báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật...

48
B LAO ĐNG-THƯƠNG BINH V X HI CNG HÒA X HI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐNG DỰ THẢO LUẬT VIỆC LM I. GIỚI THIỆU CHUNG 1. Bối cảnh ban hành Luật Việc làm Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, từ những năm 90 của thế kỷ 20, Nhà nước ta đã đưa nội dung về việc làm vào Hiến pháp . Bộ luật Lao động năm 1994, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006.... và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh các quan hệ về việc làm như: trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo việc làm, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chính sách hỗ trợ tạo việc làm của nhà nước: cho vay vốn tạo việc làm...; Thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm; Tuyển và quản lý lao động trong các doanh nghiệp; Lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Việc làm đối với các đối tượng đặc thù: lao động nữ, lao động là người khuyết tật; Bảo hiểm thất nghiệp;..... Ngoài các văn bản kể trên, còn 1

Upload: others

Post on 03-Feb-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

BÔ LAO ĐÔNG-THƯƠNG BINH VA XA HÔI

CÔNG HÒA XA HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐÔNG DỰ THẢO LUẬT VIỆC LAM

I. GIỚI THIỆU CHUNG1. Bối cảnh ban hành Luật Việc làmViệc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để đảm bảo

cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, đảm bảo quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, từ những năm 90 của thế kỷ 20, Nhà nước ta đã đưa nội dung về việc làm vào Hiến pháp. Bộ luật Lao động năm 1994, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006.... và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh các quan hệ về việc làm như: trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo việc làm, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chính sách hỗ trợ tạo việc làm của nhà nước: cho vay vốn tạo việc làm...; Thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm; Tuyển và quản lý lao động trong các doanh nghiệp; Lao động Việt Nam làm việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; Lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; Việc làm đối với các đối tượng đặc thù: lao động nữ, lao động là người khuyết tật; Bảo hiểm thất nghiệp;..... Ngoài các văn bản kể trên, còn có 3 công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) (Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công việc ngang nhau năm 1959, Công ước số 111 về Phân biệt đối xư trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958, Công ước số 122 về Chính sách việc làm năm 1964) mà nước ta phê chuẩn, gia nhập là các nguồn pháp luật quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật việc làm.

Các quy định pháp lý này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển, góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,6 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2012 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông thôn là 1,42%; năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,27%, 3,6% và 1,71%)1. Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và 1 Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2011, 2012 – Tổng cục Thống kê

1

Page 2: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ việc làm ngày càng phát triển về số lượng, phong phú và đa dạng về hình thức, cho nên quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, ngoài ra còn có một số vấn đề mới về quan hệ việc làm phát sinh cần được pháp luật điều chỉnh. Vì lý do đó, Quốc hội khóa XIII đã đưa Luật Việc làm vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2012 (Nghị quyết số 07/2011/QH13 của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011).

Thực hiện quyết định số 1681/QĐ-TTg ngày 27/09/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và các dự án luật, pháp lệnh được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội, ngày 10/10/2011, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật Việc làm bao gồm đại diện của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, phát sinh nhiều vấn đề có ý kiến khác nhau. Để có cơ sở lý luận, thực tiễn luận chứng cho các nội dung của dự thảo Luật Việc làm (đặc biệt là các nội dung có nhiều ý kiến khác nhau), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và cơ quan có liên quan thành lập nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động dự thảo Luật Việc làm.

2. Giới thiệu phương pháp đánh giá tác động pháp luật (RIA)Hoạt động đánh giá này được thực hiện theo phương pháp "Đánh giá dự báo

tác động pháp luật" – Tiếng Anh: "Regulatory Impact Assessment", viết tắt là RIA. Phương pháp này được sư dụng để đánh giá dự báo tác động của việc ban hành mới hoặc sự thay đổi hệ thống pháp luật thông qua việc sưa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành. Quy trình thực hiện RIA được tiến hành theo các bước sau:

(1) Xác định các vấn đề ưu tiên dựa trên các tiêu chí rõ ràng (2) Xác định các phương án lựa chọn để giải quyết từng vấn đề (3) Xác định phương thức đánh giá tác động cho từng vấn đề thông qua việc

xác định các yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất (như chi phí và lợi ích cơ bản). (4) Xác định nhu cầu về dữ liệu phân tích.(5) Xác định phương pháp thu thập dữ liệu và tham vấn về phương pháp đó. (6) Thu thập, tập hợp dữ liệu và tham vấn băng phương pháp đã nhất trí tại

bước 5. (7) Phân tích các dữ liệu đã thu thập.

2

Page 3: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

(8) Thống nhất về cách diễn giải kết quả phân tích và kết luận. (9) Lập báo cáo đánh giá tác động. Băng một quy trình chặt chẽ, khoa học, có kết hợp đánh giá, phân tích các

yếu tố về định tính và định lượng, RIA được xem là phương pháp hiệu quả để xác định và đánh giá tác động dự kiến của việc thay đổi chính sách và pháp luật. Báo cáo RIA sẽ phân tích, đánh giá tổng thể về các lợi ích, chi phí và rủi ro có thể xẩy ra do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một đề xuất thay đổi pháp luật.

Theo đó, các phương án lựa chọn khác nhau sẽ có dự báo tác động khác nhau, từ đó, có thể đánh giá, so sánh để xác định phương án được xem là phù hợp nhất, tức là phương án ít rủi ro và chi phí nhất mà đem lại nhiều lợi ích từ dự kiến thay đổi pháp luật đó. Đồng thời, do quy trình đánh giá có sự tham gia và cung cấp ý kiến tham vấn của các đối tượng chịu sự tác động do việc thay đổi pháp luật này sẽ bảo đảm hoạt động đánh giá có độ tin cậy cao và tạo ra cơ sở cho sự đồng thuận trong việc xác định và lựa chọn phương án tối ưu cho sự thay đổi pháp luật. Với ý nghĩa đó, kết quả của việc thực hiện RIA sẽ góp phần bảo đảm chất lượng, tính khả thi và hiệu quả của việc ban hành văn bản pháp luật.

Trên thế giới, RIA được áp dung khá phổ biến. Các quốc gia thuộc khối OECD khuyến cáo nên áp dụng RIA đối với các dự kiến thay đổi pháp luật để bảo đảm chất lượng của việc ban hành pháp luật. Nhiều nước như Canada, Hàn Quốc … đã coi việc áp dụng RIA là thủ tục bắt buộc trong quy trình xây dựng pháp luật chính thức. Tại Việt Nam, phương pháp RIA được các tổ chức quốc tế khuyến cáo sư dụng với mục tiêu nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, việc áp dụng RIA là hoạt động rất có ý nghĩa trong nghiên cứu, xác định phương án tối ưu cho mô hình Luật Việc làm phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.

3. Sử dụng phương pháp RIA trong đánh giá tác động dự thảo Luật Việc làm

Báo cáo RIA về Dự thảo Luật Việc làm tập trung vào 5 nhóm vấn đề mà nội dung của nó có nhiều ý kiến khác nhau, gây tranh luận trong quá trình soạn thảo. Đó cũng là những vấn đề quan trọng đối với hoạt động cải cách pháp luật, gắn với các mục tiêu của Dự thảo Luật Việc làm, bảo đảm cho các nhà hoạch định đưa ra được các chính sách tốt, giúp cho việc thực thi Luật Việc làm đạt chất lượng cao; tăng cường tính minh bạch, tính thống nhất và tính dễ tiếp cận của hệ thống quy định về việc làm.

