chuyen de nang cao hieu qua chuoi cung ung san pham hot 2018, free
TRANSCRIPT
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂNVIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM”.
GVHD : GS.TS Đặng Đình Đào
Sinh viên thực hiện : Ngô Thị Thuỳ Liên.
Mã sinh viên : CQ532085
Lớp : QTKD thương mại 53B
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B1
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC VIẾT TẮT
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B2
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
SCM : Supply Chain Management
RFID : Radio Frequency Identification (Nhận dạng tần số sóng vô
tuyến)
GĐLH : Gặt đập liên hợp.
ĐBSCL : đồng bằng sông Cửu Long.
NNPTNT : nông nghiệp phát triển nông thôn
PHẦN MỞ ĐẦU
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B3
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
1.Lý do và ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO.Điều này mở ra cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam nói
chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng.Việc gia nhập WTO vừa tạo cơ
hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp ở nước ta. Đó là sự cạnh
tranh vô cùng khốc liệt trong thị trường rộng lớn đó, để không bị thất bại và
có cơ hội vươn ra thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải không
ngừng hoàn thiện, cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp.Trước đây hàng hoá không ngừng được sản xuất ra
nhưng chỉ sản xuất những thứ doanh nghiệp có,việc sản xuất đúng nơi, đúng
lúc, đúng nhu cầu không được quan tâm. Bởi vậy gây ra chi phí sản xuất cao,
cung lớn hơn cầu, giá trị sản phẩm không cao, không thoả mãn tối đa nhu cầu
của khách hàng…làm cho hiệu quả kinh doanh thấp.
Việc ra đời của logistic và hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm đã giúp cho
các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách tối ưu. Chính nhờ hoạt động
hậu cần mà giá trị sản phẩm được tăng lên, đồng thời nhờ sự kết hợp chặt chẽ
từ khâu nguyên liệu đầu vào tới khâu tiêu thụ sản phẩm đẩu ra đã giảm thiểu
chi phí sản xuất kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh.Việc các doanh nghiệp xây
dựng cho mình một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh sẽ tạo nền tảng cho doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí không cần thiết, nâng cao giá trị cho sản phẩm, tăng
sức cạnh tranh trên thị trường.
Về ngành nông nghiệp ở nước ta, trong các sản phẩm của ngành nông
nghiệp thì lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống của ta, xuất khẩu gạo chiếm
vị trí quan trọng trong nền Kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng
của đất nước vì kim ngạch xuất khẩu gạo hiện đang đứng đầu trong kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Sản phẩm gạo của nước ta do hàng triệu hộ
nông dân sản xuất ra, là một mặt hàng có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia. Từ chỗ là nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã vươn
lên sản xuất đủ ăn, có thừa để xuất khẩu. Từ đầu thập niên 1990s đến nay,
Việt Nam đã trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Song, vị thế cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn thường
xuyên đứng sau Thái Lan với một khoảng cách khá xa. Mặt khác, gạo cũng là
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B4
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
một trong 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam,
nhưng xét về hiệu quả đóng góp của ngành hàng này cho nền kinh tế thì vẫn
còn nhiều hạn chế. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nhu cầu tiêu
dùng của thị trường thế giới và thị trường trong nước đòi hỏi ngày càng cao
hơn về chất lượng, tiện lợi trong tiêu dùng; sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt .Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống- đây là thế mạnh, nhưng
cũng là điểm yếu nếu ta tưởng rằng đã biết quá rõ về nông nghiệp và không
thấy cần phải thay đổi.Cách cung ứng là cách truyền thống. Việt Nam là nước
nông nghiệp, có hàng nghìn năm phát triển nông nghiệp đã tạo cho chúng ta
nhiều “lối mòn” trong tư duy sản xuất – cung ứng – tiêu thụ sản phẩm. Chính
điều này vô hình trung đang gây thiệt thòi cho cả nông dân và người tiêu
dùng. Xét về vấn đề hình thành chuỗi cung ứng trên thế giới, với một số nước
tiên tiến, do mở rộng theo chiều dọc của chuỗi giá trị nên các đại gia bán lẻ,
siêu thị ngày càng tiến tới gần hơn, tiếp cận được nhiều hơn với việc sản xuất
- chế biến nông sản. Họ từ người bán lẻ trở thành nhà sản xuất toàn cầu, tự
mình đặt hàng, mua hàng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong toàn bộ
chuỗi cung ứng. Các nhà bán lẻ, siêu thị trở thành các “người giữ cửa”, định
đoạt việc tham gia vào các thị trường khu vực và thế giới. Họ thường làm việc
trực tiếp với nông dân, nhà sản xuất nhỏ và chỉ sử dụng một số rất ít nhà cung
ứng cấp một quen thuộc, đáp ứng được các tiêu chuẩn cao và rất chuyên biệt
của họ. Họ luôn nâng cao khả năng kiểm soát đối với sản phẩm (ví dụ chất
lượng), đối với thông tin (ví dụ khả năng theo dõi sản phẩm trong suốt chuỗi
cung ứng). Qua đó, họ áp dụng các mô hình trong công nghiệp hiện đại vào
nông nghiệp như hệ thống sản xuất theo thời gian thực và hệ thống quản lý
chất lượng tổng thể. Tính cạnh tranh thấp, sự đổ vỡ của chuỗi cung ứng nông
sản Việt, thua lỗ của công ty chế biến nông sản và nông dân, sự chiếm lĩnh thị
trường của các đại gia bán lẻ, siêu thị ngoại ở Việt Nam, nông dân bán nông
sản cho thương lái nước ngoài mà không cho nhà chế biến Việt Nam… không
còn là viễn cảnh, mà nó hiển hiện ngay trước mắt chúng ta. Điều này cho thấy
đây không phải lỗi của nhà sản xuất riêng lẻ, người nông dân mà chủ yếu là
lỗi mang tính hệ thống, của quản lý, của nhà hoạch định.
Tuy nhiên, khi thực sự mở cửa thị trường bán lẻ, khi hàng loạt các đại gia
bán lẻ, siêu thị nước ngoài “nhảy vào”, nếu không có chính sách quản lý tốt,
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B5
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
chuỗi cung ứng nông sản cũng khó mà hoạt động một cách minh bạch, công
khai. Và khi đó, nông sản khó mà đến tay người dùng với giá tiệm cận giá
thành sản xuất.
Vấn đề đặt ra là, có phải những bất cập trong cơ chế quản lý đã làm cho
ngành lúa gạo Việt Nam chưa thực sự phát triển hướng vào xuất khẩu một
cách đúng nghĩa? Dưới đây, chúng ta sẽ cùng điểm lại tình hình sản xuất, chế
biến, xuất khẩu gạo để có thể nhận diện rõ những hạn chế đó và tìm ra những
điểm cần hoàn thiện, bổ sung để nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng này
trên thị trường thế giới trong tương lai trên căn bản tham gia tích cực hơn vào
chuỗi cung ứng gạo toàn cầu.
2.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, phụ lục đề án
được trình bày thành 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chuỗi cung ứng sản phẩm.
Chương II: Thực trạng về chuỗi cung ứng gạo ở nước ta hiện nay.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu ở
nước ta hiện nay.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B6
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM
I.Khái quát về chuỗi cung ứng sản phẩm
1.Bản chất chuỗi cung ứng sản phẩm.
1.1.Khái niệm chuỗi cung ứng sản phẩm.
Cạnh tranh một cách thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào
hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh doanh
của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Điều này yêu cầu các doanh
nghiệp khi đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng cần phải quan tâm
sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức thiết kế và đóng
gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận chuyển và bảo quản
sản phẩm hoàn thành và những điều mà người tiêu dùng hoặc khách hàng
cuối cùng thực sự yêu cầu (ví dụ như có nhiều doanh nghiệp có thể không biết
sản phẩm của họ được sử dụng như thế nào trọng việc tạo ra sản phẩm cuối
cùng mà khách hàng sử dụng). Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt ở
thị trường toàn cầu hiện nay, việc giới thiệu sản phẩm mới với chu kỳ sống
ngày càng ngắn hơn, cùng với mức độ kỳ vọng ngày càng cao của khách hàng
đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải đầu tư, và tập trung nhiều vào chuỗi cung
ứng của nó. Điều này, cùng với những tiến bộ liên tục trong công nghệ truyền
thông và vận tải (ví dụ, truyền thông di động, Internet và phân phối hàng qua
đêm), đã thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ
thuật để quản lý nó.
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một
hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc
nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí
và cải tiến mức
phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự
tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng,
cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp, các trung
tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa hàng bán lẻ, cũng
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B7
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành
dịch chuyển giữa các cơ sở.Vậy chuỗi cung ứng là gì?
"Chuỗi cung ứng là một chuỗi hay một tiến trình bắt đầu từ nguyên liệu thô
cho tới khi sản phẩm làm ra hay dịch vụ tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn về phân phối và các phương
tiện để thực hiện thu mua nguyên liệu, biến đổi các nguyên liệu này qua khâu
trung gian để sản xuất ra sản phẩm, phân phối sản phẩm này tới tay người tiêu
dùng" (Introduction to supply Chain Management-Ganeshan&Harrison).
"Chuỗi cung ứng là hệ thống các công cụ để chuyển hoá nguyên liệu thô từ
bán thành phẩm tới thành phẩm, chuyển tới người tiêu dùng thông qua hệ
thống phân phối" (The evolution of Supply Chain Management Model and
Practice-Lee& Billington).
"Chuỗi cung cấp là một mạng lưới gồm các tổ chức có liên quan, thông qua
các mối liên kết phía trên và phía dưới trong các quá trình và hoạt động khác
nhau sản sinh ra giá trị dưới hình thức sản phẩm dịch vụ trong tay người tiêu
dùng cuối cùng" (bài giảng của GS.Souviron về quản trị chuỗi cung cấp).
"Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực
tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng
không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận tải, nhà
kho, nhà bán lẻ và khách hàng của nó. Những chức năng này bao gồm, nhưng
không bị hạn chế, phát triển sản phẩm mới, marketing, sản xuất, phân phối,
tài chính và dịch vụ khách hàng".
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một
hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc
nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí
và cải tiến mức phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem
xét đến sự tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi
cung ứng cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp,
các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối và các cửa hàng bán
lẻ cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm
hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B8
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Cùng với sự phát triển của sản xuất, của công nghệ thông tin, thì dây
chuyền cung ứng này càng phức tạp, vai trò của công nghệ thông tin trong
quản trị dây chuyền cung ứng ngày càng lớn. Tất cả các sản phẩm đến tay
người tiêu dùng thông qua một vài hình thức của chuỗi cung ứng, có một số
thì lớn hơn và một số thì phức tạp hơn rất nhiều. Với ý tưởng chuỗi cung ứng
này, ta dễ dàng nhận thấy rằng chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất
cho toàn chuỗi đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ
trong chuỗi cung ứng ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm đến
các thành viên khác trong chuỗi, điều này sẽ dẫn đến giá bán cho khách hàng
cuối cùng là rất cao, mức phục vụ chuỗi cung ứng thấp và điều này làm cho
nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng trở nên thấp.
Về mặt lý thuyết, chuỗi cung ứng hoạt động như một đơn vị cạnh tranh
riêng biệt và cố hữu, thực hiện những việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các
doanh nghiệp hội nhập dọc cố gắng đạt được và đã thất bại trong việc thực
hiện mục tiêu này. Điểm khác biệt chính là các doanh nghiệp trong chuỗi
cung ứng hoàn toàn tự do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối
quan hệ chuỗi nếu quan hệ này không đem lại lợi ích cho họ; đó chính là tổ
chức thị trường tự do nhằm giúp đỡ chuỗi cung ứng vận hành một cách hiệu
quả hơn khối liên kết dọc.
1.2.Quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm.
Có rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng (Supply Chain
Management-SCM)
Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trịchuỗi cung ứng là việc thiết kế
và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trịcho các tổchức để đáp ứng nhu
cầu thực sựcủa khách hàng cuối cùng. Sựphát triển và tích hợp nguồn lực
con người và công nghệ là then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành
công.
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý
cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp,
kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân
phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B9
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Theo hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị
chuỗi cung ứng là“…sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh
doanh truyền thống và các sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một
công ty cụthểvà giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với mục đích
cải thiện thành tích dài hạn của các công ty đơn lẻ và của cả chuỗi cung
ứng”.
Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên
cứu thì quản trịchuỗi cung ứng như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở
các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào
sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối cùng, và phân
phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối.
Quản trị chuỗi cung ứng là tập hợp những phương thức sử dụng một cách
tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất, hệ thống kho bãi và các
cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa được sản xuất đến đúng địa điểm, đúng
lúc với đúng yêu cầu về chất lượng, với mục đích giảm thiểu chi phí toàn hệ
thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về mức độ phục vụ. Tính nhất
quán thể hiện trong các định nghĩa này đó chính là ý tưởng của sự phối hợp
và hợp nhất số lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các
thành viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất
lượng, và dịch vụ khách hàng nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho
tất cả các tổ chức liên quan đến việc cộng tác này. Vì thế, để quản trị thành
công chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp phải làm việc với nhau bằng cách
chia sẻ thông những thay đổi về công suất; các chiến lược marketing mới; sự
phát triển mới sản phẩm và dịch vụ; sự phát triển công nghệ mới; các kế
hoạch thu mua; ngày giao hàng và bất kỳ điều gì tác động đến các kế hoạch
phân phối, sản xuất và thu mua. Ví dụ, khi một nguyên liệu hoặc sản phẩm cụ
thể có giá tăng trong cung ngắn hạn thì một doanh nghiệp có thể nhận thấy sẽ
có lợi nếu chọn lựa trong số nhà cung ứng một doanh nghiệp thích hợp nhằm
đảm bảo nguồn cung liên tục chi tiết khan hiếm này. Việc cân nhắc này có thể
có lợi cho cả đôi bên - thị trường mới cho nhà cung cấp, điều này dẫn đến cơ
hội kinh doanh sản phẩm mới trong tương lai; và việc cung ứng tiếp tục trong
dài hạn với mức giá ổn định cho người mua. Sau đó, khi đối thủ cạnh tranh
mới bắt đầu sản xuất sảm phẩm khan hiếm hoặc khi nhu cầu sụt giảm, nhà
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B10
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
cung cấp có thể không được các hãng mua đánh giá cao; thay vào đó, doanh
nghiệp có thể nhận thấy sẽ có lợi hơn trong việc thương lượng với người mua
tiềm năng khác và sau đó chấm dứt với người mua ban đầu. Thông qua ví dụ
này, chúng ta có thể nhận thấy rằng chuỗi cung cấp và động và linh hoạt và vì
thế nảy sinh nhiều vấn đề trong việc quản lý chúng một cách hiệu quả.
Trong khi quản trị chuỗi cung cấp có thể cho phép các tổ chức nhận thức
rõ thuận lợi của việc tích hợp dọc trên cơ sở những điều kiện chính yếu cho
việc quản trị hiệu quả việc này. Có lẽ một yếu tố quan trọng nhất đó chính là
sự thay đổi về văn hóa tổ chức của tất cả thành viên tham gia trong chuỗi
cung ứng làm cho họ có lợi hơn và quản lý hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng.
Với các công ty có văn hóa tổ chức theo kiểu truyền thống, quan tâm đến lợi
ích ngắn hạn vì thế hành động theo định hướng thành tích theo nhiều cách có
thể tạo ra xung đột với mục tiêu của việc quản trị chuỗi cung ứng. Quản trị
chuỗi cung ứng nhấn mạnh đến việc định vị các tổ chức theo cách thức giúp
cho tất cả các thành viên trong chuỗi đều được lợi. Vì thế, quản trị chuỗi cung
ứng một cách hiệu quả lệ thuộc rất lớn vào mức độ tin tưởng, sự hợp tác, sự
cộng tác và thông tin một cách trung thực và chính xác.
Các nhà quản trị phụ trách thu mua, sản xuất, hậu cần và vận tải không chỉ
phải được trang bị những kiến thức cần thiết về các chúc năng chuỗi cung ứng
quan trọng mà còn phải đánh giá và am hiểu mức độ tương tác và ảnh hưởng
của các chức năng này đến toàn chuỗi cung ứng. Rebecca Morgan, chủ tịch
của Fulcrum Consulting Works, một công ty tư vấn về quản trị chuỗi cung
ứng có trụ sở ở bang Ohio, phát biểu rằng: "rất nhiều công ty đi đến các thỏa
thuận mà họ gọi là sự cộng tác, sau đó cố gắn kiểm soát mối quan hệ này từ
đầu đến cuối. Nhiều công ty sản xuất xe hơi thực hiện điều này ở giai đoạn
bắt đầu”, bà ta nói. “Họ đưa ra nguyên tắc đơn phương: anh sẽ thực hiện điều
này cho tôi nếu anh muốn làm ăn với tôi, không cần biết nó có ý nghĩa gì với
anh hay không”.
Ranh giới của các chuỗi cung ứng tích hợp cũng rất linh động. Mọi người
thường nói rằng ranh giới chuỗi cung ứng kéo dài từ “nhà cung cấp cho nhà
cung cấp của doanh nghiệp đến khách hàng của khách hàng của họ”; ngày
nay, hầu hết những nỗ lực phối hợp quản trị chuỗi cung ứng của doanh nghiệp
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B11
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
không vượt ra giới hạn này. Thực ra, trong nhiều trường hợp, các doanh
nghiệp nhận thấy rằng thực sự khó khăn để gia tăng nỗ lực phối hợp ngoài
những khách hàng và nhà cung cấp trực tiếp quan trọng nhất của doanh
nghiệp (thực ra trong một nghiên cứu khảo sát các doanh nghiệp thì rất nhiều
đại diện của doanh nghiệp phát biểu rằng đa số các nỗ lực trong chuỗi cung
ứng chỉ đối với khách hàng và nhà cung cấp bên trong của doanh nghiệp mà
thôi). Tuy nhiên, theo thời gian và những kết quả thành công bước đầu, nhiều
doanh nghiệp đang mở rộng ranh giới chuỗi cung ứng của nó.
2.Vai trò của chuỗi cung ứng sản phẩm.
Trong doanh nghiệp, chuỗi cung ứng giữ một vai trò quan trọng. Quản lý
chuỗi cung ứng (SCM) gắn liền với hầu như tất cả các hoạt động của các
doanh nghiệp sản xuất,từ việc hoạch định và quản lý quá trình tìm nguồn
hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm,…đến việc phối hợp với các đối tác, nhà
cung ứng,các kênh trung gian, nhà cung cấp dịch vụ cho đến khách hàng.
- SCM giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách có hiệu
quả nhờ vào thay đổi các nguồn nguyên vật liêu đầu vào hoặc tối ưu hoá quá
trình luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ (có thể tiết kiệm chi phí,
tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp).
