chẤt lƯỢng xÉt xỬ cÁc vỤ Án hÀnh chÍnh cỦa tÒa Án …hcma.vn/uploads/2018/5/8/la _...

175
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THÂN QUỐC HÙNG CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2018

Upload: others

Post on 08-Sep-2019

12 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

THÂN QUỐC HÙNG

CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

THÂN QUỐC HÙNG

CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC

VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. NGUYỄN THANH BÌNH

2. TS. TRẦN THANH PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Thân Quốc Hùng

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 7

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7

1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài 17

1.3. Giả thuyết những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chất lượng xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 23

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 30

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh 30

2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh 49

2.3. Các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh 62

Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 70

3.1. Thực trạng tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành

chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh 70

3.2. Thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh 78

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG

XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 118

4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh 118

4.2. Các giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 127

KẾT LUẬN 157

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND Hội đồng nhân dân

HĐXX Hội đồng xét xử

HTND Hội thẩm nhân dân

HVHC Hành vi hành chính

KKHC Khiếu kiện hành chính

QĐHC Quyết định hành chính

QĐKLBTV Quyết định kỷ luật buộc thôi việc

QLHCNN Quản lý hành chính nhà nước

TAND Tòa án nhân dân

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

THC Tòa hành chính

TTHC Tố tụng hành chính

UBND Ủy ban nhân dân

VAHC Vụ án hành chính

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

VPHC Vi phạm hành chính

XHCN Xã hội chủ nghĩa

XXHC Xét xử hành chính

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Xét xử là hoạt động chính, có ý nghĩa quyết định đến sự ra đời, tồn tại và

phát triển của hệ thống cơ quan tòa án tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động này

có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến quyền lợi chính trị, kinh tế và nhiều khi

là sinh mệnh của con người. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động này còn ảnh

hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát

triển của cả xã hội.

Ở nước ta, xét xử là chức năng hiến định của Tòa án nhân dân. Hiến pháp

năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (Khoản 1, Điều 102). Xét xử là

hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy

nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử. Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá

bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý

của vụ việc, từ đó, nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất,

mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc. Do đó, xét xử phải là công cụ

sắc bén và đầy hiệu lực của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa,

đồng thời phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn

trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những yêu cầu đó được quán

triệt và thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên tục trong hoạt động xét xử và đã đạt

được kết quả đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong suốt hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã ban hành

và quán triệt thực hiện nhiều nghị quyết chuyên đề về cải cách tư pháp như Nghị

quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/202 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của

Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020... Nghị quyết số 49 đã

thể hiện rất rõ quan điểm, yêu cầu của Đảng ta về cải cách tư pháp mà trọng tâm là

2

Tòa án nhân dân: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp

hợp lý, khoa học; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt

động trọng tâm"; "Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến

hành có hiệu quả và hiệu lực cao"; "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối

với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện

hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo

đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án"; "Đổi mới

việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công

khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét

xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp"... Do đó, tổ chức thực hiện

quyền tư pháp đã có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy, chức năng,

nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tòa án ngày càng được xác định rõ hơn và từng

bước được củng cố, kiện toàn. Chất lượng xét xử có chuyển biến tốt, đặc biệt đối

với án hành chính được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng

án, sửa án, hủy án cơ bản được khắc phục. Chủ trương "nâng cao chất lượng tranh

tụng tại phiên tòa" được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các

phiên tòa, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn...

Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải

quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động xét xử vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập,

hạn chế như: tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ

quan tư pháp còn bất hợp lý; chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các

chức năng cơ bản của tố tụng dẫn đến việc quy định vai trò, thầm quyền cụ thể của

từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng còn chưa rõ ràng; còn

thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt

là cơ chế bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khởi kiện

trong tố tụng hành chính... Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng

không nhỏ đến việc củng cố niềm tin của nhân dân vào tư pháp, công lý, ảnh

hưởng đến mục tiêu xây dựng một nền tư pháp "trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý" mà Nghị quyết số 49 đã đề ra. Nguyên nhân chính

3

của những hạn chế, yếu kém trên có thể kể đến như: hệ thống pháp luật có liên

quan chưa thực sự hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ; trình độ chuyên môn, tinh

thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ thẩm phán chưa

đáp ứng được yêu cầu của hoạt động xét xử; cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ đối với

thẩm phán còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tính chất của công việc...

Trên phương diện lý luận, vấn đề chất lượng xét xử nói chung và chất

lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nói riêng không

phải hoàn toàn mới. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận căn bản về chất lượng xét xử

các vụ án hành chính đều chưa được nhìn nhận một cách toàn diện và giải quyết

thấu đáo. Chính vì vậy, hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa được ghi nhận một cách đầy đủ,

thống nhất. Quy định của pháp luật về chức năng của từng chủ thể trong tố tụng

cũng chưa được rõ ràng và còn chồng chéo...

Cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đặt ra những yêu cầu mới: Tòa án

phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo

vệ quyền con người, quyền công dân. Bối cảnh này đòi hỏi hoạt động xét xử của

Tòa án phải không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm hiệu quả, kịp thời, chính

xác và đúng pháp luật. Do vậy, nghiên cứu vấn đề chất lượng xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh lại càng có ý nghĩa hết sức cấp thiết cả

về lý luận và thực tiễn. Từ những lý do trên đây, nghiên cứu sinh chọn đề tài:

"Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt

Nam hiện nay" làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà

nước và pháp luật.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích của luận án

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam, tác giả đề xuất

các quan điểm và đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm chất lượng xét xử các vụ

án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.

4

2.2. Nhiệm vụ của luận án

Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến

đề tài luận án. Từ đó chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.

- Nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài luận án, cụ thể:

nghiên cứu đưa ra khái niệm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh; chỉ ra và phân tích đặc điểm, vai trò của chất lượng xét xử các

vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; xây dựng các tiêu chí đánh giá và

các điều kiện bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức và tình hình xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ

án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay và chỉ ra những kết quả, hạn chế và

nguyên nhân của thực trạng đó.

- Phân tích, luận chứng các quan điểm và đề xuất các giải pháp bảo đảm

chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam

hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Dưới giác độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án tập trung

nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành

chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Vấn đề xét xử và chất lượng xét xử các

vụ án hành chính được thực hiện bởi các tòa án khác nhau. Trong luận án chỉ tập

trung nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh. Luận án không nghiên cứu chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa

5

án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao, cũng

như Tòa án quân sự.

- Phạm vi về không gian: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức

Tòa án nhân dân cấp tỉnh và thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi toàn quốc.

- Phạm vi về thời gian: Những số liệu thống kê làm cơ sở đánh giá thực

trạng tổ chức và chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2017.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

triết học Mác-Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp

giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch sử cụ

thể. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học

khác như: thống kê, so sánh, lý thuyết hệ thống...

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 1 nhằm phân

tích, đánh giá các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở chương 2 nhằm làm sáng

tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.

Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, lý thuyết hệ thống

được sử dụng ở chương 3 trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác-Lênin,

nhằm đánh giá đúng thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh.

Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp - diễn dịch được sử dụng

ở chương 4, để đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp thực tế, khả thi nhằm bảo

đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

6

5. Những điểm mới của luận án

Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống

cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay; vì vậy, luận án có một số điểm mới về

mặt khoa học như sau:

1. Luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm và vai trò chất lượng

xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

2. Luận án xây dựng được các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

3. Luận án phân tích, chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân

thực trạng chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở

Việt Nam hiện nay.

4. Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm chất lượng xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm

lý luận về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

- Về thực tiễn: Những kết quả của luận án sẽ góp phần nhằm nâng cao chất

lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện

nay. Đồng thời, luận án là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác nghiên cứu,

giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố

liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4

chương, 10 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp

quyền Việt Nam theo định hướng XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng, chúng ta đã và đang thực hiện cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy

nhà nước, trong đó có chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, các hoạt

động nghiên cứu khoa học được tiến hành mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có

lĩnh vực nghiên cứu hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nói chung

và TAND cấp tỉnh nói riêng. Trên thực tế đã có được khối lượng đáng kể các công

trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn liên quan tổ chức và hoạt động xét xử

của TAND cấp tỉnh. Nghiên cứu về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp

tỉnh ở nước ta có một số công trình ở cấp độ khác nhau. Những công trình này đặt

nền móng và có những bước phát triển đáng kể mà tác giả có thể tiếp thu, phát triển

trong luận án này. Khi tham khảo những công trình đã được công bố của các tác giả

trong nước, tác giả tìm thấy nhiều điểm tương đồng về quan điểm lý luận và phát

triển những vấn đề mới về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh mà các

công trình khác nghiên cứu ở mức độ hạn chế, chưa toàn diện về chất lượng xét xử

các VAHC của TAND cấp tỉnh.

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức, chức năng

nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Liên quan mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của TAND nói chung phải

kể đến Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống thủ tục tư pháp,

nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân do dân và vì dân” [58]. Công trình này có chất lượng rất cao về

vấn đề lý luận của nhiệm vụ cải cách tư pháp, về khối lượng thủ tục tư pháp nói

chung cần và đủ cho giải quyết án và đặc biệt là các giải pháp nâng cao hiệu quả và

hiệu lực xét xử của Tòa án, mà thực là chất lượng xét xử trong đó có xét xử án hành

8

chính của TAND các cấp. Tác giả tiếp thu được nhiều quan điểm khoa học hợp lý

của đề tài để nghiên cứu đưa vào luận án.

Đề tài khoa học cấp bộ: “Đổi mới chế độ Thẩm phán - Hội thẩm nhân dân

trong tiến trình cải cách tư pháp” của Nguyễn Mạnh Lân [48]. Đề tài tập trung giải

quyết các vấn đề lý luận về tuyển dụng, bổ nhiệm, các tiêu chí tuyển dụng Thẩm

phán; thực trạng đội ngũ Thẩm phán, chế độ đãi ngộ như: lương, phụ cấp ngành,

những bất cập của chế độ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND). Đề tài

cũng đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan của việc xây dựng chính

sách, chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và HTND với tư cách là một ngành nghề

có tính chất khá đặc biệt trong hệ thống quyền lực nhà nước. Là những người duy

nhất có chức năng xét xử, phán quyết các vấn đề bức xúc trong xã hội, giải quyết

các tranh chấp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, đề tài cũng đưa

ra được một số kiến nghị, giải pháp thiết thực để bảo đảm chế độ đối với Thẩm

phán và HTND một cách hợp lý trong tổng thể chế độ cán bộ, công chức, viên

chức ở nước ta hiện nay. Những vấn đề trong đề đề cập và giải quyết có ý nghĩa

thiết thực liên quan đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Bởi vì,

khi chế độ của Thẩm phán, HTND được bảo đảm sẽ góp phần tích cực vào việc

hạn chế tiêu cực trong ngành, đạo đức nghề nghiệp xét xử được tăng cường, Thẩm

phán, HTND yên tâm công tác tập trung cao độ vào công tác chuyên môn xét xử.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:“Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ

bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim

Quế [70]. Qua nghiên cứu công trình này, tác giả có được sự đánh giá tổng quan

nhất về vị trí, vai trò của Tòa hành chính (THC) trong cơ chế giải quyết các khiếu

kiện hành chính ở nước ta. Vai trò của Tòa án trong việc kiểm soát quyền lực nhà

nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Mối liên hệ giữa thiết

chế THC với tài phán hành chính, giữa thiết chế giải quyết khiếu nại hành chính với

xét xử hành chính (XXHC) thông qua con đường tư pháp. Mặt khác, cũng tham

khảo được một số điểm khái quát về khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta thời

kỳ phong kiến và từ năm 1945 đến trước đổi mới năm 1986. Sự hình thành và phát

triển của Tòa án trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức

quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam,

9

những nguyên tắc hoạt động của Tòa án,Trên cơ sở đó, xác định rõ hơn về vị trí, vai

trò, chức năng của THC nói chung và THC thuộc hệ thống TAND.

Đề tài cấp bộ: “Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân

chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án” của Nguyễn Tường Linh [52]. Đề

tài đã làm sáng tỏ được những vấn đề về lý luận và thực tiễn của công tác quản lý,

sử dụng đội ngũ lãnh đạo của ngành TAND. Đáng chú ý nhất là đề tài đã đã giải

quyết được những vấn đề căn bản về việc sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc

TAND các cấp sao cho có hiệu quả nhất. Trong đó, các nội dung quan trọng về

đánh giá cán bộ lãnh đạo như: mục tiêu đánh giá, phương pháp đánh giá, các tiêu

chí đánh giá… cần có những thay đổi căn bản để đảm bảo nguyên tắc đánh giá cán

bộ một cách khách quan, chính xác, không thiên vị. Vấn đề quy hoạch cán bộ lãnh

đạo, thành công của đề tài là đã chỉ ra được những bất cập trong quy hoạch, bồi

dưỡng, đào tạo và sử dụng nguồn quy hoạch. Cơ chế luân chuyển cán bộ lãnh đạo

trong ngành Tòa án là phù hợp cả về phương diện lý luận và thực tiễn, phù hợp với

chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đề tài đã làm rõ được ý nghĩa, vai trò và sự cần

thiết của việc luân chuyển. Đồng thời đã đưa ra được những tiêu chí, giải pháp, cách

thức luân chuyển cán bộ khá hợp lý.

Đề tài khoa học cấp bộ “Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu nại

hành chính trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - thực

trạng và giải pháp” do Lê Tiến Hào [27]. Công trình đã này đã căn bản phân tích

được cơ sở lý luận quyền khiếu kiện của tổ chức và công dân khi bị xâm hại đến

quyền sử dụng đất, nhất là trên địa bàn Hà Nội, vốn dĩ công tác quản lý nhà nước

về đất đai khá nhậy cảm và phức tạp. Đề tài đã chỉ rõ những bất cập trong công tác

giải quyết khiếu nại liên quan đến quyền sử dụng đất của các chủ thể sử dụng đất.

Bên cạnh quyền khiếu nại theo thủ tục hành chính công trình đã đề cập đến nhiều

nội dung về quyền khởi kiện, trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết theo trình tự,

thủ tục tư pháp.

Sách chuyên khảo: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng

Nhà nước pháp quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Trí [9]. Mặc dù cuốn sách tham

khảo được phát hành khá lâu, nhưng một số vấn đề được giải quyết trong sách vẫn

còn giá trị thực tiễn và giá trị tham khảo đối với luận án. Nhiều vấn đề được luận

10

giải khá thuyết phục như: quan điểm, mục tiêu, phương hướng cải cách; mô hình tổ

chức TAND ở địa phương; vấn đề con người thực thi quyền tư pháp về tiêu chuẩn,

tiêu chí, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp.

Sách chuyên khảo: “Những điểm mới của của Luật Tố tụng hành chính năm

2015” của Nguyễn Văn Cường. Đây là cuốn sách mà tác giả đã thống kê đầy đủ

những điểm mới được Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 bổ sung, sửa đổi

so với Luật TTHC năm 2010. Luật đã sửa đổi, bổ sung 198 Điều/372 Điều; bổ sung

111 Điều mới; giữ nguyên 63 Điều của Luật TTHC năm 2010. Chẳng hạn sửa đổi,

bổ sung các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc đối thoại, thẩm quyền xét xử của Tòa

án, quyền, nghĩa vụ của Chánh án, Thẩm phán, kiểm sát viên, người đại diện, người

bảo vệ… Những thông tin và luận giải trong cuốn sách có giá trị so sánh, giá trị

tham khảo về những căn cứ thay đổi, sửa đổi, bổ sung những quy định mới. Đồng

thời lý giải được tại sao phải sửa đổi, sự cần thiết sửa đổi và nhằm đáp ứng những

yêu cầu gì về mô hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa

hành chính và trong quá trình xét xử các VAHC.

Luận án Tiến sĩ: “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu [49]. Luận án đã làm rõ được

những vấn đề về lý luận liên quan đến Tòa hành chính trong hệ thống TAND. Đồng

thời chỉ ra những bất cập của mô hình tổ chức, bất cập về phạm vi thẩm quyền xét

xử các VAHC của TAND, trong đó có TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên, nhiều vấn đề

luận án đặt ra cũng đã được giải quyết trong Luật TTHC năm 2015. Mặc dù vậy,

giá trị của những vấn đề về lý luận, về mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ, cũng

như một số bất cập về bảo đảm tính độc lập của Tòa án trong xét xử các VAHC

chưa được giải quyết một cách cơ bản trong Luật TTHC năm 2015, như thành lập

Tòa hành chính khu vực. Luận án đã tập trung phân tích vị trí, vai trò THC trong

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt luận án

cũng đã đưa ra được một số đảm bảo pháp lý cho tổ chức và hoạt động của THC;

phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng tổ chức, hoạt động của THC, những ưu

điểm trong hoạt động, một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế về bảo đảm pháp

lý đối với việc tổ chức và hoạt động của THC. Tuy nhiên luận án chỉ đề cập và giải

quyết những vấn đề chung về THC, chưa chuyên sâu về THC trong TAND cấp tỉnh

11

với chức năng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp

huyện khi có kháng cáo, kháng nghị.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, còn một số công trình

cũng đã giải quyết phần nào về lý luận, thực trạng và đưa ra những giải pháp thiết

chế mô hình tổ chức của THC có những nét khác nhau như:

Đề tài khoa học “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ

tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân” [58]. “Những vấn đề lý luận và

thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng

nhà nước pháp quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết [115]; các bài viết trong sách tham

khảo: “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội

nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương

[66]; “Thực trạng và yêu cầu kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam

hiện nay” của Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương [11];

Sách tham khảo như: "Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Lê Minh Thông

[94]; “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp

quyền” của Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí [9]. “Các mô hình tài phán hành chính và

kinh nghiệm cho Việt Nam” của Vũ Thư [95]; “Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan

tài phán hành chính ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cửu Việt [124]; Luận án

Tiến sĩ Luật học liên quan đến vấn đề này gồm một số công trình như: “Đổi mới tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Lê

Thành Dương [17]; “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo

hướng xây dựng nhà nước pháp quyền” của Trần Huy Liệu [50].

Các bài nghiên cứu được đăng trong các báo và tạp chí chuyên ngành như:

“Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước”, của Nguyễn Đăng Dung

[14]; “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”, của Đào Trí Úc [117].

“Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp” của Phạm Văn Hùng [39]. “Bàn về quản lý

Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp” của Đỗ Gia Thư [15]. “Yêu cầu của việc xây

dựng nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp” của Nguyễn Mạnh Cường [12]; “Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính

12

của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ giữa nhà nước và công dân” của

Nguyễn Thanh Bình [3]; “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án theo quy

định của Luật Tố tụng hành chính” của Đặng Thanh Sơn [86].

Nhận xét chung, các công trình và bài viết nghiên cứu đã phần nào làm rõ

được một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tư pháp, về hoạt động tố tụng ở

Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra những đánh giá tổng quát về yêu cầu của

quá trình cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta, về mối quan hệ giữa hệ thống cơ

quan tư pháp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và các cơ quan trong hệ

thống cơ quan tư pháp với nhau, về cơ chế giám sát của cơ quan đại diện đối với

hoạt động của Tòa án các cấp; những đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động

của các Tòa án ở Việt Nam; đã làm rõ một số yếu tố tác động đến chất lượng và

hiệu quả hoạt động của các THC; đã đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp đổi

mới tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp. Trên cơ

sở đó, các tác giả đã đề xuất một số kiến nghị về đổi mới và hoàn thiện các THC ở

nước ta. Một vấn đề rất cơ bản là các công trình khoa học (nhất là của các tác giả:

Nguyễn Thị Kim Quế; Lê Minh Thông; Đào Trí Úc; Lê Cảm; Đỗ Gia Thư) đã có

những đề xuất khoa học, đóng góp qua trọng vào việc thay đổi về tư duy chính trị -

pháp lý, cách tiếp cận khoa học trong việc xác định thẩm quyền, quyền lực Tư pháp

trong cấu trúc chung của quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về tổ chức TAND năm 2014, luật TTHC năm 2015. Nhiều tinh thần của

đề tài cũng đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ: “Tòa án là

cơ quan thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1, Điều 112, Hiến pháp 2013). Hay nói

cách khác, quyền tư pháp đã được xác định rõ và cụ thể giao cho cơ quan Tòa án

đảm nhiệm. Điều này tương thích với các nhánh quyền lực nhà nước khác như:

quyền Lập pháp và quyền Hành pháp. Theo đó, các luật khác có liên quan như Luật

Tổ chức Tòa án, các luật tố tụng... đều thể chế hóa quan điểm, tư tưởng này thành

các quy định cụ thể.

Mặt khác, các công trình khoa học này cũng đã đưa ra các cơ sở lý luận và

thực tiễn về các mô hình tổ chức tòa án khác nhau để tổ chức thực hiện quyền tư

pháp đảm bảo tính độc lập và hiệu quả nhất như: Mô hình tổ chức Tòa khu vực; mô

hình tòa trung thẩm, thượng thẩm... Tuy nhiên, một số quan điểm khoa học được

13

đưa ra nhưng cũng không đủ tính thuyết phục. Chẳng hạn, quan điểm về đối tượng

khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc (QĐKLBTV) chỉ giới hạn trong phạm

vi công chức là chưa đủ. Theo quan điểm lập luận của Luận án tiến sĩ luật học của

tác giả Trần Kim Liễu thì: nếu quy định chỉ công chức mới có thể kiện QĐKLBTV

theo thủ tục TTHC thì sẽ không công bằng đối với viên chức. Bởi lẽ, theo Điều 2

Luật viên chức: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc

là, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng

lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.

Trong khoa học pháp lý hành chính, từ lâu đã thừa nhận hoạt động của viên chức là

hoạt động phục vụ lợi ích công như hoạt động công chức (chỉ khác nhau ở mức độ

quyền lực). Điều 59 Luật Viên chức năm 2010 về “quy định chuyển tiếp” cho thấy

chế độ của viên chức được tuyển dụng trước hoặc sau ngày 01/7/2003 hầu như

không khác biệt so với công chức. Điểm d, khoản 1, Điều 52 Luật viên chức 2010

quy định các hình thức kỷ luật với viên chức bao gồm hình thức “buộc thôi việc”.

Vì sao cùng là chủ thể hoạt động theo chế độ công vụ - phục vụ lợi ích công, cùng

được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch hành chính và hưởng lương từ ngân sách

Nhà nước nhưng khi bị kỷ luật “buộc thôi việc” thì chỉ công chức mới có quyền

khởi kiện theo thủ tục TTHC, viên chức thì không? Phải chăng quyết định buộc thôi

việc của cơ quan quản lý viên chức không phải là quyết định hành chính (QĐHC)

[49, tr.126-127].

Luận án không đồng tình với quan điểm này, vì công chức và viên chức là

hai chủ thể khác nhau bởi nội hàm thuộc tính của khái niệm. Công chức thực hiện

chức năng quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) (dịch vụ hành chính công),

còn viên chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà

nước (dịch vụ sự nghiệp công). Viên chức dược tuyển dụng trong biên chế nhà

nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, còn viên chức làm việc theo chế độ hợp

đồng làm việc, hưởng lương từ nguồn thu của đơn vị sự nghiệp công. Như vậy, về

thân phận pháp lý của công chức và viên chức khác biệt nhau. Viên chức không

tham gia QLHCNN (trừ trường hợp được trao quyền). Khi có tranh chấp về kỷ luật

buộc thôi việc được giải quyết theo thủ tục hợp đồng là hợp lý.

14

Các công trình nêu trên chưa nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của THC

thuộc TAND cấp tỉnh, cũng như cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính một cách

chuyên sâu và đầy đủ như một công trình khoa học toàn diện trong bối cảnh cải

cách tư pháp ở Việt Nam. Một số đề xuất, kiến nghị đổi mới tổ chức và hoạt động

giải quyết khiếu kiện hành chính đã được tiếp thu và được thể hiện trong quy định

của pháp luật Tổ chức Tòa án và Luật TTHC. Thực ra chưa có công trình khoa học

nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về chất lượng xét xử các VAHC của TAND

cấp tỉnh.

Các công trình khoa học khác của các tác giả đã góp phần làm rõ lý luận và

thực trạng tổ chức quyền lực nhà nước, quyền tư pháp, sự hình thành, vị trí, vai trò

của TAND trong bộ máy nhà nước, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động

của TAND, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của

TAND. Đồng thời đưa ra các đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới

và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND trong tiến trình cải cách tư

pháp. Luận án tiến sĩ luật học của Trần Kim Liễu, Trường Đại học luật Hà Nội đã

chỉ ra được vị trí, vai trò của Tòa hành chính, những bảo đảm pháp lý cho tổ chức

và hoạt động của Tòa hành chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân. Đánh giá được những ưu điểm, những hạn chế của Tòa hành

chính, đưa ra được các nhóm giải pháp đổi mới về tổ chức, về hoạt động của Tòa

hành chính.

Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu

chung nhất về tổ chức, về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của chức năng nhiệm vụ,

cách thức phân công quyền lực, cách thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước

hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề có tính chuyên biệt, có phạm vi nghiên

cứu giới hạn ở các lĩnh vực khác nhau nên cũng chỉ nghiên cứu về lý luận, đánh

giá thực tiễn và đưa ra được những giải pháp trong khuôn khổ, phạm vi nghiên

cứu của từng đề tài.

1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến chất lượng xét xử các vụ án hành

chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Luận án Tiến sĩ: “Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính

ở Việt Nam” của Trần Quang Hiển [28]. Luận án đã đề cập đến cơ chế pháp lý liên

15

quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính ở nước ta. Các điều kiện bảo

đảm cho hoạt động giải quyết các tranh chấp đạt hiệu quả. Luận giải các cơ chế

pháp lý giải quyết bao gồm: cơ chế giải quyết thông qua con đường hành chính,

trong đó trọng tâm là các thủ tục hành chính, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu

nại, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi thẩm quyền của người có

thẩm quyền trong cơ quan HCNN. Đặc biệt luận án cũng đã đi sâu phân tích cơ chế

giải quyết tranh chấp hành chính thông qua con đường tư pháp (Tòa án). Đồng thời

đưa ra một số giải pháp về đến tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính thuộc

TAND, trong đó có TAND cấp tỉnh.

Luận án Tiến sĩ: “Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của Nguyễn Danh Tú [111]. Luận án tập

trung phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của giải quyết khiếu kiện hành chính,

phân tích những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đánh giá những ưu

điểm, hạn chế, bất cập tồn tại của việc giải quyết khiếu kiện trên các phương diện:

thể chế pháp lý liên quan; quá trình triển khai thực hiện việc giải quyết khiếu kiện

cả trên phương diện chủ quan và khách quan. Trên cơ sở đó luận án đưa ra những

giải pháp nhằm bảo đảm cho việc giải quyết khiếu kiện hành chính đạt hiệu quả

gắn với các yêu cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của

dân, do dân, vì dân.

Luận án Tiến sĩ: “Giải quyết khiếu nại hành chính trong công cuộc cải cách

hành chính ở Việt Nam” của Hoàng Ngọc Dũng [15]. Luận án đã làm sáng tỏ thêm

về những vấn đề lý luận về khiếu nại hành chính, phân tích các đặc điểm, nguyên

tắc, các yếu tố bảo đảm của hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính. Trong đó, có

đề cập đến vai trò, trình tự, thủ tục, quyền khởi kiện VAHC tại Tòa án trong trường

hợp hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc nhận

được quyết định giải quyết khiếu nại mà đương sự không đồng ý thì có quyền khởi

kiện VAHC tại Tòa giải quyết các tranh chấp hoặc khiếu nại tiếp theo. Như vậy

quyền pháp lý của đương sự được lựa chọn phương thức giải quyết hoặc bằng con

đường hành chính hoặc bằng con đường Tòa án giải quyết.

Luậ án Tiến sĩ: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam” của Vũ Thị Hòa [33]. Trong luận

16

án, tác giả đã phân tích khá sâu sắc về quyền khởi kiện, các phương thức bảo đảm

quyền khởi kiện VAHC của cá nhân và tổ chức nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của

họ theo quy định của pháp luật. Mặt khác, luận án đã đề cập và làm rõ hơn về

nguyên tắc, đặc điểm, vai trò và các yêu cầu về xét xử hành chính của TAND các

cấp. Đồng thời tác giả đã đưa ra những giải pháp về các phương diện pháp lý,

chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức thực hiện xét xử các VAHC nhằm bảo đảm cho

hoạt động xét xử các VAHC có chất lượng và đạt hiệu quả thiết thực.

Luận án Tiến sĩ: “Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam” của Nguyễn

Thị Hà [22]. Tác giả đã luận giải được những vấn đề lý luận về xét xử nói chung, lý

luận về xét xử sơ thẩm VAHC nói riêng, khái niệm, đặc điểm, vai trò, các tiêu chí

của xét xử sơ thẩm. Nhất là các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên

môn nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán, những người tiến hành TTHC. Những vấn

đề về quy định của pháp luật liên quan đến xét xử, liên quan đến xét xử sơ thẩm

VAHC. Xét xử sơ thẩm VAHC là việc giải quyết có có ý nghĩa “khởi đầu” của một

tranh chấp, xung đột hành chính và được thực hiện bởi hai cấp Tòa án: TAND cấp

huyện và TAND cấp tỉnh. Đặc trưng xét xử của từng cấp Tòa án có những khác biệt

nhật định. Luận án cũng đã đánh giá những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân

của kết quả, tồn tại. Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử

các VAHC của TAND thực hiện xét xử sơ thẩm.

Luận văn Thạc sĩ: “Pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam

hiện nay” của Trần Thị Lâm [47]. Luận văn đã phân tích trên bình diện pháp luật

hiện hành quy định về những căn cứ pháp lý để thụ lý giải quyết một VAHC. Tác

giả phân tích sâu sắc về các điều kiện thụ lý và những yếu tố loại trừ không thuộc

điều kiện thụ lý khi Tòa án xem xét quyết định có giải quyết VAHC hay không.

Việc lập luận, lý giải các điều kiện về: chủ thể khởi kiện; đối tượng khởi kiện; trình

tự, thủ tục khởi kiện; thẩm quyền giải quyết và điều kiện về nghĩa vụ án phí khi

khởi kiện VAHC của luận án là khá thấu đáo và chặt chẽ. Đây cũng là một trong

những yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các VAHC đạt chất

lượng và hiệu quả.

Ngoài ra còn một số công trình khoa học khác có giá trị tham khảo liên

quan đến đề tài của luận án. Chẳng hạn: “Kỹ năng giải quyết các vụ án hành

17

chính” của Nguyễn Thị Thu Hương [43]; “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết

của Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính” của Đặng Thanh Sơn

[86]; “Ý nghĩa của việc nghiên cứu mô hình nhân cách người Thẩm phán trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của Bùi

Kim Chi [10]; “Văn hóa pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh vực Tố tụng hành

chính” của Cao Thị Nga [62].

Nhận xét chung, các công trình khoa học này, mặc dù góc độ nghiên cứu có

khác nhau theo từng lĩnh vực nhất định, nhưng có liên quan đến chất lượng xét xử

các VAHC của TAND cấp tỉnh. Luận án có thể tham khảo, kế thừa những nội dung,

quan điểm khoa học để tác giả hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. Có thể thấy,

các công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau cũng phần

nào liên quan đến hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Tuy nhiên,

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chất lượng

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì, trong hệ thống Tòa án bốn cấp thì vị trí,

vai trò của TAND cấp tỉnh nói chung và THC của TAND cấp tỉnh nói riêng có vị

trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống xét xử ở nước ta. Đặc trưng cơ bản của

THC thuộc TAND cấp tỉnh khác với các cấp Tòa án khác là vừa xét xử sơ thẩm,

vừa xét xử phúc thẩm các VAHC của TAND cấp huyện đã xét xử sơ thẩm, để một

mặt vừa kiểm tra, thẩm tra lại tính chính xác của bản án sơ thẩm, vừa thẩm định lại

việc Tòa án cấp huyện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện có chính

đáng không. Đồng thời thông qua xét xử phúc thẩm để kịp thời uốn nắn, rút kinh

nghiệm, triển khai tập huấn nghiệp vụ xét xử các VAHC đối với Tòa án cấp huyện

và ngay cả đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh đảm nhiệm chức năng xét xử các

VAHC. Bởi vậy, chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh có ý nghĩa vô

cùng quan trọng trong hệ thống xét xử ở nước ta.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

Bên cạnh các công trình nghiên cứu liên quan đến tổ chức và hoạt động xét

xử của TAND nói chung và Tòa hành chính nói riêng ở Việt Nam, thì ở nước ngoài

cũng có một số công trình, một số mô hình về tổ chức và hoạt động của Tòa hành

18

chính, chúng ta có thể tham khảo để vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước

ta để hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung cũng như hệ thống cơ quan thực hiện

quyền tư pháp ở nước ta nói chung, liên quan đến tổ chức và hoạt động xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh nói riêng như:

- Tài phán hành chính thuộc hệ thống Anglo-saxons.

Các quốc gia trên thế giới lâu nay cũng có những quan niệm khác nhau về

tài phán hành chính. Sự khác nhau đó xuất phát từ sự khác biệt của những hệ thống

pháp luật khác nhau. Chẳng hạn theo quan niệm của các nước theo hệ thống pháp

luật Anh - Mỹ (Anglo-sacxon), tài phán hành chính là việc giải quyết các tranh chấp

hành chính bằng Tòa án. Tòa án ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ dược tổ chức theo hệ

thống: Tòa liên bang và Tòa các tiểu bang xét xử tất cả các loại việc từ hình sự, dân

sự đến hành chính. Ở Anh, mô hình Tòa án ở thế kỷ XX, trước thập niên 30 cũng có

mô hình như vậy, đến thập niên 50 trở lại đây mới phát triển tài phán hành chính.

Các nước theo hệ thống này giao hoàn toàn xét xử các khiếu kiện hành chính

cho các Tòa án tư pháp. Việc phán quyết về hoạt động hành chính thuộc về Tòa án

thường. Cơ quan hành chính không được hưởng bất kỳ sự ưu ái nào trước cơ quan

tài phán. Hệ thống này với những hình thức khác nhau như: Anh quốc, Hoa Kỳ, và

ở nhiều nước châu Phi như: Sesnegan, Bờ Biển Nga. Các nước ở châu Phi lập ra

một Tòa án cao cấp trong đó có phân tòa chuyên xét xử về hành chính và có thẩm

quyền kép: xét xử các khiếu kiện về tính hợp pháp của văn bản hành chính thông

qua con đường tố tụng lạm quyền (le recour pour exces de pouvoir) và xét xử các

khiếu kiện chống lại các quyết định của Tòa án cấp dưới, bằng con đường phá án

(Giám đốc thẩm).

Theo quan niệm của hệ thống này, lâu nay vẫn ghét cay, ghét đắng việc tạo

ra các tòa án chuyên biệt, với họ chỉ có một loại tòa án, không có chuyên tòa án

hành chính, tòa án thương mại hay tòa án xã hội… đó là các nước thuộc trường phái

Anglo-saxons chính hiệu. Ở những nước này thì các tranh chấp hành chính thuộc về

thẩm quyền cuối cùng của các “court” truyền thống, tức là tòa án tư pháp (hay Tòa

án thông luật - Common Law). Tuy nhiên, những năm gần đây sự can thiệp ngày

càng nhiều của các cơ quan công quyền vào hoạt động kinh tế - xã hội cho nên đã

19

thúc đẩy các quốc gia này tạo ra nhiều thiết chế chuyên biệt để giải quyết tranh chấp

hành chính [61].

- Tài phán hành chính ở một số quốc gia Châu Á

Ở một số nước châu Á như: Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc quan điểm về

tài phán hành chính có đặc thù riêng. Chẳng hạn người Trung Quốc quan niệm về

tài phán hành chính là hoạt động xét xử của Tòa án đối với hoạt động đặc biệt tranh

chấp hành chính thông qua một thủ tục riêng là Tố tụng hành chính (Luật kiện tụng

hành chính năm 1990 của Trung Quốc). Ở Nhật Bản do chịu ảnh hưởng của hai hệ

thống pháp luật châu Âu và Anh - Mỹ nên tài phán hành chính có nét pha tạp, các

tranh chấp hành chính được giải quyết thông qua hai con đường tố tụng hành chính

và tố tụng tư pháp (Tòa án).

- Tài phán hành chính theo hệ thống hỗn hợp

Sách tham khảo "Nhà nước pháp quyền" của Josef Thesing [44]. Đây là sách

tham khảo trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn về

xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới. Nội dung sách do

tập thể các nhà nghiên cứu pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức biên soạn dưới

sự biên tập lại của tác giả Joser Thesing, đã đề cập nhiều nội dung liên quan đến lý

luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền tại nước Đức và một số nước có

liên quan,… Sách đã đề cập đến những đặc điểm cơ bản của chế độ pháp trị được

ghi trong Hiến pháp Đức, pháp trị với tư cách một nguyên tắc hiến định, tự do và

bình đẳng trước pháp luật, tính hợp pháp trong hành pháp, tư pháp và việc bảo hộ

pháp luật,... Về nguyên tắc, hệ thống này trao quyền xét xử về tính hợp pháp của

hoạt động hành chính cho Tòa án hành chính nhưng thẩm quyền xét xử các vụ việc

đòi bồi thường thiệt hại lại thuộc về Tòa án tư pháp. Theo hệ thống này có các

nước: Đức, Italia, Hà Lan, Phần Lan, Luychxembua.

- Tài phán hành chính ở Cộng hòa Pháp

Điều đầu tiên cần nói đến là hệ thống này bao gồm các khiếu kiện về tính

hợp pháp và khiếu kiện đòi bồi thường được giao cho một cơ quan xét xử đặc biệt

đó là các Tòa án hành chính, độc lập hoàn toàn với các Tòa án tư pháp (Tòa án

thường). Đó là hệ thống của Pháp xuất hiện từ thời cách mạng - theo luật ngày 16

20

và 24 tháng Tám năm 1790 và Sắc lệnh số 16 năm thứ III tính theo lịch đã tuyên bố

về sự phân chia giữa quyền lực hành chính và quyền lực tư pháp. Hệ thống này từ

chối việc giao cho Tòa án thường khả năng xét xử các cơ quan hành chính vì nó sẽ

làm lẫn lộn giữa hai ngành hành chính và tư pháp.

Hệ thống pháp luật hành chính, cụ thể là Bộ Luật Công lý hành chính đã tạo

cho nền tài phán hành chính của Cộng hòa Pháp khá phát triển và độc lập với các

Tòa án khác như hình sự; dân sự… Về cấu trúc của hệ thống hành chính ở Pháp

được chia thành 02 nhánh: THC thông thường và THC đặc biệt. Tòa hành chính

thông thường gồm 03 cấp Tòa án: THC sơ thẩm; THC phúc thẩm; Tham chính

viện. THC đặc biệt bao gồm: các THC công; kỷ luật tài chính và các thiết chế kỷ

luật (thường nằm trong các Hội nghề nghiệp như Hội bác sĩ); Ủy ban xử lý kỷ luật

trong các cơ sở giảng dạy đại học; thiết chế tài phán trong lĩnh vực trợ cấp xã

hội… Các thiết chế tài phán đặc biệt này có tên gọi đa dạng, không phải khi nào

cũng là Tòa án, nhưng có thẩm quyền ra phán quyết như Tòa án. Việc xét xử lại

các phán quyết này thuộc thẩm quyền cuối cùng của Tham chính viện. Về thẩm

quyền, tài phán hành chính ở Cộng hòa Pháp đưa ra những phán quyết thuộc các

lĩnh vực sau đây:

- Kiện hành chính đầy đủ: đây là loại kiện mà Thẩm phán có nhiều quyền

hạn nhất: Phán xét trên bình diện pháp luật và cả trên bình diện thực tế của vụ việc;

có quyền buộc cơ quan hành chính phải bồi thường; đưa ra mệnh lệnh buộc cơ quan

hành chính phải thực thi; ra quyết định thay thế cho cơ quan hành chính; kiện bầu

cử, Thẩm phán có thể hủy kết quả bầu cử, tính lại số phiếu và có thể tuyên rằng ứng

cử viên nào thắng phiếu; kiện về xếp hạng công trình; về thuế…

- Kiện hủy quyết định: là loại kiện hướng tới mục tiêu tuyên hủy QĐHC.

Tuy nhiên Thẩm phán không có thẩm quyền ban hành quyết định mới thay thế cho

quyết định bị kiện;

- Kiện giải thích quyết định: đối với loại kiện này, Thẩm phán phải đưa giải

thích chính thức về ý nghĩa của QĐHC;

- Kiện cưỡng chế thi hành: đây là loại kiện trong đó Thẩm phán có quyền

cưỡng chế. Điển hình là thủ tục xử các vi phạm giao thông.

21

Điều kiện về người khởi kiện, phải thỏa mãn chí ít là hai yếu tố: về năng lực

khởi kiện (năng lực pháp luật và năng lực hành vi), và phải lý giải được lợi ích để

khởi kiện đối với cả cá nhân và pháp nhân. Về lợi ích để khởi kiện thì những lợi ích

đó phải cá thể hóa; hợp pháp; được thể hiện dưới dạng vật chất hoặc tinh thần; lợi

ích phải trực tiếp và lợi ích phải chắc chắn. Ví dụ: trong vụ án CE, Rodiere,

26/12/1925, Thẩm phán có quyền thừa nhận việc một công chức có quyền khởi kiện

quyết định bổ nhiệm công chức khác vào vị trí tương tự hoặc cao hơn anh ta. Với lý

do rằng việc bổ nhiệm đó chắc chắn làm cạnh tranh, ảnh hưởng tới vị trí của người

đi kiện.

Điều kiện về thời hiệu khởi kiện ở Pháp. Với các lý do cơ bản là nhà làm luật

ở pháp cho rằng việc khiếu kiện hành chính (KKHC) không được làm ảnh hưởng

tới hoạt động hành chính thường nhật của các cơ quan hành chính nhà nước và cần

bảo đảm sự an toàn pháp lý, cho nên thời hiệu khởi kiện VAHC ở Pháp là rất ngắn.

Có 02 loại thời hiệu đó là thời hiệu chung và thời hiệu đặc biệt. Thời hiệu chung là:

02 tháng kể từ ngày công bố hoặc nhận được QĐHC, trừ trường hợp luật có quy

định khác hoặc không quy định thời hạn (Điều 2, Bộ luật công lý hành chính Pháp).

Thời hiệu đặc biệt: Khởi kiện VAHC tại các lãnh thổ hải ngoại có thể lên 03 tháng;

vùng nông thôn là 06 tháng; 05 ngày đối với khởi kiện bầu cử cấp xã; 48 giờ đối với

khởi kiện chống lại quyết định trục xuất khỏi lãnh thổ…

Điều kiện thụ lý liên quan đến Luật sư công. Điều kiện này không luôn luôn

là bắt buộc. Ở cấp THC sơ thẩm, sự hiện diện của Luật sư công chỉ bắt buộc trong

trường hợp vụ kiện liên quan đến bồi thường thiệt hại hoặc hợp đồng. Ngoài ra các

vụ kiện khác không có yêu cầu này; ở các cấp Tòa khác như: hành chính phúc

thẩm; cấp tham chính viện (các vụ kiện giám đốc thẩm) bắt buộc phải có sự hiện

diện của Luật sư công. Cấp THC đặc biệt không đòi hỏi bắt buộc sự có mặt của

Luật sư công.

Như vậy, nghiên cứu về tài phán hành chính và THC ở một số quốc gia trên

thế giới có giá trị tham khảo cho việc thiết lập mô hình tổ chức và hoạt động tài

phán hành chính ở nước ta hiện nay. Những vấn đề này ít nhiều có tác động tới

chất lượng xét xử các VAHC của TAND nói chung và TAND cấp tỉnh nói riêng.

22

Quan niệm của các quốc gia theo trường phái pháp luật Anh - Mỹ (Anglosacxon)

thì, Tài phán hành chính là việc giải quyết các tranh chấp bằng Tòa án. Tòa án ở

Hoa Kỳ được tổ chức theo hai hệ thống: Tòa án bang và Tòa án tiểu bang xét xử

tất cả các loại việc hình sự, dân sự, hành chính. Ở Anh trước thập niên 50 của thế

kỷ XX cũng cơ cấu như vậy, sau đó THC được thành lập và xét xử các tranh chấp

hành chính [61].

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu trong hệ thống pháp luật châu Âu

lục địa thì tranh chấp hành chính là loại tranh chấp đặc biệt giữa một bên là chủ thể

nhân danh nhà nước, mang quyền lực nhà nước thường áp đặt ý chí lên phía bên kia

(bị quản lý) là tổ chức và công dân. Vì vậy, các tranh chấp hành chính xẩy ra được

giải quyết bằng cơ chế đặc biệt, phù hợp với quan hệ hành chính. Hệ thống THC

độc lập với hệ thống Tòa án tư pháp. Chẳng hạn ở Pháp tồn tại hai hệ thống tài

phán: tài phán tư pháp gồm các tòa hình sự, tòa dân sự. Tài phán hành chính xét xử

các tranh chấp hành chính (Tài phán tư pháp - juge judiciaire và tài phán hành

chính - juge administratif) [61].

Một vấn đề có liên quan trực tiếp đến chất lượng xét xử các vụ án hành chính

của TAND cấp tỉnh là vấn đề con người, những người tiến hành tố tụng và đặc biệt

là Thẩm phán với tư cách là chủ tọa phiên tòa xét xử án hành chính. Chúng ta đã có

nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán hành chính, nhưng

so với yêu cầu vẫn chưa đáp ứng được. Bởi lẽ, về tiêu chuẩn của Thẩm phán hành

chính, tiêu chí bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm phán hành chính ở nước ta vẫn ở

mức độ thấp. Về tiêu chuẩn Thẩm phán hành chính ở các nước có truyền thống xét

xử hành chính lâu đời như Cộng hòa Pháp thì Thẩm phán hành chính là một chức

danh đòi hỏi phải có tiêu chuẩn đặc biệt, ngoài các tiêu chuẩn pháp lý ra còn phải

bắt buộc tốt nghiệp Học viện Hành chính quốc gia. Các quốc gia khác tiêu chuẩn

Thẩm phán đòi hỏi ở mức độ cao về trình độ, năng lực pháp luật như ở Mỹ, người

được bổ nhiệm Thẩm phán phải trải qua làm Luật sư nhiều năm. Muốn trở thành

Luật sư phải tốt nghiệp đại học luật và phải trải qua một kỳ thi rất khắt khe để tham

gia Liên đoàn luật sư (BarAssociation) với nội dung thi đánh giá kiến thức pháp luật

và nhận thức về chuẩn mực đạo đức của luật sư. Muốn vào học trường luật thì phải

có một bằng đại học khác.

23

1.3. GIẢ THUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ

CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.3.1. Những kết quả nghiên cứu của các công trình trong và ngoài nước

được luận án kế thừa

- Đối với nhóm các công trình liên quan đến tổ chức và chức năng nhiệm vụ

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Các công trình khoa học có những phương pháp tiếp cận khác nhau về mô

hình tổ chức THC (bao gồm cả các công trình nghiên cứu trong nước và nước

ngoài), đưa ra những giả thuyết và luận giải các vấn đề liên quan đến tổ chức Tòa

án. Mục tiêu chung của các công trình nghiên cứu về tổ chức và chức năng nhiệm

vụ của THC trong TAND cấp tỉnh đều hướng tới việc, bảo đảm ở mức độ cao nhất

về cơ chế pháp lý để Tòa án có điều kiện thực hiện tốt nhất nguyên tắc độc lập xét

xử. Thoát ly được những áp lực từ nhiều phía, trong đó áp lực từ quyền lực chính trị

- hành chính mà xét xử hành chính đang gánh chịu trực tiếp và khá nặng nề. Theo

đó, cơ bản có hai loại hình về mô hình tổ chức được đưa ra: hoặc giữ mô hình Tòa

án bốn cấp như hiện nay (Luật TTHC năm 2015), nhưng có điều chỉnh chức năng

nhiệm vụ, thẩm quyền xét xử hành chính của TAND cấp huyện và tỉnh; hoặc thiết

kế mô hình tổ chức THC độc lập và được tổ chức theo mô hình THC vùng, khu vực

để thoát ly áp lực, sự ảnh hưởng của quyền lực chính trị - hành chính ở địa phương,

để THC “vô tư” xét xử những hoạt động hành chính của chính quyền địa phương

khi có khiếu kiện. Luận án kế thừa quan điểm và những luận cứ của ý tưởng khoa

học này.