5 nhóm vấn đề cụ thể như sau:

3

Page 4: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Vấn đề 1: Sự cần thiết ban hành Luật Việc làmVấn đề 2: Chính sách hỗ trợ tạo việc làmVấn đề 3: Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc giaVấn đề 4: Tổ chức dịch vụ công về việc làmVấn đề 5: Bảo hiểm thất nghiệpII. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐÔNG DỰ THẢO LUẬT VIỆC LAM THEO 5

NHÓM VẤN ĐỀ LỰA CHỌN 1. Vấn đề 1: Sự cần thiết ban hành Luật Việc làm (hay đánh giá tác động

chung của việc ban hành và thực thi Luật)1.1. Xác định vấn đề:Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để bảo đảm

cuộc sống và phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, bảo đảm quyền bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Hiến pháp năm 1992 đã quy định “Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Khoản 2 Điều 55). Theo đó, Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật dạy nghề,... và các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã điều chỉnh một số nội dung trong quan hệ xã hội về việc làm. Các quy định này bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát triển theo các quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội về việc làm ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt hơn, chính sách và việc thực hiện chính sách pháp luật về việc làm đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, ngoài ra còn có một số vấn đề mới về việc làm phát sinh cần được pháp luật điều chỉnh. Cụ thể như sau:

- Việc làm là mối quan tâm của toàn xã hội, là chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng đối với một đất nước nhưng đến nay chưa có một đạo luật riêng điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội về việc làm. Vấn đề việc làm được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau và chủ yếu trong các văn bản dưới luật nên thiếu đồng bộ, chưa có sự thống nhất, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai;

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay chủ yếu điều chỉnh quan hệ xã hội về việc làm của nhóm đối tượng có quan hệ lao động (thông qua hợp đồng lao động), trong khi đó số lượng lao động không có quan hệ lao động ở nước ta lại rất lớn2 nhưng chưa có luật điều chỉnh;

2 ? Theo Báo cáo Kết quả điều tra lao động – việc làm năm 2011 của Tổng cục Thống kê, lao động làm công ăn lương chiếm khoảng 34,6% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, trong khi đó

4

Page 5: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm chưa đủ mạnh để xóa bỏ mọi rào cản, giải phóng năng lực của mọi người lao động cho phát triển kinh tế - xã hội; việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội với chương trình việc làm chưa hiệu quả đã tác động không nhỏ đến giải quyết việc làm;

- Chất lượng lao động hạn chế, có khoảng cách lớn giữa học và làm việc do chưa xây dựng được bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề theo ngành nghề, vị trí công việc để tổ chức đánh giá, công nhận kỹ năng nghề của người lao động gây lãng phí lớn về sư dụng nhân lực; gây hạn chế trong việc di chuyển lao động trong nước cũng như quốc tế, đặc biệt trong khu vực các nước ASEAN;

- Yêu cầu về chính sách phát triển thị trường lao động đã được Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đề cập3, song chưa được thể chế hóa băng các quy định pháp luật, mô hình hoạt động dịch vụ việc làm chưa đáp ứng được sự phát triển của thị trường lao động. Các vấn đề như: thông tin thị trường lao động, kết nối cung, cầu lao động, hợp tác công - tư trong hoạt động dịch vụ việc làm,... chưa được điều chỉnh băng văn bản luật. Những hạn chế về chính sách thị trường lao động đã ảnh hưởng đến cân đối cung, cầu lao động, hạn chế cơ hội tham gia thị trường lao động của người lao động;

- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế trong việc thực hiện đúng chức năng và vai trò là chính sách bảo đảm về việc làm toàn diện cho người lao động. Các quy định hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp mới chỉ dừng ở việc hỗ trợ người lao động sau khi họ bị mất việc làm mà chưa có chính sách duy trì việc làm, ngăn ngừa, hạn chế thất nghiệp. Việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện hành cũng đang bộc lộ một số hạn chế về đối tượng, điều kiện, tổ chức thực hiện,… cần thiết phải sưa đổi, bổ sung, mở rộng đối tượng để chính sách bảo hiểm thất nghiệp thật sự phát huy được vai trò đảm bảo việc làm bền vững, hạn chế thất nghiệp cũng như giúp người thất nghiệp sớm tìm được việc làm.

Việc ban hành Bộ luật Lao động năm 2012 bước đầu góp phần định hướng cho việc khắc phục những hạn chế nêu trên. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động chỉ điều chỉnh lao động có quan hệ lao động, nhiều quy định trong Bộ luật chưa cụ thể, chưa khắc phục những hạn chế và điều chỉnh toàn diện quan hệ xã hội về việc làm.

1.2. Mục tiêu của việc ban hành Luật Việc làm Việc ban hành Luật Việc làm nhăm đạt được những mục tiêu cơ bản sau:

lao động không có quan hệ lao động chiếm 65,4%. 3 ? Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao trình độ, tay nghề, đồng thời có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài....Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động là một trong những yêu cầu trong nội dung Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường của định hướng “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

5

Page 6: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- Điều chỉnh thống nhất những vấn đề liên quan đến việc làm và thị trường lao động cho người lao động trong một văn bản luật (bao gồm: chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động nói chung, chính sách bảo vệ, hỗ trợ việc làm đối với lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, lao động đặc thù; cung cấp dịch vụ việc làm cho người tìm việc và người sư dụng lao động; phát triển kỹ năng nghề của người lao động phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động; chính sách duy trì việc làm nhăm phòng chống thất nghiệp đối với lao động có quan hệ lao động; chính sách hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, trợ cấp thất nghiệp đối với lao động bị mất việc làm); khắc phục tình trạng tản mát, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất như hiện nay.

- Có việc làm là nguyện vọng đáng trân trọng của con người. Con người được tự do trong lao động là tiền đề để giải phóng sức lao động và phát huy triệt để tiềm năng của con người. Mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm, có quyền tiến hành bất cứ hoạt động nào mà tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình với điều kiện hoạt động đó là hợp pháp, phù hợp với nguyên tắc: "Công dân có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm". Với ý nghĩa đó, pháp luật về việc làm tạo ra hành lang pháp lý làm cơ sở cho Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tham gia, và thực hiện các biện pháp để tạo việc làm.

Tạo môi trường pháp lý cho người lao động được tự do di chuyển và tự do tìm việc làm, là công cụ then chốt và cần thiết của Nhà nước để điều tiết việc làm, chương trình tạo việc làm và thị trường lao động.

- Bảo đảm tính minh bạch cho thị trường lao động phát triển.1.3. Các phương án lựa chọn: Có 3 phương án cho vấn đề này:Phương án 1A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành.Phương án 1B: Sưa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.Phương án 1C: Ban hành Luật Việc làm.1.4. Đánh giá tác động của các phương ánTheo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng băng

phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng) về “Sự cần thiết ban hành Luật Việc làm” với 360 phiếu người sư dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động, có:

6

Page 7: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- 93,7% người lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban hành Luật Việc làm; 6,1% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm và 0,1% trả lời không biết.

- 93,3% người sư dụng lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban hành Luật Việc làm; 6,7% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm

- 96,9% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời cần thiết phải ban hành Luật Việc làm; 3,1% trả lời không cần thiết phải ban hành Luật Việc làm.

Đối tượng tham vấn đa dạng bao gồm: Người lao động (bao gồm: Lao động có hợp đồng và lao động không có hợp đồng. Trong nhóm lao động không có hợp đồng lại bao gồm: Lao động tự do, lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, làng nghề và lao động nông nghiệp). Người sư dụng lao động (bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp FDI, Doanh nghiệp tư nhân và các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh hộ gia đình). Cán bộ Ngành lao động (bao gồm: Cán bộ Sở LĐTBXH, cán bộ phòng LĐTBXH, cán bộ Trung tâm GTVL).

