng đưa ra những quy định kèm theo về thanh tra, kiểm tra, khiếu nại, tố cáo. Tính chất này đã đưa đến là các quy định của pháp luật về công tác thanh tra bị phân tán, dễ đi đến chồng chéo không thống nhất.

Thực tế sự thiếu phối hợp, không thống nhất giữa các cơ quan hành chính và cơ quan tiến hành tố tụng đã ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị pháp lý của văn bản nghiệp vụ thanh tra và hiệu lực của nó. Những vấn đề này đòi hỏi phải có

294

cách xử lý đồng bộ của hệ thống quản lý, không chỉ là việc giải quyết mang tính kỹ thuật của nghiệp vụ thanh tra khi xây dựng ban hành văn bản.

1. Các yêu cầu của văn bản nghiệp vụ thanh tra

Văn bản nghiệp vụ thanh tra là công cụ, phương tiện chủ yếu của hoạt động thanh tra. Các cơ quan thanh tra, Thanh tra viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ là một loại hoạt động có tính đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước. Bởi vậy, việc xây dựng, ban hành các văn bản nghiệp vụ một mặt phải tuân thủ theo quy định chung của pháp luật về văn bản quản lý nhà nước, mặt khác nó phải đạt được những yêu cầu mang tính nghiệp vụ chuyên môn của hoạt động thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích, nhiệm vụ mà hoạt động quản lý đề ra.

a) Yêu cầu về tính pháp lý của văn bản nghiệp vụ thanh tra.

Tính pháp lý của văn bản nghiệp vụ trong công tác thanh tra được thể hiện qua các yêu cầu về nội dung và hình thức của văn bản.

- Văn bản nghiệp vụ được ban hành phải đúng thẩm quyền:

Yêu cầu này được pháp luật quy định theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và các tổ chức, người mang thẩm quyền nhà nước, thực hiện quyền, trách nhiệm thanh tra, kiểm tra trong hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Các văn bản nghiệp vụ được ban hành phải thuộc phạm vi, thẩm quyền trách nhiệm quản lý nhà nước mà pháp luật quy định. Đòi hỏi các chủ thể trong hoạt động thanh tra không được lạm dụng quyền hạn, ngược lại cũng không được trốn tránh trách nhiệm khi sử dụng những quyền mà pháp luật yêu cầu phải thực hiện (thực chất là từ chối, chậm trê thực hiện trách nhiệm).

+ Thẩm quyền do pháp luật quy định

+ Thẩm quyền xác định cho từng lĩnh vực: Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng

+ Thẩm quyền xác định cho mỗi chủ thể

+ Thẩm quyền xác định việc xử lý từng tình huống

Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là phải thể hiện bằng văn bản một cách liên tục, đầy đủ trong quá trình thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng. Một mặt bảo đảm tính chặt chẽ

295

thống nhất của quá trình hoạt động, mặt khác đảm bảo tính pháp lý đầy đủ của các tài liệu, thông tin thể hiện trong văn bản. Trên thực tế, do chưa quán triệt đầy đủ yêu cầu về thẩm quyền trách nhiệm khi xây dựng và hoàn thiện văn bản nghiệp vụ, cho nên đã có những vi phạm về nội dung, thẩm quyền khi ban hành văn bản. Đề cập, kết luận những vấn đề không thuộc phạm vi của cuộc thanh tra hoặc xét giải quyết khiếu nại, tố cáo yêu cầu. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hiện tượng đùn đẩy, không ra văn bản xử lý kịp thời theo thẩm quyền là một biểu hiện của lẩn tránh trách nhiệm trong khi thực hiện quyền, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, cơ quan nhà nước và người mang thẩm quyền nhà nước trong hoạt động thanh tra.

- Văn bản nghiệp vụ phải ban hành theo đúng trình tự, thủ tục quy định:

- Về mặt hình thức, yêu cầu tính pháp lý của văn bản, đòi hỏi văn bản nghiệp vụ thanh tra được ban hành phải có tên gọi, kết cấu phù hợp với mục đích ban hành và nội dung mà văn bản điều chỉnh.

Yêu cầu về mặt hình thức văn bản nghiệp vụ phải được sử dụng đúng theo mục đích ban hành. Việc ban hành văn bản nghiệp vụ sai hình thức sẽ làm cho văn bản giảm hoặc mất hiệu lực, thậm chí trở thành bất hợp pháp. Trên thực tế, đã có những cơ quan nhà nước sử dụng thông báo, công văn thay cho những quyết định hành chính trong khi xử lý giải quyết những vấn đề, vụ việc trong cuộc thanh tra hoặc xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Sự nhầm lẫn về sử dụng các loại văn bản nghiệp vụ có hình thức không phù hợp nội dung sẽ làm mất giá trị của loại văn bản nghiệp vụ đó.

b) Yêu cầu về tính khoa học của văn bản nghiệp vụ thanh tra

Tính khoa học của văn bản là sự thể hiện tính lô gíc, kết cấu chặt chẽ, có tính khách quan chân thực. Khác với nhiều loại văn bản trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, văn bản nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra đưa ra những nhận xét đúng sai, tốt xấu trên cơ sở tài liệu, thông tin đã thu thập được. Bởi thế, văn bản cần phải được kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, ngôn ngữ chính xác, diễn đạt phải có trình tự, kế thừa, văn phong mang tính hành chính. Cần tránh tình trạng đưa vào những khái niệm, từ ngữ khó hiểu hay nhiều nghĩa... Để đảm bảo tính lô gíc chặt chẽ trên từng văn bản và trong phạm vi toàn bộ hệ thống văn bản, đòi hỏi người soạn thảo cần phải có khả năng phân tích, tổng hợp tài liệu, rèn luyện kỹ năng xây dựng văn bản.

Lập luận luôn giữ vị trí quan trọng khi thể hiện nội dung văn bản. Lập luận được hiểu là việc thiết lập mối quan hệ liên kết giữa các sự kiện, tư liệu theo một

296

trật tự của tư duy, lô gíc của nhận thức. Từ đó đưa ra những nhận định, cách thức xử lý giải quyết vấn đề. Trong hoạt động thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn Thanh tra luôn phải đưa ra những nhận định, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý giải quyết vụ việc trên cơ sở chứng cứ đầy đủ. Điều đó, phải tuân theo yêu cầu mang tính quy tắc của lập luận.

Tính khách quan chân thực là một yêu cầu rất cơ bản trong hoạt động thanh tra cần phải được thể hiện, ghi nhận qua các văn bản nghiệp vụ. Khách quan chân thực là đặc trưng và yêu cầu từ chính bản chất thanh tra.

Khách quan, chân thực, chính xác trong thông tin đưa vào xử lý là yếu tố quyết định đối với việc ban hành các mệnh lệnh điều khiển hệ thống quản lý. Đảm bảo tính khách quan chân thực là làm cho thanh tra trở thành một công cụ sắc bén, tin cậy của bộ máy quản lý nhà nước. Những thông tin, sự kiện, số liệu mà thanh tra đưa đến cho quản lý luôn phải có tính cụ thể, chính xác, thiết thực và đã qua thẩm tra, xác minh. Từ đó, những kiến nghị, đề xuất, kết luận thanh tra sẽ luôn đạt được sự tin cậy, chấp thuận của các cấp có thẩm quyền và của các cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng thanh tra.

c) Yêu cầu về tính hợp lý của văn bản nghiệp vụ thanh tra

Cũng như các văn bản quản lý khác, khi ban hành văn bản nghiệp vụ thanh tra, người soạn thảo luôn hướng đến tính khả thi, kịp thời của văn bản. Đặc biệt là đối với những yêu cầu, kiến nghị xử lý trong báo cáo kết quả thanh tra hay kết luận thanh tra, những nội dung được đề cập trong quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bởi thế, trong hoạt động thanh tra, tính hợp lý được coi là một trong những yêu cầu luôn luôn phải được cân nhắc tính đến khi đưa ra những mệnh lệnh của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra và những người có thẩm quyền. Mặc dù pháp luật không đưa ra một quy định rõ ràng, bắt buộc về tính hợp lý trong xây dựng ban hành văn bản, nhưng thực tế yêu cầu này không thể thiếu với văn bản quản lý nói chung và văn bản nghiệp vụ thanh tra nói riêng.

Nói đến tính hợp lý của vụ, việc nào đó tức là nói đến cái đúng, cái sai, cân nhắc nó trong giới hạn giữa cái đúng và cái sai, cái được và không được, cái hợp pháp và không hợp pháp mà xã hội, nhà nước có thể chấp nhận được...mà cụ thể là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn Thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra, các công chức thanh tra chuyên ngành và đối tượng thanh tra có thể thống nhất, chấp nhận được.

297

Để cho văn bản nghiệp vụ thanh tra có tính hợp lý, phải quan tâm những nội dung sau:

- Khi xem xét, đánh giá vụ, việc, vấn đề... phải tính đến những yếu tố mang tính khách quan, chủ quan

Khi đánh giá tình hình hoạt động quản lý của các cơ quan, đơn vị hay cá nhân cần phải dựa trên những căn cứ pháp luật, chính sách chung, nhưng cũng cần phải xem xét, chú ý tới tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị để có những nhận xét, kết luận, kiến nghị phù hợp với thực tế.

Nội dung văn bản đề cập, xem xét cần tính đến sự phát triển, đòi hỏi của thực tế đời sống kinh tế - xã hội mà những quy định của pháp luật đã, đang điều chỉnh.

Tuy nhiên, vấn đề cần nghiên cứu đề cập mang tính kỹ thuật nghiệp vụ ở đây là phải dựa trên những căn cứ nào để xem xét, bảo đảm yếu tố này. Trên thực tế, một văn bản, một mệnh lệnh, một kết quả trong hoạt động quản lý nói chung và trong hoạt động thanh tra nói riêng được chấp thuận là hợp lý khi nó phù hợp với xu hướng phát triển, phù hợp tình hình phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, nó đảm bảo được hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước và tập thể, giữa tập thể và cá nhân. Đặc biệt, trong đó cần tránh vì vụ lợi cá nhân mà làm tổn hại lợi ích tập thể hoặc vì lợi ích cục bộ, cộng đồng mà làm thiệt hại đến lợi ích chung của toàn xã hội.

Nghiệp vụ xử lý, thể hiện nội dung văn bản, đòi hỏi chủ thể ban hành phải có kiến thức chuyên sâu trên lĩnh vực xem xét, nhưng lại phải có tầm khái quát trong mối liên hệ tổng thể giữa các lĩnh vực chịu tác động, có liên quan thì mới đưa ra được kết luận, quyết định hợp lý khi xem xét quá trình vận động phát triển của quản lý trong môi trường pháp lý mang tính ổn định, tĩnh tại hơn.

- Tính hợp lý của văn bản nghiệp vụ còn được thể hiện qua việc bảo đảm tính toàn diện cụ thể của nội dung điều chỉnh

Nắm vững, đánh giá đúng thực trạng về đối tượng điều chỉnh trên các phương tiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là một yêu cầu cần thiết khi thể hiện nội dung điều chỉnh trong văn bản nghiệp vụ thanh tra.

Khi xem xét, đánh giá quá trình thực thi chính sách pháp luật của đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan, người ra quyết định thanh tra cần phải xem xét đến những yếu tố về địa lý, dân cư và yêu cầu ổn định về chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội để đưa ra những mệnh lệnh phù hợp với thực tế, phục vụ cho công tác quản lý của các cấp và của Nhà nước. Cần phải tính đến mục đích trước mắt,

298

mục tiêu lâu dài của chương trình kế hoạch. Tính chu kỳ, giai đoạn của hoạt động quản lý. Các yêu cầu, kiến nghị, nội dung đề cập của văn bản phải tính đến khả năng thực thi của đối tượng trên các yếu tố: trình độ, năng lực, tài chính, vật chất có liên quan.

Tính pháp lý, tính khoa học, tính hợp lý là những yêu cầu cần thiết phải có của mỗi văn bản quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thanh tra, các yêu cầu này phải được quán triệt một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Để đảm bảo cho hiệu lực pháp lý của văn bản nghiệp vụ, khắc phục hiện tượng chấp hành không nghiêm kết luận, quyết định trong hoạt động thanh tra; văn bản nghiệp vụ thanh tra cần phải được xây dựng hoàn thiện đảm bảo tính pháp lý, tính khoa học và tính hợp lý. Tính khoa học bảo đảm cho độ tin cậy, sức thuyết phục của văn bản. Tính hợp lý bảo đảm cho khả năng thực thi cao, nhanh chóng của văn bản. Có khẩu phục, tâm phục, phù hợp tình hình thực tế, được Nhà nước bảo đảm thì mệnh lệnh, điều chỉnh mới được thực hiện đầy đủ, mau chóng và đem lại hiệu quả thiết thực.

IV. MỘT SỐ VĂN BẢN NGHIỆP VỤ ĐIỂN HÌNH

Trong hoạt động thanh tra, các cán bộ, Thanh tra viên thường sử dụng và ban hành nhiều văn bản nghiệp vụ khác nhau. Tuỳ theo tính chất, phạm vi công việc, mà dùng loại hình văn bản nào cho phù hợp. Tuy nhiên có loại văn bản cùng một tên gọi nhưng lại được sử dụng trong nhiều vụ việc khác nhau và nội dung trình bầy cũng khác nhau. Chẳng hạn: biên bản, báo cáo là tên gọi chung được dùng rất phổ biến trong các cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bởi thế, phần này dành cho xem xét, xử lý mang tính kỹ thuật một số văn bản thông dụng, chủ yếu của hoạt động thanh tra. Đó là các văn bản:

- Kế hoạch thanh tra;

- Biên bản nghiệp vụ;

- Báo cáo nghiệp vụ;

- Kết luận thanh tra.

Sau đây ta đi vào một số văn bản nghiệp vụ sau:

1. Biên bản nghiệp vụ

a) Khái niệm

Trong hoạt động quản lý nói chung và hoạt động thanh tra nói riêng, biên bản là một loại văn bản hành chính được sử dụng rất phổ biến. Biên bản được ban hành

299

không chứa đựng những yếu tố mang tính quy phạm, không có hiệu lực bắt buộc thi hành. Nó chỉ là một loại văn bản ghi chép lại những sự việc đã xảy ra hoặc hiện trạng về sự vật hiện tượng trong hoạt động thực tiễn để làm căn cứ cho việc đưa ra quyết định xử lý hoặc chứng minh cho các kết luận, nhận định khác.

Biên bản thực chất là một phương tiện ghi lại, sao chép lại diễn biến của sự vật hiện tượng theo một trật tự nhất định. Biên bản được làm và hoàn chỉnh tại nơi có vụ việc xảy ra hoặc tại nơi cần phản ánh. Biên bản thường là một văn bản kèm theo với một văn bản khác để phản ánh cho quá trình xử lý, giải quyết một vấn đề một sự kiện mà văn bản trước đó đã đề cập hoặc nó là sự kiện sẽ được đề cập ở văn bản tiếp sau. Bởi thế, biên bản nhất thiết phải có xác nhận của các bên tham gia hoặc chứng kiến.

Trong hoạt động thanh tra, biên bản được coi là một loại văn bản thông dụng được dùng ở nhiều thời điểm khác nhau trong cuộc thanh tra hoặc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chẳng hạn: biên bản công bố Quyết định thanh tra, biên bản công bố Kết luận thanh tra, biên bản làm việc với đối tượng của cuộc thanh tra, với người đi khiếu tố, người bị khiếu tố và người có liên quan trong vụ việc khiếu nại, tố cáo...

Cuộc thanh tra, vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được diễn ra theo một quy trình liên tục. Quá trình đó cần được ghi chép, được phản ánh một cách đầy đủ, chính xác thông qua các sự kiện, việc làm cụ thể mà Đoàn Thanh tra hoặc các Thanh tra viên tiến hành. Những kết luận, đánh giá, kiến nghị, xử lý của các chủ thể thanh tra luôn phải dựa trên các thông tin, tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và thẩm tra xác minh.

Vậy, biên bản trong hoạt động thanh tra là một loại văn bản phản ánh quá trình diễn biến của sự việc, hành vi hoặc kết quả làm việc của Đoàn Thanh tra, Tổ công tác, cán bộ, Thanh tra viên, nhằm làm cơ sở cho việc đánh giá, kết luận, kiến nghị của Đoàn Thanh tra và người ra quyết định thanh tra

b) Các yêu cầu của biên bản nghiệp vụ

- Chính xác, cụ thể, trung thực:

Bản chất biên bản là phương tiện sao chép diễn biến sự kiện, vụ việc một cách trung thực, chính xác, cụ thể. Đòi hỏi biên bản nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra phải phản ánh chính xác, cụ thể và trung thực; nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các bên tham gia trong biên bản. Tính trung thực, độ tin cậy của hoạt động

300

thanh tra cần phải được bảo đảm ngay từ những công việc thể hiện trên biên bản chính xác, cụ thể, trung thực.

Đảm bảo tính chính xác, cụ thể, trung thực phải thể hiện từ tất cả các yếu tố phản ánh trong biên bản như địa danh, thời gian, thành phần tham gia, số liệu, chủng loại, tình trạng, vật liệu sản phẩm... Đặc biệt, biên bản không phải là loại văn bản để người làm biên bản trình bầy vấn đề, nhận xét, đánh giá, kết luận theo chủ quan của mình trong quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo.

Biên bản cần phải được phản ánh có trọng tâm, trọng điểm:

Biên bản được lập nhằm phục vụ cho giải quyết một mục đích cụ thể đã được xác định trước.

Tính mục đích, cụ thể của biên bản được thể hiện rõ về trọng tâm, trọng điểm của biên bản. Trong công tác thanh tra, biên bản được làm tại nhiều thời điểm, với nhiều nội dung vấn đề khác nhau. Bởi thế tính trọng tâm trọng điểm cũng được xác định phù hợp đối với mỗi biên bản. Chẳng hạn: biên bản công bố quyết định thanh tra nhằm ghi nhận thời điểm công bố, thành phần được triệu tập, thành phần có mặt, kế hoạch tổng thể thống nhất giữa Đoàn Thanh tra với đơn vị. Tính trọng tâm, trọng điểm trong biên bản là xác định được cái cốt yếu, cái bổ trợ, ghi chép trúng được nội dung vấn đề cần “sao chép phản ảnh”.

b) Biên bản phải đảm bảo đầy đủ các thủ tục pháp lý

Yêu cầu về thủ tục pháp lý của biên bản bao gồm những thủ tục về mặt hình thức, kết cấu và cả nội dung của biên bản. Trong hoạt động thanh tra, biên bản thường được làm có nội dung phản ánh sự kiện, hiện tượng liên quan đến sai phạm của cơ quan đơn vị. Do vậy, việc bảo đảm đầy đủ thủ tục pháp lý là yếu tố rất quan trọng. Có những yếu tố pháp lý nếu không thực hiện sẽ làm cho biên bản hầu như không có giá trị. Chẳng hạn: ghi nhận việc đọc thông qua cùng nghe giữa các bên và chữ ký xác nhận của các bên. Bởi lẽ thông thường biên bản không thể là văn bản đơn phương ban hành được.

c) Các loại biên bản nghiệp vụ thường dùng trong hoạt động thanh tra

Trong hoạt động quản lý người ta thường dùng biên bản để ghi nhận sự kiện, diễn biến của vụ việc, vấn đề cần theo dõi đề cập. Loại biên bản này được gọi là biên bản phản ánh sự kiện, bao gồm các biên bản hội họp, biên bản làm việc, biên bản vi phạm hành chính, biên bản về hiện trường...Loại biên bản thứ hai là biên

301

bản giao nhận, biên bản kiểm kê, kiểm phiếu, biên bản niêm phong. Thông thường loại biên bản này được dùng vào việc chứng thực, xác nhận một nội dung cụ thể.

Ngoài ra, đôi khi người ta còn dùng biên bản dưới dạng như một hợp đồng thoả thuận giữa các bên. Loại biên bản này được gọi là biên bản hợp đồng thoả thuận. Nó được dùng để làm bằng chứng cho sự thoả thuận nhất trí giữa các bên về một nội dung, vấn đề nào đó đã làm hoặc sẽ làm. Xét về bản chất nó như là một dạng của loại biên bản thứ nhất.

- Khi tiến hành cuộc thanh tra, theo Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; các chủ thể thanh tra thường dùng các loại biên bản sau:

+ Biên bản công bố quyết định thanh tra;

+ Biên bản làm việc với đối tượng;

+ Biên bản kiểm tra tại chỗ;

+ Biên bản kiểm kê tài sản;

+ Biên bản giao nhận kết quả trưng cầu giám định;

+ Biên bản niêm phong, mở niêm phong tài liệu;

+ Biên bản vi phạm hành chính;

+ Biên bản tạm giữ, trao trả tiền, đồ vật, giấy phép;

+ Biên bản thẩm tra, xác minh chứng cứ trong cuộc thanh tra;

+ Biên bản công bố kết luận thanh tra;

+ Biên bản chuyển giao hồ sơ (Vào lưu trữ hoặc sang cơ quan điều tra)

- Khi tiến hành giải quyết khiếu nại, tố cáo, theo Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, các chủ thể thanh tra thường dùng các loại biên bản sau:

+ Biên bản làm việc với người khiếu nại, tố cáo và các đối tượng có liên quan;

302

+ Biên bản thẩm tra, xác minh vụ việc;

+ Biên bản Hội nghị tư vấn…

Ngoài ra, một số dạng biên bản được dùng như khi thực hiện các quyền trong thanh tra về kiểm kê, niêm phong, giám định....