- Đối với nhóm nghiên cứu về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Chất lượng xét xử là mục tiêu tối thượng, thường xuyên và chiến lược của

TAND. Trong đó chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh là một khâu

không thể tách rời mục tiêu chung đó. Các công trình khoa học đã được công bố

thuộc lĩnh vực này đều đề cập khá sâu sắc để giải đáp câu hỏi: làm thế nào để chất

lượng xét xử các VAHC được nâng cao? Bên cạnh một mô hình tổ chức THC hợp

lý, các công trình ít nhiều đều luận giải các vấn đề liên quan đến chất lượng xét xử

24

như: phẩm chất đạo đức của trước hết là Thẩm phán, của Hội đồng xét xử (HĐXX)

hành chính; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử, bản lĩnh giải quyết các

tranh chấp hành chính của Tòa án.

Những vấn đề về khái niệm, đặc điểm THC, chức năng nhiệm vụ của Tòa

án, về chất lượng xét xử của Tòa án mà các công trình khoa học đã luận giải như

các đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng quy định của luật Tố tụng

hành chính về thủ tục xét xử sơ thẩm” của Nguyễn Sơn [89]. Hoặc “Xét xử sơ thẩm

vụ án hành chính ở Việt Nam” của Nguuyễn Thị Hà [22]. Luận án thừa nhận và kế

thừa những kết quả nghiên cứu này, để ứng dụng giải quyết những vấn đề đặt ra

trong lận án một cách hợp lý nhất.

- Những gợi mở liên quan đến chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

một số quốc gia có thể vận dụng ở Việt Nam.

Mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ cũng như các yêu cầu về chất lượng

xét xử các VAHC ở các quốc gia có những khác biệt nhất định. Cùng chức năng xét

xử hành chính, nhưng mỗi quốc gia lại có cách thức tổ chức THC, xác định chức

năng, nhiệm vụ của THC khác nhau theo những trường phái, hệ thống khác nhau

như: Hệ thống tài phán hành chính Anglo-saxons (Anh - Mỹ) họ cũng không coi

trọng xét xử hành chính cần phải riêng biệt, độc lập với các Tòa khác. Giải quyết

các tranh chấp hành chính do Tòa án tư pháp thực hiện, việc phán quyết các tranh

chấp hành chính thuộc về Tòa án thường. Sau này họ mới phát triển tài phán hành

chính và cũng chỉ xem xét, đánh giá tính hợp pháp của đối tượng xét xử hành chính,

không xem xét bồi thường trong VAHC. Chính vì vậy, chất lượng xét xử các tranh

chấp hành chính, đánh giá tính đích thực, đúng - sai, tính hợp pháp của đối tượng

tranh chấp hành chính không cao.

Ở Cộng hòa Pháp, quan niệm về xét xử hành chính của họ lại khác. Người

Pháp coi trọng việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Bởi vậy, mô hình tổ chức

THC được thiết kế chuyên trách, độc lập với Tòa án tư pháp (Tòa án thường). Được

thiết kế theo ba cấp: Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm, Tham chính viện. Ngoài ra còn

còn có các Tòa án đặc biệt với các tên gọi khác nhau. Về phạm vi khởi kiện và đối

tượng khởi kiện được phân định khá rõ ràng, bao gồm: kiện hành chính đầy đủ, Tòa

án có quyền rất rộng: buộc bồi thường, buộc hành chính phải thực thi, ra quyết định

25

thay thế QĐHC…; kiện hủy QĐHC; kiện giải thích quyết định; kiện cưỡng chế thi

hành quyết định. Về điều kiện khởi kiện, các giai đoạn thực hiện thủ tục TTHC rất

đầy đủ và chặt chẽ. Tiêu chuẩn Thẩm phán được đặt ra ở mức độ cao về trình độ, về

chuyên môn, chuẩn mực đạo đức xã hội. Cho nên, chất lượng xét xử các VAHC ở

Cộng hòa Pháp được đảm bảo chuẩn mực và độ chính xác cao.

Một số quốc gia châu Á cũng có những khác biệt về xét xử hành chính.

Trung Quốc cũng có Luật TTHC riêng để thực hiện việc giải quyết các tranh chấp

hành chính. Nhật Bản xét xử hành chính có tính chất pha trộn giữa những quan

niệm của hệ thống tư tưởng pháp luật Anh - Mỹ và tư tưởng pháp luật châu Âu lục

địa, nên việc giải quyết các tranh chấp hành chính được thực hiện thông qua hai con

đường hành chính và tư pháp.

Ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng tư tưởng pháp luật châu Âu, nhưng thiết kế mô

hình tổ chức, xác định chức năng nhiệm vụ và các yêu cầu về chất lượng, hiệu quả

xét xử hành chính có những điểm khác biệt, không hoàn toàn giống như Cộng hòa

Pháp. Phạm vi đối tượng khởi kiện VAHC của chúng ta hẹp hơn, thẩm quyền xét

xử của THC còn bị hạn chế trong những phạm vi quan hệ hành chính nhất định,

chất lượng đội ngũ Thẩm phán vẫn còn những hạn chế về kiến thức QLHCNN,

chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực mà mình phải xét xử, phán quyết tính

đúng - sai của hoạt động hành chính. Luận án đồng tình với quan điểm: thiết kế mô

hình tổ chức THC độc lập; mở rộng hơn về thẩm quyền xét xử các tranh chấp hành

chính của THC; mạnh dạn trao cho Tòa án được thêm quyền: sửa QĐHC và cưỡng

chế thi hành phán quyết của Tòa án, để giảm bớt các thủ tục “rườm rà”, Tòa biết sai

nhưng không được sửa, lại phải quay lại hành chính để họ sửa, phán quyết của Tòa

có hiệu lực rồi, hành chính không thực hiện hoặc “câu giờ” mà không có giải pháp

cứng rắn để thực hiện.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục làm rõ

Thông qua việc nghiên cứu của các đề tài khoa học, của các luận án trong

nước và nước ngoài về những vấn đề liên quan đến chất lượng xét xử VAHC của

TAND cho thấy tổ chức và hoạt động của hoạt động xét xử hành chính đã có được

sự quan tâm đáng kể của các nhà khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau, nhiều khía

cạnh khác nhau của vấn đề. Kết quả nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận,

26

những luận cứ khoa học, những vấn đề về thực tiễn và đề xuất những giải pháp

nhằm hoàn thiện những vấn đề cơ bản về: Nhà nước pháp quyền; cải cách tư pháp;

về tổ chức và hoạt động của Tòa án; về vấn đề chất lượng Thẩm phán, HTND,

những yếu tố liên quan đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu hoặc những bài viết nêu trên cơ bản

và chủ yếu giải quyết những vấn đề về lý luận và đánh giá thực trạng tình hình hoặc

giải quyết vấn đề ở từng phương diện, góc độ nhất định, ở những thời điểm trong

phạm vi những lĩnh vực nghiên cứu nhất định, chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu, giải quyết triệt để về chất lượng xét xử

cũng như việc nâng cao chất lượng xét xử của TAND cấp tỉnh nói chung và chất

lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì TAND

cấp tỉnh xét xử các VAHC có những đặc thù riêng mà không giống bất kỳ cấp Tòa

án nào trong hệ thống TAND ở nước ta hiện nay, chưa giải quyết triệt để, cụ thể:

Thứ nhất: Phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung giải quyết về các

vấn đề về: cải cách tư pháp, tổ chức TAND, Tòa hành chính, cơ chế pháp lý giải

quyết tranh chấp hành chính, xét xử sơ thẩm các VAHC, đạo đức nghề tư pháp,

những bất cập của hệ thống pháp luật… tập trung nghiên cứu về thực trạng và kiến

nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử các VAHC của Tòa án nói

chung mà chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích, chỉ rõ các nguyên nhân căn bản của

chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh, để trên cơ sở đó có những giải

pháp căn cơ nhằm giải quyết triệt để tận “gốc” vấn đề của tình trạng những phán

quyết của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp hành chính hiệu quả chưa như

mong muốn.

Thứ hai: Về năng lực của Thẩm phán, HĐXX, những người tiến hành

TTHC các công trình nghiên cứu cũng đã rất quan tâm đề cập, đánh giá, nhận xét,

luận giải và kiến nghị những giải pháp để nâng cao năng lực xét xử, năng lực giải

quyết các tranh chấp hành chính khi có khiếu kiện. Một yếu tố quan trọng là chính

đội ngũ công chức của Tòa án làm công tác xét xử hành chính chưa được đào tạo

bài bản chuyên về xét xử hành chính, mà chủ yếu tăng cường từ những lực lượng

giải quyết án hình sự, dân sự, lao động… sang xét xử hành chính. Mặt khác, về kiến

thức, kinh nghiệm, kỹ năng QLHCNN nói chung, và nhất là QLHC ở địa phương

27

của Thẩm phán hầu như chưa có, cho nên khi được phân công giải quyết án hành

chính thường “sợ” là phần nhiều. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần được giải quyết

thấu đáo trong luận án này.

Thứ ba: Một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng là phân tích, đánh giá

một cách sâu sắc về mối quan hệ giữa TAND cấp tỉnh với các cơ quan hành chính

cùng cấp, với Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh và quan hệ với UBND cấp huyện

cùng địa phương, các công trình khoa học được công bố chưa luận giải vấn đề này

một cách thỏa đáng với tính chất của THC trong TAND cấp tỉnh. Về lý thuyết, cơ

chế tổ chức, chức năng nhiệm vụ TAND cấp tỉnh độc lập với chính quyền cấp tỉnh,

không chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cùng cấp. Mối quan hệ giữa TAND cấp

tỉnh với UBND là quan hệ phối hợp trong hoạt động. Tuy nhiên, xét về một số góc

độ nhất định thì TAND cấp tỉnh vẫn có phần “lép vế”, phụ thuộc UBND cùng cấp.

Chẳng hạn về kinh phí đầu tư, kinh phí hỗ trợ, TAND là thành viên trong khối Nội

chính của UBND, việc xét xử phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương… Bởi

vậy, để hoạt động của TAND cấp tỉnh được tốt cần phải làm sáng tỏ cả phương diện

lý luận và thực tiễn của mối quan hệ này.

Với vai trò quan trọng của hoạt động xét xử các VAHC ở nước ta hiện nay,

tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về chất

lượng xét xử của TAND cấp tỉnh. Bởi vì, trong xét xử hành chính Luật TTHC đã và

đang trao cho các cấp được xét xử gồm: TAND cấp huyện (xét xử sơ thẩm); TAND

cấp tỉnh (vừa xét xử sơ thẩm, vừa xét xử phúc thẩm); TAND cấp cao (xét xử phúc

thẩm, Giám đốc thẩm). Trong cấu trúc phân định quyền lực của hệ thống TAND

như vậy cho thấy, TAND cấp tỉnh có vị trí và vai trò cực kỳ quan trọng trong việc

giải quyết các khiếu kiện hành chính. Vì TAND cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm những

khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền, vừa xét xử phúc thẩm các VAHC mà cấp

huyện xét xử khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm của TAND cấp

tỉnh là thẩm tra lại, đánh giá lại, thẩm định lại một cách cẩn trọng cả về việc thực

hiện, áp dụng pháp luật TTHC, pháp luật nội dung của TAND cấp huyện để đưa ra

phán quyết thuyết phục. Mặt khác, THC thuộc TAND cấp tỉnh thuộc một trong

những Tòa án chuyên trách, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức khác với các Tòa

khác, phạm vi giải quyết án hành chính có đặc thù riêng biệt của cấp tỉnh.

28

Giả thuyết nghiên cứu đặt ra từ góc độ chuyên ngành lý luận lịch sử nhà

nước và pháp luật. Vấn đề chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh đã

được nghiên cứu đến đâu cả về lý luận và thực tiễn. Luận án cần tiếp tục nghiên cứu

những gì. Nhiệm vụ cơ bản của luận án cần tiếp tục nghiên cứu:

- Luận chứng cơ sở khoa học, các căn cứ đánh giá chất lượng xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay;

- Phương diện lý luận cần làm rõ thế nào là chất lượng xét xử các VAHC

của TAND cấp tỉnh. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc bảo đảm hiệu quả của

chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

- Có những tiêu chí nào đánh giá và có những yếu tố nào bảo đảm cho chất

lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

- Về thực trạng, chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh có những

ưu điểm/ kết quả gì, những hạn chế và nguyên nhân nào? Để nâng cao chất lượng

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay cần triển khai, thực hiện những

quan điểm nào và cần kiến nghị thực hiện những giải pháp gì.

- Quan điểm và các giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng xét

xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong tình hình hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Mặc dù xét xử hành chính bằng con đường tư pháp ở nước ta đã thực hiện

được gần 20 năm nay, so với lịch sử hoạt động xét xử của Tòa án trong các lĩnh vực

khác như: hình sự, dân sự… thì còn quá non trẻ. Khi nghiên cứu về lĩnh vực này các

công trình khoa học trong nước cũng như nước ngoài còn có những vấn đề, những

quan điểm, ý kiến, cách thức tổ chức, thực hiện khác nhau về mô hình tổ chức, chức

năng nhiệm vụ, thẩm quyền… của TAND. Ở nước ta, một mặt THC mới được

thành lập, mặt khác về mô hình tổ chức, phương thức hoạt động chưa thực sự ổn

định và hợp lý.

Tuy nhiên, các công trình khoa học trong nước và nước ngoài cũng đã luận

giải được nhiều góc độ về lý luận, đưa ra được những luận cứ khoa học với nhiều

góc độ, phương diện khác nhau về mô hình tổ chức và hoạt động xét xử hành chính

29

(tài phán hành chính) rất có giá trị lý luận cũng như thực tiễn. Như mô hình tổ chức

và hoạt động tài phán hành chính của các quốc gia: Cộng hòa Pháp; Cộng hòa Liên

bang Đức, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc… Các công trình khoa học trong nước

như: Đề tài “Tài phán hành chính - thể chế bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức” của Hoàng Thị Kim Quế [70]; "Thẩm quyền xét xử khiếu

kiện hành chính của Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ nhà nước và công

dân" của Nguyễn Thanh Bình [3]; “Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Trần Kim Liễu [49]; hoặc luận án "Áp

dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay"

của Lê Xuân Thân [93]...

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu khoa học trong nước và nước ngoài, tác

giả đã tham khảo và kế thừa một cách có chọn lọc những nhân tố hợp lý, phù hợp

với nội dung đề tài nghiên cứu để làm cơ sở nghiên cứu giải quyết thấu đáo những

vấn đề mà nội dung luận án đặt ra. Bởi vì, các công trình khoa học được nghiên cứu

dưới những góc độ, lĩnh vực, cấp độ khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách chuyên khảo, có hệ thống về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp

tỉnh ở nước ta. Trong khi chất lượng xét xử của Tòa án nói chung và THC nói riêng

vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được nghiên cứu một cách thấu đáo mới đáp

ứng được yêu cầu cả về lý luận lẫn thực tiễn ở nước ta hiện nay.

30

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ

ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.1.1. Khái niệm Tòa hành chính, xét xử hành chính và chất lượng xét

xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

2.1.1.1. Khái niệm Tòa hành chính và xét xử các vụ án hành chính

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là

bảo đảm để Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong hoạt động

tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập

trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố

và bào chữa, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một người có tội hay

không có tội.

Tòa hành chính: Tòa án trong tiếng Latinh là Forum, nghĩa là nơi công

đường, nơi hoạt động cộng đồng được tiến hành. THC ở nước ta nằm trong hệ

thống TAND gồm: TAND cấp huyện, THC TAND cấp tỉnh, THC TAND cấp cao,

Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Hội đồng thẩm phán TANDTC. Nhìn chung

THC có những dấu hiệu đặc trưng đó là: (1) Là cơ quan xét xử các tranh chấp hành

chính; (2) Đối tượng xét xử mang tính đặc thù mà một bên bao giờ cũng liên quan

đến công quyền; (3) Hoạt động tuân thủ thủ tục tố tụng hành chính; (4) Hoạt động

theo nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp luật.

Có thể định nghĩa THC như sau: Tòa hành chính là cơ quan xét xử thuộc hệ

thống Tòa án nhân dân, thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp hành chính,

để bảo vệ công lý, được tổ chức và hoạt động theo luật định.

Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của xét xử hành chính khác với các hoạt động xét

xử khác được thể hiện ở chỗ: (1) Xét xử hành chính là xét xử các tranh chấp trong

quan hệ hành chính giữa một bên là tổ chức, công dân và một bên bao giờ cũng

31

mang quyền lực công (cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ).

(2) Đối tượng xét xử của VAHC có tính đặc thù riêng biệt, là các QĐHC, hành vi

hành chính (HVHC), QĐKLBTV đối với công chức từ cấp Tổng cục trưởng trở

xuống. (3) Quá trình xét xử các VAHC phải tuân theo trình tự thủ tục của TTHC,

chứ không theo thủ tục hành chính thông thường.

Xét xử hành chính: Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về xét xử. Theo

Từ điển tiếng Việt thì: xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng của các Tòa án,

các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng

xét xử. Mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải qua xét xử, không ai có thể bị

buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng

bản án [67].

Xét xử là việc đưa ra các phán quyết dưới hình thức một bản án hoặc quyết

định của Tòa án có thẩm quyền nhằm giải quyết các xung đột, tranh chấp hoặc

những phát sinh trong các quan hệ pháp lý cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm

bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và

công dân. Như vậy có thể thấy xét xử là một hoạt động nhà nước đặc biệt do Tòa án

thực hiện nhằm giải quyết các vụ án trong đó có các VAHC.

Xét xử hành chính là loại án cho đến nay vẫn còn khá mới ở Việt Nam về cả

phương diện lý luận và thực tiễn so với án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình đã có

từ lâu đời trong lịch sử tố tụng tư pháp Việt Nam. Nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về

loại án hành chính và trình tự thủ tục tố tụng giải quyết loại án này là nhu cầu thiết

thực, quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước những khả năng có thể bị

xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của cơ quan công quyền.

Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước ta thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Tổ chức TAND, trong đó TAND được trao thêm chức năng xét xử

"các VAHC", tiếp đến pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực

thi hành từ ngày 1/7/1996, thì án hành chính mới bắt đầu xuất hiện và trở nên ngày

càng nhiều hơn, nhất là từ khi Luật TTHC có hiệu lực từ ngày 1/7/2011. Trước khi

ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND, việc KKHC

32

của công dân, tổ chức đều do cơ quan hành chính thụ lý, giải quyết theo TTHC, chứ

không có thủ tục tố tụng tư pháp hay nói cách khác là Tòa án chưa có thẩm quyền,

chức năng thụ lý giải quyết loại án hành chính này.

Việc trao cho Tòa án thêm chức năng xét xử các VAHC là nhằm tạo ra cơ

chế pháp lý, độc lập, khách quan, công khai, dân chủ, công bằng hơn để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trước khả năng bị xâm

hại bởi QĐHC, HVHC của cơ quan công quyền; bên cạnh đó, thông qua việc

thực hiện chức năng xét xử các VAHC của Tòa án còn có tác dụng giám sát từ

nhánh quyền lực tư pháp đối với nhánh quyền lực hành pháp nhằm tăng cường

tinh thần trách nhiệm, chất lượng công tác, thái độ tận tụy phục vụ nhân dân,

nâng cao chất lượng trong việc ban hành QĐHC hoặc thực hiện HVHC của các

cơ quan hành chính.

Mặt khác, nguyên tắc phân công (phân chia) quyền lực nhà nước được quy

định trong Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác còn bao hàm nội

dung mọi hoạt động hành chính của cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ theo pháp

luật và có sự giám sát từ nhiều phương diện, trong đó có sự giám sát của hệ thống

Tòa án - thông qua xét xử các VAHC - với tư cách độc lập về tổ chức và hoạt động.

Từ góc độ tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thẩm quyền giải quyết

VAHC được khái niệm: Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa án là

phạm vi quyền lực nhà nước được trao cho Tòa án, cho phép Tòa án được tiến

hành các hoạt động tố tụng, nhằm đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp của

các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện.

Vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân, tổ chức khởi kiện yêu cầu

Tòa án xem xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, QĐKLBTV đối với công chức,

việc lập danh sách cử tri của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền

được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể khái

niệm về xét xử VAHC như sau: Xét xử vụ án hành chính là quan điểm, ý chí của

Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp hành chính khi có yêu cầu của khởi kiện

của các chủ thể theo quy định của pháp luật.

33

2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Khái niệm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp

tỉnh. Để có thể nâng cao chất lượng xét xử nói chung, chất lượng xét xử các VAHC

của TAND cấp tỉnh nói riêng cần phải làm rõ và luận giải về nội hàm của chất

lượng xét xử vụ án.

"Chất lượng" là một phạm trù trừu tượng, phức tạp và khó định nghĩa, thậm

chí khó nắm bắt. Hiện nay có nhiều định nghĩa và nhiều quan điểm khác nhau về

chất lượng. Một số định nghĩa về chất lượng đã được đưa ra như sau:

Cách tiếp cận thứ nhất: "Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu" (Juran - một

Giáo sư người Mỹ). "Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất

định" (Giáo sư Crosby). Từ góc độ tiêu chuẩn hay các thông số kỹ thuật có nguồn

gốc từ ý niệm kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và dịch vụ thì “chất

lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (thông số kỹ thuật)” [91]. Cách tiếp cận này

có nguồn gốc từ ý niệm kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và dịch vụ.

Trong bối cảnh này tiêu chuẩn được xem là công cụ đo lường hoặc bộ thước đo -

một phương tiện trung gian để miêu tả những đặc tính cần có của một sản phẩm hay

dịch vụ. Chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được đo bằng sự phù hợp của nó với

các thông số hay tiêu chuẩn được quy định trước đó. Nhược điểm của cách tiếp cận

này là nó không nêu rõ các tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở nào. Và xét

tương ứng với đối tượng là hoạt động xét xử thì các tiêu chuẩn này khó có thể định

lượng và không mang tính khả thi trên thực tế.

Cách tiếp cận thứ hai đó là “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích”. Chất

lượng được đánh giá bởi mức độ mà sản phẩm, dịch vụ hay hệ thống, quá trình đáp

ứng được mục đích đã tuyên bố [91]. Cách tiếp cận này cho phép cung cấp một

hình mẫu để xác định các tiêu chí mà một sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động cần có.

Nó là một khái niệm động, phát triển theo thời gian, tùy thuộc vào sự phát triển kinh

tế xã hội của đất nước và tùy thuộc vào đặc thù của từng đối tượng và có thể sử

dụng để phân tích chất lượng ở các cấp độ khác nhau.

Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000, đã

đưa ra định nghĩa sau: "Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một

34

sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các

bên có liên quan" [91].

Có thể thấy trong mỗi lĩnh vực khác nhau, tùy từng mục đích và đối tượng sử

dụng khác nhau mà có nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên về cơ

bản từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm

chất lượng:

+ Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, sự phù hợp mục đích của

đối tượng đang được xem xét.

+ Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn

biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều

kiện sử dụng.

+ Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, nhất là chất lượng xét xử của

Tòa án thì cần xem xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa

mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía đối tượng thụ hưởng

mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu

của cộng đồng xã hội.

+ Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu

chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng

chỉ có thể cảm nhận chúng hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá

trình sử dụng.

+ Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà chất

lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình. Trong mỗi lĩnh vực khác

nhau, tùy từng mục đích và đối tượng sử dụng khác nhau mà có những quan điểm

khác nhau về chất lượng.

Trên cơ sở những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm: Chất lượng xét

xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh là những kết quả của quá

trình đánh giá, sử dụng chứng cứ, áp dụng pháp luật của Tòa án để đưa ra những

phán quyết đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật, với chuẩn

mực đạo đức xã hội nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp phát sinh trong quan

hệ pháp luật hành chính.

35

2.1.2. Đặc điểm xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

Thứ nhất: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tác động đến nguyên tắc

độc lập xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh

Hiến pháp năm 2013 bổ sung thêm một nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản

3, Điều 2) [79]. Đây là bước tiến lớn về tư duy trong tổ chức quyền lực nhà nước,

“dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực”. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu

tiên xác định rõ cơ quan TAND có chức năng thực hiện quyền tư pháp (khoản 1,

Điều 102, Hiến pháp năm 2013) [79].

Theo quy định tại khoản 3, Điều 32 LTTHC năm 2015 thì TAND cấp tỉnh

xét xử: các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà

nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có

thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó. Việc trao quyền cho TAND cấp tỉnh như

vậy, về thực chất bên cạnh việc bảo đảm quyền của tổ chức và công dân thì vai trò

kiểm soát hoạt động của hầu hết các hoạt động trong hệ thống hành chính của chính

quyền địa phương, thông qua việc xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh (trừ những

khiếu kiện đối với các cơ quan thuộc cấp huyện và cấp xã thuộc chức năng của

TAND cấp huyện). Hoạt động xét xử của Tòa án thực chất là việc thẩm định lại,

đánh giá lại tính hợp lý, hợp pháp các hoạt động QLNN của chính quyền địa

phương nhằm vừa chỉ ra những sai sót, khuyết điểm để buộc hành chính phải khắc

phục, vừa kiểm soát, hạn chế sự lạm quyền trong hoạt động quản lý và điều hành

của chính quyền địa phương.

Hệ thống chính trị ở địa phương, đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy

kiêm Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Các Phó chủ tịch UBND cấp tỉnh, các thành viên

UBND đều là Tỉnh ủy viên, trong đó có một số là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,

Thành ủy. Trong trường hợp, UBND hoặc Chủ tịch UBND có QĐHC hoặc HVHC

bị khởi kiện mà TAND cấp tỉnh phải xem xét và có căn cứ xác định QĐHC hoặc

HVHC đó là trái pháp luật cần phải hủy thì vấn đề đặt ra Tòa án sẽ phán quyết thế

nào? Trong khi Chánh án TAND cấp tỉnh cũng là Tỉnh ủy viên (Theo Báo cáo tổng

kết năm 2017 của TANDTC thì hiện nay có 56 chánh án, phó chánh án TAND cấp

36

tỉnh tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh (bằng 89%) [101]. Về lý thuyết

pháp lý QĐHC, HVHC đó phải được hủy là phù hợp pháp luật. (Nguyên tắc xét xử

độc lập, chỉ tuân theo pháp luật). Tuy nhiên, trong thực tiễn là một vấn đề, hoạt

động xét xử của Tòa án, một trong những chức năng là phải đảm bảo và phục vụ

nhiệm vụ chính trị của địa phương. Giả sử, trường hợp hủy QĐHC đó sẽ ảnh hưởng

tới tình hình chính trị, an ninh - xã hội của địa phương thì Tòa sẽ phán quyết ra sao?

chưa tính đến các yếu tố tác động, ảnh hưởng khác mà thực tiễn đã và đang diễn ra

trong hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay. Đây là một trong

những đặc thù riêng biệt chỉ có trong hoạt động xét xử VAHC của TAND cấp tỉnh.

Thứ hai: Người khởi kiện và người bị kiện trong VAHC của TAND cấp tỉnh

có tính đặc thù

* Đặc điểm của người khởi kiện trong vụ án hành chính

So sánh với các loại án khác thì người khởi kiện trong VAHC có tính đặc thù

riêng biệt. Người khởi kiện là thuật ngữ chỉ tư cách của cá nhân hay cơ quan, tổ

chức khi tham gia tố tụng trong VAHC. Tại khoản 8 Điều 3 Luật TTHC năm 2015

quy định: “Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện VAHC đối với

QĐHC, HVHC, QĐKLBTV, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ

việc cạnh tranh; danh sách cử tri…”. Điều 5 cũng quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá

nhân có quyền khởi kiện VAHC để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của mình”.

Như vậy, theo những quy định trên thì người khởi kiện trong VAHC là

những cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thỏa mãn các điều kiện: (1) Đối tượng khởi

kiện (QĐHC, HVHC, QĐKLBTV) phái có liên quan trực tiếp đến người khởi kiện;

(2) Người khởi kiện cho rằng đối tượng khởi kiện trái pháp luật, quyền, lợi ích hợp

pháp của họ bị xâm phạm; (3) Người khởi kiện phải có năng lực hành vi hành chính

(khả năng tham gia quan hệ pháp luật hành chính của người khởi kiện: tuổi, năng

lực hành vi dân sự…). Cần lưu ý là các QĐHC, HVHC này phải tác động gây ảnh

hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì họ

mới có thể trở thành người khởi kiện.

Bên cạnh đó, người khởi kiện phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều

54 Luật TTHC. Nghĩa là phải có năng lực TTHC bao gồm năng lực pháp luật

37

TTHC và năng lực hành vi TTHC. Năng lực pháp luật TTHC là tổng thể những

quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bao

gồm quyền khởi kiện VAHC, những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác sau khi vụ án

đã phát sinh năng lực hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong TTHC là khả

năng tự thực hiện việc khởi kiện VAHC hoặc ủy quyền cho người khác tham gia

TTHC. Năng lực hành vi TTHC của cá nhân sẽ khác nhau tùy theo độ tuổi và khả

năng nhận thức. Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền,

nghĩa vụ của đương sự trong TTHC hoặc có thể ủy quyền cho bất cứ người nào đại

diện cho mình tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 48 và Điều 54 Luật TTHC

(trừ những người không được làm người đại diện theo khoản 6, khoản 7 Điều 54).

* Đặc điểm của người bị kiện trong vụ án hành chính

Người bị kiện trong VAHC là chủ thể đặc biệt có đặc điểm hoàn toàn khác

với các quan hệ pháp luật khác như trong hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại…

Người bị kiện trong VAHC dù là tổ chức hay cá nhân luôn liên quan đến quyền lực

nhà nước, họ phải thỏa mãn điều kiện phải là người thực hiện nhiệm vụ, công vụ

QLHCNN theo quy định. Người bị kiện trong VAHC luôn luôn liên quan đến

quyền lực công (công quyền).

Nói cách khác là họ có chức năng, thẩm quyền, có trách nhiệm để thi hành

công vụ trong lĩnh vực QLHCNN theo quy định của pháp luật. Đây là đặc trưng cơ

bản để xác định đó là án hành chính. Trong trường hợp người có thẩm quyền không

thực hiện nhiệm vụ, công vụ hoặc họ thực hiện không liên quan gì đến quyền lực

hành chính công, dù có bị khởi kiện tại Tòa án thì cũng không trở thành chủ thể

người bị kiện trong VAHC.

Thứ ba: Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính mang tính đặc thù

Đây là một loại đối tượng xét xử đặc biệt mà các bên tranh chấp ban đầu có

vị trí bất bình đẳng với nhau (quản lý và đối tượng quản lý) và sau đó, trong quan

hệ tố tụng pháp luật lại đặt các bên vào vị trí bình đẳng, ngang nhau về quyền và

nghĩa vụ trước tòa. Hoạt động HCNN do cá nhân và một số cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền thực hiện. Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao thì các chủ

thể quản lý thông qua chủ yếu các phương tiện QĐHC và HVHC. Theo quy định

của Luật TTHC thì đối tượng khởi kiện trong VAHC bao gồm:

38

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC trừ các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật

nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do

Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.

- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu

cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND).

- Khiếu kiện QĐKLBTV công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và

tương đương trở xuống.

- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh [82].

Thứ tư: Đặc điểm của trình tự, thủ tục giải quyết các VAHC

Thủ tục hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán tư pháp.

Theo nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực của Chính phủ trong việc xem xét tính

đúng sai của các hoạt động diễn ra trên phạm vi lãnh thổ nhất định; theo nghĩa

hẹp thì thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét,

đánh giá và ra các phán quyết đối với vụ việc cụ thể và với các đối tượng xác

định. Theo khái niệm này thì tài phán được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết

tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của

cơ quan hành chính [66].

Chúng ta thừa nhận cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố

tụng, tuy nhiên không thành lập một hệ thống THC độc lập mà thành lập các THC

với tư cách là tòa chuyên trách thuộc hệ thống TAND. Vậy, TTHC là việc giải

quyết các KKHC bằng các trình tự, thủ tục tố tụng, được giải quyết bởi THC thuộc

hệ thống TAND theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành Luật TTHC.

Xét về bản chất, TTHC là một phương thức giải quyết các KKHC, nó tồn tại

song song với cơ chế giải quyết các khiếu nại, tố cáo hành chính. So với cơ chế giải

quyết các KKHC bằng thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, TTHC có ưu điểm

lớn đó là các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan chuyên trách độc

lập - đó là các THC thuộc TAND. Không những thế, TTHC còn bảo đảm sự bình

đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án, đây là điều không thể có

được khi giải quyết theo TTHC các KKHC. Chính vì vậy, đây là một cơ chế hữu

hiệu góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi

39

những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan công

quyền [125]. Trình tự, thủ tục giải quyết các VAHC được thể hiện ở một số điểm

sau đây: Về cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng; Về người tham gia tố

tụng; Về các hoạt động cụ thể được tiến hành trong hoạt động tố tụng.

Thứ năm: Đặc điểm về chủ thể tham gia xét xử các vụ án hành chính

Do có những đặc thù về người khởi kiện và người bị kiện trong VAHC, cho

nên, trong quá trình giải quyết các VAHC có nhiều nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến

sự vô tư, khách quan của Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng cũng như sự độc lập

của Tòa án nói chung. Các biểu hiện tác động đến sự khách quan ấy trên thực tế có

rất nhiều, phức tạp, đa dạng và xuất phát từ các chủ thể khác nhau, làm cho quá

trình giải quyết vụ án thiếu khách quan từ đó các quyền và lợi ích chính đáng và

hợp pháp của công dân không được bảo vệ một cách thỏa đáng [41].

Sự tương quan quyền lực giữa chủ thể tham gia xét xử và người bị kiện

trong VAHC. Theo quy định của pháp luật thì người ra các QĐHC hay có HVHC

đa số là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước. Theo như

các số liệu thống kê, thì đa số các vụ KKHC ở Việt Nam đều liên quan trực tiếp

hoặc gián tiếp đến cơ quan quản lý HCNN ở địa phương - UBND. Nếu xét về tổ

chức trong bộ máy nhà nước, TAND nói chung và THC nói riêng không phụ thuộc

nào vào cơ quan HCNN ở địa phương. Tuy nhiên, với vai trò là một cơ quan quản

lý HCNN tại địa phương thì thẩm quyền của UBND bao trùm lên rất nhiều mặt,

lĩnh vực trong đời sống xã hội tại địa phương. Với vị trí, vai trò to lớn như vậy, cơ

quan HCNN ở địa phương có ảnh hưởng lớn lao đến đội ngũ cán bộ công chức nói

chung và đội ngũ Thẩm phán, HTND trong địa phương mình nói riêng [54]. Khi

người dân khởi kiện yêu cầu hủy bỏ quyết định trái pháp luật của chính quyền địa

phương thì việc có Thẩm phán “e ngại”, nể nang, né tránh, không dám ra phán

quyết khẳng định tính bất hợp pháp của QĐHC, HVHC là khó tránh khỏi [103].

Về HTND, hiện nay các HTND ở nước ta thường là các cán bộ, công, viên

chức của các cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ

quốc giới thiệu nên tính nhân dân cũng ở mức độ nhất định. Vì là cán bộ, công chức

và nhiều khi trong số đó là những người chưa được đào tạo chuyên sâu về pháp lý,

nên quá trình giải quyết còn mang tính chủ quan và không tránh khỏi “cả nể” các cơ

40

quan nhà nước. Mặt khác, thực tiễn cho thấy quan điểm giải quyết án của HTND

chủ yếu dựa vào ý chí của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa [46].

2.1.3. Đặc điểm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh

Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh được thể hiện ở

một số lĩnh vực cơ bản sau đây:

Thứ nhất: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh là chỉ tiêu tổng

hợp đánh giá hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh

Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được phản ánh thông qua

chất lượng của các bản án, quyết định của Tòa án. Để có được phán quyết Tòa án

phải thực hiện một chuỗi hoạt động kế tiếp và có tính logic của HĐXX và các

đương sự như: cung cấp, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, sử dụng chứng cứ,

đánh giá tính hợp pháp của đối tượng xét xử (QĐHC, HVHC, QĐKLBTV…), căn

cứ pháp lý áp dụng và cuối cùng là việc Tòa án chấp nhận hay bác yêu cầu khởi

kiện, khẳng định đối tượng khởi kiện đúng một phần hay đúng toàn bộ, hủy QĐHC

hay đình chỉ HVHC. Chỉ tiêu đánh giá tổng hợp biểu hiện mức độ của chất lượng

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh nên được thể hiện rất đa dạng, nhiều phương

diện, tuy nhiên tiêu chí quan trọng liên quan đến chất lượng xét xử của Tòa án bao

gồm: Hiệu lực thực tế các phán quyết của TAND; ở số lượng vụ án được chấp

nhận, số lượng án bị cải sửa hoặc bị hủy; mức độ và tính có lỗi do xét xử có sai sót,

lý do cải sửa, (do áp dụng sai về TTHC hay sai về áp dụng luật nội dung); hủy án,

những lỗi, những sai sót trong quá trình xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh (bao

gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm); ở chất lượng bản án, mức độ bảo đảm tính

thuyết phục; tỷ lệ đồng tình hoặc phản ứng của dư luận xã hội đối với kết quả xét xử

của Tòa án, bao gồm cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm các VAHC của TAND

cấp tỉnh.

Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được thể hiện thông qua

những chỉ số, chỉ tiêu cơ bản như: tỷ lệ số vụ việc thụ lý giải quyết so với yêu cầu

khởi kiện của tổ chức và công dân; tỷ lệ số án được xét xử so với số lượng án phải

xét xử, số lượng án đã thụ lý, số án đã xét xử, chẳng hạn năm 2016 toàn ngành xét

xử án hành chính đạt tỷ lệ 80% (5.358/6.708 vụ, trong đó xét xử sơ thẩm

41

4.011/4.933 vụ; xét xử phúc thẩm 1.296/1.701 vụ; tỷ lệ án có kháng cáo, kháng

nghị phúc thẩm là 42,4%, không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm

là 57,6%; tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm là 1,4%) [101]; tỷ lệ án được đương sự

chấp nhận không có kháng cáo, kháng nghị; tỷ lệ hủy án, sửa án; thái độ của xã hội

về phán quyết của Tòa án; sự hài lòng của người khởi kiện, người bị kiện và người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đó là những chỉ số “biết nói” phản ánh chất lượng

xét xử các VAHC của TAND, trong đó TAND cấp tỉnh có vai trò quan trọng.

Thứ hai: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh góp phần nâng

cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước

Hoạt động hành pháp chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống hành chính nhà

nước. Quyền hành pháp là việc thực thi pháp luật, áp dụng pháp luật, đưa pháp luật

đi vào cuộc sống cũng chủ yếu thông qua bộ máy HCNN. Quyền lực hành chính

vốn rộng và đa dạng nên cần phải có cơ chế kiểm soát hữu hiệu. Tinh thần Hiến

pháp năm 1013 chỉ ra “lấy quyền lực để kiểm sát quyền lực”. Kiểm soát hoạt động

hành pháp có nhiều cơ chế chính trị - xã hội - hành chính - pháp lý để kiểm soát.

Tuy nhiên, cơ chế pháp lý dùng quyền lực tư pháp để tham gia kiểm soát hoạt động

hành pháp là một trong những cơ chế chính trị - pháp lý mạnh mẽ và có hiệu lực và

hiệu quả thiết thực. Trong thực tiễn QLHCNN nhiều trường hợp cơ quan, cán bộ,

công chức nhà nước thực thi công vụ, ban hành những quyết định, thực hiện những

hành vi trái với hiến pháp (vi hiến), trái với pháp luật (vi luật), trái với văn bản của

của cấp trên hoặc ngoài khuôn khổ thẩm quyền (vi quyền). Hệ lụy của những hành

vi đó làm sai lệch quyền lực, hạn chế hiệu lực, hiệu quả QLNN, phương hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh với chức năng xem xét,

đánh giá tính hợp pháp của QĐHC, HVHC do cơ quan, người có thẩm quyền trong

cơ quan HCNN thực hiện, sẽ chỉ ra những bất cập, những sai sót, thậm chí những vi

phạm của hoạt động hành chính để tự họ sửa chữa, khắc phục (trong trường hợp có

thể). Hoặc ban hành bản án, quyết định buộc cơ quan hành chính, người có thẩm

quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện việc sửa chữa, khắc phục

những sai sót, vi phạm đã mắc phải theo quy định của pháp luật. Thông qua hoạt

động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh, bao gồm cả xét xử sơ thẩm và phúc

42

thẩm, vừa khắc phục được những sai sót của hoạt động hành chính, vừa tạo điều

kiện giúp cho hoạt động hành chính được nâng cao. Điều quan trọng là bản án,

quyết định của Tòa án có chất lượng sẽ có tác động tích cực vào việc kiểm soát,

kiềm chế được sự “lạm quyền” vốn có của hoạt động hành chính.

Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh phụ thuộc vào các yếu tố

như: hệ thống pháp luật TTHC, pháp luật nội dung có liên quan; các thiết chế về mô

hình tổ chức TAHC; năng lực, trách nhiệm, kỹ năng, bản lĩnh của đội ngũ Thẩm

phán với tư cách là người trực tiếp xét xử VAHC; cơ sở vật chất, phương tiện kỹ

thuật, kinh phí bảo đảm cho hoạt động xét xử; cơ chế giám sát, kiểm tra của cơ quan

có thẩm quyền và giám sát tối cao của nhân dân…

Thứ ba: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân

Quyền, lợi ích của tổ chức và công dân có thể bị xâm hại từ nhiều phía: từ tổ

chức, cá nhân khác hoặc ngay từ hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, cán bộ,

công chức nhà nước khi họ thi hành nhiệm vụ, công vụ. Các chủ thể của Nhà nước

có thể xâm hại đến quyền của tổ chức và công dân thông qua các hình thức khác

nhau căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, chẳng hạn: cơ quan quyền

lực nhà nước (Quốc hội, HĐND các cấp) xâm hại thông qua hình thức lập pháp, lập

quy, đưa ra những quy định trái Hiến pháp, trái quy chuẩn đạo đức; cơ quan

QLHCNN xâm hại thông qua các hình thức ban hành các QĐHC hoặc thực hiện

những HVHC trái với quy định của pháp luật. Cơ quan HCNN, cán bộ, công chức

nhà nước là những người thường trực tiếp hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với công

việc, giải quyết các yêu cầu của tổ chức và công dân, cho nên họ thuộc nhóm

“nhiều nguy cơ nhất” có khả năng gây tổn hại lợi ích cho công dân, tổ chức. Bởi

vậy, trong thực tế đơn khiếu kiện chủ yếu liên quan đến hoạt động quản lý của cơ

quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước.

Để dàn xếp những “phản ứng” của dân chúng đối với các hoạt động

QLHCNN, hiện nay pháp luật có nhiều “kênh xử lý” khác nhau, có thể khiếu nại

hành chính và sẽ được chính hệ thống hành chính giải quyết bằng phương thức “tự

xem xét lại” cách thức xử lý của mình, trường hợp đương sự không thỏa mãn, tiếp

tục có yêu cầu thì cấp trên trực tiếp của cơ quan hành chính đó giải quyết. Hoặc

43

đương sự có thể nhờ tư pháp xem xét, giải quyết thông qua con đường TTHC, Tòa

án sẽ thụ lý giải quyết bằng một VAHC. Chất lượng, hiệu quả xét xử án hành chính

của TAND, thực chất là “dàn xếp” được một cách ổn thỏa nhất, khách quan nhất,

công bằng nhất những “bức xúc” của dân chúng đối với hoạt động QLHCNN có sai

sót. Mặt khác bảo vệ được quyền lợi chính đáng của tổ chức và công dân. Trường

hợp do cố tình hoặc vô ý Tòa án làm sai lệch đi quy trình tố tụng sẽ làm mất đi các

quyền “trông cậy” nơi công lý của đương sự. Hoặc áp dụng pháp luật không đúng,

đánh giá các tình tiết, chứng cứ thiếu khách quan, chính xác, đưa ra phán quyết

không đúng hoặc Tòa “bênh vực” hành chính thì vô hình chung, chính đó trực tiếp

xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của tổ chức, công dân.

Do chưa có nhiều kinh nghiệm tích lũy từ thực tiễn giải quyết loại án này (vì

hệ thống THC so với các tòa chuyên trách khác được thành lập muộn hơn), đội ngũ

thẩm phán chưa trưởng thành thông qua thực tiễn xét xử. Chất lượng xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh không đồng đều bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau về

trình độ nhận thức - văn hóa; về trải nghiệm thực tiễn, có những địa phương số

lượng án hành chính không đáng kể và nhìn chung so với các loại án khác thì số

lượng án hành chính trong phạm vi cả nước còn ở mức độ khiêm tốn. Nhất là ở các

vùng có điều kiện khó khăn về kinh tế - xã hội thì lượng án hành chính hầu như

không có, cho nên các thẩm phán không có điều kiện rèn luyện qua thực tiễn và

điều kiện tiếp cận thông tin cũng hạn chế.

Chất lượng xét xử các VAHC có tác động không những tới quyền lợi chính

đáng, hợp pháp của tổ chức và công dân, mà còn phản ánh sự đúng đắn, chính xác,

chất lượng của hoạt động HCNN. Nếu kết quả xét xử của Tòa án dân sự là xác định

các quyền dân sự của công dân, pháp nhân trong vụ kiện dân sự; của Tòa hình sự

là xác định trách nhiệm của một cá nhân trong vụ án hình sự (xác định tội danh và

áp dụng hình phạt) thì kết quả xét xử VAHC là phán quyết về tính hợp pháp của

QĐHC, HVHC hoặc QĐKLBTV đối với công chức của cơ quan nhà nước, người

có thẩm quyền trong các cơ quan đó. Phán quyết của Tòa án là chỉ ra rằng:

QĐHC, HVHC, QĐKLBTV đó đúng hay sai, sai ở chỗ nào, sai một phần hay toàn

bộ, cần phải hủy hay không, hậu quả của việc sai phải sửa hay hủy toàn bộ hoặc

một phần; đình chỉ hành vi trái pháp luật; xem xét việc bồi thường thiệt hại do

44

QĐHC, HVHC, QĐKLBTV gây ra. Phán quyết của Tòa án trong VAHC luôn có

liên quan trực tiếp đến hoạt động thực thi quyền lực nhà nước của cán bộ, công

chức và cơ quan nhà nước. Lẽ đương nhiên là phán quyết của Tòa án ảnh hưởng

“tốt - xấu” tới danh dự, uy tín, thương hiệu của cá nhân cán bộ, công chức hoặc

của cơ quan Nhà nước với tư cách là người bị kiện trong VAHC. Mặt khác, việc

thi hành phán quyết của Tòa án chủ yếu và cơ bản do chính cơ quan, người có

thẩm quyền trong cơ quan đó trực tiếp thi hành. Bởi vậy, chất lượng xét xử “đúng

- sai” của Tòa án trong VAHC có tác động sâu rộng và có sự quan tâm từ nhiều

phía công quyền cũng như dư luận xã hội.

2.1.4. Vai trò chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh

Hoạt động QLHCNN ở địa phương cũng rất đa dạng và phức tạp, để nâng

cao được hiệu quả quản lý và điều hành bảo đảm đúng pháp luật, phát huy được vai

trò của các cấp chính quyền đòi hỏi đồng thời nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó,

hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh có vai trò quan trọng góp phần

tăng cường hiệu quả QLHCNN ở địa phương, thể hiện:

Một là: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh góp phần vào kiểm

soát quyền lực nhà nước

Pháp luật thường quy định có tính nguyên tắc, định hướng, tinh thần, cách

thức để hệ thống hành pháp tuân theo khi hành xử quyền lực của mình trong khuôn

khổ hợp pháp và hợp lý, phù hợp theo nguyên tắc pháp chế. Luật không thể, không

bao giờ và cũng không cần thiết phải chỉ ra đủ, chỉ ra một cách cụ thể tất cả các tình

huống để hành chính chỉ việc tuân theo khi thực thi công vụ. Bởi lẽ, một mặt

QLHCNN rất rộng, đa dạng. Mặt khác, khi quá chi tiết sẽ làm cho hành chính mất

đi tính linh hoạt, sáng tạo vốn là thuộc tính của hành chính. Về phía nhà nước luôn

dành cho hành chính một khoảng được quyền tự do, tự chủ và tùy nghi trong khuôn

khổ pháp luật. Theo đó, hành chính thật khó “giữ mình” và rất thuận lợi về môi

trường “lạm quyền” trong quá trình hành sử của mình. Chính vì vậy cần có sự kiểm

soát để hạn chế sự lạm quyền đó.