Biểu đồ 1. Sự cần thiết về việc ban hành Luật Việc làm (%)

Phương án 1A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành (giữ nguyên hiện trạng).

Phương án này không khắc phục được những hạn chế, bất cập hiện nay. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mới chỉ điều chỉnh đối với người lao động có quan hệ lao động (chiếm 30% lực lượng lao động). Trong khi đó, các đối tượng lao động tự làm và lao động làm việc trong khu vực phi chính thức (chiếm gần 70% lực lượng lao động) thì hầu như chưa được quản lý, chưa có chính

7

Page 8: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

sách pháp luật điều chỉnh. Một số quan hệ xã hội về việc làm mới phát sinh chưa được pháp luật điều chỉnh như: phát triển kỹ năng nghề, cho thuê lại lao động, hỗ trợ doanh nghiệp để duy trì việc làm, phòng chống thất nghiệp cho người lao động.... Mặt khác, nếu vẫn giữ nguyên như hiện trạng (chỉ thực hiện các quy định pháp luật hiện hành), sẽ tạo thêm kẽ hở pháp luật khiến các hành vi vi phạm pháp luật về việc làm (như: dụ dỗ, hứa hẹn gian dối lừa gạt người lao động; gian lận, giả mạo hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp....) ngày càng gia tăng, ý thức pháp luật của người dân giảm sút (công dân sẽ không tôn trọng, tuân thủ pháp luật do chế tài quá nhẹ, việc thanh tra, kiểm tra và xư lý vi phạm pháp luật chưa nghiêm minh).......gây tốn kém kinh phí cho ngân sách nhà nước để khắc phục hậu quả phát sinh.

Phương án 1B: Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành.Nếu lựa chọn phương án này, tức là tiếp tục để tình trạng các văn bản quy

phạm pháp luật về việc làm quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính thống nhất, đồng bộ, thậm chí chồng chéo; khó quản lý, khó áp dụng và thực hiện. Việc sưa đổi, bổ sung chỉ mang tính chắp vá các quy định mà chưa thực hiện được một bước trong cải cách lập pháp đã và đang là một nhu cầu cần thiết đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phương án này có thể mất nhiều chi phí cho những lần sưa đổi, bổ sung văn bản, mà có thể không cải thiện được môi trường pháp lý về việc làm, không thể pháp điển hoá các quy định pháp luật về việc làm cho thống nhất và đồng bộ. Đặc biệt nếu sưa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động – chương II Việc làm (cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội về việc làm) thì không thể khắc phục được các hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm, do các quan hệ xã hội về việc làm cần được pháp luật điều chỉnh ngày càng tăng, nếu chỉ điều chỉnh trong 1 chương của Bộ luật Lao động thì không đủ, nếu mở rộng chương Việc làm quá nhiều thì sẽ làm mất cân đối Bộ luật Lao động.

Phương án 1C: Ban hành Luật Việc làmLựa chọn phương án này đem đến giải pháp tốt nhất, phù hợp với điều kiện

kinh tế xã hội của đất nước, khắc phục cơ bản những hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay; tạo ra sự liên thông giữa pháp luật về việc làm trong nước và quốc tế; cải cách một bước về lập pháp các quy định pháp luật về việc làm; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; tăng cường trách nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc tạo và bảo đảm việc làm cho người lao động... mặc dù việc xây dựng và thực thi Luật cũng phát sinh những chi phí nhất định. Cụ thể như sau:

8

Page 9: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Về mặt lợi ích: Việc ban hành Luật Việc làm đem lại các lợi ích:- Thống nhất các quy định pháp luật hiện hành về việc làm còn tản mạn trong

một văn bản duy nhất có giá trị pháp lý cao là Luật. - Pháp điển hoá các nội dung còn chưa được điều chỉnh trong các văn bản

hiện hành.- Nâng cao vai trò của hệ thống luật pháp, đảm bảo quyền lợi cho người lao

động và người sư dụng lao động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế;

- Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, của xã hội, của doanh nghiệp và của người dân về giải quyết việc làm, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định và phát triển xã hội;

- Phạm vi điều chỉnh rộng sẽ đảm bảo được một hành lang pháp lý chặt chẽ, phù hợp, tạo điều kiện đảm bảo việc làm bền vững cho mọi đối tượng của xã hội;

- Việc quy định cụ thể các khái niệm, chỉ tiêu về việc làm, thị trường lao động sẽ giúp cho các tổ chức, cá nhân có thể phân tích đánh giá, so sánh được các vấn đề liên quan việc làm;

- Việc quy định cụ thể vấn đề về hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm tạo hành lang pháp lý, đảm bảo cho sự phát triển của thị trường lao động lành mạnh, quản lý sự biến động lao động chặt chẽ hơn và chấm dứt những tiêu cực trong vấn đề này.

Về chi phí: Việc xây dựng và tổ chức thực hiện Luật Việc làm làm phát sinh các chi phí sau:

- Chi phí xây dựng Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành- Chi phí tập huấn Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành- Chi phí phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về Luật Việc làm

và các văn bản hướng dẫn thi hành trên phạm vi toàn quốc- Chi phí tổ chức thực hiện Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn thi hành

(chi phí đăng ký lao động.....) 1.5. Kết luận và kiến nghịTheo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (trên 90% đồng ý với

phương án Ban hành Luật Việc làm), và phân tích quan hệ chi phí và lợi ích, việc lựa chọn phương án 1C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực việc làm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân và người lao động

9

Page 10: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

trong việc tạo việc làm và bảo đảm việc làm cho người lao động. Xây dựng Luật Việc làm là đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu pháp điển hoá hoá các quy định pháp luật và thực tiễn pháp lý đã và đang tồn tại trong thời gian qua.

2. Vấn đề 2: Chính sách hỗ trợ tạo việc làm2.1. Xác định vấn đề- Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ

trong nhiều văn văn bản, nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: cho vay vốn tạo việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao động, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, hỗ trợ đào tạo nghề gắn với việc làm cho lao động khu vực nông thôn (Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật thanh niên, Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015)

- Các chính sách giải quyết việc làm, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm được ưu tiên thúc đẩy trong chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, đã góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm (mỗi năm khoảng 1,5-1,7 triệu việc làm) và giảm tỷ lệ thất nghiệp của người lao động (tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2012 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 3,25%, khu vực nông thôn là 1,42%; năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,27%, 3,6% và 1,71%)4.

+ Trong những năm qua, dự án vay vốn giải quyết việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ đắc lực tạo và tự tạo việc làm cho người lao động. Doanh số cho vay trong 2 năm 2011 – 2012 là 4.220 tỷ đồng, cho vay hơn 118 ngàn dự án với trên 320 ngàn khách hàng, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 360.000 lao động (trong đó, năm 2011 thông qua Quỹ Quốc gia về việc làm góp phần giải quyết việc làm cho 200.000 lao động, năm 2012 là 160.000 lao động), nguồn vốn được sư dụng khá hiệu quả (hệ số sư dụng vốn vay từ Quỹ đạt trên 95%, tỷ lệ nợ quá hạn và vốn tồn đọng cuối năm thấp, đến 12/2012 tỷ lệ nợ quá hạn đến tháng là 4,35% và tỷ lệ vốn tồn đòng là 3,06% trên tổng nguồn vốn.

Từ nguồn vốn của Quỹ cho vay giải quyết việc làm đã xuất hiện rất nhiều các gương điển hình về làm ăn kinh tế giỏi, không chỉ ở khu vực thành thị mà còn có ở khu vực nông thôn, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật thuộc giúp họ hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống. Quỹ Quốc gia về việc làm đã góp phần khôi phục các ngành nghề truyền

4 Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2011, 2012 – Tổng cục Thống kê

10

Page 11: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

thống, đã hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để mở rộng sản xuất, thu hút tạo việc làm cho nhiều người lao động.

