báo cáo đề tài: sự tha hóa của con người trong sáng tác
TRANSCRIPT
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 1
Báo cáo đề tài:
Sự tha hóa của con người trong sáng tác của
Nam Cao trước 1945
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con
người ở nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học,
là những câu chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì,
mỗi giai đoạn văn học khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác
nhau, như văn học thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người
cộng đồng. Trong khi đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân
cụ thể.
Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê
phán, quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số
phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện tượng văn học đặc
biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn
bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn
khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thoát cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái
nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan
cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn xảy ra với các
tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông dân đến người trí thức.
Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên
cứu văn học. Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư
tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ thuật. Vì thế, người viết luận văn này
mong muốn được khám phá thêm một phương diện trong phong cách sáng tác
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 3
của Nam Cao. Đó là nỗi đau về sự tha hóa của con người trong giai đoạn
trước1945.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về sự tha hóa của con người thể hiện trong các tác phẩm
truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao trước 1945 (khoảng 42 tác phẩm).
Nhằm khẳng định thêm một nét riêng về đặc trưng phong cách của Nam Cao
trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện thực phê phán. Đồng thời tham
khảo ý kiến của những nhà nghiên cứu – phê bình về sáng tác của Nam Cao.
“Người và tác phẩm Nam Cao “ (1956) hay “Những kỉ niệm Nam Cao” (1991) và
khẳng định “Nam Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc
sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh”. Ông khẳng
định tác phẩm Nam Cao luôn thể hiện những trải nghiệm từ cuộc sống của tác giả.
Nằm trong số những người đầu tiên nghiên cứu về Nam Cao, từ năm 1960,
Phong Lê – Huệ Chi có công trình nghiên cứu “Đọc truyện ngắn Nam Cao soi
lại những bước đi lên của nhà văn hiện thực”, ông có nhận định “Đọc tập
truyện ngắn của Nam Cao trước tiên chúng ta hiểu và yêu mến thêm Nam Cao,
nhà văn đã chân thành giãi bày cuộc đời mình, một cuộc đời vốn mang theo
bao nhiêu tâm trạng tủi hổ, xót xa nhưng luôn luôn ngoi lên chửi trả lại cuộc
sống tối tăm và luôn luôn khao khát tìm đến cho mình và con người của tầng lớp
mình một cuộc sống sao cho thật có ý nghĩa nhân đạo và sáng tạo” Ông nhấn
mạnh những sáng tác của Nam Cao có mối quan hệ trực tiếp từ hiện thực cuộc
sống. Luận văn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu trong những sáng tác của
Nam Cao trước 1945 (dựa theo Nam Cao toàn tập, 3 tập do Hà Minh Đức, Nxb
Văn học, 2000). Và nghiên cứu vị trí của Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 4
phán gồm các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan… và những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề cương đưa ra một số phương pháp nghiên cứu để làm tiểu luận
như:
Phương pháp hệ thống: xem xét tác phẩm như một chỉnh thể, toàn bộ tác
phẩm của Nam Cao như một hệ thống và là một yếu tố xuyên suốt trong tất cả hệ
thống sáng tác của Nam Cao.
Phương pháp so sánh: ở hai cấp độ
So sánh các tác phẩm của Nam Cao để thấy sự ổn định, bền vững và sự phát
triển phong cách nghệ thuật nhà văn theo hướng vừa thống nhất, vừa đa dạng.
So sánh với các tác phẩm của các tác giả khác để thấy được sự độc đáo,
mới mẽ của phong cách nghệ thuật Nam Cao.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: đưa ra những dữ kiện để phân tích và tổng
hợp
Phương pháp thống kê: để tìm tần số lặp đi đi lặp lại của các yếu tố tạo nên
chủ đề và phong cách sáng tác.
4. Đóng góp đề tài
Tìm hiểu sự tha hoá của con người trong sáng tác của Nam Cao trước năm
1945 sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về con người tài
năng và phẩm giá, những đóng góp của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam.
5. Cấu trúc của bài tiểu luận.
Bài tiểu luận này được sắp xếp thành 3 phần.
A. Mở đầu: Giới thiệu chung, hoàn thành các mục cơ bản của bài tiểu luận.
B. Nội dung:
Chương 1: Nam Cao với chủ đề tha hoá trong sáng tác trước 1945.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 5
Chương 2: Phương diện và hệ quả của sự tha hoá trong sáng tác của Nam
Cao trước 1945
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện sự tha hoá trong sáng tác của Nam Cao trước 1945.
C. Kết luận: Hệ thống lại những luận điểm, nội dung chính của bài tiểu luận.
B. NỘI DUNG
Chương 1: NAM CAO VỚI CHỦ ĐỀ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC
TRƯỚC 1945
1.1. Khái niệm tha hóa:
1.1.1. Một số định nghĩa:
Tha hóa là một từ được dùng theo những ý nghĩa khác nhau, nói cách khác
là một từ có nhiều khái niệm:
Trong đời sống cộng đồng, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa đạo
đức, nói về những trường hợp người bị biến chất, bị mất đi những phẩm chất tốt
đẹp vốn có của mình trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học - xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa
triết học, nói về một hiện tượng, một quy luật diễn ra trong đời sống xã hội.
Như vậy, theo từ điển Tiếng Việt, tha hóa mang hai ý nghĩa đạo đức và ý
nghĩa triết học. (Nhưng từ điển Tiếng Việt chỉ ghi tha hóa là “Động từ”. Thực ra
tha hóa có khi là động từ, có khi là danh từ, tính từ, vì người ta vẫn gọi là “Sự tha
hóa”.)
1.2. Vấn đề tha hóa trong sáng tác của Nam Cao:
1.2.1. Quan niệm của Nam Cao về tha hóa:
Với Nam cao, thế giới con người thật muôn màu muôn vẻ. Đời sống nhân
vật trong sáng của ông bị ảnh hưởng và chi phối từ nhiều phía.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 6
Nam Cao không đưa ra ý niệm tha hóa cụ thể như Hê - ghen mà ông cụ thể
hóa nó bằng những hiện thực sinh động trong sáng tác của mình. Đó là trạng
thái con người bị mất gốc, bị cắt đứt những giá trị Người, tách rời với những
chuẩn mực đạo đức xã hội. Xa rời cộng đồng, họ biến đổi theo chiều hướng ngày
càng xấu đi, thành những cái khác đối nghịch lại cái ban đầu, những giá trị Người.
Với cách hiểu như vậy, trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng
Tám có khoảng 30 trong 136 nhân vật thuộc kiểu người đang đánh mất dần
nhân tính: liều mạng, hung dữ, bất cần đời như Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ.
Tham ăn, khát uống, giành giật, tồi tệ như anh cu Lộ trong Tư cách mõ, người cha
trong Trẻ con không được ăn thịt chó,
Trước Nam Cao đã có nhiều nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng cũng đã viết nhiều về vấn đề tha hóa của con người
ở hai lĩnh vực giàu – nghèo trong xã hội. Họ tập trung miêu tả nhân vật bị tha hóa
bề ngoài. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả nhân vật Tám Bính dù tha hóa
nhưng trước sau vẫn là một tâm hồn phụ nữ thuần hậu giàu đức hi sinh, muốn
sống bằng bàn tay lao động của mình. Còn Vũ Trọng Phụng miêu tả sự trụy lạc
của con người do những dục vọng không thành, đó là tình trạng tha hóa của
Long, Mịch, ông bà đồ Uẩn trong Giông tố. Ông không phơi bày những tính hư
tật xấu của nhân vật, mà từ trái tim nhân hậu, yêu thương trân trọng con người
đã cho thấy tha hóa là một quá trình biện chứng có tính quy luật do nhiều yếu tố
tác động. Cả hai yếu tố trên cũng có quan hệ biện chứng, hoàn cảnh tác động và
trách nhiệm của bản thân không vượt lên được hoàn cảnh. Đó cũng chính là
vần đề cốt lõi hình thành quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống. Từ
đó, ta có thể hình dung được phong cách và tầm vóc của nhà văn trong xã hội
đương thời.
1.2.2. Nguyên nhân của sự tha hóa:
1.2.2.1. Tha hóa do tự thân.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 7
Là nhà văn hiện thực, Nam Cao đã có cái nhìn tổng thể về con người, con
người chịu sự chi phối của hoàn cảnh sống và bản thân con người cũng bất
lực trước hoàn cảnh sống.
Trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng, cái đói, miếng ăn cứ
trở đi, trở lại như một quy luật, một nỗi ám ảnh đeo bám con người. Các nhà văn
cùng thời Kim Lân, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan…Cũng đau lòng, nhức nhối trước tình trạng đói nghèo, tha hóa ở người
nông dân. Còn đối với Nam Cao nó không chỉ tập trung ở người nông dân cùng
khổ, mà còn ở những người trí thức.
Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao đã tự thân tha hóa ở nhiều phương
diện khác nhau, từ cách ăn mặc, suy nghĩ tới lời nói và hành động của mình.
1.2.2.2. Tha hóa do các tác nhân ngoại cảnh.
Nam Cao không chỉ thể hiện lòng thông cảm, xót thương cho những
người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội mà còn thể hiện những trăn trở, dằn
vặt khôn nguôi trước cuộc sống vô nghĩa, bế tắc. Nhà văn buồn cho những kiếp
người nhưng vẫn tin tưởng ở họ. Tin ở bản tính hiền lành, chất phát của con
người. Nên các nhân vật của ông không buông xuôi, thụ động mà luôn tích cực,
chủ động vươn lên trong cuộc sống.