Hệ thống hành chính ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc

“tập trung - dân chủ”, được tổ chức từ trung ương tới cơ sở là rất đồ sộ, nhiều tầng

45

nấc, thứ bậc, phạm vi chức năng, nhiệm vụ rộng, đa dạng cho nên khó tránh khỏi

những sai sót được tạo lập bởi cả lý do khách quan và chủ quan.

Hiện nay, pháp luật quy định nhiều cơ chế và hình thức kiểm soát hoạt động

của hành chính như; thanh tra, kiểm tra, giám sát xã hội... Bên cạnh đó công dân

còn được thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo... và được giải quyết bằng con đường

hành chính, tự hành chính giải quyết các vấn đề của mình, hay còn gọi là cơ chế Bộ

trưởng - quan tòa như vậy khó đảm bảo tính khách quan.

Việc Tòa án xét xử các VAHC là một thiết chế độc lập với hành chính để

kiểm soát hành pháp. Chất lượng xét xử các VAHC của Tòa án góp phần kiểm soát

quyền lực được đặt trong cơ chế “dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực” giữa các

nhánh quyền lực nhà nước nói chung. Chất lượng xét xử các VAHC là thước đo, là

sản phẩm của cả quá trình hoạt động tố tụng do Tòa án thực hiện. Thông qua xét xử,

sẽ góp phần đánh giá được chất lượng hoạt động QLHCNN của các cơ quan hành

chính, của cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện chức

năng QLHCNN trên các lĩnh vực. Mặt khác, hoạt động xét xử là một giai đoạn

thẩm định lại một cách nghiêm túc, cẩn trọng những “quyết định - phán quyết”

trong hoạt động hành chính của các chủ thể QLHCNN ở các cấp, các ngành, nhất là

đối với hoạt động quản lý hành chính của chính quyền địa phương.

Hai là: Xét xử vụ án hành chính đảm bảo chất lượng sẽ góp phần tích cực

vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân

Trong cấu trúc quyền lực nhà nước ta “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có

sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa cá cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [Điều 2 - 79], các chủ thể của Nhà nước có

thể xâm hại đến quyền công dân bằng những phương thức khác nhau. Trong đó, các

cơ quan HCNN có thể xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân

thông qua con đường chủ yếu là ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các QĐHC

cá biệt, HVHC trực tiếp. QĐHC, HVHC là phương tiện, cách thức cơ bản để các cơ

quan HCNN thực hiện chức năng QLHCNN. Đồng thời quyền công dân được bảo

đảm hay bị xâm phạm ở khu vực này là phổ biến. Công dân có thể tự bảo vệ quyền

của mình bằng nhiều con đường khác nhau mà Nhà nước đã kiến tạo như: cơ chế

tiếp nhận, giải quyết đơn thư; cơ chế phản ảnh, kiến nghị, khởi kiện tại Tòa án.

46

Trong các cơ chế đó, cơ chế giải quyết tại Tòa án được xem là cơ chế hữu hiệu hơn

cả. Bởi vì, Tòa án độc lập với hành chính, Tòa án xét xử có tính chuyên trách,

chuyên nghiệp hơn, bài bản hơn theo một trình tự tố tụng nghiêm ngặt và chặt chẽ.

Trong các tranh chấp hành chính (quyết định hành chính, hành vi hành

chính, QĐKLBTV đối với Công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng trở xuống)

mà một bên bị kiện luôn luôn mang quyền lực nhà nước. Thực tiễn cho thấy, khi xét

xử án hành chính Tòa án thiên vị về bên người bị khởi kiện (quyền lực công) thì

không những vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, mà còn suy

giảm nghiêm trọng vào niềm tin của dân chúng, của dư luận xã hội vào nền công lý

của nước nhà, ở nơi Tòa án, nơi “cầm cân nảy mực”, mà còn suy giảm lòng tin của

xã hội đối với nền hành chính, đối với đạo đức của đội ngũ cán bộ - công chức hành

chính - tư pháp. Đó là hệ lụy, là mất mát to lớn của TAND cấp tỉnh khi chất lượng

không được đảm bảo.

Ba là: Chất lượng xét xử các VAHC góp phần bảo đảm thực hiện dân chủ,

bình đẳng và công lý

Mọi hoạt động của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người.

Theo đó Nhà nước luôn cố gắng thiết lập nên những thiết chế nhằm phục vụ tốt

nhất, bảo đảm tốt nhất quyền của công dân thông qua hoạt động của Nhà nước.

Hoạt động hành pháp của Nhà nước thường đụng chạm một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp đến rất nhiều quyền và nghĩa vụ của công dân. Theo nguyên tắc pháp luật

hiện nay, công dân được làm tất cả những gì luật không cấm. Tuy nhiên, không phải

bất kỳ lúc nào muốn, công dân cũng có thể thực hiện được một cách dễ dàng mà

còn phụ thuộc vào cơ chế bảo đảm và cơ chế thực thi. Thực tiễn cho thấy, nhiều

quyền của công dân như: tự do kinh doanh, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ,

quyền nhân thân (khai sinh, thay đổi tên, họ, cư trú…) quyền khiếu nại, tố cáo bị

cản trở, bị chậm trễ bởi giấy phép con, bởi sự sao nhãng, thiếu trách nhiệm của cơ

quan nhà nước, của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Mặt khác, cơ chế

chính sách trong nhiều trường hợp ban hành không công khai, dân chủ, triển khai

thực hiện thiếu vô tư, minh bạch, thậm chí còn phức tạp hóa quy trình, thủ tục. Đó

là những căn nguyên tạo nên những phản ứng, bất đồng từ phía tổ chức và công dân

47

(với tư cách là đối tượng quản lý hành chính). Tất yếu xung đột, tranh chấp diễn ra

là điều khó tránh khỏi.

Tòa án với chức năng bảo vệ công lý, nơi dàn xếp, giải quyết những phản

ứng, những xung đột của dân chúng đối với thái độ ứng xử của Nhà nước với

công dân. Trọng trách của Tòa án trong quá trình giải quyết, xét xử các VAHC

khách quan, bình đẳng, công bằng, dân chủ là yêu cầu tất yếu của người “cầm

cân, nẩy mực”.

Bốn là: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh góp phần nâng cao

hiệu ực, hiệu quả hoạt động QLHCNN

Thông qua xét xử các VAHC khi có kiếu kiện hành chính, Tòa án sẽ đánh

giá tính đúng, sai trong hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức

trong cơ quan nhà nước khi thực thi công vụ, sẽ chỉ ra những thiếu sót, bất cập và

khiếm khuyết trong hoạt động quản lý và điều hành của các cơ quan HCNN, có

quyền tuyên bố đúng, sai và đưa ra phán quyết giữ nguyên, hủy QĐHC, HVHC,

buộc cơ quan, cán bộ, công chức phải khắc phục hậu quả do hoạt động hành chính

của mình gây ra. Xét xử hành chính góp phần khắc phục được những khuyết tật của

hoạt động hành chính vốn dĩ tồn tại lâu nay trong nền hành chính ở nước ta hiện

nay. Mặt khác, khắc phục được những tình trạng quan liêu - hách dịch - cửa quyền,

tùy tiện, thậm chí trái pháp luật của các cơ quan hành chính, cán bộ, công chức hành

chính các cấp, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Đồng thời cũng góp phần xây dựng nền hành chính nhanh, sạch và hiệu quả.

Xét xử VAHC có hiệu lực, hiệu quả sẽ góp phần bảo đảm hoạt động đúng

đắn, thượng tôn pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính trong quá

trình thực hiện quyền hành pháp, thực hiện các hoạt động quản lý và điều hành của

các cấp chính quyền địa phương. Kết quả xét xử cũng sẽ góp phần xây dựng nền

hành chính liêm chính, kiến tạo, nền hành chính phục vụ nhân dân, góp phần phần

tích cực vào sự phát triển theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN.

Chất lượng của hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh (với tư cách

là vừa xét xử sơ thẩm, vừa xét xử phúc thẩm các VAHC) được nâng cao và bảo đảm

sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố niềm tin của nhân dân, của tổ chức, của cộng

đồng xã hội vào hoạt động của nền hành chính và chính nền tư pháp ở nước ta hiện

48

nay. Nền hành chính vốn dĩ đã nặng nề, trì trệ, quan liêu, hách dịch và nay đã và

đang cần phải được chuyển hóa mạnh mẽ, nhanh chóng. Mặt khác, chất lượng xét

xử các VAHC được bảo đảm cũng đồng thời góp phần thực hiện được vai trò

“nhánh quyền lực tư pháp kiểm soát nhánh quyền lực hành pháp”. Đồng thời cũng

thực hiện được chủ trương của Đảng và Nhà nước ta: “Lấy quyền lực kiểm soát

quyền lực”.

Ngược lại, khi chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh không đảm

bảo chất lượng, không phù hợp với pháp luật, xét xử thiếu vô tư, trung thực, khách

quan đưa ra những phán quyết thiên vị thì hệ lụy gây ra từ bản án, quyết định của

Tòa án là rất nghiêm trọng. Một mặt, quyền lợi chính đáng của các bên không được

bảo vệ, pháp luật không được tôn trọng. Mặt khác, niềm tin của nhân dân đối với

Đảng, pháp luật, đối với nền tư pháp, nền hành chính bị xói mòn, trong khi chúng ta

đang tập trung cao độ cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm

nền công lý, quyền con người.

Năm là: Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh góp phần vào việc

hoàn thiện pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân

Thông qua xét xử hành chính của TAND cấp tỉnh sẽ phát hiện được những

sai sót, trùng lặp, những trống vắng và những bất cập của hệ thống pháp luật hiện

hành (cả pháp luật hình thức và pháp luật nội dung) để kịp thời đề xuất, kiến nghị

với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có những giải pháp khắc phục nhằm góp

phần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta. Khoản 13, Điều 38, LTTHC 2015

quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán “Phát hiện và đề nghị với Chánh

án kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn

bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm

pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của luật này” [82].

Xét xử hành chính được thực hiện theo nguyên tắc công khai, mọi người đều

có quyền được tham gia phiên tòa, được nghe HĐXX phân tích mức độ phù hợp

với chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội của các bên. Thông qua đó

nhân dân hiểu rõ hơn, chính xác hơn về các quy định của pháp luật, hiểu rõ hơn

quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó có thái độ tôn trọng pháp luật. Nhiều trường hợp

sau khi được Tòa án phân tích đã tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện hoặc tự giác

49

chỉnh sửa những sai trái của mình. Như vậy, thông qua hoạt động xét xử các VAHC

của TAND cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong việc phát hiện những khiếm khuyết

của hệ thống pháp luật hiện hành, kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Đồng thời,

góp phần tích cực vào việc giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân.

2.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH

CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.2.1. Tiêu chí về đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố

tụng hành chính

Các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, nguyên tắc Hiến định là

cơ sở pháp lý để vận hành nền tư pháp tôn trọng công lý, với sự hiện diện của

người đại diện là Thẩm phán, hoạt động nhân danh pháp luật, nhân danh công lý

và lấy quy tắc ứng xử đạo đức nghề Thẩm phán làm chuẩn mực cho hành vi ứng

xử nghề nghiệp.

Trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và trình

độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán là điều kiện tiên quyết đảm bảo năng lực

xét xử của Thẩm phán. Một trong những tiêu chuẩn mà Luật Tổ chức TAND quy

định đối với người Thẩm phán là phải có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung

thực, gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành

mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt cộng đồng và có tinh thần kiên quyết bảo

vệ pháp chế XHCN. Pháp luật hiện hành chưa có quy định tiêu chuẩn bắt buộc đối

với Thẩm phán về trình độ lý luận chính trị.

Việc đề cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức

được ngành Tòa án hết sức quan tâm. Các tổ chức Đảng tại Tòa án luôn được quan

tâm làm tốt công tác phát triển đảng, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng

viên của đơn vị; duy trì kỷ cương, nề nếp sinh hoạt và đổi mới, nâng cao chất lượng

sinh hoạt chi bộ; chú trọng giáo dục, quản lý, giám sát đảng viên, đề cao tinh thần

phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng. Quán triệt và tổ chức thực hiện có

hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị như:

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ [101].

50

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ phải “Nâng cao tiêu chuẩn

về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp”. Nội

dung quy tắc đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán trong luật pháp quốc tế: tính độc lập

của Tòa án quy định tại Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền (Điều 10) và Công ước

Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Điều 41), đặc biệt tuyên bố, mọi người

đều có thể được xét xử một cách công khai và đàng hoàng bởi Tòa án độc lập,

khách quan và được thành lập theo pháp luật. Nền tư pháp độc lập là khả năng độc

lập thực hiện các quyền này. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán theo

quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các yếu tố sau đây:

- Tính độc lập của Thẩm phán

Sự độc lập về tư pháp - xét xử là điều kiện tiên quyết của quy tắc pháp quyền

và là sự bảo đảm cơ bản của việc xét xử vô tư, khách quan, bình đẳng, đúng pháp

luật. Chính vì vậy, Thẩm phán phải duy trì và thể hiện sự độc lập tư pháp - xét xử từ

mọi góc độ của cá nhân và thể chế. Thẩm phán phải thực hiện chức năng tư pháp

của mình một cách độc lập trên cơ sở đánh giá về tình tiết sự việc và dựa trên sự

hiểu biết rõ ràng về luật pháp, không bị ảnh hưởng, không bị thuyết phục, không bị

áp lực, không bị đe dọa hoặc can thiệp từ bên ngoài, dù trực tiếp hay gián tiếp ở bất

kỳ đâu hoặc vì bất cứ lý do gì.

Đối với các VAHC, sự độc lập trong xét xử của Tòa án, của Thẩm phán cần

đòi hỏi cao hơn. Bởi vì, án hành chính là người bị kiện luôn liên quan đến các chủ

thể thực thi quyền lực công, cho nên, áp lực từ phía công quyền đến hoạt động xét

xử là khó tránh khỏi. Vì vậy, Thẩm phán Tòa án phải có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh

“thép” về nghề nghiệp mới đáp ứng được yêu cầu của tính độc lập trong xét xử.

- Tính vô tư, khách quan

Tính vô tư, khách quan trong hoạt động xét xử có ý nghĩa cực kỳ quan trọng

trong việc bảo đảm chất lượng xét xử các VAHC. Một Thẩm phán thực hiện nhiệm

vụ xét xử của mình một cách dũng cảm, không thành kiến hoặc không thiên vị; bảo

đảm tư cách đạo đức của mình ngay tại Tòa và bên ngoài Tòa án. Khi tiến hành tố

tụng hoặc khi có thể tiến hành tố tụng sẽ không chủ ý đưa ra bình luận có thể ảnh

hưởng, theo cách đánh giá hợp lý tới kết quả tố tụng hoặc làm tổn hại tới tính bình

51

đẳng hiển nhiên của quy trình tố tụng; từ chối không tham gia bất kỳ quy trình tố

tụng nào mà trong đó Thẩm phán không thể quyết định vấn đề một cách vô tư theo

đánh giá chủ quan hoặc theo quan sát của một người bình thường.

- Sự đúng mực và bình đẳng

Là thái độ cần phải có của Thẩm phán khi quan hệ giao tiếp với những người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác, với đồng nghiệp, với mọi người

trong các mối quan hệ công tác, gia đình, xã hội, hành xử phù hợp với phẩm cách

của chức danh tư pháp mà mình đang đảm nhận.

Thẩm phán phải bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của các bên trước

Tòa án. Khi thực nhiệm vụ của mình, Thẩm phán không được phân biệt đối xử giữa

những người tham gia tố tụng, cho dù họ thuộc thành phần nào, điều kiện kinh tế

hay địa vị pháp lý - xã hội ra sao. Thẩm phán không thể thiên vị hoặc định kiến với

bất kỳ ai trong khi xét xử.

- Năng lực và cẩn trọng

Là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng xét xử VAHC của Thẩm

phán. Thể hiện năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

từ khâu chuẩn bị xét xử cho tới khi tuyên bản án. Ứng phó, xử lý đúng đắn, linh

hoạt với các tình huống phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án.

- Sự chính trực, liêm khiết

Là điều cốt yếu để Thẩm phán làm nhiệm vụ của một người chất phát, chân

chính thể hiện: công khai, minh bạch trong công việc; thể hiện quyền lực nhà nước

và tạo được niềm tin của mọi người vào công lý. Tuyệt đối không tham nhũng, sách

nhiễu, đòi, nhận hối lộ trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

2.2.2. Tiêu chí về sự tuân thủ pháp luật trong xét xử các vụ án hành

chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Phán quyết của Tòa án trong xét xử các VAHC có hiệu lực thực sự hay

không, có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy

nhiên có thể rút ra một số yếu tố cơ bản và trọng yếu sau đây:

Một là: Trong trường hợp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì tiêu chí đầu tiên

cần đối với phán quyết của Tòa án là phải đúng pháp luật. Yêu cầu đặt ra phải đảm

bảo tuân thủ pháp luật trong cả quá trình giải quyết VAHC, từ khâu thu thập, xác

52

minh chứng cứ, quá trình đánh giá, sử dụng chứng cứ… cho đến khi đưa ra phán

quyết của Tòa án. Yêu cầu tuân thủ pháp luật cả pháp luật hình thức lẫn pháp luật

nội dung trong hoạt động xét xử các VAHC là yêu cầu “cứng” đối với Thẩm phán.

Bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với pháp luật là không thể chấp nhận

được với bất kỳ lý do gì.

Hai là: Phán quyết của Tòa án phải “thấu lý - đạt tình”. Một mặt, vừa đảm

bảo tuân thủ pháp luật, mặt khác phải đảm bảo phù hợp với các quy tắc ứng xử,

phong tục tập quán, văn hóa truyền thống của dân tộc, vùng miền. Bản án phải có

tính thuyết phục cao, các bên đương sự đều “tâm phục, khẩu phục” đó mới là phán

quyết có chất lượng, có hiệu lực thực tế, các bên tự giác thi hành. Để đảm bảo chất

lượng xét xử các VAHC đòi hỏi Thẩm phán không chỉ có hiểu biết uyên thâm về

pháp luật mà còn có hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội

như: kiến thức QLHCNN, văn hóa, phong tục tập quán…

Ba là: Về ý thức chấp hành của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ quan,

tổ chức đối với phán quyết của Tòa án. Bản án, quyết định về giải quyết VAHC của

Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Đây là

những tiêu chí có ý nghĩa bắt buộc đối với người phải thi hành án hành chính (cán

bộ, công chức, cơ quan, tổ chức) khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật. Khắc phục cho được tình trạng cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền

trong cơ quan hành chính nhà nước lạm dụng quyền lực, bảo thủ, quan liêu không

thi hành án thậm chí dùng quyền lực áp đặt chống đối, gây khó dễ cho quá trình thi

hành án hành chính.

Để bản án, quyết định của Tòa án có tính thuyết phục và có hiệu lực trong

thực tiễn đòi hỏi về nội dung của chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh phải thỏa mãn các yêu cầu nội hàm nhất định. Tòa án nhân dân

cấp tỉnh xét xử sơ thẩm theo thẩm quyền và phúc thẩm (khi có kháng cáo hoặc

kháng nghị) các VAHC. Mục tiêu của hoạt động xét xử là HĐXX xem xét, đánh giá

tính hợp pháp của các QĐHC, HVHC để đưa ra phán quyết của mình về số phận

pháp lý đối với đối tượng bị khởi kiện.

- Đối với xét xử sơ thẩm các VAHC thuộc thẩm quyền của TAND cấp

tỉnh: Đặc thù của phiên THC sơ thẩm là xem xét tính hợp pháp của QĐHC,

53

HVHC, QĐKLBTV, lập danh sách cử tri, quyết định giải quyết khiếu nại về

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, luôn liên quan đến các chủ thể đặc biệt đó là

những người thực thi quyền lực công. Sản phẩm của họ là đối tượng xét xử của

phiên THC sơ thẩm.

Nguyên tắc của xét xử sơ thẩm là kiểm tra tính pháp lý (hợp pháp hay

không, có trái pháp luật không, nếu trái thì trái ở điểm nào) của các quyết định,

hành vi bị khởi kiện. Hầu hết các quốc gia có nền hành chính phát triển đều ghi

nhận nguyên tắc này ở trong Luật TTHC. Max Weber là học giả người Đức đầu

tiên đưa ra vấn đề về tính hợp pháp trong cuốn sách nổi tiếng “Kinh tế và xã hội”

được xuất bản năm 1914. Lý luận về tính hợp pháp được các học giả người Đức

tiếp tục tranh luận như: Carl Schmitt trong cuốn sách “Tính hợp pháp và hợp lý”

và học giả người Pháp Neville Browwn và John Bell trong cuốn sách “Luật hành

chính Cộng hòa Pháp”.

Các học giả người Đức nhấn mạnh việc kiểm tra tính pháp lý đối với các

quyết định, hành vi bị kiện xem có sự vi phạm nào đối với các quy định của pháp

luật nội dung không (thông qua vai trò của Tòa án hành chính), phân biệt với xem

xét tính hợp hiến hay vi hiến của các đạo luật hay quyết định, hành vi của Chính

phủ (thông qua vai trò của Tòa án hiến pháp). Các học giả người Pháp đặc biệt quan

tâm đến cơ sở pháp lý để kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định, hành vi bị kiện

theo bốn tiêu chí: (1) có được quy định trong luật không; (2) có đúng thẩm quyền

không; (3) có đúng hình thức, trình tự pháp luật quy định không; (4) có theo các

quy định pháp luật nội dung không. Pháp luật của Trung Quốc cũng quy định

“Trong việc giải quyết các VAHC, Tòa án sơ thẩm sẽ xem xét tính hợp pháp của

các quyết định, hành vi cá biệt bị khởi kiện theo quy định tại Điều 8 của Luật

TTHC” (Luật TTHC nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1990).

Như vậy, khi kiểm tra, đánh giá tính pháp lý của các quyết định, hành vi bị

kiện, các Tòa án cần xem xét, đánh giá hai yếu tố sau đây:

Một là: Xem xét các yêu cầu về nội dung của tính hợp pháp. Ở cấp sơ thẩm

xem xét ở ba phương diện: (i) Các quyết định, hành vi bị kiện có là vấn đề pháp lý

được quy định hay không, có thuộc đối tượng khởi kiện hay không; (ii) Nội dung

54

của quyết định hay hành vi có được quy định trong luật hay không và hợp pháp hay

không hợp pháp; (iii) Có thể xem xét yếu tố lỗi, khiếm khuyết của pháp luật.

Hai là: Xem xét các yêu cầu về hình thức của tính hợp pháp. Tòa án xét xử

sơ thẩm có thể xem xét ở ba vấn đề: (i) Các quyết định, hành vi bị kiện có được

thực hiện theo một thủ tục đảm bảo tính minh bạch, công bằng và khách quan hay

không; (ii) Các hình thức của quyết định có vi phạm bất kỳ một lỗi nào liên quan

đến chữ ký, con dấu, các vi phạm nghiêm trọng khác về thể thức văn bản; (iii) Các

quyết định bị khởi kiện có bộc lộ bất kỳ dấu hiệu nghi ngờ nào liên quan đến tính

giả mạo, sửa chữa hoặc tính gian lận trong thủ tục ban hành hay không.

Thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm. Trên cơ sở chứng cứ trong hồ sơ và qua

diễn biến tại phiên tòa, HĐXX sơ thẩm có quyền: (i) Bác yêu cầu khởi kiện, nếu

yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật; (ii) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu

cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ QĐHC, tuyên bố một số hoặc

toàn bộ HVHC trái pháp luật, yêu cầu cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm

quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của

pháp luật; (iii) Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do QĐHC, HVHC,

QĐKLBTV, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật gây ra; (iv) Kiến

nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu cơ quan nhà nước có

thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ

quan nhà nước.

- Đối với xét xử phúc thẩm của TAND cấp tỉnh. Xét xử phúc thẩm VAHC

là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bản án, quyết định

của tòa cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án hoặc ban hành.

Nội dung của việc xét xử phúc thẩm VAHC bao gồm:

+ Xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản án, quyết định có

liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Qua xét xử phúc thẩm, Tòa cấp phúc

thẩm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định bị kháng cáo,

kháng nghị để đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được đúng đắn;

55

+ Tòa cấp phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm

về việc áp dụng pháp luật TTHC và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về nội

dung. Tòa án cấp phúc thẩm kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm,

xem xét những quyết định trong bản án, quyết định có được dựa trên những chứng

cứ của vụ án đã được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm hay không; những quyết định

đó có phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án hay không.

Xét xử phúc thẩm VAHC có ý nghĩa quan trọng trong việc khắc phục những

sai lầm có thể có trong bản án, quyết định của tòa sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp

luật. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Theo quy định thì nội

dung xét xử các VAHC là quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về tố tụng,

pháp luật về nội dung có liên quan đến vụ án. Chất lượng xét xử sơ thẩm và phúc

thẩm VAHC của TAND cấp tỉnh là việc đánh giá đầy đủ các chứng cứ, áp dụng

đúng đắn, chính xác về trình tự, thủ tục tố tụng và đưa ra những phán quyết hợp

tình, hợp lý.

2.2.3. Tiêu chí về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

- Về chuyên môn, nghiệp vụ

Trình độ đào tạo, điều kiện về bằng cấp và kỹ năng, trình độ nghiệp vụ xét

xử của Thẩm phán TAND các cấp là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo

năng lực xét xử cho TAND các cấp. Hiện nay, theo quy định của Pháp luật Thẩm

phán và Hội thẩm TAND, thì Thẩm phán TAND các cấp phải có trình độ cử nhân

luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử.

Khi đánh giá năng lực xét xử của Thẩm phán chúng ta không tuyệt đối hóa

trình độ đào tạo, bằng cấp nhưng chúng ta cũng không thể bỏ qua điều kiện này.

Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp có chỉ rõ một trong những

nguyên nhân gây ra hạn chế của công tác tư pháp hiện nay nói chung và công tác

xét xử nói riêng đó là: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ

nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số

cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp”.

Vì vậy, một trong những phương hướng được đề ra trong chiến lược cải cách

tư pháp đó là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có

56

chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và

cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và

kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”, “bồi dưỡng cán bộ tư pháp,

bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh

tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức

trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN”. Cùng với việc

đào tạo cơ bản, việc đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán

cũng là yêu cầu rất quan trọng trong tình hình hiện nay nhằm bồi dưỡng năng lực xét

xử chuyên sâu cho Thẩm phán. Nếu coi xét xử là một nghề, thì việc đào tạo nghề cho

Thẩm phán rõ ràng là một đòi hỏi khách quan. Trong những năm trước đây, chúng ta

chưa chú trọng đến công tác này. Sau khi Trường đào tạo các chức danh tư pháp (nay

là Học viện Tư pháp) thuộc Bộ Tư pháp được thành lập, một số Thẩm tra viên,

Chuyên viên pháp lý, Thư ký Tòa án là đối tượng đào tạo nguồn để bổ nhiệm Thẩm

phán đã được cử đi đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử. Lâu nay chúng ta đã chuẩn

hóa điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, một trong những điều kiện được xét bổ nhiệm là

phải trải qua đào tạo nghiệp vụ xét xử. Hiện nay, bên cạnh Học viện Tư pháp đào tạo

chung 03 chức danh theo một chương trình cho các đối tượng đã tốt nghiệp cử nhân

luật sẽ là nguồn để thi bổ nhiệm Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên, thì Học viện Tòa

án trực thuộc TAND tối cao cũng đã đào tạo nghiệp vụ xét xử cho đội ngũ công chức

trong ngành để thi tuyển bổ nhiệm Thẩm phán.

Kỹ năng, trình độ nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán TAND các cấp là điều

kiện vô cùng quan trọng đảm bảo năng lực xét xử của Thẩm phán. Nếu trình độ đào

tạo là điều kiện giúp cho Thẩm phán có được những kiến thức pháp lý cần thiết cho

công tác chuyên môn, thì kinh nghiệm, kỹ năng, nghiệp vụ xét xử của Thẩm phán là

điều kiện tạo ra hiệu quả và chất lượng xét xử. Khả năng nhận diện, hiểu đúng, hiểu

đầy đủ quy định của pháp luật, áp dụng chính xác quy định của pháp luật để đưa ra

những phán quyết “thấu lý - đạt tình”, bản án thuyết phục của Thẩm phán khi giải

quyết án hành chính là một trong những tiêu chí cực kỳ quan trọng, đây là yếu tố

không thể thiếu được của năng lực xét xử.

Trình độ chuyên môn, kỹ năng xét xử của Thẩm phán cần bảo đảm một

chuỗi kỹ năng kế tiếp nhau: kỹ năng xây dựng hồ sơ vụ án; kỹ năng nghiên cứu hồ

57

sơ vụ án; kỹ năng chuẩn bị xét xử; kỹ năng tổ chức phiên tòa; kỹ năng điều khiển

phiên tòa; kỹ năng xét hỏi tại phiên tòa, kỹ năng phán quyết và ra bản án. Nhận thức

rõ tầm quan trọng của kỹ năng, trình độ nghiệp vụ xét xử thì tiêu chuẩn bắt buộc để

có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán là phải có năng lực xét xử các

vụ án và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Trình độ chuyên môn, kỹ năng, bản lĩnh xét xử của Thẩm phán thể hiện ở

sản phẩm của họ, chính là chất lượng giải quyết các tranh chấp hành chính kể từ

khi: (1) Phát sinh tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết thì Thẩm phán được phân

công có nêu cao tinh thần trách nhiệm hay không, có tạo mọi điều kiện có thể để

người khởi kiện đáp ứng được yêu cầu pháp lý để thụ lý giải quyết tại Tòa, bảo

đảm một cách tốt nhất để cho người khởi kiện thực hiện được quyền khởi kiện của

họ trước Tòa. Tiêu chí cụ thể đặt ra là: TAND tỉnh đó tiếp nhận bao nhiêu đơn

khởi kiện, thụ lý giải quyết bao nhiêu, trả lại đơn bao nhiêu, lý do trả đơn có thỏa

đáng không; (2) Thời hạn giải quyết án có đảm bảo theo quy định của luật TTHC

không, bao nhiêu trường hợp phải ra hạn, lý do chính đáng, cần thiết không. (3)

Tỷ lệ án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Trong đó tỷ lệ đồng tình, chấp nhận án, tỷ lệ sửa án, tỷ lệ hủy án là bao nhiêu hàng

năm, nguyên nhân của sửa án, của hủy án. (4) Tiêu chí về thái độ của dư luận xã

hội, của nhân dân, của các đương sự đối với quyết định của TAND cấp tỉnh khi

xét xử các VAHC.

Sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh vừa là

nguyên tắc vừa là tiêu chí “bất di, bất dịch” đối với Thẩm phán. Một trong những

giải pháp căn cơ của ngành Tòa án trong những năm tới đây là: Đảm bảo việc áp

dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử; tấp trung giải đáp các vướng mắc

về nghiệp vụ để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử

của các Tòa án. Triển khai tập huấn và tổ chức thực hiện sâu rộng các luật mới có

hiệu lực thi hành có liên quan tới hoạt động của TAND, đặc biệt là Bộ luật Dân sự,

Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính. Làm tốt công

tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; trong đó chú

trọng đào tạo thông qua việc rút kinh nghiệm xét xử, động viên cán bộ, công chức

tự nghiên cứu học tập nâng cao trình độ chuyên môn [101].

58

- Về kỹ năng xét xử

Đây là một trong những tiêu chí có vai trò quan trọng để bảo đảm cho chất

lượng của hoạt động xét xử. Một Thẩm phán có nhận thức chính trị, có kiến thức

chuyên môn nghiệp vụ nhưng thiếu kỹ năng (cách thức, phương pháp) thực hành

nghề, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp thì kết quả xét xử rất hạn chế, thậm chí dẫn đến sai

sót, vi phạm. Thực tiễn đã xét xử các VAHC trong những năm qua cho thấy, nhiều

Thẩm phán kỹ năng xét xử, nhất là đối với án hành chính là một trong những loại án

khó giải quyết còn tỏ ra lúng túng, vi phạm về thời hạn giải quyết hoặc đùn đẩy, né

tránh, thậm chí vi phạm về tố tụng, về kỹ năng áp dụng pháp luật… Chính vì vậy,

TANDTC đã đưa ra giải pháp tập trung bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng xét xử

cho Thẩm phán và Hội thẩm, để nâng cao kỹ năng giải quyết các vụ án [101].

Kỹ năng xét xử hành chính là khả năng, cách thức, phương pháp của Thẩm

phán thực hiện một chuỗi những thao tác nghiệp vụ kế tiếp nhau như: kỹ năng đánh

giá đối tượng khởi kiện, người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa

vụ liên quan. Trong giai đoạn này Thẩm phán cần đánh giá đầy đủ các điều kiện

khởi kiện VAHC như: điều kiện về chủ thể khởi kiện; điều kiện về đối tượng khởi

kiện, xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xem có thỏa

mãn các điều kiện theo quy định của luật TTHC hay không, thiếu thì thiếu những

điều kiện gì, có khả năng bổ sung được hay không để Thẩm phán đưa ra quyết định

thụ lý hoặc trả lại đơn khởi kiện.

Kỹ năng thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ của Thẩm phán trong vụ án

hành chính có ý nghĩa quan trọng, bởi nó là “nền tảng” cơ sở cho những chuỗi hoạt

động giải quyết án của Thẩm phán. Chứng cứ trong VAHC là những thông tin được

rút ra từ những tài liệu, hiện vật, lời khai… do đương sự, tổ chức, cá nhân khác giao

nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự luật định để “Tòa án làm căn

cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay

không cũng như tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hành

chính” [43]. Đánh giá chứng cứ phải bảo đảm tính khách quan, tính có liên quan,

tính hợp pháp của chứng cứ.

Kỹ năng áp dụng pháp luật trong xét xử các VAHC, Thẩm phán cần phân

tích, đánh giá đúng, chính xác những tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thực

59

tế đã xẩy ra, các thông tin về vụ việc để thực hiện trong các giai đoạn thụ lý vụ án,

chuẩn bị xét xử, thực hiện các thủ tục tố tụng cần thiết; lựa chọn văn bản pháp luật

áp dụng phải đúng, đủ, còn hiệu lực pháp luật, hiểu đúng, chính xác nội dung của

quy phạm pháp luật cả luật nội dung và luật hình thức, những chủ trương, chính

sách có liên quan.

Bản án hành chính là sản phẩm cuối cùng của Thẩm phán trong quá trình

giải quyết án hành chính, nên kỹ năng viết bản án hành chính là cực kỳ quan trọng.

Thực tiễn cho thấy khả năng soạn thảo một bản án hành chính của Thẩm phán còn

nhiều vấn đề chưa đáp ứng được những tiêu chí cơ bản như: phương pháp, cách

thức lập luận thiếu chặt chẽ, không logic, luận cứ không thuyết phục, thậm chí thiếu

và sai cả về kiến thức chuyên môn QLHCNN; áp dụng pháp luật không đúng, bởi

vì, trong lĩnh vực QLHCNN có rất nhiều văn bản quy phạm của trung ương, của địa

phương và thường có những thay đổi. Chính vì vậy, năm 2017 TANDTC đã ban

hành mẫu bản án (Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC). Đồng thời, đã triển khai tập huấn chuyên sâu, tập

huấn một cách kỹ lưỡng, cẩn trọng cho tất cả Thẩm phán trong ngành về phương

pháp viết bản án nói chung, trong đó có phương pháp viết bản án hành chính.

Những phẩm chất tinh thông nghề nghiệp của Thẩm phán được tụ hợp bởi

nhiều yếu tố như: chuyên môn nghiệp vụ, khả năng tư duy, cách thức tiếp cận vấn

đề, phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ, kỹ năng áp dụng pháp luật, đặc biệt

là luật về TTHC, kỹ năng thực hiện các bước (giai đoạn) giải quyết án, khả năng

loại trừ (thoát) được những áp lực để giữ vững được sự “trong sáng” của pháp luật

và bản chất sự việc, giữ vững được sự vô tư và độc lập trong phán quyết.

2.2.4. Tiêu chí về số lượng bản án quyết định của Tòa án bị hủy, sửa

- Tiêu chí về số lượng giải quyết tranh chấp hành chính của TAND cấp tỉnh

thụ lý giải quyết hàng năm

Số lượng vụ án hành chính được TAND cấp tỉnh giải quyết/ số án đã thụ lý

hàng năm vừa thể hiện trách nhiệm, sự nỗ lực của TAND, vừa là tiêu chí có tính bắt

buộc trong thực thi công vụ của TAND cấp tỉnh nói chung và đối với từng Thẩm

phán nói riêng. Về thực chất, hoạt động của TAND là hoạt động thực hiện quyền

lực nhà nước. Trong đó có chức năng quan trọng là thực hiện chức năng “dịch vụ

60

công” của Nhà nước, nhằm đáp ứng các yêu cầu, kiến nghị, đề nghị, khiếu nại, tố

cáo hoặc giải quyết một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác các khiếu kiện của tổ chức

và công dân. Mặt khác, các yêu cầu, tranh chấp hành chính phát sinh trong đời sống

xã hội, mà tự họ không thể dàn xếp, giải quyết được, lẽ đương nhiên chỉ còn con

đường duy nhất là “Trông cậy” nơi nhà nước. Bởi vậy, việc đáp ứng kịp thời, đầy

đủ các yêu cầu chính đáng của dân chúng vừa là bổn phận của Nhà nước, vừa là

tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của Bộ máy nhà nước, trong đó có

TAND với tư cách là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét xử).

Để đảm bảo hiệu quả của công tác giải quyết án hành chính của các Tòa án,

đồng thời xác định trách nhiệm công chức có chức danh tư pháp trong hệ thống cơ

quan Tòa án, hàng năm căn cứ vào tình hình thực tế, Chánh án TANDTC đều có

chỉ thị yêu cầu TAND các cấp, cũng như Thẩm phán tập trung tổ chức, thực hiện

nhiệm vụ chính trị của ngành. Trong đó có các chỉ tiêu cụ thể, chẳng hạn, yêu cầu

về chỉ tiêu giải quyết án hành chính các năm 2017, 2018 đối với các Tòa án là phải

giải quyết đạt tối thiểu 80% so với tổng số lượng vụ việc đã thụ lý trong năm đó thì

đơn vị đó, cá nhân Thẩm phán đó mới được bình xét thi đua năm. Trường hợp

không đạt chỉ tiêu này, đồng thời cũng được xem như là chưa hoàn thành nhiệm vụ

chính trị của đơn vị, không được bình xét thi đua [107]; [109].

Đối với trách nhiệm của Thẩm phán hàng năm cũng được nhận xét đánh giá

chất lượng thi đua, phân loại công chức theo kết quả thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ

cụ thể cả về số lượng, chất lượng công việc được giao trong năm theo tiêu chí của

ngành. Chẳng hạn, ngày 19/6/2017 Chánh án TANDTC đã có quyết định số

120/QĐ-TATC về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm đối với người giữ chức

danh tư pháp trong ngành TAND. Trong đó, quy định tỷ lệ bản án, quyết định của

Thẩm phán khi giải quyết vụ việc hành chính mà bị cải sửa vượt quá 03%; số lượng

bị hủy vượt 1,16% so với tổng số lượng vụ việc giải quyết trong năm đó thì không

được bình xét thi đua trong năm và sẽ được xem xét trong quá trình tá bổ nhiệm

Thẩm phán cho nhiệm kỳ tiếp theo [108].

Chất lượng xét xử các VAHC cũng được biểu hiện thông tỷ lệ số lượng vụ

việc tranh chấp hành chính có khởi kiện và được thụ lý mà Tòa án đã giải quyết

xong. Đây chính là chỉ số phản ánh khả năng đáp ứng yêu cầu “cần được giải quyết

61

tại Tòa” của Tòa án đối với nhu cầu dân chúng, của xã hội. Thể hiện bản chất nhà

nước của dân, do dân, vì dân. Tranh chấp hành chính là dạng tranh chấp có đặc tính

đặc biệt, vì một bên (bị kiện) luôn liên quan đến công quyền (hoạt động của cơ quan

nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước - khu vực hành chính),

trong khi đứng ra giải quyết các tranh chấp này cũng chính cơ quan trong bộ máy

nhà nước (Tòa án). Trong trường hợp các yêu cầu của dân chúng không được giải

quyết hoặc giải quyết ở tỷ lệ thấp, điều đó chứng tỏ rằng hoặc trách nhiệm nhà nước

đó thấp hoặc ở trong tình trạng “quan lại bênh quan”. Hệ lụy của tình trạng này sẽ là

niềm tin của xã hội, của dân chúng đối với hoạt động hành chính và hoạt động tư

pháp (Tòa án) bị giảm sút.

- Tiêu chí về chất lượng xét xử các vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh.

Chất lượng xét xử các VAHC được hiểu là những phán quyết của HĐXX

phải thỏa mãn các chuẩn mực, các tiêu chuẩn, phù hợp với mục đích của giải quyết

tranh chấp của Tòa án. Chuẩn mực trong giải quyết tranh chấp hành chính của Tòa

án là sự phù hợp, sự chuẩn chỉ với các quy định của pháp luật tố tụng cũng như

pháp luật nội dung có liên quan đến tranh chấp. Đồng thời, phù hợp với các quy

chuẩn của đạo đức xã hội. Bản án, quyết định của Tòa án “thấu lý - đạt tình”, được

dư luận xã hội chấp thuận, đồng tình, ủng hộ. Bản án thực sự được hiện thực hóa

trong đời sống xã hội, thuyết phục được các bên đương sự trên cơ sở phán quyết của

Tòa án thực sự vô tư, khách quan, không thiên vị.

Biểu hiện cụ thể của chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh cũng

được phản ánh thông qua các tiêu chí như: số lượng bản án, quyết định không có

kháng caó, kháng nghị. Tỷ lệ án không có kháng cáo, kháng nghị được hiểu là các

bên đương sự đồng tình hoặc buộc phải chấp thuận với phán quyết của Tòa án, bởi

phán quyết đó là khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật; bản án, quyết

định của Tòa án có kháng cáo, kháng nghị nhưng tỷ lệ án bị sửa hoặc bị hủy nhiều

hay ít. Tuy nhiên khi bản án, quyết định của Tòa án bị sửa hoặc hủy cũng do nhiều

lý do khác nhau. Hoặc do lỗi chủ quan hoặc bởi lý do khách quan, cá biệt có những

trường hợp hủy án không thuyết phục. Trong trường hợp này được hiểu là “oan -

sai” trong phúc thẩm, thậm chí trong xét xử giám đốc thẩm.

62

Tỷ lệ án bị sửa, hủy của Thẩm phán trong năm công tác được xem xét là chỉ

tiêu thi đua, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực, trình độ,

trách nhiệm và phẩm chất xét xử của Thẩm phán. Bởi vì, án bị hủy do có sai sót, vi

phạm pháp luật làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà

không thể khắc phục, sửa chữa được. Những phán quyết của Tòa án bị sửa hoặc bị

hủy có nhiều nguyên nhân khác nhau, để đánh giá công bằng, khách quan ngành

Tòa án chỉ xem xét đến việc sửa, hủy án do lỗi chủ quan của HĐXX (Thẩm phán),

không quan tâm đến nguyên nhân của lỗi do vô ý hoặc cố ý. Bởi vì, phán quyết của

Tòa án luôn luôn liên quan đến con người không ở góc độ này thì ở góc độ khác.

Chỉ tiêu của ngành Tà án đặt ra là trong năm công tác, số lượng bản án, quyết định

của Thẩm phán bị cải sửa vượt quá 03%/tổng số vụ việc giải quyết; bị hủy vượt quá

1,16%/tổng số lượng án giải quyết trong năm đó thì không được xét thi đua năm và

sẽ bị xem xét trong quá trình tái bổ nhiệm cho nhiệm kỳ Thẩm phán tiếp theo.

2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.3.1. Điều kiện bảo đảm về chính trị

Công tác xây dựng Đảng trong TAND cấp tỉnh luôn phải được gắn với việc

xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán nói chung và Thẩm phán hành chính nói

riêng. Một điểm thuận lợi hiện nay về cơ bản lãnh đạo TAND cấp tỉnh ở các địa

phương đều tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh (56/63 tỉnh, thành đạt 89%

- Báo cáo tổng kết năm 2017 của TANDTC). Các tổ chức Đảng tại TAND cấp

tỉnh (Đảng ủy, các Ban chi ủy) cần phải thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng

cho đội ngũ đảng viên; duy trì kỷ cương, nề nếp sinh hoạt; chú trọng giáo dục,

quản lý, giám sát đảng viên, đề cao tinh thần phê và tự phê bình trong sinh hoạt

đảng; chủ động nắm bắt, định hướng tư tưởng, giải quyết các vấn đề tư tưởng của

đảng viên. Các cấp ủy đảng phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo TAND cấp tỉnh trong

việc đánh giá, nhận xét cán bộ, việc quy hoạch, kiện toàn đội ngũ lãnh đạo, động

viên đảng viên và quần chúng yên tâm công tác, hoàn thành tốt, có chất lượng

nhiệm vụ được giao.

Quán triệt và triển khai kịp thời tinh thần các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,

của Thành ủy, tỉnh ủy đến đảng viên, nhất là những nghị quyết có liên quan đến tổ

63

chức và hoạt động tư pháp. Triển khai nhiệm vụ xét xử nói chung và xét xử án hành

chính nói riêng phải gắn với việc triển khai các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Tăng cường chỉ đạo xét xử lưu động các VAHC để thông qua đó phát huy vai trò

tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cán bộ - công chức và nhân dân.

Thẩm phán xét xử các VAHC luôn phải là người có nhận thức chính trị sâu

sắc, có tư tưởng, quan điểm chính trị kiên định, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng,

kỹ năng nghề nghiệp thông thạo, có kiến thức và kinh nghiệm QLHCNN để phục vụ

tốt cho công tác xét xử các VAHC trên địa bàn. Bởi vì án hành chính khá nhậy cảm,

liên quan trực tiếp đến chất lượng hoạt động QLHCNN của UBND các cấp. Trong

khi vị trí, vai trò của UBND là trung tâm của hệ thống chính trị ở địa phương.

2.3.2. Điều kiện bảo đảm về mặt pháp lý

Hoạt động xét xử của TAND phải tuân theo các quy định chặt chẽ của pháp

luật TTHC và quy định của pháp luật nội dung. Vì vậy, muốn bảo đảm chất lượng

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh cần có hệ thống quy định có chất lượng của

pháp luật về tổ chức của hoạt động TAND. Tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử

các VAHC của TAND. Trong các nội dung hoàn thiện pháp luật cần chú ý những

nội dung sau đây:

Một là: Bảo đảm pháp lý cho tổ chức của tổ chức của Tòa hành chính

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các luật được sửa đổi và bổ sung,

trong đó có Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tố tụng hành chính… và cũng đã có nhiều

điểm mới phù hợp với tinh thần chung của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với yêu

cầu thực tiễn đòi hỏi. Tuy nhiên, về phương diện pháp lý cho mô hình tổ chức của

THC với tư cách là tòa chuyên trách trong hệ thống TAND ở nước ta hiện nay vẫn

còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ và phù hợp với yêu cầu

kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước. Việc thiết kế mô hình tổ chức của THC

phải đảm bảo cho được tính ổn định, liên tục và nhất là tính độc lập của THC trong

cấu trúc chung của bộ máy nhà nước và trong hệ thống TAND.

Vấn đề là ở chỗ THC được xem là một thiết chế đặc biệt, có vị trí quan trọng

trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền công dân và tổ chức thông qua việc giải

quyết các khiếu kiện hành chính, nên cần phải được tổ chức một cách thích hợp với

vị trí, vai trò của nó. Bởi vậy, nhà nước phải đầu tư xây dựng hệ thống văn bản pháp

64

luật đầy đủ, chặt chẽ, thích ứng với chức năng nhiệm vụ, nhất là đối tượng xét xử

rất đặc biệt để làm cơ sở pháp lý hoàn hảo cho cơ quan này hoạt động một cách tiện

lợi và hiệu quả nhất. Cần phải thoát ly một cách cao nhất có thể sự ràng buộc, lệ

thuộc, chi phối dưới bất kỳ hình thức nào của các thiết chế ngoài Tòa án như: thiết

chế chính trị, hành chính, tài chính, tổ chức - cán bộ… ảnh hưởng tới lĩnh vực tổ

chức và hoạt động của Tòa án.