+ Trên cơ sở dự án hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, ngân sách nhà nước đã bố trí kinh phí nhăm Hỗ trợ đào tạo lao động trình độ cao về tay nghề, ngoại ngữ và Hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết và chi phí làm thủ tục xuất cảnh cho lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo lao động là người dân tộc thiểu số, lao động là thân nhân chủ yếu của gia đình chính sách và lao động thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp (không bao gồm đối tượng thuộc 62 huyện nghèo theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg). Hiện nay, Cục Quản lý lao động ngoài nước đang triển khai đặt hàng đào tạo với các doanh nghiệp để đào tạo cho 1.140 lao động thuộc các nghề: hàn 3G, hàn 6G, điều dưỡng viên, đốc công.

+ Trên cơ sở dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động, những năm qua, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đã bố trí kinh phí đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL), hỗ trợ tổ chức sàn giao dịch việc làm, tổ chức điều tra thực trạng sư dụng và nhu cầu lao động trong các doanh nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động. Thông qua sự đầu tư trọng tâm, trọng điểm, cơ sở vật chất, trang thiết bị và năng lực hoạt động của các TTGTVL ngày càng được nâng cao, các TTGTVL từ chỗ chỉ tham gia tổ chức các giao dịch việc làm đã trực tiếp tổ chức các sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên, đưa sàn giao dịch việc làm dần dần trở thành địa chỉ quen thuộc cho người lao động cần tìm việc làm, doanh nghiệp cần tuyển lao động5. Hệ thống thông tin thị trường lao động ngày càng được hoàn thiện , từng bước góp phần đảm bảo cung cấp nguồn thông tin cập nhật, kịp thời, chính xác và đầy đủ về việc làm, thất nghiệp, lực lượng lao động phục vụ công tác quản lý Nhà nước về lao động, việc làm và dự báo thị trường lao động. Dữ liệu thông tin về cung lao động là nguồn dữ liệu khá đầy đủ về thực trạng lao động, việc làm, thất nghiệp và biến động lao động qua từng thời kỳ trên từng địa bàn, là cơ sở để hoạch định chính sách việc làm và định hướng phát triển nguồn nhân lực cũng như phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và quốc gia.

5 Hàng năm, các Trung tâm đã tư vấn, cung cấp thông tin thị trường lao động cho hàng triệu lượt người có nhu cầu, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động và đào tạo nghề ngắn hạn gắn với tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động. Trong 2 năm 2011 và 2012, các Trung tâm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho khoảng 2,2 triệu lượt người.

11

Page 12: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- Bên cạnh đó, nhà nước còn ban hành một số chính sách riêng về việc làm cho lao động nữ và lao động là người khuyết tật như: bảo đảm việc làm cho lao động nữ, chống phân biệt đối xư đối với lao động nữ, ưu tiên tuyển dụng lao động nữ, khuyến khích doanh nghiệp sư dụng nhiều lao động nữ,....; hỗ trợ dạy nghề cho người khuyết tật, hỗ trợ hộ gia đình và người khuyết tật tạo việc làm, chính sách khuyến khích nhận người khuyết tật vào làm việc tại doanh nghiệp.... Những chính sách này đã tạo môi trường thuận lợi cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật bình đẳng tham gia thị trường lao động, tạo cơ hội cho họ tìm việc làm và tự tạo việc làm, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, bảo đảm việc làm bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cũng bộc lộ một số hạn chế như:

- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm chưa đủ mạnh để xóa bỏ mọi rào cản, giải phóng năng lực của mọi người lao động cho phát triển kinh tế - xã hội; việc lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội với chương trình việc làm chưa hiệu quả đã tác động không nhỏ đến giải quyết việc làm.

- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, chủ yếu ở các văn bản hướng dẫn luật, nên thiếu đồng bộ, chưa có sự thống nhất, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai.

- Hiện nay chúng ta mới chỉ có các quy định về chính sách việc làm cho lao động nữ, lao động là người khuyết tật rải rác trong Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Người khuyết tật; các đối tượng đặc thù khác như: lao động là người dân tộc ít người, thanh niên, người sau cai nghiện, mãn hạn tù.... chưa có chính sách riêng.

- Theo quy định các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với kế hoạch tạo việc làm tuy nhiên, nhiều chương trình, dự án khi triển khai không gắn với quy hoạch nguồn nhân lực cũng như kế hoạch tạo việc làm cho người lao động dẫn đến tình trạng nhiều dự án đưa vào hoạt động nhưng không tuyển được lao động hoặc có tuyển được lao động nhưng không đáp ứng yêu cầu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện của bản thân các chương trình, dự án.

2.2. Các phương án lựa chọnPhương án 2A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hànhPhương án 2B: Sưa đổi, bổ sung và quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm

trong Luật việc làm2.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn

12

Page 13: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng băng phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng) về “Chính sách hỗ trợ tạo việc làm” với 360 phiếu người sư dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động thì phần lớn ý kiến của người lao động, người sư dụng lao động và cán bộ ngành lao động được tham vấn đồng ý với phương án 2B (sưa đổi, bổ sung và quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm trong Luật việc làm.

Bảng 2. Đánh giá về chính sách hỗ trợ tạo việc làm (%)

Đánh giá CBNLĐ NSDLĐ NLĐTốt 18,3 15,3 16,7Bình thường 18,6 34,2 38,8Cần được sưa đổi/bổ sung

63,1 50,5 43,2

Không biết 0,0 0,0 1,3

Phương án 2A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hànhNếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của các

quy định pháp luật hiện hành về chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Mặt khác, Bộ luật lao động năm 2012 lại chỉ quy định chung, mang tính nguyên tắc về các chính sách hỗ trợ tạo việc làm (ban hành chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, thành lập Quỹ quốc gia về việc làm...); Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề chỉ có tính thời điểm, được triển khai trong từng thời kỳ nhất định. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ tạo việc làm (cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động khu vực nông thôn, hỗ trợ phát triển thị trường lao động) phần lớn được quy định cụ thể trong chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, đã và đang được thực hiện trên thực tế, góp phần không nhỏ trong tạo và duy trì việc làm, bảo đảm việc làm và việc làm bền vững cho người lao động.

Phương án 2B: Sửa đổi, bổ sung và quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm trong Luật việc làm

Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được triệt để những hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Có những chính sách ưu tiên thúc đẩy việc làm đối với nhóm lao động đặc thù: người lao

13

Page 14: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; người lao động là người khuyết tật, người dân tộc ít người; người lao động thuộc khu vực biên giới, hải đảo nhăm tăng cường tính bền vững đối với việc làm ở nhóm đối tượng và các khu vực; có chính sách hỗ trợ tạo việc làm trực tiếp (Chương trình việc làm công) mang việc làm đến cho người lao động khó tiếp cận được với thị trường lao động (người lao động không có tay nghề, người lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn,…) vừa khắc phục tình trạng thiếu việc làm, vừa góp phần xây dựng cơ sở xã hội, những công trình phù hợp, cần thiết với chính người dân tại địa phương.

2.4. Kết luận và kiến nghịTheo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (phần lớn ý kiến đều

đồng ý với phương án quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm trong Luật việc làm), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương án lựa chọn, việc lựa chọn phương án 2B của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sư dụng lao động, góp phần tạo ngày càng nhiều việc làm và bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho người lao động.

