bÁo cÁo -...
TRANSCRIPT
VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
DỰ ÁN CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG - VNSAT
BÁO CÁO
BÁO CÁO CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH HÀNG
LÚA GẠO TẠI ĐỒNG THÁP
Hà Nội, 2017
1
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU CHUNG ..................................................................................................... 5
1.1. Lý do nghiên cứu ...................................................................................................... 5
1.2. Mục tiêu .................................................................................................................... 7
1.2.1. Mục tiêu chung ................................................................................................... 7
1.2.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................... 7
1.3. Phương pháp thực hiện ............................................................................................. 7
1.3.1. Phương pháp thu thập thông tin ......................................................................... 7
1.3.2. Phương pháp phân tích ....................................................................................... 7
1.3.2. Địa bàn nghiên cứu ............................................................................................. 8
1.3.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 8
1.4. Nội dung nghiên cứu ................................................................................................. 9
II. THỰC TRẠNG NGÀNH HÀNG LÚA GẠO VIỆT NAM ......................................... 10
2.1. Sản xuất ................................................................................................................... 10
2.1.1. Diện tích ........................................................................................................... 10
2.1.2. Năng suất và sản lượng .................................................................................... 12
2.2. Tiêu thụ ................................................................................................................... 15
2.3. Thương mại lúa gạo ................................................................................................ 17
2.3.1 Xuất khẩu........................................................................................................... 17
2.3.1 Nhập khẩu .......................................................................................................... 19
III. CHUỐI GIÁ TRỊ NGÀNH HÀNG LÚA GẠO TẠI ĐỒNG THÁP ...................... 20
3.1. Đặc điểm chung của các tác nhân trong chuỗi lúa gạo Đồng Tháp........................ 20
3.1.1. Nông dân .......................................................................................................... 20
3.1.2. Hợp tác xã (HTX) ............................................................................................. 24
3.1.3. Thương lái ........................................................................................................ 25
3.1.4. Doanh nghiệp ................................................................................................... 27
3.2. Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp ........................................................ 28
2
3.2.1. Tổ chức chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp .................................................... 28
3.2.2. Hiệu quả kinh tế của các tác nhân chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp ........... 32
3.3. Những khó khăn đối với sản xuất kinh doanh lúa gạo ........................................... 38
3.4. Các chính sách hỗ trợ .............................................................................................. 42
III. KẾT LUẬN ................................................................................................................. 43
3
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Tổng diện tích canh tác lúa cả nước, giai đoạn 1995-2016 ................................. 10
Hình 2: Năng suất và sản lượng lúa Việt Nam ................................................................. 13
Hình 3: Sản lượng lúa theo vùng sinh thái ........................................................................ 14
Hình 4: Tiêu thụ gạo bình quân đầu người năm 2015 (kg/người/tháng) .......................... 15
Hình 5: Sản xuất và tiêu dùng lúa gạo Việt Nam (Nghìn tấn) .......................................... 16
Hình 6: Lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm 2010 – 2016 ................... 17
Hình 7: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo 2015 – 2016 ..................................................... 18
Hình 8: Lượng và trị giá nhập khẩu gạo của Việt Nam 2012 – 2016 ............................... 19
Hình 9: Số nhân khẩu của hộ trồng lúa tại Đồng Tháp ..................................................... 20
Hình 10: Quy mô đất trồng lúa của hộ nông dân tại Đồng Tháp ...................................... 21
Hình 11: Cơ cấu doanh thu trồng lúa trên tổng thu nhập của các hộ (%) ......................... 22
Hình 12: Tỷ lệ các giống lúa được sử dụng phổ biến tại Đồng Tháp ............................... 23
Hình 13: Các tiêu chuẩn sản xuất an toàn bền vững mà người dân áp dụng (%) ............. 23
Hình 14: Sơ đồ chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp ......................................................... 29
Hình 15: Cơ cấu chi phí sản xuất trung bình của nông dân tại Đồng Tháp ...................... 34
Hình 16: Lợi ích các tiêu chuẩn sản xuất an toàn bền vững đối với người dân (%) ......... 36
Hình 17: Khó khăn của người nông dân trồng lúa (% lựa chọn trên tổng mẫu) ............... 38
4
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Diện tích trồng lúa phân theo các vùng sinh thái ................................................ 11
Bảng 2: Chi phí – lợi nhuận trên 01 kg lúa của các tác nhân trong chuỗi giá trị .............. 32
Bảng 3: Chi phí sản xuất bình quân của người nông dân trồng lúa tỉnh Đồng Tháp ........ 35
Bảng 4: Hiệu quả kinh tế tính trên 1 kg lúa tại Đồng Tháp (đồng/kg) ............................. 36
5
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lý do nghiên cứu
Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp Bền vững tại Việt Nam (VnSAT) là dự án vốn vay
Ngân hàng Thế giới với tổng số vốn là 301 triệu USD, bao gồm 237,2 triệu USD vốn vay
từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA); 28,8 triệu USD vốn đối ứng Chính phủ và 35 triệu
USD vốn tư nhân (do Nông dân và Doanh nghiệp tham gia dự án đóng góp).