Bên cạnh việc quy định về mô hình tổ chức, phương thức hoạt động thì việc

quy định chi tiết về các chủ thể tham gia xét xử các VAHC (Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, thư ký tòa án, Viện kiểm sát nhân dân) cũng rất quan trọng. Hoạt động

xét xử có chuẩn mực, hiệu quả thì một trong những yêu cầu quan trọng là đội ngũ

Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn cao, nhất là chuyên môn về quản lý hành

chính nhà nước, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có thái độ trung thực, khách

quan, không thiên vị. Bởi vì án hành chính là loại án đặc thù mà phía người bị kiện

luôn luôn là nhà nước (cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức nhà nước). Nếu

thẩm phán không công tâm, công bằng và bản lĩnh thì kết quả xét xử sẽ thiếu trung

thực, thiên lệch mà lợi thế thường nghiêng về phía công quyền. Chất lượng của đội

ngũ Thẩm phán, HTND được kết tinh bởi nhiều yếu tố khác nhau như: quá trình

đào tạo, khả năng tích lũy chuyên môn, năng lực, sở trường và kinh nghiệm công

tác… Bởi vậy cần phải được chuẩn hóa bằng thể chế pháp lý đối với đội ngũ này

trên cơ sở xây dựng bộ tiêu chuẩn có tính điều kiện bắt buộc trước hết là đối với

Thẩm phán hành chính.

Hai là: Về bảo đảm pháp lý cho hoạt động của THC và Thẩm phán

hành chính

Hoạt động xét xử của Tòa án đòi hỏi phải được độc lập thực sự chỉ tuân theo

pháp luật, đây là nguyên tắc hiến định. Về lý thuyết pháp lý hiện nay cơ bản đảm

bảo được nguyên tắc này. Tuy nhiên, các thiết chế khác như: tổ chức - nhân sự (bổ

nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán, xếp sắp, phân công, điều động nhân sự…); tài

chính, ngân sách, phương tiện, điều kiện làm việc; chế độ báo cáo cho ý kiến chỉ

đạo của cấp ủy… theo cơ chế hiện nay vẫn là những yếu tố tác động không nhỏ tới

sự độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi vậy, việc hoàn thiện đồng bộ hệ

thống thể chế pháp lý (cả pháp luật hình thức và pháp luật nội dung) để đảm bảo

65

cho Tòa án hoạt động trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết. Điều này được

thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:

- Hệ thống pháp luật liên quan đến xét xử các VAHC phải đảm bảo được

nguyên tắc của TTHC. Nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc độc lập xét xử;

nguyên tắc tranh tụng, đối thoại, khách quan, xét xử hai cấp… là những nguyên tắc

quan trọng phải được đảm bảo trong xét xử hành chính. Sẽ là khó thực hiện khi

pháp luật về nội dung (được thể hiện ở nhiều luật khác nhau) vẫn còn những vấn đề

bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn nhau [2]. Trong trường hợp này cần phải có những

chế định pháp lý tôn trong nguyên tắc xét xử là rất cần thiết.

Bên cạnh việc quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết án hành

chính thì vấn đề thi hành án hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, bản

án, quyết định của Tòa án không có nghĩa lý gì khi nó không được hiện thực hóa

trong đời sống xã hội. Chúng ta đã có nghị định chuyên biệt về thi hành án hành

chính, nhưng vấn đề đặt ra là: trong trường hợp người phải thi hành án (cơ quan, tổ

chức, cán bộ, công chức nhà nước) cố tình tìm mọi cách không thi hành thì Tòa án

(người phán quyết) có thẩm quyền pháp lý gì để buộc họ phải thi hành. Hiện nay,

thi hành án hành chính phần dân sự trong án hành chính do cơ quan Thi hành án

dân sự trực tiếp tổ chức thực hiện, còn các phán quyết khác cơ quan thi hành án chỉ

mới dừng lại ở vai trò gián tiếp (theo dõi, đôn đốc).

- Việc xác định phạm vi thẩm quyền của Tòa án trong TTHC. Câu hỏi đặt ra

là: THC có được xét xử các quyết định hành chính có tính quy phạm không hay chỉ

được xét xử một số cơ bản các quyết định hành chính cá biệt như hiện nay? Và Tòa

án sẽ giải quyết mọi khiếu kiện về QĐHC, HVHC trong bất kỳ lĩnh vực quản lý

hành chính nào hay chỉ đối với những lĩnh vực quan trọng, cơ bản như tố tụng hiện

nay? Theo chúng tôi cơ quan lập pháp cần quan tâm đến nguyên tắc bảo đảm tối đa

quyền công dân: như vậy được hiểu là bất kỳ QĐHC hay HVHC nào (trên tất cả các

lĩnh vực) của cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính

trái pháp luật hoặc xâm hại một cách trực tiếp (hoặc gián tiếp) đến quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức và công dân thì họ đều có quyền khởi kiện VAHC. Bởi vì,

khiếu kiện hành chính là sự “phản ứng - phản kháng” của dân chúng đối với nhà

quản lý hành chính. Vậy thì họ hoàn toàn có quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích

66

chính đáng của họ khi bị xâm hại, (quyền tự vệ pháp lý). Vì vậy, pháp luật hơn bao

giờ hết cần bảo đảm tối đa quyền “tự vệ” của tổ chức và công dân và Tòa án được

xét xử đối với bất kỳ QĐHC, HVHC nào của chủ thể QLHCNN khi có sự phản ứng

của đối tượng quản lý, không hạn chế hoặc loại trừ như hiện nay.

- Đảm bảo tính quyền lực rõ ràng và tính độc lập trong xét xử hành chính.

Việc quy định thẩm quyền xét xử theo địa hạt (lãnh thổ) của Tòa án ảnh hưởng tới

tính độc lập của cơ quan này. Bởi vì, ít nhiều sẽ bị chi phối bởi cơ quan hành chính

ở địa phương đó, cho nên cần quy định theo hướng bảo đảm cho Thẩm phán ở cấp

xét xử này không bị chi phối bởi cơ quan hành chính ở địa phương đó (kinh nghiệm

của Hoa Kỳ cho thấy: Thẩm phán liên bang do Tổng thống bổ nhiệm suốt đời,

Thẩm phán cấp dưới do dân bầu. Chính vì vậy, các Thẩm phán không bị ràng buộc

bởi cơ quan hành chính ở địa phương mà chỉ phụ thuộc vào dân, chịu sự giám sát

chặt chẽ của dân chúng). Kinh nghiệm của chúng ta cũng đã có từ những năm 1945

trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1945, Điều 47 quy định: “Tòa án tư pháp độc

lập với các cơ quan hành chính”. Như vậy, ngay từ ngày đầu thành lập, hệ thống tòa

án đã được tổ chức theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập trong xét xử, loại trừ được

những tác động, chi phối của chính cơ quan hành chính. Nếu quy định theo hướng

này, chính là chúng ta kế thừa thành tựu lập pháp trong lịch sử. Sự độc lập đòi hỏi

ngay trong các thành viên HĐXX mà còn độc lập với các cơ quan hành chính khác

trong lĩnh vực QLHCNN [58].

Bà là: Bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật tố tụng hành chính với

hệ thống pháp luật chuyên ngành

Xét xử hành chính là một quy trình mang tính thủ tục, bao gồm một chuỗi

hoạt động liên tục, kế tiếp nhau với các giai đoạn mà các chủ thể có thể sử dụng để

bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước sự kiểm chứng, xác nhận và phán quyết của

cơ quan nhà nước (Tòa án). Các quy định thủ tục TTHC thuộc ngành luật hình thức,

có mối quan hệ mật thiết với hệ thống quy phạm pháp luật nội dung liên quan đến

ngành luật hành chính.

Để xét xử các VAHC đạt hiệu quả, hệ thống pháp luật tố tụng hành chính

phải đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với các quy phạm pháp luật chuyên ngành

liên quan đến ngành luật hành chính và luật nội dung khác như: Luật Đất đai, nhà ở,

67

Luật Dân sự… Thực tiễn cho thấy khi áp dụng pháp luật do quy định không thống

nhất giữa luật tố tụng với luật nội dung cho nên đã dẫn đến hậu quả pháp lý là người

dân mất quyền khởi kiện hành chính (chẳng hạn: quy định về thời hạn, thời hiệu

khiếu nại và khởi kiện trong Luật Đất đai, Luật Khiếu nại và Lật Tố tụng hành

chính còn khác nhau nên áp dụng trong thực tiễn là rất phức tạp). Tính thống nhất

của các văn bản pháp luật tố tụng và luật nội dung (không mâu thuẫn, chồng chéo)

có tác động rất lớn đến hiệu quả của hoạt động xét xử các VAHC.

2.3.3. Điều kiện bảo đảm về thực hiện quyền kiểm soát tư pháp đối với

hoạt động xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân

Chất lượng xét xử các VAHC của TAND có được bảo đảm hay không còn

liên quan đến hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước và

của các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân

dân đối với hoạt động xét xử các VAHC. Toàn bộ những hoạt động giám sát, kiểm

tra này tạo nên những áp lực buộc TAND cấp tỉnh nói riêng, TAND nói chung

luôn luôn phải đảm bảo chất lượng xét xử đúng pháp luật, kịp thời, công tâm và

khách quan.

Hoạt động giám sát, kiểm tra của Quốc hội, HĐND và của xã hội đối với

hoạt động xét xử các VAHC của TAND không chỉ gây áp lực bắt buộc đối với

TAND và các cơ quan tư pháp khác trong quá trình giải quyết án mà còn chỉ ra

những hạn chế, sai sót, khuyết điểm trong quá trình xét xử, để qua đó TAND kịp

thời khắc phục, sửa chữa, rút kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các

VAHC, đưa ra những phán quyết đúng đắn để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của

người khởi kiện. Mặt khác, thông qua đó cũng kịp thời uốn nắn, điều chỉnh các hoạt

động của các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức, góp phần bảo

đảm cho hoạt động hành chính được đúng đắn và hiệu quả.

Vấn đề đặt ra hiện nay là bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát,

kiểm tra. Hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước phải thường

xuyên, nề nếp. Không chỉ là giám sát theo tác động của dư luận xã hội. Mỗi hoạt

động giám sát cho dù ở kỳ họp Quốc hội, HĐND hay giám sát tại chỗ của đoàn đại

biểu, của đại biểu Quốc hội, HĐND đều phải có những kết luận cụ thể, chỉ ra những

68

hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử của TAND. Hoạt động giám sát của nhân

dân, các ý kiến của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án phải được Mặt

trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội thành viên tổng hợp bằng văn bản, kịp

thời gửi tới các cơ quan quyền lực nhà nước, đồng thời gửi tớ TAND và TAND

phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, HĐND và trước nhân dân thông qua

các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, khi có ý kiến của nhân dân, của các

phương tiện thông tin đại chúng thì Tòa án cần phải có phúc đáp, giải trình kịp thời.

Pháp luật cũng cần có quy định về vấn đề này nhằm góp phần bảo đảm hiệu lực của

hoạt động kiểm tra giám sát.

2.3.4. Điều kiện bảo đảm về vật chất, phương tiện kỹ thuật làm việc

Hoạt động xét xử của Tòa án luôn luôn gắn liền với cơ sở vật chất, kỹ thuật.

Nếu như các điều kiện đã được phân tích ở trên là các điều kiện chủ quan gắn liền

với bản thân người Thẩm phán Tòa án các cấp thì điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ

thuật là điều kiện khách quan gắn liền với trụ sở Tòa án, phòng xét xử, nơi làm việc,

các phương tiện kỹ thuật khác như: máy in, máy vi tính, máy photocopy, phương

tiện nghe nhìn, sách báo chuyên ngành v.v.. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện

kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử của Tòa án. Vì vậy,

muốn tăng cường năng lực xét xử cho Tòa án các cấp thì không thể không tăng

cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Tòa án. Nhà nước bảo đảm các điều kiện phục

vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng

của đất nước.

Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 đã nêu rõ: Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù

hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước. Đổi mới và

hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo

hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp địa

phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tư pháp trung

ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư

pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương.

Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang,

hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra,

69

đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp.

Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực hoạt động cả về chuyên

môn nghiệp vụ và trong hoạt động quản lý, điều hành. Đảm bảo công khai, minh

bạch các hoạt động của Tòa án, đặc biệt là công khai bản án, quyết định của Tòa án

trên cổng thông tin điện tử của TAND.

Tiểu kết chương 2

Xét xử hành chính có vai trò quan trọng trong đời sống nhà nước và đời sống

xã hội ở nước ta hiện nay. Để nhận thức đúng đắn được vị trí, vai trò, tầm quan

trọng của xét xử hành chính là không đơn giản. Nhiều quốc gia trên thế giới có lịch

sử hàng trăm năm về xét xử hành chính, trong khi chúng ta mới bắt đầu công việc

này vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Để làm sáng tỏ những vấn đề về lý

luận, làm cơ sở để đánh giá và đưa ra những quan điểm, giải pháp nâng cao chất

lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay, trong chương này

luận án đã tập trung lý giải các vấn đề lý luận về quan niệm về khái niệm, đặc điểm,

nguyên tắc, vai trò, phương pháp và nội dung của chất lượng xét xử các VAHC của

TAND cấp tỉnh. Ngoài ra, để có cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất quan

điểm, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các VAHC chúng ta đề cập sâu đến các

điều kiện bảo đảm và các tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử các VAHC của TAND

cấp tỉnh.

Đáng lưu ý trong chương này là đặc thù của xét xử các VAHC của TAND

nói chung và của TAND cấp tỉnh nói riêng là việc tổ chức, công dân kiện “quan” và

TAND xét xử, đưa ra phán quyết đối với hầu hết các hoạt động của hệ thống cơ

quan HCNN (chủ thể đặc biệt). Bởi vậy, chúng tôi cũng đã tập trung giải quyết vấn

đề lý luận trên nền tảng của tư tưởng “dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực” với

tư cách nhánh quyền lực tư pháp kiểm soát, hỗ trợ và phối hợp với nhánh quyền lực

hành pháp.

70

Chương 3

THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

3.1. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, THẨM

QUYỀN CỦA TOÀ HÀNH CHÍNH THUỘC TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

3.1.1. Thực trạng tổ chức của Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

Tòa án nhân dân tối cao đã hoàn thiện Đề án vị trí việc làm, biên chế của

TAND và Đề án cải cách chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đặc thù của cán bộ,

công chức, viên chức trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến để hoàn

thiện trình Ban chỉ đạo trung ương về quản lý biên chế thẩm định để báo cáo Bộ

Chính trị xem xét, quyết định. Xây dựng kế hoạch về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh

giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức viên chức TAND giai đoạn

từ nay đến 2021; Đề án về Bộ mã số định danh đơn vị, cá nhân trong các TAND.

Trong lĩnh vực kiện toàn tổ chức bộ máy Tòa án các cấp, Chánh án

TANDTC đã ban hành quyết định về cơ cấu, số lượng cấp phó của TAND cấp tỉnh,

phân bổ Thẩm phán cho TAND cấp tỉnh; hướng dẫn quy trình bổ nhiệm, quy định

tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ. Hiện nay TANDTC đang chuẩn bị các điều

kiện để quyết định thành lập các Tòa án chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh, cấp

huyện phù hợp với số lượng các loại án phải thụ lý giải quyết, cũng như số lượng

Thẩm phán hiện có hiện nay ở từng đơn vị.

Theo Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì chỉ có 02 cấp Tòa án có Tòa hành

chính chuyên trách TAND cấp tỉnh đều có THC chuyên trách, chuyên xét xử các

VAHC (TAND cấp tỉnh và Tòa án cấp cao). Việc biên chế nhân lực cho cho toàn

ngành Tòa án nói chung và cho từng Tòa thuộc TAND cấp tỉnh nói riêng do Ủy ban

Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trên cơ sở đề xuất của Chánh án TANDTC. Thực tế

việc bố trí nhân lực của THC thuộc TAND cấp tỉnh ở các địa phương có khác nhau

tùy thuộc vào nguồn nhân lực cụ thể của Tòa án địa phương đó và phụ thuộc vào

thực tế lượng án hành chính hàng năm để bố trí nhân lực cho THC.

Về tổng biên chế của toàn hệ thống TAND các cấp tính đến ngày 30/9/2017,

có 14.725 người (trong đó, TANDTC là 416 người, các TAND cấp cao là 278

71

người, TAND cấp tỉnh là 3.802 người và TAND cấp huyện là 10.229 người), thiếu

512 người so với chỉ tiêu biên chế được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao do số

Thẩm phán, cán bộ, công chức giảm tự nhiên. Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW

của Bộ chính trị, TANDTC có chủ trương tạm dừng việc tuyển dụng số biên chế

còn thiếu để tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giảm biên chế của các Tòa

án. TANDTC đang xây dựng và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý

kiến đối với Đề án vị trí việc làm để hoàn thiện trình Ban chỉ đạo trung ương về

quản lý biên chế thẩm định báo cáo Bộ chính trị xem xét, quyết định. Hiện nay chất

lượng đội ngũ công chức Tòa án ngày càng được nâng cao, toàn hệ thống có 02

Giáo sư, Phó giáo sư; 32 Tiến sĩ; 1466 Thạc sĩ; 12.305 cử nhân; số còn lại có trình

độ khác phù hợp với tiêu chuẩn chức danh, vị trí công tác đảm nhiệm [109].

Đối với nhân sự TAND cấp tỉnh, năm 2017 Ban cán sự TANDTC đã phê

duyệt kết quả rà soát, bổ sung quy hoạch Chánh án, Phó chánh án TAND cấp tỉnh

giai đoạn 2016 - 2022. Theo đó, đã đưa ra khỏi quy hoạch 67 trường hợp, tiếp tục

quy hoạch 87 trượng hợp và bổ sung 125 trường hợp. Căn cứ yêu cầu công tác của

các đơn vị, Chánh án TANDTC đã quyết định điều động, luân chuyển công tác đối

với 30 Thẩm phán TAND cấp tỉnh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ [109].

Số lượng cán bộ thuộc THC ở các TAND cấp tỉnh hiện nay không đồng đều,

Tòa ít nhất là 03 cán bộ, Tòa nhiều nhất là 60 người thuộc biên chế của THC. Trong

đó, các Tòa đều có Chánh tòa, các Phó chánh tòa và Thư ký Tòa án. Tòa có ít biên

chế nhất là THC thuộc TAND tỉnh Hà Giang có 01 Thẩm phán đồng thời là Chánh

tòa và có 02 thư ký. Tòa có biên chế nhiều nhất là THC thuộc Tòa án thành phố Hồ

Chí Minh có 60 biên chế, gồm 01 Chánh tòa, 02 phó Chánh tòa, 25 Thẩm phán còn

lại là thư ký Tòa. Số lượng hẩm phán và cán bộ thuộc THC ở các địa phương phụ

thuộc vào số lượng án hành chính hàng năm mà Tòa án phải giải quyết [109].

Như vậy, về mô hình tổ chức của các THC thuộc các TAND cấp tỉnh là

thống nhất về mô hình. Tuy nhiên, về kết cấu nhân lực của từng Tòa ở các địa

phương không giống nhau. Một trong những yếu tố tác động đến sự khác biệt là văn

hóa, phong tục tập quán, thói quen, địa lý… của các địa phương, các vùng miền có

những nét không giống nhau. Mặt khác, người Á đông chịu ảnh hưởng khá đậm nét

của tư duy phong kiến, mà đặc trưng của tư duy này là rất ngại “kiện quan”. Trong

72

thực tiễn xét xử các VAHC của các Tòa án trong đó có THC thuộc TAND cấp tỉnh

tỷ lệ “phần thắng” thuộc về “công quyền” nhiều hơn dân chúng. Đây là một trong

những lý do án hành chính vẫn đang còn ở mức độ “khiêm tốn”. Một số Tòa rất ít

việc và thậm chí hàng năm hầu như không có án hành chính (vùng sâu, vùng xa).

Mô hình tổ chức của TAND nói chung của Tòa án hành chính nói riêng còn

nhiều hạn chế. Do những đặc điểm về dân tộc, địa lý, truyền thống cộng đồng…,

thời gian qua, một số đơn vị hành chính các cấp ở nước ta đã được tách nhỏ hoặc

sáp nhập để thuận lợi cho việc quản lý, phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở đó, một

số Tòa án cũng được chia nhỏ hoặc sáp nhập theo. Thực tế việc chia nhỏ Tòa án đã

gây ra rất nhiều khó khăn như phân tán dàn trải cơ sở vật chất, kinh phí, nhân lực,

nhiều nơi chỉ có 1-2 Thẩm phán mà vẫn phải tốn thêm bộ máy hành chính như kế

toán, văn phòng.

Do Tòa án được tổ chức theo cấp hành chính nên có lúc, có nơi nguyên tắc

độc lập xét xử của Tòa án đã ít nhiều không được thực hiện triệt để. Hiện tượng một

số vụ án xét xử bị áp lực chính trị, ảnh hưởng của cấp ủy và chính quyền địa

phương, thậm chí có trường hợp can thiệp sâu vào hoạt động xét xử của Tòa án, dẫn

đến hậu quả nghiêm trọng, vị thế của Tòa án bị xâm hại, lòng tin của nhân dân đối

với nền công lý xã hội bị suy giảm. Ở địa phương, Chánh án các Tòa án thường có

một vị trí xã hội khá khiêm tốn trong hệ thống chính trị ở địa phương so với Giám

đốc một số sở, Trưởng một số ban ngành cùng cấp. Chánh án cũng chỉ là ủy viên

Ban Chấp hành Đảng bộ, chưa được vào Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy.

Ở Trung ương, Tòa án chưa có điều kiện để trở thành một cơ quan quyền lực

thực sự với tư cách là một nhánh quyền lực nhà nước độc lập cần và đủ để thực thi

quyền tư pháp. Ở địa phương vấn đề này được thể hiện rõ nét hơn. Có nhiều nguyên

nhân dẫn đến tình trạng trên, nguyên nhân cơ bản là: do mức độ phụ thuộc vào

chính quyền địa phương về tổ chức nhân sự, về quan hệ chính trị - hành chính, hỗ

trợ cơ sở vật chất; một số cấp ủy địa phương còn nhận thức chưa đúng đắn vai trò

lãnh đạo của Đảng về công tác xét xử, tổ chức Đảng của Tòa án trực thuộc cấp ủy

địa phương.

Đặc biệt trong lĩnh vực xét xử các KKHC, một lĩnh vực phán quyết về tính

hợp pháp của QĐHC hoặc HVHC của cơ quan nhà nước hoặc nhân viên nhà nước,

73

hay nói cách khác, đó là lĩnh vực “dân kiện quan” thì những việc như Thẩm phán

cấp huyện xét xử một QĐHC, HVHC của các cơ quan thuộc UBND huyện hay

Thẩm phán cấp tỉnh xét xử hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc các

ngành của UBND tỉnh trong khi họ thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch hoặc của

UBND cùng cấp với Tòa án là điều khó khăn.

3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa hành chính thuộc Tòa

án nhân dân cấp tỉnh

3.1.2.1. Về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Hiến pháp năm 2013 đã có những đột phá, khi xác định chức năng nhiệm vụ

của TAND, khoản 1, Điều 102 của Hiến pháp quy định rõ: “TAND là cơ quan xét

xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Điểm mới của

Hiến pháp lần này so với các bản Hiến pháp khác là bên cạnh việc xác định quyền

xét xử còn xác định khá rõ quyền tư pháp trong cấu trúc quyền lực nhà nước là do

Tòa thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương được quy định rõ tại Điều 37 Luật tổ chức TAND năm 2014; Điều 32, Luật

TTHC năm 2015, có hai chức năng cơ bản bao gồm:

Một là: Xét xử sơ thẩm các VAHC thuộc thẩm quyền. Việc phân định thẩm

quyền xét xử sơ thẩm giữa các cấp Tòa án, chủ yếu dựa vào địa giới hành chính

theo nguyên tắc Tòa án cấp nào thì xét xử các khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC

của cơ quan nhà nước từ cấp đó trở xuống hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan

nhà nước đó (QĐHC, HVHC của UBND hoặc chủ tịch UBND cấp huyện khi bị

khởi kiện do TAND cấp tỉnh giải quyết); xét xử các khiếu kiện đối với QĐHC,

HVHC của cơ quan nhà nước ở trung ương và của người có thẩm quyền trong cơ

quan đó có trụ sở trên địa bàn tỉnh. Bao gồm:

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ. Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước,

TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, và QĐHC, HVHC của

người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm

việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp

người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt

74

Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan người có thẩm quyền ra

QĐHC, có HVHC;

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan thuộc một trong các cơ quan nhà

nước quy định tại khoản 1 Điều này và QĐHC, HVHC của người có thẩm quyền

trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có

nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải

quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra QĐHC, có HVHC;

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm

vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà

nước đó;

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, chủ tịch UBND cấp

huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

- Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan đại diện của nước CHXHCN Việt

Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi

kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp

người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam thì TAND có thẩm quyền là

TAND thành phố Hà Nội hoặc TAND thành phố Hồ Chí Minh;

- Khiếu kiện quyết định kỷ luật BTV của người đứng đầu cơ quan, tổ chức

cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật

trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi

địa giới hành chính với Tòa án;

- Trường hợp cần thiết, Tòa cấp tỉnh lấy lên để giải quyết khiếu kiện thuộc

thẩm quyền của Tòa cấp huyện, trong các trường hợp sau: (i) Khiếu kiện QĐHC,

HVHC của cơ quan hành chính từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới

hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà

nước đó, trừ QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, chủ tịch UBND cấp huyện; (ii)

Khiếu kiện QĐKLBTV của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở

xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối với công chức thuộc

75

thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó; (iii) Khiếu kiện danh sách cử tri của

cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

Hai là: Xét xử phúc thẩm VAHC của TAND cấp tỉnh. Xét xử phúc thẩm

VAHC là việc Tòa cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án, quyết định của Tòa cấp sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định của

Tòa cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án hoặc ban hành.

Nhiệm vụ của việc xét xử phúc thẩm VAHC bao gồm:

- Tòa cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản

án, quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Qua việc xét xử

phúc thẩm, Tòa cấp phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,

quyết định bị kháng cáo, kháng nghị để báo đảm cho các bản án, quyết định của

Tòa được đúng đắn.

- Tòa cấp phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm

về việc áp dụng pháp luật TTHC và áp dụng các văn bản pháp luật về nội dung.

Đồng thời kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, xem xét những

quyết định trong bản án, quyết định có được xác định dựa trên những chứng cứ của

vụ án đã được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm hay không; những quyết định đó có

phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án hay không.

Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm VAHC Tòa cấp tỉnh có thể kiểm tra

hoạt động của Tòa án cấp huyện, tổng kết, rút kinh nghiệm chung, hướng dẫn việc

áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án. Chức

năng của TAND cấp tỉnh khi xét xử phúc thẩm. HĐXX phúc thẩm không những chỉ

có quyền xem xét hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm mà còn có quyền đánh

giá toàn bộ các căn cứ, lập luận đã được đưa ra ở Tòa án sơ thẩm nhưng chưa được

Tòa sơ thẩm đó xem xét. Thẩm quyền cụ thể của HĐXX phúc thẩm:

+ Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

+ Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa cấp sơ thẩm quyết

định không đúng pháp luật;

+ Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa cấp sơ thẩm xét xử lại trong

trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có các chứng cứ mới

quan trọng mà Tòa cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.

76

+ Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu trong quá trình

xét xử sơ thẩm có một trong các trường hợp thuộc diện phải đình chỉ giải quyết vụ

án theo khoản 1, Điều 120 Luật TTHC.

+ Đình chỉ giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm

vụ án cần phải có mặt người kháng cáo mà họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai

mà vẫn vắng mặt. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

3.1.2.2. Về phạm vi thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh

Luật TTHC được xây dựng và ban hành đã tạo một cơ chế pháp lý khá đầy

đủ và hoàn thiện để Tòa án giải quyết các KKHC có hiệu quả. Việc phân định thẩm

quyền được xác định trên cơ sở các nguyên tắc: Thẩm quyền theo loại việc; Thẩm

quyền theo lãnh thổ (địa hạt). Thẩm quyền của HĐXX được quy định cụ thể tạo cơ

chế để HĐXX ra bản án, quyết định được thuận lợi và hiệu quả hơn.

Về thẩm quyền của Tòa án, Điều 30 Luật TTHC năm 2015 tuy đã mở rộng

thẩm quyền giải quyết của Tòa án, so với các quy định trước đây nhưng vẫn còn

một số loại việc mà pháp luật quy định Tòa không có thẩm quyền giải quyết như

QĐHC, HVHC mang tính nội bộ mặc dù các quyết định, hành vi này đã xâm phạm

đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Mặt khác, khi tuyên án, HĐXX cũng không có thẩm quyền sửa đổi một phần

hoặc toàn bộ QĐHC trái pháp luật bị khiếu kiện khi thấy cần thiết, mà chỉ có thẩm

quyền tuyên giữ nguyên hoặc tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ QĐHC. Điều đó

dẫn đến hạn chế thẩm quyền của Tòa án, quyền lợi của công dân mới chỉ được bảo

vệ một cách hình thức, chưa bảo vệ được quyền con người, quyền công dân theo

tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh khi xét xử các

VAHC bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm các VAHC. Về phạm vi

những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh:

Đối với QĐHC, HVHC hầu hết thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án khi có

khiếu kiện. Tuy nhiên QĐHC, HVHC mang tính nội bộ; liên quan đến an ninh,

quốc phòng và ngoại giao không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đây là

quy định theo phương pháp loại trừ. Những QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của

cơ quan, tổ chức (tức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt

77

động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó) là nhằm

bảo đảm cho việc không khởi kiện tràn lan; hoạt động tư pháp không can thiệp sâu

vào hoạt động quản lý, điều hành nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước. Tuy

nhiên, cũng cần phải phân biệt, có những QĐHC, HVHC mang tính nội bộ, thuần

túy chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan, tổ chức nhưng

cũng có những QĐHC, HVHC mang tính nội bộ nhưng lại liên quan trực tiếp đến

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức (như quyết định lên lương, quyết

định cho thi tuyển công chức...).

Như vậy, trong trường hợp này, đối với các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ

nhưng liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì

cần quy định cá nhân, tổ chức đó có quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ quyền lợi

của mình. Hơn nữa, thực tế thời gian qua cho thấy chính những hành vi tắc trách,

thiếu trách nhiệm trong hoạt động quản lý, điều hành nội bộ của một số cơ quan, tổ

chức đã dẫn đến thiệt hại của người dân nhưng rất khó quy trách nhiệm để xem xét

bồi thường thiệt hại. Sở dĩ như vậy vì những hành vi đó không được coi là đối

tượng bị KKHC tại Tòa án nên không có bản án, quyết định của Tòa án. Trong khi

đó, theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, những

trường hợp như vậy, nếu không có bản án, quyết định của Tòa án thì không có căn

cứ để xác định hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước. Do vậy, mở

rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án cả đối với các QĐHC, HVHC mang

tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, còn có ý nghĩa răn đe, đề cao thêm trách nhiệm

của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện

chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó.

+ Khoản 6 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 đã chỉ rõ: “QĐHC, HVHC mang

tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là: Những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành

việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ,

kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ,

chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các

đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức”. Tuy nhiên, thực tế hiện

nay nội hàm khái niệm “hành vi hành chính mang tính chất nội bộ” vẫn có những

cách hiểu khác nhau.

78

3.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

3.2.1. Kết quả chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh và nguyên nhân

3.2.1.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất: Về đạo đức nghề nghiệp

Thẩm phán là một chức danh cao quý cùng với thành viên HĐXX nhân danh

nhà nước đưa ra những phán quyết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ

quan, tổ chức. Thẩm phán luôn có trách nhiệm giữ gìn đạo đức, là những tấm

gương về phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, độc lập, khách quan, công bằng,

tận tụy và chỉ tuân theo pháp luật khi thi hành nhiệm vụ, công vụ.

Trong những năm gần đây, yêu cầu đặt ra cho ngành Tòa án nói chung và

Tòa hành chính nói riêng là rất nặng nề trong bối cảnh còn có khó khăn về đội ngũ

cán bộ, Thẩm phán, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, thu nhập của Thẩm phán chưa

thỏa đáng so với áp lực và yêu cầu công việc. Với sự nỗ lực cố gắng của mình, tuyệt

đại đa số Thẩm phán TAND cấp tỉnh giữ gìn được phẩm chất đạo đức, Thẩm phán

xét xử hành chính của TAND cấp tỉnh không vi phạm đạo đức, vi phạm kỷ luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán cơ bản đảm bảo được tính độc lập đối

với mọi áp lực trong xã hội, tự quyết định trên cơ sở đánh giá tình tiết sự việc và chỉ

tuân theo pháp luật; Đảm bảo sự vô tư, khách quan trong giải quyết án; sự công

bằng, bình đẳng, không thiên vị; sự đúng mực để bảo vệ phẩm cách, niềm tin và sự

tôn trọng của công chúng đối với chức danh cao quý của Thẩm phán; sự tận tụy,

không chậm trễ là giá trị không thể thiếu đối với Thẩm phán, việc giải quyết nhanh

nhất các VAHC sẽ đáp ứng được yêu cầu ngăn cản công lý chậm chế, mà công lý

chậm trễ là công lý bất công.

Thẩm phán TAND cấp tỉnh đều là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, có

trình độ cao cấp chính trị trở lên. Đa số Thẩm phán có phẩm chất chính trị tốt, trung

thành với đảng, với tổ quốc. Qua số liệu về công tác quản lý cán bộ của ngành Tòa

án cho thấy chưa có trường hợp nào Thẩm phán có quan điểm phi chính trị hoặc có

hành vi gây tổn hại đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

79

Thứ hai: Về sự tuân thủ pháp luật trong xét xử các VAHC của TAND

cấp tỉnh

Trong những năm gần đây, để đảm bảo chất lượng lượng xét xử các VAHC,

TANDTC đã quy định các tiêu chuẩn, tiêu chí, chuẩn mực cụ thể về việc tuân thủ

pháp luật, áp dụng pháp luật trong giải quyết án hành chính của TAND các cấp,

trong đó có các tiêu chí đối với TAND cấp tỉnh. Đánh giá về kết quả của việc tuân

thủ pháp luật trong giải quyết án hành chính, trong báo cáo tổng kết các năm 2016,

2017 TANDTC đều khẳng định: Trong quá trình giải quyết các VAHC, các Tòa

án đã chú trọng việc tổ chức đối thoại giữa người khởi kiện và người bị kiện, nên

nhiều vụ án sau khi đối thoại, các bên đã thống nhất cách thức giải quyết và người

khởi kiện đã rút đơn khởi kiện; đồng thời quan tâm làm tốt công tác phối hợp với

các cơ quan liên quan xây dựng hồ sơ vụ án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết

nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời. Mặc dù các loại

án hành chính là loại án rất phức tạp, nhưng nhìn chung công tác giải quyết, xét xử

loại án này trong thời gian qua tiếp tục được đảm bảo đúng pháp luật, góp phần

nâng cao hiệu quả QLHCNN. Một số Tòa án đã làm tốt công tác giải quyết, xét xử

các vụ án hành chính trong năm qua là: TANDcác tỉnh Nam Định, Quảng Ngãi,

Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Long An,

Tiền Giang… [101].

Ví dụ: Kết quả giải quyết án hành chính năm 2016 cho thấy: Tòa án nhân

dân các cấp đã thụ lý 6.708 vụ, tăng 449 vụ so với cùng kỳ năm 2015; đã giải quyết,

xét xử được 5.358 vụ, đạt tỷ lệ 80%; trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ

thẩm 4.011/4.933 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 1.296/1.701 vụ và theo thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm 51/74 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 3,75% (do

nguyên nhân chủ quan 2,9% và do nguyên nhân khách quan 0,85%); bị sửa là

3,92% (do nguyên nhân chủ quan 3,34% và do nguyên nhân khách quan là 0,58%).

Tỷ lệ các bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 42,4%;

tỷ lệ kháng nghị giám đốc thẩm là 1,4%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do lỗi

chủ quan giảm 0,13% so với cùng kỳ năm trước [101].

Thông qua kết quả xét xử các năm của Tòa án cho thấy hoạt động xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh đều có liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm của

80

TAND cấp huyện, vì TAND cấp tỉnh có chức năng xét xử phúc thẩm các bản án,

quyết định của TAND cấp huyện khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Liên quan đến

TAND cấp cao vì bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh xét xử khi có

kháng cáo, kháng nghị thì chức năng xét xử phúc thẩm thuộc TAND cấp cao.

Thông qua kết quả trên cho thấy việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án của đội

ngũ Thẩm phán TAND cấp tỉnh đã có những bước được nâng cao.

Thứ ba: Về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử các vụ án hành chính

của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

- Về chuyên môn nghiệp vụ

Xét xử án hành chính là một trong những hoạt động khá mới của Tòa án, để

đánh giá chất lượng xét xử của Tòa án Lận án xin được nêu số liệu án hành chính

trong giai đoạn đầu mà Tòa án được giao nhiệm vụ xét xử các VAHC thì lượng án

chưa nhiều, càng về sau thì án hành chính có chiều hướng gia tăng về số lượng. Tuy

nhiên, so với số lượng các loại án khác như án: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia

đình, lao động… thì tỷ lệ tăng của án hành chính là không đáng kể.

Về chất lượng xét xử các VAHC được giải quyết từng bước được nâng cao.

Tỷ lệ các bản án, quyết định trong VAHC bị hủy, bị cải sửa đã giảm đáng kể. Năm

2011 số án bị sửa là 146 vụ /624 vụ chiếm tỷ lệ: 23,4%; năm 2017 là 3,78%; Tỷ lệ

án bị hủy năm 2011 là: 44 vụ/624 vụ chiếm tỷ lệ: 7,05%. Đến năm 2017 tỷ lệ án bị

hủy là: 4,09% [101]. Như vậy, chất lượng xét xử các VAHC đã được cải thiện rõ

rệt. Có được kết quả này là do sự nỗ lực của các Tòa án, của Thẩm phán xét xử các

VAHC ở TAND cấp tỉnh. Mặt khác về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ

Thẩm phán đã được nâng cao, kinh nghiệm, kỹ năng xét xử án hành chính đã được

tăng cường đáng kể.

Mặc dù Luật TTHC năm 2015 có rất nhiều các quy định mới so với trước

đây và các VAHC thường phức tạp nhưng các Tòa án đã có nhiều cố gắng trong

việc giải quyết các VAHC bảo đảm đúng các quy định của pháp luật, hạn chế tối đa

các sai sót xảy ra. Trong quá trình giải quyết án hành chính các Thẩm phán TAND

cấp tỉnh đã chú trọng đến việc thu thập chứng cứ, xem xét, đánh giá, sử dụng chứng

cứ phù hợp với yêu cầu của LTTHC. Việc nhận diện, đánh giá tính hợp pháp của

QĐHC, HVHC của các Thẩm phán đã được nâng cao và bảo đảm tính chính xác

81

theo quy định của pháp luật. Nhiều vụ việc đã được giả quyết hợp lý ngay trong quá

trình đối thoại mà không cần phải mở phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa đảm

bảo tính thuyết phục ngay cả với người bị kiện được xem là “đương sự khó tính”

bậc nhất của tố tụng tư pháp (Công quyền). Kết quả giải quyết các VAHC của

TAND cấp tỉnh đã có tác động:

Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLHCNN.

Kết quả giải quyết các KKHC của Tòa án các cấp đã khẳng định vai trò to

lớn của quá trình giải quyết KKHC bằng con đường tư pháp. Thông qua hoạt động

của THC các cấp, về phía người dân đã ngày càng tin tưởng hơn vào hiệu lực, hiệu

quả của bộ máy nhà nước, công cuộc đổi mới pháp luật, cải cách tư pháp. Việc giải

quyết các KKHC tại Tòa án được xem là một bước phát triển của cải cách tư pháp

phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước. Sau khi Tòa hành chính được thành lập

(1996) đến nay, quá trình giải quyết án hành chính, Tòa án đã chỉ ra những thiếu

sót, những bất cập của từng QĐHC, từng HVHC. Những vi phạm pháp luật trong

xử lý những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể trong các lĩnh vực: quản lý đất đai,

nhà ở, lĩnh vực thuế, hải quan, xử lý vi phạm hành chính (VPHC)… Qua đó đã

nâng cao nhận thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công

vụ của các cơ quan HCNN, cán bộ, công chức nhà nước ở địa phương.

Với vai trò là cơ quan xét xử, phán quyết của Tòa án về tính hợp pháp của

QĐHC, HVHC bị khiếu kiện đảm bảo tính khách quan, đem lại lòng tin cho nhân

dân. Chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được đảm bảo sẽ góp phần

quan trọng vào việc chấm dứt các khiếu kiện đông người, vượt cấp, ngăn ngừa tình

huống phát sinh “điểm nóng” về an ninh trật tự; góp phần giữ vững an ninh - chính

trị -trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, khi xét xử công tâm, khách quan, vô tư, trung

thực chỉ tuân theo pháp luật thì phán quyết của Tòa án chắc chắn sẽ tạo được niềm

tin của dân chúng vào trước hết là cán cân công lý, vào pháp luật và lớn hơn là tin

tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính phủ, số lượng

án hành chính sẽ tăng nhanh, không trong tình trạng như hiện nay. Người dân quan

tâm và đánh giá cao tính công khai, minh bạch khi giải quyết các KKHC tại Tòa án.

Các quyết định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình tự, thủ tục,

thẩm quyền và nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử hủy bỏ là

82

thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính, góp phần bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Ngược lại, khi các yêu cầu khởi

kiện của cá nhân, tổ chức không được Tòa chấp nhận cũng giúp cho người khởi

kiện hiểu và nắm vững hơn pháp luật, thông suốt những quyết định của cơ quan

QLHCNN, từ đó tự nguyện thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.

Sự nỗ lực của ngành Tòa án, hàng năm Tòa án các cấp đã giải quyết được

một số lượng nhất định các KKHC, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

các cá nhân, tổ chức. Mặc dù so với số lượng các vụ án hình sự, dân sự, số lượng

các VAHC được giải quyết tại Tòa án là không lớn nhưng việc giải quyết các

VAHC có đặc điểm riêng, thường phức tạp, do một số các nguyên nhân chủ quan,

khách quan nên việc giải quyết cũng gặp một số khó khăn nhưng các Tòa án đã có

nhiều cố gắng trong việc phối hợp với các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan xây

dựng hồ sơ vụ án, thu thập các chứng cứ cần thiết, cố gắng tuân thủ các quy định

của pháp luật.

Đối với TAND các địa phương đều có những cố gắng nhất định trong việc

giải quyết án hành chính, được xem như là một trong những loại án khó giải quyết.

Chẳng hạn đối với TAND tỉnh Đắk Lắk,về chất lượng xét xử của TAND cấp huyện

của tỉnh Đắk Lắk cho thấy: Trong tổng số các vụ án mà Tòa án cấp huyện thụ lý kết

quả xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm xử sửa án sơ thẩm 13 vụ và hủy án sơ thẩm

15 vụ. Đối với TAND tỉnh Đắk Lắk bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xử sửa án sơ

thẩm 1 vụ và hủy án sơ thẩm 2 vụ [103]. Công tác thụ lý, giải quyết, xét xử các

VAHC của hai cấp TAND tỉnh Đắk Lắk đã đạt những thành tích cao, tỷ lệ án hủy,

sửa có xu hướng giảm dần, chất lượng xét xử ngày càng được tăng cường, góp phần

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân, tổ chức. Đồng thời góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng

như nâng cao vị trí, vai trò của TAND.

Qua các số liệu thống kê các VAHC mà Tòa án xét xử trong những năm qua

cho thấy số lượng án hành chính mà TAND nói chung cũng như TAND cấp tỉnh

nói riêng thụ lý có xu hướng tăng lên năm sau cao hơn năm trước (Năm 2011: 504

vụ; năm 2013: 1.788 vụ; năm 2017: 1.952 vụ bao gồm cả xét xử sơ thẩm và phúc

thẩm. Tính riêng năm 2017 tổng số vụ án hành chính là 7.922 vụ, tăng 1.214 vụ so

83

với cùng kỳ năm 2016) [101]. Từ khi Luật TTHC có hiệu lực thi hành, số lượng các

KKHC được giải quyết tại Tòa án đã tăng lên đáng kể. Trong điều kiện các khiếu

nại hành chính ở các cơ quan hành chính nhà nước là rất lớn thì việc tăng số lượng

các KKHC được giải quyết tại Tòa án thể hiện Luật TTHC đã đi vào cuộc sống, thu

hút được sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, phát huy tác dụng trong

thực tiễn.

Trong điều kiện các khiếu nại hành chính ở các cơ quan HCNN là rất lớn thì

việc tăng số lượng các KKHC được giải quyết tại Tòa án thể hiện Luật TTHC đã đi

vào cuộc sống, thu hút được sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, phát

huy tác dụng trong thực tiễn. Vị thế của THC đã được khẳng định trong đời sống xã

hội và là công cụ không thể thiếu được trong công cuộc cải cách hành chính, cải

cách tư pháp. Kết quả giải quyết các VAHC của TAND cấp tỉnh đã khẳng định vai

trò to lớn của quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường tư pháp.

- Về kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Trong những năm gần đây, kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh

đã được nâng lên một bước đáng kể, góp phần tích cực vào hiệu lực và hiệu quả của

hoạt động giải quyết án hành chính. Một mặt đội ngũ công chức làm công tác xét xử

đã tích lũy được những kinh nghiệm nhất định về giải quyết án hành chính. Mặt

khác công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng xét xử các VAHC đã được

coi trọng và được quan tâm thỏa đáng. Phương pháp tiếp cận, cách thức giải quyết

án của đội ngũ Thẩm phán đã được nâng cao một bước và bảo đảm chuẩn mực hơn.

Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có hoạt động xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh tuân thủ theo nguyên tắc tố tụng mới theo hướng chặt

chẽ hơn. Công tác giám sát hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh được tăng

cường nên đã góp phần quan trọng bổ sung, rút kinh nghiệm cho HĐXX, cho Thẩm

phán được kịp thời và chuẩn xác hơn.

Mặc dù các vụ án hành chính là loại án rất phức tạp, nhưng nhìn chung công

tác giải quyết, xét xử loại án này trong thời gian qua tiếp tục được đảm bảo. Kỹ

năng thu thập chứng cứ, thiết lập hồ sơ cần thiết đề giải quyết vụ án được chính xác

và đầy đủ hơn. Nhất là kỹ năng tổ chức, điều hành thủ tục đối thoại giữa người khởi

kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chú trọng nên

84

nhiều vụ án đã được kết thúc ngay từ giai đoạn đối thoại mà không phải mở phiên

tòa do các bên đã thống nhất được phương án giải quyết, người khởi kiện rút đơn

khởi kiện.

Thứ tư: Về số lượng bản án, quyết định của Tòa án bị sử, hủy

Kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong 07 năm, từ năm 2011

đến năm 2017, theo báo cáo thống kê của TANDTC các năm thể hiện chất lượng

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh như sau:

Bảng thống kê số liệu xét xử các vụ án hành chính các cấp Tòa án qua

các năm

Xét xử phúc thẩm Năm Cấp Tòa án

Xét xử Sơ thẩm Tổng cộng Y án Sửa án Hủy án

Xét xử giám đốc

thẩm

Cấp huyện 525

Cấp tỉnh 96 408 218 146 44 2011

Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 77 50 9 18

Cấp huyện 1254

Cấp tỉnh 276 665 432 120 113 2012

Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 126 74 27 25

Cấp huyện 1720

Cấp tỉnh 399 1389 936 289 164 2013

Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 270 189 27 54

Cấp huyện 1651

Cấp tỉnh 244 1361 925 246 190 2014

Cấp cao (Phúc thẩm cũ) 270 196 25 49

Cấp huyện 1345

Cấp tỉnh 324 1127 772 203 152 2015

Cấp cao 149 88 23 38 2

Cấp huyện 3.536

Cấp tỉnh 475 1.078 1.006 35 37 2016

Cấp cao 218 192 15 11 57

Cấp huyện 3.261

Cấp tỉnh 535 1.369 1.291 37 41 2017

Cấp cao 317 293 13 11 77

Nguồn: [101]; [102]; [104]; [105]; [106]; [107]; [109]

85

Việc thống kê tình hình và chất lượng xét xử của TAND ba cấp: huyện, tỉnh,

cấp cao để có cơ sở xem xét, đánh giá tổng thể chất lượng xét xử của TAND cấp tỉnh.