Nhìn chung, biên bản được dùng trong hoạt động nghiệp vụ khi tiến hành cuộc thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo không khác nhau nhiều về hình thức kết cấu mà điều khác nhau căn bản ở đây là nội dung của biên bản và việc sử dụng biên bản vào giải quyết vụ, việc, vấn đề cụ thể nào. Vì thế, việc xem xét về kết cấu, hình thức, phương pháp thể hiện có thể được trình bầy theo một mẫu thích hợp.

d) Một số vấn đề về soạn thảo biên bản

- Hai cách trình bày biên bản:

Thứ nhất, trình bày biên bản bằng cách liệt kê tuần tự theo thời gian diễn biến vụ việc, vấn đề.

Đây là cách trình bày đơn giản dễ làm. Phản ánh một cách cụ thể trung thành, đầy đủ các sự việc, hiện tượng. Có thể nói, theo cách trình bày này, người ghi biên bản không đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn sâu rộng. Đối với một số vụ việc, vấn đề, chúng ta luôn phải sử dụng cách trình bày liệt kê theo trình tự này, chẳng hạn biên bản ghi lời tố cáo, biên bản ghi lời khiếu nại, biên bản khám nghiệm, biên bản kiểm kê kho quỹ, biên bản giao nhận....

Thứ hai, là trình bày tóm tắt vụ việc, vấn đề theo trọng tâm, trọng điểm.

Theo cách trình bầy tóm tắt vụ việc, những nội dung quan trọng cần phải được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn, còn những nội dung khác có thể được tóm lược lấy ý để phục vụ cho nội dung chính. Theo cách trình bầy này việc xử lý nội dung tiếp theo từ biên bản sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, nếu cán bộ nghiệp vụ yếu về năng lực tổng hợp, không có chuyên môn phù hợp thì khó soạn thảo được biên bản hoặc soạn thảo biên bản nhưng nó không thoả mãn được yêu cầu thực sự về biên bản nói chung và biên bản nghiệp vụ nói riêng.

Nói chung, các biên bản làm việc với đối tượng, đương sự trong công tác thanh tra được trình bầy theo cách thứ hai; Chẳng hạn như: Biên bản làm việc, biên bản công bố kết luận thanh tra, biên bản Hội nghị tư vấn trong giải quyết khiếu nại,

303

tố cáo. Khi làm biên bản theo cách này, cán bộ nghiệp vụ phải tập trung chú ý cao độ, liên tục và có khả năng khái quát, tổng hợp để thể hiện được vấn đề trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời, phần kết thúc biên bản đòi hỏi các bên phải xem xét thông qua thật chi tiết, cụ thể.

- Về bố cục một biên bản:

Theo Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo thì chúng ta có nhiều mẫu biên bản và cũng có cách trình bầy khác nhau đối với từng loại biên bản; tuy nhiên về mặt bố cục kết cấu, chúng đều có những điểm chung của một biên bản thông thường bao gồm :

+ Quốc hiệu, tiêu ngữ, cơ quan ban hành, số ký hiệu, tên loại biên bản...

+ Phần mở đầu biên bản.

+ Phần nội dung công việc cần phản ánh.

+ Phần kết thúc biên bản.

Trong hoạt động nghiệp vụ của mỗi ngành, lĩnh vực thì các biên bản phân biệt với nhau bởi kỹ thuật sử dụng các cụm từ (các câu mẫu), nó phù hợp với tính chất chuyên môn của từng lĩnh vực.

+ Phần mở đầu của biên bản trong hoạt động thanh tra thường dùng câu mẫu:

“Hôm nay, ngày ... tháng ... năm”, để mở đầu biên bản và

“Chúng tôi gồm…” để trình bày giới thiệu thành phần các bên tham gia làm biên bản hoặc chứng kiến vụ việc vấn đề. Trong đó, Đoàn Thanh tra là một bên tham gia thông qua các đại diện của mình.

+ Phần nội dung của biên bản thường được bắt đầu bởi các cụm từ : “Tiến hành...” hoặc “Làm việc về các nội dung sau...” để trình bầy vào nội dung công việc mà cán bộ nghiệp vụ hoặc Đoàn Thanh tra tiến hành làm việc; Phần trình bày nội dung biên bản tuỳ theo công việc cần phản ánh sao cho phù hợp. Nhưng toàn bộ các yêu cầu về một biên bản chủ yếu được thể hiện qua phần này.

+ Phần kết thúc biên bản thường dùng các cụm từ: “Buổi làm việc kết thúc vào hồi...”; “Biên bản làm thành...” ; “Biên bản đã được đọc lại...” ; Ngoài ra, để đảm bảo chặt chẽ, đầy đủ người ta còn dùng một số cụm từ: “Ngoài nội dung trên .... không làm việc gì thêm...”; “Ngoài các tài liệu... không giữ gì thêm...” ;

304

Biên bản nghiệp vụ là một tài liệu mang tin quan trọng phục vụ cho Đoàn Thanh tra, cán bộ nghiệp vụ khi đưa ra kết luận, đánh giá tình hình hoạt động chấp hành pháp luật, chính sách của đơn vị, cá nhân. Do vậy, đòi hỏi biên bản được ban hành phải có nội dung chính xác, đầy đủ, không đưa ra những đánh giá, nhận xét theo suy nghĩ chủ quan của người ghi biên bản. Biên bản phải được hoàn chỉnh đầy đủ thủ tục vào thời điểm kết thúc ngay tại nơi làm biên bản.

Do tính chất đặc thù của đối tượng trong hoạt động thanh tra, cho nên đôi khi người ta rất linh hoạt trong sử dụng biên bản thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng.

2. Báo cáo nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra

a) Khái niệm

Báo cáo trong hoạt động quản lý đó là một loại văn bản dùng để phản ánh hoạt động của đơn vị, tổ chức, cá nhân theo chức năng, nhiệm vụ được cấp thẩm quyền quy định, giao cho. Khi phản ánh quá trình diễn biến của vụ việc, vấn đề cần quan tâm, xem xét, báo cáo thường đề cập đến xuất xứ, diễn biến, kết thúc của các sự kiện.

Trong báo cáo thông thường, người ta dựa trên những kết quả hoạt động cụ thể theo chương trình, kế hoạch đã được nghiên cứu, khảo sát để đưa ra nhận định, đánh giá về hoạt động của cơ quan đơn vị hoặc của cá nhân mình. Đồng thời, báo cáo cũng đưa ra những kiến nghị, đề xuất, phương hướng xử lý giải quyết vấn đề tiếp theo hoặc tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế chính sách. Báo cáo cũng đưa ra những bài học kinh nghiệm cần thiết giúp cho việc điều chỉnh, tổ chức hoạt động sau này.

Về mặt pháp lý, báo cáo là văn bản để cơ quan, đơn vị, cá nhân trình bày với cấp thẩm quyền về việc thực hiện công việc được giao, từ đó có những chỉ đạo, điều chỉnh cần thiết, bảo đảm cho hoạt động bình thường của quản lý. Báo cáo nghiệp vụ là phương tiện, cách thức nắm bắt thông tin phổ biến, quan trọng trong hệ thống quản lý.

Báo cáo nghiệp vụ là văn bản để các cán bộ nghiệp vụ trình bày, nhận định, báo cáo về các mặt hoạt động của cơ quan đơn vị, cá nhân mà hoạt động nghiệp vụ hướng đến.

Trong hoạt động thanh tra, báo cáo nghiệp vụ là một tài liệu mang tin quan trọng, được dùng tại một số thời điểm nhất định. Các báo cáo nghiệp vụ là cơ sở để

305

cấp thẩm quyền nắm bắt thông tin, chỉ đạo điều hành các cuộc thanh tra và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thông qua báo cáo nghiệp vụ, cấp thẩm quyền có thể đưa ra quyết định cần tiến hành hay không cần tiến hành cuộc thanh tra. Nhờ các báo cáo nghiệp vụ của các cán bộ, công chức thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà Đoàn Thanh tra có tài liệu để phân tích, tổng hợp và đánh giá tình hình, tiến độ cuộc thanh tra, hoặc đưa ra cách xử lý giải quyết tiếp theo... Thông qua báo cáo nghiệp vụ của Đoàn Thanh tra với cấp thẩm quyền, những kiến nghị chung về chính sách, pháp luật được đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ...

Trong xét giải quyết khiếu nại tố cáo, báo cáo nghiệp vụ cũng có thể được ban hành khi khảo sát, xem xét ban đầu đánh giá vụ việc để đi đến quyết định thụ lý giải quyết vụ việc. Khi kết thúc khâu thẩm tra, xác minh, các cán bộ nghiệp vụ phải làm báo cáo để cấp thẩm quyền có căn cứ ra quyết định giải quyết vụ việc. Thông qua báo cáo nghiệp vụ về vụ, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo mà các tổ chức thanh tra, cán bộ nghiệp vụ có thể kiến nghị về điều chỉnh chính sách pháp luật cho phù hợp với yêu cầu phát triển lành mạnh của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội.

Vậy, báo cáo nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra là một loại văn bản phản ánh tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ và kiến nghị về xử lý công việc lên người có thẩm quyền.

Báo cáo nghiệp vụ về cơ bản khác so với báo cáo công tác thông thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thường dùng. Sự phân biệt này được xác định qua đối tượng mà báo cáo hướng đến và chủ thể tổ chức hoạt động và chủ thể ban hành báo cáo. Đó là báo cáo của chủ thể bên ngoài hệ thống hoặc bên trong hệ thống.

b) Các yêu cầu của báo cáo nghiệp vụ

- Báo cáo nghiệp vụ phải đảm bảo tính trung thực, kịp thời, chính xác:

Báo cáo là văn bản do cơ quan, tổ chức, người có chức trách một phía đơn phương soạn thảo ban hành, nó là phương tiện, căn cứ để cơ quan có thẩm quyền quản lý, điều chỉnh trở lại hoạt động của các cơ quan tổ chức. Do đó, đòi hỏi báo cáo có nội dung trung thực, đánh giá chính xác tình hình, sự việc không thiên vị, không nhận định đánh giá sai lệch. Đặc biệt, trong hoạt động thanh tra, các báo cáo nghiệp vụ cần phải được thể hiện cụ thể, chính xác. Các báo cáo nghiệp vụ cần hướng vào xem xét, đánh giá theo khía cạnh đối tượng thanh tra làm đúng hay sai; tốt hay chưa tốt và những mặt còn tồn tại, hạn chế của đối tượng thanh tra.

306

Chỉ cái gì đã xem xét, kiểm tra và có đầy đủ thông tin, tài liệu, chứng cứ thì mới đưa ra nhận xét, kết luận. Những đề xuất, kiến nghị nêu ra phải kịp thời để giúp cho cấp có thẩm quyền giải quyết công việc ở những bước tiếp theo được thuận lợi, đúng đắn. Thực tế, trong quản lý cho thấy còn có nhiều báo cáo được thực hiện mang tính thủ tục, nội dung thông tin không trung thực. Các cấp thẩm quyền không có được thông tin chính xác cần thiết để kịp thời chấn chỉnh hoạt động của các cơ quan, đơn vị.

- Báo cáo nghiệp vụ phải có trọng tâm, trọng điểm, kết cấu chặt chẽ:

Mỗi báo cáo thường được dựa trên việc xem xét, đánh giá hoạt động trên cơ sở những mục tiêu, nhiệm vụ đã được nêu ra từ trước. Do vậy, tuỳ theo yêu cầu đặt ra đối với từng báo cáo mà người soạn thảo phải tập trung vào trả lời những câu hỏi cụ thể nào cho phù hợp. Xác định nội dung tập trung, trọng điểm, tránh tràn lan.

Số liệu, sự kiện, diễn giải phải nhằm vào vấn đề mà mục tiêu, nhiệm vụ cuộc thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc chống tham nhũng cần giải quyết. Số liệu, sự kiện phải có giá trị mang tin thực sự và sắp xếp theo trật tự lô gíc, làm căn cứ cho việc đưa ra những lập luận, đánh giá nhận xét về vấn đề mà báo cáo cần giải quyết, đề xuất, kiến nghị và bài học kinh nghiệm.

Trong hoạt động thanh tra, các cán bộ nghiệp vụ cần phải đề xuất được ý kiến, nhận định, hướng xử lý giải quyết của mình trong báo cáo. Đề xuất “trúng được vấn đề” trong quá trình soạn thảo báo cáo là một yêu cầu cần thiết đối với báo cáo nghiệp vụ. Bởi vậy, báo cáo nghiệp vụ sẽ là một phương tiện, sản phẩm phản ánh trình độ năng lực của cán bộ thanh tra. Báo cáo nghiệp vụ còn là phương tiện phản ánh chất lượng, hiệu quả công việc của cán bộ nghiệp vụ.

c) Các loại báo cáo nghiệp vụ thường dùng trong hoạt động thanh tra

- Khi tổ chức tiến hành cuộc thanh tra, theo Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; các chủ thể thanh tra thường dùng các loại báo cáo sau:

+ Báo cáo thu thập thông tin ban đầu chuẩn bị cho cuộc thanh tra;

+ Báo cáo thẩm tra xác minh;

+ Báo cáo từng phần vụ việc được phân công xem xét;

+ Báo cáo kết quả cuộc thanh tra.

307

Ngoài ra, còn có một số báo cáo khác được dùng khi cần thiết như báo cáo theo định kỳ tiến độ của cuộc thanh tra, báo cáo về vấn đề phát sinh, báo cáo vấn đề vụ việc cần xử lý...

- Khi xét giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, theo Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; các chủ thể thanh tra thường dùng các loại báo cáo sau:

+ Báo cáo khảo sát theo đơn thư khiếu nại tố cáo;

+ Báo cáo thẩm tra xác minh vấn đề trong vụ việc khiếu nại, tố cáo;

+ Báo cáo theo phần việc;

+ Báo cáo tổng hợp trên toàn bộ vụ, việc.

Ngoài ra, một số báo cáo khác cũng được dùng khi cần thiết để cấp thẩm quyền xem xét, chỉ đạo việc giải quyết kịp thời, chính xác và xử lý những vấn đề phát sinh.

d) Một số vấn đề về soạn thảo báo cáo nghiệp vụ

- Xác định mục đích yêu cầu, tính chất của bản báo cáo cần soạn thảo:

Cần xác định rõ đó là bản báo cáo khảo sát hay báo cáo thẩm tra, xác minh, báo cáo phần việc hay báo cáo tổng hợp cuối cùng của vụ việc để đưa ra kết luận kết thúc giải quyết vấn đề... Trong hoạt động thanh tra, mục đích, yêu cầu, tính chất của báo cáo nghiệp vụ thường được thể hiện khi giao nhiệm vụ. Báo cáo cần phải nêu rõ kết quả thực hiện, những nhận xét, kết luận và những đề xuất cần thiết để tiếp tục giải quyết vấn đề.

- Xây dựng đề cương báo cáo:

Sau khi xác định rõ loại báo cáo và nội dung cần báo cáo, người soạn thảo xây dựng đề cương báo cáo. Đề cương báo cáo sẽ đề cập đến những nội dung, vấn đề cần nhận xét, minh hoạ, lý giải theo các phần: mở đầu, nội dung và kết thúc. Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng nhằm đảm bảo đúng trọng tâm, cân đối, đầy đủ của báo cáo và sắp xếp các tài liệu kèm theo.

- Trình bầy báo cáo:

308

Trên cơ sở đề cương báo cáo đã được chuẩn bị, người soạn thảo trình bầy theo các phần cụ thể sau:

- Phần mở đầu:

Ngoài những thủ tục của một văn bản quản lý thông thường, trong các trình bầy phần mở đầu của báo cáo nghiệp vụ người ta nêu ra những nội dung sau:

- Nêu những điểm chính về nhiệm vụ được giao (nội dung này đôi khi không nêu ra).

Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị cá nhân mà báo cáo cần phải đề cập. Đây là những nội dung xác định thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan đơn vị, là những căn cứ, tiêu chuẩn mang tính pháp lý để xem xét đánh giá kết quả công việc cụ thể của cơ quan, đơn vị đã tiến hành như thế nào.

Chẳng hạn, trong hoạt động thanh tra, nếu là báo cáo thu thập thông tin ban đầu thì phải nêu được nhiệm vụ, chức trách của đơn vị cần thu thập thông tin, hướng theo những nội dung mà thanh tra hướng đến (tránh nhầm lẫn báo cáo về thực hiện nhiệm vụ của cán bộ nghiệp vụ).

Thường nội dung về chức năng quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức, đơn vị được quy định bởi các văn bản pháp luật như pháp luật về tổ chức, luật điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực liên quan, chỉ tiêu kế hoạch chương trình công tác, dự toán... được cấp thẩm quyền phê duyệt.

- Những yếu tố về điều kiện địa lý, dân cư, xã hội... có ảnh hưởng lớn đến khả năng thực hiện nhiệm vụ, cần thiết phải được đề cập một cách đầy đủ, đúng mức, khách quan. Những vấn đề thời sự kinh tế, chính trị, xã hội, tác động của thị trường trong và ngoài nước là những yếu tố có liên quan chặt chẽ đến kết quả hoạt động của đơn vị, doanh nghiệp. Khi nhận định đánh giá, xem xét hoạt động của các cơ quan, tổ chức không thể tách rời cơ quan tổ chức đó với môi trường xã hội và những điều kiện pháp lý thực tế.

- Phần nội dung chính của báo cáo:

+ Nêu những việc đơn vị, tổ chức đã làm, chưa làm mà thực tế Đoàn thanh tra xem xét, thu thập thông tin, tài liệu.

+ Những mặt được cần khuyến khích, phát huy, mặt chưa được, hạn chế, sai phạm cần phải xử lý, chấn chỉnh.

309

Đây là nội dung trọng tâm cần báo cáo, nhằm thể hiện được những vấn đề mà Đoàn Thanh tra, cán bộ nghiệp vụ phải quan tâm xem xét. Nhưng lại phản ảnh được trúng thực tế, hiện trạng về hoạt động thực hiện nhiệm vụ. Có thể nói phần mở đầu đưa ra những tiêu chí, điều kiện thực hiện thì phần nội dung nêu thực tế đã diễn ra như thế nào, và đối chiếu so sánh với yêu cầu quy định của pháp luật của cơ quan các cấp thẩm quyền. Nhưng phải bảo đảm tính trọng tâm của vấn đề là nhằm đúng vào nội dung mà báo cáo cần đề cập, làm tiền đề cho phần sau khi đưa ra những đánh giá.

- Phần kết thúc của báo cáo:

+ Phân tích ưu khuyết điểm quá trình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Nêu rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm cá nhân đối với những sai phạm.

+ Đánh giá kết quả hoạt động thực hiện nhiệm vụ, những bài học kinh nghiệm rút ra từ chỉ đạo và điều hành công tác quản lý.

+ Những vấn đề đề xuất kiến nghị về cơ chế, chính sách về quản lý của đơn vị.

+ Những kiến nghị đề xuất của cán bộ nghiệp vụ đối với Đoàn Thanh tra, cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho giải quyết vụ việc đúng hướng và đảm bảo hiệu quả, đúng tiến độ. Với kết cấu ba phần, báo cáo nghiệp vụ phải trình bày rõ ràng, mạch lạc, phần trước là tiền đề của phần sau. Kèm theo báo cáo nghiệp vụ là những tài liệu phục vụ như: các biên bản nghiệp vụ, tài liệu sao chụp, các hồ sơ tài liệu thu thập được...

đ) Báo cáo kết quả thanh tra

Báo cáo kết quả thanh tra là văn bản quan trọng khi tiến hành cuộc thanh tra theo quyết định của người ra quyết định thanh tra. Trưởng đoàn Thanh tra là người có trách nhiệm xây dựng, hoàn chỉnh Báo cáo kết quả thanh tra.

Theo Điều 49 của Luật Thanh tra, nội dung của Báo cáo kết quả thanh tra hành chính phải có các nội dung sau đây:

- Kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra;

- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật;

- Ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn Thanh tra với Trưởng Đoàn Thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra;

- Biện pháp xử lý đã được áp dụng và kiến nghị biện pháp xử lý.

310

Trong trường hợp phát hiện có hành vi tham nhũng thì trong báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:

- Yếu kém về năng lực quản lý;

- Thiếu trách nhiệm trong quản lý;

- Bao che cho người có hành vi tham nhũng.

Báo cáo kết quả thanh tra phải nêu rõ quy định của pháp luật làm căn cứ để xác định tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp xử lý.

Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra và gửi tới người ra quyết định thanh tra. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì báo cáo kết quả thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp.