Dự án được thực hiện trong thời gian 5 năm từ 2015 đến 2020 trên địa bàn của 13
tỉnh gồm: 5 tỉnh vùng Tây Nguyên là Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng
và 8 tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long là An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng và Tiền Giang.
Mục tiêu của dự án là góp phần triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp thông qua tăng cường năng lực thể chế của ngành; đổi mới phương thức canh tác
bền vững và nâng cao chuỗi giá trị cho hai ngành hàng lúa gạo và cà phê ở hai vùng sản
xuất hàng hóa chủ lực của Việt Nam là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Tây
Nguyên.
Xét riêng đối với ngành lúa gạo, đây là một trong những ngành hàng nông sản quan
trọng hàng đầu của Việt Nam. Hàng năm xuất khẩu gạo đạt 6,6 triệu tấn, trị giá 2,8 tỷ chiếm
1,73% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, chiếm 9,21% kim ngạch xuất khẩu
nông lâm thủy sản (NLTS). Vị thế ngành lúa gạo của Việt Nam cũng rất cao, luôn đứng
trong top 3 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, cùng với Thái Lan và Ấn Độ trong
nhiều năm qua. Không những vậy, lúa gạo còn là mặt hàng rất quan trọng đối với sinh kế
cho trên 9,3 triệu hộ nông dân và là mặt hàng nông sản chiến lược của quốc gia trong đảm
bảo ANLT. Chính vì thế, trong những năm vừa qua chính sách nhà nước cũng đã ưu tiên
đầu tư rất nhiều cho sự phát triển của mặt hàng này.
Mặc dù vậy, ngành hàng lúa gạo vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong hầu hết các khâu
của chuỗi giá trị. Những hạn chế này đã và đang làm cho hai ngành hàng này phát triển
không bền vững:
- Thứ nhất, đối với khâu sản xuất, quy mô sản xuất hộ nông dân còn nhỏ lẻ, trong
khi các hình thứ tổ chức liên kết nông dân như tổ hợp tác, hợp tác xã… chưa được quan
tâm phát triển. Sản xuất còn dựa theo kinh nghiệm, thiếu thông tin khoa học kỹ thuât và thị
trường;
6
- Thứ hai, đối với khâu sau thu hoạch, chế biến, còn thiếu hệ thống sấy, gây thất
thoát và giảm chất lượng gạo xuất khẩu. Chế biến sâu, đa dạng hóa các loại gạo và sản
phẩm chế biến từ gạo còn hạn chế, chưa chú trọng sử dụng các sản phẩm phụ như trấu,
cám;
- Thứ ba, đối với khâu thị trường, xúc tiến thương mại, công tác xúc tiến thương
mại chưa được đầu tư tương xứng với vị trí của ngành hàng và yêu cầu quảng bá sản phẩm,
phát triển thị trường trong điều kiện cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu trên thị trường thế
giới ngày càng trở nên gay gắt. Gạo Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế,
đặc biệt là thị trường gạo chất lượng cao, khả năng cạnh tranh còn thấp, giá bán chưa cao.
- Thứ tư, cơ sở hạ tầng, hậu cần phục vụ ngành lúa gạo còn hạn chế. Hệ thống giao
thông, thủy lợi, tưới tiêu… chưa được đầu tư hoàn thiện, chưa đáp ứng yêu cầu của sản
xuất.
- Thứ năm, sự liên kết trong chuỗi sản xuất - thu mua – chế biến – tiêu thụ còn lỏng
lẻo. Đa số doanh nghiệp xuất khẩu mua gạo từ thương lái, chưa liên kết với nông dân xây
dựng cánh đồng lớn, vùng nguyên liệu dẫn đến chất lượng gạo xuất khẩu thấp.
- Thứ sáu, thể chế và chính sách đối với ngành lúa gạo chưa đáp ứng yêu cầu sản
xuất kinh doanh. Nông dân còn sản xuất nhỏ lẻ, yếu thế; vai trò của hợp tác xã hạn chế.