Bởi lẽ, với chức năng của TAND cấp tỉnh thì công tác giải quyết án của TAND cấp

huyện liên quan đến kết quả xét xử phúc thẩm của TAND cấp tỉnh; kết quả xét xử

phúc thẩm của Tòa án cấp cao ở các khu vực liên quan đến chất lượng xét xử sơ thẩm

các VAHC của TAND cấp tỉnh. Chính vì vậy, việc thống kê đầy đủ kết quả hoạt

động hàng năm của cả ba cấp Tòa án có ý nghĩa thiết thực đối với luận án.

Trong bẩy năm, tổng số án mà TAND cấp tỉnh xét xử là: 9.746 vụ (bao gồm

cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm). Trong đó, xét xử phúc thẩm: 7.397 vụ; xét

xử sơ thẩm: 2.349 vụ. Trong 2.349 vụ TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm thì có

1.427/2.349 = 60,7% số vụ có kháng cáo, kháng nghị. Trong 1.427 vụ có kháng cáo

thì TAND cấp cao xử phúc thẩm: y án 1.092/1.427 vụ = 76,5%; sửa án là 139

vụ/1.427 vụ = 9,74%; hủy án là 206 vụ/1.427 vụ = 14,4% [101].

Một trong những vấn đề cần phải được xác định để đánh giá chất lượng xét

xử các VAHC của TAND cấp tỉnh, đó là số lượng, tỷ lệ bán án, quyết định của Tòa

án bị kháng cáo, kháng nghị và bị sửa, hủy do xét xử phúc thẩm hoặc xét xử theo

trình tự giám đốc thẩm. Chỉ số về tỷ lệ kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp

tỉnh không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, tái

thẩm (không có sự phản đối của đương sự hoặc cơ quan có thẩm quyền) cần được

xem đó cũng là một tiêu chí quan trọng và cần thiết để đánh giá chất lượng xét xử

các VAHC của TAND cấp tỉnh. Bởi lẽ, kết quả đó phản ánh sự đồng thuận, sự hài

lòng của người khởi kiện, người bi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,

của những người có thẩm quyền kháng nghị trong các cơ quan VKSND, TAND.

Tuy nhiên, trong tổng số các VAHC mà TAND cấp tỉnh giải quyết, tỷ lệ án hoặc

quyết định của Tòa án bị cải sửa hoặc bị hủy là vấn đề cần được nghiên cứu, xem

xét, đánh giá cẩn trọng, nhất là số lượng án bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của HĐXX.

Điều này phản ánh rõ nét nhất về chất lượng xét xử của Tòa án. Đồng thời thể hiện

cả về phương diện phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử và

thái độ, trách nhiệm của Thẩm phán khi giải quyết án hành chính.

Trong những năm qua, tỷ lệ án bị hủy có chiều hướng giảm dần hàng năm.

Năm 2014 tỷ lệ án bị hủy là 4,64% (trong đó do nguyên nhân chủ quan 3,77%, do

86

nguyên nhân khách quan là o,87%); tỷ lệ án bị sửa 4,3% (do nguyên nhân chủ quan

3,4%, do nguyên nhân khách quan 0,9%). Đến năm 2016 tỷ lệ án bị hủy và sửa đã

giảm đáng kể, án bị hủy là 3,75% (do lỗi chủ quan 2,9%, lỗi khách quan 0,85%); án

bị sửa 3,92% (do lỗi chủ quan 3,14%, nguyên nhân khách quan 0,58%). Tỷ lệ các

bản án quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 42,4%; tỷ lệ

kháng nghị giám đốc thẩm là 1,4%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ

quan giảm 0,13% so với cùng kỳ năm trước [101]. Điều này thể hiện chất lượng xét

xử các VAHC của TAND cấp tỉnh cũng đã được cải thiện đáng kể.

3.2.1.2. Nguyên nhân của kết quả, ưu điểm

Kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong thời gian qua là đáng

ghi nhận. Có được kết quả đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên

nhân cơ bản và chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Nhóm nguyên nhân chủ quan

- Có sự nỗ lực, tích cực của đội ngũ Thẩm phán, của những người tham gia

giải quyết các VAHC thuộc TAND các cấp, trong đó có TAND cấp tỉnh với một

vai trò cực kỳ quan trọng trong xét xử các VAHC. Một mặt, vừa phấn đấu trong

công việc, khắc phục khó khăn, giữ vững niềm tin chuyên môn, bản lĩnh nghề

nghiệp trước những khó khăn, áp lực từ nhiều phía khi xét xử các VAHC. Mặt khác

đội ngũ cán bộ, công chức này nhất là Thẩm phán đã được đào tạo, bồi dưỡng khá

bài bản, chuyên nghiệp về nghề xét xử các VAHC tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

có uy tín ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Thông qua rèn luyện đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác này từng bước trưởng thành cả về phẩm chất chính trị, trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp cũng như kinh nghiệm

xét xử.

- Có sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo của lãnh đạo TANDTC, của Đảng ủy,

lãnh đạo TAND các tỉnh, thành phố trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của

TAND cấp tỉnh, thành phố và vai trò kiểm tra, giám đốc án, kịp thời phát hiện, chấn

chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử. Mặt khác TANDTC cũng đã tích cực

triển khai thực hiện các hoạt động bồi dưỡng tập huấn, tọa đàm nghiệp vụ cho đội

ngũ Thẩm phán hành chính thuộc TAND cấp tỉnh.

87

- Hoạt động giám đốc, kiểm tra, giám sát của TAND cấp tỉnh từng bước

được tăng cường. Thông qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời chấn chỉnh những thiếu

sót trong quá trình thu thập, đánh giá tài liệu, thông tin, chứng cứ, quá trình áp dụng

và thực hiện các thủ tục tố tụng, áp dụng pháp nội dung, thủ tục đối thoại, kỹ năng

xây dựng, viết bản án… của Thẩm phán, cho nên hiệu quả và hiệu lực xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh được nâng cao.

Thứ hai: Nhóm nguyên nhân khách quan

- Có sự lãnh đạo sát sao của Đảng, Đảng đã có những chủ trương đúng đắn,

kịp thời như Nghị quyết số 48, 49 về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp

luật và chiến lược cải cách tư pháp đến 2020. Nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo của các

tỉnh ủy, thành ủy, các cấp ủy đảng của TAND cấp tỉnh (Đảng ủy và các chi ủy) đối

với công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử các VAHC nói riêng ở các địa

phương, nhất là đối với TAND cấp tỉnh.

- Sau khi đất nước ta đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã tiếp cận

được nhiều mô hình “tài phán hành chính” khác nhau từ các quốc gia phát triển và

đang phát triển. Qua đó cũng đã học tập, tham khảo những ưu việt của các mô hình

khác nhau để vận dụng vào hoàn cảnh nước ta một cách có chọn lọc. Đây cũng là

yếu tố quan trọng để chúng ta xây dựng một thể chế pháp lý cần và đủ cho một

hành lang pháp lý để xử lý các tranh chấp hành chính. Nhất là những kinh nghiệm

quý báu trong giải quyết, xét xử các VAHC thông qua con đường tư pháp còn non

trẻ ở nước ta.

- Về thể chế pháp lý liên quan đến xét xử các VAHC đã được kịp thời chỉnh

sửa, bổ sung hoặc ban hành mới khá đầy đủ như: Luật TTHC năm 2015; Luật Tổ

chức TAND năm 2014; Bộ luật dân sự năm 2013; luật đất đai năm 2013; Bộ án lệ

mẫu được Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành làm chuẩn mực cho các hoạt

động xét xử, trong đố có xét xử án hành chính; Nghị quyết 01/2015/HĐTP -

TANDTC hướng dẫn bổ bung Nghị quyết số 02 năm 2011 về thi hành luật

TTHC… là những thiết chế pháp lý quan trọng để TAND triển khai thực hiện chức

năng xét xử đạt hiệu quả thiết thực.

88

3.2.2. Hạn chế trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh và nguyên nhân

3.2.2.1. Những hạn chế trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án

nhân dân cấp tỉnh

Một là: Hạn chế về đạo đức trong hoạt động nghề Thẩm phán

Đạo đức nghề nghiệp xét xử có yêu cầu rất cao, vì xét xử luôn liên quan đến

con người. Một số VAHC được TAND cấp tỉnh xét xử chưa thực sự thuyết phục, số

lượng án có kháng cáo, kháng nghị vẫn còn nhiều, tỷ lệ án bị sửa bình quân trong

07 năm từ 2011 -2017 là 5,8% (trong đó năm 2011: 11,6%; năm 2012: 21,4%; năm

2013 10%; năm 2014:9,2%; năm 2015:15,4%; năm 2016: 3,92%; năm 2017:

3,87%). Tỷ lệ án bị hủy cũng đáng lo ngại, trong 07 năm, số lượng án hành chính

do TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, bị TAND cấp cao xét

xử phúc thẩm hủy án bình quân là: 14,4%% (trong đó, năm 2011:23,4%; năm 2012:

20%; năm 2013:20%; năm 2014: 18,3%; năm 2015: 25,6%; năm 2016: 3,75%; năm

2017:4,09%) [101]; [102]; [104]; [105]; [106]; [107]; [109]. Lý do hủy án chủ yếu

thuộc về lỗi chủ quan của HĐXX. Một số lỗi như: vi phạm nghiêm trọng tố tụng;

nhận thức và áp dụng pháp luật để giải quyết án chưa đúng. Chẳng hạn như: xác

định thời hiệu không đúng; xá định sai đối tượng khởi kiện; sai người bị kiện; xác

định thẩm quyền xét xử chưa chính xác… Một số trường hợp do Thẩm phán bị tác

động bởi “quyền lực” hoặc vật chất nên đã đưa ra những căn cứ, áp dụng những

tình tiết bất lợi cho người khởi kiện.

Mặt khác, về đạo đức nghề luật và bản lĩnh nghề nghiệp của một số người

làm công tác xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh còn bất cập. Đạo đức là một

hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội

nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ giữa con

người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Đạo đức tư pháp là tập hợp các quan

điểm, tư tưởng, nhận thức của một người, một tập thể, một dân tộc về hoạt động tư

pháp cũng như về một nền công lý xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc

tháng 2/1948: Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của Chính phủ, cho nên càng phải

có tinh thần đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác, để tránh những mối

xích mích lẫn nhau, nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và

89

chung cho cả tư pháp và hành chính. Đồng thời Người đã phát biểu: Xét xử đúng là

tốt nhưng nếu không phải xét xử thì tốt hơn. Tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành

tư pháp năm 1950, Người cũng đã nói: … Trong công tác xử án phải công bằng,

liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của

mình trong khung Tòa án…. (Hội nghị tư pháp năm 1949).

Nhìn chung, các Thẩm phán có phẩm chất, đạo đức tốt, trung thành với

Đảng, với Tổ quốc. Qua công tác quản lý cán bộ cho thấy chưa có trường hợp nào

có quan điểm “trái chiều” hoặc có hành vi gây tổn hại đến đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước. Nhiều người trưởng thành từ thực tiễn chiến đấu bảo vệ Tổ

quốc, lao động xây dựng đất nước và nhiều đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của

đất nước nói chung và ngành Tòa án nói riêng.

Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường một bộ phận Thẩm phán

có biểu hiện mưu cầu lợi ích cá nhân, cá biệt có những trường hợp Thẩm phán vi

phạm nghiêm trọng về phẩm chất đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp bị xử lý về

hành chính hoặc vi phạm pháp luật đã bị truy tố, xét xử về tội ra bản án, quyết định

trái pháp luật, nhận hối lộ hoặc, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản... Nhất là tình trạng

“chạy án” trong đời sống xã hội, đời sống tư pháp lâu nay diễn ra khá phổ biến.

Tình trạng nhận hối lộ, dàn xếp án, cũng không chỉ ngành Tòa án mà phổ biến ở

hầu hết các khâu: điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Một số Thẩm phán kỹ

năng thao tác nghiệp vụ về thụ lý, xét xử, nhất là đối với án hành chính còn non

kém, bởi ngại va chạm, thậm chí còn “sợ” cơ quan hành chính cùng cấp, cho nên

còn nhiều tình trạng “né - tránh” hoặc đùn đẩy việc thụ lý hoặc có thụ lý thì việc

giải quyết vẫn nghiêng về cơ quan hành chính nhà nước.

Một trong những tiêu chuẩn mà Luật tổ chức Tòa án quy định đối với người

Thẩm phán là phải có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, gương mẫu

trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các

quy tắc sinh hoạt cộng đồng và có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN. Pháp

luật hiện hành chưa có quy định tiêu chuẩn bắt buộc đối với Thẩm phán về trình độ lý

luận chính trị. Đối với Thẩm phán TAND cấp tỉnh khoảng 85% đã được đào tạo về

cao cấp lý luận chính trị, khoảng 15% có trình độ trung cấp lý luận chính trị. Đội ngũ

Thẩm phán TAND cấp tỉnh đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam [101].

90

Để chuẩn hóa về phẩm chất đạo đức của Thẩm phán nói chung, hiện nay,

trên cơ sở thể chế hóa các quy chuẩn về đạo đức công chức - công vụ, các chuẩn

mực của đạo đức xã hội, TANDTC đã và đang soạn thảo bộ tiêu chí về Quy tắc đạo

đức của Thẩm phán đang lấy ý kiến đóng góp của các cấp, các ngành để sớm ban

hành làm cơ sở, làm chuẩn mực về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ

Thẩm phán. Bên cạnh việc tự rèn luyện về tác phong, nhân cách, phẩm giá của

mình, việc sớm có được bộ quy tắc đạo đức nghề Thẩm phán với những tiêu chí,

chuẩn mực rõ ràng, cụ thể là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt

động tư pháp hiện nay.

Hai là: Hạn chế về sự tuân thủ pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

trong xét xử các vụ án hành chính

Nguyên tắc tối cao trong xét xử là sự tuân thủ tuyệt đối các quy định của

pháp luật có liên quan đến việc giải quyết VAHC một cách đúng đắn, không trái

pháp luật luật. Nhìn chung trong báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của

ngành TAND đều đánh giá khá sâu sắc về những tồn tại trong việc giải quyết án của

các TAND địa phương vẫn mắc phải những sai lầm trong việc tuân thủ pháp luật,

trong áp dụng pháp luật của Thẩm phán. Một số Tòa án địa phương chưa khắc phục

triệt để việc để các vụ án quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật do lỗi

chủ quan của Tòa án (TAND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tầu 47 vụ; TAND tỉnh Sóc Trãng

13 vụ; TAND tỉnh Quảng Ninh 04 vụ; TAND tỉnh Bắc Giang 03 vụ) [101]. Vẫn

còn tình trạng chậm gửi bản án, quyết định cho các cơ quan có liên quan hoặc chậm

tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng. Chưa khắc phục triệt để việc

bản án tuyên không rõ ràng, một số bản án, quyết định sai sót về thông tin người

tham gia tố tụng nên phải đính chính, giải thích. Có trường hợp tạm đình chỉ còn

thiếu căn cứ hoặc lý do tạm đình chỉ không còn nhưng không theo dõi, đôn đốc để

đưa vụ án ra xét xử làm cho thời gian giải quyết vụ án kéo dài. Việc chuyển giao

thông báo thụ lý bản án, quyết định cho VKSND ở một số địa phương còn chưa kịp

thời, dẫn đến VKSND có kiến nghị, phản ảnh. Một số Tòa án có số lượng vụ án tạm

đình chỉ việc giải quyết quá lớn, thậm chí có một số trường hợp Tòa án ra quyết

định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không đủ căn cứ theo quy định của pháp

91

luật hoặc sau khi tạm đình chỉ chưa chủ động theo dõi, đôn đốc để tiếp tục giải

quyết lại vụ án khi thời gian tạm đình chỉ đã hết [101].

Tình trạng trên các Thẩm phán hoàn toàn hiểu và biết về quy định của pháp

luật. Tuy nhiên, những hiện tượng này biểu hiện thái độ của Thẩm phán, ý thức của

Thẩm phán trong việc tuân thủ quy định của pháp luật, thậm chí nhiều trường hợp

thuộc trạng thái “xem thường” pháp luật, thiếu nghiêm túc trong chấp hành pháp

luật, áp dụng pháp luật và tuân thủ pháp luật.

Mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận của Thẩm phán đã

được từng bước nâng cao, xong về tuân thủ pháp luật vào việc giải quyết án hành

chính vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém thể hiện trên một số lĩnh vực cụ thể

sau đây:

+ Hạn chế về áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án chưa đúng: Trong quá

trình thụ lý, giải quyết VAHC, do không nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật

có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, một số Tòa án đã áp dụng pháp luật

không đúng nên các quyết định tại bản án không có căn cứ pháp luật.

Ví dụ: Sau khi kiểm tra quyết toán thuế của doanh nghiệp; Chi cục thuế

thành phố Q thuộc tỉnh B (gọi tắt là Chi cục thuế) đã lập biên bản kiểm tra việc chấp

hành pháp luật thuế đối với doanh nghiệp. Tại biên bản này Chi cục thuế đã phát

hiện trong năm doanh nghiệp Đ đã kê khai các khoản chi phí thực tế không hợp lý,

không phát sinh như tiền lương 6.035.000đ; nguyên vật liệu sản xuất 33.412.730đ;

khai báo doanh thu không đầy đủ thiếu 271.306đ.

Căn cứ vào Biên bản nói trên, Chi cục trưởng Chi cục thuế ký Quyết định số

342/QĐ-CCT về việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp Đ như

sau: "Truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp" (viết tắt là thuế thu nhập doanh nghiệp)

năm 2004 với số tiền: 11.121.330đ; phạt 1,5 lần tiền thuế thu nhập doanh nghiệp

năm 2004: 16.682.000đ; tổng số tiền truy thu và phạt là: 27.803.330đ.

Không đồng ý với quyết định trên, doanh nghiệp Đ đã khiếu nại và khởi kiện

VAHC tại Tòa án. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 29-9-2011,

TAND thành phố Q, tỉnh B đã xét xử: Bác yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp Đ

yêu cầu hủy Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2011 của Chi cục trưởng Chi

cục thuế.

92

Ngày 02-10-2011, doanh nghiệp Đ kháng cáo. Tại Bản án hành chính phúc

thẩm số 03 ngày 15-5-2012, TAND tỉnh B đã xét xử: Chấp nhận kháng cáo của

người khởi kiện; sửa án sơ thẩm; hủy toàn bộ Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-

6-2011 của Chi cục trưởng Chi cục thuế; buộc Chi cục thuế trả lại cho doanh nghiệp

Đ số tiền đã thu theo Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2011 là 27.803.330đ.

Tòa án cấp phúc thẩm xét xử hủy quyết định trên vì cho rằng tại điểm b

khoản 3 Điều 36 Pháp lệnh xử lý VPHC quy định Chi cục trưởng Chi cục thuế chỉ

có thẩm quyền phạt tiền đến 10.000.000đ, nhưng tại quyết định lại xử phạt đến

16.682.000đ là không đúng thẩm quyền. Tại điểm b khoản 3 Điều 36 Pháp lệnh xử

lý VPHC quy định thẩm quyền xử lý VPHC của cơ quan thuế như sau: Trừ trường

hợp luật có quy định khác về mức phạt; Chi cục trưởng Chi cục thuế có quyền phạt

tiền đến 10.000.000đ.

Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử đã không chú ý đến cụm từ Trừ trường hợp

luật có quy định khác về mức phạt của Điều luật này. Việc Tòa án cấp phúc thẩm

nhận định như trên là không đúng, vì thẩm quyền xử phạt của Cơ quan thuế trong

trường hợp này được quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Tại khoản 3 Điều 23 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định việc xử lý vi

phạm về thuế đối với đối tượng nộp thuế như sau: Khai man, trốn thuế thì ngoài

việc phải nộp đủ số thuế theo quy định của Luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm, còn bị phạt tiền từ một đến năm lần số thuế gian lận.

Tại khoản 1 Điều 24 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thẩm quyền

của cơ quan thuế trong việc xử lý vi phạm về thuế như sau: Thủ trưởng cơ quan

thuế trực tiếp quản lý thu thuế được quyền xử lý đối với các vi phạm của đối tượng

nộp thuế quy định tại khoản 1 khoản 2 và phạt tiền từ một đến năm lần số tiền gian

lận theo quy định tại khoản 3 Điều 23 của Luật này.

Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, việc Chi cục trưởng

Chi cục thuế có quyền xử phạt từ một đến năm lần số tiền mà doanh nghiệp khai

man, trốn thuế và số tiền đó có thể lớn hơn nhiều lần số tiền 10.000.000đ, tùy thuộc

vào số tiền trốn lậu thuế. Do vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ án sơ thẩm

và hủy Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2005 của Chi cục trưởng Chi cục

thuế là không đúng quy định của pháp luật.

93

+ Áp dụng pháp luật xử phạt VPHC để giải quyết vụ án không đúng:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết VAHC, một số Thẩm phán của TAND các

cấp áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án

không đúng. Do vậy, khi xét xử, đưa ra các quyết định tại bản án không có căn cứ

pháp luật.

Ví dụ: Trong quá trình kiểm tra chấp hành pháp luật thương mại, Đội quản lý

thị trường số 5A thuộc Chi cục quản lý thị trường thành phố H đã phát hiện Doanh

nghiệp tư nhân thương mại K có dấu hiệu VPHC trong lĩnh vực thương mại, thuế

và kế toán. Vì chưa đủ cơ sở để xác định hành vi VPHC của Doanh nghiệp tư nhân

thương mại K (gọi tắt là Doanh nghiệp K), nên ngày 10/9/2011 Đội quản lý thị

trường số 5A đã lập biên bản chấp hành pháp luật thương mại đối với Doanh nghiệp

K. Việc lập biên bản này phù hợp với quy định tại mục 2 điểm I Quyết định số

424/QĐ-BTM ngày 11/4/2003 về việc ban hành mẫu ấn chỉ và quy định về quản lý,

sử dụng mẫu ấn chỉ quản lý thị trường: Khi tiến hành kiểm tra dù tổ chức hay cá

nhân bị kiểm tra có vi phạm hoặc không vi phạm, người được giao thực hiện nhiệm

vụ kiểm tra đều phải lập biên bản kiểm tra (trừ trường hợp phát hiện VPHC quả

tang hoặc đã đủ chứng cứ kết luận đối tượng có hành vi VPHC thì không lập biên

bản kiểm tra mà lập ngay biên bản VPHC).

Do nghi ngờ có dấu hiệu vi phạm về hình sự, nên Chi cục quản lý thị trường

thành phố H đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công

an thành phố H. Sau khi, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H có quyết

định không khởi tố vụ án hình sự theo Công văn đề nghị của Chi cục quản lý thị

trường thành phố H.

Ngày 6/1/2005, Đội trưởng Đội quản lý thị trường số 5A thuộc Chi cục quản

lý thị trường thành phố H, đã lập biên bản VPHC đối với Doanh nghiệp K về các

hành vi VPHC. Việc Đội quản lý thị trường số 5A lập biên bản VPHC ngày

06/01/2012 đối với Doanh nghiệp K là đúng quy định của pháp luật

Căn cứ biên bản VPHC trên, Chủ tịch UBND thành phố H đã ban hành

Quyết định số 446/QĐ-UB ngày 31/01/2012 về việc xử lý VPHC đối với Doanh

nghiệp K. Chủ Doanh nghiệp K đã khiếu nại quyết định trên. Không đồng ý quyết

94

định của Chủ tịch UBND thành phố H, Doanh nghiệp K đã khởi kiện VAHC yêu

cầu hủy các Quyết định số 446/QĐ-UB.

Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định hủy Quyết định số 446/QĐ-UB ngày

31/1/2012 của Chủ tịch UBND thành phố H với lý do: Đã quá thời hiệu xử phạt

VPHC theo quy định tại Điều 56 Pháp lệnh xử phạt VPHC (Từ ngày 10/9/2011 đến

ngày 31/01/2012).

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử như trên là không đúng với quy định của pháp

luật, vì những căn cứ sau đây:

Biên bản VPHC lập ngày 06/01/2012 là phù hợp với quy định tại Điều 55

pháp lệnh xử lý VPHC. Việc qui định “lập biên bản VPHC kịp thời” theo quy định

tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý VPHC là muốn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người

có thẩm quyền khi kiểm tra phát hiện có đủ cơ sở để xác định người vi phạm có

hành vi VPHC thì phải lập biên bản VPHC ngay và thực hiện các thủ tục tạm giữ

tang vật, phương tiện VPHC, các tài liệu, sổ sách, chứng từ liên quan làm cơ sở cho

việc xác định hành vi VPHC của người vi phạm để đảm bảo cho việc ra quyết định

xử phạt hành chính và tịch thu tang vật là hàng hóa vi phạm đúng pháp luật.

Biên bản VPHC là cơ sở để người có thẩm quyền căn cứ vào đó xác định

hành vi vi phạm của người vi phạm và ra quyết định xử phạt. Tòa án cấp sơ thẩm

không xem xét Biên bản VPHC lập ngày 06/01/2012 có đúng quy định tại Điều 55

Pháp lệnh xử lý VPHC không mà lại căn cứ vào việc lập biên bản lập biên bản chấp

hành pháp luật thương mại đối với Doanh nghiệp K để hủy Quyết định 446/QĐ-UB

là không đúng.

+ Hạn chế về việc việc áp dụng pháp luật để đưa ra phán quyết không

phù hợp:

Trong quá trình giải quyết VAHC, nhiều Thẩm phán không chú ý trong việc

xem xét tính hợp pháp của QĐHC bị khiếu kiện; khi tuyên án và ra bản án có nhiều

sai sót mà trong một số trường hợp không thể khắc phục được, nên nhiều trường

hợp án bị sửa hoặc bị hủy.

Ví dụ: Do có sự tranh chấp quyền sử dụng đất, UBND huyện T đã ra Quyết

định số 758/QĐ-UB thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P, H, N.

Ông P và ông N có đơn khiếu nại quyết định trên. UBND huyện T đã có các quyết

95

định giải khiếu nại của ông P và ông N. Ông P và ông N đều có đơn khởi kiện

VAHC, yêu cầu Tòa án hủy với Quyết định số 758/QĐ-UB.

Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý 02 VAHC đối với đơn khởi kiện của ông P và

ông N. Đối với trường hợp khởi kiện của ông P: Tại bản án hành chính sơ thẩm số

07, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ nguyên Quyết định số

758/QĐ-UB của UBND huyện T. Đối với trường hợp khởi kiện của ông N: tại bản

án hành chính sơ thẩm số 08, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện; giữ

nguyên Quyết định số 758/QĐ-UB của huyện T.

Tuy nhiên, sau khi ông H khiếu nại, UBND huyện T thấy rằng việc thu hồi

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H là không đúng pháp luật, nên muốn

hủy bỏ một phần của Quyết định số 758/QĐ-UB; nhưng do các bản án hành chính

sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nên UBND huyện T phải khiếu nại theo thủ tục

giám đốc thẩm.

Tại Điều 1 Quyết định số 758/QĐ-UB, UBND huyện T đã quyết định riêng

đối với ông P, ông N và ông H. Ông P và ông N cùng khởi kiện VAHC yêu cầu hủy

Quyết định số 758/QĐ-UB của UBND huyện T đối với phần có liên quan đến

quyền lợi của mỗi người. Lẽ ra, khi giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ đánh giá tính

hợp pháp của phần quyết định có liên quan đến ông P hoặc ông N để có quyết định

đúng pháp luật. Nhưng, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định giữ nguyên quyết định bị

khiếu kiện là không đúng.

+ Áp dụng pháp luật để quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án

không đúng:

Trong quá trình Tòa án đang thụ lý giải quyết VAHC, người bị kiện ra một

QĐHC khác để thu hồi QĐHC đang bị khiếu kiện với lý do căn cứ pháp luật để ra

QĐHC đang bị khiếu kiện không đúng. Trong trường hợp này, có Tòa án đã ra ngay

quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Việc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ

án đối với trường hợp trên của Tòa án là không đúng quy định của pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 143 của luật TTHC năm 2015 quy định: Tòa án quyết định

đình chỉ việc giải quyết VAHC trong các trường hợp sau đây: a) Đương sự là cá

nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã

giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa

96

quyền, nghĩa vụ tố tụng; b) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp

nhận; c) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;

d) Người bị kiện hủy bỏ QĐHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải

quyết về khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi

hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu;…

Đối chiếu với quy định trên, khi người bị kiện đã ra một QĐHC khác thu hồi

QĐHC bị khiếu kiện, lúc này đối tượng bị khiếu kiện không còn, thì có thể xảy ra

các trường hợp cần giải quyết sau đây:

+ Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, thì Tòa án áp dụng điểm b

khoản 1 Điều 143 của luật TTHC ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

+ Trường hợp người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, thì Tòa án tiếp tục

giải quyết vụ án theo thủ tục chung và tùy vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết

định đúng pháp luật.

Ba là: Hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xét xử của Thẩm phán

khi giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Trong thực tiễn xét xử vẫn còn những Thẩm phán nói chung, Thẩm phán

TAND cấp tỉnh nói riêng nhận thức về các quy định của pháp luật chưa đúng, cho

nên còn lúng túng trong giải quyết án, thậm chí giải quyết vụ việc không đúng với

quy định của pháp luật. Những hạn chế về nhận thức pháp luật của những người

tiến hành tố tụng, nhất là Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa được biểu hiện tập trung ở

một số lĩnh vực như: cách hiểu về thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện không

đúng; việc xác định người bị kiện là ai, cá nhân hay tổ chức nhiều khi còn lúng

túng; áp dụng pháp luật nội dung trong một số trường hợp chưa chuẩn xác... Bởi

vậy, tỷ lệ án có kháng cáo, kháng nghị để xét xử theo trình tự phúc thẩm còn nhiều

(70%) so với tổng số án mà TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm. Tỷ lệ án do TAND cấp

tỉnh xử bị cấp phúc thẩm (Tòa cấp cao) sửa và bị hủy còn ở mức độ cao (Sửa là

5,8%; hủy là 11,16 % so với tổng số án mà TAND cấp tỉnh xử sơ thẩm, 20,6 % so

với số án mà TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị). Những hạn

chế, thiếu sót trong xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được thể hiện ở một số

lĩnh vực cụ thể như sau:

97

- Nhận thức về xác định thời hiệu khởi kiện không đúng.

Trong thực tiễn giải quyết án hành chính cho thấy, một số Tòa án còn lúng

túng trong việc nhận thức và áp dụng các quy định của pháp luật về cách tính thời

hiệu khởi kiện nên đã cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết và đã trả lại đơn khởi

kiện, không thụ lý giải quyết đã làm ảnh hưởng tới quyền khởi kiện của đương sự.

Theo Điều 116 Luật TTHC thì thời hiệu khởi kiện VAHC được quy định

như sau: Đối với QĐHC, HVHC, QĐKLBTV là 01 năm, kể từ ngày nhận được

hoặc biết được QĐHC, HVHC, QĐKLBTV; 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết

định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; từ ngày nhận được

thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết

thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết

khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.

Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm

cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại Điểm a

và Điểm b Khoản 2 Điều 116 thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại

khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện cũng đã

được hướng dẫn cụ thể tại Điều 12 Chương II tại Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP

ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và Điều 3 Nghị quyết

56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội như sau:

Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Luật TTHC có hiệu lực, người khiếu nại

đã thực hiện việc khiếu nại QĐHC, HVHC về quản lý đất đai đến Chủ tịch UBND

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu

khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại

không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại TAND

theo quy định của Luật TTHC [35].

Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm

phán TANDTC hướng dẫn: Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC

về quản lý đất đai (nội dung quản lý nhà nước về đất đai) được quy định tại Điều 3

Nghị quyết 56 khi đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

98

Việc khiếu nại liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai nói trên phải gửi đúng

người có thẩm quyền đó là Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì mới xem là

khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết.

Ví dụ: Bà Nguyễn Thị A kiện hành vi cưỡng chế giao đất của Chủ tịch

UBND quận X, hành vi cưỡng chế diễn ra năm 1996, bà A khiếu nại nhiều nơi, gửi

đến Văn phòng Quốc hội và nhiều nơi khác... từ năm 1996. Đến tháng 5 năm 2011,

bà A khởi kiện ra TAND quận X, Tòa cấp sơ thẩm thụ lý vụ án theo Điều 3, Nghị

quyết 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội và bác yêu cầu khởi kiện của

bà A. Bà A kháng cáo, cấp phúc thẩm đã kiểm tra toàn bộ hồ sơ cũng như đề nghị

UBND quận X kiểm tra toàn bộ hồ sơ khiếu nại của bà A xem là bà A có khiếu nại

đến Chủ tịch UBND quận X không, tại phiên tòa bà A cũng cho rằng mình khiếu

nại liên tục từ 1996 đến năm 2011, nhưng không chứng minh được là gửi đơn khiếu

nại đến Chủ tịch UBND quận X. Vì vậy, cấp phúc thẩm đã căn cứ Khoản 3 Điều 4

Nghị quyết 01/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án do không còn thời hiệu

khởi kiện và cũng không thuộc trường hợp Điều 3 Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày

24/11/2010 của Quốc hội.

- Yếu kém về nghiệp vụ trong việc xác định đối tượng khởi kiện trong VAHC

của TAND cấp tỉnh.

Đối tượng khởi kiện VAHC là những QĐHC cá biệt, HVHC… Tuy nhiên,

trong thực tế việc xác định QĐHC, HVHC đó có phải là đối tượng khởi kiện hay

không? Tòa án có thụ lý giải quyết hay không? Nhiều trường hợp Tòa án có nhận

thức chưa thống nhất để xác định rằng có thụ lý hay không. Trong trường hợp thỏa

mãn các điều kiện về đối tượng khởi kiện thì Tòa án phải thụ lý giải quyết theo thủ

tục chung.

Theo Điều 30 Luật TTHC quy định các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tòa án, trong đó “Khiếu kiện QĐHC, HVHC, trừ các QĐHC, HVHC

thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao

theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của

cơ quan, tổ chức”. Theo quy định này thì những quyết định sau đây không phải là

đối tượng KKHC:

99

+ Quyết định mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Ví dụ: Văn bản

của Phòng Tài nguyên môi trường quận trả lời quyết định thu thập chứng cứ

của Tòa án thì văn bản của Phòng Tài nguyên quận không phải là đối tượng

khởi kiện của VAHC.

+ Quyết định hành chính nằm trong danh mục các QĐHC, HVHC thuộc

phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo

Nghị định số 49/2012/NĐ-CP ngày 04/6/2012 của Chính phủ.

+ Quyết định thu hồi đất tổng thể hoặc phê duyệt phương án bồi thường, giải

phóng mặt bằng không có danh sách kèm theo hoặc không có văn bản quy định chi

tiết đối với từng hộ, cá nhân có ảnh hưởng quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự. Trong

trường hợp quyết định thu đất mang tính tổng thể nhưng có danh sách kèm theo

hoặc có bản quy định chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, qua đó

xác định được cụ thể quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình

như thế nào thì họ có quyền khởi kiện VAHC đối với phần xác định cụ thể đó.

Ví dụ: Quyết định phê duyệt phương án bồi thường đối với khu đất thuộc xã

A, huyện B. Quyết định này không nêu rõ cá nhân, hộ nào bị ảnh hưởng thì quyết

định phê duyệt này không phải là đối tượng khởi kiện. Nhưng cũng quyết định đó

có kèm theo danh sách từng hộ gia đình, cá nhân, thì quyết định phê duyệt phương

án là đối tượng khởi kiện VAHC.

- Lúng túng về việc xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về TAND cấp

huyện, hay cấp tỉnh:

Theo Điều 31,32 của Luật TTHC năm 2015 thì TAND cấp huyện có thẩm

quyền xét xử sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc

của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thuộc cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở

xuống trên cùng địa giới hành chính với TAND cấp huyện đó.

+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm

các bản án, quyết định của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm; giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện QĐHC, HVHC, quyết

định kỷ luật buộc thôi việc của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thuộc cơ

quan, tổ chức, người có thẩm quyền thuộc cơ quan, tổ chức cấp tỉnh trên cùng địa

100

giới hành chính với TNND cấp tỉnh đó; các khiếu kiện, QĐHC, HVHC, quyết định

kỷ luật buộc thôi việc của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thuộc cơ quan, tổ

chức trung ương, người có thẩm quyền thuộc các cơ quan này mà người khởi kiện

cư trú, làm việc hoặc có trụ sở trên cùng địa giới hành chính với Tòa án đó; các

khiếu kiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền của TAND cấp

huyện mà TAND cấp tỉnh lấy lên giải quyết. Tòa cấp cao thuộc TANDTC có thẩm

quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh

bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Như vậy, thẩm quyền giải quyết của TAND cấp quận huyện, tỉnh thành trong

TTHC khác với Tố tụng dân sự. Cụ thể trong Tố tụng dân sự, một trong những căn

cứ phân biệt thẩm quyền của cấp quận, huyện, tỉnh thành đó là yếu tố nước ngoài;

nhưng trong TTHC căn cứ để phân biệt thẩm quyền cấp huyện, hay cấp tỉnh là căn

cứ vào đối tượng khởi kiện và thẩm quyền ban hành QĐHC bị khởi kiện chứ không

căn cứ vào vụ án có yếu tố nước ngoài hay không.

Sau khi Luật TTHC có hiệu lực, THC cũng đã nhận nhiều VAHC của nhiều

Tòa án cấp huyện chuyển vụ án đến TAND Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết

theo thẩm quyền với lý do người khởi kiện định cư ở nước ngoài. Trong khi đó,

những vụ án này đối tượng KKHC là các quyết định do cơ quan cấp quận, huyện

ban hành. THC đã căn cứ Điều 31, Điều 32 Luật TTHC chuyển hồ sơ về lại với lý

do vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.

- Hạn chế về xác định thẩm phạm vi quyền phán quyết vụ án theo quy định

của pháp luật

Nhiều trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên không đúng thẩm

quyền hoặc vượt quá thẩm quyền của HĐXX quy định tại Điều 163 Luật TTHC.

Theo Điều 163 Luật TTHC năm 2011 và Điều 193 Luật TTHC năm 2015

thì HĐXX sơ thẩm có thẩm quyền bác yêu cầu của người khởi kiện; chấp nhận một

phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện. Như vậy, bản án phải thể hiện được

nội dung HĐXX xem xét đánh giá toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện, không bỏ

sót yêu cầu cũng như không được xét xử vượt quá yêu cầu của họ. Chẳng hạn tại

TAND Thành phố Hồ Chí Minh, THC nhận 08 hồ sơ hành chính bị VKSND Thành

101

phố Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm do bản án đã tuyên vượt quá

yêu cầu khởi kiện của đương sự, chưa xét đến yêu cầu đương sự.

Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện bà Phan Thị Thu K trình bày: Năm

2001 UBND huyện N thu hồi của bà diện tích đất 11.206m2 thuộc các thửa 133,

134, 135, 136, 137 và 138 tờ bản đồ số 01 xã P, huyện N để giao cho Công an

Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng trong quá trình đền bù và hỗ trợ thiệt hại, UBND

huyện N đã thực hiện sai các quy định của pháp luật, thực hiện không đúng

phương án đền bù giải tỏa như đã cam kết, xâm hại đến quyền lợi của bà, nên bà

khởi kiện yêu cầu:

+ Ủy ban nhân dân huyện N thực hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo

đúng quy định pháp luật.

+ Phải bố trí cho bà một nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo đúng

phương án thỏa thuận trước khi thu hồi đất.

+ Hủy bỏ Thông báo số 72/TB-UBND ngày 07/5/2009 và Công văn số

332/CV-BT ngày 15/10/2007 của UBND huyện N và Ban Bồi thường giải phóng

mặt bằng huyện N.

Tòa án nhân dân huyện N đã tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện

của bà Phan Thị Thu K đòi hủy bỏ Biên bản hiệp thương đền bù ngày 06/9/2001

của UBND huyện N và yêu cầu UBND huyện N thực hiện lại trình tự, thủ tục thu

hồi đất.

Trong VAHC này, bà K có 3 yêu cầu cụ thể là buộc UBND huyện N thực

hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo đúng quy định pháp luật; bố trí cho bà một

nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo đúng phương án thỏa thuận trước khi thu

hồi đất. Hủy bỏ Thông báo số 72/TB-UBND ngày 07/5/2009 và Công văn số

332/CV-BT ngày 15/10/2007 của UBND huyện N và Ban Bồi thường giải phóng

mặt bằng huyện N. Bà K không yêu cầu hủy biên bản hiệp thương nhưng Tòa án

huyện N lại tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K về việc hủy biên

bản hiệp thương là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, bên cạnh đó cũng

chưa xem xét đến các yêu cầu khởi kiện của đương sự là vi phạm tố tụng nghiêm

trọng, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, buộc phải hủy 8 vụ án nói trên.

102

- Hạn chế về việc xác định người bị kiện là cá nhân hay tổ chức.

Theo Khoản 7 Điều 3 Luật TTHC, Điều 2 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP

ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn vấn đề này như

sau: Để xác định người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức thì

phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó.

Trường hợp có nhiều luật cùng quy định thẩm quyền ra QĐHC hoặc thực hiện

HVHC về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định thẩm quyền của người bị kiện khi

nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào luật chuyên ngành.

Ví dụ 1: Căn cứ vào Điều 38 Luật Xử lý VPHC được Quốc hội thông qua

ngày 20/6/2012 thì thẩm quyền xử phạt hành chính là Chủ tịch UBND quận huyện.

Do đó, người bị kiện trong quyết định xử phạt hành chính phải là Chủ tịch UBND

quận huyện. Căn cứ vào Điều 44 Luật Đất đai quy định thẩm quyền ban hành quyết

định thu hồi đất là UBND cấp huyện, do đó người bị kiện trong VAHC khiếu kiện

quyết định thu hồi đất phải là UBND cấp huyện.

Một vấn đề nữa cũng cần phải được hiểu rõ trong việc xác định người bị kiện

có phải là người được ủy quyền ban hành quyết định hay người có thẩm quyền ban

hành quyết định: Theo quy định của Điều 54 Luật Xử lý VPHC được Quốc hội

thông qua ngày 20/6/2012 thì người có thẩm quyền xử phạt VPHC có thể giao

quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt VPHC. Tuy nhiên, việc giao

quyền này phải bằng văn bản quy định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.

Như vậy, trong trường hợp này, người có thẩm quyền ban hành quyết định là người

ủy quyền chứ không phải là người được ủy quyền và người bị kiện trong VAHC

phải là người đã ủy quyền cho cấp dưới ban hành quyết định đó.

Ví dụ 2: Chủ tịch UBND quận T có văn bản ủy quyền nội bộ cho phó chủ

tịch ký các quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Ngày

01/3/2014, Phó Chủ tịch UBND quận T ban hành quyết định xử phạt hành chính

trong lĩnh vực xây dựng đối với chủ hộ của căn nhà số 10/1 đường N quận T. Như

vậy, mặc dù Phó Chủ tịch được ủy quyền ký quyết định, nhưng khi xác định người

bị kiện trong VAHC này phải là người mà Luật quy định có thẩm quyền ban hành

xử phạt, đó là Chủ tịch UBND quận T chứ không thể xác định người bị kiện là ông

Phó Chủ tịch UBND quận.

103

- Sai về yêu cầu của đương sự được tái định cư không phải là đối tượng

khởi kiện trong vụ án khiếu kiện quyết định bồi thường hỗ trợ tái định cư.

Người khởi kiện là ông Lê Văn N khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số

51/QĐ-UBND Ngày 19/7/2007 của UBND tỉnh X về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt

hại cho hộ ông có nhà đất bị giải tỏa trong dự án đầu tư xây dựng tuyến đường nối

từ đường Nguyễn Văn Linh đến cầu Phú Mỹ, đề nghị được xem xét giao hai nền tái

định cư.

Cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án, bác yêu cầu khởi kiện của ông N, riêng đối với

yêu cầu được tái định cư thì nhận định như sau: “xét thấy yêu cầu về việc tái định cư

không phải là đối tượng khiếu kiện VAHC theo quy định pháp luật, nên HĐXX

không xét vì vậy đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu bố trí tái định cư của ông N…”.

Từ đó phần quyết định của bản án sơ thẩm đã quyết định: “Đình chỉ giải quyết đối

với yêu cầu bố trí tái định cư của ông N…”.

Vấn đề cần quan tâm là: Yêu cầu được tái định cư nằm trong yêu cầu hủy

quyết định về bồi thường hỗ trợ tái định cư, không thể tách rời, cấp sơ thẩm nhận

định yêu cầu về việc tái định cư… không phải là đối tượng khiếu kiện VAHC và

đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu bố trí tái định cư của ông N là không đúng.

Trong trường hợp này cần phải xem xét yêu cầu tái định cư của đương sự trong bản

án có cơ sở hay không có cơ sở, từ đó chấp nhận hay bác yêu cầu này của đương sự

chứ không đình chỉ giải quyết.

- Hạn chế về kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Nhìn chung kỹ năng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh cơ bản đã có

những bước chuyển biến tích cực. Việc nhận diện đương sự, đối tượng xét xử, cách

thức, trình tự, các bước tiến hành thực hiện thủ tục tố tụng của Thẩm phán đã đảm

bảo chính xác hơn. Tuy nhiên, trong thực tiễn nhiều Thẩm phán còn lúng túng về kỹ

năng giải quyết án hành chính. Sự lúng túng của Thẩm phán được bắt nguồn từ

nhiều nguồn khác nhau, bên cạnh yếu tố về chuyên môn nghiệp vụ, đòi hỏi Thẩm

phán cần phải có “tố chất” về phương pháp giải quyết án, có kiến thức, hiểu biết tối

thiểu về QLHCNN. Trong khi QLHCNN lại vô cùng rộng lớn, nhiều tầng nấc, thứ

bậc, nhiều văn bản của các chủ thể khác nhau có liên quan.

104

Về cơ bản khi giải quyết án hành chính, đòi hỏi Thẩm phán cần phải thực

hiện nhiều kỹ năng khác nhau phù hợp với từng giai đoạn của quá trình giải quyết

án. Chẳng hạn: khi tiếp nhận đơn và hồ sơ khởi kiện, một số Thẩm phán chưa có kỹ

năng nhận diện chính xác về điều kiện của người khởi kiện, của đối tượng khởi

kiện… Trên thực tế, việc xác định một văn bản có phải là QĐHC hay không, có

phải là đối tượng khởi kiện VAHC hay không là không đơn giản, còn gặp khó khăn.

Bởi vì, các tiêu chí đặc trưng của QĐHC (như: tính quyền lực công, sự tác động

trực tiếp của QĐHC đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân) đủ “tư

cách” trở thành đối tượng khởi kiện phải trong quy định của pháp luật cũng khó có

khả năng làm rõ cho từng loại quan hệ hành chính cụ thể và chỉ đưa ra được những

tiêu chí cơ bản, đặc trưng chung của QĐHC cá biệt. Do vậy nhiều trường hợp Tòa

án không nhận đơn khởi kiện, cho rằng đối tượng khởi kiện không đúng hoặc trả lại

đơn kiện làm ảnh hưởng tới quyền khởi kiện (quyền được bảo vệ) của đương sự tại

Tòa án.

Kỹ năng đánh giá điều kiện thụ lý vụ án hành chính của một số Thẩm phán

còn thiếu chính xác. Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, để xác định có thụ

lý VAHC được hay không thì Thẩm phán phải căn cứ vào bốn yếu tố cơ bản đó là:

(1) Chủ thể khởi kiện, chỉ hợp pháp khi họ có thỏa mãn các điều kiện về chủ thể;

Thời hiệu khởi kiện VAHC phải đảm bảo; Thủ tục khởi kiện phải được tuân theo

đúng quy định của Luật TTHC; (2) Thẩm quyền giải quyết VAHC phải được xác

định rõ Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết; (3) vụ việc chưa được giải quyết bằng

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền (Tòa án

hoặc cơ quan hành chính có thẩm quyền); (4) Người khởi kiện phải hoàn thành

nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí. Tuy nhiên, Điều lúng túng nhất là kỹ năng của Thẩm

phán trong việc xác định thời hiệu khởi kiện còn hay hết. Quan trọng nhất của cách

tính thời hiệu là thời điểm bắt đầu tính thời hiệu. Nhiều Tòa án còn nhầm lẫn

phương pháp tính.