Khi soạn thảo báo cáo kết quả thanh tra, về mặt hình thức, kết cấu của báo cáo cần phải tuân theo mẫu số 23 của Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Báo cáo kết quả thanh tra có quan hệ mật thiết với Kết luận thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra là một loại hình báo cáo nghiệp vụ, là cơ sở để cấp có thẩm quyền ban hành Kết luận thanh tra.

Khâu hoàn chỉnh báo cáo là hết sức cần thiết. Với một số bản báo cáo có thể phải xin ý kiến rộng rãi, phải thông qua cấp thẩm quyền xét duyệt, trước khi đưa ra ban hành. Đối với báo cáo nghiệp vụ trong hoạt động tác thanh tra, người làm báo cáo phải thực hiện hoàn chỉnh báo cáo nhằm bảo đảm tính khách quan, trung thực của những nhận xét đánh giá và nhận định, đề xuất trúng vấn đề.

Tuy nhiên dù báo cáo nào thì người soạn thảo cũng đều phải tránh :

“ Làm được ít, xít ra nhiều để báo cáo cho dài, nhưng xét kỹ lại rỗng tuyếch. Thế là không làm tròn nhiệm vụ, thế là dối trá. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà là một bệnh nguy hiểm. Thành công thì nói ra nhiều, có khuyết điểm thì bớt đi, thành thử cấp trên không hiểu đúng tình hình mà đặt chính sách, chủ trương cho đúng”2.

3. Kết luận thanh tra

a) Khái niệm

2 Hồ Chủ Tịch. Sửa đổi lề lối làm việc, trang 22-23

311

Theo Luật Thanh tra kết luận thanh tra là văn bản được người ra quyết định thanh tra ban hành khi kết thúc cuộc thanh tra.

Kết luận thanh tra là một loại văn bản phản ánh toàn diện, đầy đủ về kết quả của cuộc thanh tra. Đó là kết quả lao động tập thể của Đoàn Thanh tra và sự nhận xét, đánh giá và biện pháp xử lý của người ra quyết định thanh tra đối hoạt động của đối tượng thanh tra trên cơ sở Quyết định thanh tra.

Vậy, kết luận thanh tra là một loại văn bản phản ánh kết quả của cuộc thanh tra và sự đánh giá, xử lý của người ra quyết định thanh tra đối với đối tượng thanh tra.

Kết luận theo nghĩa chung nhất là việc đưa ra những ý kiến nhận xét đánh giá cuối cùng về sự vật hiện tượng trên cơ sở nhận thức của chủ thể, biểu thị qua chuỗi sự kiện, lập luận lý giải... Kết luận hiểu như vậy được đưa ra phụ thuộc vào quá trình thu thập, xử lý thông tin, nhận định, đánh giá của chủ thể.

Khi tiến hành thanh tra, Đoàn Thanh tra tiến hành kiểm tra, xem xét quá trình hoạt động của cơ quan, đơn vị, cá nhân theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở chính sách pháp luật. Thông qua những việc làm cụ thể, thông qua những mệnh lệnh, quy định của chủ thể quản lý, kết quả đạt được, những sai phạm mắc phải... mà các cán bộ, Thanh tra viên đã thu thập, thẩm tra, xác minh, Đoàn Thanh tra tổng hợp lại, đối chiếu với những quy định của chính sách pháp luật. Từ đó đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá hoạt động tuân theo pháp luật của đối tượng theo mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra đòi hỏi.

Thông thường, văn bản kết luận thanh tra đều bao gồm những ý kiến nhận xét đánh giá cái đúng cái sai, được, chưa được trong hoạt động quản lý, chấp hành chính sách pháp luật của đối tượng thanh tra; phân tích kết quả hoạt động nêu ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những sai phạm; xác định thành tích, trách nhiệm của đối tượng và đưa ra những kiến nghị, quyết định xử lý cụ thể từ cuộc thanh tra. Nhưng tất cả các vấn đề đó đều nhằm mục đích giải đáp các vấn đề mà cuộc thanh tra đặt ra.

Cần phân biệt kết luận trong công tác thanh tra với kết luận khác dùng trong hoạt động quản lý nói chung. Kết luận trong công tác thanh tra luôn luôn đòi hỏi phải được thể hiện bằng văn bản. Chỉ có thể hiện bằng văn bản và phải tuân theo quy định của Luật Thanh tra và mẫu số 24 của Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP thì Kết luận thanh tra mới có hiệu lực pháp lý buộc đối tượng phải thi hành. Hay nói cách khác, tính chất pháp lý của Kết luận thanh tra được bảo đảm nhờ thể hiện qua văn bản đánh giá tổng hợp tình hình chung về đối tượng sau khi đã

312

nghiên cứu, xem xét. Trong đó, chứa đựng những nhận xét, phân tích về quá trình hoạt động của cơ quan, đơn vị; đánh giá nguyên nhân, trách nhiệm... của tập thể, cá nhân.

Trong đó, Kết luận thanh tra chứa đựng những yêu cầu, kiến nghị, quyết định mà đối tượng buộc phải chấp hành. Kết luận trong công tác thanh tra được ban hành và tồn tại độc lập không phải thông qua một văn bản khác. Đó là điểm rất khác biệt của kết luận dùng trong công tác thanh tra với những kết luận bằng lời nói thông thường.

Điều 50 của Luật Thanh tra 2010 đã quy định rõ: “Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau đây:

- Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra;

- Kết luận về nội dung cuộc thanh tra;

- Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm;

- Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.”

Về việc ban hành Kết luận thanh tra, Luật Thanh tra cũng quy định: “Chậm nhất mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra và gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra thì kết luận thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp”.

Trong quá trình ra văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo; yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra.

Văn bản kết luận thanh tra là văn bản tổng hợp cuối cùng của người ra quyết định thanh tra; nó thể hiện cô đọng, đầy đủ về kết quả hoạt động nghiệp vụ của Đoàn Thanh tra và sự nhận xét, đánh giá của người ra quyết định thanh tra trong

313

quá trình tiến hành cuộc thanh tra. Về mặt pháp lý, văn bản kết luận thanh tra được bảo đảm thực hiện bởi những quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội, còn rất nhiều vướng mắc trong ban hành và thực hiện những phán xét trong văn bản kết luận thanh tra. Hiện tượng không chấp hành đầy đủ nội dung, đúng thời gian mà văn bản kết luận thanh tra yêu cầu còn tương đối phổ biến. Những vướng mắc này ngoài nguyên nhân từ thể thức tính chất của văn bản kết luận còn do việc nhận thức về vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra trong bộ máy quản lý nhà nước, do những quy định của pháp luật còn chưa đủ điều kiện bảo đảm thi hành.

b) Những yêu cầu của kết luận thanh tra

b1. Kết luận thanh tra phải bảo đảm các yêu cầu mà cuộc thanh tra đòi hỏi

Hay nói khác đi yêu cầu trước hết, văn bản kết luận thanh tra phải là văn bản kết luận về các vấn đề đã được xác định trước. Đặc điểm chung của các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội là nó được xác định và triển khai thực hiện hoàn toàn theo quyết định thanh tra của cấp thẩm quyền và được triển khai cụ thể trong kế hoạch tiến hành thanh tra..

Theo quy định của pháp luật, quyết định thanh tra phải ghi rõ nội dung, thời kỳ, thời hạn thanh tra. Nội dung thanh tra thường được nêu ra cụ thể để Đoàn Thanh tra hoặc Thanh tra viên thực hiện. Các thành viên Đoàn Thanh tra phải chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thanh tra về thực hiện nhiệm vụ được giao.

Để cuộc thanh tra bảo đảm được mục đích yêu cầu đề ra, pháp luật về thanh tra đã quy định, trong quá trình thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải thường xuyên chỉ đạo Đoàn Thanh tra hoặc Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Ngược lại, Đoàn Thanh tra phải báo cáo tiến độ cuộc thanh tra theo định kỳ với người ra quyết định.

b2. Nội dung kết luận thanh tra phải chặt chẽ, rõ ràng, phản ánh đánh giá tình hình một cách khách quan, trung thực

Mọi vấn đề cơ bản của cuộc thanh tra đều được trình bày trong văn bản kết luận thanh tra. Cho nên, nội dung trình bày phải ngắn gọn, rõ ràng. Dùng từ, câu phải dễ hiểu và phù hợp tính chất, lĩnh vực công tác mà cuộc thanh tra hướng tới. Những vấn đề kết luận phải là vấn đề đã được kiểm tra, xem xét và có chứng cứ chính xác. Đối với các thuật ngữ, các khái niệm đòi hỏi phải được chú dẫn giải thích nếu thấy cần thiết.

314

Những vấn đề mà văn bản kết luận đề cập đến có ý nghĩa chính trị, ý nghĩa kinh tế - xã hội rất lớn đối với đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan. Bởi thế, nếu Kết luận thanh tra không được trình bày, kết cấu lô gíc chặt chẽ, rõ ràng thì sẽ bị phản bác, khiếu nại. Điều đó dẫn đến cuộc thanh tra không kết thúc được theo kế hoạch đã đề ra hoặc văn bản kết luận khó được thi hành.

Lập luận sắc bén, theo trình tự lô gíc của vấn đề, với nội dung rõ ràng là yêu cầu bắt buộc của văn bản kết luận. Đảm bảo điều đó, kèm theo văn bản kết luận phải có các tài liệu phục vụ, minh hoạ để lý giải khi cần thiết. Đánh giá một cách khách quan, trung thực về tình hình thực thi chính sách pháp luật của đối tượng, cần phải quán triệt sâu sắc mục đích của hoạt động thanh tra khi soạn thảo, trình bày kết luận.

Khuyến khích, tuyên dương những việc làm tốt của đơn vị nếu có, chứ không đơn thuần chỉ thấy những yếu kém, sai phạm. Cần phải tránh những nhận định cảm tính, chỉ thấy hiện tượng không thấy bản chất vấn đề, chỉ thấy cái cụ thể mà không thấy cái chung, cái khái quát.

Bởi thế, trong khi soạn thảo, hoàn chỉnh kết luận thanh tra người soạn thảo cần phải chuẩn bị kỹ, tập hợp đầy đủ chứng cứ, lập luận chặt chẽ… Khi cần thiết yêu cầu các thành viên trong Đoàn Thanh tra báo cáo hoặc yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho kết luận thanh tra chính xác, khách quan.

c) Một số vấn đề về soạn thảo kết luận thanh tra

Để xây dựng một văn bản kết luận thanh tra, cần tiến hành nhiều công việc phức tạp khác nhau. Song nếu nắm được yêu cầu, nội dung và cách giải quyết các công việc đó thì sẽ tiết kiệm được thời gian, giảm được công sức mà vẫn bảo đảm được chất lượng văn bản. Việc xây dựng văn bản kết luận thanh tra được tiến hành theo các bước sau:

+ Dự thảo văn bản kết luận.

+ Hoàn chỉnh văn bản kết luận.

+ Ban hành và công bố kết luận.

Trong công tác xây dựng văn bản kết luận, mỗi công việc có nội dung riêng biệt và có vai trò khác nhau. Nếu thực hiện không đúng trình tự sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của văn bản.

- Dự thảo văn bản kết luận:

315

Đây là công việc có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng văn bản kết luận chính thức.

+ Công tác chuẩn bị: để bảo đảm cho việc dự thảo văn bản kết luận thanh tra, người soạn thảo phải làm tốt công tác chuẩn bị, bao gồm các công việc sau:

+ Giao nhiệm vụ xây dựng dự thảo: Theo Điều 30 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 201của Chính phủ, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn thanh tra dự thảo kết luận thanh tra.

+ Tập hợp các tài liệu của Đoàn phục vụ cho việc kết luận thanh tra. Những tài liệu này có thể bao gồm: các văn bản về các chính sách, chế độ, quy định v.v... của Đảng, Nhà nước, của địa phương hoặc các ngành có liên quan tới nội dung thanh tra; các thông tin, tài liệu liên quan.

+ Báo cáo kết quả thanh tra và các văn bản báo cáo của đối tượng thanh tra, các đối tượng liên quan; các chứng cứ đã thu thập được; các biên bản xác minh, xử lý về thanh tra, các kết luận về các nội dung chi tiết v.v...

- Viết dự thảo kết luận thanh tra:

Để có được dự thảo, phải xử lý hàng loạt các thông tin, phân tích và tổng hợp các số liệu, tài liệu một cách khách quan, toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể đối với từng việc, đối chiếu giữa kết quả thu nhận được qua thanh tra với các quy định của pháp luật.

Sau khi xử lý, tổng hợp, phân tích những thông tin cần thiết, nên phác thảo đề cương, xác định kết cấu.

Dự thảo kết luận thanh tra cần phải quán triệt đầy đủ các yêu cầu về thể thức của một văn bản quản lý nhà nước và mẫu số 24 của Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ, về mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bố cục của văn bản dự thảo cần bố trí hợp lý giữa các phần, các mục… Từ ngữ rõ ràng, chính xác, hành văn khúc triết, dễ hiểu…

Nội dung kết luận thanh tra bao gồm ba phần cơ bản:

Phần I: Mở đầu:

316

Nêu tóm tắt những yếu tố về tình hình kinh tế - xã hội, chính trị liên quan đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng mà cuộc thanh tra hướng đến. Đồng thời nêu yếu tố xác định về địa vị pháp lý của đối tượng. Đây chính là phần khái quát, tạo tiền đề cho xem xét đánh giá sau này.

Phần II: Kết quả thanh tra:

Phản ánh khái quát quá trình làm việc của Đoàn Thanh tra; phân tích, đánh giá, đối chiếu kết quả hoạt động của đối tượng với những quy định của pháp luật. Đây là phần thể hiện hoạt động của Đoàn Thanh tra khi tiến hành tại cơ quan, đơn vị được thanh tra. Toàn bộ quá trình làm việc của Đoàn từ khi bắt đầu triển khai công bố quyết định thanh tra, thẩm tra, xác minh, thu thập chứng cứ định trình bày nhằm làm rõ cơ sở, căn cứ của các tư liệu, chứng cứ được Đoàn dùng để kết luận, kiến nghị.

Tuỳ theo tính chất, nội dung mà có thể trình bày ở mức khái quát hay cụ thể và cũng lựa chọn cách trình bày phần này cho phù hợp với từng lĩnh vực, từng loại hình thanh tra. Cần chú trọng việc viện dẫn cụ thể các văn bản, tài liệu làm cơ sở cho phân tích, đối chiếu kết quả hoạt động của đối tượng.

Phần III: Đánh giá, kết luận, kiến nghị, quyết định về những nội dung đã thanh tra:

Theo trình tự, phần III là kết quả lô gíc của hai phần trên, theo thẩm quyền người ra thanh tra đưa ra kết luận, kiến nghị, quyết định phù hợp. Mục kết luận cần nêu rõ ưu, khuyết, sai phạm nếu có và đánh giá tính chất tác động của sai phạm. Đánh giá nguyên nhân, nêu rõ trách nhiệm của tập thể cá nhân đối với sai phạm.

Mục kiến nghị và quyết định về nội dung đã thanh tra cần phải nêu rõ được những vấn đề thuộc về trách nhiệm thẩm quyền giải quyết của cơ quan đơn vị; vấn đề thuộc thẩm quyền trách nhiệm giải quyết của cơ quan quản lý cấp trên; vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Đoàn Thanh tra và người ra quyết định thanh tra...

Cũng như các văn bản khác, khi trình bày Kết luận thanh tra, người ta thường sử dụng một số từ khoá, câu mẫu phù hợp tính chất của hoạt động thanh tra.

Việc khởi thảo có ý nghĩa rất lớn đối với chất lượng của văn bản kết luận thanh tra. Mặc dù những vấn đề nêu ra trong văn bản mới chỉ là những nhận xét và là ý kiến chủ quan của người khởi thảo, song nó là cơ sở, “rường cột” cho văn bản kết luận chính thức sau này.

317

- Hoàn chỉnh Dự thảo:

Đây là công việc hết sức quan trọng, nhằm đảm bảo cho việc xem xét, đánh giá đúng những nội dung của văn bản dự thảo, sửa chữa và khắc phục những chỗ còn hạn chế, khiếm khuyết.

- Thảo luận Dự thảo kết luận thanh tra:

Việc tổ chức thảo luận có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau như: trao đổi, tham khảo ý kiến cá nhân hay gửi văn bản dự thảo để lấy ý kiến v.v... Cuối cùng, tổng hợp những ý kiến góp ý để hoàn chỉnh văn bản dự thảo.

Việc thảo luận và hoàn chỉnh bản thảo cần được kết hợp tốt giữa các khâu, thảo luận, tổng hợp, lựa chọn, sửa chữa hoặc hoàn chỉnh văn bản. Làm như vậy sẽ tạo ra được một văn bản kết luận hoàn chỉnh, thể hiện sự thống nhất cao giữa người ra quyết định thanh tra với Đoàn Thanh tra hoặc giữa người ra quyết định thanh tra với các đồng chí trong lãnh đạo...

- Thông báo dự thảo tới đối tượng thanh tra:

Theo Điều 30 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP…trước khi kết luận chính thức, nếu xét thấy cần thiết thì người ra quyết định thanh tra gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Việc giải trình những vấn đề chưa nhất trí (nếu có) của đối tượng thanh tra với nội dung của dự thảo kết luận thanh tra được thực hiện bằng văn bản và có các bằng chứng kèm theo.

Mục đích của việc thông báo dự thảo là nhằm tạo cho đối tượng thanh tra và các đối tượng có liên quan xem xét lại những vấn đề mà văn bản dự thảo kết luận, để họ có điều kiện giải trình hay báo cáo với người có thẩm quyền xem xét lại những vấn đề mà họ thấy chưa chính xác hay chưa thoả đáng.

Có nhiều hình thức thông báo dự thảo văn bản kết luận thanh tra, nhưng hình thức tốt nhất vẫn là bằng văn bản. Mọi ý kiến đề nghị hay giải trình đều phải thể hiện dưới hình thức văn bản.

Khi gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng cần lưu ý: ghi rõ ngày gửi và ngày yêu cầu gửi trả lại văn bản dự thảo.

Người ra quyết định thanh tra phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận thanh tra. Để hoàn chỉnh văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra cần giải quyết tốt những vấn đề dưới đây:

318

- Tiếp nhận và xem xét lại những vấn đề mà đối tượng thanh tra cung cấp (nếu có):

Trên cơ sở văn bản dự thảo và những ý kiến đề nghị hay giải trình của các đối tượng, Người ra quyết định thanh tra cần phải kiểm tra, xem xét lại một cách nghiêm túc, tiếp thu những ý kiến giải trình có căn cứ chính xác để sửa chữa hoặc bổ xung vào văn bản dự thảo. Việc xem xét này có thể thảo luận trong lãnh đạo, với Trưởng đoàn thanh tra hay những bộ phận có liên quan tới vấn đề cần rà soát lại. Sau khi xem xét, nếu bản thân người ra quyết định thanh tra còn nghi ngại về nội dung gì thì phải thẩm tra xác minh lại hoặc yêu cầu đối tượng thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn Thanh tra báo cáo, giải trình để làm rõ thêm nội dung thanh tra, nếu cần thiết có thể phải trưng cầu giám định...

- Tranh thủ ý kiến của các đoàn thể quần chúng nơi thanh tra để củng cố thêm chứng cứ và nhận định cho chính xác khách quan. Việc làm này cũng có thể xúc tiến ngay từ khi tổ chức thảo luận văn bản dự thảo. Bởi vì, nhiều khi những ý kiến của các đoàn thể quần chúng và những người biết sự việc có tác dụng rất lớn cho việc xây dựng và hoàn chỉnh văn bản kết luận.

- Xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo tổ chức thanh tra cấp trên hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.

Đây là việc làm cần thiết thường xuyên trong quá trình thực hiện quyết định thanh tra. Mặc dù việc này không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về công tác thanh tra, song kinh nghiệm thực tế chứng tỏ rằng, nó rất cần thiết và các tác dụng thiết thực cho việc hoàn chỉnh văn bản kết luận thanh tra.

- Ban hành, công bố và công khai kết luận thanh tra:

Văn bản kết luận hoàn chỉnh được ký ban hành là văn bản kết luận thanh tra chính thức của cuộc thanh tra.

Theo Điều 31 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP… Văn bản kết luận thanh tra sau khi được hoàn chỉnh, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc công bố kết luận thanh tra hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Trường hợp cần thiết có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn thanh tra công bố kết luận thanh tra. Việc công bố kết luận thanh tra được lập thành biên bản và đưa vào hồ sơ cuộc thanh tra.

Kết luận thanh tra được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Thanh tra: “Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được

319

báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra và gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra thì kết luận thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp”.

Việc công khai kết luận thanh tra theo những hình thức quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật Thanh tra và được cụ thể hoá theo Điều 46 của Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 201của Chính phủ, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.

Cuộc thanh tra có được kết thúc nhanh gọn theo đúng thời hạn quy định hay không phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:

Thứ nhất: về mặt nội dung: cuộc thanh tra phải trả lời được những vấn đề đã nêu trong quyết định thanh tra của cấp có thẩm quyền.