3. Vấn đề 3: Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia 3.1. Xác định vấn đềViệt Nam trong giai đoạn hiện nay đang cố gắng đẩy nhanh quá trình thay

đổi về chất của lực lượng lao động, biến lực lượng lao động đông đảo nhưng trình độ thấp sang lực lượng lao động đông đảo với trình độ cao trước hết thể hiện bởi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ngày càng cao. Cũng vì thế nên trong một vài năm trở lại đây hệ thống chính sách có liên quan về giáo dục và dạy nghề đã chú trọng nhiều hơn tới các vấn đề về chuẩn đầu ra, phát triển kỹ năng nghề cho NLĐ. Thậm chí Luật dạy nghề đã dành riêng một chương IX để quy định về vấn đề kỹ năng nghề: “Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia là cơ sở để NLĐ phấn đấu nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất, kinh doanh và để NSDLĐ bố trí công việc, trả lương hợp lý cho NLĐ; góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực nghề nghiệp; là căn cứ để xây dựng chương trình dạy nghề phù hợp với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh”.6 Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia. Đã xây dựng và ban hành được 123/173 bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và ngân hàng đề thi đánh giá kỹ năng, bước đầu hình thành mạng lưới trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, xây dựng đội ngũ đánh

6 Điều 79, chương IX Luật dạy nghề năm 2006

14

Page 15: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

giá viên và đã triển khai thí điểm đánh giá kỹ năng ở một số nghề cho người lao động.

Tuy nhiên, quá trình triển khai các quy định của Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia đã bộc lộ những hạn chế như sau:

- Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia theo quy định của Luật Dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành chủ yếu dựa trên các tiêu chí về đào tạo kiến thức (kể cả lý thuyết, thực hành) mà chưa xuất phát từ thực tiễn các yêu cầu, đòi hỏi của công việc (đánh giá kỹ năng làm 1 công việc, nghề cụ thể của người lao động)

- Sự gắn kết và tham gia của các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp, người sư dụng lao động vào hoạt động đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia còn rất hạn chế và không có chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp, người sư dụng lao động khi không tham gia vào những hoạt động này. Ngoài việc thiếu hệ thống chế tài đủ mạnh để NSDLĐ và NLĐ “nhận thức” được tầm quan trọng của kỹ năng nghề, việc phát triển kỹ năng nghề theo Luật dạy nghề cũng không nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các hiệp hội nghề nghiệp.

Chính vì vậy, trên thực tế, hiện nay mới chỉ triển khai đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia quốc gia cho 5 nghề.

3.2. Các phương án lựa chọnPhương án 3A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hànhPhương án 3B: Sưa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ

kỹ năng nghề quốc gia Phương án 3C: Mở rộng đối tượng tham gia và quy định vấn đề đánh giá,

cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật việc làm3.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọnTheo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng băng

phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng) về “Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia” với 360 phiếu người sư dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động thì phần lớn ý kiến của người sư dụng lao động, cán bộ ngành lao động được tham vấn đồng ý với phương án 3C (quy định vấn đề đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật Việc làm); đa số ý kiến người lao động

15

Page 16: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

được tham vấn đồng ý với phương án 3A (chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hành). Kết quả cụ thể như sau:

Biểu đồ 3. Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia (%)

Phương án 3A: Chỉ cần thực hiện tốt các quy định pháp luật hiện hànhNếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của các

quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia dẫn đến khó có thể triển khai việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trên thực tế do việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia chưa gắn với yêu cầu của người sư dụng lao động đối với từng công việc cụ thề và chưa có chính sách hỗ trợ người lao động tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, chính sách sư dụng lao động có kỹ năng nghề quốc gia để khuyến khích người lao động tham gia đánh giá và được công nhận kỹ năng nghề.

Phương án 3B: Sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia

Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được triệt để những hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia do các trung tâm đánh giá kỹ năng được cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề cấp phép thực hiện nên việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia không khách quan, không gắn liền với yêu cầu của người sư dụng lao động mà chủ yếu dựa trên kết quả đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề; mặt khác việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia chỉ áp dụng đối với người lao động tốt nghiệp các cơ sở đào tạo

16

Page 17: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

làm hạn chế cơ hội tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia của những người lao động không qua bất kỳ một cơ sở đào tạo nghề hoặc cơ sở giáo dục đào tạo nào.

Phương án 3C: Mở rộng đối tượng tham gia và quy định vấn đề đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật việc làm

Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được triệt để những hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, điều chỉnh thống nhất các vấn đề về việc làm trong 1 văn bản Luật; quy định trách nhiệm của nhà nước, người sư dụng lao động, người lao động và toàn xã hội về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với người lao động tham gia đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia được mở rộng đối với mọi người lao động (không phân biệt đã có hay không có bằng cấp chứng chỉ đào tạo theo quy định của Luật dạy nghề, Luật giáo dục đào tạo) và do tổ chức độc lập thực hiện đảm bảo tính khách quan, toàn diện. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia được xây dựng trên cơ sở kết quả đào tạo và yêu cầu của người sư dụng lao động đối với từng nghề nghiệp cụ thể. Do đó, việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia sẽ được triển khai mạnh mẽ trên thực tế góp phần nâng cao chất lượng lao động tiến tới sư dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.

3.4. Kết luận và kiến nghịTheo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (phần lớn ý kiến đều

đồng ý với phương án quy định vấn đề đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong Luật việc làm), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương án lựa chọn, việc lựa chọn phương án 3C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sư dụng lao động, nâng cao chất lượng lao động tiến tới sư dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, đảm bảo điều kiện khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Tổ chức dịch vụ công về việc làm 4.1. Xác định vấn đề- Vấn đề tổ chức, hoạt động của tổ chức dịch vụ công về việc làm đã được

quy định trong Bộ luật Lao động năm 1994 (sưa đổi năm 2002, 2006, 2007) và Nghị định số 19/2005/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm; Nghị định số 71/2008/NĐ-CP sưa đổi, bổ sung Nghị định số 19/2005/NĐ-CP; Thông tư số 20/2005/TT-BLĐTBXH ngày 22/6/2005 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị

17

Page 18: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

định số 19/2005/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm ; Thông tư số 27/2008/TT-BLĐTBXH ngày 20/11/2008 Sưa đổi bổ sung Thông tư số 20/2005/TT-BLĐTBXH; Thông tư số 95/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 7/8/2007 hướng dẫn về phí giới thiệu việc làm. Theo đó hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm công bao gồm các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các Trung tâm giới thiệu việc làm thuộc hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc phòng. Hiện nay, cả nước có 64 Trung tâm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội (trong đó có 4 Trung tâm giới thiệu việc làm vùng) và 66 Trung tâm thuộc hội đoàn thể quần chúng và Bộ quốc phòng.

- Các Trung tâm thuộc Bộ Quốc Phòng chủ yếu tập trung vào đào tạo nghề cho bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên,...do vậy nhiều Trung tâm đã chuyển sang trường nghề và hoạt động theo quy định của Luật Dạy nghề. Còn các Trung tâm thuộc các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng như Thanh niên, Công đoàn, Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Liên minh HTX,... rất hạn chế về biên chế và kinh phí hoạt động thường xuyên nên phần lớn chưa thực sự quan tâm đến hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, mà tập trung nhiều hơn tới hoạt động dạy nghề.

- Chỉ có 64 Trung tâm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố là thực hiện có hiệu quả các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, thông tin thị trường lao động. Tuy nhiên, các Trung tâm này chưa được các địa phương đầu tư đúng mức mà chủ yếu được đầu tư từ nguồn vốn của Trung ương. Trong khi đó, do địa phương quản lý về nhân lực và tài chính nên hoạt động của các Trung tâm này còn nhiều hạn chế như bị chia cách về địa lý, còn chưa thống nhất trong tổ chức, hoạt động và công tác thông tin thị trường lao động, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của người lao động và người sư dụng lao động.....ảnh hưởng đến chất lượng thông tin thị trường lao động cũng như vai trò là cầu nối giữa người lao động và người sư dụng lao động.

Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất cũng như hiệu quả hoạt động của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm, phân bổ và sư dụng có hiệu quả các nguồn lực đồng thời phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế khi Việt Nam tham gia Hiệp hội Dịch vụ việc làm công Thế giới thì cần phải quy hoạch lại hệ thống dịch vụ việc làm công.

4.2. Các phương án lựa chọn:

18

Page 19: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Phương án 4A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành. Hệ thống dịch vụ công về việc làm bao gồm: Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc các hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc phòng

Phương án 4B: Chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm (hệ thống dịch vụ công về việc làm chỉ bao gồm Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương)

Phương án 4C: Thành lập tổ chức dịch vụ công về việc làm theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đồng thời chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.

Phương án 4D: Xã hội hóa hoạt động dịch vụ việc làm (khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; chuyển Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm)

4.3. Đánh giá tác động của các phương án lựa chọnTheo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng băng

phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng) về “Mô hình tổ chức dịch vụ công về việc làm” với 360 phiếu người sư dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động, có:

- 46,9% người lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án 4C, 18,6% đồng ý với phương án 4A, 16,8% đồng ý với phương án 4B và 20,5% đồng ý với phương án 4D

- 67,8% người sư dụng lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án 4C, 16,9% đồng ý với phương án 4A, 11,1% đồng ý với phương án 4B và 12,2% đồng ý với phương án 4D

19

Page 20: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- 77,5% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án 4C, 15,3% đồng ý với phương án 4A, 22,8% đồng ý với phương án 4B và 21,7% đồng ý với phương án 4D.

Biểu đồ 4. Tổ chức dịch vụ công về việc làm (%)

Phương án 4A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành. Hệ thống dịch vụ công về việc làm bao gồm: Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc các hội đoàn thể quần chúng và Bộ Quốc phòng

Nếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của hệ thống dịch vụ việc làm công hiện hành (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm) cũng như tốn kém tiền đầu tư của ngân sách nhà nước (ngân sách nhà nước sẽ phải đầu tư không chỉ cho các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước mà còn phải đầu tư cho các trung tâm giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể quần chúng) mà không thu được hiệu quả như mong muốn (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể quần chúng hiện nay hầu như hoạt động không có hiệu quả, không thực hiện được mục tiêu hoạt động giới thiệu việc làm mà chủ yếu thực hiện hoạt động dạy nghề).

20

Page 21: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Phương án 4B: Chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm (hệ thống dịch vụ công về việc làm chỉ bao gồm Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương)

Nếu lựa chọn phương án này sẽ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động kém hiệu quả (trung tâm giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể quần chúng) sẽ được chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp (xã hội hóa), ngân sách nhà nước sẽ chỉ tập trung đầu tư cho các trung tâm giới thiệu việc làm hoạt động có hiệu quả (trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động – Thương binh và Xã hội). Tuy nhiên, phương án này có hạn chế là do các Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh/thành phố nên vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải, cào băng cho tất cả các tỉnh/ thành phố, trong khi đó 1 số tỉnh/thành phố cần thiết phải thành lập nhiều hơn 1 trung tâm giới thiệu việc làm còn số tỉnh/thành phố khác chỉ cần thành lập 1 trung tâm giới thiệu việc làm chung cho mấy tỉnh thành phố. Các trung tâm giới thiệu việc làm bị chia cách về địa lý, còn chưa thống nhất trong tổ chức, hoạt động và công tác thông tin thị trường lao động, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của người lao động và người sư dụng lao động....

Phương án 4C: Thành lập Tổ chức dịch vụ công về việc làm theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đồng thời chuyển trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.

Nếu lựa chọn phương án này có thể khắc phục được triệt để các hạn chế của hệ thống dịch vụ việc làm công hiện nay (hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm), quy hoạch tập trung các nguồn lực, thống nhất trong tổ chức và hoạt động từ trung ương đến địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ việc làm đáp ứng được nhu cầu của người lao động và người sư dụng lao động cũng như đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chính sách trả bảo hiểm thất nghiệp trước đây (theo Luật Bảo hiểm xã hội) và nay là bảo hiểm thất nghiệp (theo dự thảo Luật Việc làm). Đây là chính sách thị trường lao động gắn liền với chính sách việc làm và gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về dịch vụ việc làm của Tổ chức dịch vụ việc làm công. Phương án này cũng không làm phát sinh thêm chi phí cho việc thành

21

Page 22: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

lập mới tổ chức dịch vụ việc làm công, do phương án này chỉ là quy hoạch lại theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương thành tổ chức dịch vụ việc làm công thống nhất trên cơ sở hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.

Phương án 4D: Xã hội hóa hoạt động dịch vụ việc làm (khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; chuyển Trung tâm giới thiệu việc làm trực thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Trung tâm giới thiệu việc làm của các tổ chức hội đoàn thể và Bộ Quốc phòng thành các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm

Phương án này là tiết kiệm nhất về mặt chi phí cho nhà nước, vì ngân sách nhà nước sẽ không phải đầu tư cho việc thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm. Tuy nhiên học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới thấy răng ở đa số các nước, nhà nước vẫn thực hiện hoạt động dịch vụ việc làm (thông qua tổ chức dịch vụ việc làm công) nhăm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sư dụng lao động (nhà nước cung cấp miễn phí một số hoạt động dịch vụ việc làm cho người lao động, người sư dụng lao động), phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về lao động, việc làm (thông qua tổ chức dịch vụ việc làm công, nhà nước có thể quản lý được lao động,tình trạng việc làm của người lao động) cũng như thực hiện các chính sách việc làm, thị trường lao động của nhà nước.

4.4. Kết luận và kiến nghị:Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (đa số ý kiến đều đồng ý

với phương án thành lập tổ chức dịch vụ công về việc làm thống nhất từ trung ương đến địa phương), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực của các phương án lựa chọn, việc lựa chọn phương án 4C của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sư dụng lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm công hiện hành và phù hợp với xu hướng chung của thế giới đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội dịch vụ việc làm công thế giới (năm 2011).

5. Bảo hiểm thất nghiệp5.1. Xác định vấn đề:Chính sách bảo hiểm thất nghiệp được quy định trong chương X Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2006, nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp, thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng

22

Page 23: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp và đã được triển khai trên thực tế hơn 3 năm. Qua 3 năm triển khai, chính sách này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần tạo và ổn định việc làm cho người lao động, giải quyết những khó khăn cho người lao động không may gặp khó khăn khi đang làm việc, giải quyết vấn đề an sinh xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp: Người lao động khi hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ngoài việc được hưởng một khoản tiền trợ cấp để bù đắp một phần thu nhập do bị mất việc làm và hưởng chế độ bảo hiểm y tế còn được tư vấn giới thiệu việc làm miễn phí và hỗ trợ học nghề để người lao động nâng cao trình độ, khả năng của bản thân, tạo sự chủ động trong việc tự tạo cơ hội quay trở lại thị trường lao động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp cũng bộc lộ một số hạn chế như: Đối tượng, phạm vi tham gia bảo hiểm thất nghiệp còn hạn chế nên chưa phát huy được hết lợi ích của chính sách này; thời gian đăng ký thất nghiệp ngắn; chưa xác định và phân loại nguyên nhân thất nghiệp....