Các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao dù tự thân tha hóa hay do tác
động của ngoại cảnh thì kết cục của những sự tha hóa đó thường là cái chết nhưng
không phải cái chết theo quy luật sinh hóa lẽ thường (Sinh Lão bệnh Tử).
Các nhân vật rơi vào bi kịch, tha hóa, tìm đến cái chết nhưng không phải là
cái chết ngờ nghệch, mù quáng. Vì thế, mà cái chết của các nhân vật được Nam
Cao miêu tả không hề vô nghĩa. Đó là hồi chuông thức tỉnh mọi người, cảnh báo
một xã hội đầy rẫy những bất công, phi lí.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 8
Chương 2: PHƯƠNG DIỆN VÀ HỆ QUẢ CỦA SỰ THA HÓA TRONG
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
2.1.Các phương diện của sự tha hóa:
2.1.1. Tha hóa về đạo đức - nhân cách:
Đạo đức - một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội
thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực đời
sống của xã hội không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức
điều chỉnh hoạt động quần chúng như pháp quyền, những sắc lệnh nhà nước,
những truyền thống dân tộc… Những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn
phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự
ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này, có tính chất tương đối bền vững. Trong đạo
đức, bên cạnh ý thức xã hội, ý thức cá nhân đóng một vai trò không kém quan
trọng. Dựa vào những quan niệm đạo đức, lĩnh hội những quan niệm đó trong
quá trình giáo dục, với mức độ đáng kể, cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của
mình và tự nhận định về ý nghĩa đạo đức với tất cả những gì diễn ra chung quanh.
Nét đặc trưng của nhân cách là thừa nhận “Cá nhân” là hiện thực có trước
và là giá trị tinh thần cao nhất, hơn nữa “Cá nhân” được hiểu như yếu tố tinh
thần đầu tiên của tồn tại. Tha hóa về đạo đức – nhân cách thể hiện trong sự
phát triển của cá nhân theo chiều hướng ngược lại những chuẩn mực đạo đức xã
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 9
hội. Nam Cao viết nhiều về những người trí thức tiểu tư sản, tức nhắm vào
tầng lớp mình, bản thân mình.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng con mắt của tình thương, do đó tiếng nói của
ông bao giờ cũng mang âm hưởng của tình thương. Xuất phát từ quan niệm sống
tích cực về con người nhằm giúp con người nhận ra và biết xấu hổ về những gì
là phàm tục, tầm thường của bản thân trong cái môi trường xã hội tù hãm, u
ám và thê thảm vây quanh họ. Những trang viết của Nam Cao luôn có âm hưởng
mỉa mai, chua chát pha chút đáng cay ngậm ngùi, đó là nỗi đau triền miên của
tác giả trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm. Như Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đã có một nhận định tinh tế và xác đáng về thái độ của
Nam Cao: “Nam Cao ghét cay, ghét đắng những lối phàm tục tiểu tư sản. Đặc
biệt là lối sống nhỏ nhen, ích kỷ, tính giả dối và thái độ hèn nhát. Mỗi truyện
ngắn, truyện dài của ông viết về tiểu tư sản là một cuộc phân tích và chế giễu
cay độc những thói xấu ấy…. Tình trạng bế tắc ấy đã đem đến cho Nam Cao một
giọng văn riêng, vừa ngậm ngùi buồn tủi, vừa cay đắng chua chát lại pha chút tự
trào cười ra nước mắt”
2.1.2. Tha hóa trong lối sống - hành vi.
2.1.2.1. Con người chạy trốn thực tại:
Đúng hơn là đối diện với chính mình, với thực tại, nhân vật của Nam Cao
luôn có sự đấu tranh, giằng co tư tưởng rất quyết liệt để vươn lên cuộc sống
xứng đáng.
Nghệ thuật và đời sống luôn mâu thuẩn, muốn lao động sáng tạo nghệ thuật
nhưng những khó khăn trong cuộc sống thật khó thực hiện, không yên tâm mà
nghĩ đến việc viết văn. Đó là mâu thuẩn gặp nhiều ở những nhân vật trí thức như
Hộ, Điền, Thứ… Mơ ước của họ chỉ muốn viết văn sao cho hay, có giá trị, xây
dựng một sự nghiệp văn chương chân chính trước cuộc sống vô cùng khó khăn,
hằng ngày phải lo cơm áo. Nhân vật của Nam Cao chạy trốn thực tại khi đã đối
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 10
diện với nó, đấu tranh tồn tại với nó. Họ chỉ buông xuôi khi không thể níu kéo.
Điều đáng trân trọng ở họ luôn có lòng tự trọng về nghề nghiệp và mơ ước.
Họ không ôm đồm, nữa vời để viết những tác phẩm vô vị.. Nam Cao đã không
để nhân vật có một cái nhìn phiến diện, chủ quan mà luôn biết đặt mình vào
hoàn cảnh của người khác.
Nam Cao xây dựng nhân vật rất khác các nhà tiểu thuyết lớp trước. Thế
giới nhân vật của ông không gồm hai mặt chính diện và phản diện rạch ròi. Mà
các nhân vật cũng không thống nhất giữa diện mạo và phẩm chất. Dưới ngòi bút
của ông các nhân vật thường đa dạng, phức tạp nhưng rất gần với cuộc sống.
Cuộc sống thực tế chi phối và tác động đến tính cách của nhân vật. Các nhà văn
hiện thực trước như Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng… Xây dựng các nhân vật phần nhiều thể hiện trên bình diện đạo đức, xã
hội. Còn các nhân vật của Nam Cao ngoài các bình diện trên, còn được nhà văn
chú ý đến bình diện đời sống tự nhiên, bản năng và nội tâm phức tạp.
2.1.2.2. Con người giành giật nhau từng miếng ăn:
Dân tộc ta bị giặc ngoại xâm bóc lột hàng ngàn năm, từ giặc phương Bắc
đến thực dân Pháp. Đối với nhân dân ta miếng ăn, manh áo đã trở thành nỗi ám
ảnh, sự đấu tranh sinh tồn. Thực tế đó đã được phản ánh nhiều từ văn học dân
gian, đến văn học trung đại và hiện đại. Còn đối với Nam Cao, miếng ăn là sự
thách thức ghê gớm đối với nhân cách con người, nó phá vỡ những mối quan
hệ, tình cảm thân thuộc hằng ngày hay những giá trị nhân bản. Nam Cao là đại
biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực thời kì này, ông miêu tả số phận người
nông dân cùng quẫn trong xã hội nửa thực dân phong kiến như Chí Phèo . Trong
ăn uống, người ta vẫn ưu tiên cho người có tuổi những món ngon, hiếm như sự
kính trọng. Trong sáng tác của Nam Cao, đời sống con người là sân khấu bi kịch
và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng xoay quanh việc giành giật miếng ăn
để sống. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá những suy tư của
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 11
con người về nhiều góc độ của miếng ăn. Miếng ăn cứu đói, miếng ăn giữa làng
hay miếng ăn vì danh dự. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả miếng ăn
rất phong phú, nó gắn liền với hoàn cảnh sống của con người. Tác giả mong
muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống xung quang cái ăn, cái uống. Nhân
tính con người một phần cũng được thể hiện ở đây. Chí Phèo phải thay hình đổi
dạng, đổ máu dọa nạt người khác để kiếm ăn, một lão Hạc tự vẫn cũng muốn giữ
lại phần của con, hay người cha “Nghèo” treo cổ cũng không muốn ăn cơm trong
khi con mình phải ăn cám… Nhân vật không chỉ tha hóa khi giành giật miếng ăn
của nhau, mà còn tha hóa khi tìm cái chết để giữ lại miếng ăn cho người khác. Ở
khía cạnh này, tha hóa có tính bi kịch hơn, đau đớn hơn. Rõ ràng, vấn đề ăn để
mà sống luôn gắn với sự tồn tại nhưng chết để giữ lại miếng ăn cho người khác
thì cái chết ấy thật ý nghĩa. Hay cái chết no của bà cái Đĩ. Cái chết trong quằn
quại vì ăn bả chó của Lão Hạc. Cái chết vì xấu hổ và trì độn của lang Rận và mụ
Lợi. Và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm trong Nghèo. Hầu hết
họ đều chủ động tìm đến cái chết, chết trong sự bần cùng, bế tắc, bi kịch.
2.2. Hệ quả của sự tha hóa:
2.2.1. Đánh mất chính mình:
Đánh mất chính mình là một dạng của sự tha hóa. Con người đã không còn
giữ được tính cách, phẩm chất của mình, thay đổi thành một con người khác đối
lập với chính mình trước đây. Sự tha hóa này nhằm thích nghi với cuộc sống
hiện tại, với xu hướng mới, gạt bỏ đi những giá trị tốt đẹp vốn có.Những diễn
biến tình cảm suy tư của của thế giới bên trong nhân vật làm cho người đọc có
những cảm giác giày vò, nhức nhối về cuộc sống có phần bế tắc của họ. Đó cũng
là hồi chuông mà Nam Cao muốn cảnh báo đến những thành phần trong xã hội
muốn đổi đời bằng con đường bất chính, tha hóa. Cuộc sống chỉ thực sự có ý
nghĩa khi con người làm ra của cải vật chất bằng chính đôi bàn tay và khối óc,
bằng lao động chân chính. Những nhân vật như Bá Kiến trong “Chí Phèo”, Nghị
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 12
Hách “Giông Tố” hay Nghị Quế “Tắt Đèn”… Họ đã đánh mất con người của
mình từ lâu. Với họ, ngoài đồng tiền, địa vị và quyền lực trên đời này không còn
gì đáng quan tâm cả.