Có không ít doanh nghiệp đã gặt hái thành công lớn nhờ soạn thảo chiến
lược và giải pháp SCM thích hợp, ngược lại có nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn thất bại do đưa ra quyết định sai lầm như chọn sai nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, chọn sai vị trí kho bãi, tính toán lượng dự trữ không phù hợp,
tổ chức vận chuyển chồng chéo.
- SCM hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tiếp thị đặc biệt là tiếp thị hỗn hợp.
SCM đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phâmt đến đúng nơi cần
đến và vào đúng thời điểm thích hợp. Mục tiêu lớn nhất của SCM là cung cấp
sản phẩm,dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.
-Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của công ty và tạo điều
kiện cho chiến lược thương mại điện tử phát triển.
-Điều phối khả năng sản xuất có giới hạn và thực hiện lên kế hoạch sản
xuất nhằm làm cho kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B12
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Cung cấp khả năng trực quan hoá đối với các dữ liệu liên quan đến sản
xuất và khép kín dây chuyền cung cấp tạo điều kiện cho việc tối ưu hoá sản
xuất đúng lúc bằng các hệ thống sắp xếp và lập kế hoạch.
-Phân tích dữ liệu thu thập được và lưu trữ hỗ sơ với chi phí thấp nhất.
Hoạt động này nhằm phục vụ cho những mục đích liên quan đến hoạt động
sản xuất (dữ liệu thông tin về sản phẩm, dữ liệu về nhu cầu thị trường...) để
đáp ứng đòi hỏi của khách hàng.
II.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm
1.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm
* Cấu trúc chuỗi cung ứng
Một dây chuyền chuỗi cung ứng sản xuất bao gồm tối thiểu ba yếu tố: nhà
cung cấp, bản thân đơn vị sản xuất và khách hàng.
-Nhà cung cấp là các công ty bán sản phẩm dịch vụ là nguyên liệu đầu vào
cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh.Thông thường nhà cung cấp được
hiểu là đơn vị cung cấp nguyên liệu trực tiếp như vật liệu thô, các ch tiêt của
sản phẩm, bán thành phẩm.Các công ty cung cấp dịch vụ cho sản xuất, kinh
doanh được gọi là nhà cung cấp dịch vụ.
-Đơn vị sản xuất là nơi sửdụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào và áp dụng
các quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ về quản
lý sản xuất được sử dụng tối đa ở đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng;
-Khách hàng là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.
Như vậy, chuỗi cung ứng là một tổng thể giữa nhiều nhà cung ứng và
khách hàng được kết nối với nhau; trong đó mỗi khách hàng đến lượt mình lại
là nhà cung ứng cho tổ chức tiếp theo cho đến khi thành phẩm tới được tay
người tiêu dùng. Nói một cách khác có thể xem chuỗi cung ứng là một mạng
lưới bao gồm những đơn vị, công đoạn có liên quan với nhau trong việc khai
thác tài nguyên nhằm sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho người tiêu dùng kể cả
công đoạn trung gian như vận tải, kho bãi, bán buôn, bán lẻ và bản thân khách
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B13
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
hàng. Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng là một chuỗi cung ứng thu nhỏ bao
gồm các bộ phận sản xuất, các bộ phận có chức năng liên quan đến thoả mãn
nhu cầu khách hàng như tài chính,công nghệ thông tin, phát triển sản phẩm
mới, tiếp thị, bán hàng, phân phối, dịch vụ khách hàng.
Ba dòng luân chuyển được xem xét trong bất kì chuỗi cung ứng nào:
-Dòng vật liệu là dòng dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà bán lẻ trong
đó nguyên vật liệu được chuyển đổi thành sản phẩm và sau đó chuyển đến
khách hàng.
-Dòng thông tin bao gồm dữ liệu được lưu trữ và truy xuất mỗi khi trạng
thái hệ thống thay đổi.
-Dòng tiền bao gồm chi phí sản xuất, chi phí tồn kho,....
*Các hoạt động của chuỗi cung ứng
Hoạt động của chuỗi cung ứng là một vòng quay gồm 5 giai đoạn:
-Lập kế hoạch
Trong hoạt động của chuỗi cung ứng, lập kế hoạch là khâu quan trọng nhất
bao trùm lên các hoạt động khác.Việc lập kế hoạch ở đâu được thực hiện ở
hai cấp độ: một là kế hoạch tổng thể cho toàn chuỗi mang tính trung hạn và
dài hạn, mặt khác kế hoạch cũng phải được thực hiện ở từng khâu của chuỗi.
Sau khi lập kế hoạch, thông tin sẽ được truyền đến tất cả các khâu trong chuỗi
nhờ đó mọi hoạt động trong chuỗi được tổ chức thống nhất và có tính hệ
thống. Ví dụ: kế hoạch tìm nguồn hàng, kế hoạch sản xuất nhằm đưa ra lượng
nguyên vật liệu cần thiết, nguồn cung những nguyên vật liệu này, số lượng
hàng cần sản xuất; kế hoạch giao hàng cung cấp những thông tin cần thiết để
đáp ứng nhu cầu khách hàng; kế hoạch hàng trả về (bao gồm trả về ở khâu
nguyên liệu và khâu thành phẩm) cung cấp thông tin về kế hoạch trả hàng để
có phương án đặt hàng mới….Để có được kế hoạch tốt chúng ta phải có
nguồn thông tin tốt. Nếu muốn xác định lượng hàng cần thiết cho thị trường ta
phải dựa vào các yếu tố như mức độ tiêu dùng, tồn kho, điều kiện kinh tế, thị
trường và những thông tin về đối thủ cạnh tranh…Muốn lập kế hoạch cung
ứng người lập phải hiểu được các nguồn lực cả bên trong và ngoài doanh
nghiệp như lực lượng lao động, công suất, kho bãi, phương tiện vận
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B14
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
chuyển…..Kế hoạch phải rõ ràng, cụ thể, tập trung được nguồn lực vào những
lĩnh vực cần ưu tiên và quan trọng là nó phải phù hợp với chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, có khả năng hỗ trợ chiến lược chung của doanh
nghiệp.
-Tìm nguồn hàng và mua hàng
Thực hiện quá trình mua hàng gồm đặt hàng, nhận hàng, kiểm tra, thanh
toán trên cơ sở kế hoạch về nguồn hàng đã được lập, ngoài ra nó còn liên
quan đến việc tìm, lựa chọn và quản lý quan hệ với các nhà cung cấp. Mục
đích của hoạt động này là tìm được nguồn hàng có chất lượng ổn định, phù
hợp với những yêu cầu trong sản xuất của doanh nghiệp, tiết giảm chi phí
thông qua lợi thế về quy mô, tăng khả năng linh hoạt trong sản xuất nhờ mối
quan hệ tốt với nhà cung cấp- hỗ trợ về điều kiện giao hàng, thanh toán…
-Sản xuất
Là công đoạn biến nguyên vật liệu thành thành phẩm theo quy cách, chất
lượng đã đề ra. Ngày nay, để tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp, giảm
chi phí, ngày càng nhiều doanh nghiệp sử dụng các đối tác bên ngoài gia công
một phần hoặc sản xuất hoàn thiện toàn bộ sản phẩm. Trong hoạt động này
mục tiêu không chỉ là chi phí thấp mà còn là yêu cầu về tốc độ và mức độ linh
hoạt. Bên cạnh đó, một yêu cầu cũng không kém phần quan trọng là kiểm soát
chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ngành nghề đăng kí hoặc do doanh
nghiệp tự đề ra.
-Giao hàng
Quá trình giao hàng được bắt đầu từ việc nhận đơn hàng bao gồm cả
những hoạt động cần thiết để có được đơn hàng đó như chào giá cho đến thu
được tiền của khách hàng. Giai đoạn này cần chú ý: mức độ dịch vụ phải
tương xứng với chi phí. Do đó những khách hàng có thế mang lại nhiều lợi
nhuận cho doanh nghiệp hơn những khách hàng khác.Vì vậy điều đầu tiên là
phải phân khúc thị trường, sau đó đưa ra những mức độ dịch vụ cho các đối
tượng khách hàng khác nhau. Giảm thời gian và chi phí nhờ hệ thống trao đổi
thông tin, thiết lập hệ thống truy xuất về tình trạng hàng hoá tại những khâu
khác nhau trong chuỗi.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B15
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Hàng trả về
Áp dụng cho những nguyên vật liệu nhập về do không đúng tiêu chuẩn
hoặc những hàng hoá bán ra thi trường không đảm bảo chất lượng. Để quản lý
hoạt động này, điều đầu tiên là phải xác định những điều kiện nào thì hàng
hoá nguyên liệu sẽ được trả về. Bên cạnh đó, thông tin hàng trả về phải được
phổ biến đến tất cả các khâu trong chuỗi nhằm đưa ra các biện pháp phòng
ngừa và xử lý kịp thời.
1.2.Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng.
Mọi người sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và
tổ chức. Khi con người nhấn mạnh đến họat động sản xuất, họ xem chúng như
là các quy trình sản xuất; khi họ nhấn mạnh đến khía cạnh marketing, họ gọi
chúng là kênh phân phối; khi họ nhìn ở góc độ tạo ra giá trị, họ gọi chúng là
chuỗi giá trị, khi họ nhìn nhận về cách thức thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng, họ gọi nó là chuỗi nhu cầu. Ở đây chúng ta tập trung vào sự dịch
chuyển nguyên vật liệu và thuật ngữ chung nhất là chuỗi cung cấp.
Một câu hỏi thường đặt ra nhưng chưa có câu trả lời rõ ràng- liên quan đến
việc phân biệt và làm rõ sự khác nhau giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung cấp.
Micheal Porter- người đầu tiên phát biểu khái niệm chuỗi giá trị vào thập niên
1980, biện luận rằng chuỗi giá trị của một doanh nghiệp bao gồm các hoạt
động chính và các hoạt động bổ trợ tạo nên lợi thế cạnh tranh khi được cấu
hình một cách thích hợp. Tuy nhiên khái niệm chuỗi giá trị cũng đã được phát
triển như là một công cụ để phân tích cạnh tranh và chiến lược. Porter phân
biệt các hoạt động chính và hoạt động bổ trợ. Các hoạt động chính là những
hoạt động hướng đến việc chuyển đổi về mặt vật lý và quản lý sản phẩm hoàn
thành để cung cấp cho khách hàng. Hậu cần đến và hậu cần ra ngoài là các
thành tố quan trọng và then chốt của chuỗi giá trị, đây chính là yếu tố tạo ra
“giá trị” cho khách hàng của doanh nghiệp và mang lại lợi ích tài chính cho
công ty. Việc tích hợp một cách sâu rộng các chức năng sản xuất, bán hàng,
marketing với hậu cần cũng là một tiêu thức quan trọng của chuỗi giá trị. Các
hoạt động của Chuỗi giá trị chung
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B16
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Hình 1-
Porter phân biệt và nhóm gộp thành năm hoạt động chính:
• Hậu cần đến(inbound logistics): những hoạt động này liên quan đến việc
nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào vào sản phẩm, chẳng hạn như quản trị
nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm soát tồn kho, lên lịch trình xe cộ và trả lại sản
phẩm cho nhà cung cấp.
• Sản xuất: các họat động tương ứng với việc chuyển đổi đầu vào thành
sản phẩm hoàn thành, chẳng hạn như gia công cơ khí, đóng gói, lắp ráp, bảo
trì thiết bị, kiểm tra, in ấn và quản lý cơ sở vật chất.
• Hậu cần ra ngoài(outbound logistics): đây là những hoạt động kết hợp
với việc thu thập, lưu trữ và phân phối hàng hóa vật chất sản phẩm đến người
mua, chẳng hạn như quản lý kho bãi cho sản phẩm hoàn thành, quản trị
nguyên vật liệu, quản lý phương tiện vận tải, xử lý đơn hàng và lên lịch trình-
kế hoạch.
• Marketing và bán hàng những hoạt động này liên quan đến việc quảng
cáo, khuyến mãi, lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối quan hệ giữa các
thành viên trong kênh và định giá.
• Dịch vụ khách hàng các hoạt động liên quan đến việc cung câp dịch vụ
nhằm gia tăng hoặc duy trì giá trị của sản phẩm, chẳng hạn như cài đặt, sửa
chữa và bảo trì, đào tạo, cung cấp thiết bị thay thế và điều chỉnh sản phẩm.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B17
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Các hoạt động bổ trợ được nhóm thành bốn loại:
• Thu mua: thu mua liên quan đến chức năng mua nguyên vật liệu đầu vào
được sử dụng trong chuỗi giá trị của công ty. Việc này bao gồm nguyên vật
liệu, nhà cung cấp và các thiết bị khác như máy móc, thiết bị thí nghiệm, các
dụng cụ văn phòng và nhà xưởng. Những ví dụ này minh họa rằng các đầu
vào được mua có thể liên hệ với các họat động chính cũng như các hoạt động
bổ trợ. Đây chính là lý do khiến Porter phân loại thu mua như một hoạt động
bổ trợ chứ không phải là họat động chính.
• Phát triển công nghệ: “Công nghệ” có ý nghĩa rất rộng trong bối cảnh
này, vì theo quan điểm của Porter thì mọi họat động đều gắn liền với công
nghệ, có thể là bí quyết, các quy trình thủ tục hoặc công nghệ được sử dụng
trong tiến trình hoặc thiết kế sản phẩm. Đa phần các họat động giá trị sử dụng
một công nghệ kết hợp một số lượng lớn các tiểu công nghệ khác nhau liên
quan đến các lĩnh vực khoa học khác nhau.
• Quản trị nguồn nhân lực: đây chính là những hoạt động liên quan đến
việc chiêu mộ, tuyển dụng, đào tạo, phát triển và quản trị thù lao cho toàn thể
nhân viên trong tổ chức, có hiệu lực cho cả các họat động chính và hoạt động
bổ trợ.
• Cơ sở hạ tầng công ty: công ty nhìn nhận ở góc độ tổng quát chính là
khách hàng của những hoạt động này. Chúng không hổ trợ chỉ cho một hoặc
nhiều các hoạt động chính-mà thay vào đó chúng hỗ trợ cho cả tổ chức. Các
ví dụ của những hoạt động này chính là việc quản trị, lập kế hoạch, tài chính,
kế toán, tuân thủ quy định của luật pháp, quản trị chất lượng và quản trị cơ sở
vật chất. Trong các doanh nghiệp lớn, thường bao gồm nhiều đơn vị hoạt
động, chúng ta có thể nhận thấy rằng các hoạt động này được phân chia giữa
trụ sở chính và các công ty hoạt động. Cơ sở hạ tầng chính là đề tài được bàn
cải nhiều nhất về lý do tại sao nó thay đổi quá thường xuyên đến vậy.
Ta đã biết quản trị chuỗi cung ứng trở nên thịnh hành trong suốt thập niên
1990 và tiếp tục là tâm điểm giúp các tổ chức nâng cao khả năng cạnh tranh
trong thị trường toàn cầu. Quản trị chuỗi cung ứng được xem như đường ống
hoặc dây dẫn điện nhằm quản trị một cách hữu hiệu và hiệu quả dòng sản
phẩm/nguyên liệu, dịch vụ, thông tin và tài chính từnhà cung cấp của nhà
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B18
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
cung cấp xuyên qua các tổ chức/ công ty trung gian nhằm đến với khách hàng
của khách hàng hoặc một hệ thống mạng lưới hậu cần giữa nhà cung cấp đầu
tiên đến khách hàng cuối cùng. Chuỗi cung ứng tổng quát:
Nhà cung cấp(nhà buôn) → Nguồn →Lưu trữ, vận chuyển đến →Sản xuất
→ lưu trữ, vận chuyển ra ngoài→ Phân phối tiêu dùng → Khách hàng
Cách thức nhằm xem xét sự khác biệt giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng
là khái niệm hóa chuỗi cung ứng như là tập hợp con của chuỗi giá trị. Tất cả
nhân viên bên trong một tổ chức là một phần của chuỗi giá trị. Điều này lại
không đúng đối với chuỗi cung ứng. Các hoạt động chính đại diện cho bộ
phận hoạt động của chuỗi giá trị, và đây chính là những điều ám chỉ đến chuỗi
cung ứng. Ở cấp độ tổ chức, chuỗi giá trị là rộng hơn chuỗi cung ứng vì nó
bao gồm tất cả các hoạt động dưới hình thức của các hoạt động chính và hoạt
động bổ trợ. Hơn nữa, khái niệm chuỗi giá trị ban đầu tập trung chủ yếu vào
các hoạt động nội bộ, trong khi chuỗi cung ứng, theo định nghĩa, tập trung
vào cả nội bộ và bên ngoài. Để phản ánh ý kiến hiện tại, chúng ta phải mở
rộng mô hình chuỗi giá trị ban đầu, tập trung chủ yếu vào các thành phần nội
bộ, bao gồm cả nhà cung cấp và khách hàng nằm ở vị trí ngược dòng và xuôi
dòng của chuỗi so với tổ chức trọng tâm. Các cấp độ của nhà cung cấp và
khách hàng hình thành cơ sở của chuỗi giá trị mở rộng hoặc khái niệm doanh
nghiệp mở rộng, với tuyên bố rằng sự thành công chính là chức năng quản lý
một cách hiệu quả nhóm các doanh nghiệp liên kết với nhau qua khách hàng
và nhà cung cấp ở cấp độ đầu tiên (nghĩa rằng doanh nghiệp chỉ xem xét nhà
cung cấp và khách hàng của mình mà thôi). Thực ra, các doanh nghiệp tiến bộ
thấu hiểu rằng quản lý chi phí, chất lượng và phân phối yêu cầu phải quan tâm
đến nhà cung cấp ở cấp độ khá xa so với doanh nghiệp (nhà cung cấp cấp hai,
ba...).
Như vậy chúng ta có thể thấy được phần nào mối liên hệ giữa chuỗi cung
ứng và chuỗi giá trị của Porter.
Thuật ngữ logistics cũng đã được sử dụng chính thức trong Luật thương
mại 2005, và được phiên âm theo tiếng Việt là “lô-gi-stíc”. Điều 233 Luật
thương mại nói rằng:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B19
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng,
đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.”
Xét trên góc độ học thuật thì hiện có nhiều định nghĩa học thuật về thuật
ngữ logistics. Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung
ứng (Council of Supply Chain Management Professionals - CSCMP), thì
thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy đủ như sau: “Quản trị logistics là một
phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm
soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những
thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải
hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện
đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu,
quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức
năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản
xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp
kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt
động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất,
tài chính, công nghệ thông tin.”