Các doanh nghiệp chủ yếu tham gia trong khâu cuối của chuỗi giá trị, không gắn bó, ít
quan tâm đến lợi ích của nông dân1.
Để giải quyết những khó khăn trên và với mục tiêu hướng tới phát triển ngành hàng
lúa gạo một cách bền vững, cần thiết phải nghiên cứu đặc điểm, nhu cầu, lợi ích, thuận lợi,
khó khăn của tất cả các tác nhân trong ngành hàng lúa gạo. Một trong những hoạt động
nghiên cứu của Dự án VN-SAT đó là chọn ra một tỉnh thành đặc trưng, đại diện để nghiên
cứu chuỗi giá trị ngành hàng này tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh được lựa
chọn là Đồng Tháp. Hoạt động nghiên cứu chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp cũng giúp
Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp thực hiện nhiệm vụ được giao đó là
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về thông tin sản xuất, thị trường, giá cả cho ngành hàng
lúa gạo thông qua công nghệ Website một cách hiệu quả, phục vụ cho mục tiêu chung của
Dự án.
1 Tóm tắt nghiên cứu của IPSARD, 2015
7
1.2. Mục tiêu
1.2.1. Mục tiêu chung
Thực hiện khảo sát hàng năm các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo nhằm thu thập
thông tin về sản xuất, kinh doanh của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo Việt Nam.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
• Đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh của các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành
hàng lúa gạo.
• Xác định những khó khăn, hạn chế trong sản xuất kinh doanh của các tác nhân trong
chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo
• Đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, hướng tới liên kết bền vững chuỗi giá trị ngành
hàng lúa gạo.
1.3. Phương pháp thực hiện
1.3.1. Phương pháp thu thập thông tin
(i) Thu thập thông tin, dữ liệu thứ cấp: Các dữ liệu, thông tin thứ cấp được thu thập,
phân tích để đưa ra tổng quan tình hình ngành lúa gạo Việt Nam và tỉnh Đồng Tháp.
(ii) Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi: Phỏng vấn chuyên sâu, trực tiếp các tác nhân
trực tiếp tham gia chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo, bao gồm: Doanh nghiệp, HTX, Cơ sở
xay xát; Người thu gom/thương lái, Nông dân trồng lúa.
(iii) Tham vấn chuyên gia: Phỏng vấn, lấy ý kiến một số chuyên gia, cán bộ chuyên
môn trong ngành lúa gạo tại địa bàn khảo sát.
1.3.2. Phương pháp phân tích
Phân tích số liệu thống kê: Sử dụng những số liệu thống kê sẵn có kết hợp với số liệu
điều tra thực địa để phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh lúa gạo và hiệu quả
của các tác nhân trong ngành hàng lúa gạo Việt Nam
Phân tích chuỗi giá trị: Phương pháp này được sử dụng để phân tích mỗi liên kết, tổ
chức chuỗi và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của từng khâu, từng tác nhân trong chuỗi giá
trị lúa gạo.
Phân tích chuỗi giá trị áp dụng trong nghiên cứu này gồm:
8
- Vẽ chuỗi giá trị
- Phân tích quản trị chuỗi
- Phân tích kinh tế (chi phí – lợi nhuận) của các tác nhân trong chuỗi
- Xác định các vấn đề trong chuỗi
1.3.2. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành để đánh giá chung thực trạng sản xuất, kinh doanh của
ngành lúa gạo Việt Nam. Ngoài ra, để nghiên cứu chi tiết tổ chức sản xuất, liên kết, hiệu
quả của các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát thực
địa tại 01 tỉnh/thành phố thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh được lựa chọn là
Đồng Tháp – một trong những tỉnh có diện tích, sản lượng lúa lớn nhất vùng Đồng bằng
sông Cửu Long và trên cả nước. Đồng Tháp cũng là một trong những tỉnh thực hiện thành
công mô hình cánh đồng mẫu lớn và các mô hình liên kết sản xuất trực tiếp giữa nông dân
và công ty (như Tập đoàn Lộc Trời).
1.3.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Dựa trên các tài liệu, các báo cáo, các nghiên cứu
đã thực hiện trong và ngoài nước, nghiên cứu tiến hành tổng quan và kế thừa các kết quả
nghiên cứu để đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng sản xuất, kinh doanh lúa gạo Việt
Nam.
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Trao đổi trực tiếp với các chuyên gia, cán bộ
địa phương để khai thác thông tin, tư liệu, ý kiến của các chuyên gia về các bất cập trong
sản xuất và kinh doanh lúa gạo Việt Nam và đề xuất các giải pháp.