Chẳng hạn, UBND tỉnh A có quyết định giao đất cho Công ty X vào ngày

01/5/2016, đến ngày 01/9/2017 Công ty X tiến hành thi công, cũng ngày này Công

ty Y (liền kề bên cạnh) cho rằng việc giao đất của UBND tỉnh A đã giao chồng lấn

sang một phần diện tích đất của Công ty Y, công ty Y đã khởi kiện yêu cầu TAND

105

tỉnh A hủy quyết định giao đất cho Công ty X. Sau khi nhận đơn khởi kiện và hồ sơ

đính kèm, TAND tỉnh A trả lại đơn khởi kiện cho Công ty Y với lý do là đã hết thời

hiệu khởi kiện (Quyết định giao đất ngày 01/5/2016 mà đến ngày 01/9/2017 công ty

Y mới khởi kiện, đã hết một năm, thời hiệu khởi kiện VAHC). Trong trường hợp

này, kỹ năng xác định thời hiệu khởi kiện VAHC của TAND tỉnh A là không đúng

với quy định của Luật TTHC. Mặc dù quyết định giao đất cho công ty X đã hơn

một năm, nhưng công ty Y mới biết quyết định này ở thời điểm công ty X thi công

(tức ngày 01/9/2017) thì thời hiệu khởi kiện VAHC của công ty Y phải tính thời

điểm bắt đầu của thời hiệu là ngày 01/9/2017 trở đi, chứ không phái ngày 01/5/2016

(ngày ban hành quyết định giao đất cho công ty X). Như vậy, kỹ năng xác định thời

hiệu của Thẩm phán trong trường hợp này là không bảo đảm theo quy định của

pháp luật, làm ảnh hưởng tới quyền khởi kiện của công ty Y.

Kỹ năng quản lý và điều hành phiên tòa của Thẩm phán nhiều khi chưa thực

sự “chuyên nghiệp”, còn nặng về áp đặt, quy chụp. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là

người có trách nhiệm cao nhất đối với công tác điều hành phiên tòa, đại diện cao

nhất cho quyền lực nhà nước trong quá trình xét xử. Bảo đảm tranh tụng là một

trong những yêu cầu quan trọng của cải cách tư pháp và của Hiến pháp năm 2013.

Về nguyên tắc việc tranh tụng phải được bảo đảm trong suốt quá trình xét xử chứ

không chỉ tại phiên tòa. Trong thực tế nhiều Thẩm phán không hiểu hết nội hàm của

“tranh tụng” là để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.

Tranh tụng trong xét xử phải được thực hiện từ tranh tụng về điều kiện thụ lý vụ án;

về điều kiện đưa vụ án ra xét xử; tranh tụng tại phiên tòa. Tiếp đến để đảm bảo chất

lượng tranh tụng, Thẩm phán phải xác định các nội dung cần tranh tụng, điều hành

tranh tụng và bảo đảm rằng các bên đương sự phải nêu quan điểm, lập luận của

mình trong từng vấn đề đã được xác định. Một vấn đề quan trọng khác là để tranh

tụng thực sự dân chủ, công bằng, khách quan thì các tài liệu, chứng cứ trong vụ án

phái được minh bạch, công khai, các bên đều có quyền và đều được tiếp cận như

nhau. Một số Tòa án hiểu rất phiến diện rằng tranh tụng chỉ được thực hiện tại phiên

tòa là không đúng. Mặt khác, kỹ năng điều hành phiên tranh tụng của Thẩm phán

nhiều khi không chuẩn mực, thường can thiệp sâu, hướng tới bên có lợi thế.

106

Một thiếu sót trong thực tiễn hiện nay của nhiều Tòa án là không tạo điều

kiện để người đại diện theo ủy quyền, người khởi kiện có cơ hội tranh luận với

người có thẩm quyền ban hành quyết định hoặc có HVHC bị khiếu kiện hoặc ít nhất

là người nắm rõ về việc quản lý, điều hành lĩnh vực liên quan đến khiếu kiện của

đương sự để làm rõ bản chất vụ việc.

Kỹ năng soạn thảo văn bản TTHC của TAND cấp tỉnh vẫn còn nhiều sai sót

cần phải được chấn chỉnh nhằm đảm bảo chuẩn mực cả về nội dung và hình thức

văn bản theo quy định. Thực chất các văn bản TTHC do Tòa án, Thẩm phán soạn

thảo và ban hành nhưng mang ý chí, tính quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh

quyền lực nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước, các đối tượng bị tác động bởi

các văn bản tố tụng đều phải có nghĩa vụ chấp hành, nếu không tự giác sẽ bị cưỡng

chế tư pháp. Đồng thời văn bản tố tụng của Tòa án mang tính pháp lý cao, làm phát

sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quan hệ pháp luật. Văn bản TTHC mang tính đặc

thù nghiệp vụ. Bởi vậy, đòi hỏi Thẩm phán phải có kỹ năng cần thiết để soạn thảo

các loại văn bản TTHC, đặc biệt là bản án, quyết định của Tòa án.

Bản án, quyết định của Tòa án là sản phẩm của cả một chuỗi hoạt động tố

tụng của những người tiến hành tố tụng. Quyết định những vấn đề liên quan đến

quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tranh chấp. Nội dung bản án thể hiện

kỹ năng đánh giá, sử dụng chức cứ; kỹ năng áp dụng pháp luật; phản ánh trình độ

nhận thức về chính trị - pháp lý, văn hóa - xã hội, nhất là trình độ nhận về lĩnh vực

QLHCNN của chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy những thiếu sót trong bản

án, quyết định của Tòa án thể hiện ở những vấn đề sau:

Việc nhận xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ bảo đảm tính logic chưa cao;

thường hay trùng lặp giữa phần nhận thấy với phần xét thấy của HĐXX; một số

Thẩm phán chưa xác định được những vấn đề, những tình tiết, chứng cứ có tính

chất “cốt lõi - nền tảng” để khai thác, nhấn mạnh trong lập luận để giải bảo đảm tính

thuyết phục. Cá biệt, có những bản án hành chính còn sử dụng ngôn ngữ không phù

hợp với văn phong hành chính, sai sót về dữ kiện, số liệu, thời gian, không gian, các

thông tin về đương sự, thậm chí áp dụng pháp luật không đúng (hoặc quy định đó

đã được thay thế hoặc quy định đó không điều chỉnh quan hệ đang tranh chấp…),

nên phải đính chính bản án. Có những bản án, quyết định của HĐXX tuyên không

107

cụ thể, rõ ràng nên trong quá trình thực hiện rất khó khăn, vướng mắc. Cơ quan

THADS, đương sự phải yêu cầu giải thích án tạo tâm lý căng thẳng cho cả người thi

hành công vụ và các đương sự, hao tốn thời gian, vật chất không đáng có cho nhà

nước và xã hội.

Bốn là: Tỷ lệ số lượng bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh bị sửa, hủy vẫn

ở mức độ cao

Kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh (kể cả xét xử sơ thẩm và xét

xử phúc thẩm của TAND cấp tỉnh) khi có kháng cáo, kháng nghị mà bị sửa, nhất là

bị hủy án là điều “tối kỵ” đối với Thẩm phán nói riêng và Tòa án nói chung. Nhất là

bị sửa hoặc bị hủy án do lỗi chủ quan của Thẩm phán, điều này phản ánh ở mức độ

cao của chất lượng xét xử. TAND Tối cao, không phải là không có lý khi đặt ra

những chỉ tiêu cụ thể đối với hoạt động xét xử của từng Thẩm phán trong năm. Một

mặt vừa để lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của từng cá nhân Thẩm phán, đề cao trách

nhiệm, kỹ năng, kỹ thuật giải quyết án hành chính. Mặt khác, lấy đó làm chỉ tiêu thi

đua hàng năm và cũng là tiêu chí đánh giá chất lượng xét xử của Thẩm phán trong

năm và trong cả nhiệm kỳ Thẩm phán.

Theo quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án

nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017

của Chánh án TANDTC) thì chỉ tiêu xét xử hàng năm của Thẩm phán phải giải

quyết xong 80% số lượng án được giao. Trong đó chỉ được phép số án bị sửa

không quá 03%, số án bị hủy không được vượt quá 1,16% số lượng án xét xử

trong năm [108]. Trường hợp vi phạm một trong ba chỉ tiêu nêu trên thì năm đó

Thẩm phán không được xem xét, bình xét thi đua. Đồng thời khi đến thời hạn tái

bổ nhiệm phải được xem xét, kiểm điểm cẩn trọng. Nói cách khác, không thỏa

mãn tiêu chí tái bổ nhiệm Thẩm phán. Trường hợp số lượng án bị sửa, bị hủy

nhiều do lỗi chủ quan thì Thẩm phán đó phải chấm rứt xét xử, luân chuyển đảm

đương nhiệm vụ khác (không được làm nhiệm vụ xét xử nữa) vì năng lực xét xử

không đạt yêu cầu. Gần đây, TANDTC đã ban hành bản Quy tắc đạo đức người

Thẩm phán với các tiêu chí, quy chuẩn cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ

Thẩm phán nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả xét xử nói chung, trong đó có

xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

108

Theo số liệu thống kê kết quả xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh trong

bẩy năm (từ năm 2011 đến năm 2017) cho thấy, tỷ lệ án có kháng cáo, kháng nghị

là 60,7% (1.427 vụ/2.349 vụ); tỷ lệ án xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh bị TAND

cấp cao xét xử phúc thẩm xử y án là 76,5% (1.092 vụ/1.427 vụ); tỷ lệ án Tòa cấp

cao sửa án là 9,74% (139 vụ/1.427 vụ); tỷ lệ án bị hủy là 14,4% (206 vụ/1.427 vụ).

Như vậy, tỷ lệ án mà TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm bị hủy bình quân hàng năm là

khá cao [101]; [102]; [104]; [105]; [106]; [107]; [109]. Trong đó chủ yếu bị hủy do

lỗi chủ quan của Thẩm phán.

Nguyên nhân hủy án sơ thẩm được tập trung ở một số lỗi cơ bản là: do vi

phạm nghiêm trọng quy định của Luật TTHC (đình chỉ việc giải quyết vụ án không

đúng; xác định sai về thời hiệu khởi kiện VAHC; xác định đối tượng khởi kiện

không đúng; xét xử không đúng thẩm quyền; xác định sai người bị kiện…). Hoặc

do lỗi áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết vụ án không chính xác (áp dụng sai

căn cứ pháp lý; đánh giá tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, QĐKLBTV không

chuẩn xác…). Cá biệt có những Thẩm phán cũng không phân biệt được thế nào là

QĐHC cá biệt, thế nào là QĐHC quy phạm. Hoặc còn nhầm lẫn giữa QĐHC với

HVHC, không nhận diện được QĐHC.

Chẳng hạn: ông A bị thu hồi đất để nhà nước làm đường giao thông. Sau khi

nhận được quyết định thu hồi ông A không đồng ý và đã khiếu nại đến chủ tịch

UBND huyện X. Sau khi nhận được đơn khiếu nại, Chủ tịch UBND huyện X đã

ban hành công văn trả lời đơn ông A là không chấp nhận nội dung khiếu nại, do

khiếu nại không có căn cứ để giải quyết, giữ nguyên quyết định thu hồi đất đối với

ông A. Sau đó ông A khởi kiện VAHC tới TAND tỉnh Y. TAND tỉnh Y trả lại đơn

khởi kiện VAHC cho ông A, với lý do công văn trả lời đơn của UBND huyện X

không phải là QĐHC cá biệt cho nên không thuộc đối tượng khởi kiện. Trong

trường hợp này, TAND tỉnh Y hiểu sơ cứng và không đúng về QĐHC. Tại khoản 1,

Điều 1 Nghị quyết số 02/2011 của TANDTC đã hướng dẫn cụ thể về QĐHC: bằng

văn bản không lệ thuộc vào hình thức văn bản chỉ cần một điều kiện rằng: văn bản

đó có nội dung quyết định thì được xác định đó là QĐHC cá biệt và nó thuộc đối

tượng khởi kiện VAHC.

Việc hủy án sơ thẩm để xét xử lại là cần thiết trong TTHC. Trong quá trình

thụ lý, giải quyết VAHC, một số Thẩm phán của TAND các cấp do không nghiên

109

cứu kỹ các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do vậy,

khi xét xử, đưa ra các quyết định tại bản án không có căn cứ pháp luật.

Ví dụ: Ngày 01/3/2012, UBND tỉnh L ban hành Quyết định số 231/QĐ-UB

thu hồi diện tích đất 89,4m2 do ông T đang sử dụng với lý do là đất công thuộc

quyền quản lý của Nhà nước; nhưng không quy định hoặc gia hạn ngày nào ông T

phải giao lại đất và Nhà nước tổ chức thu hồi đất.

Không đồng ý với nội dung quyết định, ông T đã khiếu nại và khởi kiện

VAHC đối với quyết định trên. TAND tỉnh L đã thụ lý giải quyết vụ án. Ngày

17/12/2012, đại diện các cơ quan chức năng tại địa phương đã lập biên bản VPHC

đối với ông T với lý do ông T không thực hiện quyết định thu hồi đất nói trên. Căn

cứ biên bản VPHC này, Chủ tịch UBND thành phố L thuộc tỉnh L ban hành Quyết

định số 11/QĐ-XPHC ngày 10/01/2013 xử phạt VPHC trong lĩnh vực quản lý, sử

dụng đất đai đối với ông T, với lý do ông T đã có hành vi kéo dài thời hạn chấp

hành Quyết định thu hồi đất số 231/QĐ-UB ngày 01-2-2007 của UBND tỉnh L, vi

phạm quy định tại Điều 19 Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của

Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai (Nội dung Điều 19 quy định:

Phạt tiền từ 500.000đ đến 3.000.000đ đối với hành vi cố ý trốn tránh, chây ì không

trả lại đất đúng thời hạn trả lại đất theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền mà phương án bồi thường đã được thực hiện theo quy định

của pháp luật).

Ông T tiếp tục khiếu nại và khởi kiện VAHC đối với quyết định xử phạt

VPHC nói trên tại TAND thành phố L, tỉnh L. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp

phúc thẩm khi xét xử đã bác yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên quyết định xử phạt

VPHC số 11/QĐ-XPHC ngày 10/1/2013 của Chủ tịch UBND thành phố L, là

không có căn cứ pháp luật, bởi lẽ:

Tại Quyết định thu hồi đất số 231/QĐ-UB ngày 01/3/2012 của UBND tỉnh L

đã không ấn định thời gian ông T phải giao trả đất bị thu hồi hoặc tổ chức thu hồi

đất. Mặt khác, quyết định thu hồi đất, ông T đang khiếu nại và UBND tỉnh chưa giải

quyết khiếu nại, nên chưa đủ căn cứ để cho rằng diện tích đất bị thu hồi thuộc quyền

quản lý của Nhà nước hay thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông T và cũng không

đủ căn cứ để cho rằng, ông T đã có hành vi kéo dài thời hạn chấp hành Quyết định

110

thu hồi đất, vi phạm quy định tại Điều 19 Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày

29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai.

Do đó, việc Chủ tịch UBND thành phố L áp dụng quy định tại Điều 19 Nghị

định 182/2004/NĐ-CP ban hành Quyết định số 11/QĐ-XPHC ngày 10/1/2005 xử

phạt VPHC đối với ông T là không đúng pháp luật; khi xét xử, Tòa án lại giữ

nguyên quyết định này là không có căn cứ pháp luật. Cho nên, bản án đã bị hủy để

xét xử lại.

3.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

* Nhóm nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất: Nguyên nhân về đạo đức nghề nghiệp

Những hạn chế, yếu kém trong quá trình giải quyết án hành chính của TAND

cấp tỉnh hiện nay, một trong những nguyên nhân là phẩm chất đạo đức của một bộ

phận Thẩm phán, thư ký tòa án chưa thực sự chuẩn mực. Một mặt, bị tác động bởi

cơ chế thị trường, ảnh hưởng của lợi ích (bao gồm cả lợi ích vật chất, lợi ích chính

trị) dẫn đến quá trình giải quyết một số VAHC chưa thực sự vô tư, khách quan theo

hướng mang lại lợi thế cho phía cơ quan công quyền, cho cán bộ, công chức nhà

nước. Phía tổ chức và công dân (người khởi kiện) thường ở trong hoàn cảnh “yếu

thế” trong phán quyết của tòa án. Mặt khác, do lợi ích chính trị, tổ chức nên còn e

ngại đối với các cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN

nên dẫn đến vừa đùn đẩy, né tránh xét xử án hành chính, vừa “câu giờ” xem thái độ,

vừa đưa ra phán quyết có lợi cho người bị kiện.

Năm 2017, TANDTC đã xây dựng Quy chế kiểm tra trong TAND, quy định

xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND. Tập trung kiểm tra

những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực như: chấp hành pháp luật về tuyển dụng, điều

động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái cán bộ, công chức; việc công khai minh

bạch tài chính; tinh thần thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức. Thông

qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện rút kinh nghiệm những thiếu sót trong hoạt động

quản lý, điều hành của TAND cấp tỉnh. Trong năm 2017, thông qua công tác thanh

tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã xử lý kỷ luật 18 công chức thuộc

TAND địa phương (trong đó, buộc thôi việc 02 trường hợp, hạ bậc lương 01 trường

hợp, cảnh cáo 06 trường hợp, khiển trách 08 trường hợp, xử lý về hình sự 01 trường

111

hợp). Ngoài ra, các Tòa án địa phương quyết định kỷ luật hình thức khiển trách đối

với 17 cán bộ, công chức, người lao động có vi phạm chính sách dân số, kế hoạch

hóa gia đình [101].

Thứ hai: Về nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người

tiến hành tố tụng hành chính

Xét xử các VAHC là một trong những hoạt động khá mới đối với Tòa án.

Mặt khác, hoạt động quản lý HCNN rất rộng, đa dạng, bao trùm hầu hết các lĩnh

vực trong đời sống xã hội. Theo đó, pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hành chính

rất nhiều và phong phú. Để giải quyết được thấu đáo các tranh chấp hành chính đòi

hỏi Thẩm phán phải có kiến thức sâu về pháp luật, kiến thức rộng trên nhiều lĩnh

vực khác nhau: kinh tế, văn hóa - xã hội, phong tục tập quán…Đặc biệt là kiến thức

về QLHCNN. So với yêu cầu Thẩm phán TAND cấp tỉnh nói chung vẫn chưa đáp

ứng được yêu cầu.

Những người tham gia giải quyết các VAHC của TAND cấp tỉnh về kiến

thức QLHCNN vẫn còn những hạn chế, hầu chưa được đào tạo một cách cơ bản về

kiến thức QLHCNN, thực tiễn quản lý hành chính học cũng chưa được trải qua.

Như vậy về lý thuyết QLHCNN cũng chưa được đào tạo, về thực tế họ cũng chưa

được trải nghiệm, vậy mà bổn phận của họ lại phải đưa ra phán quyết đúng - sai về

lĩnh vực đó. Công tác bồi dưỡng cơ bản và cần thiết về QLHCNN cũng chưa thực

sự được coi trọng. Một số cán bộ chưa nắm vững và không kịp thời cập nhật các

quy định của pháp luật về QLHCNN cũng như quy phạm điều chỉnh hoạt động xét

xử VAHC. Trong công tác chuyên môn còn vi phạm điều kiện khởi kiện và thụ lý

VAHC. Đường lối giải quyết không đúng khiến cho một số vụ án bị kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm.

Trong quá trình thụ lý, giải quyết các VAHC, một số thẩm phán có những

sai sót trong việc nghiên cứu, áp dụng pháp luật không đúng hoặc năng lực, trình độ

chuyên môn còn bị hạn chế… Ngoài ra, khi giải quyết các VAHC, bản lĩnh nghề

nghiệp của thẩm phán chưa cao, còn bị áp lực liên quan đến mối quan hệ với người

có thẩm quyền ban hành QĐHC hoặc cơ quan hành chính bị khiếu kiện. Bên cạnh

đó, còn có những thẩm phán có tâm lý ngại va chạm nên chất lượng xét xử cũng

112

còn có những hạn chế, thậm chí có đưa ra xét xử thì phán quyết không đúng với quy

định của pháp luật. Trong xét xử các VAHC, có một số trường hợp do ngại đụng

chạm với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền cùng cấp, nên khi xem xét

và thụ lý đơn khởi kiện VAHC của cá nhân, tổ chức, một số người có thẩm quyền

xem xét thụ lý đơn khởi kiện còn đưa ra những lý do không đúng pháp luật để từ

chối việc thụ lý vụ án.

Năng lực những người tiến hành tố tụng như: Thẩm phán, Kiểm sát viên,

HTND từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, trình độ năng lực của một bộ phận đội

ngũ những người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên, HTND

chưa đáp ứng được yêu cầu, không hiểu đúng, không cập nhật kịp thời các văn bản

và hướng dẫn thi hành pháp luật, trong khi các quan hệ pháp luật hành chính ngày

càng phức tạp; một bộ phận đội ngũ thẩm phán còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nên

ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các VAHC trên thực tế. Ngoài ra, nhiều thẩm

phán bị áp lực về tâm lý lo ngại án bị hủy, sửa nên thiếu sự chủ động, chậm đổi mới

về kỹ năng xét xử, gây bức xúc cho các đương sự hoặc giải quyết không đúng,

không đầy đủ, vượt quá yêu cầu của đương sự, dẫn đến bị hủy án hoặc sửa án.

Thứ ba: Nguyên nhân về tinh thần trách nhiệm thực thi công vụ

Lãnh đạo một số TAND cấp tỉnh chưa phát huy đầy đủ tinh thần trách

nhiệm, tính chủ động trong triển khai các nhiệm vụ; năng lực quản lý và điều hành

trong công tác còn hạn chế, lề lối làm việc, thủ tục hành chính - tư pháp tại các

Tòa mặc dù có đổi mới nhưng còn chậm so với yêu cầu. Vẫn còn một số Thẩm

phán, công chức Tòa án còn thụ động, thậm chí ngại xét xử hành chính (vì án

hành chính vừa phức tạp, lại vừa đụng chạm đến nhiều vấn đề nhậy cảm), còn có

biểu hiện đùn đẩy, né tránh hoặc “câu giờ” trong quá trình xét xử VAHC sơ thẩm

và phúc thẩm. ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương công vụ chưa nghiêm, tinh thần

trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt nên hiệu quả công tác chưa đáp

ứng được yêu cầu đề ra.

Công tác tập huấn chuyên sâu đối với một số quy định của LTTHC phục vụ

cho hoạt động tố tụng chưa được quan tâm đúng mức, có những nội dung mới chưa

được cập nhật và hướng dẫn kịp thời nên chưa đảm bảo việc vận dụng các quy định

của LTTHC được thống nhất và mang lại kết quả cao.

113

Công tác phối hợp trong hoạt động tố tụng còn nhiều hạn chế, chưa có quy

định cụ thể nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn trong công tác

phối hợp cũng như chế tài khi cán bộ các cơ quan chuyên môn không tham gia công

tác phối hợp; đặc biệt vấn đề phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài

chính và các cơ quan hữu quan trong việc thẩm định, định giá tài sản, cung cấp

thông tin, tài liệu, chứng cứ chưa được đầy đủ, kịp thời, thậm chí có trường hợp

không cung cấp thông tin cho Tòa án khi đã có yêu cầu. Công tác tuyên truyền quy

định của LTTHC trong nhân dân còn chưa thường xuyên nên sự hiểu biết và nhận

thức của người dân trong việc tuân thủ quy định của LTTHC còn hạn chế.

Nhận thức pháp luật của một số đương sự, kể cả phía người bị kiện (thường

là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cán bộ, công chức) còn nhiều vấn đề cần

phải được bổ sung, nên trong nhiều trường hợp đương sự cố tình né tránh, đối phó,

thậm chí chống đối bằng nhiều hình thức như: gây khó khăn trong việc cung cấp lời

khai, chứng cứ, không đến Tòa theo giấy triệu tập, khiếu nại kéo dài,… cũng làm

ảnh hưởng đến thời hạn và chất lượng giải quyết vụ án của TAND cấp tỉnh.

Thứ tư: Về kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp của Thẩm phán và những người

tiến hành tố tụng còn hạn chế

Việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và HTND độc lập chỉ tuân theo pháp

luật chưa thực sự được bảo đảm. Có thể thấy, đây không còn là một nguyên tắc xa

lạ đối với hoạt động tố tụng và phải được bảo đảm thực hiện nghiêm túc trong thực

tiễn. Nhưng hiện nay cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này vẫn có vấn đề. Luật

chưa quy định hành vi nào là hành vi vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của

HĐXX, các chế tài xử lý đối với người có hành vi vi phạm và cơ chế pháp lý bảo

đảm địa vị pháp lý của thẩm phán và Hội thẩm nhằm bảo đảm cho các chủ thể này

độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử, đặc biệt là đối với án hành

chính - một loại án có tính chất đặc thù liên quan đến một bên tranh chấp luôn là cơ

quan nhà nước (cơ quan mang quyền lực hành chính công). Một số quy định của

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 còn khó thi hành trong thực tiễn, nhưng

chậm được nghiên cứu, hướng dẫn.

114

Thứ năm: Phán quyết của Tòa án chưa thuyết phục nên niềm tin của tổ chức

và công dân vào việc giải quyết bằng con đường Tòa án chưa cao

Lượng án hành chính hàng năm so với các loại án khác (hình sự, dân sự) là

chưa nhiều. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, xong chủ yếu bởi phán quyết

của một số bản án chưa thuyết phục, đa số “phần thắng” thuộc về người bị kiện

(công quyền). Trong thực tế việc giải quyết án hành chính của TAND là khá lâu,

chậm về thời gian do án hành chính vừa khó, vừa phức tạp, đụng chạm, liên quan

đến nhiều ngành, liên quan đến quyền lực cho nên tâm lý Thẩm phán rất “ngại” thụ

lý, giải quyết án hành chính. Hoặc được phân công Thẩm phán luôn tìm mọi cách

để “câu giờ” nhất là khi các chứng cứ chống lại người bị kiện. Việc ngại xét xử án

hành chính của Thẩm phán cũng bởi cơ chế chính trị - tổ chức hiện nay đang là lực

cản khá lớn đối với sự “vô tư - tự tin” trong xét xử. Mặt khác, việc thu thập chứng

cứ của đương sự và cả Tòa án ở các ngành có liên quan chức năng chưa thực sự

thuận lợi (mặc dù theo luật định thuộc về nghĩa vụ của các cơ quan này khi có yêu

cầu của đương sự hay Tòa án). Chính vì vậy, niềm tin của dân chúng, của tổ chức ở

nơi Tòa án bị giảm sút, nhất là khi phải “kiện quan”. Trong khi đó khiếu nại hành

chính lại có số lượng không nhỏ hàng năm.

* Nhóm nguyên nhân khách quan

Một là: Về hệ thống pháp luật liên quan đến xét xử các vụ án hành chính:

Quy định của LTTHC và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn những vấn đề

chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Có những quy định chưa đáp ứng thực tế; chưa phù

hợp hoặc không còn phù hợp, thiếu rõ ràng, chưa chi tiết, cụ thể, thậm chí có xung

đột nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời, nên còn có những

cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự. Một số vấn đề phát sinh mới chưa được bổ sung vào LTTHC và

chưa được hướng dẫn kịp thời. Các điều luật quy định có tính chất bổ trợ trong hoạt

động tố tụng như cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, giám định, thẩm định,

định giá… chưa mang tính xã hội hóa còn ràng buộc trách nhiệm cho Tòa án.

Một số quy định của Luật TTHC vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa rõ gây

khó khăn cho việc áp dụng của TA. Khái niệm “QĐHC” được giải thích tại khoản 1

Điều 3 Luật TTHC được xác định “QĐHC là văn bản do cơ quan hành chính nhà

115

nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức

đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính

được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”. Như vậy, QĐHC

được xác định là văn bản có thể được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc hình

thức khác có nội dung quyết định về một vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, chưa nêu được

những tiêu chí đặc trưng để xác định văn bản nào là QĐHC là đối tượng khởi kiện

của VAHC, văn bản nào không phải QĐHC và không thuộc đối tượng khởi kiện

của VAHC là một vấn đề hết sức phức tạp. Mặt khác, những QĐHC, HVHC của cơ

quan, tổ chức khác là những tổ chức nào khi thỏa mãn những điều kiện gì để trở

thành đối tượng khởi kiện của VAHC. Bởi vì, những cơ quan, tổ chức khác thường

họ không có chức năng QLHCNN. Bởi vậy, cần phải được hướng dẫn cụ thể, có

những tiêu chí cụ thể, rõ ràng để quá trình giải quyết Tòa án đỡ gặp khó khăn,

vướng mắc trong việc xác định văn bản là đối tượng khởi kiện VAHC khi xem xét,

quyết định việc thụ lý VAHC.

Về QĐHC, HVHC mang tính chất nội bộ của cơ quan, tổ chức. Theo quy

định tại khoản 4 Điều 3 Luật TTHC 2010: “QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ

quan, tổ chức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động

thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó”. Theo quy định

của Luật Khiếu nại 2011 tại khoản 1 Điều 11 thì “QĐHC, HVHC trong nội bộ cơ

quan nhà nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ, QĐHC, HVHC

trong chỉ đạo, điều hành của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính

cấp dưới”. Như vậy, cùng là khái niệm QĐHC, HVHC nội bộ nhưng, tại hai văn

bản pháp luật khác nhau thì nội hàm đã có sự khác nhau và đối tượng là QĐHC,

HVHC nội bộ theo quy định của Luật Khiếu nại rộng hơn so với Luật TTHC,

không chỉ giới hạn trong phạm vi một cơ quan tổ chức mà mở rộng hơn còn có

trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp trên với cấp dưới.

Hai là: Về cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án:

Nguyên tắc xét xử của TAND nói chung, bên cạnh việc nhiệm vụ góp phần bảo vệ

nền công lý, bảo vệ pháp luật, đảm bảo sự công bằng xã hội, thì TAND còn có chức

năng góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương thông qua hoạt động xét

xử của mình. Bởi vậy, vai trò của cấp ủy địa phương khá quan trọng trong việc

116

cùng tham gia sử dụng cán bộ, nhất là đội ngũ Thẩm phán, lãnh đạo TAND. Khi bổ

nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán hoặc chức danh lãnh đạo TAND không thể không

có ý kiến của cấp ủy địa phương (Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy). Thậm chí có

những cấp ủy có ý kiến bằng văn bản về việc không đồng ý sử dụng Thẩm phán

hoặc lãnh đạo Tòa án trên địa bàn và đề nghị TANDTC luân chuyển. Những cơ chế

đó không thể không tác động đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Trong khi, người bị kiện trong VAHC mà Tòa xét xử lại chủ yếu thuộc hệ thống các

cơ quan, cán bộ, công chức của địa phương đó.

Về việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo

pháp luật. Có thể thấy, đây không còn là một nguyên tắc xa lạ được quy định phải

bảo đảm thực hiện trong quá trình thực hiện hoạt động tố tụng. Nhưng hiện nay

trong quy định của pháp luật vẫn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này.

Luật chưa quy định hành vi nào là hành vi vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của

HĐXX, các chế tài xử lý đối với người có hành vi vi phạm và cơ chế pháp lý bảo

đảm địa vị pháp lý của thẩm phán và Hội thẩm nhằm bảo đảm cho các chủ thể này

độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử, đặc biệt là đối với án hành

chính - một loại án có tính chất đặc thù liên quan đến một bên tranh chấp luôn là cơ

quan nhà nước (cơ quan mang quyền lực hành chính công).

Ba là: Về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho họa động xét xử

của TAND cấp tỉnh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc. Những năm gần đây,

mặc dù Nhà nước cũng đã có những quan tâm đầu tư vất chất, phương tiện làm việc

cho ngành Tòa án nói chung, trong đó có TAND cấp tỉnh nhưng vẫn chưa đáp ứng

được yêu cầu. Không gian làm việc cho một Thẩm phán còn chật hẹp, thiếu phương

tiện thiết yếu phục vụ cho tác nghiệp. Công nghệ thông tin còn lạc hậu, cần truy cập

những thông tin, tài liệu, chứng cứ của các ngành khác như: Tài nguyên, môi

trường, Thuế, tài chính, Ngân hàng, kho bạc… để phục vụ cho việc giải quyết án rất

khó khăn, vướng mắc. Trụ sở làm việc của TAND cấp tỉnh chưa được đầu tư thỏa

đáng, chưa xứng tầm với một cơ quan “pháp đình”, thậm chí chỉ tương đương hoặc

không bằng một sở, ban, ngành của UBND cùng cấp, nhất là các địa phương vùng

sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế khó khăn. Chế độ đãi ngộ, thu nhập của Thẩm

phán, công chức Tòa án còn thấp so với các ngành khác thuộc UBND.

117

Tiểu kết chương 3

Thực trạng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh nói riêng và của TAND

nói chung trong những năm qua với sự nỗ lực trong phương diện hoàn thiện hệ

thống pháp luật và sự cố gắng của đội ngũ công chức trong ngành Tòa án, nhất là

đội ngũ Thẩm phán trực tiếp tham gia xét xử các VAHC đã thu được những kết quả

đáng ghi nhận. Mặc dù án hành chính là một trong những loại án mà ngành Tòa án

mới được tiếp cận và cũng là loại khá phức tạp, đa dạng, nhất là người bị kiện luôn

luôn “mang trong mình” quyền lực công. Bên cạnh những kết quả đạt được, chất

lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh với tư cách vừa xét xử sơ thẩm, vừa

xét xử phúc thẩm các VAHC vẫn còn những vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên

cứu, rút kinh nghiệm cả trên phương diện thể chế pháp lý và phương diện tổ chức

thực hiện giải quyết án trong thực tiễn.

Việc đánh giá đúng, đầy đủ, chính xác được những kết quả, những hạn chế

yếu kém, nhất là xác định được những nguyên nhân của những yếu kém, tồn tại cả

lý luận pháp lý lẫn thực tiễn thì mới có cơ sở để xác định được những bất cập, từ đó

đưa ra những quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm từng bước khắc phục những hạn

chế, yếu kém trong việc giải quyết án hành chính hiện nay.. Với những số liệu

thống kê, tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy, luận án đã phác họa bức tranh khá rõ

và trung thực về thực trạng về chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh ở

nước ta hiện nay. Bên cạnh những ưu điểm, những cố gắng của các cấp, các ngành

và nhất là của ngành TAND cấp tỉnh, luận án đã cố gắng làm rõ được những bất cập

từ góc độ pháp Luật, từ cơ chế, chính sách, phẩm chất đạo đức, về chuyên môn

nghiệp vụ, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật… ảnh hưởng tới chất lượng xét xử

các VAHC của TAND cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay mà chúng ta cần phải có

những giải pháp hữu hiệu để khắc phục, để góp phần nâng cao chất lượng xét xử

các VAHC ở nước ta hiện nay.

118

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ

CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH

CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

4.1.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng là một nhân tố quyết định trong việc tăng

cường năng lực, hiệu quả, chất lượng xét xử của Tòa án nói chung, của THC nói

riêng. Điều này đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị quán

triệt, chỉ rõ trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ

rõ: “Nhìn chung sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của Nhà nước đối với công

tác tư pháp còn hạn chế, chưa có cơ chế cụ thể để chỉ đạo sự phối hợp hoạt động

của các cơ quan tư pháp”.

Trên thực tế một số cấp ủy, tổ chức đảng ở địa phương vẫn chưa nhận thức

đầy đủ và quan tâm đúng mức đến công tác tăng cường năng lực, hiệu quả, chất

lượng xét xử của Tòa án nói chung, của THC nói riêng. Có cấp ủy Đảng còn can

thiệp quá sâu vào hoạt động chuyên môn của Tòa án, vi phạm nguyên tắc pháp chế,

nguyên tắc độc lập xét xử. Một số địa phương cấp ủy Đảng coi nhẹ vai trò của Tòa

án trong việc giải quyết KKHC, buông lỏng lãnh đạo, ít có sự hỗ trợ cho Tòa án

trong công tác này. Tòa án không được sự quan tâm đúng mức và tạo điều kiện về

cơ sở vật chất và sự hỗ trợ cần thiết của các cấp, các ngành ở địa phương. Thực tiễn

giải quyết các VAHC trong thời gian qua cho thấy nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm

đúng mức đến công tác xét xử, các cơ quan hành chính nhà nước có sự cầu thị thì ở

đó việc giải quyết các VAHC của Tòa án rất thuận lợi, đạt chất lượng cao và hiệu

quả của công tác QLHCNN cũng được nâng lên rõ rệt.

Ở một số địa phương, còn có những quan điểm cho rằng, tăng cường lực

lượng lãnh đạo cho Tòa án là có thể đưa cán bộ ngành khác hoặc bố trí “cấp ủy

viên” ở ngành khác được hiểu là đủ tiêu chuẩn sang để bổ nhiệm làm Thẩm phán

119

hoặc làm lãnh đạo Tòa án mà không chú ý đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn lực

trong ngành Tòa án. Cá biệt có những địa phương, cấp ủy vẫn còn có sự can thiệp

khá sâu vào công việc xét xử của Tòa án nói chung và đặc biệt là cho ý kiến về

quan điểm giải quyết án hành chính nói riêng. Bởi vì, án hành chính thường có liên

quan trực tiếp tới hoạt động của UBND cùng cấp, trong khi cấp ủy chỉ lãnh đạo, chỉ

đạo UBND và đồng chí phó bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch UBND.

Đối với quan hệ giữa Tòa án với cấp ủy Đảng cũng có một số tồn tại: có Tòa

án còn ỷ lại vào cấp ủy, sợ trách nhiệm, việc gì cũng xin ý kiến cấp ủy, ngại đấu

tranh không thực hiện đúng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ngược

lại cũng có một số Tòa án chưa biết dựa vào sự lãnh đạo, sự hỗ trợ cần thiết của cấp

ủy Đảng trong việc giải quyết những vụ việc phức tạp, ảnh hưởng lớn đến tình hình

chính trị ở địa phương.

Những sai lệch trên đây ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng xét xử

các loại án nói chung, các VAHC nói riêng. Vì vậy, cần phải nghiêm túc rút kinh

nghiệm, khắc phục những lệch lạc, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác của ngành Tòa án, nhất là đối với hoạt động xét xử các VAHC, đụng chạm đến

quyền lực công thì vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng là vô cùng quan trọng. Các

cấp ủy đảng, trên cơ sở quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước để lãnh đạo,

chỉ đạo một cách đúng đắn các “xung đột” giữa Tòa án và chính quyền địa phương.

Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm

nâng cao năng lực xét xử của Tòa án. Song để đạt được mục đích đó cần có một cơ

chế đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Về

vấn đề này, chúng ta cần trở lại những nguyên lý về phương pháp và hình thức lãnh

đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề

ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm

tra việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà

nước; quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và cán bộ, giới thiệu những

cán bộ có phẩm chất, đạo đức tốt, có năng lực, trình độ để bầu vào các chức danh

chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức quần chúng

v.v.. Đối với các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ

120

Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm

công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ:

Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ,

bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà

nước. Tiếp tục hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công

tác tư pháp, khắc phục tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy can thiệp

không đúng vào hoạt động tư pháp [5].

Để thực hiện đúng sự chỉ đạo trên đây của Bộ Chính trị và để nâng cao năng

lực xét xử của Tòa án nói chung, của THC nói riêng, sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng,

theo tác giả, cần tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Cấp ủy Đảng cần làm cho cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành ở địa

phương quán triệt những quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật. Giáo

dục cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân thực hiện pháp luật, hiểu được vị

trí, vai trò của Tòa án trong bộ máy nhà nước và trách nhiệm phối hợp trong

hành động.

- Thông qua tổ chức Đảng của cơ quan Tòa án để quán triệt các chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên trong ngành Tòa án. Xây

dựng các tổ chức Đảng vững mạnh trong ngành Tòa án, thường xuyên kiểm tra các

đảng viên làm việc trong ngành Tòa án.

- Đề ra chủ trương, giải pháp và chỉ đạo sự phối hợp công tác của các cơ

quan tư pháp và các cơ quan bổ trợ tư pháp.

- Đối với những VAHC có tính chất trọng điểm, phức tạp, có ảnh hưởng đến

tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương, trên cơ sở ý kiến đề xuất

của các cơ quan tham mưu trong khối nội chính, cấp ủy Đảng cho ý kiến chỉ đạo về

mục tiêu, yêu cầu phải đạt được khi xét xử vụ án, chứ không nên có ý kiến chỉ đạo

cụ thể về đường lối giải quyết vụ án.

- Về cơ cấu chính trị, Chánh án TAND cấp tỉnh phải là Ủy viên Ban thường

vụ tỉnh ủy của Đảng bộ cấp tỉnh và có thêm một đồng chí phó chánh án TAND

cấp tỉnh là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh. Như vậy mới tương xứng

với vị thế của cấu trúc quyền lực Nhà nước khi Hiến pháp năm 2013 đã xác định

cụ thể “Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp”, đề cao được vai trò chính trị

121

của TAND cấp tỉnh tương xứng với tư cách là một “nhánh quyền lực nhà nước” ở

địa phương.

Đối với Tòa án phải nhận thức rõ trách nhiệm làm tham mưu cho cấp ủy,

chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về mặt đường lối, chính sách nói chung, phải nêu

cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động xét xử của mình, chỉ nên báo cáo xin ý

kiến chỉ đạo của cấp ủy Đảng về những vấn đề, những vụ án trọng điểm, phức tạp

mà lãnh đạo Tòa án xét thấy việc giải quyết có ảnh hưởng đến tình hình chính trị,

trật tự an toàn xã hội của địa phương.

4.1.2. Bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý

Giải quyết KKHC là một cơ chế pháp lý cần thiết và không thể thiếu trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Chúng ta đang xây dựng Nhà

nước pháp quyền mà ở đó điều kiện tiên quyết là tính tối thượng của pháp luật phải

được bảo đảm. Với tinh thần thượng tôn pháp luật của toàn xã hội, không phân biệt

ai, thuộc giai tầng nào, đẳng cấp nào trong xã hội đều đối xử bình đẳng trước pháp

luật. TAND với vai trò là cơ quan “cầm cân, nẩy mực”, được Đảng và Nhà nước

giao phó, nhân dân tin cậy, không có tư cách nào khác ngoài mục tiêu cao nhất là

luôn luôn tuân thủ pháp luật một cách chính xác nhất, khách quan nhất và trung

thực nhất. Giải quyết KKHC vận hành một cách hiệu quả, phát huy vai trò, tác dụng

tích cực trong xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi và góp phần quan trọng trong việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Các KKHC khi được giải quyết khách

quan, hiệu quả sẽ giúp nhanh chóng chấm dứt các tranh chấp hành chính, cơ quan

HCNN có điều kiện để tập trung vào hoạt động quản lý, điều hành, tổ chức tốt hoạt

động dịch vụ công, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Yêu cầu cơ bản của quan điểm này là “sản phẩm” của Tòa án luôn luôn được

kiến tạo trên nền tảng pháp luật, luôn phù hợp với pháp luật, đúng pháp luật trên tất

cả các phương diện: thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật và chấp hành pháp luật.

Các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp hành chính của TAND cấp tỉnh phải

“thấu tình - đạt lý”, có tính thuyết phục cao, phán quyết vô tư, không thiên vị, được

sự đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân và dư luận xã hội. Biểu hiện cụ thể

của chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh được thể hiện ở các tiêu chí:

122

tỷ lệ kháng nghị của VKSND thấp nhất có thể; tỷ lệ kháng cáo của đương sự ở mức

độ chấp nhận được (tỷ lệ này bình quân trong 5 năm gần đây của TAND cấp tỉnh là

66,62% (892 vụ/1339 vụ) đang ở mức cao); tỷ lệ án bị sửa, bị hủy phải đạt chuẩn

dưới 5% tổng số án giải quyết hàng năm (hiện nay tỷ lệ án bị sửa và bị hủy bình

quân chung hàng năm là: 22,03% là ở mức cao. Trong đó tỷ lệ án bị sửa là: 8,3%,

án bị hủy là: 13,7%) [104]; [105]; [106]; [107]; [109].

Với chức năng xem xét, đánh giá tính hợp pháp, tính đích thực của QĐHC,

HVHC của cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc thực hiện chức

năng QLHCNN, thông qua hoạt động giải quyết, chỉ ra những thiếu sót, khiếm

khuyết, thậm chí những lỗi cả về hình thức lẫn nội dung của QĐHC, HVHC của

chủ thể quản lý hành chính sẽ là nhân tố tích cực góp phần giúp cho hoạt động hành

chính được tiến bộ hơn.

4.1.3. Bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh phải gắn với tiến trình cải cách hành chính ở nước ta

Xét về phương diện quyền lực thì quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối

quan hệ “không cân xứng”. Mối quan hệ giữa Nhà nước (nhất là cơ quan hành

chính) và công dân là quan hệ bất bình đẳng, sự phục tùng; không có sự thỏa thuận

mà thiên về quan hệ áp đặt đơn phương. Phương pháp này được gọi là phương pháp

của luật công thuộc khu vực hành chính công. Vì lẽ đó, nguyên lý của luật công là

các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Theo đó, luật

công cần có tính nhân đạo và tiến bộ vì mục tiêu con người. Cũng theo đó, đây là tư

tưởng căn bản để kiểm tra bằng tài phán tính hợp hiến và hợp pháp của các hành vi

hay QĐHC.

Nếu Nhà nước pháp quyền sinh ra trước hết là để bảo đảm, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân thì tài phán hành chính là một biện pháp, một thiết chế cần

thiết trong Nhà nước pháp quyền để góp phần thực hiện điều đó [12]. Do vậy, có

thể nhận định rằng tài phán hành chính hay tư pháp hành chính là dấu hiệu đặc

trưng gắn liền với Nhà nước pháp quyền.

Tòa hành chính nói chung và THC cấp tỉnh nói riêng là công cụ đấu tranh

có hiệu quả trong việc nâng cao trình độ và năng lực quản lý xã hội của các cơ

quan và cán bộ, công chức nhà nước cấp tỉnh. Bằng phán quyết của THC, sự phán

123

xét về tính hợp hiến, hợp pháp của các QĐHC, HVHC là rõ ràng. Có thể coi đó là

những đánh giá, nhận xét, thẩm định chính thức về năng lực, trình độ trong thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong bộ máy nhà nước từ cấp

tỉnh trở xuống.

Đồng thời, với các phán quyết của THC, việc đánh giá năng lực, trình độ

chuyên môn của các cơ quan quản lý nhân sự đối với cán bộ, công chức nhà nước

sẽ có căn cứ rõ ràng hơn. Việc thay thế những cán bộ, công chức nhà nước kém

năng lực, kém trình độ sẽ có tính thuyết phục cao. Đồng thời, đó cũng là biện pháp

nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ, năng lực quản lý của các cơ

quan, cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Thông qua sự phán quyết của

THC cấp tỉnh (sơ thẩm và phúc thẩm) sẽ góp phần tích cực vào quá trình cải cách

bộ máy hành chính ở địa phương, lề lối, tác phong, thói quen, nề nếp tư duy, cách

thức tiếp cận vấn đề sẽ có những bước chuyển biến tích cực.

Sự thiếu vắng xét xử hành chính trong hệ thống TAND chính là một trong

những nguyên nhân làm cho một số cán bộ, công chức nhà nước cảm thấy họ là

người “ban ơn”, “quyền lực là của họ”, chứ không phải là công bộc của dân, phải

chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước dân.

Tác dụng của THC còn được thể hiện ở chỗ nó là công cụ có hiệu lực, không

những có vai trò to lớn trong việc tạo lập và duy trì kỷ cương nghiêm minh trong

hoạt động của bản thân các cơ quan hành chính nhà nước mà còn góp phần quan

trọng vào việc đổi mới và hoàn thiện nền hành chính. Việc QLHCNN, quản lý xã

hội không thể tiến hành một cách trôi chảy, có hiệu quả nếu bản thân nền hành

chính ở vào tình trạng yếu kém. Việc thành lập THC đã góp phần tăng cường cuộc

đấu tranh phòng, chống tha hóa, biến chất trong một số công chức hành chính. Bên

cạnh việc tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức cho đội ngũ công chức hành

chính, cần thiết phải áp dụng các biện pháp khác, trong đó có cơ chế giải quyết

tranh chấp hành chính tại THC.