Thứ hai: về mặt hình thức: văn bản kết luận thanh tra đã được hoàn chỉnh thông qua và công bố.

Do vậy, công việc soạn thảo văn bản kết luận thanh tra được người ra quyết định thanh tra có kế hoạch chủ động ngay từ khi Đoàn Thanh tra đã giải quyết được nội dung trọng tâm của cuộc thanh tra. Làm như vậy, sẽ chủ động được thời gian kết thúc cuộc thanh tra đúng thời gian quy định. Và khi các thành viên của Đoàn Thanh tra rút khỏi địa bàn thanh tra thì Kết luận về cuộc thanh tra đã được hoàn chỉnh, công bố đúng thời hạn ghi trong quyết định thanh tra của cấp thẩm quyền./.

320

Chuyên đề 11

THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Theo từ điển tiếng Việt thì trách nhiệm với nghĩa thứ nhất là phần việc được giao hoặc coi như được giao phải bảo đảm làm tròn, nếu như kết quả không tốt thì phải chịu phần hậu quả; với nghĩa thứ hai thì trách nhiệm là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải chịu phần hậu quả. (Từ điển Tiếng Việt - NXB Thanh Hoá 1999). Từ đó, trách nhiệm theo nghĩa thông thường là nghĩa vụ mà cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện và nếu không làm tròn thì phải gánh chịu những hậu quả tương ứng.

Như vậy, xét về mặt chủ thể phải thực hiện thì có trách nhiệm của cá nhân, của tổ chức, của cơ quan. Còn xét về nội dung được điều chỉnh thì có trách nhiệm được hiểu trên phương diện đạo đức, phương diện pháp lý và trách nhiệm trên một số phương diện khác.

Trên phương diện đạo đức, trách nhiệm được hiểu là bổn phận của một tổ chức, một cá nhân. Trong khoa học pháp lý cũng như theo quy định của pháp luật khi nói đến trách nhiệm pháp lý người ta đề cập đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật.

Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm mà người phạm tội phải gánh chịu các hình thức xử lý về hình sự (các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự) đối với tội phạm mà mình gây ra. Đây là trách nhiệm phải gánh chịu hậu quả pháp lý đối với hành vi phạm tội. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà mình gây ra nếu người đó có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi của mình và có khả năng thực hiện hành vi đó.

Trách nhiệm hành chính là nghĩa vụ mà cá nhân hay tổ chức phải thực hiện theo quy định của pháp luật hành chính và phải gánh chịu những hình thức xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng cho cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm. Những hình thức xử lý này được biểu hiện dưới dạng xử lý vi phạm pháp

321

luật hành chính như cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu (theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính) hoặc các hình thức xử lý kỷ luật hành chính (khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và hoạt động công vụ)...

Trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước là những nghĩa vụ mà cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước được xác định từ những quy định của các văn bản pháp luật. Như vậy các cơ quan hành chính nhà nước có rất nhiều trách nhiệm, bao gồm: tổ chức các hoạt động để phát triển kinh tế xã hội; tổ chức các hoạt động để giữ gìn trật tự an ninh, an toàn xã hội; xây dựng những dự án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế văn hoá xã hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng...

Trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là những nhiệm vụ mà cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; hiện nay được quy định khá đầy đủ trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, các Nghị định của Chính phủ và được quy định ở một số văn bản pháp luật khác điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước.

Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm nói chung được hiểu là việc xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật và những nhiệm vụ được giao của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền mà pháp luật quy định, từ đó có các kết luận về ưu điểm, khuyết điểm của việc thực hiện nhiệm vụ đó, đồng thời tìm ra các nguyên nhân, đưa ra các kiến nghị, giải pháp xử lý, khắc phục.

Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, tức là việc tiến hành thanh tra, kiểm tra những đối tượng được pháp luật trao cho những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định. Bởi vì dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm ở đây chỉ được hình thành trong mối quan hệ trong hệ thống, cơ quan, tổ chức hoặc cơ quan, tổ chức với cá nhân có trách nhiệm trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó. Tất nhiên trong các quan hệ dân sự, quan hệ xã hội, người ta cũng đưa ra những khái niệm về trách nhiệm, song đó chỉ là trách nhiệm giữa cá nhân này với cá nhân khác hoặc cũng có thể phát sinh trách nhiệm giữa cá nhân đối với cơ quan, tổ chức nhưng nó phải được phát sinh từ một sự kiện pháp lý.

Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc xem xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện

322

nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó có các kiến nghị xử lý, khắc phục những mặt còn khiếm khuyết, động viên khích lệ những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Vấn đề xác định thẩm quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Theo quy định của pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì vậy các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước có quyền kiểm tra, thanh tra trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các Nghị định của Chính phủ về lĩnh vực này thì chỉ hai cơ quan có trách nhiệm chính trong thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo là các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan thanh tra nhà nước, trong đó cơ quan thanh tra nhà nước là chủ yếu, trực tiếp giúp Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, trong công tác này, thực chất do cơ quan thanh tra nhà nước các cấp đảm nhiệm.

2. Trách nhiệm của thủ trương cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Muốn thanh tra, kiểm tra trách nhiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được đúng và hiệu quả; cần thiết phải xác định rõ đối tượng của hoạt động thanh tra trách nhiệm là ai? Theo quy định tại Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định cụ thể trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Như vậy, có thể khẳng định, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng đến kết quả, hiệu quả đối với công tác giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo của công dân.

Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm về công tác giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo chính là việc xem xét trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước các cấp đối với việc thực thi nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

3. Sự cần thiết phải thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

323

Trong công tác quản lý nói chung hay quản lý nhà nước nói riêng thì không thể thiếu được hoạt động thanh tra, kiểm tra, nó là một khâu quan trọng để đánh giá, kiểm chứng hiệu lực của công tác quản lý. Nếu không thanh tra, kiểm tra thì người quản lý không nắm được tình hình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới và việc thực hiện chính sách, pháp luật của đối tượng thuộc quyền quản lý. Việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng vậy. Có thanh tra, kiểm tra mới đánh giá được thực trạng việc thực hiện chính sách, pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Việc thanh tra, kiểm tra này nhằm trả lời câu hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh chưa? còn có những tồn tại, thiếu sót gì? nguyên nhân tại đâu? trách nhiệm thuộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nào? nguyên nhân do khách quan hay chủ quan đưa lại, do cơ chế, chính sách, pháp luật hay do chỉ đạo điều hành? từ đó đề xuất những biện pháp xử lý các sai phạm, khắc phục những tồn tại, yếu kém; kiến nghị sửa đổi, bổ sung những văn bản, các quy định không còn phù hợp với thực tế...

Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thời gian qua hiệu quả còn thấp có nhiều nguyên nhân song có lý do quan trọng vì các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ và chưa làm hết trách nhiệm của mình trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn chưa được coi trọng đúng mức. Do đó, những sơ hở, yếu kém, sai phạm của cơ quan hành chính nhà nước chưa được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời, làm cho hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào các cơ quan Đảng và Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước phải tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với cơ quan, đơn vị.

Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đánh giá được thực trạng việc chấp hành các quy định của pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; kịp thời phát hiện sơ hở, yếu kém, kiến nghị biện pháp xử lý, khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

4. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo

324

Theo quy định của pháp luật, các cơ quan thanh tra nhà nước có vai trò, trách nhiệm quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với cơ quan hành chính nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Điều 63 của Luật Khiếu nại quy định:

“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả nước.

Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi cả nước.

2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại trong phạm vi quản lý của mình.

3. Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thanh tra sở, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại”.

Điều 41 của Luật Tố cáo có quy định:

“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo trong các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi cả nước.

2. Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ.

3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết tố cáo trong phạm vi quản lý của mình.

4. Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra sở, Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý công tác giải quyết tố cáo”.

Như vậy các cơ quan thanh tra nhà nước có trách nhiệm trực tiếp, chủ yếu trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo và một số công việc khác thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới của Thủ trưởng cùng cấp.

5. Một số tồn tại trong thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

325

- Các ngành, các cấp chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa, vai trò, tác dụng công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm. Chưa xác định đó là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa coi đó là một khâu có ý nghĩa quyết định đến việc khắc phục những trì trệ yếu kém của công tác này.

- Một số nơi đã nhận thức được vai trò và tác dụng của công tác này, song việc triển khai thanh tra, kiểm tra trách nhiệm tiến hành không thường xuyên, còn làm chiếu lệ, qua loa, đại khái. Nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm không làm rõ được thực trạng công tác chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, chưa làm rõ nguyên nhân của tình trạng không chấp hành đầy đủ pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, không đưa ra được các kiến nghị, biện pháp xử lý khắc phục.

- Trong các cuộc thanh tra, kiểm tra cụ thể còn bộc lộ một số khuyết điểm sau:

Một là, khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm chưa thực hiện đúng quy định về trình tự như: chưa xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra cụ thể, chi tiết, không xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, địa bàn, đối tượng, thời gian, phương pháp thanh tra, kiểm tra nên việc tiến hành đại khái, tuỳ tiện, chiếu lệ, kết quả thu được thấp.

Việc tiến hành thanh tra, kiểm tra không có quyết định, không có văn bản hợp lệ làm căn cứ pháp lý cho việc thực hiện, thông thường chỉ ban hành công văn và giao cho một vài cán bộ thực hiện, không có kiểm tra, đánh giá kết quả. Thậm chí có nơi xây dựng chương trình, kế hoạch trong đầu năm và sau đó giao cho một số cán bộ đi nghe các cơ quan, đơn vị báo cáo một lượt.

Năng lực, trình độ của cán bộ được cử tham gia các Đoàn thanh tra, kiểm tra chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, hạn chế nên trong qúa trình làm việc thường lúng túng, không phát hiện được vấn đề và ít đề xuất được những biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cơ sở.

Hai là, các Đoàn thanh tra, kiểm tra trách nhiệm chưa làm rõ các nội dung, yêu cầu cần thanh tra, kiểm tra. Nhiều Đoàn chỉ mới nghe đối tượng báo cáo tình hình trên địa bàn, cơ quan, đơn vị và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa kiểm tra, thanh tra đầy đủ, cụ thể sổ sách tiếp công dân, tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư, hồ sơ vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo..., nhiều trường hợp có kiểm tra hồ sơ nhưng xem xét qua loa đại khái, nên không phát hiện được những sơ hở, sai sót trong quá trình giải quyết, nhất là những vụ việc phức tạp, khiếu nại, tố cáo

326

đông người tham gia, những vụ việc do lịch sử để lại, vụ việc tái khiếu, tái tố, những vụ việc đã có quyết định giải quyết có hiệu lực, song không được các bên thi hành. Vì vậy kết luận thiếu đầy đủ, không đề xuất được những kiến nghị xác đáng có tính khả thi đối với đối tượng thanh tra, kiểm tra.

Ba là, nhiều kết luận thanh tra, kiểm tra trách nhiệm còn sơ sài, chưa đề cập đầy đủ đến thực trạng tình hình, nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo diễn ra trong cơ quan, đơn vị và địa phương. Đánh giá không đầy đủ kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, chưa chỉ ra được nguyên nhân, tồn tại, thiếu sót, trách nhiệm của tập thể, cá nhân. Đề xuất được các giải pháp để xử lý khắc phục tồn tại, yếu kém về công tác này. Do đó có thanh tra, kiểm tra trách nhiệm song tình trạng khiếu nại, tố cáo vẫn diễn ra phức tạp.

- Các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đầy đủ.

Việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đã được quy định trong một số văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện. Cụ thể như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo, song chưa có quy định cụ thể, thiếu hướng dẫn, đặc biệt là quy trình nghiệp vụ để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Vì vậy, nhận thức của các cơ quan, đơn vị về vấn đề này cũng khác nhau. Việc tổ chức triển khai thực hiện mỗi nơi làm một kiểu, không có tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm để chỉ đạo hướng dẫn, ngay như việc phân biệt giữa thanh tra, kiểm tra trách nhiệm với thanh tra, kiểm tra để giải quyết vụ việc cũng còn có ý kiến khác nhau. Việc thanh tra trách nhiệm với việc kiểm tra trách nhiệm, có điều gì giống và khác nhau cũng chưa được xem xét làm rõ.

Cùng với việc nhận thức không đầy đủ, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện, những khiếm khuyết trong các quy định pháp luật đã và đang là những nguyên nhân chủ yếu, cơ bản làm giảm hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm. Vì vậy, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có những biện pháp cụ thể thiết thực, tích cực khắc phục tình trạng trên, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

II. THẨM QUYỀN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC TIẾN HÀNH THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

1. Thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhà nước trong thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

327

Căn cứ vào những quy định của pháp luật, có thể xác định thẩm quyền của coa quan thanh tra nhà nước các cấp, các ngành trong việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm như sau:

Tổng Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cùng cấp (ví dụ như các Cục, Trường, Trung tâm và một số cơ quan, đơn vị khác).

Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện, quận, thành phố, thị xã, Giám đốc sở, ngành thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chánh Thanh tra sở, ngành có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Trưởng các phòng ban, đơn vị thuộc quyền quản lý của Giám đốc sở, ngành.

Chánh Thanh tra huyện, quận có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND xã, phường, Trưởng các phòng, ban, đơn vị thuộc UBND huyện, quận.

Đây là việc phân cấp có tính nguyên tắc, nhưng trong thực tế do yêu cầu cụ thể, được sự uỷ quyền hoặc do quyết định của Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các cơ quan thanh tra nhà nước có thể được phép tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đối với Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cấp dưới một cấp hoặc hai cấp. Ví dụ: Thanh tra tỉnh có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND xã, phường khi xét thấy cần thiết hoặc khi được cấp trên giao.

Như vậy trong khi thực hiện quản lý nhà nước về công tác này, các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra các cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý. Để giúp các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nhiệm vụ trên, pháp luật quy định cơ quan thanh tra nhà nước các cấp, các ngành có trách nhiệm giúp Thủ trưởng cơ quan cùng cấp trong việc quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do đó việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được giao cho Chánh Thanh tra cùng cấp thực hiện. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tất cả các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đều giao cho Chánh Thanh tra cùng cấp thực hiện mà cũng có

328

nhiều trường họp do yêu cầu công tác, Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thể giao nhiệm vụ này cho Thủ trưởng cơ quan khác thực hiện. Ví dụ như Thủ tướng Chính phủ đã giao cho một số Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ làm Trưởng Đoàn thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các địa phương trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Tóm lại, chủ thể thực hiện việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước.

2. Nội dung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyêt khiếu nại, tố cáo

Theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm:

- Tổ chức tiếp công dân

- Việc tiếp nhận và xử lý đơn thư

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền

- Tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo

- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức do mình quản lý trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo

- Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Do đó, khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thì cũng tập trung vào những nội dung sau:

a) Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc tiếp công dân

Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc tiếp công dân, trước hết cần tập trung đánh giá được khái quát thực trạng việc tổ chức công tác tiếp công dân cuả cơ quan hành chính nhà nước; những ưu, khuyết điểm chủ yếu; nguyên nhân, trách nhiệm cá nhân, cơ quan; các ngành, các cấp, các cơ quan nhà nước đã tập trung chỉ đạo, tổ chức tiếp công dân như thế nào, kết quả ra sao.

Trong nội dung cụ thể cần làm rõ thực trạng tổ chức tiếp công dân của cơ quan hành chính nhà nước: từ việc bố trí nơi tiếp công dân, tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ làm nhiệm vụ tiếp dân đến việc trực tiếp công dân của thủ trưởng các cơ

329

quan hành chính nhà nước; việc tiếp công dân thường xuyên và định kỳ theo quy định của pháp luật; số lượt người được tiếp, trong đó có bao nhiêu khiếu nại, bao nhiêu tố cáo. Khiếu nại, tố cáo về những vấn đề gì? Nội dung gì là chủ yếu, tỷ lệ bao nhiêu? Có trường hợp khiếu nại, tố cáo đông người tham gia hay không, khiếu nại, tố cáo về vấn đề gì? Có bao nhiêu người tham gia, cơ quan hành chính nhà nước đã áp dụng những biện pháp gì để xử lý tình trạng này…

Việc phân loại, xử lý và tổng hợp đơn thư khiếu nại, tố cáo do công dân trực tiếp chuyển đến. Tổng số các đơn thư nhận được, trong đó tổng số khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; khiếu nại, tố các không thuộc thẩm quyền.

Thông qua thanh tra, kiểm tra phải đánh giá được những ưu, khuyết điểm, những việc đã làm được để phát huy, những mặt chưa làm được cần rút kinh nghiệm, chấn chỉnh, khắc phục.

b) Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

Giải quyết vụ việc là khâu quan trọng nhất trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và đó cũng là trách nhiệm chủ yếu của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, việc chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo là vấn đề hết sức quan trọng và kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong công tác này cũng là nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Thực tế cho thấy ở nơi nào quán triệt tốt những quy định pháp luật trong vấn đề này thì ở đó việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả và ngược lại. Đồng thời cũng thấy ở địa phương nào làm tốt việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thì ở đó công tác chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo được quán triệt và đạt kết quả.

Thời gian qua, qua công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, cho thấy nhiều địa phương, bộ ngành, cơ quan nhà nước có những cố gắng nhất định trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, song không ít bộ ngành, địa phương còn thiếu trách nihệm trong việc giải quyết, né tránh, đùn đẩy, giải quyết không dứt điểm, thiếu khách quan, vận dụng không đúng các quy định pháp luật trong việc giải quyết, chưa tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục thời hạn, thời hiệu. Cùng một vấn đề nhưng mỗi nơi giải quyết một khác, vì vậy làm cho tình trạng khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức tạp. Nhiều vụ việc không được giải quyết dứt điểm, hoặc đã được giải quyết nhưng người dân không nhất trí và tiếp tục khiếu nại, tố cáo, lên cấp trên, hoặc giải quyết thiếu khách quan, bao che, dung túng cho cán bộ, đảng viên có sai phạm nên gây ra phản ứng trong quần chúng dẫn đến khiếu nại tập thể, đông người làm cho chính quyền, cấp uỷ

330

đảng nhiều nơi lúng túng, bị động như ở Thái Bình, Nam Định, Hà Tây và nhiều tỉnh, thành phố ở phía Nam. Chính vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo lại càng được chú trọng, đẩy mạnh hơn nữa và trước hết phải làm rõ thực trạng tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở địa phương, bộ ngành với các nội dung cụ thể sau đây:

- Tình hình khiếu nại tố cáo: cần làm rõ khiếu nại, tố cáo về vần đề gì, số lượng, tỷ lệ mỗi loại, số lượng khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, không thuộc thẩm quyền; số các vụ khiếu nại, tố cáo phức tạp có nhiều người tham gia; số khiếu nại lần đầu, lần tiếp theo, lần cuối cùng; những khiếu nại, tố cáo nhận được từ các cơ quan, tổ chức chuyển đến (như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, Mặt trận, cơ quan báo chí), khiếu nại, tố cáo do cơ quan cấp trên chuyển đến. Việc xử lý đơn, thư: số lượng khiếu nại gửi trả và hướng dẫn cho người khiếu nại gửi cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền…

- Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo: nội dung, số lượng vụ việc thuộc thẩm quyền đã được giải quyết, trong đó giải quyết lần đầu, lần tiếp theo. Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo đã có quyết định giải quyết có hiệu lực pháp luật, số lượng còn tồn đọng, nguyên nhân. Khi kiểm tra, thanh tra cần tập trung xem xét một số vụ việc điển hình có nhiều ý kiến hoặc dư luận xã hội quan tâm.

- Về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo: Cần đánh giá việc chấp hành quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, thời hiệu giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc ra quyết định giải quyết; hồ sơ giải quyết; số vụ việc có quyết định giải quyết; những vụ việc được giải quyết bằng hình thức công văn, kết luận, thông báo ý kiến của cấp trên; hồ sơ giải quyết có được xây dựng theo đúng quy định hay không.

Đối với những vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp trong quá trình giải quyết cơ quan có thẩm quyền đã tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan chưa; có tổ chức lấy ý kiến, đối thoại với nhiều người khiếu nại, tố cáo hay không.

Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, căn cứ vào yêu cầu cụ thể có thể kiểm tra, thanh tra để đánh giá khái quát tình hình chung hoặc đi sâu vào từng vấn đề, nội dung cụ thể. Nếu có kiến nghị phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân về những vụ việc nổi cộm thì phải tiến hành xem xét, đánh giá một cách kỹ lưỡng, cụ thể.

c) Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo

331

- Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

Thực tế hiện nay cho thấy nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết nhưng không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm chỉnh. Tình trạng này có nhiều lý do song có lý do rất quan trọng là thiếu việc kiểm tra, đôn đốc và tổ chức thực hiện của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Vì vậy, việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm đối với các cơ quan hành chính nhà nước trong việc tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo là rất quan trọng.

Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm về vấn đề này cần tập trung làm rõ một số nội dung sau:

Số các vụ việc khiếu nại, tố cáo có quyết định giải quyết, quyết định xử lý có hiệu lực pháp luật; các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã được thi hành, các quyết định xử lý kỷ luật và áp dụng biện pháp khác đã được thi hành (bao gồm nội dung, số lượng); các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo chưa được thi hành hoặc thi hành không đầy đủ (nội dung, số lượng); nguyên nhân khách quan, chủ quan do quyết định không đúng đắn, thiếu công bằng hay do thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện); các cơ quan hành chính nhà nước đã tiến hành biện pháp gì để tổ chức thi hành, các biện pháp khắc phục tình trạng không thi hành các quyết định.

Cần tập trung làm rõ những vấn đề, vụ việc tồn đọng, nổi cộm gây bức xúc cho dư luận quần chúng.

- Thanh tra, kiểm tra việc áp dụng các biện pháp bảo đảm hiệu lực công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Nội dung của công tác này là kiểm tra, thanh tra việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm của người tiếp công dân, người có trách nhiệm mà không thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo, không áp dụng các biện pháp xử lý cần thiết, xử lý những người có hành vi gây rối, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo.

Hiện nay, một trong những bức xúc lớn nhất trong quần chúng nhân dân là tình trạng vô cảm, thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật của cán bộ và các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì vậy việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm và áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời là vấn đề rất quan trọng. Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm về vấn đề này cần tập trung làm rõ: Tình hình xử lý đối với các hành

332

vi vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc xử lý cụ thể đối với cá nhân có vi phạm (bao gồm cán bộ, công dân); hình thức xử lý có tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi vi phạm không; việc xử lý có được thi hành nghiêm chỉnh hay không; cơ quan hành chính nhà nước đã có những biện pháp gì để khắc phục tình trạng này.

- Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức thuộc quyền quản lý trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm nhiều nội dung và hàng loạt các công việc liên quan mật thiết, gắn bó với nhau. Các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới cùng như các cơ quan, tổ chức thuộc quyền quản lý của các cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của công dân. Các cơ quan cấp trên phải hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra đối với cấp dưới trong việc chấp hành pháp luật chung về khiếu nại, tố cáo trong việc giải quyết từng vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể. Việc thiếu hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra sẽ dẫn đến tình trạng kém hiệu quả, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong việc thi hành.

Nội dung thanh tra, kiểm tra cần tập trung làm rõ:

Thực trạng việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới như thế nào? đã triển khai các biện pháp gì để hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo và đôn đốc kiểm tra việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo; hiệu quả thực hiện ra sao?

Đối với những vụ việc nổi cộm, bức xúc, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đã có những biện pháp cụ thể thiết thực nào để xử lý (như việc khiếu nại, tố cáo đông người tham gia, vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, những vụ việc tồn đọng. Những vụ việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết nhưng kéo dài không được thi hành nghiêm chỉnh). Nguyên nhân để xẩy ra tình trạng trên, phương hướng xử lý, khắc phục…

d) Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Nội dung quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được quy định trong Luật khiếu nại, Luật Tố cáo và các Nghị định của Chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà nước, Chính phủ, Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiêu nại, tố cáo.

333

Khi tiến hành kiểm tra, thanh tra trách nhiệm về công tác này, chúng ta phải đánh giá được thực trạng tình hình việc thực hiện các công việc đó như thế nào, kết quả ra sao, còn những vấn đề gì tồn tại, vướng mắc nổi cộm, những khâu làm tốt, những công việc làm chưa tốt, nguyên nhân, trách nhiệm của cá nhân, tập thể, các biện pháp khắc phục.

Khi kiểm tra, thanh tra trách nhiệm thì không nhất thiết phải kiểm tra, thanh tra toàn bộ các hoạt động để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này, mà tập trung vào những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những vấn đề yếu kém cần phải khắc phục. Do đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm cần lựa chọn những vấn đề và áp dụng các biện pháp tiến hành cụ thể, thích hợp, có hiệu quả.

3. Phương thức tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

a) Các hình thức thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo cần phải được thực hiện với nhiều biện pháp, hình thức đa dạng phù họp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra trên diện rộng; kiểm tra, thanh tra nhiều đối tượng trên một địa bàn hay trong cùng một ngành hoặc thanh tra, kiểm tra nhiều đối tượng có đặc điểm, tình hình giống nhau để đưa ra những đánh giá, kết luận có tính khái quát về tình hình chấp hành pháp luật, từ đó đưa ra kiến nghị tổng thể mang tính vĩ mô. Cũng có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra theo mẫu, theo đặc điểm hoặc cho một loại đối tượng cụ thể: ví dụ như kiểm tra, thanh tra ở một cơ quan, một địa phương, có thể là những cơ quan, đơn vị chấp hành tốt pháp luật hoặc ở những cơ quan đơn vị có nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo, tình hình tham nhũng diễn ra phức tạp, công tác quản lý yếu kém, nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra những đối tượng đó để rút ra kết luận, đánh giá cụ thể, và có những giải pháp trực tiếp như xử lý, khắc phục kịp thời với tình trạng xảy ra.

Các hình thức chủ yếu thanh tra, kiểm tra trách nhiệm bao gồm:

- Thanh tra, kiểm tra toàn diện

- Thanh tra, kiểm tra chuyên đề

- Thanh tra, kiểm tra vụ việc (đột xuất)

334

Căn cứ vào tình hình thực tế, mục đích, yêu cầu công tác quản lý mà cơ quan tiến hành thanh tra, kiểm tra lựa chọn cách thức, phương pháp thanh tra, kiểm tra cho phù hợp.

Thanh tra, kiểm tra toàn diện, thường được tiến hành để đánh giá toàn diện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một ngành, một địa phương hay một cơ quan, đơn vị. Để thực hiện yêu cầu này phải tiến hành thanh tra, kiểm tra tất cả các khâu công tác, từ việc tổ chức tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo. Việc kiểm tra này thường được thực hiện theo chương trình, kế hoạch và phải được chuẩn bị kỹ. Trường họp cần thiết phải tổ chức tập huấn về mục đích, nội dung và phương pháp tiến hành thanh tra, kiểm tra. Qua công tác thanh tra, kiểm tra mà có những nhận xét đánh giá và có những kiến nghị ở tầm vĩ mô, kể cả những vấn đề cơ chế, chính sách. Điều lưu ý là những kiến nghị cần hết sức cụ thể và có tính thuyết phục (cần điều chỉnh những vấn đề gì? cần sửa đổi những nội dung gì? đối với văn bản pháp luật nào?…)

Thanh tra, kiểm tra chuyên đề nhằm đi sâu vào một khâu nào đó trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, một công việc nào đó ở một khâu trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Ví dụ, thanh tra, kiểm tra về việc tổ chức tiếp công dân trong phạm vi cả nước, của một ngành, một địa phương; hoặc thanh tra, kiểm tra việc quản lý đơn thư, tổ chức phân loại, xử lý đơn thư hoặc việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.

Cũng có thể là thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong một lĩnh vực cụ thể như về đất đai; giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật về đất đai ở một ngành, địa phương nào đó.

Thanh tra, kiểm tra đột xuất vụ việc, vấn đề nhằm đi sâu vào một vấn đề, sự vụ nào đó phát sinh trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo ở cơ quan, đơn vị, địa phương, ngành cấp nào đó. Ví dụ xem xét, đánh giá việc giải quyết khiếu nại của tập thể ở một số xã ở Thái Bình, Nam Định, Hà Nội... hoặc việc giải quyết vụ việc vi phạm pháp luật của cán bộ ở một cơ quan đó.

b) Trình tự tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo là nội dung đã được đề cập từ

335

lâu. Song hầu như rất ít được thực hiện mà mới được chú trọng trong thời gian gần đây, đó là một nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan thanh tra nhà nước. Hiện nay trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo cũng chưa quy định thật đầy đủ về vấn đề này mà chỉ đề cập mang tính nguyên tắc. Thực tiễn hiện nay việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm cũng rất ít được thực hiện, thậm chí mỗi nơi làm một khác. Do đó việc thể chế hoá các quy định trong tiến hành kiểm tra, thanh tra trách nhiệm là vấn đề cần phải được thực hiện ngay.

Trình tự thanh tra, kiểm tra trách nhiệm chia làm 3 bước:

Bước 1: Chuẩn bị thanh tra, kiểm tra

Đây là giai đoạn rất quan trọng để xác định rõ những vấn đề thuộc nội dung cần thanh tra, kiểm tra, từ đó xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra cho sát, đúng, xác định được quy mô, thời gian và những vấn đề trọng tâm cần đi sâu thanh tra, kiểm tra nhằm làm rõ đúng - sai, trách nhiệm của đối tượng bị kiểm tra.

Trước hết, cần xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung thanh tra, kiểm tra: việc tiến hành thanh tra, kiểm tra với mục đích gì? đánh giá việc thi hành pháp luật khiếu nại, tố cáo trên tất cả các mặt hay một mặt, một nội dung, một vấn đề?

Phải làm rõ từng nội dung thanh tra, kiểm tra cụ thể. Nếu thanh tra, kiểm ra toàn diện trong khiếu nại, tố cáo thì làm rõ từng nội dung cụ thể trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.

Trường hợp thanh tra, kiểm tra chuyên đề về một mặt công tác thì phải làm rõ từng nội dung, yêu cầu cụ thể: như về tiếp công dân cần nắm về tình hình tiếp công dân định kỳ, tiếp công dân của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước, số lượt người đến khiếu nại, tố cáo, số đơn dã nhận được, số đơn khiếu nại, tố cáo, số đơn thuộc thẩm quyền, số đơn không thuộc thẩm quyền, đã xử lý như thế nào những vấn đề nổi lên trong công tác tiếp công dân...

- Để chuẩn bị xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra, kiểm tra cần phải nắm tình hình, đặc điểm nơi dự định để tiến hành thanh tra, kiểm tra thông qua nghiên cứu báo cáo, tình hình khiếu nại, tố cáo, phản ánh của quần chúng, báo chí mà có nhận định khái quát về tình hình chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo từ đó rút ra được những vấn đề nổi cộm, những vấn đề cần phải được xem xét làm rõ.

336

- Kế hoạch thanh tra phải được xây dựng cụ thể, chi tiết, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu; nội dung thanh tra, kiểm tra; đối tượng được thanh tra, kiểm tra; phương pháp tiền hành, thời gian thực hiện; lực lượng thanh tra, kiểm tra, lực lượng chủ yếu cơ quan, tổ chức phối hợp cùng tham gia.

Kế hoạch thanh tra, kiểm tra do Trưởng Đoàn thanh tra xây dựng và phải được người ra quyết định thanh tra, kiểm tra phê duyệt.

Bước 2: Tiến hành thanh tra, kiểm tra

Đây là quá trình triển khai các hoạt động thanh tra trực tiếp nhằm làm rõ những nội dung được thanh tra, kiểm tra. Đó cũng là quá trình thu thập các nguồn thông tin từ đối tượng thanh tra, kiểm tra và quá tình xử lý các thông tin thu thập được đối chiếu với các quy định pháp luật để đánh giá một cách khách quan, trung thực những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân tồn tại để có kiến nghị xác đáng. Đây là giai đoạn quyết định đến kết quả cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của một ngành, địa phương, một cơ quan, đơn vị trong thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra có các công việc sau:

- Công bố quyết định thanh tra, kiểm tra.

- Nghe đối tượng thanh tra, kiểm tra báo cáo. Sau khi công bố quyết định thanh tra, thông báo với đối tượng thanh tra kế hoạch thanh tra, kiểm tra, tổ chức nghe đối tượng báo cáo cụ thể về tình hình chấp hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, đơn vị theo những nội dung do Đoàn thanh tra yêu cầu.

- Kiềm tra các mặt công tác, kiểm tra sổ sách, hồ sơ và thực tế việc thực hiện của đối tượng.

Chẳng hạn thanh tra, kiểm tra việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền thì phải xem xét kỹ hồ sơ giải quyết, chứng cứ, các căn cứ pháp luật làm cơ sở giải quyết dịnh giải quyết, việc bảo đảm trình tự, thủ tục... có thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định hay không.

Ngoài đối tượng trực tiếp, trong quá trình thanh tra, kiểm tra có thể chọn và tiến hành kiểm tra ở một số cơ quan có liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ví dụ đối tượng thanh tra, kiểm tra là UBND huyện thì ngoài việc kiểm tra các mặt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo kém hiệu quả, có nhiều vụ việc nổi

337

cộm, việc kiểm tra các đối tượng có liên quan sẽ làm cơ sở kết luận, đánh giá toàn diện, khách quan, đầy đủ hơn về những vấn đề cần được làm rõ.

Khi thanh tra, kiểm tra tại các cơ quan, đơn vị đều phải lập biên bản xác nhận số liệu, tình hình chung, thực trạng ưu, khuyết điểm từng mặt cụ thể, làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm của đối tượng thanh tra, kiểm tra.

Trên cơ sở báo cáo kết quả thanh tra và các tài liệu, thông tin đã thu thập được trong quá trình thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, kiểm tra có trách nhiệm tham mưu cho người ra quyết định thanh tra soạn thảo kết luận cuộc thanh tra, kiểm tra. Nội dung kết luận bao gồm những phần sau:

Phải phản ánh được tình hình, đặc điểm của cơ quan, đơn vị được thanh tra, kiểm tra, những khó khăn, thuận lợi tác động đến việc thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo của cơ quan, đơn vị.

Phân tích, đánh giá kết quả đạt được trên các mặt công tác. Tuỳ theo nội dung, yêu cầu, phạm vi, đối tượng được thanh tra, kiểm tra, phân tích rõ những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan.

Đề xuất những kiến nghị về chấn chỉnh trong công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan, đơn vị như: tiếp dân, nhận, xử lý đơn thư; giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị cấp dưới thuộc quyền quản lý. Xây dựng kết luận là công việc có ý nghĩa quan trọng phản ánh toàn bộ kết quả thanh tra, kiểm tra, trong đó đánh giá được một cách khách quan, trung thực việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở một địa phương, cơ quan, đơn vị, ở một bộ ngành, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Bước 3: Kết thúc thanh tra, kiểm tra.

- Sau khi có dự thảo kết luận thanh tra, kiểm tra tổ chức thông báo dự thảo kết luận cho cơ quan, đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Việc thông báo dự thảo kết luận đựơc tiến hành công khai, dân chủ, trao đổi, những vấn đề đã được thống nhất, chưa được thống nhất cần ghi rõ trong văn bản, ý kiến của các bên. Nếu đối tượng có ý kiến giải trình thì văn bản giải trình được lưu giữ kèm theo biên bản cuộc họp. Sau đó được gửi cho thủ Trưởng cơ quan ra quyết định thanh tra, kiểm tra xử lý, quyết định.

338

Kết luận sẽ gửi đến cơ quan, đơn vị được thanh tra, kiểm tra để thực hiện. Cơ quan, đơn vị này có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh kết luận thanh tra, kiểm tra. Sửa chữa, khắc phục những sai phạm, sơ hở, yếu kém.

Cơ quan ra quyết định thanh tra, kiểm tra có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra.

Hồ sơ thanh tra, kiểm tra trách nhiệm phải được quan quản lý, lưu giữ theo quy định. Đó là căn cứ để đánh giá việc chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của một cơ quan, địa phương, đơn vị, làm cơ sở để xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo phát sinh, mặt khác còn làm cơ sở để theo dõi, kiểm tra, đôn đốc đối tượng thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra.

c) Những vấn đề cần chú ý khi tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm

Khi thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thì việc chọn vấn đề, phương pháp tiến hành rất quan trọng. Từ các nguồn thông tin thu thập được, từ đơn thư khiếu nại, tố cáo phản ánh tình trạng chấp hành pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, chúng ta phải biết lựa chọn vấn đề thanh tra, kiểm tra cho “trúng”, cho “đúng”, có trọng tâm, trọng điểm, không tràn lan và cũng phải có phương pháp tiến hành cho phù hợp. Không nên chung chung mà tập trung vào những vấn đề nổi cộm, những vụ việc tồn đọng, bức xúc, những khâu yếu, kém. Kết quả thanh tra, kiểm tra phải phản ánh được một cách đầy đủ thực trạng vấn đề, nguyên nhân, khách quan, chủ quan, trách nhiệm thuộc về cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể. Đề ra hướng giải quyết cụ thể để xử lý, khắc phục, đây mới là vấn đề quyết định.

Để kết luận thanh tra, kiểm tra trách nhiệm được chấp hành nghiêm chỉnh thì việc thì kết luận phải được đánh giá đúng, chính xác, khách quan, hợp lý, có sức thuyết phục, được đối tượng thừa nhận, có sự nhận thức thống nhất về những vấn đề cần điều chỉnh sửa chữa để nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tránh tình trạng áp đặt đưa ra những kết luận thiếu căn cứ, không phù hợp với thực tiễn và yêu cầu quản lý.

Khi xem xét trách nhiệm của tập thể, cá nhân, chúng ta phải đánh giá một cách khách quan, toàn diện, thấy được cả mặt ưu điểm và khuyết điểm, tồn tại của cơ quan, tổ chức và phải chỉ ra được các biện pháp xử lý khắc phục giúp cơ sở tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

339

1. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một vấn đề được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, nhất là trong điều kiện tiến hành cải cách hành chính nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân nhưng các cơ quan hành chính nhà nước sẽ đóng vai trò chủ yếu và chịu trách nhiệm chính.

Có thể khẳng định rằng, khiếu nại, tố cáo chủ yếu xảy ra trong hoạt động quản lý. Chính vì vậy các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm hết sức to lớn trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mặt khác cũng cần phải nhận thấy rằng, mặc dù là cơ quan có trách nhiệm chính trong công tác này nhưng các cơ quan hành chính nhà nước lại không phải là cơ quan chuyên trách để tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Với tính chất là một cơ quan quản lý nhà nước trong một lĩnh vực, trên một phạm vi nhất định, cơ quan hành chính thường trước hết quan tâm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý, xử lý những tình huống cụ thể hàng ngày, hàng giờ phát sinh thuộc trách nhiệm của mình. Cho nên tình trạng quan tâm chưa đầy đủ đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là điều xảy ra khá phổ biến. Việc thực hiện trách nhiệm này dường như là một sự miễn cưỡng, mang tính chất bị động. Điều này gần như trở thành thói quen của các cơ quan hành chính nhà nước và đây chính là nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm của mình trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cần được thay đổi. Ngoài việc đôn đốc, nhắc nhở các cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện nghiêm chỉnh những qui định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, việc tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác này là vấn đề quan trọng. Nó giúp cho các cơ quan hành chính nhà nước nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiệm cũng như phương thức thực hiện trách nhiệm của mình một cách có hiệu quả. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước sẽ làm cho họ thấy rằng, việc để xảy ra những khiếu kiện sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác quản lý. Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý không chỉ lo lắng đến việc suy nghĩ để tìm ra những giải pháp hay, có hiệu quả trong quá trình quản lý điều hành mà phải quan tâm đầy đủ, thoả đáng đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Hiệu quả của công tác thanh, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trước hết và chủ yếu là làm thay đổi nhận thức và thái độ của cơ quan hành chính đối với công tác này.

2. Công tác thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo có những nét chung của công tác thanh tra, kiểm tra nhưng có những đặc điểm riêng do mục đích, nội dung và đối tượng của nó. Đây là vấn đề phải tính đến khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, trước hết

340

cần nắm chắc đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương, đặc điểm lĩnh vực quản lý của bộ, ngành là đối tượng của thanh tra, kiểm tra, Chỉ có như vậy mới có thể đánh giá được một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện trách nhiệm của cơ quan là đối tượng thanh tra, kiểm tra trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đồng thời đưa ra những kiến nghị phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hiệu lực của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Theo quy định của pháp luật thì chủ thể tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm là các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên, do tính chất là một cơ quan quản lý trong một địa phương hay lĩnh vực hoạt động, khó có thể đỏi hỏi cơ quan hành chính nhà nước chủ động trong việc thực hiện trách nhiệm này. Chính vì vậy mà các cơ quan thanh tra nhà nước với vai trò là cơ quan tham mưu cần nghiên cứu đề xuất chương tình, kế hoạch chung cho công tác thanh tra, kiểm tra, trong đó nhấn mạnh vấn đề thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng cùng cấp, đồng thời chủ động tiến hành thanh tra, kiểm tra theo qui định của pháp luật. Đây là vấn đề hết sức quan trọng thể hiện sự đổi mới về nhận thức trong công tác thanh tra hiện nay. Cần chuyển mạnh phương thức hoạt động từ việc tiến hành thanh tra những vụ việc cụ thể sang việc coi trọng thanh tra, kiểm tra trách nhiệm nhằm đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc này, ngoài việc đổi mới phương thức và chương trình thanh tra cần nghiên cứu và đưa ra nhưng qui định thể rõ ràng hơn về trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác này.