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp mới chỉ dừng ở việc giải quyết chính sách khi chấm dứt quan hệ lao động, vấn đề thúc đẩy doanh nghiệp duy trì việc làm tốt, sắp xếp lại doanh nghiệp, ...chưa được đề cập đến. Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ quy định hỗ trợ cho người lao động sau khi họ mất việc làm chưa có thiết chế, chính sách để hỗ trợ cho doanh nghiệp để duy trì việc làm cho người lao động, phòng chống thất nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp gặp các khó khăn đặc biệt như suy giảm kinh tế, biến đổi khí hậu.....

5.2. Các phương án lựa chọn:5.2.1. Mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp Phương án 5.1A: Giữ nguyên các chế độ bảo hiểm thất nghiệp như hiện hànhPhương án 5.1B: Bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao

trình độ, kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động5.2.2. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệpPhương án 5.2A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành (đối

tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên và người sư dụng lao động có sư dụng từ 10 lao động trở lên)

Phương án 5.2B: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc bao gồm: người lao động làm việc

23

Page 24: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng và mọi người sư dụng lao động - có sư dụng từ 1 lao động trở lên; các đối tượng người lao động còn lại – người lao động không có quan hệ lao động, người lao động có hợp đồng lao động dưới 3 tháng có quyền tham gia bảo hiểm thất nghiệp)

5.2.3. Tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp:Phương án 5.3A: Giữ nguyên như hiện nay (BHXH thu và chi, trung tâm

dịch vụ việc làm thực hiện các chế độ, thủ tục đăng ký, hưởng trợ cấp thất nghiệp…)

Phương án 5.3B: BHXH thu, trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện thêm chức năng chi trả

Phương án 5.3C: Thành lập riêng tổ chức bảo hiểm thất nghiệp (mô hình giống BHXH)

5.3. Đánh giá tác động các phương án lựa chọn:Theo kết quả thu được thông qua hoạt động lấy ý kiến công chúng băng

phiếu tham vấn RIA tại 9 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 khu vực: (i) Khu vực miền Bắc (Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ); (ii) Khu vực miền Trung và Tây Nguyên (Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đắk Lắk); Khu vực miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Sóc Trăng) về “Mở rộng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp” và ”Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp” với 360 phiếu người sư dụng lao động, 360 phiếu cán bộ ngành Lao động và 1530 phiếu người lao động, có:

- 71,7% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp; tỷ lệ đồng ý đối với người sư dụng lao động được tham vấn là 66,3%, người lao động được tham vấn là 70,8%.

- 51,4% cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án mở rộng đối tượng người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (người lao động giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên) ; tỷ lệ đồng ý đối với người sư dụng lao động được tham vấn là 46,4%, người lao động được tham vấn là 57,4%.

- 71,7 % cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án mở rộng đối tượng người sư dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (tất cả người sư dụng lao động) ; tỷ lệ đồng ý đối với người sư dụng lao động được tham vấn là 64,2%, người lao động được tham vấn là 78%.

24

Page 25: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

- 43,4 % cán bộ ngành lao động được tham vấn trả lời đồng ý với phương án 5.3B (BHXH thu, trung tâm dịch vụ việc làm chi trả); phương án 5.3C nhận được sự hưởng ứng cao hơn cả từ phía NLĐ (49,9%), tương tự với nhóm NSDLĐ (45,1%).

Biểu đồ 5.1. Mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (%)

Biểu đồ 5.2. Mở rộng đối tượng người lao động tham gia BHTN (%)

Biểu đồ 5.3. Mở rộng đối tượng DN tham gia BHTN (%)

25

Page 26: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Biều đồ 5.4. Tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp

5.3.1 Mở rộng phạm vi các chế độ bảo hiểm thất nghiệpPhương án 5.1A: Giữ nguyên các chế độ bảo hiểm thất nghiệp như hiện

hànhNếu lựa chọn phương án này thì không thể khắc phục được hạn chế của

chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện hành. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện nay mới chỉ hỗ trợ cho người lao động sau khi thất nghiệp (chính sách thụ động), chưa có các quy định về hỗ trợ duy trì việc làm, phòng chống thất nghiệp cho người lao động (chính sách chủ động) đặc biệt trong các trường hợp doanh nghiệp gặp

26

Page 27: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

khó khăn lớn do suy giảm kinh tế.... là những trường hợp có nguy cơ dẫn đến nhiều người lao động bị thất nghiệp tạo ra gánh nặng lớn cho xã hội, bất ổn về trật tự an toàn xã hội và tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp (do phải chi trả chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho một số lượng lớn người lao động)....

Phương án 5.1 B: Bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động

Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được những hạn chế của hệ thống chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện hành, hoàn thiện chính sách thị trường lao động; thực hiện được mục tiêu bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho người lao động. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp gồm 2 cấu phần: Chính sách chủ động (hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề đối với người lao động trong thời gian đang đóng bảo hiểm thất nghiệp); Chính sách thụ động (các chế độ của chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện tại). Với chính sách chủ động của bảo hiểm thất nghiệp sẽ có tác dụng chống lại thất nghiệp, sa thải lao động hàng loạt. Thông qua chính sách này người sư dụng lao động sẽ có điều kiện tập trung đầu tư đào tạo phát triển kỹ năng nghề, mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động. Chính sách thụ động bao gồm các chế độ chi trả cho người thất nghiệp; việc thực hiện các chế độ đối với người thất nghiệp sẽ giảm gánh nặng cho lao động khi xư lý trợ cấp mất việc làm, đồng thời có tác dụng thúc đẩy người lao động sớm quay trở lại thị trường lao động.

Mặc dù phát sinh thêm chi phí hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề đối với người lao động trong thời gian đang đóng bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện nguồn thu không thay đổi (mức đóng bảo hiểm thất nghiệp không tăng) song khi tính toán, so sánh chi phí giữa việc thực hiện và không thực hiện chính sách chủ động thì chi phí để giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo quy định hiện tại sẽ lớn hơn, cho nên tính an toàn của quỹ bảo hiểm thất nghiệp vẫn được bảo đảm.

5.3.2 Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệpPhương án 5.2A: Tiếp tục thực hiện các quy định pháp luật hiện hành (đối

tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên và người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên)

Nếu lựa chọn phương án này, bảo hiểm thất nghiệp đã bỏ qua một số lượng lớn DN và người lao động (người lao động có hợp đồng dưới 12 tháng và người lao

27

Page 28: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

động trong doanh nghiệp sư dụng dưới 10 lao động), điều này cũng sẽ không đáp ứng được bản chất của chính sách bảo hiểm thất nghiệp đặc biệt là đối với đối tượng người lao động có hợp đồng dưới 12 tháng là những đối tượng có nguy cơ thất nghiệp cao; gây khó khăn cho công tác quản lý. Mặt khác quá trình tham gia bảo hiểm thất nghiệp của doanh nghiệp và người lao động cũng bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp có sự biến động lao động với những doanh nghiệp có từ 10 lao động (giảm lao động xuống dưới 10 người)

Phương án 5.2B: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và mọi người sử dụng lao động - có sử dụng từ 1 lao động trở lên; các đối tượng người lao động còn lại – người lao động không có quan hệ lao động, người lao động có hợp đồng lao động dưới 3 tháng có quyền tham gia bảo hiểm thất nghiệp)

Nếu lựa chọn phương án này thì phạm vi đối tượng tham gia và được thụ hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp sẽ được mở rộng hơn, đáp ứng được bản chất của chính sách bảo hiểm thất nghiệp; góp phần hỗ trợ duy trì, phát triển việc làm để ngăn ngừa và hạn chế thất nghiệp, hỗ trợ bù đắp một phần thu nhập và sớm đưa người thất nghiệp trở lại thị trường lao động; thực hiện được mục tiêu bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho bộ phận lớn người lao động (đặc biệt với những đối tượng lao động có nguy cơ việc làm kém bền vững là người lao động có hợp đồng lao động dưới 12 tháng). Mặt khác cũng giúp cho việc quản lý vấn đề cho thuê lại lao động dễ dàng hơn khi hiện tại các nhóm này thường chỉ ký kết các hợp đồng ngắn hạn.