Phương pháp điều tra chọn mẫu và phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng
hỏi đối với các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp, bao gồm: nông dân, hợp
tác xã (HTX), thương lái và doanh nghiệp. Số lượng cụ thể bao gồm:
- Nông dân: 100
- Hợp tác xã: 6
- Thương lái: 10
- Doanh nghiệp: 4
9
1.4. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào hiện trạng sản xuất, kinh doanh của các tác nhân trong
chuỗi giá trị ngành lúa gạo và các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của các tác nhân
trong chuỗi, đồng thời xác định các vấn đề bất cập của các tác nhân và của chuỗi giá trị .
Cụ thể:
(i) Đặc điểm các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo được lựa chọn điều tra (bao
gồm các tác nhân: nông dân, hợp tác xã, thương lái, doanh nghiệp (bao gồm cả doanh
nghiệp xay xát và kinh doanh lúa gạo).
(ii) Tổ chức chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
(iii) Hiệu quả sản xuất, kinh doanh lúa gạo của các tác nhân và các yếu tố ảnh hưởng
(iv) Các vấn đề trong chuỗi giá trị
10
II. THỰC TRẠNG NGÀNH HÀNG LÚA GẠO VIỆT NAM
2.1. Sản xuất
2.1.1. Diện tích
Ở Việt Nam lúa là cây trồng chính, cung cấp lương thực và là ngành sản xuất truyền
thống trong nông nghiệp. Việt Nam có khoảng 9,3 triệu ha đất nông nghiệp, phần lớn diện
tích đất này dành cho trồng lúa, khoảng 4,3 triệu ha (chiếm 46% diện tích đất nông nghiệp).
Năm 2016, diện tích đất canh tác lúa có khoảng 7,79 triệu ha (tính cả ba vụ), giảm 0,5% so
với năm 2015. Mục tiêu sản xuất lúa đến năm 2020 của Việt Nam là duy trì diện tích trồng
lúa ở mức 3,8 triệu ha và sản lượng lúa đạt 45 triệu tấn. Để tăng sản lượng lúa, khả năng
mở rộng diện tích không nhiều và còn gây ảnh hưởng không tốt đến hệ sinh thái, do đó chủ
yếu vẫn dựa vào tăng năng suất.
Hình 1: Tổng diện tích canh tác lúa cả nước, giai đoạn 1995-2016
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017
Từ năm 1999 đến 2014, diện tích trồng lúa của Việt Nam được chia làm hai giai
đoạn phát triển rõ rệt. Từ năm 1999 đến 2007, diện tích trồng lúa suy giảm, nếu như năm
1999, diện tích trồng lúa là 7.653,6 nghìn ha thì đến năm 2007 diện tích chỉ còn 7.207,4
nghìn ha (giảm 5,83%). Do quá trình đô thị hóa ngày càng tăng, các khu công nghiệp, dân
cư chủ yếu được xây dựng ở vùng đồng bằng dẫn đến diện tích trồng lúa ngày càng bị thu
-3
-2
-1
0
1
2
3
4
5
6000
6200
6400
6600
6800
7000
7200
7400
7600
7800
8000
Tổng diện tích canh tác lúa 1995-2016
Tổng diện tích (Nghìn ha) Tốc độ tăng (%)
11
hẹp. Từ năm 2008 đến 2014, diện tích trồng lúa lại tăng trở lại với 7.400,2 nghìn ha năm
2008 lên 7.813,8 nghìn ha năm 2014 và giảm nhẹ xuống còn 7.790 ha năm 2016. Nguyên
nhân tăng diện tích là do nhà nước đã ban hành những chính sách theo hướng có lợi cho
sản xuất nông nghiệp nên kích thích người dân mở rộng diện tích lúa. Theo Nghị định
42/2012/NĐ-CP2 về quản lý và sử dụng đất trồng lúa, nhà nước có chính sách hỗ trợ để
bảo vệ và phát triển đất trồng lúa như hỗ trợ ngân sách cho địa phương sản xuất lúa, hỗ trợ
cho người sản xuất trồng lúa hàng năm, hỗ trợ chi phí vật tư cho người sản xuất lúa khi có
dịch bệnh và hỗ trợ chi phí khai hoang, cải tạo đất trồng lúa. Bên cạnh đó, việc củng cố hệ
thống thủy lợi tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong giai đoạn này cũng giúp mở rộng
diện tích lúa vụ 3, góp phần gia tăng diện tích đất trồng lúa cũng như nâng cao năng suất
lúa bình quân. Trong những năm gần đây, diện tích canh tác lúa giảm nhẹ do quá trình đô
thị hóa, đất lúa bị thu hồi để xây dựng các công trình giao thông, khu công nghiệp. Một số
diện tích đất lúa kém hiệu quả được chuyển sang trồng các loại cây hàng năm khác.