2.2.2. Làm mất tính người.
Các nhân vật đánh mất tình người phần nhiều do hoàn cảnh tác động. Cuộc
đời họ cứ vậy trôi chảy trong sự bất lực của bản thân, tác giả cũng xót xa nhìn
nhân vật của mình cứ trượt dài trong quá trình đánh mất mình. Hiện tượng biến
chất ở nhân vật Chí Phèo và hàng loạt những nhân vật khác như Binh Chức,
Năm Thọ, Trương Rự… Đều do hoàn cảnh xô đẩy như một quy luật không
cưỡng lại được.
Hoàn cảnh sống có khả năng làm tha hóa con người, con người muốn không
bị tha hóa thì phải có ý thức chống lại những mặt tiêu cực của bản thân. Nhưng
trớ trêu thay, họ lại là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác giả đã cho thấy áp lực của
hoàn cảnh gây sức ép đẩy nhân vật vào cảnh ngộ bi đát. Hầu hết, họ đều vùng vẫy
trong sự bế tắc để chống lại hoàn cảnh như sự nghèo khổ, miếng cơm manh áo,
cái tầmMái ấm gia đình là sợi dây vô hình ràng buộc con người sống với
nhau, có tình thương và trách nhiệm. Dù hoàn cảnh sống có chật vật, khó khăn
nhưng mối quan hệ của các thành viên trong gia đình luôn tác động với nhau
vươn lên trong cuộc sống. Có đôi lúc, họ xem sự hiện diện của người khác là
trách nhiệm, là gánh nặng cho bản thân họ. Dạng người mà Nam Cao miêu tả,
hiện nay khá phổ biến trong xã hội. Biết bao đứa trẻ bị bỏ rơi trong bệnh viện
khi vừa chào đời, người ta không còn nói riêng trẻ mồ côi mà nói chung “Trại
trẻ mồ côi”. Hay những người già neo đơn, cơ nhỡ, họ không phải không có
người thân mà họ có cả một gia đình hẳn hoi, nhưng đã bị chính những người
con, những người cháu được họ nuôi dưỡng khôn lớn đã ném họ ra ngoài xã hội
trong tuổi già vì nhiều lí do khác nhau nhưng nhìn chung cũng chỉ vì đồng tiền và
sĩ diện. Vì đồng tiền người ta đã tha hóa, đánh đổi tất cả, trước tiên là đánh mất
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 13
bản thân. Đánh mất những giá trị nhân bản, phá vở những truyền thống tốt đẹp.
Thông qua cái chết mòn về thể xác do nghèo đói, Nam Cao muốn nhấn mạnh
đến cái chết về nhân tính đang diễn ra hàng ngày ở mọi nơi, mọi giới trong xã
hội. Vẫn còn đó những con người bất hạnh, khổ sở, những thân phận tù túng
không lối thoát hay những con người đã mòn mỏi mưu sinh đến kiệt quệ. Một xã
hội có giai cấp bóc lột, bị bóc lột, giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị. Những
người bị tha hóa ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Những giá trị đạo đức
truyền thống không còn đủ sức mạnh để gìn giữ, bảo vệ các mối quan hệ. Thì
nay, nông thôn cũng bị thành thị hóa về đời sống tư tưởng. Thì cái làng quê trong
sáng tác của Nam Cao là cuộc sống bình thường nhưng đầy bất ổn, rạn vỡ khi
đời sống con người đang băng hoại dần, tha hóa, biến chất. Nó được biểu hiện
qua bộ mặt của bọn cường hào hoặc những viên quan phụ mẫu. Chúng không
phải là chỗ tin cậy, hay chỗ dựa của những người dân thấp cổ bé miệng, Những
con người lam lũ, nhếch nhác không trông đợi được ở chúng sự công bằng. Mà
họ luôn chịu những oan ức bất công trong sự chịu đựng, câm lặng và tuyệt vọng
Nếu cái đói diễn ra thường xuyên, dai dẳng và lan rộng thì hệ quả của nó là cái
chết, mặc dù không phải tất cả cái đói đều dẫn tới cái chết. Dù chết vì bệnh hay
chết vì no nhưng nhìn chung do cái đói gây ra. Cái đói hủy hoại con người cả
thể xác lẫn tinh thần, hủy hoại cả nhân tính, cứ nhìn vào cách nói của bà Phó
Thụ cũng có thể khẳng định đối với người làm thuê và người thân của họ bà
chẳng thể hiện một chút cảm tình nào. Nam Cao đã phơi bày sự thật về những
thực trạng đau lòng, những thảm cảnh của người nông dân không có ruộng cày,
không có vườn tược. Họ phải tính toán, xoay xở mọi cách để sống qua ngày
như đi ở, đi làm thuê, cuốc vườn, vay nợ, chạy chợ, bán con, ăn xin, ăn chực,
lên rừng,… Tác giả cứ lật đi lật lại từng hoàn cảnh sống, từng khía cạnh tâm hồn
của mỗi người. Các hoàn cảnh điển hình đều có khả năng nhân rộng, khuất tán ra
toàn xã hội, có tính phổ quát của đời sống nhân dân lũ, sống nhịn nhục, cam
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 14
chịu sức ép từ nhiều phía Rõ ràng, các sáng tác của Nam Cao luôn có các mặt
tưởng chừng như trái ngược nhau mà thống nhất với nhau để làm rõ các khí
cạnh của vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Điều đó, ông giúp cho người đọc có
cái nhìn vừa khái quát, vừa chi tiết về sự phong phú trong các trang viết của
ông. Đồng thời, đây cũng là cơ sở cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu rõ hơn về
bộ mặt nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Cái làng quê phía sau lũy tre làng
có vẻ yên lành ấy vẫn tồn tại rất nhiều mặt trái của con người. Bởi thế, dù rất
thương yêu vợ và vợ rất chung thủy với mình Dù tha hóa ở các mức độ khác
nhau, nhưng nhìn chung họ đều đánh mất tính người. Dư âm của mỗi hoàn cảnh
luôn để lại nỗi xót xa trong lòng người đọc. Cái chết và tội lỗi luôn rình rập con
người, nếu họ yếu đuối sẽ dễ bị sa ngã, rơi vào con đường tù tội, tan nhà nát
cửa. Còn nếu họ tỉnh táo hơn thì họ lại chọn cái chết như một sự giải thoát hay
mang theo một niềm hy vọng nào đó gởi gắm lại cho những con người ở lại. Các
trang viết của Nam Cao như hồi chuông dài, rung, vang, lan rộng đến mọi người
đang im lìm, cam chịu, chờ chết. Và cũng báo hiệu một xã hội đang thoái trào,
đang chết mòn, chết mỏi trong sự bất lực của con người. Với tư cánh là nhà văn
hiện thực luôn quan tâm, bênh vực quyền sống của con người trong xã hội thực
dân phong kiến, Nam Cao không ngần ngại phơi bày trên các trang viết của
mình về thực tiễn những gì đang diễn ra trong xã hội đương thời.
2.2.3. Thay đổi các mối quan hệ:
Trong đó, các quan hệ xã hội có tính chất đặc biệt. Con người có quan hệ
với những sự vật do họ tạo ra, với thế giới khách quan và những người khác. Do
đó, con người soi thấy bản thân mình trong cái thế giới mà họ khám phá ra và bắt
đầu quan hệ với bản thân mình với tính cách là một con người (Có sự tự ý thức)
chỉ khi có quan hệ với người khác như với một cái gì giống bản thân mình. Chính
vì thế, một mặt giải thích bản chất xã hội của ý thức con người và mặt khác giải
thích sự cần
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 15
thiết phải nghiên cứu các quan hệ xã hội để nhận thức lịch sử và nhận thức
mối quan hệ giữa con người với con người.
Mối quan hệ hợp tác làm ăn, chung sống, thể hiện rõ trong “Sống mòn” Thứ,
San, Oanh cùng sống chung một nhà, ăn chung một bàn, làm chung một chỗ, lúc
đầu họ sống rất thân thiết, gắn bó. Nhưng sự tha hóa của Oanh đã phá vỡ mối
quan hệ tốt đẹp vốn có của các thành viên trong nhà. Thứ và San đứng về một
phía đối trọng lại với Oanh từ suy nghĩ cho đến hành động đều thể hiện sự tương
phản, bất hòa. Thông thường, mối quan hệ chỉ tốt đẹp khi lợi ích của các bên
được đảm bảo. Từ đó, có sự ràng buộc qua lại và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời
cần có nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đó là trường hợp lúc mới lập trường,
Còn trong sáng tác của Nam Cao, ở đề tài này chỉ tìm hiểu quá trình tha hóa của
các nhân vật làm thay đổi các mối quan hệ. Các mối quan hệ trong sáng tác của
Nam Cao rất đa dạng như quan ra một thế lực đàn em như Binh Chức, Năm Thọ
và đặc biệt Chí Phèo đã trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến …. Nhưng họ đều
đều bị tầng lớp trên sử dụng như một con chốt trong kế hoạch gây áp giữa các phe
cánh. Cho nên, Mối quan hệ sống còn của các phe phái địa chủ, cường hào, ác
bá luôn bộc lộ những âm mưu nham hiểm, thâm độc mà nạn nhân trực tiếp của
chúng là đám dân lành thấp cổ bé họng. Chúng đấu tranh với nhau rất âm thầm
mà gay gắt, kín đáo mà sôi nổi. Tất cả nói lên bộ mặt tha hóa của giai cấp thống
trị, mối quan hệ đó ngày nay vẫn tồn tại, vẫn diễn ra hằng ngày ở các cấp lãnh
đạo, ở các cơ sở lao động sản xuất. Nạn đâm chọc nhau, ép phe nhau, gây hấn
nhau, âm thầm cấu kết nhau tạo thế lực, chạy chọt vận động hành lang… Để tạo
thế lực, sự ảnh hưởng, tiếng nói mạnh trong các vấn đề tranh chấp, bảo vệ quan
điểm, quyền lợi địa vị cá nhân và vây cánh thay vì chân thành góp ý phê bình,
xây dựng, rút kinh nghiệm. Một xã hội văn minh, tiến bộ khi mà các cấp lãnh
đạo có quan điểm trong sáng, tất cả vì lợi ích của nhân dân, đấu tranh cho tập
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 16
thể tiên tiến đại diện cho dân, thẳng thắn góp ý xây dựng vì lợi ích chung. Như
thế, mục đích và âm mưu của bọn người tha hóa sẽ không tồn tại.