5.3.3 Tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệpPhương án 5.3A: Giữ nguyên như hiện nay (BHXH thu và chi, trung tâm

dịch vụ việc làm thực hiện các chế độ, thủ tục đăng ký, hưởng trợ cấp thất nghiệp…)

Nếu lựa chọn phương án này, để được nhận TCTN, NLĐ sẽ phải đi lại khá nhiều lần tới cả hai cơ quan là BHTN và BHXH. Trong đó, BHTN chịu trách nhiệm thực hiện các quy định về chế độ chính sách liên quan như: đăng ký thất nghiệp, ra quyết định, thông báo việc làm...còn BHXH là cơ quan thực hiện nhiệm vụ thu và chi. Để thuận tiện, chính sách cũng quy định NLĐ có thể nhận tiền qua hệ thống ATM nhưng cho tới nay vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau mà chỉ có một vài tỉnh thành phố như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng

28

Page 29: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

Nai mới triển khai chi trả TCTN qua ATM. Nói cách khác, phần đông lao động thất nghiệp vẫn phải mất rất nhiều thời gian cho việc đi lại để nhận TCTN và cũng lý do này nên ở nhiều địa phương NLĐ thất nghiệp đã không đăng ký thất nghiệp do việc đi lại quá khó khăn, nhất là ở các tỉnh miền núi trong khi số tiền được nhận là quá ít.

Phương án 5.3B: BHXH thu, trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện thêm chức năng chi trả

Nếu lựa chọn phương án này sẽ khắc phục được những hạn chế trong việc tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp hiện nay, vấn đề đi lại nhiều lần của NLĐ cũng sẽ được giải quyết, đồng thời những phát sinh khác về sự “sai lệch” số liệu giữa hai bên (do quá trình thông tin, chuyển dữ liệu của BHTN và BHXH đôi khi lệch nhau hoặc do BHXH vốn quy định cố định thời gian chi trả trong khi BHTN lại không cố định được vấn đề này) cũng sẽ được giải quyết. Như vậy cũng có nghĩa việc kiểm soát, đồng bộ các thông tin về chế độ và việc chi trả cũng dễ dàng hơn bởi thực tế hiện nay hầu hết các địa phương khác đều đang chi trả qua hệ thống của BHXH tới cấp xã/phường. Bên cạnh đó, việc giao cho các TTGTVL chi trả cũng đảm bảo sự đồng bộ trong thực hiện chính sách bởi có một số các quy trình của BHXH ở các tỉnh đang thực hiện không thống nhất. Ví dụ khi NLĐ chuyển tỉnh cần phải có giấy giới thiệu của BHXH nơi chuyển đi tới nơi chuyển đến thì BHXH nơi chuyển đến mới chi tiền các tháng còn lại, tuy nhiên một số BHXH các tỉnh lại không cung cấp giấy giới thiệu dẫn đến khó khăn cho NLĐ. Đối với vấn đề này đại diện ngành LĐTBXH tại 9 tỉnh, thành phố đều cho răng TTGTVL có đủ năng lực để thực hiện việc chi trả cho NLĐ: “Cái đó đẩy thẳng vào phần mềm BHTN thì đâu có gì sai sót, nhân viên không phải nhập mà lấy dữ liệu gốc, thì số tiền một cục đó BHXH cứ việc đưa quan ngân hàng Đông Á, ngân hàng cứ việc quét thẻ cho NLĐ là có tiền, như vậy vấn đề chi đâu có gì phức tạp. Như vậy nếu trung tâm được chi luôn thì không phải mất thời gian BHXH rà soát lại nữa mà cuối cùng trung tâm cũng chịu trách nhiệm chứ BHXH có phải chịu trách nhiệm đâu, vậy thì trung tâm chi luôn. Như vậy là NLĐ sẽ nhận được nhanh, chứ không cần phải chờ thủ tục giữa Sở LĐTBXH ký xong đưa qua BHXH rồi mất một thời gian để xem thế này thế kia”. (Nam, đại diện TTGTVL thành phố Hồ Chí Minh). Trong khi đó, đại diện BHXH nhiều tỉnh, thành phố cũng khẳng định BHXH có thể chuyển việc chi cho các TTGTVL nhưng cần phải có lộ trình và chú trọng tới việc tăng cường các biện pháp giám sát từ BHXH, bên cạnh đó cần chú trọng vào vấn đề đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên BHTN. Mặt khác, việc lựa chọn phương án này

29

Page 30: Báo cáo đánh giá tác động văn bản pháp luật (RIA)vieclamvietnam.gov.vn/Portals/0/TaiLieu/Users/luat vl... · Web viewChính sách bảo hiểm thất nghiệp được

lại không làm phát sinh chi phí cho việc thành lập tổ chức mới để thực hiện bảo hiểm thất nghiệp

Phương án 5.3C: Thành lập riêng tổ chức BHTN (mô hình giống BHXH)Nếu lựa chọn phương án này sẽ có những hạn chế như sau: khi thành lập

riêng một tổ chức về BHTN, mô hình sẽ giống với BHXH hiện nay trong khi theo dự kiến sẽ thành lập trung tâm dịch vụ việc làm thống nhất từ Trung ương tới địa phương để không chỉ giải quyết tốt vấn đề BHTN mà còn các vấn đề khác liên quan tới việc làm. Cũng theo dự kiến này, BHTN sẽ do các trung tâm dịch vụ việc làm “quản lý”. Như vậy, việc thành lập riêng tổ chức BHTN về mặt tổ chức quản lý là không phù hợp. Thứ hai, nếu thành lập riêng tổ chức BHTN, Nhà nước sẽ phải đầu tư rất nhiều vào hệ thống cơ sở vật chất, nhân sự...trong khi đó chỉ cần thay đổi về chức năng, nhiệm vụ của BHTN và BHXH đối với chính sách BHTN hiện hành, mục đích chính sách vẫn có thể đạt được. Thứ ba, nếu thành lập riêng tổ chức BHTN có thể sẽ đi ngược lại với chủ trương cải cách thủ tục hành chính hiện nay do khi đó doanh nghiệp để hoàn thành trách nhiệm pháp luật về chế độ cho NLĐ sẽ phải đóng BHXH, BHYT cho cơ quan BHXH, trong khi BHTN sẽ phải đóng cho cơ quan BHTN. Chi phí hành chính từ quá trình này sẽ tăng, thời gian để doanh nghiệp thực hiện các trách nhiệm này cũng sẽ tăng và việc quản lý (do “đầu vào” của BHTN có xu hướng thay đổi giống với “đầu vào” của BHXH) cũng sẽ gặp khó khăn hơn.

5.4. Kết luận và kiến nghị: Theo phân tích kết quả tham vấn ý kiến công chúng (đa số ý kiến đều đồng ý

với phương án phát triển bảo hiểm thất nghiệp thành bảo hiểm thất nghiệp và mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp), và phân tích tác động tích cực và tiêu cực, việc lựa chọn phương án 5.1B, 5.2B và 5.3B của Báo cáo RIA là hợp lý và có lợi nhất về mặt xã hội, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người lao động và người sư dụng lao động, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm việc làm, việc làm bền vững cho người lao động; đồng thời cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới./.

BÔ LAO ĐÔNG – THƯƠNG BINH VA XA HÔI

30