Bảng 1: Diện tích trồng lúa phân theo các vùng sinh thái
Đơn vị: 1.000 ha
Stt Vùng 1999 2007 2014 2016
Dtích % Dtích % Dtích % Dtích %
1 ĐB sông Hồng 1.250 16,3 1.158 16,1 1.123 14,4 1.094 14,1
2 Trung du MN phía Bắc 621 8,1 672 9,3 689 8,8 683 8,8
3 BTB và DH miền Trung 1.236 16,2 1.189 16,5 1.244 15,9 1.215 15,6
4 Tây Nguyên 166 2,2 205 2,9 238 3,1 233 2,9
5 Đông Nam bộ 396 5,2 300 4,2 273 3,5 270 3,5
6 ĐB sông Cửu Long 3.985 52,1 3.683 51,1 4.247 54,3 4.295 55,1
Cả nước 7.654 100 7.207 100 7.814 100 7.790 100
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017
Sản xuất lúa Việt Nam được phân bố trên 6 vùng sinh thái cơ bản, đó là: Đồng bằng
sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, 3 vùng lúa quan trọng
2 Đã được thay thế bằng Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015
12
nhất là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
(BTB và DHMT) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Trong năm 2016, diện tích trồng lúa
của ĐBSCL là 4,295 triệu ha, chiếm 55,1%; BTB và DHMT là 1,215 triệu ha, chiếm
15,6%; ĐBSH là 1,094 triệu ha, chiếm 14,1% tổng diện tích trồng lúa cả nước. Như vậy,
trong năm 2016, chỉ tính riêng 3 vùng kinh tế này đã chiếm tới 84,8% tổng diện tích trồng
lúa của cả nước.
Về thời vụ, sản xuất lúa được phân bố theo 3 vụ chính trong năm: Vụ Đông xuân
(thu hoạch từ tháng 02 đến tháng 4), Vụ Hè thu (thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 8) và Vụ
mùa (thu hoạch từ tháng 10 đến tháng 12). Trong đó, Vụ Đông xuân là vụ chính có quy mô
lớn nhất, chất lượng lúa tốt nhất trong năm. Vụ Hè thu có quy mô lớn thứ hai, nhưng do
thu hoạch vào giữa mùa mưa mà công tác xử lý sau thu hoạch chưa tốt nên chất lượng lúa
kém nhất trong năm. Vụ mùa có chất lượng lúa tốt tương đương vụ Đông Xuân, nhưng có
quy mô nhỏ nhất. Trong năm 2016, diện tích vụ Đông xuân vào khoảng 3,082 triệu ha,
chiếm 39,55%; vụ Hè thu 2,807 triệu ha, chiếm 36,02%, vụ Mùa 1,904 ha, chiếm 24,43%
tổng diện tích gieo trồng cả năm.
2.1.2. Năng suất và sản lượng
Trong những năm qua, các chính sách hỗ trợ cho nông dân trồng lúa như chính sách
bình ổn giá và hỗ trợ người sản xuất, và các chính sách hỗ trợ nông nghiệp nói chung như
đầu tư phát triển thủy lợi, tự do hóa thương mại, miễn giảm thủy lợi phí, khuyến nông, hỗ
trợ nghiên cứu khoa học, cho vay tín dụng… đã tạo nên động lực đáng kể cho nông dân
sản xuất lúa và góp phần đưa năng suất lúa của Việt Nam không ngừng tăng lên. Nếu như
năm 1999, năng suất lúa của Việt Nam chỉ ở mức 4,10 tấn/ha, thì đến năm 2007, năng suất
tăng lên 4,99 tấn/ha, tăng 21,71%. Và đến năm 2016, năng suất lúa của Việt Nam đã đạt
khoảng 5,6 tấn/ha, tăng 12,25% so với năm 2007 và 36,47% so với năm 1999.