Trong các quan hệ gia đình các thành viên tha hóa làm thay đổi các mối
quan hệ vốn được xem là vững vàng do được xây dựng trên nền tảng đạo đức,
sự ràng buộc của hôn nhân và tình nghĩa cha mẹ, vợ chồng, con cái. . . Lối sống
tự kỷ, ham muốn, đua đòi, vì bản thân mình gạt bỏ người thân, tình ruột thịt đó là
biểu hiện của xu hướng rất phổ biến trong xã hội đương thời. Người ta có thể vì
ham muốn, thỏa mãn dục vọng của bản thân sẳn sàng bỏ cha, mẹ, vợ chồng, con
cái… Báo chí thường xuyên có những bài viết về con cái hất hủi cha mẹ khi già
yếu, bệnh tật hay hết nguồn khai thác, bòn rút tiền bạc. Với tình yêu thương, cưu
mang của cha mẹ đối với con cái, lòng tôn kính, phụng thờ của con cái với cha
mẹ tạo nên sứ mạnh bên vững của mối quan hệ này. Nếu cha mẹ đối xử bạc
nhược đối với con cái cũng vi phạm đạo lí làm người, cha mẹ đã chấp nhận sinh
ra con cái, đó chính là khúc ruột của mình, mang nặng đẻ đau. Còn nếu con cái
đối xử thậm tệ với cha mẹ cũng vi phạm đạo hiếu, công ơn sinh thành, dưỡng dục
đến ngày khôn lớn thành người. Ca dao luôn nhắc nhỡ “Một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con hay cơm cha áo mẹ chữ thầy, nghĩ sao cho bõ
những ngày ước ao”. Nhưng thực tế đời cuộc sống muôn màu muôn vẻ nhiều gia
đình trên dưới đảo lộn. Miếng ăn và ham muốn tầm thường đã làm thay đổi các
mối quan hệ. Bên cạnh những người cha hết lòng vì gia đình con cái đến hi sinh
cả tính mạng như lão Hạc, anh Chuột, anh Phúc... Mặt khác có những con
người sống cho thỏa mãn bản thân, bỏ bê gia đình con cái, chạy theo những
ham muốn tầm thường, phá vỡ các mối quan hệ tốt đẹp của gia đình. Sự tha hóa
của họ làm thay đổi cuộc sống, đi ngược lại những giá trị đạo lý. Cái nghịch lí
đó cho thấy các hạng người khác nhau trong xã hội, có người hi sinh bản thân
để giữ gìn mối quan hệ, đảm bảo sự sinh tồn, sống có trách nhiệm. Có kẻ vì bản
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 17
thân, phá vỡ quan hệ, tìm kiếm sự tồn tại cho mình trên sự đau khổ của người
khác, vô trách nhiệm.
Bên cạnh đó, còn có mối quan hệ giữa tầng lớp thống trị nông thôn như lý
tưởng, cường hào với đám đông dân chúng, nói chung là mối quan hệ giữa tầng
lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Chẳng hạn, ở cái làng Vũ Đại nhìn bề ngoài thì rất
yên ả nhưng bên trong thì các phe đối lập luôn gầm ghè với nhau như cánh Bá
Kiến và Đội Tảo – những phe cánh thống trị, ngoài việc chúng mâu thuẩn với
nhau, thì mối quan hệ giữa chúng và đám đông dân chúng trong làng cũng
không hòa hợp. “Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ
hả: xưa nay họ chỉ mới được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ Bá chửi
người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại nhà cụ Bá. Mà chửi mới
sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao.” Tất cả đều sợ sệt, yếu ớt, nhu
nhược. Nói đúng hơn, họ là một tầng lao động cố nông, nhiều đời bị đè đầu cưỡi
cổ, không dám phản ứng lại. Họ không phải là giai cấp, không có tổ chức chức
lãnh đạo, nên chỉ sống lầm lủi từ đời này qua đời khác. Còn các thế lực thống
trị, cũng chẳng đại diện cho dân thế nhưng vẫn cứ dửng dưng tồn tại và cũng cố
thế lực uy danh qua nhiều đời, đời nào cũng tha hóa, đời nào cũng mâu thuẩn
với dân. Trong mối quan hệ này, phần thiệt luôn thuộc về tầng lớp thấp. Liên
tiếp những câu khẳng định với thái độ nghiêm túc, dõng dạc đầy quyết đoán. Lúc
này là lúc tinh thần anh mạnh mẽ nhất, sáng suốt nhất với bản lĩnh quyết tâm cao
độ nhất. Thế mà, thái độ của đám đông chỉ dừng Vì thế, chỉ khi Cách mạng
tháng Tám nổ ra thì mối quan hệ đó mới bị phá vở. Chúng bị lật đổ như quy luật
tất yếu của lịch sử. Ngoài ra, còn có mối quan hệ giữa các đôi trai gái dựa trên
tình cảm yêu đương chân chính. Họ mong muốn được sống bên nhau, nên vợ
nên chồng thành một gia đình hạnh phúc như bao gia đình khác. Thế nhưng,
hạnh phúc lứa đôi không phải một người mong muốn là được. Trong các mối
quan hệ, Nam Cao miêu tả thì mối quan hệ giữa các đôi trai gái là khá phức tạp
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 18
và dễ thay đổi. Bởi chúng không có cơ sở ràng buộc rõ ràng, nên sự phá vỡ các
mối quan hệ trên cũng không cần phải có lý do chính đáng. Đặc biệt, cách cư xử
của các nhân vật bị phụ bạc vẫn thể hiện được tính nhân văn, cao thượng. Họ
không hành xử một cách manh động hay trả thù cá nhân mà lại rất thấu tình
đạt lý. Hùng chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng người yêu mình ân ái với chàng
trai trẻ, anh chỉ âm thầm lặng lẽ rút lui. Bởi anh là nhà văn, anh có cách cư xử
của người trí thức. Ở chương trên, khi trình bày các phương diện và hệ quả của sự
tha hóa, luận văn chủ yếu tập trung vào một số phương diện và hệ quả mang tính
đạo đức, tư tưởng, hành vi và lối sống của các nhân vật. Thật khó để liệt kê và
trình bày hết các phương diện của sự tha hóa, nói đúng hơn còn rất nhiều phương
diện khác, nên chương này chỉ nêu các phương diện ở mức khái quát của phạm
trù đạo đức và lấy đạo đức làm chuẩn để lựa chọn các phương diện của sự tha
hóa. Về phần hệ quả của sự tha hóa, người viết chỉ trình bày theo hướng hậu quả
mà sự tha hóa đem lại. Phần nhiều, các hệ quả dựa trên bản thân nhân vật và mối
quan hệ giữa các nhân vật với nhau. Nhìn chung, chương này vẫn còn nhiều hạn
chế khi đặt tiêu đề cho các luận điểm, diễn đạt con nặng nề, dông dài, đề cao tính
giáo huấn, nhiều dẫn chứng chưa gọn, tiêu biểu. Bởi vậy, vấn đề mà chương này
nêu ra được là đi tìm những hiện tượng tiêu cực của nhân vật trong các trang viết
của Nam Cao. Cái tha hóa đó không chỉ nêu ra mà còn là sự cảnh tỉnh cho mọi
người.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 19
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SỰ THA HÓA TRONG SÁNG
TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
3.1. Miêu tả nhân vật:
Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người có tên tuổi, danh phận
như lão Hạc, Hộ, Chí Phèo… Cũng có những nhân vật không tên như bà cô thị
Nở (Chí Phèo), người bà (Một bữa no), người cha (Trẻ con không được ăn thịt
chó)… Trong thần thoại, nhân vật là các thần. Trong truyện ngụ ngôn, nhân vật
thông thường là những con vật như con cáo, con sói… Mang tính cách con
người. Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao rất phong phú, đa dạng cả về ngoại
hình, tính cách, nội tâm, hành động, cử chỉ. Một số nhân vật có những nét tương
đồng về tính cách, suy nghĩ như Thứ, Hộ, Điền… Phần lớn các nhân vật khác
đều có những nét riêng, tiêu biểu cho sự đa dạng về các hạng người trong xã hội.
3.1.1. Về ngoại hình:
Ngoại hình nhân vật có tính tha hóa thể hiện ở hầu hết các hạng người trong
sáng tác của Nam Cao. Nhưng tiêu biểu vẫn là những nhân vật như Chí Phèo, thị
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 20
Nở, lang Rận, Trạch Văn Đoành, mụ Lợi, Oanh … Ngoại hình cũng như tính
cách của họ đều không bình thường, có phần quái dị, gớm giếc nhưng lại rất
sống động, chân thật. Đó là những con người thật của xã hội bấy giờ, mà ít nhà
văn đưa họ vào trong các sáng tác của mình. Có chăng, Nam Cao đã cho thấy cuộc
sống nghèo khổ, đói khát, bất công hoặc tù đày đã làm họ biến dạng, xấu xí đi và
tha hóa đến như vậy.
Chẳng hạn, một Chí Phèo được xây dựng theo cách đặc biệt biểu thị tính cách
lưu manh hóa “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai.
Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết! Hắn mặc
quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét trạm trổ
rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông
gớm chết Hắn về
hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa
đến xế chiều. Rồi say khướt, Hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến,
gọi tận tên tục ra mà chửi”. Với bộ dạng này, lúc đầu không ai nhận ra Chí Phèo,
ngay cả những người sống cùng làng, cùng quê với hắn. Cùng với sự thay đổi
hình dạng là sự thay đổi nhân tính. Từ một anh canh điền hiền lành, chăm chỉ
trở thành một tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chính cái chế độ nhà tù
thực dân đã hủy hoại cả hình hài và nhân tính của anh, chỉ thoáng qua vẻ bề
ngoài cũng toát lên sự tha hóa, ẩn chứa nhiều điều bất an nơi nhân vật.
Nam Cao miêu tả ngoại hình nhân vật có vẻ dị lập nhưng rất hài hòa và
tạo ấn tượng cho người đọc, có thể nói ngoại hình của mỗi nhân vật không lặp lại
mà mỗi dáng vẻ đó đều bộc lộ một tính cách rất riêng. Cuộc sống quá nghèo khổ,
đói khát có thể làm cho vẻ bề ngoài của nhân vật tha hóa, nhưng tâm hồn họ vẫn
tiềm ẩn vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Sự nghèo đói, bệnh tật, bất công đã dồn ép xô
đẩy họ đến ngõ cụt của cuộc đời. Nó làm biến dạng đi cả thể xác và tâm hồn
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 21
của những người dân hiền lành, lương thiện. Biến họ thành những con vật đội
lốt người, đần độn, ngơ ngẩn, tàn bạo, điên loạn. Nếu họ không có những phút
giây tĩnh tâm thì họ sẽ chết vùi trong thảm cảnh của đời mình. Nhưng tiếc rằng
khi họ nhận ra thảm cảnh của đời mình cũng là lúc bị kịch kết thúc.
3.1.2. Về nội tâm:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa nội tâm “Tâm tư, tình cảm, suy nghĩ riêng
của từng con người, đời sống nội tâm phong phú đa dạng, khó có thể miêu tả
nội tâm của các nhân vật”. Khi miêu tả nhân vật, Nam Cao không chỉ sắc sảo
về ngoại hình mà còn rất có biệt tài miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của
nhân vật. Với thủ pháp độc thoại nội tâm, nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ và tâm
trạng của mình. Dù là người nông dân nghèo như Chí Phèo, thị Nở, Trạch Văn
Đoành, lang Rận, người trí thức nghèo như Thứ, Điền, Hộ, hay bọn cường hào
ác bá như Bá Kiến đều có thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, nhiều mâu
thuẩn, đấu tranh tư tưởng mà lại thống nhất.
Con người chỉ liều vì mạnh và khi không còn mạnh thì người ta không dám
liều mà nghĩ đến sự tồn tại những ngày tháng còn lại của cuộc đời. cái bản chất
tha hóa trong tâm trạng của nhân vật. Nhất là sự giả tạo, cái đạo đức giả đã được
đề cập nhiều trong các trang viết của Nam Cao. Với Điền trong “Giăng sáng” Có
thể thấy được sự đồng điệu về tâm trạng của những người trí thức nghèo trong
các trang viết của Nam Cao. Đời sống cơm áo và mơ ước nhỏ nhoi luôn tương
phản với nhau, nếu họ lo cơm áo hằng ngày thì không thể nghĩ đến nghiệp văn
chương, còn nếu theo nghiệp văn chương thì lấy tiền đâu cho cuộc sống quá nghèo
khổ. Và họ cũng thừa biết sẽ không bao giờ ổn định được cuộc sống lấy gì mà
đảm bảo được hoài bảo, nhưng lại không thể bỏ nó. Đó chính là bi kịch. Nhìn
chung việc miêu tả nội tâm của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao hầu hết
được thể hiện trên cơ sở độc thoại nội tâm. Nhân vật tự đối thoại với chính
mình trong những lúc cô đơn, trống vắng, đau khổ, thất vọng cùng những cuộc
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 22
đấu tranh tư tưởng gay gắt để nghiền ngẫm về lẽ sống, nhìn lại bản thân, trở về
với chính mình. Thông qua thế giới nội tâm, nhân vật bộc lộ đầy đủ nhất cả diện
mạo và tính cách. Đặc biệt là bản chất tha hóa của nhân vật được biểu thị qua tâm
trạng nhân vật. Từ đó, có thể khẳng định rằng: Nam Cao là bậc thầy miêu tả
nội tâm nhân vật dù dung lượng truyện ngắn có giới hạn.
3.1.3. Về hành động, cử chỉ:
Bên cạnh những nét đặc sắc của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao về
ngoại hình và nội tâm. Tác giả còn rất thành công trong việc thể hiện hành
động và cử chỉ nhân vật. Nhất là những hành động, cử chỉ biểu hiện sự tha hóa
của con người. Đó là những biểu hiện phi nhân bản, mất tính người. Nó phản ánh
cách cư xử, đối đãi với nhau trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Có
những hành động cử chỉ mang tính tự phát, còn lại đều có ý thức, động cơ và
nguyên nhân rõ ràng. Vì thế, hành động của nhân vật là biểu hiện cuối cùng
của thế giới nội tâm phức tạp. Những suy nghĩ, âm mưu, toan tính… rồi cũng
được thể hiện qua các hành động, cử chỉ. Nó là kết quả đánh giá mức độ tha hóa
của tư duy, cũng là cơ sở kiểm chứng quá trình nhận thức của con người trước
các vấn đề. Một thực tế xã hội đã có từ trong văn học dân gian, nay lại được
Nam Cao làm sống lại một cách mới mẻ. Với hành động và cử chỉ của Chí Phèo
khi gặp thị Nở, tuy đang ở trạng thái say khước nhưng toan tính và biểu hiện thì
tỉnh táo. “Chí Phèo vẫn say sưa nhìn và run run. Bổng nhiên hắn rón rén lại gần
Thị Nở: Lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng, thoạt tiên, hắn xách cái lọ để
ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị…Và thị Nở giật mình. Thị mới
kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị… Thị vùng vẫy để ra, thị mở mắt,
thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn và hổn hển:
Ô hay… Buông ra… Tôi kêu… Tôi kêu làng… Buông ra. Tôi kêu làng lên bây
giờ. Thằng đàn ông cười phì. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn
mới kêu làng thôi; sao người ta lại kêu làng tranh của hắn, bổng nhiên hắn la lên,
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 23
kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm. Vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị
Nở trố mắt ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn
chưa chịu thôi kêu làng.” Từ ngày về làng, chưa bao giờ Chí Phèo có một bữa
uống rượu say đến thế, từ nhà Tự Lãng về hắn chỉ đi theo hướng ra bờ sông,
nơi có cái chòi của hắn. Nhưng khi gặp thị Nở ngủ hở hang thì bản năng thú
tính của hắn trổi dậy . Nam Cao miêu tả hành động của nhân vật phát triển theo
từng giai đoạn, cấp độ từ thấp đến cao, và luôn có sự đột biến trong hành động.
Hành động cử chỉ nhân vật có tính tha hóa rất đa dạng phong phú phù hợp với
hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Sự tha hóa ấy bộc lộ ở tất cả các hạng người
trong xã hội, từ tầng lớp cường hào địa chủ nông thôn, đến trí thức tiểu tư sản và
cả những người nghèo đói bất hạnh. Nam Cao đã phát hiện và miêu tả chi tiết
từng hành động cử chỉ cụ thể cũng như hậu quả của nó. Các hành động cử chỉ
luôn sinh động, biến hóa, bất ngờ… Nhưng đều mang tính chủ quan, có ý thức.
Nên tính chất tha hóa của chúng đều có động cơ và mục đích rõ ràng. Vì thế,
tác giả đã mạnh mẽ phê phán các hành động cử chỉ trên như lời tuyên chiến
công khai với cái ác, cái xấu trong giai đoạn văn học mà ít nhà văn dám nói thật,
nói thẳng vào vấn đề.
3.2. Giọng điệu:
Giọng điệu phản ánh lập trường, thái độ tính cảm và thị hiếu thẩm mỹ của
tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng
truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết
ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật.
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người
trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu.
Giọng điệu trong tác phẩm với cái gọng “Trời phú” của mỗi tác giả, nhưng
mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 24
điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một
giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu.”
3.2.1. Giọng điệu trịnh thượng, kẻ cả:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa trịnh thượng, “Có vẻ oai nghiêm, trang trọng
của người ở vị trí cao”, Kẻ cả “Kẻ cả đàn anh”. Âm điệu buồn, chùn xuống
hướng nhiều vào nội tâm trĩu nặng nỗi ưu tư. Giọng điệu của tác giả nói về nhân
vật của mình đã làm rõ hơn cái thế giới nội tâm nhân vật. Phong Lê trong bài
“Cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn của Nam Cao” nhân kỷ niệm lần thứ 70
ngày sinh của Nam Cao đã nhận xét: “Có một ngôn ngữ tác giả mang chất giọng
riêng của Nam Cao, giàu suy nghiệm, triết lý có thể xem là âm chủ, nhưng chất
giọng đó không lấn át, không che khuất ngôn ngữ nhân vật – là một phương
diện nghệ thuật mà Nam Cao hết sức tôn trọng”.
Ở một phương diện nào đó, các giọng điệu trên biểu hiện sự tha hóa trong lời
ăn tiếng nói của nhân vật. Lời nói quá sự thật, cao ngạo, trịnh trịnh, kẻ cả xem
thường người khác. Nó biểu hiện tính cách nhân vật bị ức chế, bộc phát trong một
thời điểm nhất định.