Với những nội dung trình bày nêu trên cho chúng ta thấy rằng THC là một

trong những công cụ hữu hiệu, có ảnh hưởng, tác dụng to lớn đối với nền hành

chính quốc gia; là một nội dung quan trọng trong điều kiện xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN.

124

Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân. Bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân là một trong những điều kiện và đòi hỏi quan trọng của Nhà nước pháp

quyền XHCN, trong đó giải quyết KKHC tại Tòa án là một trong những công cụ

quan trọng phải được quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Việc nâng cao hiệu quả giải

quyết KKHC phải đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó

hoàn thiện tổ chức và nâng cao vai trò XXHC của TAND là vấn đề cấp thiết. Bên

cạnh đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC, hoàn thiện pháp luật

TTHC phải được thực hiện đồng thời với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy

nhà nước và cải cách nền hành chính nhà nước. Giữa cải cách hành chính nhà nước

với nâng cao hiệu quả giải quyết KKHC có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại

với nhau. Vì vậy, nâng cao hiệu quả giải quyết KKHC cần đặt trong mối quan hệ

với cải cách hành chính nhà nước.

Chúng ta đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trước hết là

các quốc gia thuộc cộng đồng ASEAN. Để hòa nhập một cách có hiệu quả thì tất yếu

phải có một nền hành chính thích ứng, đủ điều kiện đáp ứng các đòi hỏi khách quan

của quá trình hội nhập. Nếu không, tự chúng ta tạo ra những bất trắc, những thất bại

cho chính chúng ta. Để đáp ứng được điều này, một mặt bản thân nền hành chính

không ngừng tự cải cách, tự nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công với tính

năng hội nhập phù hợp. Mặt khác, ngoài chức năng quyền lực kiểm soát quyền lực thì

hoạt động giải quyết các KKHC của Tòa án cũng sẽ có những đóng góp tích cực vào

quá trình cải cách, đổi mới nền hành chính để đáp ứng yêu cầu của bối cảnh hội nhập.

4.1.4. Bảo đảm chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh phải gắn với công cuộc cải cách tư pháp

Tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa

IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ: “Mở

rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các KKHC. Đổi mới mạnh mẽ thủ

tục giải quyết các KKHC tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham

gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước

Tòa án” [7]. Ngày 12/3/2014 Bộ Chính trị khóa XI đã có Kết luận số 92-KL/TW về

việc tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW tiếp tục khẳng định: Nghị quyết

số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

125

2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cần

phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tiếp tục

thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp. Đồng thời, quán

triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trong các Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các quy định mới của Hiến pháp năm

2013 có liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp [8].

Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền của các cơ quan tư pháp đạt một số kết quả bước đầu: Xây dựng xong một số

đề án về đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, xác định rõ mô hình

tổ chức của hệ thống TAND 4 cấp, theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị

hành chính; VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức TAND. Thực hiện

thành công một số nhiệm vụ: Tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện, khắc

phục tình trạng tồn đọng án ở Tòa án cấp tỉnh và tòa cấp cao. Mở rộng thẩm quyền

xét xử của TAND đối với các KKHC; giao TAND thẩm quyền xem xét, quyết định

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc và

cơ sở cai nghiện bắt buộc. Triển khai bước đầu yêu cầu tăng cường tranh tụng tại

phiên tòa. Hệ thống pháp luật về thi hành án được hoàn thiện cơ bản; tổ chức, hoạt

động của Luật TTHC năm 2015 đã tiếp tục thể chế hóa các chủ trương trong Nghị

quyết số 49-NQ/TW về:

Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét,

xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong

quá trình quản lý, tổ chức thi hành pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước

Tòa án [7].

Thông qua các quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét xử các VAHC,

thẩm quyền xử lý VPHC, đặc biệt là thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý VPHC góp

phần tăng cường tính công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền và

lợi ích hợp pháp của người dân.

Các vấn đề lý luận về mô hình tố tụng của nước ta đang được nghiên cứu

chỉnh sửa, bổ sung cho hoàn thiện, pháp luật về TTHC trên thực tế vẫn còn nhiều

vướng mắc, bất cập đang được khắc phục, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng tư

126

pháp nói chung và TTHC nói riêng theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị từng bước được hoàn thiện, việc xác định vị trí, vai trò của Tòa án và các

bên tranh tụng cần thật chính xác hơn; bản chất thừa hành, chấp hành của thi hành

án dân sự trong mối quan hệ với Tòa án được làm rõ dần, khắc phục việc cắt khúc,

biệt lập với hoạt động xét xử của Tòa án. Nâng cao chất lượng xét xử các VAHC

của TAND cấp tỉnh phải được gắn liền với tinh thần cải cách Tư pháp và phải được

thể hiện trên các quan điểm:

Thứ nhất, các mục tiêu, quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư

pháp trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là những chủ trương mang tầm chiến lược và

khá đồng bộ nhưng việc triển khai trên thực tế lại không đồng bộ, cải cách tư pháp

còn chậm và chưa theo kịp so với cải cách lập pháp và cải cách hành chính; những

nhiệm vụ chính, được coi là trọng tâm, đột phá thậm chí còn chưa có bước chuyển

biến đáng kể (như cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, cải cách hệ thống tổ chức Tòa

án, Viện kiểm sát…) dẫn đến lực cản lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ.

Thứ hai, chủ trương cải cách tư pháp là hệ thống các quan điểm, mục tiêu,

định hướng và nhiệm vụ có mối quan hệ chặt chẽ, liên thông với nhau, nếu một

khâu không được thực hiện hoặc thực hiện chậm, không đúng hướng sẽ tác động và

ảnh hưởng tiêu cực đến các khâu, nhiệm vụ khác, do đó đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo

một cách nhất quán, quyết liệt, sự kiểm tra và chấn chỉnh kịp thời của các cấp có

thẩm quyền trong quá trình thực hiện cải cách. Tuy nhiên, công tác này trong thời

gian qua còn chưa hiệu quả, vai trò của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương

của các cấp, các ngành trong một số trường hợp còn mờ nhạt.

Thực tiễn cải cách tư pháp thời gian qua cho thấy, các mục tiêu cải cách có

đạt được hay không đều phụ thuộc vào nhận thức và hành động của chính lực lượng

cán bộ, công chức của toàn ngành, trong đó vai trò tiên phong, trụ cột, dẫn dắt của

thủ trưởng, lãnh đạo từng ngành, từng cơ quan, đơn vị có ý nghĩa then chốt vì chính

họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các hoạt động cải

cách. Chiến lược cải cách tư pháp đã tạo nên vận hội lớn, đã bước đầu khơi dậy

được nội lực nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các cơ quan, cán bộ tư

pháp từ trung ương đến cơ sở. Khi mỗi cán bộ, công chức cảm nhận và tin vào ý

nghĩa, giá trị thiết thực của sự đổi mới đối với người dân, với xã hội, với chính

Ngành Tư pháp và cá nhân mình, họ sẽ thật sự quan tâm, chủ động và sáng tạo

127

trong cách nghĩ, cách làm để thực thi nhiệm vụ dù có nhiều khó khăn đặt ra ban

đầu. Bài học ở đây là cần phải có những chính sách đồng bộ khuyến khích, động

viên về cả tinh thần và vật chất để duy trì được tính tích cực và khả năng tiềm tàng

trong từng cán bộ, công chức của Ngành Tư pháp trong quá trình thực hiện các

nhiệm vụ cải cách.

Thứ ba, triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW cần có trọng tâm,

trọng điểm với sự chỉ đạo tập trung, kịp thời, quyết liệt, dứt điểm và sự phối hợp

chặt chẽ giữa các bộ, ngành. Công cuộc cải cách tư pháp liên quan tới nhiều vấn đề,

nhiều lĩnh vực, nhiều bộ ngành. Xuất phát từ thực tế Việt Nam, với nguồn lực về

con người, về cơ sở vật chất và về thời gian có hạn, mỗi ngành cần lựa chọn một số

vấn đề trọng tâm, trọng điểm cho từng giai đoạn để tập trung tổ chức thực hiện, sau

đó đánh giá, rút kinh nghiệm cho những bước tiếp theo. Sự chỉ đạo phải tập trung,

quyết liệt nhưng đồng thời cũng phải rất mềm dẻo, linh hoạt, trong nhiều trường

hợp phải kiên trì, vận động, thuyết phục.

Tòa án là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của bộ máy nhà nước,

muốn tăng cường hiệu lực Nhà nước cần quan tâm xây dựng ngành Tòa án trong

sạch, vững mạnh, nâng cao được năng lực xét xử. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với ngành Tòa án là đòi hỏi tất yếu khách quan.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Giải pháp về mô hình tổ chức Tòa Hành chính, Tòa án nhân dân

Nghị quyết số 49 đã chỉ rõ: Cải cách tư pháp lấy trọng tâm là cải cách hệ

thống Tòa án; Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc

vào đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc

một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu xét xử

phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án. Tòa Thượng thẩm được tổ chức theo

khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh

nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử

giám đốc thẩm, tái thẩm [7].

Yêu cầu đầu tiên, cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải

đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND đã quy định rõ

“Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Vì vậy, cần xây dựng

128

cơ chế chính trị - pháp lý thật đầy đủ để bảo đảm cho được tính độc lập của Tòa án

(không bị lệ thuộc, không bị giàng buộc) để giảm thiểu tối đa sự can thiệp, áp lực từ

bên ngoài vào hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Yêu cầu thứ hai của cải cách Tòa án là xây dựng mô hình Tòa án một cách

hợp lý, một mặt tạo thuận lợi cho việc thực hiện quyền lực nhà nước nhưng cũng

cần quan tâm đến lợi ích của tổ chức và công dân khi có việc liên quan đến tố tụng

tại tòa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng cơ quan tư pháp phải

“gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” vẫn là bài học vô cùng quý giá trong chiến

lược cải cách tư pháp của chúng ta hiện nay.

Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò tài phán hành chính của TAND liên

quan đến nhiều vấn đề, tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất là đổi mới mô hình tổ chức

hệ thống THC làm sao cho Tòa án có khả năng độc lập tác nghiệp ở mức độ cao

nhất mà không bị chi phối bởi cơ chế hành chính.

Những năm gần đây, có ý kiến đề nghị nghiên cứu việc thiết lập cơ chế tài

phán hành chính thuộc Chính phủ để thay thế cơ chế giải quyết khiếu nại hiện

hành. Cơ quan tài phán hành chính thuộc Chính phủ được tổ chức thành hệ thống

3 cấp: [70].

1. Cơ quan tài phán trung ương: giải quyết các khiếu nại đối với QĐHC,

HVHC của Bộ trưởng và tương đương, của thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ và

tương đương;

2. Ba cơ quan tài phán vùng đặt ở Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí

Minh: giải quyết các khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND cấp

tỉnh, Giám đốc Sở và tương đương;

3. Các cơ quan tài phán khu vực thành lập theo địa bàn từ 3 đến 5 huyện:

giải quyết các khiếu nại đối với QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND cấp huyện,

trưởng phòng của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp xã và cán bộ, công chức

làm việc ở các cơ quan đó.

Cơ quan tài phán hành chính cấp trên không làm nhiệm vụ giải quyết khiếu

nại đã được cơ quan tài phán hành chính cấp dưới giải quyết; khiếu nại hành chính

chỉ được cơ quan tài phán hành chính giải quyết một lần, nếu không đồng ý thì cá

nhân, tổ chức kiện ra Tòa án. Chức năng của cơ quan tài phán hành chính giải quyết

tất cả các khiếu nại hành chính, trừ các khiếu nại hành chính liên quan đến chỉ đạo,

129

điều hành giữa cấp trên với cấp dưới; liên quan đến an ninh, quốc phòng, ngoại

giao. Khi cơ quan tài phán hành chính được thành lập, các cơ quan hành chính nhà

nước không làm nhiệm vụ giải quyết khiếu nại hành chính nữa mà tập trung vào

hoạt động quản lý điều hành. Việc giải quyết khiếu nại do cơ quan tài phán hành

chính giải quyết.

Theo dự thảo Đề án này sẽ tạo ra 4 cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính

với 2 loại "tiền tố tụng" là: (1). Cơ chế giải quyết khiếu nại đối với các QĐHC,

HVHC trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, trong hoạt động chỉ đạo,

điều hành của các cơ quan hành chính; (2). Cơ chế "tự xem xét lại" của cơ quan

hành chính, đây được coi là thủ tục "tiền tố tụng của tài phán hành chính”; (3). Cơ

chế tài phán hành chính, được xem như thủ tục "tiền tố tụng hành chính"; (4). Cơ

chế giải quyết KKHC tại Tòa án.

Chính vì vậy, vấn đề là chúng ta cần tập trung nghiên cứu hoàn thiện mô

hình tổ chức THC. Nhiều công trình khoa học đều thống nhất cần phải đổi mới

tổ chức THC theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.

Tuy nhiên, khi bàn về cơ cấu tổ chức cụ thể của các cấp THC thì có một số ý

kiến như sau:

- Phần nhiều các ý kiến cho rằng cần tổ chức hệ thống THC trong hệ thống

TAND thành 04 cấp: Tòa sơ thẩm khu vực (không phụ thuộc vào đơn vị hành chính

cấp huyện); Tòa phúc thẩm; Tòa thượng thẩm; TANDTC.

- Có ý kiến đề nghị mô hình cơ quan tài phán hành chính tương tự như Tòa án

quân sự để vừa phù hợp với quy định của Hiến pháp (TANDTC là cơ quan xét xử

cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), vừa phù hợp với đặc thù của hoạt

động XXHC với đối tượng xét xử là hoạt động QLHCNN. Cụ thể bao gồm: THC

trung ương (thuộc TANDTC), THC vùng, THC khu vực. THC trung ương xét xử

phúc thẩm những VAHC mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

do THC vùng xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng và giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của THC vùng bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. THC

vùng xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố

tụng (đó là những việc khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh

hiện nay); phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

130

pháp luật của khu vực bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;

giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của THC khu vực bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. THC khu vực

sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng (đó là

những việc khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện hiện nay).

Các quan điểm trên đây đặt ra vấn đề là THC sơ thẩm khu vực thuộc hệ

thống TAND, được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện nhưng

có trong một địa giới cấp tỉnh hay không. THC phúc thẩm (THC vùng) có gắn với

đơn vị hành chính cấp tỉnh hay không. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị chỉ đổi mới

tổ chức và quy định lại thẩm quyền xét xử sơ thẩm KKHC của THC TAND cấp

tỉnh. Luận cứ của quan điểm này cho rằng, việc không thành lập hệ thống Tòa án

hành chính độc lập được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng vì nếu thành lập

thì giờ đây sẽ là hệ thống Tòa án hành chính "ngồi chơi, xơi nước". Tuy nhiên, tổ

chức THC trong TAND theo đơn vị hành chính - lãnh thổ như hiện nay cũng làm

ảnh hưởng đến vai trò của THC. Số lượng án hành chính không nhiều, các Thẩm

phán hành chính ít giải quyết các VAHC mà chủ yếu xét xử các loại án khác như

hình sự, dân sự…. Như vậy, sẽ khó có các Thẩm phán hành chính chuyên nghiệp

thường xuyên giải quyết các VAHC với trình độ chuyên môn cao. Và do đó XXHC

sẽ tiếp tục gặp khó khăn. Vậy thì nên tổ chức lại THC như thế nào? Có nên để các

Tòa án cấp huyện giải quyết các VAHC nữa hay không? Nên tập trung vào Tòa án

nào thì hợp lý? Tựu chung lại có hai phương án về mô hình tổ chức THC:

+ Phương án thứ nhất: Thành lập các THC khu vực (mang tính liên quận,

huyện) đảm nhiệm việc giải quyết các VAHC thay cho Tòa án cấp huyện hiện nay.

Theo mô hình này, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ có một số THC

khu vực mang tính liên quận, huyện. THC khu vực này sẽ xét xử sơ thẩm các

VAHC đối với các QĐHC, HVHC của các cơ quan thuộc các quận, huyện đó.

Trong khi chưa thành lập hệ thống TAND theo mô hình Tòa án khu vực thì riêng

đối với THC có thể thí điểm áp dụng mô hình này, tức là Tòa án hành chính khu

vực liên quận huyện. TAND cấp huyện sẽ không xét xử các VAHC nữa. Trên THC

khu vực sẽ vẫn là TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám

đốc thẩm, tái thẩm như hiện nay. THC khu vực trực thuộc TAND cấp tỉnh và

TANDTC về mặt tổ chức và nhân sự...

131

+ Phương án thứ hai: Không giao thẩm quyền XXHC cho TAND cấp huyện

nữa mà chỉ giao thẩm quyền XXHC sơ thẩm cho TAND cấp tỉnh. Thực tế hiện nay

TAND cấp huyện rất ít giải quyết các VAHC. Theo phương án này thì THC TAND

cấp tỉnh sẽ giải quyết sơ thẩm các KKHC liên quan đến QĐHC, HVHC của các cơ

quan cấp tỉnh và cơ quan cấp huyện tại địa phương cũng như của cơ quan Trung

ương. Như vậy, THC cấp tỉnh sẽ không có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, các

VAHC nữa. Xét xử phúc thẩm các VAHC sẽ thuộc thẩm quyền của các TAND cấp

cao ở các khu vực. Còn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các VAHC thuộc thẩm

quyền THC TANDTC và Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Với giải pháp này, hệ

thống THC sẽ trở nên gọn nhẹ, thẩm quyền XXHC không dàn mỏng và kém hiệu

quả như hiện nay. Và nhất là tính độc lập và tính chuyên sâu của Thẩm phán hành

chính sẽ được bảo đảm.

Tuy nhiên, cả hai phương án đều có điểm hạn chế là THC trong TAND cấp

tỉnh vẫn được tổ chức gắn với đơn vị hành chính cấp tỉnh vì vậy một số Thẩm phán

vẫn có những “e ngại” khi xét xử sơ thẩm các QĐHC, HVHC của cơ quan hành

chính cấp tỉnh. Với mô hình tổ chức THC theo hai phương án này thì vẫn chưa khắc

phục được hạn chế khi giải quyết các VAHC ở TAND cấp tỉnh hiện nay.

Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy hệ thống tổ chức

cơ quan tài phán hành chính thường được tổ chức theo khu vực và được tổ chức

theo cấp xét xử. Ở nước ta, quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tổ chức

hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.

Trên tinh thần đó, nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động giải quyết KKHC của công

dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, theo quan điểm của tác

giả nên tổ chức các THC theo thẩm quyền xét xử trong hệ thống TAND và không

gắn với đơn vị hành chính. Đề xuất này xuất phát từ một số lý do sau đây:

- Tòa án cấp tỉnh hiện nay phụ thuộc nhiều vào cơ quan hành chính cùng cấp

vì vậy ít nhiều có tác động ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử

các VAHC;

- Vì THC trong TAND hiện nay được tổ chức theo địa giới hành chính, số

lượng án hành chính phải giải quyết hàng năm là rất ít nên kinh nghiệm xét xử các

VAHC của các Thẩm phán là không nhiều, việc trau dồi, nắm vững các quy định

132

của pháp luật nội dung cũng như pháp luật tố tụng trong VAHC cũng không được

thường xuyên nên ảnh hưởng đến năng lực, nghiệp vụ của TPHC cũng như chất

lượng xét xử các VAHC;

- Khi tổ chức THC theo thẩm quyền xét xử trong hệ thống TAND, không

phụ thuộc vào đơn vị hành chính thì số lượng các VAHC mà Thẩm phán phải giải

quyết sẽ tăng lên, Thẩm phán sẽ có điều kiện xét xử chuyên trách các VAHC nhiều

hơn do đó trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ sẽ nâng cao hơn, do đó chất lượng giải quyết

các VAHC sẽ được nâng lên.

Theo đó, mô hình tổ chức và thẩm quyền của THC trong hệ thống TAND

bao gồm:

- Tòa hành chính trong TAND sơ thẩm khu vực và được tổ chức ở một hoặc

một số đơn vị hành chính cấp huyện (tùy thuộc vào điều kiện địa lý, số lượng các

vụ án phải giải quyết hàng năm,...). THC trong TAND sơ thẩm khu vực có thẩm

quyền xét xử sơ thẩm tất cả các KKHC thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ thống

Tòa án. Trường hợp TAND sơ thẩm khu vực không thành lập các Tòa chuyên trách,

số lượng án hành chính không quá nhiều thì có thể giao thẩm quyền giải quyết sơ

thẩm tất cả các KKHC thuộc thẩm quyền của Tòa án cho TAND sơ thẩm khu vực

và có các Thẩm phán chuyên trách xét xử các VAHC. Đây sẽ là một bước đổi mới

căn bản việc giải quyết KKHC tại Tòa án. Tòa án sẽ tránh được các phụ thuộc, tác

động từ cơ quan hành chính ở địa phương. Do đó, khi xét xử các VAHC, Thẩm

phán sẽ không có tâm lý “e ngại”, sẽ tăng cường sự độc lập khi giải quyết các

KKHC. Bên cạnh đó, việc quy định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tất cả các

KKHC thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cho Tòa án hành chính trong

TAND sơ thẩm khu vực cũng là một điểm đổi mới cơ bản. Hiện nay, chúng ta đang

quy định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các VAHC của các cấp Tòa án (TAND cấp

huyện và TAND cấp tỉnh) cũng theo trật tự trong quản lý hành chính. Theo đó,

TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các KKHC đối với QĐHC, HVHC của cơ

quan hành chính ở cấp tỉnh trên cùng địa bàn. Như vậy, hiện nay chúng ta đã gắn

thẩm quyền giải quyết các VAHC của Tòa án với trật tự trong quản lý hành chính là

chưa phù hợp. Chính quy định này cũng góp phần dồn việc giải quyết các VAHC

lên các Tòa án cấp trên (TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao), chưa phù hợp với xu

hướng tăng thẩm quyền cho các TAND cấp dưới. Hơn nữa, ngay quy định này cũng

133

vẫn phải giao thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các KKHC đối với QĐHC, HVHC

của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,... cho TAND cấp tỉnh.

Việc quy định thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các KKHC của các cấp Tòa án không

nên áp dụng tương tự như trong QLHCNN. Chính vì vậy, khi đổi mới tổ chức và

hoạt động của THC, nhất là khi thành lập TAND sơ thẩm khu vực thì việc giao

thẩm quyền xét xử sơ thẩm các KKHC không nên gắn với trật tự trong QLHCNN.

Cùng với việc tăng cường cơ sở vật chất, số lượng cũng như năng lực, trình độ của

các Thẩm phán hành chính thì nên giao cho THC trong TAND sơ thẩm khu vực

thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả các KKHC thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ

thống Tòa án. Quy định như vậy, xuất phát từ một số cơ sở sau đây:

+ Sự bất cập trong việc gắn thẩm quyền giải quyết của Tòa án với trật tự

QLHCNN như trên đã trình bày.

+ Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án tới đâu là do luật định, khi luật đã

giao thẩm quyền thì Tòa án có quyền phán xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC

của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính.

+ Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “TAND là cơ quan xét xử của

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [79]. Hệ thống TAND bao gồm TANDTC,

TAND cấp cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự là những cơ quan xét

xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Như vậy, dù Tòa án cấp nào xét xử thì khi

phán quyết, Tòa án đều nhân danh Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, không

phải nhân danh cấp xét xử đó.

+ Theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013, thì “Bản án và quyết

định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn

trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [79]. Như

vậy, dù ở cấp nào xét xử, khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

thì mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành, không phụ

thuộc vào cấp xét xử.

+ Quy định như vậy sẽ tăng cường vị trí, vai trò của THC trong TAND sơ

thẩm khu vực, tránh dồn các KKHC lên Tòa án cấp trên và cũng phù hợp với xu

hướng cải cách tư pháp là tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án cấp dưới.

- Tòa hành chính trong TAND phúc thẩm khu vực và được tổ chức ở một

hoặc một số đơn vị hành chính cấp tỉnh. THC trong TAND phúc thẩm khu vực có

134

nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu là xét xử phúc thẩm các KKHC do THC trong TAND

sơ thẩm khu vực đã xét xử nhưng có kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh đó, THC

trong TAND phúc thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với một số rất ít

các vụ việc. Đó là các vụ việc KKHC phức tạp, nhạy cảm,... thuộc thẩm quyền giải

quyết của THC trong TAND sơ thẩm khu vực nhưng thấy cần thiết nên THC trong

TAND phúc thẩm khu vực lấy lên để giải quyết. TANDTC có hướng dẫn cụ thể

trường hợp này.

- Tòa hành chính trong TAND thượng thẩm (THC trong TAND cấp cao) và

được tổ chức ở Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. THC trong TAND

thượng thẩm (THC trong TAND cấp cao) có thẩm quyền chủ yếu là xét xử giám

đốc thẩm và tái thẩm các KKHC đã được Tòa án cấp dưới xét xử và bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm. Bên cạnh đó, THC trong TAND thượng thẩm (THC trong TAND cấp cao) có

thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với một số ít các vụ việc KKHC đã được THC

trong TAND phúc thẩm khu vực xét xử sơ thẩm. Trường hợp TAND thượng thẩm

(TAND cấp cao) không tổ chức các Tòa chuyên trách thì thẩm quyền của THC

trong TAND thượng thẩm (THC trong TAND cấp cao) được giao cho TAND

thượng thẩm (TAND cấp cao) và có Thẩm phán chuyên trách xét xử các VAHC.

- Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam. TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, nghiên cứu phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm

của các loại án, trong đó có án hành chính.

Theo mô hình này, hệ thống THC ở nước ta sẽ có sự thay đổi cơ bản về tổ

chức và thẩm quyền, trong đó có THC trong TAND sơ thẩm khu vực (nếu thành lập

Tòa chuyên trách), THC trong TAND phúc thẩm khu vực, THC trong TAND

thượng thẩm (THC trong TAND cấp cao) (nếu thành lập Tòa chuyên trách) và

TANDTC (là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).

Từ những ý tưởng và luận điểm khoa học nêu trên về mô hình THC cấp tỉnh,

luận án đề xuất chúng ta nên mạnh dạn làm thí điểm (thử nghiệm) mô hình THC

vùng (một số tỉnh) chuyên xét xử án hành chính, không xét xử các loại án khác.

Trước mắt tổ chức thí điểm ở hai miền (Nam - Bắc) với mô hình hai THC cấp vùng.

Sau đó tổng kết, đánh giá về hiệu quả của mô hình này, về lượng án hành chính, về

135

chất lượng xét xử án hành chính ra sao… Tuy nhiên, cần phải chuẩn bị nhân sự cho

các Tòa này một cách chu đáo, được đào tạo bài bản về kiến thức pháp luật, kỹ năng

xét xử và đặc biệt là được trang bị kiến thức QLHCNN, kỹ năng QLHCNN. Bởi vì,

cho đến nay mặc dù chúng ta vừa sửa Luật Tổ chức Tòa án cơ bản theo mô hình

trước đây, có thay đổi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền xét xử án hành chính giữa

Tòa cấp huyện và cấp tỉnh, nhưng mô hình này vẫn chưa thực sự hiệu quả vì tính

độc lập trong xét xử án hành chính chưa cao. Mặt khác, mô hình tổ chức của hệ

thống chính trị, hệ thống hành chính ở nước ta cũng đã và đang tiến hành các mô

hình tổ chức thí điểm như: các tổ chức đảng, đoàn thể và chính quyền ở Quảng

Ninh hợp nhất tinh giảm đầu mối.

Về việc bổ sung nguồn cho đội ngũ Thẩm phán hành chính hiện nay là đang

với cơ chế “khép kín” cơ bản và chủ yếu sử dụng nguồn trong ngành Tòa án. Thư

ký tòa, Kế toán, Thủ quỹ, Thẩm tra viên của Tòa đi học xong thi tuyển Thẩm phán

sau đó trở thành Thẩm phán Cấp huyện, rồi Thẩm phán cấp tỉnh. Luận án đề xuất và

kiến nghị nên mở rộng nguồn thi tuyển thẩm phán từ nhiều lĩnh vực khác nhau như

từ các nguồn: Luật sư, luật gia, qua đào tạo theo chương trình chung nghiệp vụ

Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư… khi họ thỏa mãn các điều kiện về tiêu chuẩn

dự thi. Đồng thời cần nâng lên một cấp độ mới xứng tầm về kỳ thi tuyển Thẩm

phán phải được xác định và đạt tầm kỳ thi quốc gia để tuyển chọn Thẩm phán. Theo

đó là các tiêu chuẩn, tiêu chí chuẩn mực tầm quốc gia cả về hình thức thi, nội dung

thi và Hội đồng thi. Kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán chí ít phải được tổ chức hai vòng

gồm: sơ tuyển (hình thức, ngôn ngữ, IQ và EQ) và chung tuyển (kiến thức pháp luật

và kỹ năng xét xử).

4.2.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật liên quan đến xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Thứ nhất: Hoàn thiện một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất

Một số đề xuất, kiến nghị về những vấn đề lớn cần sửa đổi, bổ sung và quy

định mới trong Luật TTHC. Việc sửa đổi toàn diện Luật TTHC phải phù hợp và

đáp ứng yêu cầu chủ trương, đường lối của Đảng về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật và chiến lược cải cách tư pháp, xác định yêu cầu cần cụ thể

hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 vào Luật TTHC đảm bảo nguyên tắc

136

Hiến định: quyền con người, quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm.

Các quy định của pháp luật TTHC cần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính

thống nhất, khả thi, đồng bộ và thể hiện được đặc điểm của hoạt động giải quyết

KKHC. Mặc dù được ban hành tương đối gần nhau nhưng khái niệm QĐHC,

HVHC trong Luật TTHC năm 2015 và Luật Khiếu nại năm 2011 vẫn có những quy

định khác nhau. Hai văn bản luật này có liên quan với nhau, việc xác định khái

niệm QĐHC, HVHC là rất quan trọng, liên quan đến việc xác định đối tượng khiếu

nại, đối tượng khởi kiện. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi để bảo đảm thống nhất khái

niệm về QĐHC, HVHC trong hai văn bản pháp luật này. Bên cạnh đó, các cơ quan

có thẩm quyền cần tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật nhất là

trong điều kiện Luật TTHC mới được ban hành; tăng cường công tác xây dựng

pháp luật để đảm bảo sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật, đặc biệt là các

quy định trong Luật TTHC, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, các quy định khác có liên

quan như các quy định về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, xử lý VPHC,…

Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung có liên quan đến

giải quyết KKHC. Có thể khẳng định muốn giải quyết căn bản vấn đề KKHC, hạn

chế các khiếu kiện nảy sinh thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung

là đặc biệt quan trọng, nhất là pháp luật về đất đai, pháp luật về cán bộ, công chức,

pháp luật về xử lý VPHC,... Quy định của pháp luật trên các lĩnh vực có đầy đủ,

thống nhất, phù hợp với thực tiễn thì mới tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan hành

chính nhà nước ban hành QĐHC, thực hiện HVHC, quản lý hành chính trên các

lĩnh vực, tránh được các khiếu kiện phát sinh và trong trường hợp phát sinh KKHC

thì Tòa án có cơ sở, có căn cứ để giải quyết vụ án, nâng cao chất lượng xét xử.

Trong tổng số đơn khiếu nại, tố cáo hàng năm các cơ quan hành chính nhà

nước nhận được có khoảng 70% là đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai…

[53]. Trong lĩnh vực tư pháp, số lượng các VAHC liên quan đến việc khởi kiện của

công dân đối với các QĐHC về quản lý đất đai. Như vậy, có thể nhận thấy, lĩnh vực

đất đai là lĩnh vực nảy sinh nhiều khiếu nại, khiếu kiện, số lượng khiếu nại, khiếu

kiện trong lĩnh vực đất đai luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các khiếu nại, khiếu

kiện phát sinh, pháp luật đất đai mặc dù trong thời gian vừa qua đã luôn được quan

137

tâm hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần

thiết phải đặc biệt chú trọng việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đất đai, nhất là các

quy định về quản lý đất đai, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,…

Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức,

quy định cụ thể, rõ ràng chức trách, nhiệm vụ của từng vị trí công việc, trách nhiệm

trong việc ban hành QĐHC, thực hiện HVHC của cán bộ, công chức. Cùng với việc

nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ thì cần chú trọng bồi dưỡng

nâng cao hơn nữa phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức, đạo đức công vụ.

Đồng thời, coi trọng cơ chế kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp

luật, tăng cường thanh tra công vụ, thực hiện công khai đầy đủ, cụ thể về TTHC,

thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức để nhân dân giám sát.

Đẩy mạnh cải cách hành chính; cải cách TTHC một mặt phải tạo điều kiện thuận lợi

cho người dân, mặt khác phải bảo đảm yêu cầu quản lý của Nhà nước; đòi hỏi phải

được tiến hành đồng bộ, khẩn trương, kiên trì, liên tục; bảo đảm để TTHC được quy

định thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành và được thực hiện thống nhất trên cả nước.

Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử các VAHC;

tập trung giải quyết các vướng mắc về nghiệp vụ để kịp thời tháo gỡ khó khăn,

vướng mắc trong thực tiễn xét xử các VAHC. Làm tốt công tác đào tạo, tập huấn

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; trong đó chú trọng đào tạo thông

qua việc rút kinh nghiệm xét xử. Tập trung bồi dưỡng, bồi dưỡng chuyên sâu về

kiến thức QLHCNN, kỹ năng xét xử cho Thẩm phán và HTND tham gia xét xử

hành chính.

Thứ hai: Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHC

Thực hiện quan điểm chỉ đạo tại các Nghị quyết về cải cách tư pháp đến năm

2020 về “đẩy mạnh tranh tụng tại phiên tòa” [7]. Thể chế hóa quy định tại khoản 5

Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 về “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm”. Tuy nhiên, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng không đồng nhất với việc thay

thế hoàn toàn mô hình xét hỏi sang mô hình tranh tụng mà cần phải tiếp thu có chọn

lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ

thể của Việt Nam. Trong thủ tục TTHC, thì nguyên tắc tranh tụng được thể hiện

138

ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc xét xử. Để duy trì những nội dung hợp lý

của mô hình TTHC cần xác định rõ trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự

(bao gồm người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan),

Tòa án chỉ có nghĩa vụ xác minh thu thập chứng cứ và xét hỏi khi cần thiết. Theo

đó, thủ tục TTHC cần phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh tụng,

cụ thể như sau:

Quy định chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, thủ tục cung cấp chứng cứ, chứng

minh; coi trách nhiệm thu thập chứng cứ của người khởi kiện, người bị kiện, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (đương sự) là nội dung trọng tâm. Thời hạn giao

nộp chứng cứ của đương sự do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn

định nhưng phải trước khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm, trừ

trường hợp có trở ngại khách quan mà không thể giao nộp chứng cứ đúng thời hạn.

Chứng cứ do đương sự giao nộp phải được đương sự chụp, sao thành nhiều

bản (số lượng bản tương đương với số lượng các đương sự trong vụ án và VKSND

cùng cấp). Khi nhận được chứng cứ từ đương sự, Tòa án thông báo cho phía bên

kia biết chứng cứ do đương sự nộp. Nếu phía bên kia yêu cầu được chuyển giao

chứng cứ thì yêu cầu các bên giao nhận cho nhau, việc giao nhận phải lập thành

văn bản. Việc chuyển chứng cứ cũng có thể do Tòa án chuyển bản sao, bản chụp

các chứng cứ cho phía bên kia, kèm theo yêu cầu đương sự đưa ra ý kiến về việc

chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ đó; đồng thời gửi bản sao tài liệu này

đến VKSND cùng cấp đối với những trường hợp VKSND tham gia phiên tòa hoặc

có yêu cầu. Thẩm phán quy định thời hạn nhất định yêu cầu đương sự phải có ý

kiến bằng văn bản đối với chứng cứ do bên kia nộp. Trường hợp đương sự không

có ý kiến thì được xem như đã chấp nhận chứng cứ do phía bên kia cung cấp.

Trong trường hợp cần phải thẩm tra lại chứng cứ mà đương sự cung cấp thì Tòa

án có thể hoãn phiên tòa.

Cần bổ sung quy định về việc: Thẩm phán phải thông báo cho các bên có

liên quan về những căn cứ đánh giá tính bất hợp pháp của QĐHC, HVHC (như sai

thẩm quyền, áp dụng pháp luật không đúng...) trong thời hạn nhất định để các bên

có điều kiện về thời gian chuẩn bị các ý kiến của mình để sẵn sàng cho việc lập luận

tại tòa; Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ thì Thẩm phán có toàn quyền đưa ra

139

và thực thi các biện pháp điều tra có tính bắt buộc đối với các bên đương sự và các

bên có liên quan. Trong trường hợp các đương sự đã có yêu cầu hoặc Thẩm phán

cũng đã có yêu cầu nhưng cơ quan hành chính không đưa ra các giấy tờ, tài liệu

theo yêu cầu thì tòa sẽ coi chính họ đang cầm giữ giấy tờ, tài liệu như trong đơn

khởi kiện đã cáo buộc. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, hách

dịch, cửa quyền của các cơ quan hành chính.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, cần nghiên cứu theo hướng phiên tòa không

diễn ra như hiện nay, mà phải tăng cường mạnh mẽ vai trò của Tòa án chủ yếu điều

hành phiên tòa, hai bên trình bày tranh luận và đưa ra chứng cứ, quy định việc công

bố lời khai của đương sự vắng mặt khi tranh luận tại phiên tòa. Thẩm phán chỉ hỏi ở

mức độ rất hạn chế để làm rõ những vấn đề chưa rõ. Kết quả tranh tụng tại tòa là

căn cứ để HĐXX đưa ra các phán quyết. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực

hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối

với Luật sư khi tham gia tố tụng tại Tòa án.

Thứ ba: Về thẩm quyền của Tòa án

Thẩm quyền của Tòa án cần được sửa đổi, bổ sung phù hợp và đồng bộ với

quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 [81]. Với mô hình Tòa án bốn cấp, thì

TAND cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết sơ thẩm đối với một số loại

việc. Tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm đối với hầu hết loại việc và xét xử phúc thẩm

những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện chưa có hiệu

lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. TAND cấp cao

phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương thuộc địa hạt tư pháp chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng

cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án

mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các TAND thuộc địa hạt tư pháp bị

kháng nghị theo quy định của pháp luật, theo đó HĐXX giám đốc thẩm, tái thẩm

gồm 3 Thẩm phán cấp cao xét xử bản án, quyết định của Tòa án cấp tỉnh có hiệu lực

pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; Ủy ban Thẩm phán TAND cấp

cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp cao có hiệu

lực pháp luật. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (Hội đồng 5 Thẩm phán và Hội đồng

140

toàn thể) xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm. Thời hạn giám đốc thẩm phải theo hướng rút ngắn, có điểm dừng và có

tính đến thời hiệu yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Thẩm quyền xét xử của Hội đồng xét xử.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 193 Luật TTHC quy định HĐXX có quyền:

“Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc

toàn bộ QĐHC trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền

trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”

mà không quy định quyền sửa một phần hoặc toàn bộ QĐHC trái pháp luật. Tuy

nhiên, trong thực tiễn giải quyết VAHC có trường hợp Tòa án đã hủy QĐHC; buộc

cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện

nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật nhưng cơ quan có thẩm quyền ban

hành quyết định mới vẫn giữ nguyên những nội dung trong quyết định mà Tòa án

đã hủy hoặc có trường hợp ban hành quyết định mới nhưng vẫn không đúng quy

định pháp luật dẫn đến vụ việc không được giải quyết triệt để và vụ án giải quyết

nhiều lần.

Vì vậy, cần bổ sung thẩm quyền sửa quyết định một phần hoặc toàn bộ

QĐHC trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ

quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật là hợp lý.

Tiếp tục bổ sung chức năng, nhiệm vụ và mở rộng thẩm quyền xét xử của

Tòa án đối với các KKHC. Trong quá trình nghiên cứu để xây dựng THC ở nước ta,

việc xác định thẩm quyền của THC là vấn đề rất quan trọng. Đây là một trong

những yếu tố quyết định vai trò của THC. Quy định thẩm quyền phù hợp sẽ đảm

bảo cho THC hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, khách quan. Việc quy định tổ chức

cũng như thẩm quyền của THC phải phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của bộ mày nhà nước, đặc điểm của nền hành chính, truyền thống pháp lý, đồng

thời phải đảm bảo tính đặc thù trong hoạt động XXHC. Việc xác định thẩm quyền

của THC cũng phải căn cứ vào cơ cấu tổ chức, vị trí của THC trong hệ thống các cơ

quan nhà nước. Mặt khác, vị trí, cơ cấu tổ chức có ý nghĩa quyết định phạm vi thẩm

quyền của THC.

141

Theo quy định tại Điều 30, 31, 32 của Luật TTHC năm 2015 thì Tòa án có

thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC, trừ các QĐHC, HVHC thuộc

phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo

danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ

quan, tổ chức. Tòa án cũng có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ

luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương

trở xuống…

Việc quy định Tòa án không có thẩm quyền giải quyết đối với khiếu kiện các

QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an

ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định là phù hợp. Tuy nhiên, cần

cân nhắc việc quy định Tòa án không có thẩm quyền giải quyết đối với khiếu kiện

các QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; Khoản 3 Điều 102 của

Hiến pháp năm 2013 quy định TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân... [79]. Do vậy, cần mở rộng thẩm quyền theo hướng

Tòa án không được từ chối thụ lý VAHC với lý do không có luật quy định. Nên trao

thẩm quyền cho TAND được xét xử các QĐHC, HVHC thuộc nhóm quan hệ nội

bộ. Như đã phân tích nhiều QĐHC, HVHC nội bộ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Nếu vẫn cứ loại trừ nhóm quan hệ này

không được khởi kiện (như Luật TTHC năm 2105) là chưa đảm bảo quyền lợi cho

các chủ thể trong quan hệ pháp luật này.

Bởi vì QĐHC, HVHC mặc dù mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức nhưng

liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì cần thiết

quy định có thể bị khởi kiện tại Tòa án. Luật quy định thẩm quyền của Tòa án loại

trừ những QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức (tức là những

quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng,

nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó) là nhằm bảo đảm cho việc không khởi

kiện tràn lan; hoạt động tư pháp không can thiệp sâu vào hoạt động quản lý, điều

hành nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước. Chúng tôi cho rằng đối với các

QĐHC, HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức cũng cần được chia làm hai

loại. Đối với những QĐHC, HVHC mang tính chất nội bộ, thuần túy chỉ đạo, điều

142

hành thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì không thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu

kiện của Tòa án nhưng đối với các QĐHC, HVHC mặc dù mang tính nội bộ của cơ

quan, tổ chức nhưng liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức thì vẫn có thể bị khởi kiện tại Tòa án (như: quyết định cho thi tuyển công

chức, quyết định lên lương,...). Trong trường hợp này, dù là QĐHC, HVHC mang

tính chất nội bộ nhưng là các QĐHC, HVHC liên quan trực tiếp đến quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; nếu QĐHC, HVHC đó trái pháp luật và xâm

phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì không có lý gì mà các cá

nhân, tổ chức có liên quan lại không thể khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Mặc dù, việc phân biệt hai loại QĐHC, HVHC có tính nội

bộ của cơ quan, tổ chức là rất khó khăn nhưng cần thiết phải phân biệt để tiếp tục

mở rộng thẩm quyền giải quyết các KKHC của Tòa án.

Đối với các quyết định kỷ luật dưới mức buộc thôi việc đối với công chức

giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống mà công chức đó cho

rằng quyết định này là không đúng thì cần thiết phải quy định công chức đó có

quyền khiếu kiện tại Tòa án. Theo quy định tại Điều 30 Luật TTHC năm 2015 thì

Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc

công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống [82]. Tuy

nhiên, theo quy định tại Điều 79 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì công chức

có thể phải chịu một trong các hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc

lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc.

Như vậy, Tòa án không có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định kỷ

luật khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức công chức giữ chức

vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. Quy định này là chưa thật sự

phù hợp. Các quyết định kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức,

cách chức công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống

mà công chức đó cho rằng quyết định này là không đúng, ảnh hưởng đến quyền, lợi

ích hợp pháp của họ thì cần thiết phải quy định công chức đó có quyền khiếu kiện

tại Tòa án. Việc mở rộng thẩm quyền giải quyết KKHC của Tòa án đối với loại

khiếu kiện này sẽ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chức trong

cơ quan.

143

Một vấn đề lâu nay luật chưa có quy định thống nhất như thế nào là vi phạm

(ở mức nào, đến đâu) là vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHC để HĐXX phúc thẩm

hủy bản án sơ thẩm. Theo quy định tại khoán 3, Điều 241 luật TTHC quy định về

thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm: “Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ

tục tố tụng…”. Vậy đây là một trong những căn cứ để HĐXX phúc thẩm hủy án sơ

thẩm. Tuy nhiên pháp luật về TTHC chưa quy định thống nhất thế nào là vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tốt tụng. Do vậy, trong thực tiễn xét xử việc xác định vi phạm

đó nghiêm trọng hay không nghiêm trọng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của

HĐXX. Vi phạm thủ tục TTHC có nhiều dạng, có nhiều cấp độ ảnh hưởng khác

nhau, có những vi phạm thủ tục tố tụng không làm ảnh hưởng nhiều tới quyền

quyền và nghĩa vụ của các đương sự như: thủ tục thụ lý, lấy lời khai người làm

chứng…Trường hợp Tòa cấp phúc thẩm cho rằng là nghiêm trọng thì hủy án sơ

thẩm, trường hợp Tòa cấp phúc thẩm cho rằng không nghiêm trọng thì nhận định là

thiếu sót có thể bổ sung và không hủy án sơ thẩm. Có những thủ tục ảnh hưởng tới

quyền và lợi ích của đương sự, ảnh hưởng tới nguyên tắc tố tụng như: vi phạm

quyền quyết định và tự định đoạt, xét xử độc lập, thay đổi người tiến hành tố tụng…

Để làm rõ phạm vi khái niệm “nghiêm trọng” trong thủ tục TTHC, đề nghị cần sửa

đổi, bổ sung vào khoản 3 các Điều 241, 274 luật TTHC năm 2015 cụm từ: “làm ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” sau từ tố tụng.

Thứ tư: Về nhận và thụ lý đơn khởi kiện

Luật TTHC hiện nay quy định sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án phải xem

xét trong thời hạn 10 ngày để ra quyết định tiến hành thụ lý vụ án hoặc chuyển đơn

khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền hoặc trả lại đơn khởi kiện cho đương sự và quy

định trình tự, thủ tục hai cấp giải quyết khiếu nại. Thực tế việc trả lại đơn khởi kiện

gặp nhiều khó khăn, không thực hiện được đúng thời hạn luật định, vì cần phải thu

thập tài liệu, chứng cứ và nghiên cứu như giải quyết một vụ án trước khi thụ lý mà

lẽ ra việc này thực hiện sau khi thụ lý Tòa án.

Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, mặc dù Luật TTHC đã

mở rộng thẩm quyền của Tòa án, các QĐHC, HVHC được khởi kiện tại Tòa nhiều

hơn so với trước đây, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều QĐHC, HVHC không được

144

Tòa án thụ lý giải quyết, điều đó dẫn đến việc không đảm bảo được quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, gây dư luận không tốt đối với Tòa án, làm gia tăng bức xúc

trong xã hội. Vì vậy, nên xem xét bổ sung nguyên tắc “Tòa án không được từ chối

yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” [82]. Tòa án phải thụ lý đối

với tất cả các đơn khởi kiện của đương sự, trừ những trường hợp luật hạn chế quyền

khởi kiện.