Mặc dù diện tích trồng lúa giảm trong giai đoạn 2000 – 2007, nhưng do năng suất
tăng nên sản lượng lúa của Việt Nam vẫn tăng lên. Nếu như năm 1999, sản lượng lúa của
Việt Nam mới chỉ ở mức 31,394 triệu tấn, thì đến năm 2007, sản lượng lúa đã đạt 35,943
triệu tấn, tăng 14,49%. Thành công này là kết quả nỗ lực của hàng triệu nông dân trong
điều kiện đổi mới, người lao động được làm chủ ruộng đất, được lựa chọn sản xuất, chủ
động trong các khâu sản xuất và tiêu thụ để có được hiệu quả sản xuất cao nhất. Bên cạnh
đó là việc áp dụng những tiến bộ về khoa học, công nghệ trong sinh học, thủy lợi, phân
bón… đặc biệt trong lĩnh vực sinh học như áp dụng các giống lúa mới vào sản xuất, làm
13
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm canh, tăng nhanh sản lượng. Cùng
với đóng góp của hàng triệu nông dân trên đồng ruộng còn phải kể đến sự đóng góp không
nhỏ của các nhà khoa học đã trực tiếp làm nên thành quả của ngành nông nghiệp những
năm qua.
Từ năm 2008 đến nay, do năng suất lúa liên tục tăng cùng với diện tích gieo trồng
mở rộng đã làm sản lượng lúa tăng lên. Năm 2016, sản lượng lúa của Việt Nam khoảng
43,61 triệu tấn. Thành công có được là nhờ vào sự tích cực đổi mới trong phương pháp
canh tác, mạnh dạn áp dụng khoa học, kỹ thuật, sử dụng những giống có năng suất vào sản
xuất nên không ngừng đưa năng suất lúa của Việt Nam tăng lên.
Hình 2: Năng suất và sản lượng lúa Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017
Như đã phân tích ở trên thì sản xuất lúa gạo tập trung tại 3 vùng chính là ĐBSCL,
BTB và DHMT và ĐBSH, bởi vậy, phần lớn sản lượng lúa của cả nước được cung cấp bởi
3 vùng này. Nếu tính chung trong cả giai đoạn 1995 – 2016, mỗi năm ba vùng này cung
cấp trên 86% tổng lượng lúa của Việt Nam. Năm 1995, ba vùng cung cấp khoảng 21,929
triệu tấn lúa, chiếm 87,84% tổng sản lượng lúa của cả nước. Trong đó, ĐBSCL cung cấp
khoảng 12,831 triệu tấn, chiếm 51,4%; BTB và DHMT 3,890 triệu tấn, chiếm 15,22%;
ĐBSH 5,207 triệu tấn, chiếm 20,86% tổng sản lượng của cả nước trong năm. Năm 2007,
0
1
2
3
4
5
6
7
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
Tổng sản lượng (Nghìn tấn) Năng suất (tấn/ha)
14
mặc dù là thời điểm diện tích gieo trồng lúa bị thu hẹp nhất trong cả giai đoạn, nhưng lúc
này ba vùng cũng cung cấp khoảng 30,944 triệu tấn lúa, chiếm 86,09% tổng sản lượng lúa
của cả nước. Trong đó, ĐBSCL cung cấp khoảng 18,679 triệu tấn, chiếm 51,97%; BTB và
DHMT 5,764 triệu tấn, chiếm 16,04%; ĐBSH 6,501 triệu tấn, chiếm 18,09% tổng sản
lượng của cả nước trong năm. Và đến năm 2016, ba vùng cung cấp khoảng 37,684 triệu
tấn, chiếm 86,41% tổng sản lượng lúa của cả nước. Trong đó, ĐBSCL cung cấp khoảng
24,226 triệu tấn, chiếm 55,55%; BTB và DHMT 6,879 triệu tấn, chiếm 15,77%; ĐBSH
6,5797 triệu tấn, chiếm 15,09% tổng sản lượng của cả nước trong năm.
Hình 3: Sản lượng lúa theo vùng sinh thái
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017
Như vậy, ngoài là nguồn cung cấp lúa chủ lực cho cả nước và do có sự phân bố dân
cư không tương ứng với lượng lúa được sản xuất ra nên lượng lúa gạo tham gia vào lưu
thông được cung cấp chủ yếu từ ba vùng này. Trong đó, lúa gạo sản xuất tại hai vùng
ĐBSH, BTB và DHMT được lưu thông chủ yếu tại thị trường trong nước và một phần nhỏ
tham gia vào thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, phần lớn (90%) sản lượng lúa xuất khẩu
của Việt Nam được cung cấp bởi vùng ĐBSCL.