Để đổi mới và nâng cao hiểu quả công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo chúng ta phải tiến hành nhiều biện pháp đông bộ, cụ thể, thiết thực:

a) Trước hết, các cấp các ngành cần phải nhận thức đầy đủ và quán triệt về tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng và coi đó là một trách nhiệm quan trọng của cơ quan hành chính nhà nước, là yếu tố quyết định đến hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

b) Các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan thanh tra nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tổ chức chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, từng bước chuyển hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, thanh tra theo vụ việc sang hoạt động kiểm tra, thanh tra thường xuyên việc thực hiện chính sách pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng. Xây dựng chương

341

trình, kế hoạch, trong năm cần có nội dung về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, biện pháp tiến hành rõ ràng, có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thanh tra trong hệ thống thanh tra nhà nước, và phối hợp với cơ quan kiểm tra của Đảng.

c) Các cơ quan thanh tra nhà nước có vai trò quan trọng trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm và phải đổi mới mạnh mẽ công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm. Đổi mới về nhận thức cũng như trong chỉ đạo điều hành. Cần giảm bớt đáng kể việc tiến hành giải quyết những vụ việc cụ thể mà tập trung nhiều hơn vào việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Cần đổi mới phương pháp, cách thức tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm đồng thời hướng dẫn các cơ quan thực hiện.

Thanh tra Chính phủ cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc tiến hành thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm trong đó quy định rõ nội dung, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các biện pháp tiến hành; những quyền hạn, biện pháp được áp dụng trong quá trình thanh tra, kiểm tra trách nhiệm.

d) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, tiến hành nhiều biện pháp, lựa chọn cách thức tiến hành cho linh hoạt, phù hợp. Thanh tra, kiểm tra đúng trọng tâm, trọng điểm, có chất lượng, tránh hình thức, qua loa, chiếu lệ. Tập trung vào những nơi có nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, có những ý kiến của quần chúng và dự luận xã hội. Tránh làm tràn lan, chung chung, không có kết quả. Trong các cuộc thanh tra, kiểm tra thực hiện phải đánh giá một cách khách quan, toàn diện về thực tiễn tình hình chấp hành pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đưa ra những kết luận rõ ràng, chính xác, nêu được những sai phạm, khiếm khuyết, nguyên nhân của những sai phạm đó, trách nhiệm của các cá nhân, tập thể; kiến nghị các biện pháp thiết thực để khắc phục, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cơ sở./.

342

Chuyên đề 12

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG NĂM 2005

(Đã được sửa đổi bổ sung năm 2007 và 2012)

Luật Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội thông qua tại phiên họp ngày 29 tháng 11 năm 2005, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI và đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007 và 20123 (sau đây gọi tắt là Luật Phòng, chống tham nhũng). Đây là một đạo luật quan trọng được Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội hết sức quan tâm. Việc soạn thảo Luật Phòng, chống tham nhũng được sự chỉ đạo sát sao của Đảng, sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước và ý kiến đóng góp của các đoàn thể, cơ quan báo chí và nhân dân nhằm bảo đảm tính khả thi của đạo luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong tình hình mới.

Quá trình xây dựng Luật Phòng, chống tham nhũng đã quán triệt các quan điểm và nguyên tắc sau:

- Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; về đổi mới tổ chức bộ máy, cải cách nền hành chính nhà nước; về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới;

- Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, bổ sung các quy định mới nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong thể chế và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay;

- Chống tham nhũng phải coi phòng ngừa, ngăn chặn là giải pháp căn bản, lâu dài; kết hợp giữa phòng và chống, vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng; đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng đồng thời khuyến khích sự chủ động, tích cực của cán bộ, công chức cũng như của xã hội trong phòng ngừa, phát hiện, báo cáo, tố cáo hành vi tham nhũng, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng;

- Đề cao tính khả thi, có bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, với tinh thần Công ước Liên Hợp quốc về chống tham

3 Phòng chống tham nhũng số 55/2005/QH11 của Quốc hội có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 01/2007/QH12 ngày 04 tháng 8 năm 2007 sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng, có hiệu lực từ ngày 17 tháng 8 năm 2007 và Luật số 27/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng , có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 2 năm 2013.

343

nhũng và các cam kết quốc tế khác mà Việt Nam đã gia nhập hoặc ký kết; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về phòng, chống tham nhũng.

Sau đây là những nội dung cơ bản của Luật Phòng, chống tham nhũng

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1. Về phạm vi điều chỉnh và định nghĩa về hành vi tham nhũng

Về cơ bản, các hành vi tham nhũng đều được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức thuộc khu vực Nhà nước. Chính vì những lý do đó, để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả thì cần tập trung vào khu vực nhà nước; làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng trong khu vực nhà nước có ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và sẽ có tác động tích cực, cơ bản đối với khu vực ngoài Nhà nước. Điều 1 của Luật quy định:

- Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.

Như vậy có thể thấy tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau:

- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn.

- Chủ thể tham nhũng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao.

- Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi

Cũng tại Điều này Luật quy định “Người có chức vụ, quyền hạn” bao gồm:

- Cán bộ, công chức, viên chức;

- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;

- Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.

Điều cần lưu ý ở đây là người có chức vụ, quyền hạn, chủ thể của hành vi tham nhũng không chỉ là những người có chức danh lãnh đạo, quản lý mà có thể là một nhân viên bình thường nhưng có quyền hạn nhất định khi thực hiện nhiệm vụ,

344

công vụ được giao.

2. Về thuật ngữ khái niệm

Trong Luật có phần giải thích một số từ ngữ nhằm thống nhất nhận thức và làm cơ sở cho việc tìm hiểu, áp dụng đúng tinh thần và nội dung của các quy định sau này:

“Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”. Như vậy, có thể hiểu tài sản tham nhũng là những tài sản mà người tham nhũng có được thông qua việc thực hiện các hành vi tham nhũng một cách trực tiếp (chẳng hạn, đó là một khoản tiền có được do hành vi tham ô hay nhận hối lộ) hoặc gián tiếp (chẳng hạn, một ngôi nhà, một chiếc xe ô tô được mua bằng tiền nhận hối lộ…).

“Công khai là việc cơ quan, tổ chức đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn bản, hoạt động hoặc một nội dung nhất định”. Có hai vấn đề cần lưu ý trong thuật ngữ này. Một là, công khai có thể bằng các hình thức luật định; Hai là, thông tin được công khai phải là thông tin chính thức của cơ quan, tổ chức đơn vị công bố hoặc cung cấp.

“Minh bạch tài sản, thu nhập là việc kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai và khi cần thiết được xác minh, kết luận”. Trước kia, chúng ta chỉ quy định việc kê khai tài sản, còn với tinh thần mới của đạo Luật này thì ngoài việc kê khai tài sản còn có quy định việc xác minh, kết luận việc kê khai đó trong trường hợp cần thiết. Như vậy, mục đích của việc kê khai chủ yếu là để “minh bạch” hoá tài sản của cán bộ, công chức, tức là bảo đảm tính chất rõ ràng, rành mạch, tính chất “trong sáng” của người cán bộ, công chức trước Nhà nước và khi xã hội đòi hỏi.

“Nhũng nhiêu là hành vi cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ”.

“Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng”. Trước kia, khái niệm vụ lợi chỉ dừng lại ở những lợi ích vật chất cụ thể. Trên thực tế hành vi tham nhũng hiện nay diễn ra rất tinh vi với những lợi ích rất đa dạng mà người tham nhũng hướng tới, thậm chí trong một số trường hợp khó xác định lợi ích đó là vật chất hay tinh thần. Vì vậy, việc Luật Phòng, chống tham nhũng đưa ra khái niệm vụ lợi là điều rất cần thiết.

345

“Cơ quan, tổ chức, đơn vị bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước”. Luật Phòng, chống tham nhũng chủ yếu hướng vào việc phòng, chống tham nhũng trong khu vực Nhà nước cho nên những quy định của đạo Luật này chủ yếu áp dụng cho các cơ quan, tổ chức đơn vị trong khu vực Nhà nước. Vì vậy, Luật nêu ra khái niệm này để xác định phạm vi đối tượng áp dụng cho rõ ràng hơn, cụ thể hơn với dấu hiệu chủ yếu là các cơ quan, tổ chức đơn vị này có sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước.

3. Về các hành vi tham nhũng

Điều 3 của Luật quy định các hành vi tham nhũng bao gồm:

- Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.

Như vậy, so với những hành vi tham nhũng quy định trong Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội danh tham nhũng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (7 hành vi đầu) thì có thêm những hành vi mới. Đây là những hành vi mới xuất hiện trong thời gian gần đây cần được luật định để có cơ sở xử lý với các vi phạm này.

Về hành vi “Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin-cho” trong nhiều lĩnh vực nên nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách chạy chọt, thực chất là đưa hối lộ cho người có chức vụ quyền hạn phê duyệt chương trình, dự án, kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan tổ chức, đơn vị địa phương mình và thông qua đó để thực hiện lợi ích của cá nhân mình. Hành vi này cũng phải được coi là hành vi tham nhũng và cần phải được xử lý

346

nghiêm khắc. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ từ trước đến nay vẫn bị nghiêm cấm và là một tội hình sự. Tuy nhiên, không thuộc nhóm tội tham nhũng. Chỉ có đưa hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ quyền hạn mới thuộc nhóm hành vi tham nhũng mà thôi.

Hành vi “Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi” đã được cụ thể hoá tại Nghị định số 120/2006 NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2006 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng (từ đây xin được gọi tắt là Nghị định số 120) với những biểu hiện cụ thể như sau:

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được nhận cơ chế, chính sách có lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được ưu tiên trong việc cấp ngân sách cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được giao, phê duyệt dự án cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được nhận danh hiệu thi đua, danh hiệu vinh dự nhà nước đối với tập thể và cá nhân cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được cấp, duyệt các chỉ tiêu về tổ chức, biên chế nhà nước cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để không bị kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán hoặc để làm sai lệch kết quả kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán nhằm che dấu hành vi vi phạm pháp luật;

- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để được nhận các lợi ích khác cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương.

Về hành vi “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.” Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của Nhà nước đã không sử dụng tài sản đó phục vụ cho các mục đích vì lợi ích công mà lại phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê, mượn tài sản như nhà xưởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác để lấy tiền chia nhau hoặc động cơ vụ lợi khác, nhiều khi là một số lượng rất lớn và tình trạng này có ở hầu hết các cấp từ Trung ương đến địa phương

347

cần phải ngăn chặn kịp thời. Hành vi này đã được cụ thể hoá tại Nghị định số 120 bao gồm:

- Sử dụng tài sản của Nhà nước vào việc riêng;

- Cho thuê tài sản của Nhà nước, cho mượn tài sản của Nhà nước;

- Sử dụng tài sản của Nhà nước vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn.

Về hành vi “Nhũng nhiêu vì vụ lợi”: hành vi này rất phổ biến trong hoạt động của cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc đưa hối lộ được che đậy dưới hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Nghị định số 120 đã qui định cụ thể về hành vi này như sau: Hành vi nhũng nhiễu vì vụ lợi là hành vi cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhằm đòi hỏi, ép buộc công dân, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân khác phải nộp những khoản chi phí ngoài quy định hoặc phải thực hiện hành vi khác vì lợi ích của người thực hiện hành vi nhũng nhiễu.

Về hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” được Nghị định số 120 mô tả là “là hành vi cố ý không thực hiện trách nhiệm mà pháp luật quy định cho mình trong việc ngăn chặn, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật hoặc không thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thời hạn nhiệm vụ, công vụ của mình vì vụ lợi.”

Về hành vi “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi": Việc bao che cho người tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng nhiều khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau như thư tay, điện thoại, nhắc nhở hoặc lẩn tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hay thái độ và việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền… Hành vi này đã được mô tả cụ thể trong Nghị định số 120 bao gồm:

- Sử dụng chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng của mình để che giấu hoặc giúp giảm nhẹ hành vi vi phạm pháp luật của người khác;

- Sử dụng chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng của mình để gây khó khăn cho việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc làm sai lệch kết quả các hoạt động trên.

348

II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG

1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng. Công khai minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Một mặt Luật đưa ra các nguyên tắc cũng như thể chế hoá để bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc này, mặt khác, quy định vấn đề công khai, minh bạch trong một số lĩnh vực hoạt động cụ thể, những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng.

a) Quy định về nguyên tắc, nội dung và cơ chế bảo đảm thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị

Tại Điều 11 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:

- Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được tiến hành công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ".

Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa vấn đề công khai minh bạch trở thành một nguyên tắc chung cho hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức đơn vị, chỉ trừ những nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước. Như vậy, các cơ quan, tổ chức đơn vị chỉ có thể không công khai những nội dung có trong danh mục bí mật mà nhà nước đã phê duyệt, không được lấy lý do nào khác để từ chối việc công khai hoạt động của mình nhằm tránh sự kiểm soát của người dân và xã hội.

Ngoài việc đưa ra nguyên tắc chung như đã phân tích ở trên, một vấn đề hết sức đáng lưu ý là Luật Phòng, chống tham nhũng đã “cơ chế hoá” vấn đề công khai minh bạch, tức là đã có những quy định cụ thể để nguyên tắc này được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đó là việc quy định hình thức công khai và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân và tổ chức.

Luật quy định các hình thức công khai bắt buộc mà người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải lựa chọn khi pháp luật không quy định cụ thể hình thức công khai. Các hình thức công khai bắt buộc bao gồm: niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và đưa lên trang thông tin điện tử. Ngoài các hình thức công khai bắt buộc,

349

Luật cũng quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể lựa chọn thêm hình thức công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân (được quy định tại điểm a hoặc điểm g khoản 1 Điều 12 Luật Phòng, chống tham nhũng). Quy định về hình thức công khai bắt buộc nhằm bảo đảm việc công khai được thực hiện, hạn chế tình trạng thực hiện công khai một cách hình thức

Để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch được thực hiện, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin bao gồm hai loại: quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân (Khoản 1 Điều 31): Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của pháp luật.

Kèm theo việc yêu cầu cung cấp thông tin, khoản 2 Điều 31 Luật Phòng, chống tham nhũng năm đã ấn định thời hạn trả lời để tránh tình trạng cơ quan, tổ chức khi nhận được yêu cầu, tìm cách lẩn tránh trách nhiệm cung cấp thông tin của mình..

Về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân, Điều 32 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:

- Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.

- Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó.

- Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin; trường hợp chưa cung cấp hoặc nội dung đươc yêu cầu đã được công khai thì phải trả lời cho người yêu cầu biết.

b) Quy định về công khai minh bạch trong một số lĩnh vực cụ thể

Ngoài việc nêu nguyên tắc và cơ chế bảo đảm công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị nói chung, Luật Phòng, chống tham nhũng đã có những quy định cụ thể về vấn đề này trong một số lĩnh vực mà thực tế cho thấy

350

có xảy ra nhiều tham nhũng, gây thất thoát nhiều đến tiền, tài sản của Nhà nước cũng như có nhiều sự phiền hà sách nhiễu.

- Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản;

- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng;

- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước;

-. Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân;

- Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ;

- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;

- Kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường;

- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở;

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực y tế;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực khoa học - công nghệ;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực văn hóa, thông tin và truyền thông;

- Công khai minh bạch trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn;

- Công khai minh bạch trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội;

- Công khai minh bạch trong việc thực hiện chính sách dân tộc;

- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước

- Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân:

- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp:

351

- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ:

Ngoài ra Luật cũng quy định hằng năm, Chính phủ có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về công tác phòng, chống tham nhũng ở địa phương và Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng phải được công khai.

2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn

Việc thực hiện một cách tuỳ tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ dẫn đến việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc hoặc những lợi ích vật chất bằng cách này, cách khác rơi vào một số người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất chính của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người có quan hệ thân quen với người có chức vụ quyền hạn và đó chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn.

Thông thường có hai loại tiêu chuẩn, chế độ định mức bị vi phạm liên quan đến tham nhũng:

- Một là, các chế độ, định mức tiêu chuẩn về lợi ích, nhất là các chế độ đối với người có chức vụ lãnh đạo, quản lý: Chẳng hạn, chế độ phục vụ, chế độ dùng xe công, tiêu chuẩn dùng điện thoại....Vi phạm trong việc thực hiện chế độ, định mức tiêu chuẩn này thường có hai dạng như sau:

+ Được hưởng hay sử dụng kinh phí hoặc loại tài sản vượt mức mà Nhà nước quy định;

+ Người không thuộc diện được hưởng nhưng đã được hưởng, tức là tự ý mở rộng đối tượng được hưởng một tiêu chuẩn thuộc về lợi ích vật chất nào đó.

- Hai là, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn có tính chất chuyên môn kỹ thuật: Đó là những quy định để bảo đảm chất lượng các công trình hoặc công việc nào đó, v.v., với những yêu cầu chính xác cao về kỹ thuật, về quy trình thực hiện, về thời gian, về nguyên vật liệu... Việc tự ý thay đổi, hạ thấp tiêu chuẩn này sẽ dẫn đến việc một số người được hưởng lợi, thực chất là tham nhũng, biểu hiện điển hình của loại vi phạm này chính là hiện tượng "rút ruột" công trình xây dựng, hạ thấp chi phí thực tế thông qua việc hạ thấp tiêu chuẩn kỹ thuật để chia nhau hưởng lợi. Đây là hành vi hết sức nguy hiểm bởi vì không những Nhà nước bị thiệt hại về tài sản mà hậu quả có thể gây ra là hết sức nghiêm trọng, việc khắc phục là rất khó khăn, tốn. Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa ra các quy định nhằm

352

bảo đảm cho việc ban hành, chấp hành quy định từ việc xây dựng, thực hiện cũng như chế độ, trách nhiệm trong trường hợp để xảy ra vi phạm.

Nội dung của việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn được quy định như sau:

- Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

+ Xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn;

+ Công khai các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn về quyền lợi đối với từng loại chức danh trong cơ quan mình;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ, định mức tiêu chuẩn;

- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách nhà nước căn cứ vào quy chung mà hướng dẫn áp dụng hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.

Như vậy, có thể hiểu quy định này được áp dụng cho mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. Điều 35 của Luật quy định về trách nhiệm kiểm tra và việc xử lý vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn, nhất là việc xác định trách nhiệm của những người có liên quan đến việc để xảy ra các sai phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn:

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và xử lý kịp thời hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn.

- Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng vượt quá; người sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt quá.

- Người cho phép thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn mức quy định phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng thấp hơn; người hưởng lợi từ việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn chuyên môn - kỹ thuật thấp hơn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được hưởng lợi.

353

Như vậy, về trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm chế độ định mức, tiêu chuẩn: Cần phân biệt có hai loại trách nhiệm, một là trách nhiệm chung của người đã có hành vi vi phạm quy định bị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, là trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại đã gây ra do việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn đối với loại này thì có sự phân biệt trách nhiệm giữa người quyết định làm sai quy định và người được hưởng lợi từ việc thực hiện quy định sai trái đó theo nguyên tắc: người quyết định việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn thì chịu trách nhiệm chính trong việc bồi thường, còn người được hưởng lợi từ việc thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn thì có trách nhiệm liên đới bồi thường

3. Quy tắc ứng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức

a) Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức

Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức là những điều thuộc về nghĩa vụ của cán bộ, công chức và những quy tắc khác nữa mà người cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ và ngay cả trong cuộc sống hàng ngày. Nó vừa biểu hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức, viên chức với nhà nước, vừa thể hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức, viên chức với xã hội.

Luật quy định: Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.

Trong Luật Phòng, chống tham nhũng, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức bao gồm những nội dung sau đây:

b) Những điều cán bộ, công chức, viên chức không được làm (thường gọi là những điều cấm

Đây là nội dung mà chúng ta đã có quy định trong Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Những điều cấm tập trung vào việc ngăn ngừa các hành vi có thể dẫn đến tham nhũng trong quá trình thi hành chức trách nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Quy định về vấn đề này có tính kế thừa các qui định của Pháp lệnh năm 1998 đồng thời có bổ sung những nội dung cần thiết để đáp ứng với yêu cầu đấu tranh chống những biểu hiện mới của tệ tham nhũng được quy định cụ thể tại Điều 37 của Luật.

354

c) Nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng xảy ra trong cơ quan, tổ chức, đơn vị

Đây cũng là một quy định mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Thực tế cho thấy có biểu hiện né tránh nể nang, né tránh, không có phản ứng trước những biểu hiện tiêu cực tham nhũng. Để khắc phục điều này luật quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng

Luật cũng quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức biết được hành vi tham nhũng mà không báo cáo và người nhận được báo cáo về hành vi, dấu hiệu tham nhũng mà không xử lý thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

d) Quy định về tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức

Việc tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục tập quán bình thường nhưng nhiều khi lại bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ. Đó là vì hối lộ đã được núp dưới hình thức quà tặng tình cảm rất khó phát hiện và quy kết.

Chính vì quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức có rất nhiều nội dung cho nên Luật chỉ đưa ra các quy định có tính nguyên tắc.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị không được sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước làm quà tặng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

- Cán bộ, công chức, viên chức không được nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.