Phân biệt với “Chuỗi cung ứng”
Nếu logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng như định nghĩa trên,
thì phần còn lại là gì? Phân biệt logistics và chuỗi cung ứng như thế nào? Hay
nói cách khác, logistics khác gì với chuỗi cung ứng?Để có căn cứ phân biệt, ta
quay trở lại với khái niệm "chuỗi cung ứng" cũng của Hiệp hội các nhà
chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng.“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm
hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến tìm nguồn cung,
mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics. Ở mức độ quan
trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và cộng tác của các đối
tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các nhà cung cấp
dịch vụ, khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp vấn đề
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B20
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi
cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên là kết nối các chức
năng kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính yếu bên trong công ty và
của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả cao và kết
dính. Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động quản trị
logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp
về qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản
phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.”
Nếu so sánh hai định nghĩa trên, có thể thấy sự khác nhau cơ bản. Khái
niệm chuỗi cung ứng rộng hơn và bao gồm cả logistics và quá trình sản xuất.
Ngoài ra, chuỗi cung ứng chú trọng hơn đến hoạt động mua hàng
(procurement) trong khi logistics giải quyết về chiến lược và phối hợp giữa
marketing và sản xuất.
Khi nói đến logistics, bạn có thể hay nghe các công ty dịch vụ nhận mình
là 3PL (Third Party Logistics provider), nghĩa là Công ty cung cấp dịch vụ
logistics bên thứ 3. Câu hỏi đặt ra là: 3PL là gì nếu họ là bên thứ 3, vậy còn
các bên thứ nhất (1PL), thứ hai (2PL), hay bên thứ tư (4PL) là gì?
1PL: là người cung cấp hàng hóa, thường là người gửi hàng (shipper),
hoặc là người nhận hàng (consignee). Các công ty tự thực hiện các hoạt động
logistics của mình. Công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết
bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt
động logistics. Đây là những tập đoàn Logistics lớn trên thế giới với mạng
lưới logistics toàn cầu, có phương cách hoạt động phù hợp với từng địa
phương.
2PL: là người vận chuyển thực tế, chẳng hạn như hãng tàu, hãng hàng
không, hãng xe tải.
3PL: là người cung cấp giải pháp tổng thể cho dịch vụ logistics cho khách
hàng, họ thường đảm nhiệm một phần, hay toàn bộ các công đoạn của chuỗi
cung ứng.
4PL: Thuật ngữ 4PL lần đầu tiên được công ty Accenture sử dụng, và
công ty này định nghĩa như sau: “A 4PL is an integrator that assembles the
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B21
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
resources, capabilities, and technology of its own organization and other
organizations to design, build and run comprehensive supply chain solutions".
Sau đây ta sẽ xét ví dụ cụ thể về logistics cho công ty May 10, trích đăng từ
bài viết trên diễn đàn Vietship của thành viên có tên Dangerous Goods.Công
ty May 10 sản xuất và phân phối quần áo đi khắp nơi trong và ngoài nước,
giao hàng đến tận nơi, đến tận giá bán hàng của các đại lý bán buôn, bán lẻ,
thu hồi sản phẩm hư hỏng, lỗi, bán thanh lý hàng hết mốt, sale,
promotion..v.v..
Những việc cơ bản họ phải làm hàng ngày là làm hợp đồng, đặt mua vải,
chỉ, cúc, khóa, đinh, dây.v.v... ở trong, ngoài nước và sẽ ở nhiều nước khác
nhau, nhiều thành phố khác nhau (vì không thể mua toàn bộ phụ kiện ở 1
nước, 1 thành phố được vì giá cả, mẫu mã, chất lượng ở mỗi nơi sẽ có 1 ưu
thế, mỗi 1 sản phẩm sẽ dùng 1 loại phụ kiện đặc biệt hoặc 1 loại vải theo đúng
style của đơn hàng đó và sẽ phải mua nhiều loại ở nhiều thành phố khác nhau,
rồi sợ chiến tranh, thiên tai,.....)Công việc vận hành hàng ngày, hàng tuần,
hàng tháng sẽ có những đơn hàng theo lịch trình lập trước gửi cho các công ty
vận tải (công ty logistics) đến giờ này, ngày này, tháng này công ty May 10 sẽ
cần bao nhiêu cont vải của Italy, bao nhiêu kg cúc của Hàn Quốc, bao nhiêu
chỉ từ nhà máy trong Biên Hòa chuyển ra để làm đơn hàng A trong bao nhiêu
ngày,... Căn cứ theo Order của may 10, công ty vận tải lên kế hoạch và trao
đổi cùng May 10 để quyết định ngày nào thì nhập cái gì trước, bằng đường
nào, có thể kết hợp hay ghép hàng với đơn hàng khác hoặc của đơn vị khác
hay không, v.v..., mục đích nhằm tiết kiệm tiền vận chuyển tối đa cho May
10, kịp tiến độ sản xuất hàng ngày mà lại không mất nhiều chi phí lưu kho
(việc này thì công ty May 10 không thể có điều kiện ghép hàng, không có hệ
thống đại lý toàn cầu và có phương án làm tốt bằng đơn vị vận tải được). Nếu
mọi việc đều xuôn xẻ, công nhân không ai ốm, điện không bị mất, không
mưa, không bão, không động đất, không thay đổi đơn hàng, kiểu dáng, không
thừa thiếu, không thay đổi giá cả, không có sự cạnh tranh, đổi nhà cung cấp
vv và vv.... thì công ty vận tải cứ thế mà làm và thu tiền.Nhưng, lúc nào cũng
sẽ có chữ “nhưng”, sẽ có lúc 1 trong những nguyên nhân khách quan đem
đến, May 10 buộc phải nhập nguyên phụ liệu gấp để kịp về sản xuất, đây là
lúc các anh chị vận tải sẽ phải đưa ra phương án tối ưu cho khách hàng, đi
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B22
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
bằng gì Sea (LCL; FCL), Truck, Rail, Sea-Air hay Air... Vậy là các công ty
giao nhận vận tải (công ty logistics) phải tham gia sâu hơn vào công việc sản
xuất kinh doanh của May 10.
Hàng sản xuất ra sẽ cần đến 1 hãng tàu, 1 công ty Logistics hay 1 cty
FWD nào đó cho 1 vài anh chị khéo miệng đến nói dăm ba câu phải trái, hạ
giá, nâng hoa hồng để giành việc vận chuyển nhưng, lại có 1 chữ “nhưng”,
cạnh tranh thế thì khó lắm, công ty đang làm vận tải cho may 10 họ phải dán
tem mã, đánh số từng sản phẩm, từng thùng hàng, từng đơn hàng, từng lô
hàng, còn 1 số động tác nữa xin được bỏ qua, họ phải quét mã để có số liệu
hàng hóa để đưa lên mạng của công ty vận tải và để cùng quản lý lượng hàng,
phụ liệu vào/ ra với May 10 nữa. Hàng chuẩn bị ra lò rồi thì kế hoạch phân
phối đi nội địa bao nhiêu, nước ngoài bao nhiêu, cửa hàng này bao nhiêu sản
phẩm, cửa hàng kia bao nhiêu sản phẩm thì các anh vận tải cũng có rồi, lúc
này thì công ty vận tải sẽ lên kế hoạch đóng đơn nào, đi đâu trước, có thể có
hàng lẻ, hàng cont, hàng bộ, hàng Air nhưng các anh hàng không hoặc các
anh hãng tàu hay các anh bảo là có Contract giá tốt đợi đấy mà vào cạnh tranh
được (các anh có thể làm sub-contract thôi thì được) vì công ty vận tải người
ta đã làm bao nhiêu công đoạn có lãi rồi, nếu cần cạnh tranh bằng giá, họ sẵn
sàng cạnh tranh giá thấp hơn và sẽ sử dụng dịch vụ của hãng vận tải giá cao/
dịch vụ tốt hơn ông giá rẻ/ dịch vụ kém và hơn nữa họ có 1 loạt công cụ mà
hãng vận tải trực tiếp không bao giờ cạnh tranh được thì chắc chắn May 10 sẽ
không bỏ công ty vận tải trọn gói kia được và lúc đó hãng vận tải trực tiếp chỉ
đi săn đón các ông làm vận tải trọn gói cho các nhà máy như May 10.Hàng
chuyển đến cảng đích rồi việc của công ty logistics lại tiếp tục làm thủ tục hải
quan, chuyển hàng đến kho phân phối hoặc chuyển trực tiếp đến từng cửa
hàng đặt sản phẩm hoặc đại lý bán hàng cho May 10...v.v.....Công ty logisitcs
có thể thu tiền, ghi lại báo cáo lượng hàng tiêu thụ, hàng tồn, hàng đổi, bảo
hành, yêu cầu chuyển thêm hàng vào ngày mai,....v.v... cho may 10 từ đó May
10 có kế hoạch sản xuất, phân phối, thu đổi, bảo hành, khiếu nại nhà cung cấp
vật liệu,.... và báo cho công ty vận tải kế hoạch vận chuyển, thị trường này
đang cần hàng này, không cần hàng kia, thị trường này bán ế move qua thị
trường khác để clear hàng. Đơn nào còn đang nằm trong kho, đơn nào đã ra
thị trường và nằm tại shop nào, ngày tháng nào thì Sale, promotion đơn nào,
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B23
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
loại gì. Tất cả, tất cả những sản phẩm của May 10 đang nằm tại đâu, đất nước
nào, thành phố nào, kho hàng nào đều được công ty vận tải quản lý và cập
nhật thay đổi hàng ngày với May 10. Thậm chí các công việc tìm kiếm mở
rộng thị trường phân phối tại các nước, các yêu cầu, phản hồi từ các đại lý bán
hàng, từ công tác thị trường, từ khách hàng công ty vận tải có thể giúp May
10 luôn vì công ty vận tải họ có hệ thống toàn cầu, biết về các công ty bản địa
nên thuận lợi hơn trong việc cầu nối thương mại.
2.Xu hướng phát triển của quản trị chuỗi cung ứng
* Xuất hiện mô hình chuỗi cung ứng mới
Với sự phát triển của quản trị chuỗi cung ứng như hiện nay, nhiều mô hình
quản trị chuỗi cung ứng sẽ ra đời và được ứng dụng rộng rãi trong thực tế.
Các doanh nghiệp sẽ có nhiều mô hình để lựa chọn sao cho phù hợp với tình
hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp mình.
*Hợp nhất các chuỗi cung ứng
Sự hợp nhất các chuỗi cung ứng cũng là hiện tượng nổi trội, ba yếu tố
chính sẽ tác động trực tiếp tới sự thay đổi cấu trúc để làm sao các doanh
nghiệp duy trì hoạt động của chuỗi cung ứng đó:
-Các doanh nghiệp sẽ liên kết chuỗi cung ứng nội bộ với các chuỗi cung ứng
của đối tác và hợp nhất hoạt động với nhau.
-Công nghệ và internet là chìa khoá để cải thiện chiến lược quản trị chuỗi
cung ứng.
-Tái cơ cấu hoạt động chuỗi cung ứng để đạt được mục tiêu cua doanh
nghiệp.
*Công nghệ RFID sẽ phát triển nổi trội
Công nghệ RFID sẽ phát triển và được ứng dụng rộng rãi trong quản trị chuỗi
cung ứng, đặc biệt trong ngành hàng tiêu dùng. Công nghệ này giúp định
dạng sản phẩm, vận chuyển và kiểm soát hàng tồn kho, tránh hàng hoá trong
kho không đủ để phục vụ nhu cầu của thị trường đồng thời giảm thời gian
hàng hoá, nguyên vật liệu bị lưu kho chờ sản xuất hay xuất xưởng đưa ra phân
phối trên thị trường.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B24
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
III.Các nhân tố tác động đến chuỗi cung ứng sản phẩm.
1.Các nhân tố cơ bản
1.1.Nguồn vốn.
Tiết kiệm nguồn vốn, tận dụng tài nguyên
Hiện nay, khi các công cụ Internet gần như đã vươn đến mọi ngóc ngách
trên trái đất với mức chi phí vô cùng thấp, thì chúng ta hoàn toàn có thể kết
nối dây chuyền cung ứng của bạn với dây chuyền cung ứng của các nhà cung
cấp, kể cả các khách hàng trong một mạng lưới rộng khắp nhằm tối ưu hoá
chi phí và cơ hội cho tất cả các thành phần có liên quan.Dây chuyền cung ứng
tại phần lớn các ngành công nghiệp được xem như một ván bài lớn. Người
chơi không muốn phơi bày các quân bài của họ, bởi vì họ không tin tưởng bất
kỳ ai. Nhưng trên thực tế, nếu họ lật ngửa quân bài của mình, thì tất cả đều có
thể được hưởng lợi. Các nhà cung cấp sẽ không phải dự đoán xem có bao
nhiêu nguyên liệu thô sẽ được đặt hàng, các nhà cung cấp sẽ không phải thu
mua quá số lượng họ cần dự phòng trong trường hợp nhu cầu về sản phẩm đột
ngột tăng cao, các nhà bán lẻ sẽ không phải để trống các kệ hàng nếu họ chia
sẻ với nhà sản xuất các thông tin họ có về tình hình buôn bán sản phẩm của
nhà sản xuất…Internet đã giúp cho việc trao đổi thông tin này trở nên dễ
dàng, nhưng hàng thế kỷ việc không tin cậy và thiếu hợp tác giữa các bên đã
khiến công việc này gặp nhiều khó khăn.
Những năm gần đây, không ít công ty đã rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng
nam” tức là họ bị buộc phải tham gia vào việc chia sẻ thông tin về dây chuyền
cung ứng với một hoặc một vài công ty lớn trong ngành.
Ưu điểm của việc chia sẻ thông tin day chuyền cung ứng kịp thời, chính
xác là khả năng sản xuất hay vận chuyển một số lượng nhất định sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường. Đó là công việc vẫn được biết đến với cái tên
“sản xuất kịp thời” và nó cho phép các công ty có thể giảm thiểu lượng hàng
tồn kho. Đồng thời, các công ty thực chất sẽ cắt giảm được chi phí kể từ khi
họ không còn phải mất tiền để sản xuất và lưu kho các sản phẩm dư thừa nữa.
Công tác dây chuyền cung ứng: Hãy xem xét các sản phẩm tiêu dùng như
một ví dụ của sự cộng tác. Nhiều năm qua, có 2 công ty đã phối kết hợp chặt
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B25
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
chẽ với nhau trong dây chuyền cung ứng là Wal-Mart và Procter & Gamble
(P&G). Trước khi hai công ty này bắt đầu cộng tác vào thập niên 80, các nhà
bán lẻ trên thị trường hầu như rất ít khi chia sẻ thông tin với nhà sản xuất.
Nhưng sau đó hai công ty lớn này đã xây dựng một hệ thống phần mềm liên
kết giữa P&G với các trung tâm phân phối của Wal-Mart. Khi sản phẩm của
P&G sắp tiêu thụ hết tại những trung tâm phân phối này, hệ thống sẽ tự động
gửi thư nhắc nhở để P&G vận chuyển thêm sản phẩm. Trong một số trường
hợp, hệ thống còn được áp dụng cho các cửa hàng nhượng quyền của Wal-
Mart và cho phép P&G giám sát các giá hàng sản phẩm thông qua tín hiệu vệ
tinh ghép nối thời gian thực, sau đó gửi thông báo tới các nhà máy sản xuất
mỗi khi danh mục hàng hoá được máy scan trong hệ thống tự động quét
qua.Với kiểu thông tin này, P&G biết rõ khi nào cần sản xuất, vận chuyển và
trưng bày thêm sản phẩm tại các cửa hàng của Wal-Mart. Việc xuất hoá đơn
và thanh toán cũng được thực hiện tự động. Hệ thống sẽ giúp P&G tiết kiệm
đáng kể thời gian, giảm thiểu hàng tồn kho và các chi phí xử lý đơn đặt hàng.
Dây chuyền cung ứng mở rộng (extebded supply chain): là tập hợp tất cả
những ai tham gia vào quy trình sản xuất để cho ra một sản phẩm. Ví dụ nếu
bạn sản xuất sổ tay, dây chuyền cung ứng mở rộng của bạn sẽ bao gồm các
nhà máy nơi nhà cung cấp có cổ phần và nhiều đơn vị khác có liên quan. Điều
quan trọng là bạn cần theo dõi chặt chẽ tất cả những gì diễn ra trong dây
chuyền cung ứng của bạn. Bởi vì chỉ một sự kiện nào đó xảy ra với một nhà
cung cấp hay nhà cung cấp của nhà cung cấp trong dây chuyền cung ứng. Nếu
bạn biết rõ những gì đang diễn ra trong dây chuyền cung ứng mở rộng của
mình thì bạn sẽ có thể chủ động xử lý các trường hợp bất ngờ xảy ra, đảm bảo
cho quá trình hoạt động sản xuất được diến ra bình thường.
Công ty nào cũng luôn tìm mọi cách để tạo một kênh liên lạc thông suốt
giữa nhà cung ứng và khách hàng của họ, xoá bỏ những nhân tố cản trở khả
năng sinh lời, giảm chi phí, tăng thị phần…Vì vậy quản trị chuỗi cung ứng
được xem như một giải pháp tốt để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.Nguồn nhân lực
Ở bất kì tổ chức hay doanh nghiệp nào, nguồn nhân lực là nguồn lực cơ
bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có tác động tới hoạt
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B26
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong chuỗi cung ứng sản
phẩm nguồn nhân lực cũng có tác động đến, cụ thể là:
Các doanh nghiệp phải thiết lập các văn bản về các yêu cầu pháp luật và
luật lệ đối với nguồn lao động của doanh nghiệp phù hợp với pháp luật của
nước sở tại, nước nhập khẩu, nước có liên quan đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp.
*Yêu cầu đối về trách nhiệm xã hội
Người lao động tuổi làm việc tối thiểu là 14 tuổi hoặc lớn hơn tuỳ thuộc
vào quốc gia, khu vực mà doanh nghiệp đang cư trú. Thời gian làm việc, tiền
công, tiền lương tuân thủ theo yêu cầu của quốc gia, khu vực. Ngoài ra, doanh
nghiệp còn phải lập các văn bản liên quan đến các thông tin cá nhân của nhân
viên và tuân thủ các quy định, luật lệ của quốc gia, khu vực liên quan đến
quyền tự do hộ họp, các biện pháp kỷ luật.
*Yêu cầu về an toàn sức khoẻ
Doanh nghiệp phải phổ biến cho nhân viên biết được các luật lệ về an toàn
sức khoẻ của quốc gia, khu vực, đặc biệt là những công việc có tính chất nguy
hiểm. Trang bị kiến thức, trang thiết bị bảo hộ lao động cho nhân viên.