3.2.2. Giọng điệu giễu nhại:
Giễu nhại thể hiện sự mỉa mai, châm biếm, chế giễu, cười nhạo… Trong bối
cảnh đời sống con người đang chịu nhiều tác động của lối sống thực dụng, khuôn
sáo, lỗi thời. thái độ “Giận cá chém thớt” ấy bộc lộ sự mâu thuẩn trong tâm
trạng nhân vật.
Đọc truyện Nam Cao, ta nhận ra nhiều giọng vẻ khác nhau, đối với giọng
giễu nhại đã mang một đặc trưng riêng, dù lời nói của tác giả, hay của nhân vật
cũng đều có ý nghĩa nhất định. Cái tính giễu cợt, mỉa mai trong giọng điệu ấy
bộc lộ cái suy nghĩ nghiêm túc của nhân vật. Thái độ, tính cách của nhân vật
cũng được bộc lộ ngay trong giọng điệu của họ.
3.2.3. Giọng điệu kể lể, thống thiết.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 25
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa kể lể “Kể dài dòng có ý phàn nàn hoặc than
thân trách phận: kể lể chuyện riêng của mình, nghe kể lể sốt cả ruột. Thống
thiết “Rất đau xót có tác dụng gợi lòng cảm thương một cách sâu sắc, lời lẽ thống
thiết, tiếng kêu cứu thống thiết, giọng văn nghe lâm li thống thiết”.
Khi viết về những cảnh đời bất hạnh, Nam Cao luôn bày tỏ lòng thương cảm
sâu sắc, một tình yêu thương vô hạn, làm xúc động lòng người Trong bài viết
“Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn của Nam Cao” , Phan Diễm
Phương có nhận định “Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta còn gặp lối kể
chuyện bằng nhiều giọng: nghiêm nghị và hài hước, trân trọng, nâng niu và
nhạo, đay mỉa. Các giọng kể này được kết hợp ở nhiều cấp độ: giữa truyện và
truyện, giữa các đoạn, phần trong một truyện và ngay trong từng đoạn truyện”
.Vì thế, sự.đa dạng, phong phú trong giọng điệu của Nam Cao góp phần vào
sự thành công trong những sáng tác của ông trước Cách mạng và đem đến cho
người đọc một thế giới nhân vật sinh động với nhiều tính cách khác nhau.
3.3. Ngôn ngữ:
Theo “Thuật ngữ từ điển Văn học” của Trần Đình Sử “Ngôn ngữ là công
cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ
thuật ngôn từ. M. Gorki khẳng định ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học,
công cụ chủ yếu của nó và – cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc
sống – là chất liệu của văn học. Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn ngôn ngữ
văn học, được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến
lượt mình, nó lại góp phần nâng cao làm phong phú ngôn ngữ nhân dân. Ngôn
ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ, nó được sử
dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp
nghệ thuật. Ngôn ngữ của các tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức trên
cơ sở nhịp điệu, cô đọng, hàm xúc, gợi cảm. Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ các nhân
vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và gần gũi với tiếng nói thông thường
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 26
nhân dân. Ngôn ngữ của các tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ
của nhiều tính cách, đặc biệt, ngôn ngữ của người kể chuyện giữ vai trò quyết
định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.
3.3.1. Ngôn ngữ giàu tính triết lí:
Đi tìm triết lí sống tức là tự đặt ra nhiều câu hỏi cho chính bản thân mình, từ
lối suy nghĩ đến cách sống, tự mình soi xét lại cuộc sống của chính mình, soi xét
lại cách nhìn của mình đối với xã hội và cả những gì xã hội đem đến cho mình.
Từ đó bộc lộ những quan điểm về con người và cuộc sống. Ở phương Đông,
người ta phải đối mặt với những giới hạn của cuộc sống. Đó là những giới hạn
của con người. Triết lí Trung Hoa cho rằng con người không thể đạt đến chỗ
toàn hảo. Thế nhưng, ta có thể đối diện với những khiếm khuyết của mình và
chấp nhận những giới hạn trong cuộc sống của mình. Đó là sự đấu tranh không
ngừng giữa cái thiện và cái ác trong chính bản thân của con người. Cái khó là
phải làm sao làm chủ được hành động của mình. Nhiều khi sự thất vọng giúp
cho người ta vươn lên thành công hơn, mặt khác chúng ta cần sự thất vọng và
cần bị thất vọng để đạt được một số điều mà bình thường chúng ta không thể làm
được.
Với sáng tác của Nam Cao, ông luôn thể hiện xu hướng triết lý từ những vấn
đề bình thường trong cuộc sống để đúc kết, đào xới, lật đi lật lại các sự việc,
nhằm rút ra những kinh nghiệm, bài học có ý nghĩa rất bổ ích. Có những triết lý
dù là chủ quan nhưng lại gần với chân lý vì nó khái quát được những sự thật phổ
biến và nó luôn nhận được sự đồng tình của nhiều người. Nhưng không không
hoàn toàn do con người muốn thế mà chính lối sống lầm than đã làm cho con
người ích kỷ và tàn nhẫn với nhau. Cách lập luận của nhân vật có tính bắc cầu,
đan xen với nhau tạo nên sự chặt chẽ, mạch lạc làm rõ tính cách của con người, cơ
sở hình thành các tính cách ấy và biểu hiện của nó. Nhân vật Thứ – người nói
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 27
thay, nói hộ cho tác giả bằng những trải nghiệm trong cuộc sống. Vì thế những
triết lý của Nam Cao rất giàu tính văn chương.
Có thể nói, “Sống mòn” là tác phẩm đúc kết nhiều triết lý sống nhất xoay
quanh nhân vật Thứ– người luôn có nhiều suy nghiệm về cuộc sống. Thứ đứng ở
nhiều vị trí để quan sát diễn biến của cuộc sống bản thân và mọi người. Có khi
anh đứng ở ngoài xem xét rồi rút ra kết luận, cũng có lúc anh đứng ở vị trí nhân
vật mà tự thuật. Có, luôn suy nghĩ, trăn trở về nghệ thuật và cuộc sống, rồi khái
quát thành những triết lý sâu sắc như một quan niệm về văn chương. “Văn chương
không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Quan niệm trên như một tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc. Nói như thế, không
phải những người ở lại không có cái mới để viết, mà chỉ những người đi xa mới
có. Tuy nhiên, tác giả muốn kêu gọi mọi người lên xây dựng Tây Bắc, nơi đó
không chỉ có người nông dân, người lính mà còn có cả người nghệ sĩ và nơi đó
sẽ có nhiều nguồn để sáng tạo nghệ thuật.
Đối với văn chương nghệ thuật là như vậy, còn đối với con người thì sao?
Nam Cao đã đưa ra triết lý về kẻ mạnh và kẻ yếu giàu tính nhân văn sâu sắc.
Quan niệm này đã đánh đổ lý luận về kẻ mạnh và kẻ yếu trước đây như “Cá
lớn ăn cá bé”. Có lẽ, về thực tế thì triết lý trên khó thực hiện đồng bộ, bởi ít có
kẻ mạnh giúp đỡ kẻ yếu mà đa phần kẻ mạnh ức hiếp, bóc lột kẻ yếu. Thế nên,
một quan điểm mạnh mẽ, khẳng khái như vậy phủ nhận tính ích kỷ của kẻ
mạnh mà đề cao lòng nhân ái của họ. Họ sẽ được ca ngợi, được biểu dương
nếu họ biết sống chia sẽ, nâng đỡ những người nghèo khó, cơ hàn. “Kẻ mạnh
không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh là kẻ
giúp đỡ kẻ khác lên trên đôi vai của mình. Vả lại, hèn biết bao là thằng con
trai không nuôi nỗi vợ con còn mong làm nên trò gì nữa?”
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 28
Rồi một người đàn ông xuất hiện làm chúng rụt rè, tránh né. Đó chính là
chồng chị, bỏ chị cùng hai đứa con thơ lấy một người đàn bà khác, bà ta có tiền,
kiếm cho y một công việc .Cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi ta giải quyết được
cái nghèo, cái đói. Bởi miếng ăn sẽ kiềm hãm mơ ước của con người. Cuộc
sống với gánh nặng cơm áo gạo tiền ghì con người sát đất. Còn với Nhu trong
“Ở hiền”, đời sống luôn tồn tại những bất công, những nghịch lý, không hoàn
toàn đúng theo quan niệm xưa “Ở hiền gặp lành”, nên “Nhu tự hỏi rằng: tại sao
trên đời này, lại có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao ở hiền không phải bao
giờ cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn, hay nhường thì thường thường
lại chẳng được ai nhịn, nhường mình; còn những kẻ thành công hầu hết lại là
những người rất tham lam, chẳng biết nhịn nhường ai, nhiều khi lại xảo trá, lọc
lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn”. Cái làm Nhu băn khoăn, trăn trở là triết lý “Ở
hiền gặp lành” không còn giá trị mà ngược lại những kẻ xảo trá, tham lam, lừa
lọc, tàn nhẫn, chẳng nhường nhịn ai lại là những kẻ thành công. Có lẽ đó là quy
luật của cái xã hội thực dân phong kiến đương thời. Những người biết nhừng
nhịn, sống ngay thẳng, thật thà thường là những người thấp cổ, bé họng luôn
chịu nhiều thiệt thòi. Còn những kẻ tham lam, xảo trá, lừa lọc là những kẻ
mạnh. Chúng là những kẻ tàn nhẫn, thành công trong xã hội có nhiều bất công..