Thứ năm: Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và chi phí tố tụng

Cần nghiên cứu bổ sung quy định thời điểm chấm dứt áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời; quy định khi tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VAHC hoặc ra

bản án, quyết định, thì Thẩm phán hoặc HĐXX phải quyết định việc tiếp tục hoặc

hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Nên bổ sung quy định về chi phí thẩm định tại chỗ; nghĩa vụ nộp tạm ứng

các chi phí tố tụng, nếu như tại thời điểm xem xét thụ lý đơn khởi kiện, Thẩm phán

thấy rằng vụ án đó cần phải thẩm định tại chỗ, giám định, định giá,… Những quy

định này sẽ khắc phục tình trạng không có kinh phí thẩm định tại chỗ, do Luật

TTHC không quy định. Trong khi đó thực tiễn giải quyết tại Tòa án thì các vụ án có

liên quan đến đất đai, công trình xây dựng… phần lớn phải tiến hành thẩm định.

Đồng thời, những quy định này cũng góp phần nâng cao tinh thần, trách nhiệm của

đương sự khi khởi kiện VAHC, tránh tình trạng khi cần thẩm định tại chỗ, giám

định, định giá,… đương sự không nộp tạm ứng chi phí, Tòa án không thể tiến hành

những hoạt động này.

4.2.3. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét

xử cho đội ngũ Thẩm phán xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân

cấp tỉnh

Về việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán xét xử án hành

chính của TAND cấp tỉnh. Việc đào tạo nghề Thẩm phán ở nước ta được triển khai

khá muộn, cụ thể là mới bắt đầu từ năm 1998 với việc thành lập Trường đào tạo các

chức danh Tư pháp (trực thuộc Bộ Tư pháp, nay là Học viện Tư pháp) mặc dù trước

đó vào năm 1994 TANDTC thành lập Trường bồi dưỡng cán bộ Tòa án, nhưng

trường này có chức năng bồi dưỡng và tập huấn nghiệp vụ xét xử cho cán bộ Tòa án

là chính. Mặc dù gần đây, số lượng học viên mỗi khóa đào tạo Thẩm phán khoảng

145

trên dưới 500 người, thực tế đã tăng gấp đôi so với những khóa đào tạo ban đầu

nhưng so với số lượng Thẩm phán còn thiếu ở Tòa án các cấp vẫn chưa đáp ứng

được tình hình.

Hiện nay, cả nước có hai cơ sở đào tạo nghiệp vụ xét xử: Học viện Tòa án và

Học viện Tư pháp (đào tạo theo chương trình ba chung cho cả nguồn Thẩm phán,

Kiểm sát viên và Luật sư). Về chương trình đào tạo Thẩm phán. Nếu xem xét cả về

Lý luận và thực tiễn xét xử thì nhiệm vụ và kỹ năng tác nghiệp cụ thể của Thẩm

phán Tòa án các cấp là khác nhau. Chính vì vậy, pháp luật quy định tiêu chuẩn về

trình độ, năng lực nghiệp vụ đối với Thẩm phán ở Tòa án mỗi cấp cũng khác nhau

theo nguyên tắc Thẩm phán Tòa án cấp trên phải có năng lực nghiệp vụ và thời gian

làm công tác pháp luật cao hơn đối với Thẩm phán Tòa án cấp dưới, trừ đối với một

số trường hợp đặc biệt. Nhưng cho đến thời điểm hiện tại, chưa có chương trình học

tập riêng đối với 01 loại Thẩm phán [112]. Mặc dù pháp luật vẫn cho phép trường

hợp đặc biệt thì người đang công tác tại TANDTC và Tòa án cấp tỉnh có thể được

bổ nhiệm Thẩm phán ở Tòa án cấp mình mà không phải qua công tác xét xử ở Tòa

án cấp dưới. Do đó, để các Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu có thể thực hiện tốt

việc giải quyết, xét xử các vụ án được giao thì cần phải có chương trình đào tạo

riêng đối với người được dự kiến bổ nhiệm cho phù hợp. Đặc biệt, đối với Thẩm

phán hành chính thì dứt khoát họ phải được đào tạo hoặc bồi dưỡng đủ kiến thức về

QLHCNN. Xác định đây là một trong những tiêu chí bắt buộc trước khi bổ nhiệm

Thẩm phán xét xử hành chính. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp

vụ, năng lực xét xử cho Thẩm phán và HTND.

Việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực xét xử các loại án nói chung, các VAHC

nói riêng là một việc làm cần thiết không thể thiếu được và phải tiến hành thường

xuyên. Vấn đề này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra là cho dù một người khi đã

được bổ nhiệm làm Thẩm phán, một người khi có đủ tiêu chuẩn đã được bầu hoặc

cử làm HTND, nhưng nếu không được thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ thì không thể đảm đương tốt nhiệm vụ.

Hiện nay, việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm phán, HTND do Học viện

Tòa án đảm nhiệm. Nhưng việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đối tượng này lại

chưa được tiến hành một cách thường xuyên, có hệ thống, đồng bộ, đều khắp, mà

146

phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan, có nơi tổ chức được nhiều lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ, nhưng có nơi chỉ tổ chức được một vài lớp. Chương trình, kế

hoạch và nội dung bồi dưỡng còn thụ động, chắp vá, chưa có bộ giáo trình chuẩn;

đội ngũ giáo viên vừa thiếu lại vừa phải kiêm chức vì vậy còn có những hạn chế

nhất định.

Để đảm bảo cho công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử các loại án

nói chung, các VAHC nói riêng cho Thẩm phán, HTND có hiệu quả, đáp ứng được

yêu cầu nâng cao năng lực xét xử hiện nay, đòi hỏi trước mắt là TANDTC cần tập

trung nâng cấp Học viện Tòa án, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng

phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực xét xử, phải có bộ giáo trình chuẩn; lựa

chọn những Thẩm phán, những chuyên gia có năng lực, có trình độ, có trách nhiệm

làm giáo viên giảng dạy.

Đối với các Thẩm phán, sau khi đã được bổ nhiệm, được phân công xét xử

các vụ án thuộc lĩnh vực nào thì cần được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng xét xử

các vụ án thuộc lĩnh vực đó (Ví dụ: đối với các Thẩm phán của THC cần được bồi

dưỡng về kỹ năng xét xử các VAHC) hoặc khi có các văn bản quy phạm pháp luật

mới được ban hành (hoặc được sửa đổi, bổ sung), văn bản hướng dẫn thi hành văn

bản quy phạm pháp luật nào đó thì tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể mà

TANDTC có kế hoạch tập huấn cho các đối tượng cần thiết và thời gian phù hợp.

Mặt khác, TANDTC cũng phải xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng nghiệp vụ ổn định đảm bảo cho mỗi Thẩm phán, trong một nhiệm kỳ, đều

được bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử các loại vụ án nói chung, các VAHC nói riêng.

Đối với HTND, theo báo cáo tổng kết năm 2017 của ngành Tòa án thì đến

nay số lượng HTND các cấp nhiệm kỳ 2016-2020 là 16.702 người, trong đó, Hội

thẩm TAND cấp tỉnh là 1.812 người. Các HTND đã tích cực tham gia công tác xét

xử, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành chỉ tiêu công tác xét xử của các Tòa

án. Thực hiện luật Tổ chức TAND năm 2014, các Đoàn HTND đã được thành lập

và đi vào hạt động. Tòa án các cấp cũng cũng chủ động xây dựng kế hoạch và tổ

chức tập huấn nghiệp vụ, cung cấp tài liệu, văn bản pháp luật cho các HTND lần

đầu được HĐND bầu tham gia công tác xét xử của Tòa án.

147

Về trình độ của HTND, theo quy định của pháp luật, chỉ cần có kiến thức

pháp lý và thực trạng đội ngũ Hội thẩm TAND hiện nay còn nhiều bất cập, còn

nhiều HTND chưa có kiến thức cần và đủ phục vụ cho hoạt động xét xử và họ hầu

như là kiêm nhiệm, việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đối tượng này thường gặp rất

nhiều khó khăn, do đó cần phải được quan tâm hơn. Để đảm bảo chất lượng và hiệu

quả của công tác này, TANDTC cần có chương trình tập huấn riêng cho HTND.

Nội dung chương trình bồi dưỡng cho HTND chủ yếu là các văn bản pháp luật mới,

văn bản pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung, văn bản hướng dẫn thi hành của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì điều kiện thời gian tập huấn bồi dưỡng cho

HTND có hạn, nên ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn tập trung cần cung cấp thêm

tài liệu cho họ tự nghiên cứu. Mặt khác, khi bầu HTND cần chọn những người có

đủ sức khỏe, có nhiệt tình và thời gian để tham gia xét xử và đặc biệt phải là người

có kiến thức và am hiểu pháp luật và lĩnh vực mà mình đảm nhận.

Về đào tạo nghiệp vụ đối với các chức danh tư pháp khác. Hiện nay, Thư ký

Tòa án và Thẩm tra viên đã được công nhận là các chức danh tư pháp làm việc tại

các Tòa án. Thực tế cho thấy, hiệu quả và chất lượng công tác xét xử của các Tòa án

không thể thiếu vắng được vai trò của đội ngũ Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên. Đối

với các chức danh này, ngoài trình độ về pháp luật (cử nhân luật) theo yêu cầu thì

tính chất công việc của họ đòi hỏi phải có kỹ năng và nghiệp vụ chuyên môn nhất

định, cũng như phải đáp ứng các yêu cầu khác về phẩm chất đạo đức và tinh thần

trách nhiệm công tác. Hiện tại, pháp luật không đòi hỏi người được bổ nhiệm vào

các chức danh Thư ký Tòa án phải qua các khóa đào tạo về nghiệp vụ Thư ký Tòa

án; hoặc nghiệp vụ kiểm tra, giám đốc án đối với người được bổ nhiệm làm Thẩm

tra viên ở các Tòa án. Do đó, trên thực tế, những người được bổ nhiệm vào các chức

danh này thường “tự học” là chính, nên không phải không có những sai sót đã xảy

ra, thậm chí có trường hợp vi phạm pháp luật. Như vậy, việc đào tạo nghề để nâng

cao nghiệp vụ và trách nhiệm công tác cho Thư ký và Thẩm tra viên Tòa án là cần

thiết và do đó, đây cũng là vấn đề cần phải tính đến trong việc xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh.

Trong điều kiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đổi mới hệ

thống chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cải cách tư pháp và cải

148

cách pháp luật, hệ thống các văn bản có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa

án được ban hàng ngày càng nhiều, trong đó phải kể đến các bộ luật cơ bản như Bộ

luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự... Bên

cạnh đó, do tính đặc thù của hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định của luật

thường được thực hiện theo các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc thống nhất áp

dụng pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Vì vậy, nếu không được

cập nhật, bồi dưỡng thường xuyên về các quy định mới cũng như các văn bản

hướng dẫn thực hiện, thi hành các quy định đó thì việc áp dụng pháp luật trong việc

giải quyết, xét xử các loại vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án chắc chắn sẽ không

đáp ứng được yêu cầu cả về nội dung, thủ tục và chất lượng xét xử. Việc tính đến và

tìm ra các hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ có hiệu quả đối với gần 15 ngàn cán bộ,

công chức có chức danh tư pháp của các Tòa án và trên trên 16 ngàn Hội thẩm Tòa

án là vấn đề không đơn giản.

Bên cạnh đó, với chính sách “mở cửa” và hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ

và giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại giữa một bên có quốc tịch, trụ sở hoặc

tài sản ở Việt Nam với bên kia là người nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài sẽ

ngày càng mở rộng và phát triển ở nước ta, theo đó các tranh chấp có nhân tố nước

ngoài trong các lĩnh vực này cũng ngày càng gia tăng. Việc giải quyết, xét xử các

tranh chấp này đòi hỏi Tòa án phải có sự am hiểu pháp luật nước ngoài, pháp luật

quốc tế nếu các bên tranh chấp lựa chọn pháp luật nước ngoài để điều chỉnh các

quan hệ hoặc các giao dịch hợp đồng mà họ đã thỏa thuận ký kết với nhau. Vì vậy,

đã đến lúc phải nhìn nhận và đặt ra việc bồi dưỡng, tập huấn cho Thẩm phán, cán

bộ có chức danh tư pháp của Tòa án về một số lĩnh vực pháp luật quốc tế hoặc của

các quốc gia có liên quan thì các Tòa án mới có thể chủ động trong công việc xét xử

của mình, qua đó nâng cao vai trò và hiệu quả công tác xét xử của Tòa án trong việc

bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ đối với công dân, tổ chức

Việt Nam mà cả đối với bên đối tác nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật

quốc gia và pháp luật hoặc tập quán, thông lệ quốc tế.

Đối với Thư ký Tòa án: Thư ký Tòa án là một nguồn để bổ nhiệm Thẩm

phán. Tại phiên tòa, Thư ký cũng là người tiến hành tố tụng, chịu trách nhiệm ghi

chép lại toàn bộ diễn biến của phiên tòa và thực hiện một số hành vi tố tụng khác.

149

Vì vậy, đối với họ cũng cần phải thường xuyên được bồi dưỡng để nâng cao trình

độ nghiệp vụ, kỹ năng xây dựng hồ sơ, phương pháp ghi biên bản phiên tòa, nắm

bắt được các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mà người

Thư ký Tòa án phải biết. Ngoài việc được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ, các

Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn cần được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị,

trang bị kiến thức về QLHCNN, nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học.

Tronng hệ thống Tòa án đã thành lập Học viện Tòa án là trung tâm đào tạo

nguồn Thẩm phán, thư ký Tòa án, các Thẩm tra viên và bồi dưỡng cho đội ngũ cán

bộ, công chức ngành Tòa. Do Học viện mới thành lập nên nhiệm vụ trước mắt là

khẩn trương hoàn chỉnh Giáo trình, đổi mới phương pháp dậy và học, cập nhật,

chỉnh lý bài giảng đối với tất cả các bộ môn theo quy định của luật mới. Một giả

pháp mới mà ngành Tòa đang triển khai là Chánh án TANDTC tiếp tục quyết định

biệt phái các cán bộ có trình độ Tiến sĩ luật hiện đang công tác tại các Tòa án về

công tác tại Học viện Tòa án; có cơ chế để Học viện Tòa án thu hút những người

tâm huyết, có trình độ học hàm, học vị và những chuyên gia công tác lâu năm,

nhiều kinh nghiệm đã nghỉ hưu tham gia công tác giảng dậy để tăng cường nguồn

nhân lực có chất lượng cho Học viện Tòa án nhằm làm tốt công tác đào tạo, bồi

dưỡng, tập huấn nghiệp vụ.

4.2.4. Xây dựng đạo đức về văn hóa pháp luật cho đội ngũ làm công tác

giải quyết án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Tài - Đức là hai tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Hai tố chất này có quan hệ

mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Có tài

mà không có đức là vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.

Nghề xét xử càng đòi hỏi ở mức độ cao cả về tài và đức. Bởi vì, hoạt động của Tòa

án luôn luôn liên quan đến con người. Đạo đức và văn hóa pháp luật của Thẩm

phán trong hoạt động xét xử các VAHC là giá trị của những phán quyết công minh,

khách quan, đúng pháp luật. Đặc trưng khác biệt của Thẩm phán hành chính là giải

quyết các xung đột, sự phản ứng của tổ chức và công dân đối với cách hành xử, xử

sự của công quyền đối với họ. Việc khó của Thẩm phán là là giải quyết sao cho vừa

bảo đảm hiệu lực QLNN, vừa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và

công dân.

150

Nghề xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh là khá nhậy cảm và phức tạp.

Như đã phân tích ở phần thực trạng, giải quyết án hành chính đã và đang chịu áp lực

từ nhiều góc độ khác nhau như: từ phía xã hội, từ quyền lực chính trị, quyền lực tổ

chức - hành chính, lợi ích chính trị, kinh tế... Một trong những nguyên nhân lượng

án hành chính ít cũng là do đạo đức của Thẩm phán, HĐXX chưa đáp ứng được yêu

cầu, còn nể nang, e rè, ưu ái thậm chí sợ sệt đối với người bị kiện vì họ có quyền lực

(cơ quan, tổ chức và cá nhân người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN). Trong

quá trình giải quyết án chưa khách quan, công tâm, trung thực, nên tỷ lệ người khởi

kiện (tổ chức và công dân) thua kiện chiếm phần đa.

Để góp phần xây dựng đạo đức và văn hóa pháp luật trong giải quyết án

hành chính cho đội ngũ tham gia giải quyết các VAHC của TAND cấp tỉnh, luận án

kiến nghị triển khai, thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây:

- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế về chuẩn mực hóa chế độ công vụ

của cán bộ, công chức nói chung, sớm ban hành luật công vụ. Bên cạnh quy chuẩn

đạo đức cán bộ, công chức, đạo đức công vụ (theo luật cán bộ, công chức), đề

nghị TANDTC sớm thể chế hóa để ban hành bộ quy tắc đạo đức của ngành Tòa

án, trong đó có các quy tắc đạo đức của Thẩm phán nói chung và Thẩm phán xét

xử các VAHC nói riêng, để làm cơ sở chuẩn hóa đạo đực nghề nghiệp trong

ngành Tòa án.

- Tăng cường rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp, tính trung thực trong giải

quyết án hành chính. Thẩm phán hành chính của TAND cấp tỉnh phải có khả năng

độc lập và lòng dũng cảm, thái độ công bằng, vô tư, không thiên vị và có niềm tin

nội tâm sâu sắc, vững vàng. Tính trung thực thể hiện ở sự tôn trọng sự thật khách

quan, nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng đúng với bản chất vốn có của nó.

Đồng thời phải có tinh thần trách nhiệm cao, bằng sự tận tụy, thận trọng, tỷ mỷ, chu

đáo trong quá trình lựa chọn các tình tiết, chứng cứ và các căn cứ pháp lý để giải

quyết án một cách tốt nhất.

4.2.5. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm, trong xét

xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Cần công khai hóa, minh bạch quá trình giải quyết án hành chính của

TAND cấp tỉnh. Trước hết là các bản án, quyết định giải quyết của Tòa án để nhân

151

dân có điều kiện thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội đối với phán quyết của

Tòa án. Thông qua đó phát hiện những sai sót trong giải quyết án hành chính của

Tòa án để kịp thời có cơ chế pháp lý khắc phục. Mặt khác, cũng thông qua đó đánh

giá được đạo đức (cả về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp) của Thẩm

phán, của những người tham gia giải quyết án hành chính của TAND cấp tỉnh. Một

trong những yêu cầu đặt ra là các hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi bắt đầu

cho tới khi kết thúc phải được công khai, minh bạch. Những bản án, quyết định của

Tòa án phải được công khai hóa trên mạng (trừ những trường hợp đặc biệt) để tiện

lợi cho hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức và nhân dân. Nâng cao vai trò

phản biện xã hội của hệ thống chính trị và nhất là các tổ chức chính trị - xã hội và

đông đảo nhân dân đối với hoạt động xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh.

Năm 2017, công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành Tòa án đã được quan

tâm. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức,đặc

biệt là công tác giám sát Thẩm phán tiếp tục được tăng cường. Tòa án nhân dân tối

cao đã xây dựng quy chế kiểm tra trong ngành Tòa án nhân dân; tổ chức 08 đoàn

kiểm tra về hoạt động công vụ, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí tại 08

đơn vị Tòa án nhân dân cấp tỉnh, tập trung kiểm tra các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu

cực, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức. Thông qua công tác

kiểm tra, đã kịp thời phát hiện, rút kinh nghiệm đối với những hạn chế, thiếu sót

trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của một số Tòa án nhân dân địa phương;

nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các Tòa án để tìm giải

pháp tháo gỡ, khắc phục, đồng thời xử lý nghiêm cán bộ, công chức có sai phạm

trong thực thi công vụ. Trong năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết

khiếu nại, tố cáo đã xử lý kỷ luật 18 công chức Tòa án nhân dân địa phương (trong

đó, buộc thôi việc 02 trường hợp, hạ bậc lương 01 trường hợp, cảnh cáo 06 trường

hợp, khiển trách 08 trường hợp, xử lý hình sự 01 trường hợp” [109].

Tăng cường hoạt động trong công tác giám đốc kiểm tra án hành chính của

hệ thống cơ quan Tòa án, của các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương cũng

như của địa phương (cơ quan dân cử: Quốc hội, HĐND các cấp). Xử lý kịp thời,

nghiêm minh đối với những vi phạm trong việc giải quyết án hành chính, nhất là đối

với những lỗi cố ý của những người tiến hành tố tụng. Thực hiện nghiêm túc các

152

chế định về bồi thường thiệt hại trong hoạt động tư pháp, kể cả hoạt động hành

chính nhà nước có liên quan đến xét xử án hành chính ở TAND cấp tỉnh.

4.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật

liên quan đến khiếu kiện hành chính sâu rộng trong nhân dân và trong đội ngũ

cán bộ tư pháp cấp tỉnh

Một thực tế hiện nay là phần đông nhân dân chưa hiểu hoặc chưa hiểu cơ bản

về quyền khởi kiện, thủ tục khởi kiện VAHC nói chung. Tình trạng khiếu nại hành

chính có tỷ lệ gia tăng khá lớn hàng năm là do nhân dân hiểu được quyền khiếu nại,

trình tự, thủ tục khiếu nại của mình và họ thực hiện quyền đó. Còn khởi kiện VAHC

tỷ lệ tăng không đáng kể. Bên cạnh các yếu tố khác thì công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật liên quan đến khiếu kiện hành chính còn ở mức độ, chưa thực sự

được quan tâm đúng mức. Các hình thức tuyên truyền như trên phương tiện thông

tin đại chúng, tổ chức phổ biến ở cộng đồng dân cư... chưa được các cấp ủy Đảng,

chính quyền địa phương quan tâm. Mặt khác, bản thân TAND cấp tỉnh cũng chưa

quan tâm chỉ đạo các Tòa án địa phương, ngay cả TAND cấp tỉnh cũng vậy, nhiều

TAND tỉnh hầu như chưa bao giờ đưa vụ án hành chính ra xét xử lưu động để tuyên

truyền, giáo dục sâu rộng trong nhân dân. Bởi vậy, kiến nghị các cấp ủy đảng, chính

quyền, cả hệ thống chính trị nhất là cấp tỉnh cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật liên quan đến khiếu

kiện hành chính nói riêng. Nhất là TAND cấp tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cách thức tuyên truyền, trong đó trọng

tâm là chỉ đạo các TAND cấp huyện tăng cường công tác xét xử công khai, phổ

biến rộng rãi trong nhân dân, xét xử lưu động các VAHC để vừa tuyên truyền

trong nhân dân, vừa giáo dục chung trong đội ngũ cán bộ-công chức địa phương.

Các TAND cấp tỉnh cần mở chuyên mục thường tuyên truyền với nhiều hình thức

khác nhau trên Đài phát thanh, Đài truyền hình địa phương về các VAHC điển

hình trong các lĩnh vực QLNN khác nhau có khiếu kiện tại Tòa án để tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục chung.

Về công tác giải thích pháp luật, đây là hoạt động hết sức quan trọng trong

quá trình giải quyết án hành chính của TAND cấp tỉnh. Đề nghị TANDTC cấn có

hướng dẫn, giải thích rõ một số vấn đề mà trong thực tế vẫn còn lúng túng như:

153

- Quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện tại Tòa án. Mặc dù tại khoản

1,2 Điều 3 luật TTHC năm 2015 quy định cũng khá rõ, nhưng trong thực tế vẫn

nhầm lẫn. Điển hình tại án lệ số: 10/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

về: ”quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Diễn biến

khái quát; Ngày 4/6/2009 Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh long Ban hành quyết định

số:1216/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư

công trình trại giống, vật nuôi nông nghiệp tỉnh trong đó có đất của bà: Võ Thị Lựu.

Bà lựu có đơn khởi kiện VAHC yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 1216 của UBND

tỉnh Vĩnh Long. TAND tỉnh Vĩnh long bác yêu cầu khởi kiện của bà Lựu. Bà Lựu

có đơn kháng cáo. Tòa phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh đã hủy án

hành chính sơ thẩm của TAND tỉnh Vĩnh Long. Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh

Vĩnh Long có công văn đề nghị Giám đốc bản án hành chính phúc thẩm.

Trường hợp này có hai quan điểm khác nhau (1). Quan điểm thứ nhất cho

rằng Quyết định số 1216 của UBND tỉnh Vĩnh Long là quyết định mang tính tổng

thể, không phải là đối tượng khởi kiện VAHC, nên đã hủy án sơ thẩm của TAND

tỉnh Vĩnh Long, đình chỉ giải quyết vụ án; (2). Quan điểm thứ hai cho rằng Quyết

định số 1216 của UBND tỉnh Vĩnh Long là QĐHC cá biệt, là đối tượng khởi kiện

VAHC, vì trong quyết định đã thể hiện rõ phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu,

nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà

Lựu. Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã quyết định: chấp nhận kháng nghị của

Chánh án TANDTC; hủy bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC tại thành

phố Hồ Chí Minh và hủy bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ

án về TAND tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Chính vì vậy, lận án đề nghị TANDTC cần có hướng dẫn thật kỹ, thật cụ thể

các dạng QĐHC hay gây nhầm lẫn là đối tượng khởi kiện. Mặt khác, Tòa cũng đã

chấp nhận các dạng văn bản như: công văn, thông báo, kết luận là QĐHC khi nó có

nội dung quyết định (Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP-TANDTC năm 2011) cho nên

cũng cần có hướng dẫn loại văn bản này thật cụ thể để thống nhất nhận thức trong

giải quyết án hành chính.

Về HVHC, mặc dù luật TTHC cũng đã quy định khá rõ tại khoản 3,4 Điều 3

luật TTHC năm 2015, nhưng trong thực tế nhiều trường hợp rất khó xác định đó có

154

phải là HVHC không? Hoặc hành vi đó có phải là HVHC không? Để xác định

thống nhất và chính xác thì TANDTC cũng cần sớm có khái niệm cụ thể về HVHC,

theo đó là hướng dẫn cụ thể những dạng HVHC hay gây ra nhầm lẫn để tiện lợi và

thống nhất trong giải quyết án ở các Tòa án địa phương.

4.2.7. Bảo đảm về cơ chế và chính sách, điều kiện vật chất, phương

tiện kỹ thuật cho hoạt động xét xử các vụ án hành chính của Tòa án nhân

dân cấp tỉnh

Xét xử giải quyết các loại vụ án là một nghề không chỉ khó về chuyên môn

nghiệp vụ mà còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố cả tích cực và tiêu cực của xã hội.

Việc Nhà nước, xã hội thừa nhận và đòi hỏi Thẩm phán phải có vị trí quan trọng

trong hoạt động tư pháp và việc Thẩm phán thường bị gây sức ép, thậm chí bị mua

chuộc, đe dọa khi thi hành công vụ trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các loại

vụ án cần được xem là những điểm đặc thù cần được tính đến khi xử lý các vấn đề

có liên quan đến chế độ chính sách và các điều kiện bảo đảm khác đối với Thẩm

phán và cán bộ, công chức Tòa án. Chỉ khi giải quyết được một cách hài hòa mối

quan hệ giữa trách nhiệm nghề nghiệp với quyền lợi được hưởng thì mới có tác

dụng tích cực đến hiệu quả và chất lượng công tác của người lao động. Đối với

Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án, thời gian qua, chế độ, chính sách kể cả

chế độ tiền lương và các điều kiện bảo đảm khác của họ bị cào bằng như đối với cán

bộ, công chức nhà nước khác. Do đó, rõ ràng là không tương xứng với tính chất lao

động và yêu cầu về trách nhiệm nghề nghiệp của Thẩm phán và cán bộ, công chức

Tòa án. Vì vậy, đây là vấn đề cần được tiếp tục đặt ra để nghiên cứu, giải quyết

trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương cải cách tư pháp nói chung và nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án nói riêng. Vấn đề cơ sở vật chất và điều kiện hoạt

động của các cơ quan tư pháp trong đó có TAND trong những năm gần đây được

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được coi như là một nội dung của công

cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

Vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong việc tăng cường cơ sở vật chất

cho ngành Tòa án chính là đầu tư xây dựng cơ bản. Như đã phân tích ở trên về thực

trạng cơ sở vật chất của ngành Tòa án hiện nay, các mẫu thiết kế trụ sở TAND các

155

cấp, đặc biệt là của Tòa án cấp huyện, hiện nay không còn phù hợp, không đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động xét xử đặt ra.

Theo yêu cầu của công cuộc đổi mới của đất nước, quá trình cải cách tư pháp

và hội nhập quốc tế, việc trang bị cho các Tòa án các phương tiện kỹ thuật phải có

tính hiện đại, tính hiệu quả. Trước mắt cần trang bị cho Tòa án các cấp đầy đủ các

phương tiện làm việc tối thiểu như: tủ, bàn ghế làm việc, máy vi tính, máy

photocopy, máy in, hệ thống loa đài, âmly, micrô, camera giám sát ở hội trường xét

xử phục vụ cho công tác xét xử. Theo đó là có kế hoạch nâng cấp công nghệ thông

tin để có đủ khả năng xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ vụ án. Đồng

thời với việc đầu tư mở rộng trụ sở, mua sắm trang thiết bị, TANDTC cần có kế

hoạch phân bổ hợp lý kinh phí hoạt động cho các Tòa án.

Đối với THC, ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc

chung, còn cần được cung cấp đầy đủ các loại văn bản quy phạm pháp luật về

chuyên môn nghiệp vụ và về quản lý nhà nước chuyên ngành. Theo tác giả, TAND

các cấp cần có tủ sách pháp luật và không thể không. Cần nhanh chóng áp dụng

công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý và xét xử của ngành.

Vấn đề về chế độ chính sách đối với cán bộ các cơ quan tư pháp nói chung

và các cơ quan Tòa án nói riêng, hiện nay đang được Đảng và Nhà nước hết sức

quan tâm. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ phải “Cải cách cơ bản chế độ tiền

lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, chống đặc quyền đặc lợi”. Giải pháp

cho giai đoạn tới đây TANDTC đã xác định:

Đề xuất đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho hệ thống Tòa án nhân dân

đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó

tập trung đổi mới về định mức chi, chế độ chi, chế độ tiền lương, định

mức trang cấp phương tiện làm việc và quy mô xây dựng trụ sở nhằm

nâng cao điều kiện làm việc, nâng cao đời sống cán bộ, công chức, phù

hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng như bắt kịp các nền tư

pháp hiện đại của các nước trong khu vực và thế giới. Xây dựng và trình

các cơ quan các cơ quan có thẩm quyền xem xét phê duyệt Đề án quy

hoạch tổng thể trụ sở Tòa án nhân dân các cấp giai đoạn 2020 - 2030 tầm

nhìn 2050 [101].

156

Tiếp tục nghiên cứu và cải tiến thang lương đối với ngạch Thẩm phán

TAND, đặc biệt là đối với Thẩm phán địa phương cho phù hợp, nhằm đảm bảo cho

Thẩm phán có thu nhập không chỉ đủ nuôi sống bản thân, mà còn có điều kiện góp

phần nuôi dưỡng gia đình. Trước mắt cần điều chỉnh sự cách biệt vô lý giữa mức

lương của Thẩm phán các cấp, điều chỉnh tăng hệ số lượng cho Thẩm phán Tòa án;

điều chỉnh hệ số lượng cho Thẩm tra viên, chuyên viên, Thư ký Tòa án...

Nên quy định phụ cấp lương vượt khung đối với các trường hợp đã hưởng hệ

số lượng tối đa, phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ ngành Tòa án. Cần có chế độ chính

sách ưu đãi để thu hút, động viên những người đến nhận công tác tại các Tòa án

vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Chẳng hạn như có chế độ trợ cấp lần đầu ba

tháng lương tối thiểu; quy định về thời gian công tác tối thiểu của các cán bộ là

người miền xuôi đến công tác tại Tòa án ở các địa bàn trên, để có thể được xem xét

việc chuyển vùng công tác; chính sách đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho các Tòa án

vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Sớm có chính sách, chế độ nhà công vụ cho

các Thẩm phán để thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ trong ngành Tòa án

theo chủ trương luân chuyển cán bộ của Đảng.

157

KẾT LUẬN

Trong cấu trúc quyền lực nhà nước thì hoạt động kiểm soát quyền lực (dùng

quyền lực để kiểm soát quyền lực) là hoạt động tất yếu của bất kỳ bộ máy nhà nước

nào. Vấn đề là ở chỗ phương thức kiểm soát, đối trọng thế nào cho hiệu quả là một

vấn đề cần được nghiên cứu nghiêm túc, phù hợp với điều kiện của từng quốc gia.

Ở nước ta, kể từ thời điểm năm 1996 đến nay chúng ta đã chính thức có cơ chế

pháp lý để nhánh quyền lực Tư pháp được kiểm soát (xét xử) hoạt động hành chính

nhà nước trên một số lĩnh vực. Cho tới nay thì Tòa án được xét xử cơ bản các hoạt

động quản lý hành chính nhà nước trừ một số lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại

giao và nội bộ.

Xung quanh vấn đề tổ chức và hoạt động của Tòa án có nhiều công trình

nghiên cứu, đề cập dưới nhiều giác độ, phạm vi và cách tiếp cận khác nhau. Tuy

nhiên, cho đến nay ở nước ta chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu

một cách có hệ thống và toàn diện về vấn đề này. Vì vậy "Chất lượng xét xử các vụ

án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” là công trình

đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và

thực tiễn. Luận án đã rút ra một số kết luận sau:

Trên thế giới, ở các nước phát triển cũng có nhiều công trình nghiên cứu

liên quan đến tổ chức và hoạt động của hệ thống THC, nhất là hệ thống tài phán

hành chính ở Cộng hòa Pháp, về cấu trúc hệ thống THC, chức năng, nhiệm vụ,

thẩm quyền... có nhiều yếu tố phù hợp với điều kiện của nước ta có thể tiếp tục

nghiên cứu vận dụng vào Việt Nam. Ở nước ta lý luận về chất lượng xét xử cũng

đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách chuyên sâu, thấu đáo, toàn diện về chất lượng xét xử các VAHC của

TAND cấp tỉnh với những đặc thù riêng biệt như: khái niệm, đặc điểm, nguyên

tắc, vai trò, tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động đến chất lượng xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh.

Thực trạng về chất lượng xét xử nói chung và chất lượng xét xử các vụ án

hành chính nói riêng, luận án đã đề cập và phân tích thực trạng về mô hình tổ chức,

chức năng nhiệm vụ của TAND cấp tỉnh và THC thuộc TAND cấp tỉnh, đây là yếu

158

tố quan trọng tác động đến chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh. Đồng

thời, cũng đã phân tích tình hình xét xử, đánh giá chất lượng xét xử bao gồm kết

quả xét xử, hạn chế, bất cập về: đạo đức nghề nghiệp; nhận thức pháp luật; kỹ năng

áp dụng pháp luật... của Tòa án, nhất là Thẩm phán và HĐXX; xác định các nguyên

nhân chủ quan, khách quan của những hạn chế, bất cập trong xét xử các VAHC của

TAND cấp tỉnh. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, giải pháp thiết thực nhằm

nâng cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng xét xử các VAHC của TAND

cấp tỉnh trong những năm qua, trọng tâm là 07 năm gần đây (2011 - 2017), luận án

đã xác định các quan điểm bảo đảm chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp

tỉnh ở Việt Nam hiện nay, đồng thời luận án cũng đưa ra các giải pháp bảo đảm

chất lượng xét các VAHC nói chung và chất lượng xét xử các VAHC của TAND

cấp tỉnh nói riêng.

Với phạm vi nghiên cứu của đề tài, mặc dù khả năng hiểu biết vẫn còn

những hạn chế nhất định, với sự nỗ lực của mình, tác giả cũng đã cố gắng phân tích

làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn chất lượng xét xử các VAHC của

TAND cấp tỉnh. Đồng thời đưa ra những quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm nâng

cao chất lượng xét xử các VAHC của TAND cấp tỉnh hiện nay. Hy vọng rằng, các

kết quả nghiên cứu của luận án được nhìn từ giác độ của người hoạt động thực tiễn

xét xử sẽ có những đóng góp nhất định vào việc nâng cao chất lượng xét xử các

VAHC của TAND cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay./.

159

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Thân Quốc Hùng (2015), "Một số ý kiến về thẩm quyền của Tòa án trong xét xử

vụ án hành chính", Tạp chí Nghề luật, (6), tr.3-6.

2. Thân Quốc Hùng (2016), "Nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hành chính của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh", Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, (292), tr.46-50.

160

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư (2011), Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 về một số vấn đề

cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay,

Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2010), Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của

Tòa án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra theo nghị quyết 49-NQ/TW

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kết

luận của Bộ Chính trị số 79-KL/TW, Hà Nội.

3. Nguyễn Thanh Bình (2009), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của

Tòa án, sự bảo đảm công lý trong quan hệ nhà nước và công dân, NXB

Tư pháp.

4. Trương Hoà Bình (2010), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Toà

án", tại trang http://www.vietnamplus.vn, [truy cập ngày 20/10/2017].

5. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,

định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

7. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến 2020, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị khóa XI (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc

tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội.

9. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt

Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

10. Bùi Kim Chi (2012), “Ý nghĩa của việc nghiên cứu mô hình nhân cách

người Thẩm phán trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục, (29), tr.33-37.

11. Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hữu Xương (2012), Thực trạng và yêu cầu

kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội.

161

12. Nguyễn Mạnh Cường (2002), “Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp

quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10).

13. Nguyễn Văn Cường (2016), Những điểm mới của Luật Tố tụng hành chính

năm 2015, Chánh tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao.

14. Nguyễn Đăng Dung (2009), “Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà

nước”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (25).

15. Hoàng Ngọc Dũng (2015), Giải quyết khiếu nại hành chính trong điều công

cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học - Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16. Trịnh Hồng Dương (1996), Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân

trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Đề tài cấp

Nhà nước, mã số 95-98-048/ĐT, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

17. Lê Thành Dương (2002), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện

Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Minh Đoan (2004), "Góp phần nhận thức về cải cách tư pháp ở

nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (06), tr.27-31.

22. Nguyễn Thị Hà (2017), Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật Học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

23. Phạm Hồng Hải (2003), "Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động

tư pháp", Tạp chí Luật học, (02), tr.16-19.

24. Lê Thu Hằng (Chủ biên) (2012), Kỹ năng tranh tụng trong vụ án hành

chính, Tập bài giảng, Học viện Tư pháp, Hà Nội.

162

25. Nguyễn Thị Tố Hằng (2008), “Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo

pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, (6), tr.37-39.

26. Trần Thu Hạnh (2009), “Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ

Thẩm phán trong tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí

Khoa học, (32), tr.32-33.

27. Lê Tiến Hào (Chủ nhiệm) (2015), Khiếu nại hành chính và giải quyết khiếu

nại hành chính trong quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà

Nội - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

28. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp

hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Hiện (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực

xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Hiện (2001), "Tiêu chuẩn thẩm phán - Thực trạng và những

yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới", Tạp chí Tòa án nhân dân, (04),

tr.23-26.

31. Trương Thị Hòa (2004), "Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề

nghiệp, trình độ chuyên môn cho các cán bộ tư pháp", Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, (09), tr.11-15.

32. Tô Văn Hòa (2007), Tính độc lập của Tòa án, NXB Lao động, Hà Nội.

33. Vũ Thị Hòa (2015), Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử các vụ án Hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Luật học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

34. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2011), Nghị quyết số

01/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị

quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về “thi hành

luật tố tụng hành chính năm 2010, Hà Nội.

35. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2011), Nghị quyết số

02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 về hướng dẫn thi hành một số quy

định của luật tố tụng hành chính năm 2010, Hà Nội.

163

36. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghị quyết

01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định

của luật tố tụng hành chính”, Hà Nội.

37. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (2015), Nghị quyết số

04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 hướng dẫn thi hành một số quy

định của pháp luật về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý

hành chính tại tòa án nhân dân, Hà Nội.

38. Nguyễn Cảnh Hợp, Thực trạng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

vai trò tài phán hành chính của Tòa án nhân dân, Hà Nội.

39. Phạm Văn Hùng (2006), “Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (135).

40. Nguyễn Thị Thu Hương (2009), Đào tạo Thẩm phán của Học viện Tư pháp

theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc

sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ biên) (2012), Kỹ năng giải quyết các vụ án

hành chính, Giáo trình của Học viện Tư pháp, NXB Công an nhân dân,

Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ nhiệm) (2013), Áp dụng án lệ tại Việt nam và

giải pháp phát triển hoàn thiện chương trình đào tạo các chức danh Tư

pháp tại Học viện Tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, mã

số: 09/2013/NCKH, Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ biên) (2014), Giáo trình Kỹ năng giải quyết

các vụ án hành chính, Học viện Tư pháp, Hà Nội.

44. Josef Thesing (2002), Sách tham khảo trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu

những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền

của một số nước trên thế giới, Sách tham khảo Nhà nước pháp quyền,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

164

45. Dương Thị Khảm (2000), "Niềm tin nội tâm của người thẩm phán", Tạp chí

Dân chủ và pháp luật, (01), tr.10-13.

46. Vũ Gia Lâm (2009), “Đổi mới chế độ Thẩm phán - Hội thẩm Tòa án nhân

dân trong tiến trình cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (21),

tr.20-24.

47. Trần Thị Lâm (2015), Pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt

nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã

hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Mạnh Lân (2007), Xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững

mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ,

Hà Nội.

49. Trần Kim Liễu (2011), Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

50. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Đại học Luật Hà Nội

51. Nguyễn Tường Linh (2009), Hoàn thiện pháp luật về quy trình tuyển chọn,

bổ nhiệm Thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện

nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

52. Nguyễn Tường Linh (2012), Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy

hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án nhân

dân, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

53. Nguyễn Thắng Lợi (2011), "Bàn về một số đổi mới cơ chế giải quyết khiếu

kiện hành chính tại Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số

chuyên đề về luật tố tụng hành chính, tr.105-114.

54. Nguyễn Thắng Lợi (2014), “Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết

tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, (10), tr.39-45.

55. Nguyễn Thắng Lợi (2015), Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực

đất đai ở nước ta hiện nay, Đề tài, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

165

56. Phạm Văn Lợi (1997), Hệ thống Tòa án Việt Nam - những phương hướng

chính của việc hoàn thiện, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

57. Phạm Văn Lợi (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần xây

dựng quy chế thẩm phán, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu

Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Hà Nội.

58. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) và các cộng sự (2006), Cải cách các cơ quan

tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và

hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số: KX

04.06.

59. Dương Thanh Mai (2002), Quy chế thẩm phán trong pháp luật của một số

nước, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân - Thực

trạng và phương hướng hoàn thiện, Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án

nhân dân tối cao, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội.

61. Đinh Văn Minh (2001), Tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Cao Thị Nga (2014), Văn hóa pháp luật của Thẩm phán trong lĩnh vực Tố

tụng hành chính, Luận văn tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm hoa học xã

hội, Hà Nội.

63. Nguyễn Đức Nguyên (2013), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán Tòa

án nhân dân ở tỉnh Nam Định, theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt

Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Như (2012), Tòa hành chính - thiết chế cơ bản bảo vệ quyền

công dân, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

65. Nguyễn Như Phát (2004), "Một số ý kiến về cải cách tư pháp ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (03), tr.29-31.

166

66. Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương (Đồng chủ biên) (2010), Tài

phán hành chính trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội

nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

68. Trần Quốc Phú (2001), “Đối thoại và tổ chức đối thoại trong giải quyết

khiếu nại tố cáo của công dân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (3),

tr.20-23.

69. Đinh Văn Quế (2000), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân:

Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Nhà nước và pháp luật,

(08), tr.13-16.

70. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ nhiệm) (2010), Tài phán hành chính - thể chế

bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Đề tài

khoa học cấp trọng điểm, mã số: PUF.08.05, Đại học quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

71. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp

năm 1992, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 1999, NXB Tư pháp, Hà Nội.

73. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2002, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Viện

Kiểm sát nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội.

76. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội.

77. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Tố tụng

hành chính năm số 64/2010/QH11 ngày 24/11/2010, Hà Nội.

78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu

nại, Hà Nội.

79. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, Hà Nội.

167

80. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp

năm 2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức

Tòa án nhân dân năm số 62/2014/QH13, ngày 24/11/2014, Hà Nội.

82. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố tụng

hành chính số 93/2015/QH13, ngày 25/11/2015, Hà Nội.

83. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị quyết

104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về thi hành luật tố tụng hành chính

năm 2015, Hà Nội.

84. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa

học cấp Nhà nước, mã số KX.04.01, Trung tâm Khoa học xã hội và

nhân văn quốc gia, Hà Nội.

85. Nguyễn Văn Sản (1996), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm

phán Tòa án địa phương, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

86. Đặng Thanh Sơn (2011), “Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án

theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật, số chuyên đề.

87. Bùi Ngọc Sơn (2003), "Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước và pháp

quyền", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (03), tr.17-19.

88. Hoàng Thị Sơn (1996), "Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội

thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", Tạp chí Luật học,

(05), tr.36-39.

89. Nguyễn Sơn (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng quy định

pháp luật Tố tụng hành chính về thủ tục xét xử sơ thẩm. Đề tài khoa học

cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

90. Nhữ Văn Tâm (2006), Xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo hướng nâng cao

năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, liên hệ vào thực tiễn của

ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

168

91. Trần Thị Tâm (2009), Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán ở ngành

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Cử nhân chính

trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

92. Thanh tra Chính phủ (2014), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân bằng phương thức giải quyết khiếu nại hành chính, Tài liệu hội

thảo chuyên đề.

93. Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa

án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

94. Lê Minh Thông (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

95. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

96. Nguyễn Thành Thuộc (2010), “Xây dựng đội ngũ Thẩm phán Toà án nhân

dân cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", Tạp chí Toà án nhân dân,

(9), tr.39-42.

97. Đào Xuân Tiến (2002), "Đào tạo thẩm phán", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

(10), tr.9-12.

98. Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ Ủy ban Trung ương

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2003), Thông tư số 01/2003/TTLT ngày

01/04/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm

phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Hà Nội.

99. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo số 48/TC-TK ngày 17/3/2010 của

Chánh án Toà án nhân dân tối cao về việc trả lời chất vấn đại biểu Quốc

hội tại phiên họp lần thứ 29 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội.

100. Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ (2011), Thông tư liên

tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20 tháng 10 năm 2011

về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán

và Hội thẩm Tòa án nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều

của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Hà Nội.

169

101. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết năm 2011, Hà Nội.

102. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết năm 2012, Hà Nội.

103. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 04/BC- TANDTC tổng kết 3

năm thi hành Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.

104. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo tổng kết năm 2013, Hà Nội.

105. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết năm 2014, Hà Nội.

106. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết năm 2015, Hà Nội.

107. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết năm 2016, Hà Nội.

108. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TATC ngày 19/6/2017

về việc ban hành quy định xử lý trách nhiệm đối với người giữ chức danh

tư pháp trong ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.

109. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết năm 2017, Hà Nội.

110. Đặng Ngọc Toàn (2010), Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất

đai trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học - Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

111. Nguyễn Danh Tú (2013), Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,

Viện Hàn lâm khoa học xã hội, Hà Nội.

112. Trần Văn Tú (2004), Đổi mới công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng Thẩm

phán Toà án nhân dân địa phương, Kỷ yếu khoa học, Toà án nhân dân

tối cao, Hà Nội.

113. Lê Tuấn Tú (2014), Chất lượng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân ở tỉnh

Tuyên Quang theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

114. Nguyễn Minh Tuấn (2003), "Vai trò của thẩm phán trước yêu cầu cải cách

tư pháp", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (09), tr.10-13.

115. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách

hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước

pháp quyền, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

116. Đào Trí Úc (2000), “Quan điểm và những đặc trưng cơ bản của mô hình

tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật, (3).

170

117. Đào Trí Úc (2003), “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (2).

118. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

119. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2005), Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở

nước ta trong thời kỳ công nghiệp, hiện đại hóa, Đề tài khoa học cấp

Nhà nước, mã số KX.04.02, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật,

Hà Nội.

120. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm

Tòa án nhân dân năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011, NXB

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

121. Nguyễn Tất Viễn (1991), Cải cách tư pháp, phần: Đổi mới tổ chức, hoạt

động của Tòa án, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý - Bộ

Tư pháp, Hà Nội.

122. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa

và NXB Tư pháp, Hà Nội.

123. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao (2012), Thông tư

liên tịch số 03/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 hướng

dẫn thi hành một số quy định của luật tố tụng hành chính về kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính, Hà Nội.

124. Nguyễn Cửu Việt (2012), Vấn đề đổi mới hệ thống cơ quan tài phán hành

chính ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

125. Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, (8).