Các chuyên viên quản lý chuỗi cung ứng phải la người có kiến thức, am hiểu
về quản lý chuỗi cung ứng không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng, trình độ
học vấn về quản lý phục vụ hiệu quả choa hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.Các nhân tố tác động đến hiệu suất và hiệu quả chuỗi cung ứng sản
phẩm
2.1.Sản xuất
Sản xuất là khả năng của dây chuyền cung ứng tạo ra và lưu trữ sản
phẩm.Phân xưởng, nhà kho là cơ sở vật chất.Trong quá trình sản xuất, các nhà
quản trị thường xuyên phải đối mặt với vấn đề cân bằng giữa khả năng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.Thị
trường cần những sản phẩm gì? Sẽ có bao nhiêu sản phẩm được sản xuất và
khi nào được sản xuất. Khi đó sản xuất là nói đến năng lực của chuỗi cung
ứng để sản xuất và tồn trữ sản phẩm. Hoạt động này bao gồm việc lập kế
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B27
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
hoạch sản xuất chính theo công suất nhà máy, cân đối công việc, quản lý chất
lượng và bảo trì thiết bị.
2.2. Hàng tồn kho
Hàng tồn kho có mặt trong suốt chuỗi cung ứng và bao gồm từ nguyên liệu,
bán thành phẩm đến thành phẩm mà được các nhà sản xuất, nhà phân phối và
nhà bán lẻ trong chuỗi cung ứng lắm giữ. Tồn kho là việc hàng hoá sản xuất
ra được tiêu thụ như thế nào? Chính yếu tố tồn kho sẽ quyết định doanh thu
và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu tồn kho ít tức sản phẩm của doanh
nghiệp được sản xuất ra bao nhiêu sẽ tiêu thụ bấy nhiêu từ đó cho thấy hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp cao và thu được lợi nhuận tối đa và ngược
lại.Vậy những thành phần nào nên lưu kho ở mỗi giai đoạn của chuỗi cung
ứng, lượng tồn kho về nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay sản phẩm ở mức
nào thì hợp lý. Mục tiêu chính của hàng tồn kho là đóng vai trò hàng đợi dự
trữ trong những trường hợp xảy ra bất ngờ, không thường xuyên. Tuy nhiên
việc lưu trữ hàng tồn kho có thể dẫn tới chi phí cao vì vậy cần tối ưu hoá
lượng hàng tồn kho để giảm thiểu chi phí.
2.3.Địa điểm (vị trí).
Là việc lựa chọn địa điểm về mặt địa lý của các phương tiện trong chuỗi
cung ứng. Tìm kiếm nguồn nguyên liệu sản xuất ở đâu, nơi nào là địa điểm
tiêu thụ tốt nhất, những địa điểm nào nên đặt phương tiện cho sản xuất và kho
bãi, địa điểm nào hiệu quả nhất về mặt chi phí để sản xuất và đặt kho bãi. Có
nên dùng chung phương tiện hay xây dựng mới. Khi trả lời được các câu trên
thì sẽ xác định được con đường tốt nhất để sản phẩm có thể vận chuyển tới
nơi tiêu thụ một cách nhanh chóng và hiệu quả. Xác đinh được đúng vị trí sẽ
giúp cho việc sản xuất, vận chuyển sản phẩm nhanh chóng tiết kiệm thời gian,
chi phí từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.4.Vận tải.
Là việc di chuyển mọi thứ từ nguyên liệu cho đến thành phẩm giữa các điêù
kiện khác nhau trong chuỗi cung ứng.Ở đây, sự cân bằng giữa khả năng đáp
ứng của nhu cầu khách hàng và hiệu quả công việc được biểu thị trong việc
lựa chọn phương thức vận chuyển. Thông thường có 6 phương thức vận
chuyển cơ bản:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B28
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Đường biển:giá thành rẻ, thời gian vận chuyển trung bình, bịo giới hạn về
địa điểm giao nhận.
-Đường sắt: giá thành rẻ,thời gian vận chuyển trung bình, bịo giới hạn về địa
điểm giao nhận.
-Đường bộ: nhanh, thuận tiện.
-Đường điện thoại: giá thành rẻ, nhanh, bị giới hạn về laọi hàng hoá vận
chuyển (âm thanh, hình ảnh,…)
Hàng tồn kho sẽ được vận chuyển như thế nào từ một địa điểm trong chuỗi
cung ứng tới một địa điểm trong chuỗi cung ứng khác.Lựa chọn hình thức vận
chuyển nào cho hợp lý cả về chi phí, thời gian, an toàn và hiệu quả.
2.5.Thông tin.
Là nền tảng đưa ra quyết định liên quan đến bốn yếu tố trên.Thông tin tốt
giúp đưa ra những quyết định hiệu quả về việc sản xuất gì và bao nhiêu về nơi
dự trữ hàng và cách vận chuyển tốt nhất. Doanh nghiệp cần khai thác thông
tin từ nhiều nguồn khác nhau và cố gắng thu thập được các thông tin cần thiết
và đáng tin cậy. Câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp là “nên thu thập bao
nhiêu thông tin và chia sẻ bao nhiêu thông tin?” Thông tin chính xác và đúng
thời điểm sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những cam kết về sự phối hợp và đưa ra
các quyết định tốt hơn.Với những thông tin đáng tin cậy và chính xác doanh
nghiệp sẽ đưa ra một cách hiệu quả về các vấn đề như: sản xuất cái gì, số
lượng bao nhiêu, nơi nào nên đặt kho,….Nếu thông tin chuẩn xác thì chuỗi
cung ứng sẽ đem lại những kết quả chuẩn xác và ngược lại nếu thông tin
không đúng thì chuỗi cung ứng hoạt động sẽ không hiệu quả.
CHƯƠNG II
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B29
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
XUẤT KHẨU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
I.Đặc điểm của chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu.
1. Đặc điểm
- Khách hàng nhập khẩu: gạo Việt Nam chưa tiếp cận trực tiếp với
người tiêu dùng tại thị trường nhập khẩu, doanh nghiệp Việt Nam phần lớn
bán gạo qua nhà kinh doanh quốc tế (Olam, Luis Dreyfus, Swiss Agri,
Novel…) cho thị trường Châu Phi, hay qua nhà buôn sỉ (trading company) đối
với các thị trường Hongkong, Úc, EU… Theo kết quả khảo sát thì cơ cấu
khách hàng của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam như sau: Hợp
đồng chính phủ G2G: 40 – 60%; hợp đồng với nhà nhập khẩu nước ngoài:
20 – 55%; hợp đồng với nhà kinh doanh quốc tế: 20 – 40%. Do đó, gạo Việt
nam cũng chưa xác lập được kênh phân phối tại thị trường nhập khẩu.
-Thời gian thực hiện đơn hàng: khảo sát tại các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo cho thấy thời gian trung bình từ khi nhận đơn hàng đến khi giao hàng
phổ biến là 20 – 40 ngày, có trường hợp đến 70 ngày. Thời gian nhận tiền
thanh toán của nhà nhập khẩu kể từ ngày giao hàng lên tàu thông thường là
21 ngày theo L/C at sight. Đối với những đơn hàng gạo thơm qui mô nhỏ (20
– 30 container 20’) đi thị trường gạo cao cấp thường áp dụng hình thức T/T
và được ứng trước 30% giá trị đơn hàng. Các doanh nghiệp trong đối tượng
khảo sát chỉ sử dụng phần mềm ERP software và quản lý kho (warehouse
management software) để quản lý thông tin và dự trữ hàng hóa, chưa sử
dụng các phần mềm quản lý toàn bộ để kiểm soát chất lượng sản phẩm, giám
sát hàng vận chuyển, dự trữ, giao hàng… một cách chính xác.
-Dự trữ sản phẩm: mức dự trữ gạo tại các doanh nghiệp phổ biến từ 5.000
– 30.000 tấn tùy vào mùa vụ thu hoạch lúa trong năm. Tuy nhiên, do thiếu
vốn lưu động và giá gạo biến động mạnh thời gian qua nên các doanh nghiệp
xuất khẩu thường không dự trữ nhiều. Thời gian dự trữ trung bình 1– 3
tháng, và chỉ dự trữ ở mức cao đối với vụ Đông Xuân vì chất lượng gạo
tốt. Thực tế trên thị trường có 3 trường hợp sau đây:
-Trường hợp 1: Doanh nghiệp có gạo dự trữ trong kho mới ký hợp đồng
xuất khẩu (đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lớn có nhà máy chế biến).
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B30
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Trường hợp 2: Doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu khi đã có 50% chân
hàng, sau đó tiến hành mua thêm để đủ cho 1 chuyến hàng.
-Trường hợp 3: Khi ký hợp đồng xong doanh nghiệp mới thu mua gạo chế
biến để xuất khẩu.
Trước thời điểm Chính Phủ đưa ra Nghị định số 109/2010/NĐ-CP Về kinh
doanh xuất khẩu gạo thì tại Việt Nam có 262 doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu. Phần lớn trong số này là những công ty thương mại thuần túy không có
cơ sở chế biến, không có kho dự trữ gạo nguyên liệu… nên thường áp dụng
trường hợp 3 để thực hiện đơn hàng. Đây là một trong những yếu tố chính tạo
nên sự bất ổn giá gạo nguyên liệu trong thời gian qua. Vì vậy, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 109 để chuẩn hóa doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo.
Năm 2013 đã có 99 DN đã được cấp phép xuất khẩu gạo và 36 DN đang trong
giai đoạn “xem xét”. Câu chuyện “chạy đua” giành giấy phép XK gạo không
phải là vấn đề mới kể từ khi NĐ 109 ra đời. Bởi theo Bộ Công Thương, trong
tổng số 280 DN tham gia XK gạo trước đây đã giảm dần và chỉ còn 150 DN
đầu mối có khả năng đáp ứng yêu cầu nên được cấp phép sau một năm triển
khai thực hiện NĐ 109. Cung ứng nguyên liệu: Hoạt động cung ứng gạo
nguyên liệu chịu ảnh hưởng bởi mùa vụ thu hoạch. Đơn hàng trung bình
mua của hàng sáo từ 100 – 500 tấn, có trường hợp giao hàng nhiều lần. Thời
gian giao hàng trung bình từ 1 – 5 ngày. Một đơn hàng xuất khẩu trung bình
từ 1.000 – 5.000 tấn đối với hàng xá (bulk) và 200 – 500 tấn đối với
container. Đồng thời, cũng có những đơn hàng lớn 30.000 tấn đi Châu Phi.
Mùa cao điểm giao hàng trong năm từ tháng 3 đến tháng 5 với tần suất và
khối lượng cao hơn 50% so với những tháng còn lại trong năm. Đơn giá
xuất khẩu trung bình 500 USD/tấn và giá trị kim ngạch trung bình 1 – 2 triệu
USD/đơn hàng. Chi phí cho một tấn nguyên liệu mua vào khoảng 440
USD/tấn (đối với gạo xô) và 330 USD/tấn (đối với lúa). Giá lúa được xác
định theo giá thị trường ở thời điểm mua vào. Gạo nguyên liệu chào mua
được thương lượng trực tiếp theo từng chuyến hàng. Phương thức thanh toán
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, nhưng phổ biến là thanh toán bằng tiền
mặt. Xay xát – chế biến gạo xuất khẩu: Hiện nay, qui trình chế biến gạo của
Việt Nam phổ biến là xay xát qua 2 bước (the two-step milling process).
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B31
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Trong đó, giai đoạn đầu tiên được thực hiện bởi các nhà máy nhỏ, với công
nghệ lạc hậu, do vậy chất lượng gạo không cao.
2. Điều kiện vận chuyển và tài trợ.
Vận chuyển sản phẩm
Chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu liên quan đến các dòng chu chuyển sau:
- Đối với gạo chế biến và đóng bao tại Đồng bằng Sông Cửu Long (Cần
Thơ, An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp…) được vận chuyển lên cảng Sài
Gòn bằng xà lan mất 24 – 36 giờ. Đối với gạo chế biến và đóng container
tại các nhà máy của doanh nghiệp (ở Long An, Tiền Giang…)được vận
chuyển bằng xe container đến cảng Sài gòn/Cát Lái trong vòng 4 – 5 giờ
cho quãng đường trên dưới 70km.
- Cước phí vận chuyển gạo từ Đồng bằng Sông Cửu Long về Cảng Sài
Gòn đã giảm mạnh trong mấy năm vừa qua và hiện có tính cạnh tranh rất cao.
Cụ thể, tại thời điểm khảo sát vào tháng 8/2012, cước phí vận chuyển bằng xà
lan ở mức trên 80.000 VNĐ/tấn, qui ra từ 6 – 7 USD/tấn; cước phí vận
chuyển bằng container theo đường bộ trên dưới 160.000VNĐ/tấn, cao hơn từ
50 –70% so với vận chuyển bằng xà lan.
- Dịch vụ vận chuyển nội địa chủ yếu thuê ngoài và thường không có công
nghệ cung cấp dịch vụ theo dõi trong quá trình vận chuyển. Còn vận chuyển
quốc tế phần lớn do các hãng tàu nước ngoài đảm nhiệm theo chỉ định của
nhà nhập khẩu theo điều kiện FOB. Thời gian vận chuyển đường biển quốc
tế trung bình 2 – 3 ngày đối với các thị trường Hong Kong, Philippines,
nhưng sẽ mất 45 ngày đối với điểm đến Senegal, Châu Phi trong trường hợp
không có chuyển tải.
- Thời gian thực hiện hoàn tất một đơn hàng từ lúc nhận đơn đặt hàng
cho đến khi nhận thanh toán cuối cùng mất từ 4 – 12 tuần lễ. Chi phí bảo
hiểm từ 0,1 – 0,4% giá trị chuyến hàng.
- Các chứng từ cần thiết kèm theo khi giao hàng, như: C/O (certificate of
origin); chứng chỉ kiểm dịch, phun trùng và vệ sinh thực phẩm (the
certificates related to inspection, fumigation and phytosanitary) thường được
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B32
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
cấp trong vòng 1 – 2 ngày; nhưng giấy chứng nhận an toàn sức khỏe
(health certification) phải cần tới 7 – 10 ngày.
Ngoài ra, có một số biến động trở thành nguyên nhân chính làm cho
chuỗi cung ứng xuất khẩu gạo của Việt Nam thiếu tính ổn định, đó là: thời
gian xác nhận đơn hàng (the time to confirm orders); biến động giá gạo
nguyên liệu (the availability of inputs); và thời hạn giao hàng lên tàu. Tỷ lệ
xảy ra chậm trễ giao hàng thường chiếm 5% số chuyến hàng. Tuy nhiên, do
đặc điểm phức tạp trong công tác giao nhận của mặt hàng gạo nên các doanh
nghiệp Việt Nam không bị phạt khi chậm trễ giao hàng. Riêng vấn đề khắc
phục tình trạng biến động giá để đảm bảo cung ứng nguyên liệu ổn định
phục vụ xuất khẩu gạo cho thấy cần thiết xây dựng trung tâm lúa gạo lớn
(large central markets) như Thái Lan và tiến hành giao dịch quyền chọn cho
mặt hàng này (commodity-trading options).
Tài trợ
Thời gian nhận tiền thanh toán cho hàng xuất khẩu là khá chậm, nên doanh
nghiệp thường gặp khó khăn về dòng tiền và bị phụ thuộc rất lớn vào ngân
hàng thương mại. Trong thực tế, mức vốn vay (tín dụng ngắn hạn) thường
chiếm đến 90% tổng mức vốn lưu động của các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo. Cơ chế vay vốn khá linh hoạt, thời hạn vay từ 3 tháng đến 1 năm với lãi
suất thị trường, cho phép doanh nghiệp xuất khẩu có thể thực hiện được
những đơn hàng lớn đến 30.000 tấn gạo. Đặc biệt, các công ty thành viên của
Vinafood nếu được công ty mẹ bảo lãnh thì có thể vay không hạn chế hạn
mức tín dụng để mua gạo tạm trữ phục vụ chương trình bình ổn giá. Tuy
nhiên, có một sự hạn chế lớn là khi hợp đồng xuất khẩu gạo đã được ký và
nhà nhập khẩu đã mở tín dụng thư rồi thì doanh nghiệp vay vốn mới được
giải ngân. Khi đó, thường xảy ra hiện tượng tranh mua nguyên liệu giữa các
nhà xuất khẩu khiến cho giá gạo nguyên liệu bị biến động mạnh, nhất là khi
các doanh nghiệp nhận nhiều đơn hàng lớn trong mùa cao điểm xuất khẩu
gạo. Ngoài ra, do sự hạn chế của thị trường tài chính phái sinh tại Việt Nam
mà các doanh nghiệp xuất khẩu gạo không thực hiện bất kỳ chiến lược bảo hộ
giá nào (hedging strategies) trong quá trình kinh doanh.
II.Thực trạng của chuỗi cung ứng sản phẩm gạo ở nước ta hiện nay.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B33
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
1.Tình hình sản xuất chế biến và dự trữ lúa gạo của Việt Nam.
Tình hình sản xuất lúa của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1990 – 2013, việc gia tăng diện tích canh tác lúa không
liên tục, chỉ lên đến đỉnh điểm vào năm 2000 rồi sau đó giảm dần đi đến năm
2013 thì tăng lên đến 7,9 triệu ha. Nhưng hoạt động thâm canh đã mang lại
kết quả rất tích cực, liên tục trong 20 năm diện tích gieo trồng lúa tăng bình
quân 1,1%/năm; năng suất lúa tăng bình quân 2,6%/năm, tương ứng từ 3,2
tấn/ha năm 1990 lên 5,58 tấn/ha năm 2013; dẫn đến sản lượng lúa đã tăng hơn
2 lần trong cùng kỳ, từ mức 19,2 triệu tấn năm 1990 lên đến 44,1 triệu tấn vào
năm 2013, nhịp độ tăng bình quân đạt 3,7%/năm, tổng diện tích lúa cả năm
2012 đạt gần 7,75 triệu ha, tăng 1,2% so với năm 2011; năng suất bình quân
ước đạt 56 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; sản lượng ước đạt 43,4 triệu tấn, tăng hơn 1
triệu tấn (+2,6%) so với năm trước. sản lượng lúa cả năm 2013 đạt 44,1 triệu
tấn, tăng 0,7 triệu tấn so với năm trước. Trong đó diện tích gieo trồng 7,9 triệu
ha, tăng 0,15 triệu ha, đạt năng suất 55,8 tạ/ha. (bảng 2.1).