- Nghiêm cấm lợi dụng việc tặng quà, nhận quà tặng để hối lộ hoặc thực hiện các hành vi khác vì vụ lợi

Để thực hiện Điều này, ngày 10 tháng 5 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg Ban hành “Qui chế về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”

Những qui định của pháp luật là những chuẩn mực mà từng người cán bộ, công chức, viên chức phải căn cứ vào đó để điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp khi xảy ra với mình trong hoạt động công vụ để bảo đảm sự liêm chính cũng như văn hoá ứng xử công quyền.

355

e) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp

Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với một số nghề đặc thù, hoạt động có tính chất độc lập như luật sư, kiểm toán viên. Mặc dù đây không phải là những người thuộc đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước nhưng cũng cần có những qui định về chuẩn mực đạo đức trong quá trình hành nghề cho phù hợp hướng tới một nền văn hoá phi tham nhũng trong toàn xã hội cả trong khu vực công và khu vực tư (Điều 42).

f) Vấn đề chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức

Đây cũng là một biện pháp mới trong phòng, chống tham nhũng được nhiều nước áp dụng có hiệu quả. Khoản 1 Điều 43 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: Cơ quan, tổ chức, đơn vị, theo thẩm quyền quản lý có trách nhiệm thực hiện việc định kỳ chuyển đổi cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại một số vị trí liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan tổ chức, đơn vị, cá nhân nhằm chủ động phòng ngừa tham nhũng.

Không phải mọi vị trí công tác đều cần chuyển đổi mà chỉ có những vị trí công tác có liên quan thường xuyên đến việc quản lý và sử dụng tiền, tài sản của nhà nước hoặc tiếp xúc và trực tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp thì mới cần chuyển đổi, Luật giao cho Chính phủ xác định các vị trí công tác cần chuyển đổi. Thực hiện điều này Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2007 về việc quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và hiện nay đang được các cấp, các ngành triển khai thực hiện khẩn trương và nghiêm túc.

4. Vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Kiểm soát tài sản thu nhập của cán bộ, công chức luôn là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa tham nhũng. Pháp lệnh năm 1998 đã có quy định về kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Thực tế từ đó đến nay, việc kê khai vẫn được tiến hành nhưng còn mang tính hình thức, ít có tác dụng. Luật Phòng, chống tham nhũng có nhiều điểm mới so với quy định cũ

a) Về đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai

Theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng thì không phải mọi cán bộ, công chức viên chức phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, mà Luật quy định người giữ

356

có chức vụ từ Phó trưởng phòng của cấp huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tương đương đứng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cán bộ, công chức làm tại một số vị trí nhất định (sẽ do Chính phủ quy định) có nghĩa vụ kê khai tài sản. Cụ thể, những người sau đây phải kê khai tài sản:

- Cán bộ từ Phó trưởng phòng của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn; người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;

- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (Điểu 14 Luật)

Ngày 03 tháng 7 năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập theo quy định nói trên.

b) Về nghĩa vụ của người kê khai tài sản

Người kê khai tài sản có nghĩa vu sau đây:

- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở hữu của mình và tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.

- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai trung thực và chịu trách nhiệm về việc kê khai.

Người có nghĩa vụ kê khai phải ghi rõ những thay đổi về tài sản so với lần kê khai trước.

c) Về tài sản phải kê khai

So với quy định trước kia thì vấn đề này được quy định đầy đủ hơn, bao gồm:

- Nhà, quyền sử dụng đất;

- Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên;

- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;

- Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.

Thủ tục kê khai tài sản được thực hiện tương tự như trước kia: Việc kê khai tài sản được thực hiện hàng năm tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ

357

kê khai làm việc và được hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12.

Bản kê khai tài sản được nộp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản.

d) Về công khai bản kê khai tài sản thu nhập

Luật quy định Bản kê khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.

Người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức quyết định việc công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm yết bản kê khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Thời điểm công khai được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 3 hằng năm. Trường hợp công khai bằng hình thức niêm yết thì phải bảo đảm thời gian tối thiểu là ba mươi ngày liên tục;

Bản kê khai tài sản của người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải được công khai tại hội nghị cử tri nơi công tác của người đó. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Hội đồng bầu cử;

Bản kê khai tài sản của người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân.

e) Về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm

Điều 46b của Luật quy định: Người kê khai tài sản có nghĩa vụ giải trình nguồn gốc phần tài sản tăng thêm. Quy định nỳa nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu tại Điều 20 của Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn, theo đó trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước minh, mỗi quốc gia thành viên sẽ xem xét áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất chính, nghĩa là vệc tài sản của công chức tăng lên một cách đáng kể so với thu nhập hợp pháp mà không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy

Luật cũng giao cho Chính phủ quy định mức giá trị tài sản tăng thêm và việc xác định giá trị tài sản tăng thêm, thẩm quyền yêu cầu giải trình, trách nhiệm của người giải trình, trình tự, thủ tục của việc giải trình.

358

f) Về xác minh tài sản thu nhập

Mục đích của việc xác minh tài sản là để đánh giá về tính trung thực của việc kê khai, góp phần đánh giá cán bộ, công chức hoặc người tham gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực để bảo đảm bộ máy nhà nước có một đội ngũ cán bộ trung thực, liêm chính, không tham nhũng. Tuy nhiên, quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân cần được tôn trọng và bảo vệ cũng như phải giữ bí mật cho người kê khai tài sản. Chính vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định căn cứ xác minh tài sản bao gồm

f1) Khi có tố cáo về việc không trung thực trong kê khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai;

f2) Khi xét thấy cần có thêm thông tin phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản;

f3) Khi có căn cứ cho rằng việc giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm không hợp lý;

f4) Khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quy định tại Điều 47a của Luật (2.4.7)

Khi có một trong những căn cứ nói trên thì người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ kê khai tài sản ra quyết định xác minh tài sản.

g) Về thẩm quyền yêu cầu xác minh tài sản

Khi có một trong các căn cứ nói trên, các cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây có quyền yêu cầu người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức ra quyết định xác minh tài sản:

g1. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người dự kiến được Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;

g2. Cơ quan thường vụ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người dự kiến được bầu tại đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

g3. Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người dự kiến được Hội đồng nhân dân bầu;

359

g4. Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân;

g5. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người dự kiến được bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

g6. Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu xác minh tài sản đối với người dự kiến được bổ nhiệm Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước.

Ngoài ra Luật cũng quy định Cơ quan thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền yêu cầu xác minh tài sản nếu trong quá trình tiến hành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát có kết luận về trách nhiệm của người có nghĩa vụ kê khai tài sản liên quan đến hành vi tham nhũng.

Đồng thời Luật cũng bổ sung quy định về việc giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục xác minh tài sản vào khoản 6 Điều 48 nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc yêu cầu, tiếp nhận yêu cầu và tiến hành xác minh tài sản được thuận lợi.

h) Việc xử lý người kê khai tài sản không trung thực

Luật Phòng, chống tham nhũng năm quy định thái độ xử lý rất nghiêm khắc và kiên quyết đối với người kê khai tài sản không trung thực. Cụ thể, Điều 52 quy định:

- Người kê khai tài sản không trung thực bị xử lý kỷ luật theo qui định của pháp luật. Quyết định kỷ luật đối với người kê khai tài sản không trung thực phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc;

- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài sản không trung thực thì bị xoá tên khỏi danh sách những người ứng cử; người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn mà kê khai tài sản không trung thực thì không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến;

Như vậy Luật đã đưa ra chế tài xử lý nghiêm khắc đối với người kê khai tài sản không trung thực, rõ ràng:

- Nêu là người có chức vụ quyền hạn làm việc trong cơ quan, tổ chức thì bị kỷ luật;

360

- Nếu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì bị xoá tên, coi như không đủ tư cách và điều kiện ứng cử;

- Nếu được dự kiến bổ nhiệm hoặc phê chuẩn vào chức vụ nào đó thì không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ đó nữa.

5. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng

a) Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho qua trình xác minh, xử lý vụ việc tham nhũng Luật đã bổ sung thêm trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Có thể xảy ra hai trường hợp

Một là, khi có căn cứ cho rằng cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến tham nhũng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức tạm đình chỉ công tác hoặc tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức để xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng nếu xét thấy người đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý.

Hai là, Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức phải xem xét việc tạm đình chỉ công tác hoặc tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với cán bộ, công chức, viên chức khi nhận được yêu cầu của cơ quan thanh tra, kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nếu trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát phát hiện có căn cứ cho rằng người đó có hành vi tham nhũng để xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng.

Đồng thời để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người không vi phạm, Luật cũng quy định rõ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức phải hủy bỏ quyết định và thông báo công khai với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức về việc hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác hoặc tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác và khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ,

361

công chức, viên chức sau khi cơ quan có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.

Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, thời hạn tạm đình chỉ, chuyển vị trí công tác khác; việc hưởng lương, phụ cấp, quyền, lợi ích khác và việc bồi thường, khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.

b) Về trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình phụ trách

Luật Phòng, chống tham nhũng đã khẳng định nguyên tắc: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

Trên cơ sở nguyên tắc chung như trên, Luật cũng quy định tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định mức độ trách nhiệm khác nhau của người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, có trường hợp họ phải chịu trách nhiệm trực tiếp, có trường hợp thì liên đới chịu trách nhiệm:

“Người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng của người do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ”.

Trong nhiều cơ quan, tổ chức đều có sự phân công trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành giữa người đứng đầu và các cấp phó của họ trong đó có thể cấp phó được giao phụ trách từng mảng công việc hay lĩnh vực công tác nhất định hoặc trực tiếp phụ trách một hoặc một số đơn vị trong cơ quan tổ chức đó. Trong trường hợp như vậy, người được phân công phụ trách phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mà họ phụ trách, còn người đứng đầu thì vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới. Khoản 2 Điều 54 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trường hợp này như sau: “Cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do mình trực tiếp phụ trách.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do cấp phó của mình trực tiếp phụ trách”.

Trong một đơn vị thì trong mọi trường hợp “người đứng đầu đơn vị trực

362

thuộc cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý”. (Khoản 3 Điều 54 Luật Phòng, chống tham nhũng ).

Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định việc loại trừ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong những trường hợp bất khả kháng, những hành vi tham nhũng vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của người lãnh đạo quản lý. “Trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị… được loại trừ trong trường hợp họ không thể biết được hoặc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng”. (Khoản 5 Điều 54).

Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu và cá nhân khác có trách nhiệm trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước về việc để xảy ra hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của Luật này và điều lệ, quy chế của tổ chức đó (Khoản 4 Điều 54).

Để tạo điều kiện cho việc xử lý người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng, Luật quy định trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước khi phát hiện và xử lý những vụ việc tham nhũng như sau:

Trong kết luận thanh tra, kết luận kiểm toán, kết luận điều tra vụ việc, vụ án tham nhũng phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:

- Yếu kém về năng lực quản lý;

- Thiếu trách nhiệm trong quản lý;

- Bao che cho người có hành vi tham nhũng.

Cụ thể những qui định trên của Luật Phòng, chống tham nhũng, ngày 22 tháng 9 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2006/NĐ-CP quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình phụ trách.

6. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng

Cải cách hành chính bao gồm rất nhiều nội dung phong phú và toàn diện. Luật Phòng, chống tham nhũng chỉ đề cập đến một số khâu quan trọng cần lưu ý trong quá trình tiến hành cải cách hành chính để góp phần phòng ngừa tham nhũng như sau:

363

Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; công khai, đơn giản hoá và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể trách nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. (Điều 56).

Luật quy định có tính chất định hướng cho các cơ quan nhà nước trong việc áp dụng khoa học, công nghệ trong quản lý nhằm giảm bớt các cơ hội và nguy cơ xảy ra tham nhũng, nhất là việc giảm đến mức tối đa việc tiếp xúc trực tiếp giữa người quản lý và người bị quản lý trong những trường hợp không cần thiết.

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên cải tiến công tác, tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động của mình, tạo thuận lợi để công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình

- Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên chức (Điều 57).

Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng nữa mà Luật Phòng, chống tham nhũng có quy định đó là vấn đề đổi mới phương thức thanh toán. Hiện nay, các giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt cho nên rất khó kiểm soát, ngay cả các khoản thu nhập của cán bộ, công chức từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, cùng với việc áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, cần phải đổi mới phương thức thanh toán để kiểm soát chặt chẽ hơn các giao dịch, nhất là những khoản chi có sử dụng ngân sách nhà nước và các khoản chi liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức để bảo đảm sự minh bạch trong các nguồn thu nhập của họ. Cụ thể là:

- Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua tài khoản tại ngân hàng, Kho bạc nhà nước. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thực hiện các quy định về thanh toán bằng chuyển khoản.

- Chính phủ áp dụng các giải pháp tài chính, công nghệ tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với người có chức vụ, quyền hạn... và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách nhà nước phải thông qua tài khoản (Điều 58).

Cho đến hiện nay việc trả lương qua tài khoản cho cán bộ công chức, viên chức đã được thực hiện từng bước theo Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

364

III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HIỆN THAM NHŨNG

Phát hiện tham nhũng là việc tìm ra những vụ việc tham nhũng và có những biện pháp kịp thời để hạn chế những thiệt hại xảy ra, đồng thời xác định mức độ trách nhiệm của những người có hành vi vi phạm để có hình thức xử lý thích đáng và nghiêm minh. Cũng như trong công tác phòng, chống tham nhũng nói chung thì việc phát hiện tham nhũng đòi hỏi sự nỗ lực của mọi cơ quan tổ chức đặc biệt là các cơ quan có chức năng thanh tra, điều tra, giám sát, kiểm sát cũng như sự tham gia tích cực của công dân. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định việc phát hiện tham nhũng thông qua ba hoạt động chủ yếu:

- Công tác kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước;

- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán;

- Tố cáo của công dân.

1. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước

Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động quản lý. Các hành vi tham nhũng có thể diễn ra trong mọi lĩnh vực quản lý. Vì vậy, công tác kiểm tra của các cơ quan quản lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện các vụ việc tham nhũng. Vì vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc thường xuyên tiến hành kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức cá nhân thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của cơ quan mình. Tuỳ từng vụ việc cụ thể, căn cứ vào tính chất và mức độ của nó mà có thể xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho các cơ quan chức năng xử lý. Tại Điều 59 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước như sau:

- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng.

- Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho cơ quan thanh tra, điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.

Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tự kiểm tra nội bộ cơ quan, tổ

365

chức, đơn vị mình, kiểm tra việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý để phát hiện tham nhũng. (Điều 60)

2. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát

Đây là những hoạt động chủ yếu trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra điều tra, kiểm toán, xét xử và giám sát có chức năng bảo vệ pháp luật và kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trong đó có tham nhũng. Đây là lực lượng chính trong cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật.

Chính vì vậy, các hoạt động này được quy định rất chặt chẽ đầy đủ trong các văn bản pháp luật cao nhất của nhà nước. Pháp luật một mặt trao cho các cơ quan này quyền hạn rất lớn để có thể đấu tranh với những vi phạm pháp luật, mặt khác cũng quy định chặt chẽ để hoạt động của các cơ quan này phải tuân thủ pháp luật để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong khi đánh giá kết luận những vụ việc và người có hành vi vi phạm để tránh oan sai vốn đang là mối lo lắng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Có rất nhiều văn bản quy định đầy đủ cho các hoạt động này, chẳng hạn như, Luật khiếu nại, Luật Tố cáo, Bộ luật hình sự, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, Bộ Luật tố tụng hình sự năm, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước năm…

Luật quy định: Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. (Điều 62 của Luật).

Việc phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát cũng được đề cập đến trong Luật: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thông qua hoạt động giám sát có trách nhiệm phát hiện hành vi tham nhũng, yêu cầu hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật. (Điều 63 của Luật).

3. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng

Tố cáo và trình tự, thủ tục giải quyết cũng như trách nhiệm giải quyết tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật nói chung đã được quy định trong Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng với những nội dung sau:

366

Trước hết Luật quy định quyền của công dân trong việc tố cáo hành vi tham nhũng đồng thời cũng xác định trách nhiệm của công dân khi thực hiện quyền tố cáo.

Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và những người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân đối với hành vi tham nhũng. Đặc biệt Luật nhấn mạnh trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo khỏi sự đe doạ trả thù, trù dập. Đây là vấn đề rất quan trọng vì trong nhiều trường hợp, người bị tố cáo là những người có chức vụ quyền hạn, thậm chí giữ chức vụ, quyền hạn rất cao nên họ có nhiều cách để trả thù người tố cáo hoặc trù dập, bưng bít sự việc mà người tố cáo phát hiện cho nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phải có những cơ chế hữu hiệu để bảo vệ cho người tố cáo. Có như vậy, công dân mới vững tin và tích cực phát hiện các hành vi tham nhũng để cơ quan nhà nước kịp thời xử lý.

Những tố cáo về hành vi tham nhũng mà người tố cáo mạo tên, nội dung tố cáo không rõ ràng, thiếu căn cứ, những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới thì không được xem xét, giải quyết.

Tuy nhiên để tận dụng có hiệu quả các thông tin tố cáo, kể cả dối với các tố cáo nặc danh, Nghị định cũng đã qui định: Đối với những tố cáo không rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung tố cáo rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo thông tin được cung cấp để phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng (Khoản 4 Điều 42 của Nghị định 120). Đây là điểm mà các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phải hết sức lưu ý khi xử lý các đơn thư tố cáo để tránh bỏ sót nhưng thông tin có giá trị mà người tố cáo vì lo sợ bị trả thù, trù dập mà không dám ghi tên địa chỉ của mình. Quy định này cũng phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng về vấn đề phát huy vai trò và sự tích cực chủ động của xã hộ và công dân trong đấu tranh chống tham nhũng đối với việc xử lý đơn thư tố cáo nặc danh (Khoản 2 Điều 13 của Công ước).

Luật Phòng, chống tham nhũng đưa ra quy định mang tính nguyên tắc về việc khen thưởng cho người tố cáo, những vấn đề cụ thể về điều kiện, mức độ, hình thức khen thưởng như thế nào thì sẽ tiếp tục nghiên cứu và được quy định trong các văn bản sau này trên cơ sở các quy định chung của Nhà nước về vấn đề khen thưởng.

IV. XỬ LÝ HÀNH VI THAM NHŨNG VÀ TÀI SẢN THAM NHŨNG

Xử lý tham nhũng, trong đó có xử lý người có hành vi tham nhũng và xử lý tài sản tham nhũng là vấn đề quan trọng, là khâu cuối cùng trong quá trình đấu

367

tranh với một hành vi hay vụ việc tham nhũng. Xử lý tham nhũng thể hiện rõ nét quan điểm và thái độ của nhà nước cũng như phản ứng của xã hội đối với tham nhũng. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, về cơ bản pháp luật nước ta đã có những quy định khá đầy đủ, chặt chẽ về việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và tham nhũng nói riêng. Chính vì vậy, trong Luật Phòng, chống tham nhũng không nhắc lại những quy định đó mà chỉ bổ sung một số quy định mới thể hiện quan điểm và thái độ đối với đấu tranh chống tham nhũng của nhà nước ta.

1. Xử lý người có hành vi tham nhũng

Đối tượng có thể bị xử lý liên quan đến việc thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng rất đa dạng. Tuy nhiên, đối với cán bộ, công chức, viên chức (là nhóm chủ yếu trong số những người có chức vụ, quyền hạn) thì hình thức xử lý phổ biến đối với họ (nếu chưa đến mức xử lý hình sự) là việc áp dụng các hình thức kỷ luật.

Nếu hành vi vi phạm đến mức độ nguy hiểm cao gây thiệt hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì hoặc là họ bị truy cứu theo phần các Tội phạm về tham nhũng (bao gồm 7 tội danh của Bộ luật hình sự).

Điều đáng lưu ý là Luật đã có những quy định nghiêm khắc hơn, mạnh mẽ hơn khi quy định về hậu quả pháp lý đối với người có hành vi tham nhũng, cụ thể ở hai điểm sau đây:

Người có hành vi tham nhũng thì tuỳ theo tính chất, trong trường hợp bị kết án về hành vi tham nhũng và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị buộc thôi việc; đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 69 của Luật Phòng, chống tham nhũng).

So với quy định hiện hành về kỷ luật cán bộ, công chức thì rõ ràng đã có sự nghiêm khắc hơn. Bởi vì theo quy định cán bộ, công chức phạm tội không thuộc nhóm tội tham nhũng thì chỉ bị đương nhiên buộc thôi việc nếu bị Toà án phạt tù giam, còn nếu bị các hình phạt khác nhẹ hơn (cảnh cáo, cải tạo không giam giữ...) hoặc cũng bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì vẫn có thể không bị buộc thôi việc. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức phạm tội tham nhũng thì dù hình phạt mà Toà án áp dụng như thế nào thì người đó cũng đương nhiên bị buộc thôi việc.

Nếu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị Toà án kết án về tội tham nhũng thì đương nhiên bị mất quyền đại biểu mà không cần phải qua các thủ tục về việc bãi nhiệm, miễn nhiệm. Sau này, các văn bản chế định về đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp với quy định này của Luật Phòng, chống tham nhũng.