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
199619971998199920002001200220032004200520062007200820092010201120122013201420152016
ĐB sông Hồng Trung du và MN phía Bắc BTB và DH miền Trung
Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐB sông Cửu Long
15
2.2. Tiêu thụ
Tại Việt Nam, lúa gạo là lương thực cơ bản, lâu đời. Theo tính toán từ số liệu của
Tổng cục Thống kê, khối lượng tiêu thụ gạo bình quân đầu người mỗi tháng của Việt Nam
giảm dần từ mức 12 kg/người/tháng vào năm 2002 xuống mức 11 kg/người/tháng vào năm
2008 và đến năm 2012 thì tiêu thụ gạo bình quân đầu người một tháng xuống còn 9,6
kg/người/tháng. Năm 2015, bình quân mỗi người Việt Nam tiêu thụ 8,8 kg gạo/tháng. Với
dân số trên 90 triệu người và gần như 100% người Việt Nam sử dụng lúa gạo làm lương
thực chính thì lúa gạo có vai trò rất lớn, không chỉ là nguồn cung cấp dinh dưỡng mà còn
là sản phẩm đảm bảo an ninh lương thực và đa dạng hoá các sản phẩm có nguồn gốc từ lúa
gạo cho xã hội.
Hình 4: Tiêu thụ gạo bình quân đầu người năm 2015 (kg/người/tháng)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017
Tuy nhiên, lượng gạo tiêu thụ bình quân đầu người khác nhau theo vùng sinh thái.
Miền núi phía Bắc là vùng có lượng tiêu thụ gạo ở mức cao nhất cả nước với 10,5
kg/người/tháng (năm 2015). Vùng Đông nam bộ có mức tiêu dùng gạo bình quân thấp nhất
trên cả nước đạt 6,8 kg/người/tháng, tiếp đến là ĐB sông Hồng (8,52 kg/người/tháng). Sự
khác nhau về lượng tiêu thụ gạo là do thói quen sinh hoạt và điều kiện sống. Thông thường,
8.88.2
10.5
9.3 9.5
6.8
9.2
0
2
4
6
8
10
12
Cả nước ĐB sông
Hồng
Miền núi phía
Bắc
Bắc Trung Bộ
và DH miền
Trung
Tây Nguyên Đông Nam
Bộ
ĐBSCL
Tiêu thụ gạo bình quân đầu người cả nước và theo khu vực
(kg/người/tháng)
16
các hộ có điều kiện kinh tế khó khăn sẽ ăn nhiều gạo hơn, còn các hộ có mức thu nhập sẽ
tiêu thụ ít gạo hơn và thay vào đó là các thực phẩm khác.
Trái ngược với tiêu thụ gạo tại hộ, xu hướng tiêu dùng gạo ngoài gia đình (ăn nhà
hàng, quán cơm…) trong những năm qua lại ngày một thịnh hành. Theo điều tra của Trung
tâm Tin học và Thống kê, từ năm 2010 khối lượng gạo được tiêu thụ ngoài gia đình không
ngừng tăng lên với tốc độ rất nhanh. Năm 2015, khối lượng gạo tiêu dùng ngoài gia đình
vào khoảng 4,1 triệu tấn, tăng gần gấp đôi so với mức 2,1 triệu tấn của năm 2010.
Trong những năm qua, do sản lượng lúa tăng, nên sản lượng gạo của Việt Nam cũng
không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1999, sản lượng gạo của Việt Nam đạt khoảng 17
triệu tấn thì đến năm 2007, sản lượng gạo đã tăng lên 19,5 triệu tấn (tăng 14,49%); và đến
năm 2016, sản lượng gạo đã đạt khoảng 27,55 triệu tấn (tăng 13,03% so với năm 2007).
Sản lượng gạo trong xu thế tăng được xem là lợi thế lớn của Việt Nam, không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn tạo nguồn hàng lớn phục vụ cho các hoạt động xuất khẩu.
Hình 5: Sản xuất và tiêu dùng lúa gạo Việt Nam (Nghìn tấn)
Nguồn: USDA, 2017
Tổng lượng gạo tiêu thụ của Việt Nam có xu hướng tăng trong giai đoạn 2000-2016.
Năm 2016, cả nước tiêu thụ khoảng 22,2 triệu tấn gạo (bao gồm cả ăn, sử dụng trong chăn
nuôi và các ngành công nghiệp thực phẩm khác), tăng 31,1% so với năm 2000 (USDA,
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
35000
40000
45000
50000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Sản lượng lúa Sản lượng gạo Tiêu thụ nội địa Sản lượng gạo sau cân đối
17
2017). Theo Trung tâm Tin học và Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT, lượng gạo tiêu
thụ trực tiếp (gạo dùng để nấu cơm) của người dân trên cả nước hàng năm vào khoảng 12
- 14 triệu tấn, trong đó chủ yếu là gạo dùng trong bữa ăn gia đình chiếm 70% – 80%. Trong
bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, tiêu dùng gạo trong gia đình của người dân
Việt có xu hướng giảm dần do mức sống ngành càng tăng và thực phẩm ngày càng đa dạng.