Bảng 2.1:Tình hình phát triển sản xuất lúa 1990 – 2013
Năm\Chỉ tiêu 1990 1995 2000 2005 2010 2011 2012 2013
Diện tích
(triệu ha)
6 6,7 7,7 7,3 7,5 6,5 7,75 7,9
Năng suất
(tấn/ha)
3,2 3,8 4,2 4,9 5,3 5,5 5,6 5.58
Sản lượng
(triệu tấn)
19,2 25 32,5 35,8 40 42,3 43,4 44,1
Nguồn tổng cục thống kê
Sản xuất lúa toàn quốc được phân bố trên 6 vùng kinh tế cơ bản. Trong đó,
3 vùng lúa quan trọng là Đồng bằng Sông Hồng (chiếm 19,2% sản lượng);
khu vực Bắc Trung bộ & Duyên hải Miền Trung (17% sản lượng); và Đồng
bằng Sông Cửu Long (53% sản lượng). Về thời vụ, sản xuất lúa được phân bố
đều 3 vụ trong năm. Vụ Đông Xuân (thu hoạch từ tháng 02 đến tháng 04) là
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B34
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
vụ chính có qui mô lớn nhất (năm 2011 chiếm 40,5% diện tích và 46,7% sản
lượng) và chất lượng lúa tốt nhất trong năm. Vụ Hè Thu (thu hoạch từ tháng
06 đến tháng 08) có qui mô lớn thứ hai (năm 2011 chiếm 33,8% diện tích và
31,5% sản lượng), nhưng do thu hoạch vào giữa mùa mưa mà công tác xử lý
sau thu hoạch chưa tốt nên chất lượng lúa kém nhất trong năm. Vụ mùa (thu
hoạch từ tháng 10 đến tháng 12) có chất lượng lúa tốt tương đương vụ Đông
Xuân, nhưng có qui mô nhỏ nhất (năm 2011 chiếm 25,7% diện tích và 21,8%
sản lượng).
Bảng2.2: Sản lượng lúa 2011 phân bố theo vùng (%)
Đồng bằng sông Hồng 19,2
Trung du và miền núi phía Bắc 6,9
Bắc trung bộ và duyên hải miền trung 17
Tây Nguyên 2,1
Đông Nam Bộ 1,8
Đồng bằng sông Cửu Long 53
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2011
Đồng bằng Sông Cửu Long - nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam. Đồng bằng Sông Cửu Long là nơi cung cấp lúa hàng hóa chủ yếu
của cả nước. Hàng năm, với sản lượng trên dưới 20 triệu tấn lúa (khoảng 13
triệu tấn gạo), sau khi đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ và làm giống, vùng
này có khả năng cung cấp bổ sung cho các vùng thiếu lương thực và tăng dự
trữ 3 – 4 triệu tấn/năm, cung ứng xuất khẩu 6 – 7 triệu tấn/năm.
Theo bảng 2.3, sản xuất lúa tại Đồng bằng Sông Cửu Long diễn ra chủ yếu
trong hai vụ Đông Xuân và Hè Thu (chiếm trên dưới 90% diện tích và sản
lượng); còn vụ mùa từ các tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau chỉ chiếm trên dưới
10% nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn cung gạo
xuất khẩu chất lượng cao (800.000 tấn/năm) ngay khi bắt đầu mùa nắng
(tháng 10 đến tháng 12) hàng năm ở miền Nam.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B35
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Bảng 2.3: Sản xuất lúa tại Đồng bằng Sông Cửu Long 2011 phân theo
thời vụ (%)
Chỉ tiêu\ Vụ Đông xuân Hè thu Vụ mùa
Diện tích (triệu ha) 38,3 52,5 9,2
Sản lượng (triệu tấn) 45,2 47,8 7
Nguồn: Tổng cục thống kê 2011.
Theo ngành nông nghiệp các tỉnh ĐBSCL, năm 2012 sản lượng lúa cả năm
của vùng là 24,6 triệu tấn tăng 1,1 triệu tấn so với năm 2011 nhờ trúng cả ba
vụ lúa đông xuân, hè thu, thu đông cùng với mở rộng diện tích lúa thu đông,
hè, thu. Năm 2012, toàn vùng đã đưa trên 4,1 triệu lượt ha đất vào trồng lúa.
Trong đó, vụ đông xuân sản lượng đạt 10,4 triệu tấn, vụ hè thu đạt 11 triệu
tấn, vụ thu đông và vụ mùa đạt 3,2 triệu tấn. Các tỉnh vận động nông dân gia
tăng sử dụng giống lúa thích nghi với từng vùng sinh thái và đạt chuẩn xác
nhận cho năng suất, chất lượng cao.
Tập quán sản xuất, chế biến và dự trữ lúa gạo.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, kỹ thuật sản
xuất và chế biến lúa gạo của Việt Nam vẫn còn ở qui mô nhỏ nên gặp nhiều
hạn chế:
- Nông dân sử dụng giống lúa không qua xác nhận (lấy từ vụ trước gieo
trồng cho vụ sau) lên đến hơn 60% hàng năm, chủ yếu là giống cao sản nên
chất lượng không cao và khó đảm bảo tốt về độ thuần chủng của lúa hàng
hóa.
-Diện tích canh tác bình quân của hộ nông dân rất thấp (64,2% số nông hộ
có diện tích dưới 0,5ha). Tỷ lệ cơ giới hóa sản xuất chưa cao, mới đạt 75%
trong khâu làm đất, 20% trong khâu gieo sạ, 85% trong khâu tưới tiêu chủ
động, 90% trong khâu tuốt lúa; trong khi đó, khâu chăm sóc lúa (làm cỏ, bón
phân, phun thuốc trừ sâu...) hầu như hoàn toàn bằng thủ công.
- Tập quán chế biến gạo tại Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi cung cấp tuyệt
đại bộ phận lương thực hàng hóa có đặc điểm cơ bản là xay xát qua hai lần:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B36
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
lần 1, lúa được xay xát ra gạo xô tại những nhà máy nhỏ gắn liền với các
vùng lúa; sau đó, gạo xô tiếp tục được xử lý lần 2 (đánh bóng, tách tấm, phối
trộn và đóng gói) để cho ra gạo trắng thành phẩm tại các nhà máy lớn tọa lạc
ở các đầu mối giao thương có điều kiện giao thông thuận lợi (trên bến, dưới
thuyền) như Thốt Nốt, Cần Thơ hoặc Cái Bè, Tiền Giang...
2.Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua.
2.1.Sản lượng gạo xuất khẩu
Mức tăng trưởng xuất khẩu gạo bình quân hàng năm trong giai đoạn 2006
– 2010 của Việt Nam là 22% về giá trị và 9,5% về khối lượng. Song, Việt
Nam vẫn thường xuyên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo sau Thái Lan.
Cụ thể, năm 2010 sản lượng xuất khẩu đạt 6,734 triệu tấn, tổng kim ngạch
xuất khẩu là 2,912 triệu USD, thấp hơn nhiều so với Thái Lan đạt sản lượng
9,047 triệu tấn và kim ngạch 5,341 triệu USD. mùa vụ 2010/2011, Việt Nam
xuất khẩu 7,1 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng 26,37 triệu tấn, so với 6,73
triệu tấn trong mùa vụ. Mùa vụ 2011/2012, Việt Nam vẫn duy trì mức xuất
khẩu gạo trên 7 triệu tấn và đã đạt 7,72 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt
3,45 tỷ USD.
2.2.Thị trường xuất khẩu.
Trong mấy năm gần đây gạo Việt Nam đã thâm nhập và tăng được khối
lượng xuất khẩu vào những thị trường gạo cao cấp, như: Hongkong,
Singapore, Úc, Nhật Bản.... Song, về căn bản thì thị trường xuất khẩu gạo chủ
lực của Việt Nam vẫn là Châu Á (59%) và Châu Phi (24%). Trong đó, phần
lớn là đáp ứng cho nhu cầu an ninh lương thực của Philippine, Indonesia,
Malaysia và một số nước Châu Phi với mức giá rất cạnh tranh theo hợp đồng
chính phủ (G2G). Năm 2013, cả nước đã xuất khẩu gần 6,6 triệu tấn gạo,
giảm hơn 1,4 triệu tấn (tức giảm 17,76%) so với năm 2012, kim ngạch đạt gần
2,93 tỷ USD, giảm 20,36%, đây là mức xuất khẩu thấp nhất trong 3 năm qua.
Với kết quả này, Việt Nam đã giảm xuống xếp thứ 3 sau Ấn Độ và Thái Lan
trên bảng tổng xếp xuất khẩu gạo không đáp ứng được mục tiêu xuất khẩu
gạo đã đề ra 7,5 triệu tấn hồi đầu năm 2013; xuất khẩu gạo Việt Nam sụt giảm
là do áp lực cạnh tranh cao và sụt giảm nhu cầu của các thị trường truyền
thống như Malaysia, Philippines và Indonesia. Năm 2014, Việt Nam phấn đấu
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B37
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
xuất khẩu 7 triệu tấn gạo.Các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam
trong năm 2013 gồm Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Hồng
Kông và Bờ biển Ngà. Trung Quốc vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của
Việt Nam trong năm 2013. Trong năm 2013, Trung Quốc nhập khẩu hơn 2,15
triệu tấn gạo, với trị giá 901,86 triệu USD, tăng 3,21% về khối lượng và
0,38% về giá trị, chiếm 30,83% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Lượng gạo xuất khẩu sang Bờ biển Ngà đứng thứ 2 thị trường, với 561.333
tấn, trị giá 228,53 triệu USD (tăng trên 17% về lượng và tăng 12,37% về kim
ngạch so cùng kỳ); tiếp đến là xuất sang Philippines 504.558 tấn, trị giá
225,44 triệu USD (giảm mạnh trên 50% cả về lượng và kim ngạch); xuất sang
Malaysia 465.977 tấn, trị giá 231,43 triệu USD (giảm 40% cả về lượng và
kim ngạch so năm 2012). Nhìn chung năm 2013, xuất khẩu gạo sang đa số
các thị trường bị sụt giảm so với năm 2012; trong đó một số thị trường sụt
giảm mạnh như: Indonesia (giảm 83,13% về lượng và giảm 80,08% về kim
ngạch); Senegal (giảm 74,65% về lượng và giảm 73,6% về kim ngạch);
Philippines (giảm 54,64% về lượng và giảm 52,57% về kim ngạch); Đài Loan
(giảm 53,29% về lượng và giảm 49,46% về kim ngạch). Tuy nhiên, xuất khẩu
sang một số thị trường vẫn đạt mức tăng trưởng cao trên 100% về lượng và
kim ngạch như: xuất sang Nga (tăng 495,8% về lượng và tăng 458,73% về
kim ngạch); Ucraina (tăng 224,56% về lượng và tăng 177,04% về kim
ngạch); U.A.E (tăng 121,22% về lượng và tăng 113,14% về kim ngạch); Hà
Lan (tăng 241,85% về lượng và tăng 145,62% về kim ngạch) và Ba Lan (tăng
156,87% về lượng và tăng 97,04% về kim ngạch).
Bảng 2.4:Các nước nhập khẩu gạo Việt Nam năm2013 (1.000 tấn)
Trung Quốc 2153
Bờ Biển Ngà 561
Philippin 505
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B38
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Malaysia 466
Gana 380
Singapore 356
Hongkong 185
Indonesia 157
Angola 117
Đông Timo 96
Angieri 95
Nga 93
Hoa Kỳ 56
Đài Loan 52
Senegal 46
Nam Phi 32
Bỉ 27
Chilê 27
Ucraina 25
Hà Lan 19
Ba Lan 3
Nguồn: Tổng Cục Hải quan Việt Nam
Mùa vụ 2011/12, nước ta xuất khẩu 7,72 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng
27,15 triệu tấn, tiếp tục giữ vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, sau
Ấn
Độ. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong mùa vụ 2011/2012 là
các quốc gia châu Á chiếm 77,7% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước
(tương
đương 6 triệu tấn). Indonesia, Philippines và Malaysia vẫn tiếp tục là ba
thị trường nhập khẩu truyền thống. Tiềm năng tiêu thụ gạo của các thị trường
này vẫn còn khá lớn, tuy nhiên, theo USDA, trong vài năm tới, lượng gạo
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B39
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này sẽ bị thu hẹp dần. Mùavụ
2011/12, Trung Quốc là nước nhập khẩu gạo nhiều nhất của Việt Nam với
kim ngạch hơn 2 triệu
tấn. Dự báo xuất gạo của Việt Nam sang thị trường này sẽ tiếp tục tăng
trong mùa vụ 2012/13. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh
gay gắt từ Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và Myanmar khi xuất khẩu gạo sang
Trung Quốc. Đối với thị trường châu Phi, Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so
với Ấn Độ và Pakistan nhất là với loại gạo tấm 5%; nhưng lại phải đối mặt
với sức ép cạnh
tranh gay gắt từ Thái Lan vì các nhà xuất khẩu TháiLan có thể hạ thấp giá
bán để cạnh tranh tại thị trường quan trọng này. Theo Hiệp hội Lương
thựcViệt Nam, Ấn Độ và Pakistan lại có lợi thế cạnh tranh đối với thị trường
gạo chất lượng thấp (đặc biệt là gạo tấm 25%).Xét về lượng, trung bình mỗi
năm Việt Nam xuất
khẩu sang châu Phi từ 1,2 đến 1,5 triệu tấn gạo. Mùa mua sắm tại thị
trường châu Phi không bắt đầu vào quý đầu tiên của năm mà thường từ quý 2
trở đi.Gạo xuất sang châu Phi thường được bán theo cơ sở giá FOB; hàng hóa
được chuyển bằng tàu lớn và dừng lại ở nhiều cảng tại các quốc gia châu Phi
khác nhau. Chính vì vậy, rất khó để đưa ra con số chính xác về lượng gạo
xuất khẩu của Việt Nam sang châu lục này. (Bảng 2.5)
Bảng 2.5: Xuất khẩu gạo của Việt Nam mùa vụ 2011/2012 (tấn).
5% 10% 15% 25% 100% Glutinou
s
Jasmine Các loại
khác
Tổng
Châu Á 2.684.815 - 1.505.76
7
793.317 15.925 309.434 433.707 5.832 5.748.797
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B40
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Châu
Phi
821.826 - 75.947 98.407 365.610 - 104.162 52.356 1.518.308
Châu
Âu và
các
nước
CIS
39.828 24.699 756 - - - 24.564 - 89.847
Châu
Mỹ
32.014 - 213.090 2.901 55.883 - 25.445 - 329.333
Châu
Úc
19.235 - - - - - 11.036 - 30.271
Tổng 3.597.718 24.699 1.795.56
0
894.625 437.418 309.434 598.914 58.188 7.716.556
Nguồn: Thông tin thương mại/Tổng cục Hải quan Việt Nam/Hiệp hội lương thực Việt Nam
(2012).
Theo báo cáo của USDA, Việt Nam đang muốn tiếp cận thị trường mới để
đẩy mạnh xuất khẩu. Việt Nam đã xuất khẩu gạo đến Chile và Haiti trong
năm ngoái và đang tìm cách mở rộng thị phần tại Tây bán cầu.Cũng theo báo
cáo, sản lượng lúa gạo Việt Nam năm 2013 ước tính 27,65 triệu tấn, tăng so
với khoảng 27,15 triệu tấn năm trước. Tiêu thụ lúa gạo trong nước dự kiến sẽ
tăng nhẹ, từ khoảng 19,65 triệu tấn năm 2012 lên 20,1 triệu tấn năm 2013.
2.3.Giá gạo xuất khẩu.
Giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam thường thấp hơn gần 30% so với
Thái Lan
Bảng 2.6:Giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam và Thái Lan (USD/tấn)
Năm/Nước 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Việt Nam 255 296 569 440 431 495 456 432
Thái Lan 346 378 613 590 594 545 510 442
Nguồn: VFA & Thai rice exporter Associations
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B41
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Mức chênh lệch giá này chủ yếu là do gạo xuất khẩu của Việt Nam phần
lớn thuộc phẩm cấp trung bình, gạo trắng thường 15 – 25% tấm, chưa có
thương hiệu riêng. Trong khi đó, Thái Lan đã định vị các thương hiệu gạo nổi
tiếng trên thị trường thế giới như Khaw Dawk Mali, Hom Mali, Jasmine 85;
Ấn Độ và Pakistan thì có gạo Basmati. Riêng gạo đồ (parboiled rice) xuất
khẩu cho thị trường Châu Phi thì hầu như do Thái Lan khống chế, Việt Nam
chỉ mới tham gia thị trường gạo đồ với khối lượng chưa đáng kể.
Năm 2012, sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt 7,72 triệu tấn, trị
giá FOP đạt 3,45 tỷ USD.Theo VFA năm 2012 lượng gạo xuất khẩu gạo của
Việt Nam vượt năm 2011 nhưng thua về giá trị. Nguyên nhân căn bản được lý
giải là do giá gạo xuất khẩu giảm. Năm 2011 cả nước xuất khẩu đạt 7,105
triệu tấn, nhưng giá FOP là 3,507 tỷ USD. Khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam là gạo có phẩm cấp thấp (gạo 25% tấm), gạo có phẩm cấp cao
(5% tấm) thì vẫn chưa cạnh tranh được với gạo của Thái Lan. Gạo có phẩm
cấp thấp thị trường tiêu thụ ngày càng bị thu hẹp và chịu sự cạnh tranh gay
gắt từ các nước Ấn Độ, Pakistan và
Myanmar.Giá gạo xuất khẩu trung bình theo giá FOP năm 2012 khoảng
456USD/tấn. Mặc dù quý I/2013 giá xuất khẩu gạo trung bình tăng đạt
468USD/tấn (tăng 2% so với năm 2012). Mức giá này thấp hơn mức giá xuất
khẩu trung bình năm 2011 là 39USD/tấn (giá trung bình năm 2011 là
495USD/tấn).
3.Hình thức chuỗi cung ứng xuất khẩu gạo của Việt Nam
* Các mô hình kinh doanh xuất khẩu gạo của Việt Nam
Khảo sát về chuỗi cung ứng xuất khẩu gạo của Việt Nam (nghiên cứu điển
hình các doanh nghiệp tại khu vực phía Nam) có thể thấy 2 mô hình xuất khẩu
gạo cơ bản như sau:
Sơ đồ 1: Mô hình A (Thu mua gạo – xuất khẩu)
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B42
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Nông dân→ Hàng sáo→ Nhà máy xay xát 1→ Nhà máy xay xát 2→Công
ty xuất khẩu→Cảng Sài gòn→Nhà nhập khẩu
Doanh nghiệp thu mua gạo nguyên liệu (gạo xô) từ thương lái để tái chế ra
gạo thành phẩm xuất khẩu. Theo mô hình này, phần lớn là cung ứng gạo cho
các hợp đồng G2G và các thị trường có nhu cầu gạo phẩm cấp trung bình như
Philippines, Indonesia, Cuba, Châu Phi... Qui cách gạo thường khó đảm bảo
độ thuần chủng nên giá không cao.
Đặc điểm kinh doanh của mô hình:
•Gạo nguyên liệu chuyển đến doanh nghiệp xuất khẩu qua nhiều cấp hàng
sáo.
•Không truy xuất được nguồn gốc gạo nguyên liệu. Chất lượng gạo không
ổn định.
• Qui trình chế biến gạo qua 2 giai đoạn (two process system).
• Vận chuyển xuất khẩu theo xà lan đường sông tải trọng từ 100 – 1.000
tấn đến cảng Sài Gòn. Gạo được đóng bao 25 – 50 kg tùy theo yêu cầu của
khách hàng.