368

2. Xử lý tài sản tham nhũng

Tham nhũng về bản chất là một hành vi có tính chất vụ lợi và một trong những hậu quả mà tham nhũng gây ra là tài sản công bị chiếm đoạt. Chính vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của đấu tranh chống tham nhũng là phải bảo vệ được lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của tập thể và cá nhân. Điều 70 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:

- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để, thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng;

- Tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước.

- Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ.

- Việc tịch thu tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng được thực hiện bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Về cơ bản thì những quy định trên cũng đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, có một điểm mới khá quan trọng đó là thái độ của Nhà nước đối với việc xử lý tài sản của người đưa hối lộ được quy định theo hướng khuyến khích người đưa hối lộ khai báo, phát giác hành vi nhận hối lộ. Mặc dù, vấn đề xử lý đối với người có hành vi hối lộ còn khá nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung đều nhất trí rằng cần có quy định theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm cho người đưa hối lộ để khuyến khích họ phát giác các hành vi nhận hối lộ. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người đưa hối lộ có thể được trả một phần hoặc toàn bộ tiền và tài sản đã dùng để hối lộ. Trong khi đó theo quy định tại khoản 3 của Điều 70 Luật Phòng, chống tham nhũng thì người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác đương nhiên được trả lại toàn bộ tài sản đã dùng để hối lộ.

V. TỔ CHỨC, TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TỔ CHỨC TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG

1. Về trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan trong công tác phòng, chống tham nhũng

Trước hết, Luật nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đấu tranh chống tham nhũng quy định tại Điều 72:

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm áp dụng quy định

369

của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để tổ chức phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý.

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên về việc phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý.

Tiếp đó, Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan có vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh chống tham nhũng thông qua việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và lĩnh vực công tác của mình là Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán nhà nước, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao.

Luật quy định Thanh tra Chính phủ với tư cách là một đầu mối trong việc theo dõi thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, một số nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về công tác này. Điều 76 quy định trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm:

- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý.

- Xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng.

Điều 80 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định nội dung phối hợp giữa các cơ quan trong đấu tranh chống tham nhũng như sau:

- Trao đổi thường xuyên thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về công tác phòng, chống tham nhũng;

- Chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý;

- Tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và kiến nghị chính sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng.

Ngoài ra, Luật quy định mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thanh tra và kiểm toán nhà nước với cơ quan điều tra và viện Kiểm sát. Theo quy định của pháp luật thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự cần phải tiến hành theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ theo pháp luật về tố tụng hình sự, trong đó, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là hai cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm và quyền hạn khởi tố, điều tra vụ án và truy tố người có hành vi tham nhũng trước pháp luật. Vì vậy,

370

cần phải quy định mối quan hệ giữa các cơ quan này trong việc phối hợp giải quyết các vụ việc có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng (Điều 81).

2. Việc thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong một số cơ quan

Điều 75 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trong Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng.

Ngày 31 tháng 10 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1424/QĐ-TTG về việc thành lập Cục chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ trong đó qui định:

Thành lập Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ để giúp Tổng Thanh tra quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chống tham nhũng theo thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ.

Bộ trưởng Bộ Công an có quyết định số 01/2007/QĐ-BCA (X13) ngày 02/01/2007 (viết tắt là Quyết định số 01) về việc thành lập Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng (gọi tắt là Cục C48 - BCA).

Tại Điều 1 - Quyết định 01 quy định:

“ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng có trách nhiệm tham mưu giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an chỉ đạo, hướng dẫn lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng trong cả nước tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý các loại tội phạm về tham nhũng; trực tiếp điều tra các vụ án về tham nhũng theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an.”

Viện trương Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định số 121/QĐ-VKSTC-V9 ngày 26/9/2006 thành lập mới Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng (gọi là Vụ 1B).

Tại Điều 1 của Quyết định 121/QĐ-VKSTC-V9 quy định:

“Giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra những vụ án tham nhũng do Cơ quan điều tra tội phạm về tham nhũng của Bộ Công an trực tiếp điều tra…”

371

VI. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

1. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Trước hết, nói về vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được coi là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị trong thiết chế quyền lực của nhà nước ta, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của bộ máy chính quyền nhân dân. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật về mặt trận và các tổ chức thành viên, Điều 85 của Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm sau đây:

- Phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên tuyền, giáo dục nhân dân và các thành viên tổ chức mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; kiến nghị các biện pháp nhằm phát hiện và phòng ngừa tham nhũng;

- Động viên nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng;

- Cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xác minh, xử lý vụ việc tham nhũng;

- Giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá ba mươi ngày.

Như vậy, một mặt, Luật Phòng, chống tham nhũng ghi nhận vai trò hết sức to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong đấu tranh chống tham nhũng, mặt khác Luật cũng đặt ra yêu cầu rất cao về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xem xét, thực hiện các yêu cầu kiến nghị của Mặt trận và các tổ chức thành viên, tạo điều kiện để Mặt trận và các tổ chức thành viên thực hiện tốt quyền giám sát của mình.

372

Ngày 27 tháng 3 năm 2007 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2007/NĐ-CP qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Nghị định qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong viẹc phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác phòng, chống tham nhũng về các mặt hoạt

2. Về vai trò và trách nhiệm của báo chí

Khoản 1 và 2 Điều 86 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định:

- Nhà nước khuyến khích cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin phản ánh về vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng.

- Cơ quan báo chí có trách nhiệm biểu dương tinh thần và những việc làm tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng; lên án, đấu tranh đối với những người có hành vi tham nhũng; tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Có thể thấy, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về vai trò và sự tham gia của báo chí vào đấu tranh chống tham nhũng với những định hướng và quan điểm khá rõ ràng cụ thể. Báo chí một mặt cần lên án, đấu tranh và tạo sự phản ứng mạnh mẽ của công luận đối với những hành vi tham nhũng cũng như những biểu hiện tiêu cực, lối sống xa hoa lãng phí, tệ quan liêu hách dịch cửa quyền của những kẻ thoái hoá biến chất trong bộ máy nhà nước. Nhưng mặt khác, báo chí cũng cần chú trọng đến việc nêu những tấm gương tốt, những người dũng cảm dám đấu tranh với nạn tham nhũng những hành vi ứng xử đúng đắn của cán bộ, công chức và của các thành viên khác trong xã hội để cùng nhau xây dựng một nếp sống lành mạnh, một nền văn hoá phi tham nhũng ngay từ nhận thức và những ứng xử thường nhật trong hoạt động công quyền và ngay cả trong đời sống xã hội.

Đồng thời, Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan báo chí và phóng viên cùng trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ cơ quan báo chí và phóng viên thực hiện được chức năng của mình. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của cơ quan báo chí và phóng viên trong hoạt động nghề nghiệp của mình để bảo đảm đúng mục đích hoạt động của báo chí, để báo chí thực sự là cơ quan của Đảng và là tiếng nói của nhân dân, qua đó phát huy vai trò tích cực của mình như một vũ khí mạnh mẽ và có hiệu quả trong đấu tranh chống tham nhũng. Luật quy định một cách cân bằng quyền nghĩa vụ của cơ quan báo chí trong việc tham gia vào công

373

tác phòng, chống tham nhũng.

Cơ quan báo chí, phóng viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi tham nhũng. Cơ quan tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin tài liệu đó theo quy định của pháp luật; trường hợp không cung cấp thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Đồng thời cơ quan báo chí, phóng viên phải đưa tin trung thực, khách quan. Tổng biên tập, phóng viên chịu trách nhiệm về việc đưa tin và chấp hành pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

3. Về vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề

Thực tế những năm qua, các doanh nghiệp là nạn nhân của tệ tham nhũng cửa quyền sách nhiễu từ những người có chức vụ quyền hạn nhưng cũng không ít doanh nghiệp đã tìm cách móc nối với những kẻ thoái hoá biến chất trong bộ máy nhà nước, tiếp tay cho hành vi tham nhũng để mưu lợi cá nhân. Điều đó làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, làm xấu đi môi trường kinh doanh cũng như tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Chính vì vậy, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng vừa là trách nhiệm vừa là đòi hỏi tất yếu của doanh nghiệp và những người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.

Điều 87 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề như sau:

- Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về hành vi tham nhũng.

- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích hội viên của mình xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng.

- Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và hội viên có trách nhiệm kiến nghị với Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng, chống tham nhũng.

- Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, có cơ chế kiểm soát nội bộ ngăn chặn hành vi tham ô, đưa hối lộ.

374

4. Về trách nhiệm của công dân và Ban thanh tra nhân dân

Công dân có thể tham gia vào công tác phòng chống tham nhũng bằng việc trực tiếp thực hiện quyền tố cáo của mình như đã được giới thiệu trong phần phát hiện tham nhũng hoặc thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, một tổ chức để thực hiện quyền giám sát của nhân dân ở địa phương, cơ sở. Tổ chức hoạt động của Ban thanh tra nhân dân đã được quy định đầy đủ tại Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Điều 88 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm quy định:

- Công dân tự mình, thông qua Ban thanh tra nhân dân hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng.

- Ban thanh tra nhân dân tại xã, phường, thị trấn, trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Nghị định 47 qui định Ban thanh tra nhân dân giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng thông qua các công việc cụ thể như sau:

- Tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, người lao động về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; trực tiếp thu thập các thông tin, tài liệu trong việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước.

- Phát hiện hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước.

- Trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn, Ban chấp hành công đoàn cơ sở kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, hành vi tham nhũng và giám sát việc giải quyết đó.

Để tạo điều kiện cho Ban thanh tra nhân dân phát huy vai trò của mình, pháp luật quy định, trong quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Ban thanh tra nhân dân có quyền hạn như sau:

375

- Đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát.

- Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham những, người có hành vi tham nhũng thì Ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

- Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Ban Thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc kiến nghị cấp trên trực tiếp của Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác xem xét, giải quyết.

Trên thực tế, tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân đã được quy định cụ thể và khá đầy đủ trong Nghị định số 99/2005/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và nhất là những nội dung giám sát trong Pháp lệnh về dân chủ ở cơ sở. Đây là những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình, góp phần phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi tham nhũng trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị./.

376

MỤC LỤCCHUYÊN ĐỀ 1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THANH TRA......................1I. BỒI CẢNH VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG LUẬT THANH TRA................1

1. Bối cảnh và yêu cầu xây dựng Luật Thanh tra..........................................12. Quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật Thanh tra....................................3

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THANH TRA HIỆN HÀNH..................31. Mục đích và nguyên tắc của hoạt động thanh tra.....................................32. Tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước.........73. Tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành........................................................................224. Hoạt động thanh tra...................................................................................275. Quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra............................................45

CHUYÊN ĐỀ 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT KHIẾU NẠI, LUẬT TỐ CÁO........................................................................................................................54

1. Khái quát chung về tình hình thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo......542. Một số vướng mắc, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. .563. Sự cần thiết phải ban hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo......................584. Luật Khiếu nại năm 2011............................................................................605. Luật Tố cáo năm 2011................................................................................636. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại hành chính.........................................657. Những quy định về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại......................688. Về tố cáo và giải quyết tố cáo....................................................................689. Quy định về tiếp công dân.........................................................................6910. Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo...................7011. Về các biện pháp bảo đảm.......................................................................71

CHUYÊN ĐỀ 3. CÔNG TÁC THANH TRA TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC....................................................................................................73I. CÁC KHÁI NIỆM VỀ THANH TRA, KIỂM TRA, GIÁM SÁT.................73

1. Khái niệm thanh tra...................................................................................732. Khái niệm kiểm tra.....................................................................................783. Khái niệm giám sát.....................................................................................814. Mối quan hệ giữa các loại hình thanh tra, kiểm tra, giám sát................86

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ THANH TRA................891. Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh tra..................................................89

377

2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra giai đoạn trước khi thực hiện đường lối đổi mới......................................................903. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới.......................................................................92

III. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC THANH TRA TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC....................................................................................................94

1. Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước.....................942. Thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. .983. Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa........994. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật........................................................100

IV. MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG THANH TRA.....................1031. Mục đích của hoạt động thanh tra......................................................1032. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra.........................................105

CHUYÊN ĐỀ 4. CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC...................................................................109A. NỘI DUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC................................................................................109I. CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC TRONG BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC.........................................................................................................109

1. Vài nét về quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước. 1092. Về tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước................................................................................111

II. NỘI DUNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC...................................................................112

1. Chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định......1122. Tiến hành các cuộc thanh tra thuộc thẩm quyền...............................1203. Tham mưu cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật..............................................................126

B. PHƯƠNG PHÁP CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC................................................................................133I. CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH BẰNG CHƯƠNG TRÌNH KẾ HOẠCH............133II. KIỂM TRA, ĐÔN ĐỐC, HƯỚNG DẪN CẤP DƯỚI.................................134III. THU THẬP, XỬ LÝ THÔNG TIN PHỤC VỤ CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU

HÀNH..............................................................................................................135IV. XỬ LÝ CÁC MỐI QUAN HỆ TRONG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU

HÀNH..............................................................................................................136

378

C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA.................................138

I. NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THANH TRA VÀ QUẢN LÝ........................................139

II. BÁM SÁT NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ, SỰ CHỈ ĐẠO TRỰC TIẾP CỦA THỦ TRƯỞNG CÁC NGÀNH, CÁC CẤP VÀ CHỈ ĐẠO, HƯỚNG DẪN CỦA THANH TRA CẤP TRÊN...................................................................140

III. ĐỔI MỚI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG THANH TRA: PHÒNG NGỪA, NGĂN CHẶN ĐI ĐÔI VỚI PHÁT HIỆN, XỬ LÝ....140

IV. XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC. .141

1. Xác định nội dung chỉ đạo, điều hành.................................................1412. Đổi mới về phương thức chỉ đạo, điều hành.......................................141

V. HOÀN THIỆN BỘ MÁY TỔ CHỨC, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐỦ VỀ SỐ LƯỢNG, MẠNH VỀ CHẤT LƯỢNG.........................................................143

VI. NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN THANH TRA.....................................................................................144

CHUYÊN ĐỀ 5. THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA.......................................................................................................................146I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA..146

1. Khái niệm về quyền trong hoạt động thanh tra.................................1462. Cơ sơ hình thành quyền trong hoạt động thanh tra..........................1483. Phân loại quyền trong hoạt động thanh tra......................................150

II. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA.......................................................................................................................152

1. Bảo đảm đúng thẩm quyền..................................................................1522. Bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực......................................1533. Bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời.................................................1544. Không làm cản trơ đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.....................................................................................................................155

III. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THỰC HIỆN QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA.......................................................................................................156

1. Công tác chuẩn bị..................................................................................1562. Trình tự, thủ tục thực hiện một số quyền của người ra quyết định thanh tra và Trương đoàn thanh tra.......................................................157

IV. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUYỀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA...............................................................................166

1. Về nghiệp vụ..........................................................................................167

379

2. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các quyền thanh tra..1673. Tăng cường phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.....1684. Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về thanh tra.................................1695. Làm tốt công tác khen thương và ky luật...........................................1696. Các biện pháp khác...............................................................................169

CHUYÊN ĐỀ 6. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA...............................................................................................................................171I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CUỘC THANH TRA...............................171II. CÁC LOẠI HÌNH CUỘC THANH TRA....................................................172

1. Phân loại theo tính kế hoạch................................................................1722. Phân loại theo chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra..........1743. Phân theo quy mô và phạm vi tiến hành thanh tra............................175

III. NGUYÊN TẮC TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA.....................1751. Coi trọng công tác chính trị - tư tương...............................................1752. Tuân thủ quy định của pháp luật, trong quá trình thanh tra .......1763. Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thanh tra và kế hoạch thanh tra.....................................................................................................................1774. Bảo đảm tính chính xác, trung thực, khách quan; tính hợp pháp và hợp lý trong nội dung báo cáo kết quả thanh tra...................................178

IV. QUY TRÌNH TIẾN HÀNH MỘT CUỘC THANH TRA.........................1791. Trách nhiệm của người Ban hành quyết định thanh tra...................1792. Quy trình tiến hành thanh tra của Đoàn Thanh tra..........................181

V. CÔNG TÁC SAU THANH TRA...................................................................2011. Tổng kết hoạt động của Đoàn Thanh tra............................................2012. Những công việc của người ra quyết định thanh tra.........................202

CHUYÊN ĐỀ 7. CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA..........203I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA.......................................................................................................203

1. Vị trí, vai trò của Trương đoàn thanh tra..........................................2032. Nhiệm vụ, quyền hạn............................................................................204

II. NỘI DUNG CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA.............2061. Tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động của Đoàn thanh tra................................................................................................................2062. Về xử lý quan hệ giữa Đoàn Thanh tra với đối tượng thanh tra......2313. Về xử lý mối quan hệ với người ra quyết định thanh tra..................2324. Về xử lý mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác........233

380

III. NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA.......................................................................................................234

1. Nguyên tắc công tác của Trương đoàn................................................2342. Phương pháp công tác của Trương đoàn............................................236

IV. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI TRƯỞNG ĐOÀN THANH TRA. .2381. Trình độ hiểu biết chủ trương, chính sách, pháp luật và thực tế xã hội. .2382. Trình độ và khả năng phân tích và tổng hợp để nâng cao chất lượng Kết luận thanh tra.....................................................................................2393. Trương đoàn thanh tra phải chủ động tham mưu với người ra quyết định thanh tra để kết luận cuộc thanh tra và xử lý sau thanh tra........239

CHUYÊN ĐỀ 8. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH....241I. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN, CÁC PHƯƠNG CHÂM CHỦ YẾU TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH.....................................241

1. Các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết khiếu nại hành chính......2412. Phương châm chủ yếu trong giải quyết khiếu nại hành chính.........245

II. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH.................................................................................................................247CHUYÊN ĐỀ 9. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO......................................260I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO................260

1. Về đối tượng của tố cáo........................................................................2602. Về chủ thể của tố cáo............................................................................2613. Về ý nghĩa tầm quan trọng của công tác giải quyết tố cáo................2624. Thẩm quyền giải quyết tố cáo..............................................................262

II. NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO.....................................................266III. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO............................................................269

1. Đặt vấn đề..............................................................................................2692. Các bước giải quyết tố cáo....................................................................271

CHUYÊN ĐỀ 10. VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA..........276I. KHÁI NIỆM VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA...............276II. PHÂN LOẠI VĂN BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA..............279

1. Phân loại dựa trên tính chất pháp lý của văn bản.............................2792. Phân loại văn bản thanh tra dựa trên chức năng nhiệm vụ của các cơ quan Thanh tra..........................................................................................2813. Đặc điểm của văn bản nghiệp vụ thanh tra........................................282

III. CÁC YÊU CẦU CỦA VĂN BẢN NGHIỆP VỤ THANH TRA...............285IV. MỘT SỐ VĂN BẢN NGHIỆP VỤ ĐIỂN HÌNH.......................................291

381

1. Biên bản nghiệp vụ................................................................................2912. Báo cáo nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra....................................2973. Kết luận thanh tra.................................................................................303

CHUYÊN ĐỀ 11. THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO........................................313I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO........................313

1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo....................................................................................................3132. Trách nhiệm của thủ trương cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo........................................................3153. Sự cần thiết phải thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo..............................................................................3154. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo...................................................................3165. Một số tồn tại trong thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.......................................................................317

II. THẨM QUYỀN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC TIẾN HÀNH THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO........................................................................319

1. Thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhà nước trong thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo........3192. Nội dung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyêt khiếu nại, tố cáo.........................................................................................3213. Phương thức tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.................................................................326

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THANH TRA, KIỂM TRA TRÁCH NHIỆM TRONG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO...............................................................................................................................331CHUYÊN ĐỀ 12. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG NĂM 2005...............................................................335I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG...........................................................................336

1. Về phạm vi điều chỉnh và định nghĩa về hành vi tham nhũng..........3362. Về thuật ngữ khái niệm........................................................................3373. Về các hành vi tham nhũng..................................................................338

II. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG................................3411. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.....................................................................................................................341

382

2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn.................3443. Quy tắc ứng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức.......................................................3464. Vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.............3485. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng...............................................................................3536. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng............................................355

III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HIỆN THAM NHŨNG....................................3571. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước.................................................................................................3572. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát..........................................................3583. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng...........................358

IV. XỬ LÝ HÀNH VI THAM NHŨNG VÀ TÀI SẢN THAM NHŨNG.......3591. Xử lý người có hành vi tham nhũng....................................................3602. Xử lý tài sản tham nhũng.....................................................................361

V. TỔ CHỨC, TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TỔ CHỨC TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG...............................361

1. Về trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan trong công tác phòng, chống tham nhũng........................................................................3612. Việc thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong một số cơ quan...........................................................................................363

VI. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA XÃ HỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG...................................................................................364

1. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.............................................3642. Về vai trò và trách nhiệm của báo chí.................................................3653. Về vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. 3664. Về trách nhiệm của công dân và Ban thanh tra nhân dân.......................367

383