Sáng tác của Nam Cao luôn bênh vực những người nhỏ bé, bất hạnh nhưng cũng
phê phán quan điểm sống của họ quá nhu nhược, cam chịu. Ông ủng hộ quan
điểm sống thiện, khiêm nhường nhưng không đồng hóa nó với lối sống an phận,
cam chịu. Đặc biệt là không có ý chí, nghị lực hay quan điểm riêng cho mình.
Triết lý đó cho thấy cái nhìn toàn diện của tác giả về thái độ sống của con
người.
Một triết lý khác trong sáng tác của Nam Cao cũng liên quan đến đời sống.
Nam Cao không dừng lại ở những triết lý về cuộc sống mà còn nâng lên
một tầm cao mới, đó là những triết lý về nghệ thuật “Nhưng Điền tin rằng: cái
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 29
học thức của Điền tuy chẳng giúp Điền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích
cho Điền nhiều lắm. Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền học nổi thơ văn, và nhờ văn
thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của giăng. Và Điền rất phàn nàn cho những
tâm hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ Điền. Đối với thị, giăng chỉ là…đỡ tốn
hai xu dầu…. hay “ nghệ thuật chính là cái ánh giăng xanh huyền ảo nó làm
đẹp đến cả những cảnh vật thật ra chỉ tầm thường, xấu xa …”. Nhất là sự chi
phối của đồng tiền, tư tưởng ép phe làm thui chột đi nhiều tài năng và độc giả
không được thưởng thức các sản phẩm tinh thần thật sự có giá trị thẩm mỹ. Đã đến
lúc phải phân biệt nghệ thuật với đời sống, bởi đời sống luôn bị chi phối từ
đồng tiền, tư tưởng chính trị, giai cấp. Trong khi, nghệ thuật chân chính biểu
dương cho cái chân, thiện, mỹ. Có thể, chúng được bắt nguồn từ đời sống “Nghệ
thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” nhưng khi
thưởng thức chúng phải độc lập với cuộc sống, với sự chi phối của tư tưởng giai
cấp. Từ đó, mới có cái nhìn khách quan, toàn diện về giá trị thẩm mỹ của những
sản phẩm tinh thần.
Trong một số truyện ngắn của Nam Cao, có những triết lý có chất hài nhưng
không hoàn toàn để gây cười mà mang âm điệu chua chát về cuộc đời được đúc
kết từ những suy nghĩ bi quan, những thất bại trên đường đời. Chẳng hạn như nỗi
thất vọng của Nhu (Ở hiền) về người chồng vong ơn bội nghĩa “Nhưng giống
người vốn là giống mau quên” Nam Cao có nhiều triết lý xoay quanh đời sống
của những người trí thức tiểu tư sản, những ông giáo, văn sĩ. Cuộc sống họ
luôn diễn ra những cuộc đấu tranh tư tưởng với những dằn vặt, nghiền ngẫm,
trăn trở không ngừng. Ông giáo trong (Lão Hạc) đã ngán ngẫm với suy nghĩ
của vợ về cách cư xử ở đời. “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta
không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ
ổi… Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người
đáng thương; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 30
Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến
một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai
được nữa. Cái bản chất tốt của người ta bị nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp
mất.” Ông giáo thương lão Hạc nhưng tình thương đó không thể chia sẻ với ai dù
đó là vợ ông. Bà khổ quá nên suy nghĩ bà cũng tha hóa dần.
Với cuộc sống nghèo khó, một số người luôn tính toán chi li cho từng bữa ăn,
từng khoản tiêu dùng, xem tiền của quan trọng hơn mạng sống. Với đời sống
nghèo khổ, khó khăn, con người đã không giúp đỡ cho nhau mà họ còn tạo khó
khăn cho nhau, làm ảnh hưởng đến đời sống yên bình của gia đình.Triết lý về
sống chết trong sáng tác của Nam Cao có quan hệ biện chứng với nhau. Sống
và chết là hai mặt của vấn đề, chúng vừa đối lập nhau, vừa thống nhất với nhau.
Cái sống và cái chết vừa hoán vị cho nhau vừa đan xen với nhau. Nhân vật tôi
trong “Mua nhà” đã bộc lộ rõ quan niệm sống chết. “Không làm nhà không được.
Tóm lại, qua những trang viết của Nam Cao người đọc dễ nhận ra những
suy nghiệm và triết lý về các hạng người: giàu nghèo, sang hèn, quan hệ cha
con, chủ tớ và các quan niệm về: tiếng cười, miếng ăn, sự sống, chết… Những
triết lý đó xuất phát từ những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc sống của những
người xung quanh và những trải nghiệm trong cuộc đời tác giả. Ngôn ngữ triết
lý được sử dụng rất linh hoạt, đan xen trong từng giọng điệu khi ở vị trí người kể
chuyện, khi là người quan sát, lúc là những tâm tư, trăn trở của nhân vật. Với
giọng văn vừa nhất quán, vừa biến hóa, hài hước nhưng rất cay đắng và xót xa từ
những dằn vặt, suy ngẫm của tác giả. Trong đó, có những triết lý vươn tới gần
những chân lý, quy luật. Bởi chúng là một phần trong quan niệm của tác giả,
một phần còn lại để người đọc suy ngẫm. Đặc biệt là những triết lý xoay
quanh sự tha hóa của con người, những mảnh đời nghèo đói cơ cực, những mối
quan hệ đổ vỡ và những cách cư xử mất tính người. Có thể kết lại bằng nhận định
của Giáo sư Phong Lê: “Đọc văn Nam Cao, ngay những trang viết kể vô tư nhất,
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 31
những trang kể mà nhà văn hoàn toàn khép kín lòng mình, vẫn thấy một cái gì
cuộn lên. Nếu không là một cảm giác lo lắng, buồn thương, phẩn uất, kinh rợn
trước các cảnh đời, thì cũng là một tâm trạng nôn nóng, muốn được bình luận,
chia sẽ, trao đổi cùng tác giả. Những trang viết trong lặng lẽ mà làm ta không
yên. Nó hối thúc đòi gọi một thái độ…”
3.3.2. Ngôn ngữ thể hiện sự lạ hóa:
Trong sáng tác của Nam Cao, khi miêu tả tính cách, lời nói, cử chỉ của nhân
vật thì sự lạ hóa là một thủ pháp nghệ thuật. Nó làm cho hình tượng nhân vật
thêm mới mẻ, sinh động. Các chi tiết không khô khan mà luôn uyển chuyển. Tạo
nên những dáng vẻ cho từng nhân vật, nhiều chi tiết có phần hư cấu nhưng vẫn có
nét chân thật trong từng đường nét. Hay cách sắp xếp từ ngữ biểu thị tính cách
khá độc đáo của nhân vật, đó là biệt tài của Nam Cao “Trong khi nói, bà cụ giơ
cánh tay, che cái mồm móm mém, ngửa cổ ra cười: bà cười đôi tai nghễnh ngãng
của bà. Rồi bà sửa soạn một câu, nghẹo đầu, nghẹo cổ, thưa với hai ông giáo...”
Chỉ một câu nói mà bà phải “Sửa soạn, nghẹo đầu, nghẹo cổ ”, cách trả lời của
bà cụ có phần trịnh trọng với cái vẻ khó khăn khi thể hiện. Sự lạ hóa trong cách
thể hiện của nhân vật thể hiện tình huống cư xử, nét duyên dáng, đáng yêu và
tâm trạng chất chứa niềm sung sướng khó tả.Thủ pháp lạ hóa không chỉ thể hiện
qua các chi tiết mà còn thông qua kết cấu tác phẩm tạo nên sự bất ngờ, thay đổi
dòng suy nghĩ của người đọc
Cũng trong truyện Chí Phèo hai nhân vật thừa của làng Vũ Đại là Chí
Phèo và thị Nở, được xem là vật thải trên bãi rác người đời. Họ là sự tổng hợp
của những nét xấu nên theo quy luật tự nhiên họ cũng đáng thương. Nhưng với
bản chất hung ác của Chí Phèo, cái nhìn của dân làng Vũ Đại và người đọc đều
đồng tình với tác giả về tên gọi “Quỷ dữ”. Nhưng với thủ pháp lạ hóa những
nhân vật đáng ghét kia đã xoay chuyển để người đọc phải thừa nhận tính
người ở họ vẫn còn. Rồi, cảm giác gớm ghét về nhân vật biến dần thay vào đó
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 32
lòng cảm thương, buồn não nề. Bắt đầu từ sự thức tỉnh đến khát vọng trở về
làm người và cuối cùng là tiếng thốt khẩn thiết “Ai cho tao lương thiện”.
Không ai có thể đoán trước được kết thúc của Chí Phèo. Kết thúc lạ hóa ấy
thay đổi nhận thức của người đọc, giá trị nhân đạo của tác phẩm cũng được bộc
lộ. Và khẳng định tính nhân văn trong sáng tác của Nam Cao. Nếu chỉ liệt kê,
phơi bày những thực trạng của xã hội thì nhiều nhà văn hiện thực đã làm nhưng
dấu ấn của Nam Cao là cái nhìn mới lạ về nhân vật, nhân vật có thể chết nhưng
cái chết không vô nghĩa mà dấy lên hồi chuông thức tỉnh nhận thức của mọi
người. Sự lạ hóa trong sáng tác của Nam Cao là cách sáng tạo hình tượng dựa trên
sự kết hợp giữa cái hư ảo và cái thực. Trong đó, có một dạng tồn tại của sự vật,
dạng méo mó xệch xạc. Dạng tồn tại ấy là sự lạ hóa ở sự vật hiện tượng. Tức
chúng không còn bị giam hãm trong cái vẻ thông thường đã quá quen thuộc, cái
nhìn hằng ngày của chúng ta, mà chúng thể hiện đột ngột, bất ngờ, gây sự ngỡ
ngàng và ngạc nhiên trong cảm nhận. Những truyện như Lang Rận, Nửa đêm,
Một đám cưới… tạo ra cái thế giới nghịch dị mà vẫn tự nhiên.