Sơ đồ 2: Mô hình B (Đầu tư vùng lúa chuyên canh – xuất khẩu)
Nông dân Nông trường→Nhà máy xay xát→Công ty xuất khẩu→Công ty
vận chuyển→Cảng Sài gòn→Nhà nhập khẩu
Doanh nghiệp xây dựng vùng lúa nguyên liệu đặc chủng để xuất khẩu.
Theo mô hình này, gạo được cung ứng cho các thị trường có nhu cầu gạo cao
cấp như Hongkong, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc... và giá gạo xuất khẩu (5%
tấm) thường cao hơn giá gạo cùng phẩm cấp của mô hình A khoảng 40 USD
(tại thời điểm khảo sát tháng 9/2011). Đây là xu hướng chuyển dịch cơ bản
của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở các tỉnh phía Nam hiện nay.
Đặc điểm kinh doanh của mô hình:
•Vùng nguyên liệu gieo trồng giống lúa cho gạo thơm đáp ứng yêu cầu của
thị trường cao cấp.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B43
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
•Kiểm soát được chất lượng và giống gạo tại nguồn cung cấp, gạo đồng
nhất
•Cơ giới hóa các khâu thu hoạch, vận chuyển, dự trữ, xay xát theo qui
trình khép kín (one process system), tỷ lệ hao hụt thấp.
• Thực hiện chuỗi cung ứng đầu vào và đầu ra cũng thuận lợi, hiệu quả
hơn
Tuy nhiên, chi phí đầu tư sẽ cao hơn nhiều và qui mô diện tích đất canh tác
phải lớn. Đây là một trong những trở ngại lớn đối với quá trình cơ giới hóa
nông nghiệp của Việt Nam hiện nay.
4. Hình thức chuỗi cung ứng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Kết quả phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian
qua đã bộc lộ những nhược điểm liên quan đến vấn đề liên kết chuỗi cung ứng
đầu vào và đầu ra của hoạt động xuất khẩu gạo. Trong đó, hầu hết các doanh
nghiệp đều xuất khẩu gạo trắng các loại (từ 5 – 25% tấm), chỉ có một doanh
nghiệp xuất khẩu gạo đồ (parboiled rice) từ năm 2009 đến nay.
Phân tích chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu
Theo mô hình A
Hàng sáo mua lúa trực tiếp của nông dân từ các vùng khác nhau với qui mô
dao động rất linh hoạt từ 100 kg – 50 tấn/lượt. Điểm mua ngay tại đồng ruộng
hoặc tại kho dự trữ của nông dân, thanh toán hoàn toàn bằng tiền mặt. Hàng
sáo sẽ sấy lúa, xay xát và dự trữ gạo tại các nhà máy xay xát nhỏ ven sông.
Khi các nhà xuất khẩu đặt hàng hoặc chào giá mua hợp lý thì hàng sáo sẽ giao
gạo nguyên liệu tại nhà máy của nhà xuất khẩu hoặc giao gạo thành phẩm tại
cảng giao hàng do nhà xuất khẩu chỉ định. Phương tiện vận chuyển chủ yếu là
xà lan đường sông. Thời gian vận chuyển từ Thốt Nốt, Cần Thơ lên cảng Sài
Gòn bình quân 24 – 36 giờ. Mùa cao điểm vào dịp tết Nguyên Đán hàng năm
có thể mất nhiều thời gian hơn do lượng vận chuyển lớn qua kênh Chợ Gạo,
thuộc tỉnh Tiền Giang. Hàng sẽ được giao lên tàu tại phao chỉ định ở cảng Sài
Gòn, thời gian chờ giao hàng từ 2 – 3 ngày. Xuất khẩu theo mô hình này phổ
biến là gạo trắng 15 – 25% tấm theo điều kiện FOB cảng Sài Gòn, đáp ứng
cho các đơn hàng theo hợp đồng G2G, B2G đi các nước Đông Nam Á, Châu
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B44
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Phi và Cuba. Theo các doanh nghiệp, mức lời đối với những đơn hàng này
khá thấp (thường chỉ từ 5 – 10 USD/tấn), thậm chí có những lúc bị lỗ (như
năm 2008).
Theo mô hình B :
Hàng sáo mua lúa trực tiếp của nông dân từ các vùng lúa chuyên canh để
cung ứng cho đơn hàng của các nhà xuất khẩu theo mức giá thỏa thuận vào
thời điểm mua. Hoặc nhà xuất khẩu mua lúa trực tiếp từ nông dân. Lúa/gạo
nguyên liệu được giao đến các nhà máy của nhà xuất khẩu, thanh toán bằng
tiền mặt. Gạo nguyên liệu được lau bóng, tách hạt khác màu (sortex), phối
trộn và đóng gói theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Gạo xuất khẩu chủ yếu là
gạo thơm (jasmine, fragrance) 5% tấm, đóng gói từ 1 – 10kg/bao (PP, PE),
đựng trong container 20’ và bán theo điều kiện CNF, CIF hoặc FOB. Phương
tiện vận chuyển chủ yếu là xà lan đường sông và đóng container tại ICD của
cảng Sài Gòn đối với các tỉnh ven Sông Hậu; hoặc vận chuyển bằng xe
container theo quốc lộ 1A về cảng Sài Gòn, thời gian vận chuyển trung bình 4
– 5 giờ đối với hàng hóa từ Tiền Giang và Long An. Gạo xuất khẩu theo mô
hình này chủ yếu đáp ứng cho các đơn hàng theo hợp đồng đi những thị
trường gạo cao cấp như Hongkong, Ả rập Xeut, Úc, Hàn Quốc... Theo các
doanh nghiệp,mức lời đối với những đơn hàng này thường cao hơn mô hình
A, đạt trung bình từ 40 – 50 USD/tấn.
III.Kết luận đánh giá qua nghiên cứu thực trạng.
Từ đầu thập niên 1990s đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba quốc
gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Song, vị thế cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới vẫn thường xuyên đứng sau Thái Lan với một
khoảng cách khá xa.Trong những năm qua xuất khẩu gạo của Việt Nam đã
tạo được một số thành tựu nổi bật là: Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu
không ngừng tăng lên (năm 2012 đạt 7,72 triệu tấn, kim ngạch đạt 3,5tỷ
USD); Kết cấu chủng loại gạo đặc biệt là các loại gạo thơm giá trị cao đã có
nhiều cải thiện; thị trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng; xuất khẩu
gạo đã góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, tạo sự
ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo;
Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với phát triển nông nghiệp nông thôn,
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B45
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nói riêng
và cả nước nói chung; Xuất khẩu gạo góp phần hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng hơn. Bên cạnh đó vẫn có những nhược điểm là: Chất lượng gạo xuất
khẩu còn thấp; giá xuất khẩu thấp so với các nước Thái Lan, Ấn Độ; năng lực
cạnh tranh trên thị trường quốc tế yếu…Vấn đề lớn nhất là vấn đề tổn thất sau
thu hoạch. Từ đầu thập niên 1990s đến nay, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch của
ngành lúa gạo đã giảm từ 16% còn 13,7%. Nhưng như vậy vẫn còn rất cao,
gấp hơn 2 lần so với Nhật Bản (chỉ có 5%) hay Ấn Độ (6%). Theo thông tin
từ Hội thảo về bảo quản lúa gạo cho Đồng bằng Sông Cửu Long tại Cần Thơ
ngày 30/06/2011 thì, cơ cấu tổn thất sau thu hoạch lúa gạo của vùng này như
sau: thu hoạch 3%,phơi sấy 4,2%, xay xát 3%, bảo quản 2,6%, vận chuyển
0,9%. Kết hợp thêm với một số thông tin của Phân viện Cơ điện nông nghiệp
và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT), có thể chỉ ra các nguyên nhân
yếu kém là:
•Theo ước tính của các chuyên gia, trung bình mỗi năm khu vực đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) thiệt hại tới nửa tỷ USD (tương đương cả chục nghìn tỷ
đồng) vì thiếu các loại máy móc phục vụ thu hoạch, bảo quản lúa.Đến năm 2012
ĐBSCL cần thêm 8.000 máy sấy. Hiện tại, tỷ lệ cơ giới hóa trong thu hoạch tại
ĐBSCL chỉ đạt 40%, trong khi tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch (STH) vẫn ở mức
cao, tới 13%. Theo Bộ NNPTNT, hiện nay ở khu vực ĐBSCL có 9.600 máy sấy,
đáp ứng được khoảng 45-50% lượng lúa thu hoạch vụ hè thu (tương đương
khoảng 8 – 8,5 triệu tấn).Với sản lượng lúa còn lại, ĐBSCL cần có thêm khoảng
8.000 máy sấy với năng suất trung bình 8,8 tấn/mẻ. Riêng khâu thu hoạch, đến
nay ĐBSCL có 12.234/máy gặt lúa, trong đó máy gặt đập liên hợp (GĐLH) là
8.698 chiếc, chiếm 71%. Số máy trên chỉ đáp ứng được 56% diện tích lúa được
gặt bằng máy.Việc thu hoạch lúa bằng máy có lợi ích là giảm được chi phí, bình
quân chi phí gặt bằng máy chỉ hết 2,1 triệu đồng/ha, tiết kiệm 900.000 đồng/ha so
với thu hoạch bằng tay. Hơn nữa, việc dùng máy GĐLH, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân bán lúa tươi tại ruộng cho thương lái và thương lái thực hiện việc
làm khô lúa tại các lò sấy dịch vụ quy mô lớn.máy gặt, còn có tình trạng thiếu lao
động (cụ thể là tài xế), khiến cho nông dân không dám đầu tư mua máy GĐLH.
Để điều hành 1 máy GĐLH cần 1 tài xế và 2-4 người hỗ trợ việc đóng bao. Theo
ông Phạm Xuân Phú (Trường Đại học An Giang), hầu hết các tài xế đều không
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B46
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
được đào tạo một cách bài bản, chủ yếu là những người đã từng lái máy cày, máy
kéo chuyển sang, nhưng số lượng tài xế này cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu sử
dụng máy GĐLH. Quan hệ giữa chủ máy và tài xế rất lỏng lẻo, 100% là hợp đồng
bằng miệng nên chỉ cần có bất đồng là tài xế sẵn sàng bỏ đi, gây nhiều thiệt hại
cho chủ máy.Theo khảo sát, toàn vùng ĐBSCL hiện có khoảng 6.500 máy
GĐLH, nhưng toàn bộ người điều khiển số máy này chưa qua đào tạo. Tình trạng
này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thu hoạch lúa bằng máy ở ĐBSCL.
•Máy sấy cũng thiếu trầm trọng, đến năm 2009 số máy sấy lúa tại Đồng
bằng Sông Cửu Long có 6.435 máy (tổng công suất khoảng 37.000 tấn/mẻ
sấy), chỉ đáp ứng được 31% nhu cầu sấy lúa vụ Hè Thu. Giải pháp phơi sấy
thủ công không chỉ làm tăng tổn thất do rơi vãi mà còn ảnh hưởng giảm chất
lượng lúa gạo do không đạt tiêu chuẩn về ẩm độ, nhất là trong mùa mưa.
•Trong khâu xay xát, yêu cầu độ ẩm của lúa phải đạt 14 – 14,5% thì khi
xay xát mới đảm bảo tốt về qui cách chất lượng gạo và tỷ lệ hạt nguyên cao
(có thể đến 55% khối lượng gạo thu hồi). Tuy nhiên, do khâu phơi sấy không
tốt nên lúa thường không đạt ẩm độ tiêu chuẩn, khi xay xát không chỉ hao hụt
nhiều mà còn làm giảm tỷ lệ chính phẩm, tăng tỷ lệ thứ phẩm và phụ phẩm
(trong đó, tỷ lệ gạo nguyên hạt chỉ khoảng 40%). Mặt khác, do tập quán xay
xát hai lần như nói trên cũng góp phần làm tăng tỷ lệ hao hụt.
• Trong khâu bảo quản, cả khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long hiện có hệ
thống kho chứa lương thực với tổng tích lượng vào khoảng 800.000 tấn.
Nhưng hầu hết kho đều được xây dựng trên căn bản dùng để dự trữ gạo: qui
mô nhỏ (một kho chứa từ vài trăm đến vài ngàn tấn), trữ gạo trong bao (25 –
50 kg/bao), có trang bị băng tải kết hợp với bốc xếp thủ công. Bên cạnh đó,
chỉ có 3 cụm silo tại Trà Nóc (Cần Thơ), Cao Lãnh (Đồng Tháp) và Bình
Chánh (Tp.Hồ Chí Minh) với tích lượng khoảng 70.000 tấn dùng để dự trữ
lúa, có kết hợp trang bị đường ống hút lúa, máy sấy, cân đo điện tử và vận
hành tự động... khá hiện đại, nhưng không đáng kể so với nhu cầu chung và
cũng ít được sử dụng trong thực tế do chi phí vận hành cao hơn làm thủ công.
• Trong khâu vận chuyển lương thực, khối lượng vận chuyển đường thủy
chiếm tỷ trọng khoảng 3/4 còn lại vận chuyển đường bộ khoảng 1/4. Riêng tại
Đồng bằng Sông Cửu Long khối lượng vận chuyển đường thủy chiếm tới hơn
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B47
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
90%. Qui cách lúa gạo khi vận chuyển cũng giống như khi dự trữ, chủ yếu là
đóng bao PP cỡ 25 – 50 kg/bao và bốc xếp thủ công là chính nên tỷ lệ hao hụt
khá nhiều.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B48
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
CHƯƠNG III
XUẤT KHẨU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
I.Mục tiêu đinh hướng phát triển của ngành nông nghiệp.
1.Mục tiêu chung
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt
và lâu dài. Duy trì, chủ động và đẩy mạnh sản xuất giống; đảm bảo diện tích
lúa, ngô vùng thấp; chú trọng vào tăng vụ lúa xuân, đồng thời phát triển cây
ngô xuân và ngô vụ mùa và tăng vụ ngô thu đông vùng cao; bố trí cơ cấu
giống, thời vụ hợp lý; đẩy mạnh thâm canh và áp dụng khoa học kỹ thuật,
giống mới để nâng cao năng suất, sản lượng (Trong đó, đặc biệt quan tâm hỗ
trợ thâm canh vùng trọng điểm lúa để nâng cao năng suất, sản lượng).
- Phát triển mạnh các loại rau, hoa và cây ăn quả bản địa có ưu thế đặc
thù của địa phương như phát triển sản xuất rau chuyên canh trái vụ vùng cao,
đào pháp, lê Tai nung, dứa, chuối... Xây dựng và phát triển thương hiệu, mở
rộng các hình thức liên kết trong sản xuất, xúc tiến thương mại để mở rộng thị
trường;
- Thực hiện đầu tư thâm canh diện tích chè hiện có, tập trung vào cải tạo
tăng năng xuất, chất lượng chè. Đầu tư mở rộng trồng cây thuốc lá, đảm bảo
sản xuất ổn định và lâu dài; Duy trì diện tích cây đậu tương, cây lạc, chú trọng
vào thâm canh tăng năng xuất. Tập trung và tích cực triển khai trồng cây cao
su, tuyên truyền vận động để người dân hiểu và tích cực tham gia, đồng thời
làm tốt công tác đo đạc quy chủ, lập hồ sơ địa chính bàn giao đủ diện tích đất
cho công ty cao su.
- Đẩy mạnh việc chuyển đổi và đổi mới phương thức chăn nuôi: Tập trung
chỉ đạo về công tác giống, kỹ thuật, chủ động nguồn thức ăn và các điều kiện
cần thiết để phát triển nhanh đàn gia súc, gia cầm theo hướng hình thành các
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B49
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
vùng chăn nuôi tập trung hình thức trang trại, nuôi công nghiệp, nuôi nuôi
thâm canh bò; phát triển và xây dựng thương hiệu trâu Bảo Yên gắn với xây
dựng cơ sở giết mổ tập trung và xử lý chất thải; tăng nhanh các cây thức ăn
chăn nuôi, nhất là các giống cỏ mới; chủ động phòng chống dịch bệnh trên
đàn gia súc, gia cầm;
- Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, đa loài, đa đối tượng
(chú trọng nhiều hình thức nuôi thâm canh, bán công nghiệp); Đẩy mạnh phát
triển các đối tượng nuôi có hiệu quả kinh tế cao như: nuôi cá Hồi, cá tầm, tôm
càng xanh, rô phi đơn tính, chép lai V1… Thực hiện tốt công tác giống,
khuyến ngư, kiểm soát dịch bệnh, đảm bảo nuôi trồng thuỷ sản phát triển an
toàn dịch bệnh và bền vững.
2.Mục tiêu cụ thể
*Giai đoạn 2011-2015: phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, bảo vệ môi trường.
-Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt
về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học công
nghệ.
-Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực, nâng cao cả kiến thức, kỹ năng
sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp.
-Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường sinh thái
nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống
dịch bệnh cho cây trồng, phòng chống thiên tai.
*Giai đoạn 2016-2020: Phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện
đại, sản xuất hàng hoá lớn, vững bền.
-Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,5-
4%. Hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam
trên trường quốc tế
*Định hướng
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B50
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
- Duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt khoảng từ 2,5 - 3%/năm,
trong đó giai đoạn 2011 - 2015 là khoảng 2,7%/năm và giai đoạn 2016 - 2020
là khoảng 2,6%/năm bằng các giải pháp tăng năng suất, tăng chất lượng, giảm
giá thành, điều chỉnh cơ cấu phù hợp xu hướng biến đổi nhu cầu tiêu dùng
theo mức tăng thu nhập của nhân dân (giảm tỷ lệ tiêu thụ lương thực, tăng rau
hoa quả, tăng nông sản tiêu dùng từ cây công nghiệp, tăng cây trồng làm
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cây trồng làm nhiên liệu sinh học, nguyên liệu
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dược liệu...), duy trì quy mô sản xuất
lương thực hợp lý, đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực cho mức dân số ổn
định tương lai. Tập trung phát triển các cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có
lợi thế và thị trường thế giới phát triển trong tương lai có nhu cầu (lúa, cà phê,
cao su, điều, tiêu, chè, rau hoa quả nhiệt đới,…), giảm thiểu những cây trồng
kém lợi thế, chấp nhận nhập khẩu với quy mô hợp lý phục vụ chế biến và nhu
cầu tiêu dùng trong nước (bông, thuốc lá, rau hoa quả ôn đới, đỗ tương…).
-Phát triển chăn nuôi theo lợi thế của từng vùng sinh thái nhằm đáp ứng
nhu cầu thị trường trong nước theo hướng sản xuất tập trung công nghiệp,
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi
trường. Đẩy mạnh mức tăng trưởng của ngành chăn nuôi đạt khoảng 6 - 7%
trong giai đoạn 2011 - 2015 và khoảng 5 - 6% trong giai đoạn 2016 - 2020
đáp ứng nhu cầu trong nước với mức thu nhập ngày càng tăng (tăng thịt đỏ,
tăng gia cầm, tăng trứng sữa, tăng sản phẩm đặc sản,…), theo hướng phát
triển sản xuất thâm canh công nghiệp quy mô lớn, tăng nhanh hiệu quả sản
xuất, giảm giá thành thức ăn chăn nuôi phòng chống dịch bệnh gia súc, gia
cầm, làm tốt công tác vệ sinh an toàn và kiểm dịch động vật. Tập trung phát
triển những ngành hàng có lợi thế ở từng địa phương. Xác định rõ quy mô tự
túc tối ưu và mức độ nhập khẩu cần thiết những sản phẩm mà nước ngoài có
lợi thế hơn (sữa, bò, gà, sản phẩm chăn nuôi ôn đới,…) để tập trung đầu tư và
phát triển công nghiệp chế biến.
-Tạo bước phát triển đột phá, tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong cơ
cấu ngành. Tập trung phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi thủy sản nước lợ và
sau đó là nước ngọt, mở rộng nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm
canh tăng năng suất, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân
bằng sinh thái môi trường. Chuyển sang đánh bắt biển xa theo hướng khai
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B51
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất
ngành Thủy sản đạt khoảng 10,5%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và 11-
12%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên biển và
hải đảo bằng các loài hải sản có giá trị thương mại cao (cá biển, tôm hùm, bào
ngư,…), phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt với đối tượng nuôi chính là
cá tra, rô phi đơn tính, tôm càng xanh; nuôi trồng thủy sản nước lợ chủ yếu là
tôm sú và tôm chân trắng. Phát triển khai thác hải sản xa bờ, viễn dương, xây
dựng đội tàu hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, kết hợp đánh bắt với du
lịch, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội tại các vùng ven biển, hải đảo…
bảo vệ nguồn lợi tự nhiên và cân bằng sinh thái môi trường. Tổ chức lại hệ
thống nhà máy chế biến đạt trình độ công nghệ tương đương các nước phát
triển, theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn, đa dạng hóa sản phẩm, tăng giá trị
gia tăng, gắn với vùng sản xuất nguyên liệu tập trung.
-Ổn định cơ cấu rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Quản lý, sử dụng
bền vững diện tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất hiện có, thay thế các diện
tích kém hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, tạo vùng nguyên liệu tập
trung chuyên canh có quy mô vừa và lớn, đáp ứng tiêu chí vững bền, cung cấp
phần quan trọng nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến và nhu cầu của
ngành tiểu thủ công nghiệp, đưa lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế
có hiệu quả cao. Cải thiện tốc độ phát triển và mở rộng tỷ trọng của ngành
lâm nghiệp trong tăng trưởng ngành, phấn đấu đến năm 2020 tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt khoảng 3,5 - 4%, tỷ trọng GDP lâm
nghiệp trong tổng GDP đạt khoảng 2 - 3%; từng bước tạo ra thu nhập từ rừng
cho các đối tượng trồng và bảo vệ rừng. Tập trung ưu tiên phát triển sản xuất
lâm sản ngoài gỗ. Phát triển trồng cây phân tán phục vụ nhu cầu đa dạng ngày
càng tăng. Đầu tư phát triển rừng phòng hộ trên địa bàn đầu nguồn, nhạy cảm
môi trường ở miền núi phía Bắc, miền Trung, ở các vùng ven biển. Củng cố,
phát triển hệ thống rừng đặc dụng, bảo tồn nguyên trạng đa dạng sinh học,
phát triển hệ sinh thái đáp ứng mục tiêu hàng đầu về môi trường và thực hiện
các nhiệm vụ phối hợp như du lịch, nghiên cứu.
II.Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng xuất khẩu gạo ở nước ta.
1.Cải tiến đồng bộ hóa dịch vụ logistics.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B52
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
*Phải đi từ chủ thể quan trọng nhất của chuỗi giá trị lúa gạo là người
nông dân. Nông dân phải là người chủ trang trại gia đình sản xuất lúa gạo
hàng hóa có quy mô lớn, nhờ tích tụ ruộng đất, cơ giới hóa sản xuất và áp
dụng công nghệ canh tác tiên tiến từ khâu giống đến quá trình canh tác, thu
hoạch, sơ chế, bảo quản theo tiêu chuẩn và quy trình Global GAP. Nhờ đó,
chất lượng lúa gạo được nâng cao và ổn định, đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm với khối lượng hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến
và của thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Nông dân sản xuất hàng hóa
lớn phải là nông dân chuyên nghiệp, được đào tạo để trở thành những chủ
trang trại lớn. Khi tham gia mối liên kết này, chỉ những nông dân sản xuất lúa
gạo hàng hóa lớn mới cần và có thể giữ chữ tín trong các hợp đồng liên kết
với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ở cả đầu vào và đầu ra của sản xuất.
Các doanh nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ lúa gạo phải được trang bị
công nghệ tiên tiến, đồng thời phải trở thành “nhạc trưởng” trong chuỗi giá trị
ngành hàng lúa gạo, tổ chức lại nền sản xuất của nông dân theo hướng hiện
đại.
Các doanh nghiệp chế biến, bảo quản tiêu thụ lúa gạo cũng chỉ có thể và
cần liên kết với các nông dân sản xuất hàng hóa lớn, tuân thủ tiêu chuẩn
Global GAP. Các doanh nghiệp này không thể ký hợp đồng với hàng chục
vạn hộ nông dân sản xuất nhỏ để tạo ra các cánh đồng lớn “liền đồng, cùng trà
giống,khác chủ.
Trong sản xuất lúa gạo, Nhà nước và chính quyền địa phương phải có định
hướng, tuyên truyền, khuyến cáo người nông dân muốn xuất khẩu bền vững
thì phải chú ý đến chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng cường sản xuất
lúa thơm jas-mine hoặc gạo Homali là những loại gạo đang được thị trường
ưa chuộng và có giá cả hợp lý bên cạnh đó sản xuất giống lúa IR50404 ở mức
độ vừa phải (dưới 20%), từ đó người nông dân sẽ thấy được hiệu quả và lợi
nhuận mang lại từ việc sản xuất các giống lúa thơm, nhận thức được sự gắn
kết giữa sản xuất và tiêu thụ (xuất khẩu). Bên cạnh đó, Nhà nước và chính
quyền địa phương cần có một sự đầu tư thỏa đáng cho việc tuyển chọn những
giống lúa chủ lực, phù hợp với thổ những từng vùng, miền cho năng suất và
giá trị cao phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước (thấu hiểu
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B53
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
chiết lý “sản xuất cái mà thị trường cần”) và không nên chạy theo số lượng để
có vị trí thứ nhất hay thứ hai về số lượng, đã đến lúc phải đặc biệt quan tâm
đến chất lượng đế có giá trị cáo vì năng suất lúa và diện tích trồng lúa không
thể tăng mãi được.
Phần lớn lúa gạo được sản xuất ở quy mô nhỏ, đơn lẻ, dựa trên mô hình
kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, vì vậy số lượng sản phẩm thường không lớn và
phân bố không tập trung. Các doanh nghiệp chế biến gạo hiện nay nhất là các
doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu gạo không thể tự tổ chức các hình thức thu
mua để mua được lúa nguyên liệu tại chân ruộng của nông dân (không đủ
nhân lực, thiếu kinh nghiệm, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ vận chuyển, phơi
sấy, kho bảo quản và vốn yếu, thiếu), do vậy, vai trò của thương lái rất quan
trọng. Thương lái thu gom nguyên liệu từ các hộ sản xuất đơn lẻ, sau đó đem
bán lại cho doanh nghiệp, hoặc các đại lý của doanh nghịêp chế biến hoặc các
cơ sở xay xát chế biến nhỏ của tư nhân trong vùng.Thương lái có vai trò rất
quan trọng, giúp cho nông dân, đặc biệt, nông dân ở những vùng sâu, vùng xa
tiêu thụ được lúa hàng hóa, đồng thời giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất.
Không có thương lái, các doanh nghiệp rất khó có đủ nguyên liệu đầu vào.
Bản thân doanh nghiệp không thể ký hợp đồng trực tiếp tiêu thụ nông sản cho
nông dân còn nông dân thì chỉ muốn bán cho các thương lái và việc mua bán
với thương lái dễ dàng dàng hơn.Vì vậy cần có sự liên kết hợp lý giữa doanh
nghiệp với thương lái, hàng xáo.
*Các doanh nghiệp xuất khẩu: Tính chuyên nghiệp trong hoạt động cung
ứng gạo xuất khẩu của doanh nghiệp Việt nam vẫn chưa cao do có biên độ
dao động lớn về thời gian thực hiện các đơn hàng, dự trữ trung bình, thời gian
vận chuyển... dẫn đến xác suất rủi ro giao hàng chậm rất lớn, nhất là vào
mùa cao điểm xuất khẩu gạo từ tháng 2 đến tháng 5. Doanh nghiệp Việt
Nam có tỷ lệ chậm thực hiện đơn hàng đến 5%, so với các doanh nghiệp
nước ngoài. Nguyên nhân cơ bản là do nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào
không ổn định, không có đơn hàng xuất khẩu ổn định. Theo đó, doanh nghiệp
cũng không thể có kế hoạch dự trữ cụ thể trong năm. Để khắc phục tình trạng
đó, doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B54
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Chủ động để có đơn hàng dài hạn ổn định: Doanh nghiệp từng bước
chuẩn hóa từng khâu trong chuỗi cung ứng, xây dựng thương hiệu và uy tín
của mình để có đơn hàng ổn định dài hạn. Trong tầm trung và dài hạn, phải
đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài được mua cổ phần và đầu tư vào vùng nguyên liệu, công nghệ xay
xát... tận dụng lợi thế vốn có của họ để thâm nhập trực tiếp vào hệ thống phân
phối ở thị trường mục tiêu.
-Xây dựng hệ thống dự trữ lúa gạo đáp ứng yêu cầu xuất khẩu: Việc dự
trữ và bảo quản lúa gạo trong kho của các doanh nghiệp xuất khẩu và các
nhà cung ứng ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay còn mang tính chất tạm
bợ. Đa số doanh nghiệp chưa có kho được xây dựng đúng yêu cầu kỹ thuật
bảo quản lúa gạo; thời gian bảo quản lúa gạo ngắn (1 – 3 tháng); khâu vệ
sinh trong và ngoài kho kém đã tạo điều kiện cho sâu mọt dễ dàng xâm nhập,
phát triển và gây hại. Bảo quản lúa gạo bằng silo hiện đại luôn có chất
lượng rất tốt, nhưng giá thành cao. Do vậy, hệ thống silo Trà Nóc (10.000
tấn), Cao Lãnh (48.000 tấn) và Tân Túc, Bình Chánh (12.000 tấn) đã từng
được xây dựng nhưng thất bại trong giai đoạn 2000 – 2005. Tuy nhiên, chất
lượng sản phẩm cho những thị trường gạo cao cấp đòi hỏi phải kiểm soát
chất lượng không chỉ từ khâu sản xuất mà còn đòi hỏi hệ thống kho dự trữ
gạo hiện đại để cung ứng gạo chất lượng đồng nhất (quality consistency, pure
variety and safety). Do đó, cần phải xây dựng hệ thống kho dự trữ lúa gạo
tại vùng nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường cao cấp và chủ động
hơn về nguồn hàng cung ứng cho xuất khẩu.
-Sử dụng dịch vụ forwarding chuyên nghiệp: Hiện nay, các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo đều có bộ phận giao nhận riêng nhưng được tổ chức khá
đơn giản và chỉ đơn thuần giao nhận trong nước (inbound supply chain);
phần giao nhận quốc tế do đơn vị nước ngoài đảm nhiệm. Trong tương lai,
các doanh nghiệp Việt Nam phải hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng lúa
gạo toàn cầu, yêu cầu tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao không chỉ đối với
dịch vụ cung ứng nội địa mà còn đối với dịch vụ ở nước ngoài. Do vậy, doanh
nghiệp xuất khẩu gạo nên sử dụng dịch vụ forwarding chuyên nghiệp để
đảm bảo giao hàng đúng hạn và giám sát chất lượng theo yêu cầu.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B55
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
2.Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin để phối hợp hoạt động trong
chuỗi cung ứng
Việc xây dựng hệ thống thông tin tự động về tình hình xuất nhập khẩu
lúa gạo của thị trường Việt Nam và thế giới kết nối với Hiệp hội lương thực
Việt Nam, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Bộ Công thương sẽ
giúp các doanh nghiệp xuất khẩu nắm bắt được tín hiệu, thông tin thị trường
để điều hành sản xuất kinh doanh nhanh chóng, hiệu quả hơn. Hiện nay,
doanh nghiệp lưu chuyển thông tin giữa các bộ phận chức năng cũng như với
các đối tác trong chuỗi cung ứng trên căn bản chứng từ (paper based). Vì vậy,
việc giao dịch cũng như truyền đạt thông tin khá chậm, không đưa ra được
các dự báo được chính xác và kịp thời. Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động
của chuỗi cung ứng, việc đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin được coi là một yêu
cầu tất yếu khách quan để phối hợp các hoạt động liên hoàn tốt hơn, tự động
hóa khâu xử lý thông tin sẽ giúp cải thiện được vị thế cạnh tranh trong kinh
doanh do giảm chi phí giao dịch; giảm tồn kho; giảm thời gian vận chuyển;
giao hàng đúng hạn; đáp ứng chính xác các đơn hàng; phối hợp tốt hơn trong
xây dựng kế hoạch và dự báo; dịch vụ khách hàng hiệu quả hơn… Bên cạnh
đó, cũng phải giải quyết tốt yêu cầu đào tạo nhân lực để hướng đến sử dụng
trao đổi dữ liệu điện tử EDI cho tất cả các dịch vụ trên chuỗi cung ứng, bao
gồm cả dịch vụ ngân hàng và khai báo hải quan, khai báo thuế…..Nhưng khó
khăn hiện nay là các doanh nghiệp, mặc dù nhận biết rõ lợi ích của công nghệ
thông tin trong chuỗi cung ứng, nhưng chi phí đầu tư quá cao nên chậm đầu
tư cho lĩnh vực này.
3.Giảm vai trò của hàng sáo.
Thực tiễn cho thấy vai trò của hàng sáo rất cần cho hoạt động xuất khẩu
gạo trong thời gian qua do đặc điểm của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy
nhiên, hoạt động này qua nhiều tầng lớp đã làm cho chất lượng gạo xuất khẩu
không đồng nhất. Những vấn đề còn tồn tại của hoạt động thương lái:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B56
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
- Hành vi ứng xử của thương lái hoàn toàn theo tín hiệu của thị trường, dễ
dẫn đến tình trạng "được mùa mất giá và mất mùa được giá". Do thương lái
hầu hết xuất phát từ nông dân, nên vốn ít.
-Nhiều thương lái không quan tâm đến chất lượng gạo nên mua tất cả dù
chất lượng tốt hay xấu. Điều này làm cho gạo sản xuất ra không đồng đều về
chất lượng, là một trong những nguyên nhân khiến giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam luôn thấp hơn giá gạo Thái Lan.
.Vì vậy trong tương lai, khuyến khích hoạt động đầu tư của tư nhân cho công
nghệ xay xát hiện đại, đồng bộ (one process system) gắn liền với vùng lúa
chuyên canh để tăng giá trị của gạo xuất khẩu của Việt Nam trong chuỗi giá
trị gạo toàn cầu.
4.Đơn giản hóa thủ tục hành chính
Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo hiện nay qui định các doanh nghiệp khi
ký hợp đồng xuất khẩu gạo phải đăng ký tại Hiệp Hội lương thực Việt Nam
(VFA). Đối tượng điều chỉnh không chỉ là thành viên của VFA mà bao gồm
tất cả các thương nhân tham gia xuất khẩu gạo.Về cơ bản, các doanh nghiệp
cho rằng không mất nhiều thời gian cho việc đăng ký (1 ngày) nhưng đều cho
rằng điều này không cần thiết. Vì vậy, thủ tục đăng ký này nên được thay
bằng thông báo khối lượng gạo xuất khẩu hàng tuần thông qua trao đổi dữ
liệu điện tử EDI.
Theo Nghị định số 109/2010/NĐ-CP Về kinh doanh xuất khẩu gạo, kể từ
ngày 01/10/2011 các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo phải đáp ứng các
điều kiện sau: (1) Có kho dự trữ dung lượng 5.000 tấn; (2) Có nhà máy xay
xát công suất 10 tấn/giờ (điều khoản 4.1). Kho hàng và nhà máy phải đáp
ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn qui
định. Doanh nghiệp phải duy trì thường xuyên mức dự trữ lưu thông bằng
10% số lượng gạo đã xuất khẩu trong 06 (sáu) tháng trước đó (điều 12).
Đồng thời, điều 18 của Nghị định số 109/2010/NĐ-CP Về kinh doanh xuất
khẩu gạo qui định doanh nghiệp xuất khẩu được đăng ký hợp đồng xuất khẩu
gạo khi đáp ứng các tiêu chí sau: (a) Đơn giá xuất khẩu không thấp hơn giá
sàn gạo xuất khẩu đã được công bố theo quy định; và (b) Doanh nghiệp có
lượng gạo ít nhất bằng 50% (năm mươi phần trăm) lượng gạo trong hợp đồng
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B57
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
xuất khẩu đăng ký, không bao gồm lượng gạo thường xuyên phải có để duy
trì mức dự trữ lưu thông theo quy định tại điều 12 nghị định này. Nghị định
109 nhằm lập lại trật tự trong kinh doanh xuất khẩu gạo của Việt Nam, hạn
chế sự tham gia của các doanh nghiệp không có kho tàng, không có cơ sở
chế biến, không dự trữ đủ lượng gạo cần thiết cho xuất khẩu, theo đó tình
trạng bất ổn sẽ giảm trong thời gian tới . Nhưng đòi hỏi phải được triển khai
hợp lý, đơn giản hóa các thủ tục hành chính có liên quan.
Thông báo giá xuất khẩu gạo tối thiểu: Theo điều lệ được phê duyệt, Hiệp
hội lương thực Việt Nam có nhiệm vụ hướng dẫn giá các loại gạo xuất khẩu;
tổ chức thực hiện việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo. Việc đàm phán để
không bị công bố giá sàn hướng dẫn là nhằm giúp các doanh nghiệp có cơ sở
giá thương nhân nước ngoài ép giá. Doanh nghiệp nào muốn xuất khẩu gạo
phải đảm bảo không bán dưới giá sàn và được sự đồng ý của VFA. Theo đó,
VFA đã ban hành Quy chế thực hiện Hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung
(G2G), giao cho Thường trực Hội đồng quản trị Hiệp hội quyền phân bổ số
lượng gạo xuất khẩu theo hợp đồng G2G cho các hội viên của Hiệp hội.