Có thể kết lại sự lạ hóa trong sáng tác của Nam Cao qua sự nhận định của
Vương Trí Nhàn qua bài viết “Những biến hóa của chất nghịch dị trong truyện
ngắn của Nam Cao” như : “Theo lôgích thông thường, sự vật luôn biến chuyển,
bĩ cực thái lai, sau những ngày đen tối sẽ tới thời kì tươi sáng của hi vọng. Một
thứ lãng mạn đậm màu sắc nhân gian mà cũng phù hợp với lối suy nghĩ trung
dung của đạo Khổng thường được các nhà văn ở ta tự nguyện noi theo. Họ
biện bạch rằng viết thế mới là nhân bản, là tin tưởng ở con người. Nhưng Nam
Cao không hoàn toàn nghĩ thế hoặc kinh nghiệm sống của ông không cho phép
ông nghĩ thế.
3.3.3. Ngôn ngữ biểu thị tinh thần lạc quan:
Tinh thần lạc quan hay chủ nghĩa lạc quan – đó là lòng tin vào tương lai tốt
đẹp hơn vào khả năng thắng lợi của cái thiện đối với cái ác, của chính nghĩa đối
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 33
với phi nghĩa. Còn thái độ bi quan hay chủ nghĩa bi quan thì biểu hiện trong
những quan điểm cho rằng các sự biến đi đến chỗ tồi tệ hơn. Biểu hiện cho
những tâm trạng chán nản không tin vào sự thắng lợi của cái thiện, chính nghĩa.
Lạc quan đã trở thành một triết lý sống hiện đại. Chúng ta vẫn sử dụng từ “Lạc
quan” để nói về con đường phía trước, thậm chí khi cuộc sống rơi vào khó khăn.
Nếu lạc quan bắt đầu được hiểu đơn giản là sự không chấp nhận thất bại, một
khi nó xứng đáng với tên gọi “Lạc quan” thì nó sẽ đơm hoa kết trái, trở thành
quyết tâm kiên định và hợp với lẽ phải hướng tới trong tương lai. Luôn bất chấp
những thất bại và trở ngại phải đối mặt, một người lạc quan với đầy đủ hiểu biết
về những nỗi gian truân tiềm ẩn sẽ tiến tới một tương lai tốt đẹp hơn. Những hứa
hẹn của tương lai là niềm an ủi của chủ nghĩa lạc quan.
Sự lạc quan của nhân vật có cơ sở để hi vọng nhưng rất mơ hồ, phần
nhiều họ chết rồi mà những điều họ mong muốn vẫn chưa đến. Hi vọng có khi
không đến với bản thân nhân vật nhưng sẽ đến với xã hội khi nhân vật không
còn. Lạc quan vào tương lai là niềm tin tưởng ở cuộc sống hiện tại. Thế nên, các
nhân vật trong sáng tác của Nam Cao dù sống trong vòng luẫn quẩn, bần cùng
bế tắc nhưng niềm tin của họ vào cuộc sống vẫn không tắt. Một Hộ nghèo khó,
con nay ốm mai đau, nhà không có gạo để ăn, nợ nần chồng chất nhưng niềm
say mê văn chương và ước mơ viết tác phẩm để đời vẫn không dứt. Hay một
Điền nghèo đói lắm, cơm gạo có thể thiếu, còn lòng tin tưởng vào nghệ thuật sẽ
không bao giờ cạn. Tinh thần lạc quan giúp cho nhân vật cầm cự với cuộc sống
quá đói khổ bế tắc và thực tế cho thấy có những hi vọng thái quá, lí tưởng, phi
thực tế. Tuy nhiên, người ta luôn tôn trọng niềm tin và hi vọng của con người dù
họ ở bất cứ hoàn cảnh sống nào. Đó là khát vọng của tự do và lẽ sống của con
người. Đi tìm nghệ thuật thể hiện sự tha hóa trong sáng tác của Nam Cao sẽ
không dừng lại và tôi thiết nghĩ sẽ còn nhiều công trình nghiên cứu phát hiện
thêm. Chương này chỉ tìm hiểu một vài yếu tố nghệ thuật về miêu tả, giọng điệu
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 34
và ngôn ngữ. Với sự trình bày còn nhiều hạn chế này mong góp phần làm rõ thêm
các giá trị nghệ thuật mà Nam Cao đã đem đến cho nền văn học dân tộc. Bên cạnh
những nhà văn hiện thực xuất sắc như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng… đã phản ánh những vấn đề lớn lao trong xã hội, những đấu tranh giai cấp
thì Nam Cao đã tìm cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản
ánh hiện thực qua sự xung đột trong thế giới nội tâm nhân vật. Với những
chuyện hằng ngày, riêng tư, nhỏ nhoi… mà đã khái quát lên những vấn đề lớn
trong cuộc sống như triết lí sống, sự sống chết, cuộc đời đổi thay, con người
tha hóa… Tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong các trang viết của Nam Cao,
ông luôn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy
đến tận cùng tài năng của con người. Nên ngoài việc phê phán xã hội thực dân
phong kiến hủy hoại cuộc sống con người, phê phán nhiều hình thức tha hóa của
con người, đặc biệt đòi hỏi xã hội phải tạo điều kiện để con người được sống một
cuộc sống thật sự ý nghĩa.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 35
C. KẾT LUẬN
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Số lượng tác phẩm của ông trước 1945 không đồ sộ như các nhà văn cùng thời,
Nhưng giá trị thì rất lớn lao, ngoài những cách tân về mặt nghệ thuật, ông còn
đề ra nhiều quan điểm về cuộc sống, nhà văn, nghề văn. Đặc biệt, tác giả xoáy
sâu vào nỗi đau về sự tha hóa của con người trong xã hội đương thời.
Phần nhiều các nhà văn hiện thực tập trung khai thác nhiều những xung đột
xã hội, mâu thuẩn giai cấp, phong tục tập quán. Nói chung, đó là đời sống bên
ngoài của con người. Còn Nam Cao lại đi sâu vào đời sống bên trong, thế giới
tâm hồn của con người để phản ánh những phương diện tha hóa của họ. Trong
quá trình khắc họa hình ảnh con người bị tha hóa, Nam Cao đã sử dụng nhiều
thủ pháp thể hiện như miêu tả, giọng điệu, ngôn ngữ. Từ đó, tác giả khái quát
thành những triết lí, quy luật của cuộc sống. Âm hưởng của những trang Nam
Cao làm nhức nhối lòng người bao thế hệ về các số phận bi thảm. Cuộc sống
nghèo khó cơm áo, tù túng dẫn đến nhiều thân phận cùng cực, bế tắc, nhiều
người phải chết. Cái chết cũng đa dạng: chết vì đói, chết no, chết nhục, chết vì
danh dự… Cái chết nào cũng uất ức, thê thảm và đấu tranh tư tưởng gay gắt trước
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân Lớp: ĐHGD Tiểu học K53 36
khi phải chết. Người chết đã rồi, người sống càng cùng quẩn hơn, sống mà như
đang chết mòn về thân xác và tâm hồn. Nam Cao đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh
cho con người bao thế hệ về một thời kì đen tối trong lịch sử dân tộc.
Bước đầu tìm hiểu về “Sự tha hóa của con người trong sáng tác của Nam
Cao trước 1945”. Người viết chỉ muốn khẳng định thêm một nét riêng về đặc
trưng phong cách của Nam Cao trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện
thực phê phán. Những tìm hiểu trên chỉ dừng lại ở một chừng mực nhất định, hẳn
còn nhiều hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý của các bậc thầy (cô) cũng như
những đồng nghiệp. Trong thời gian không xa, khi có điều kiện thuận lợi, bản
thân sẽ tiếp tục tìm hiểu về “Sự tha hóa của con người trong văn học hiện thực
phê phán trước 1945” mà Nam Cao đã đặt cột mốc đầu tiên để nghiên cứu.
Đề tài văn học GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân 35 Lớp: ĐHGD Tiểu học K53
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 1984, Văn học và phê bình. Nxb mới - Hội nhà văn Việt
Nam
2. Lại Nguyên Ân, 1992, Nam Cao cuộc cách tân văn học thế kỉ 20, TCVH
1992, số 1, tr 40
3. Vũ Tuấn Anh, 2000, Nam Cao - con người và tác phẩm. Nxb Văn học Hà
Nội
4. Vũ Tuấn Anh, 1992, Phong cách truyện ngắn Nam Cao, trong "Nghĩ
tiếp về Nam Cao", Nxb Hội nhà văn Hà Nội 1992, Tr 108, 115.
5. Đào Tấn Anh, 1992, Tesekhop và Nam Cao - một sáng tác hiện thực
kiểu mới, TCVH 1992, số 1, tr 48
6. Lê Huy Bắc, 1998, Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, TCVH
1998, số 9, tr 66.
7. Vũ Bằng, 1969, Nam Cao - Nhà văn không biết khóc, tạp chí văn học Sài
Gòn, số 95, 1969
8. Lê Bảo, 1997, Giảng văn Việt Nam. Nxb Giáo dục
9. Chim Văn Bé, 1998, Luận án Thạc sĩ, Thi pháp nhân vật trong truyện
ngắn trước 1945 của Nam Cao
10. Hoàng Cao, 1997, Những mẫu chuyện xoay quanh các nhân vật
trong "Đôi lứa xứng đôi", TCVH 1997, số 10.
11. Nguyễn Minh Châu, 1987, Nam Cao. Báo Văn nghệ 1987, số 29.