Thời gian qua, VFA đã bị chỉ trích khá nhiều về cách điều hành theo cơ chế
“xin – cho” này. Các doanh nghiệp không phải thành viên Vinafood II cho
rằng cần cải tiến cơ chế này cho hợp lý hơn, vì người điều hành VFA cũng
chính là lãnh đạo của Vinafood II, có thể dẫn đến sự đối xử không công bằng
đối với các thành viên không trực thuộc Vinafood II.
III.Tạo lập môi trường và điều kiện thực hiện các giải pháp nâng cao.
1.Trong ngành xuất khẩu gạo
-Đa dạng hóa và tăng giá trị sản phẩm: Kết quả nghiên cứu về khuynh
hướng thị trường gạo thế giới, cũng như ảnh hưởng của biến đổi khi hậu và
tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam, cho thấy khó có thể duy trì nhịp điệu tăng
khối lượng xuất khẩu như 10 năm trước đây. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch
xuất khẩu gạo, Việt Nam cần phải thay đổi cơ cấu gạo xuất khẩu theo hướng
tăng tỷ trọng gạo chất lượng cao: gạo đồ (parboiled rice), gạo thơm
(aromatic rice, fragrance rice); đảm bảo chất lượng đồng nhất và an toàn vệ
sinh thực phẩm để nâng cao giá trị gia tăng cho gạo xuất khẩu Việt Nam.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B58
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
-Gạo đồ (parboiled rice) là loại gạo được chế biến từ lúa đã ngâm
nước nóng hoặc hấp bằng hơi nước nóng rồi sấy khô trước khi xay, xát,
đánh bóng. Tại một số quốc gia, xu hướng sử dụng gạo đồ thay cho gạo trắng
đang tăng lên, nhất là ở các vùng dân cư có thu nhập cao. Đặc biệt, chế biến
gạo đồ phải dùng lúa tươi, sẽ giải quyết được vấn nạn lúa ướt trong vụ hè –
thu mà lại nâng cao được giá trị hạt gạo, vì giá gạo đồ xuất khẩu thường cao
hơn loại gạo trắng thường 5% tấm từ 50 – 60 USD/tấn. Theo Công ty Cổ
phần Đầu tư Vinh Phát (đơn vị duy nhất đang xuất khẩu gạo đồ tại Việt
Nam), kể từ năm 2009 công ty đã xuất khẩu khoảng 20 – 30 nghìn tấn gạo
đồ mỗi năm, riêng năm 2011 xuất được 42.000 tấn. Giá xuất khẩu bình
quân 570 USD/tấn. Thị trường chính là Nigeria, Trung Đông, Nga và các
nước Châu Phi. Công suất thiết kế của nhà máy 90.000 tấn/năm, nhưng hiện
công ty chỉ mới khai thác được 1/2 công suất chế biến của nhà máy. Cần có
chính sách thúc đẩy phát triển loại hình này mạnh hơn trong thời gian tới.
-Phát triển dịch vụ gia tăng giá trị: Đẩy mạnh hoạt động marketing cho
sản phẩm gạo Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Đồng thời, xây dựng thương
hiệu gạo Việt Nam bắt đầu từ việc xây dựng và phát triển thương hiệu của
các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo trên căn bản nâng cao chất
lượng, giá cả cạnh tranh, nâng cao uy tín và quản trị tốt chuỗi cung ứng. Xây
dựng thương hiệu gạo Việt Nam, chúng ta cần chú vào bốn khâu sau:
- Chọn, tạo và phổ biến cho nhân dân các giống lúa có chất lượng cao hơn,
năng suất cao hơn.
- Tổ chức sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn cũng như những hình
thức tổ chức để có sản lượng hàng hóa lớn và đồng đều với giá thành rẻ hơn.
- Hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân xây dựng kho, dự trữ, bảo quản đảm
bảo chất lượng ổn định.
- Xúc tiến thương mại.
Cả bốn khâu trên cần phải thực hiện đồng bộ thì hạt gạo Việt Nam mới
dần có thương hiệu trên thị trường thế giới.
-Mở rộng sự tham gia vào chuỗi cung ứng gạo toàn cầu: Doanh nghiệp
Việt Nam không có nhiều vốn đầu tư xây dựng kho ngoại quan cho sản phẩm
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B59
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
gạo tại thị trường nhập khẩu chủ lực nên có thể bất lợi trong đấu thầu giành
hợp đồng G2G và thiết lập quan hệ chặt chẽ với những khách hàng có tiềm
năng lớn. Vì vậy, chính phủ có thể hỗ trợ xây dựng kho ngoại quan ở thị
trường chủ lực như Philippines và Châu Phi (trong khuôn khổ được phép,
không bị kiện chống tài trợ), giúp cho nhà xuất khẩu có thể đóng gói lại sản
phẩm với trọng lượng nhỏ hơn đáp ứng cho người tiêu dùng ngay tại kho
ngoại quan ở thị trường nhập khẩu.
-Đầu tư vùng nguyên liệu xuất khẩu: Để mở rộng qui mô sản xuất, cải
thiện chất lượng giống lúa và nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế
giới, cần xây dựng các vùng nguyên liệu theo qui mô sản xuất lớn (nông
trại từ 1.000 ha – 5.000 ha), tạo thuận lợi cho cơ giới hóa việc canh tác,
thu hoạch, xử lý sau thu hoạch để không chỉ giảm tổn thất về số lượng,
nâng cao chất lượng gạo, mà còn đảm bảo đáp ứng được yêu cầu truy xuất
nguồn gốc nguyên liệu của các nhà nhập khẩu. Đồng thời, cần phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lai tạo giống lúa đảm bảo cho các vùng chuyên canh
lúa xuất khẩu sử dụng đầy đủ giống lúa đã qua xác nhận, lúa hàng hóa có độ
thuần chủng cao để đáp ứng nhu cầu cao của khách hàng theo từng thị trường
riêng biệt.
-Giảm tổn thất sau thu hoạch: Điểm nhấn quan trọng nhất là giảm tỷ lệ
tổn thất sau thu hoạch của vùng lúa Đồng bằng sông Cửu Long từ 13,7%
hiện nay xuống ngang mức của Ấn Độ và Nhật Bản (5 – 6%). Trong đó, cần
tập trung mạnh vào hai khâu có mức tổn thất lớn hiện nay là sấy (4,2%) và dự
trữ (2,6%). Việc tổ chức lại chuỗi cung ứng sau thu hoạch theo hướng tinh
gọn và hiệu quả không chỉ chú trọng trong phạm vi các doanh nghiệp, mà còn
phải đầu tư và huấn luyện cho cả nông dân và hàng sáo để đảm bảo sự phối
hợp tốt trên toàn chuỗi cung ứng.
-Cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vào vùng nguyên liệu
và xuất khẩu gạo: Hiện nay, nhiều công ty kinh doanh nông sản quốc tế như
Olam, Luis Defrey, Agri… đều có văn phòng đại diện tại Việt Nam và có
quyền trực tiếp ký hợp đồng với các doanh nghiệp Việt Nam để tiến hành
mua và xuất khẩu gạo với khối lượng lớn. Với lợi thế có sẵn khách hàng
mục tiêu đảm
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B60
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
bảo đầu ra, nguồn vốn lớn và có thông tin thị trường thế giới chính xác,
các nhà kinh doanh quốc tế này thường xuyên mua được sản phẩm vào
những lúc giá có lợi nhất. Tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư FDI về quản
trị chuỗi cung ứng sẽ cung cấp cho khách hàng và nhà cung ứng những giải
pháp vận chuyển tích hợp với mức giá cạnh tranh. Công ty nước ngoài sử
dụng container, xe tải, xà lan, vận tải đường sông, vận tải biển quốc tế một
cách hợp lý nhất và qua đó, có thể tối ưu hóa chu trình vận chuyển bằng
cách phối hợp quản lý hải trình của tàu, dịch vụ logistics và cung cấp chứng
nhận chất lượng ở mỗi điểm dỡ hàng… để giảm mạnh cước phí vận tải, giao
nhận hàng hóa. Điều đó nhất định gây ra áp lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong ngắn hạn. Nhưng chắc
chắn là nó cũng sẽ tạo động lực để từng bước thúc đẩy sự chuẩn hóa hoạt
động kinh doanh theo yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu, góp phần nâng
cao giá trị sản phẩm gạo Việt Nam.
2.Dịch vụ hậu cần (Logistics).
-Tăng đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông kết nối đến cảng ở Sài Gòn: Vào
mùa cao điểm xuất khẩu gạo những tuyến đường bộ kết nối vào các cảng
tại Tp.Hồ Chí Minh (đặc biệt là cảng Cát Lái) thường xuyên bị tắc nghẽn.
Buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải dự phòng thời gian vận chuyển dài
hơn 1,5 lần so với thường ngày để đảm bảo giao hàng đúng hạn. Chiến lược
gia tăng giá trị gạo
xuất khẩu sẽ bị giới hạn nếu tình trạng giao hàng chậm xảy ra thường
xuyên như thời gian qua.
-Cải thiện chất lượng dịch vụ vận chuyển đường sông nội địa: Vận chuyển
gạo bằng đường thủy từ Đồng bằng sông Cửu Long đến cảng Sài Gòn bắt
buộc phải đi qua kênh Chợ Gạo, Tiền Giang. Cũng tương tự như vận chuyển
bằng đường bộ, vào mùa cao điểm xuất khẩu gạo việc vận chuyển thường
xuyên bị tắc nghẽn tại kênh Chợ Gạo, có lúc mất cả ngày mới thông tuyến.
Cần đầu tư thỏa đáng hơn cho cơ sở hạ tầng đường thủy để cải thiện dịch vụ
vận chuyển đường sông thời gian tới.
-Phát triển liên kết nhóm trong kinh doanh xuất khẩu gạo: Mô hình liên
kết giữa nông dân – nhà kinh doanh đã chứng minh sự thành công ở trên thế
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B61
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
giới như Ghana, Ấn Độ… Ở Việt Nam, thời gian qua, liên kết này không khả
thi do tính chất không vững chắc trong mối quan hệ giữa các đối tác (đặc
biệt là từ phía nông dân) do không có ràng buộc về pháp lý và tài chính,
cũng như ảnh hưởng của tập quán sản xuất nhỏ từ lâu đời. Việc cam kết tham
gia trên chuỗi cung ứng cần phải được đảm bảo bằng lợi ích được chia từ
phần giá trị tăng thêm trong chuỗi để ràng buộc sự gắn bó chặt chẽ lâu
dài của từng thành viên.
-Thành lập Trung tâm giao dịch gạo tại Đồng bằng Sông Cửu Long:
Trung tâm/sàn giao dịch gạo (Rice exchange) thực hiện đấu thầu mua bán
gạo của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Sàn giao dịch qui định tiêu chuẩn gạo,
khối lượng giao dịch tối thiểu của lô hàng, biên độ dao động giá, thời hạn
giao hàng (kỳ hạn của hợp đồng)… Đồng thời, xây dựng kho ngoại quan
cho mặt hàng gạo tại Tp.Hồ Chí Minh.
-Sử dụng các phương tiện tài chính để giảm rủi ro biến động giá: Phát
triển hợp đồng mua kỳ hạn lúa/phân bón giữa doanh nghiệp với nông dân để
đảm bảo giá bán/lợi nhuận kỳ vọng của các bên. Theo đó, ngân hàng/doanh
nghiệp cung cấp tín dụng thương mại có đảm bảo của Hội nông dân, để nông
dân có đủ vốn canh tác và lựa chọn phương thức canh tác hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, cần xây dựng đầy đủ cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nông
dân với hợp đồng đã ký.
3.Hỗ trợ của chính phủ
Các giải pháp nêu trên sẽ càng phát huy tác dụng tốt nếu có được sự hỗ
trợ tích cực từ phía chính phủ. Tuy nhiên, như ở trên đã có nói, cần phải lưu
ý đến vấn đề đảm bảo cho những hành vi hỗ trợ đó vẫn nằm trong khuôn khổ
không vi phạm Hiệp định về tài trợ và các biện pháp chống tài trợ của WTO
để hạt gạo Việt Nam không bị kiện chống tài trợ khi xuất khẩu ra thị trường
thế giới. Ở đây,
các nội dung hỗ trợ của chính phủ sẽ chỉ được nêu lên như những kiến
nghị chứ không đi sâu vào nội dung chi tiết như các giải pháp. Các kiến nghị
cụ thể như sau:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B62
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
- Đầu tư cho các viện nghiên cứu nông học tạo ra giống lúa tốt và nhân
giống lúa xác nhận để cung cấp đầy đủ cho các vùng chuyên canh lúa xuất
khẩu.
-Bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam được ban hành từ năm 1999, cần được cải
tiến để tiếp cận với tiêu chuẩn gạo Thái Lan và ban hành sớm để phục vụ cho
hoạt động xuất khẩu gạo.
-Đẩy mạnh công tác khuyến nông theo hướng hỗ trợ tích cực hơn cho việc
phổ biến kỹ thuật canh tác lúa hiện đại.
-Cải tiến cơ chế tín dụng nông thôn tạo điều kiện cho các hộ nông dân tiếp
cận với nguồn vốn tài trợ sản xuất của ngân hàng thương mại dễ dàng hơn.
-Qui hoạch và đầu tư thỏa đáng cho việc phát triển vùng lúa chuyên canh
xuất khẩu qui mô lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long.
-Hỗ trợ xây dựng hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử cho Hội nông dân gắn
kết với các đối tác tham gia chuỗi cung ứng lúa gạo.
-Có cơ chế cho phép Quỹ dự trữ quốc gia thực hiện chức năng của Sàn
giao dịch lúa gạo: mở thầu định kỳ cho dự trữ an ninh lương thực quốc gia;
ký gửi lúa gạo và bán gạo bình ổn giá trên thị trường nội địa để đảm bảo mức
lãi mong đợi cho nông dân.
-Có chính sách ưu đãi đầu tư thiết bị xay xát hiện đại để thúc đẩy quá
trình cải tiến nâng cao qui mô lợi suất kinh tế của các doanh nghiệp xuất khẩu
gạo…Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu gạo gặp khó khăn về vốn trong
thu mua gạo tạm trữ cũng như áp lực trả nợ ngân hàng, nên các doanh nghiệp
không thể thu mua lúa kịp thời vào thời điểm thu hoạch của người nông dân,
cũng như phải hạ giá bán gạo để đáo hạn nợ ngân hàng gây ra sự biến động
giá gạo. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp
xuất khẩu mua gạo xuất khẩu như giãn nợ cho các doanh nghiệp có hàng tồn
kho lớn để ổn định giá gạo trong nước cũng như xuất khẩu.Theo nghiên cứu
của Ngân hàng thế giới (WB) cho biết phần lớn người trồng lúa ở Việt Nam
có quy mô nhỏ. Tại Đồng bằng Sông Cửu Long có khoảng 4 triệu hộ trồng
lúa, với quy mô khoảng 4,4 nhân khẩu/1 hộ, với lợi nhuận thu được từ sản
xuất lúa khoảng 230USD/người-năm. Qua số liệu này cho thấy, phần lớn
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B63
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
người nông dân sản xuất lúa ởViệt Nam là nghèo. Như vậy, Nhà nước phải có
sự quan tâm kịp thời khi giá lúa giảm để trợ giá cho người nông dân đảm bảo
cho họ luôn có mức lợi nhuận định mức từ 30% trở lên, để họ tái sản xuất và
yên tâm, gắn bó với nghề nông của mình.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B64
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
KẾT LUẬN
Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật về xuất khẩu gạo trong hơn 2
thập niên gần đây, thể hiện qua khối lượng xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới và
giá trị xuất khẩu gần 4 tỷ USD trong năm 2011. Nhưng sự tăng trưởng của
ngành hàng này chưa bền vững, thể hiện qua qui mô sản xuất chế biến còn
nhỏ, tổn thất sau thu hoạch lớn, thương hiệu gạo Việt Nam đang định hình ở
gạo giá rẻ, phẩm cấp trung bình, tỷ lệ chậm giao hàng cao, chưa tham gia tích
cực vào chuỗi cung ứng gạo toàn cầu… Tình hình cạnh tranh trên thị trường
quốc tế đối với mặt hàng gạo ngày càng gay gắt. Việt Nam không chỉ cạnh
tranh với Thái Lan – quốc gia đã có thương hiệu gạo cao cấp – mà còn phải
cạnh tranh với các quốc gia xuất khẩu gạo giá rẻ như Ấn Độ, Pakistan, Trung
Quốc... Do đó, muốn duy trì vị thế cạnh tranh và phát triển bền vững trong
tương lai, Việt Nam cần phải hoàn thiện và đồng bộ hóa giữa các khâu trong
chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu; đồng thời phải tham gia tích cực hơn vào
chuỗi cung ứng gạo toàn cầu để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm gạo
Việt Nam . Các giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có sự nỗ lực phối hợp chặt
chẽ giữa tất cả thành viên trong chuỗi cung ứng cũng như sự hỗ trợ của tích
cực từ phía chính phủ.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B65
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân- Quản trị chuỗi cung ứng- Những trải nghiệm
tuyệt vời.
2.GS.TS Đoàn Thị Hông Vân- Logistics những vấn đề cơ bản.
3.Micheal Hugos- Tinh hoa quản trị chuỗi cung ứng.
4.TS. Nguyễn Văn Sơn, Khoa Kinh tế & Luật, Trường Đại học Mở Tp.Hồ
Chí Minh-Tham luận tại hội thảo và triển lãm quốc tế về: "Hậu cần vận tải
hàng hải Việt Nam 2013"
5.Báo cáo thường niên lúa gạo.
http://www.isgmard.org.vn/Jobs/2008/IPSARD/Demo%20Vietnam%27s
%20Rice%20Yearbook-v.pdf
6.Tạp chí Phát triển và hội nhập, tháng 3-4/2013.
7. Agrifood consulting International, Northeast Thailand Rice Value Chain
Study. February 2005.
http://www.mmw4p.org/dyn/bds/docs/553/Agrifood%20Consulting%20Rice
%20VC%20Thailand%202005.pdf
8.IDFC, study of the domestic Rice Value Chains in the Niger Basin of Mali,
Niger and Nigeria,
West Africa, Sept. 2008.
9.http://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-ly-thuyet-chuoi-cung-ung-va-thuc-
trang-chuoi-cung-ung-tai-tap-doan-ban-le-walmart-24828/
10.http://WWW.baomoi.com/Xuất-khau-gao-nam-2012-Luong-tang-gia
giam/45/10140883.epi.
11.http://WWW.SGGP.org.vn/nongnghiepkt/2012/12/305895
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B66
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B67
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B68
Đề án môn học GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD Thương mại 53B69