Ngoài nguồn sản xuất trong nước, lượng lúa gạo của Việt Nam còn được bổ sung
bởi nguồn nhập khẩu. Theo số liệu của USDA, hàng năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 100
nghìn tấn lúa, mà chủ yếu là từ Campuchia. Lượng lúa chảy về Việt Nam chủ yếu qua
đường biên giới Tây Nam vào những thời điểm giá lúa gạo Việt Nam cao hơn giá lúa gạo
ở các tỉnh biên giới nước bạn. Mặc dù, lượng lúa nhập khẩu không nhiều so với lượng sản
xuất ra, nhưng đây cũng được xem là một xu hướng đáng chú ý trong tiêu dùng gạo Việt
Nam.
Như vậy, nếu so sánh lượng gạo sản xuất và tiêu dùng thì lượng gạo sau khi cân đối3
của Việt Nam những năm qua trong xu hướng tăng lên. Nếu như năm 2000, lượng gạo của
Việt Nam sau khi cân đối vào khoảng 3,5 triệu tấn, thì đến năm 2007, đã tăng lên 4,6 triệu
tấn (tăng 40,1% so với năm 2000) và đến năm 2015, là 6,6 triệu tấn (tăng 23,62% so với
năm 2007). Lượng gạo sau cân đối tăng lên đã tạo nguồn lực rất lớn để Việt Nam có thể
mở rộng các hoạt động xuất khẩu gạo; có thể thấy, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng
mạnh từ mức 3,5 triệu tấn lên mức khoảng trên 6 triệu tấn năm 2015, tăng tới 198% trong
vòng 15 năm qua.
2.3. Thương mại lúa gạo
2.3.1 Xuất khẩu
Việt Nam luôn nằm trong top 3 quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Từ sự
chênh lệch giữa sản xuất và tiêu dùng gạo (Hình 5), Việt Nam có thể mở rộng các hoạt
động xuất khẩu gạo mà vẫn đảm bảo đủ tiêu dùng trong nước. Lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam tăng mạnh từ mức 3,5 triệu tấn năm 2000 lên mức 6,6 triệu tấn năm 2015, tăng
tới 188% trong vòng 15 năm qua.
Hình 6: Lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm 2010 – 2016
3 Sản lượng gạo sau khi cân đối được tính bằng sản lượng gạo sản xuất trong năm trừ đi lượng tiêu thụ nội địa
18
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Từ năm 2010, xuất khẩu gạo Việt Nam luôn đạt trên 6 triệu tấn/năm, trong đó cao
nhất là 8 triệu tấn năm 2012. Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, khối lượng xuất khẩu gạo
cả năm 2016 ước đạt 4,54 triệu tấn, trị giá 2 tỷ USD, giảm 25% về khối lượng và giảm
20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015, mức thấp nhất trong 8 năm qua. Nguyên nhân
giảm chủ yếu đến từ những khó khăn xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc khi nước
này siết chặt quản lý xuất nhập khẩu gạo qua biên giới đất liền phía Bắc.
Hình 7: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo 2015 – 2016
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2017
6.8 7.18
6.6 6.3 6.6
4.83
0
1
2
3
4
5
0
2
4
6
8
10
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Tỷ U
SD
Triệ
u t
ấn
Lượng (triệu tấn) Trị giá (tỷ USD)
30%
7%
17%9%
8%
4%
25% 36%
11%8%
6%
5%
4%
30%
Trung Quốc
Ghana
Philippines
Indonesia
Malaysia
Bờ Biển Ngà
Khác
2016: Vòng to
2015: Vòng nhỏ
19
Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam tương đối tập trung, top 6 thị trường lớn nhất
chiếm hơn 70% tổng lượng xuất khẩu. Thị phần của Trung Quốc tăng từ 24% năm 2012
lên 36% năm 2016 nhưng tốc độ tăng trưởng giảm bình quân 3%/năm. Trong giai đoạn
2012-2016, Ghana là thị trường duy nhất trong top 6 vừa có thị phần tăng liên tục từ 4%
lên 11% và có tốc độ tăng trưởng hàng năm là 10%/năm; tuy nhiên trong 10 tháng đầu năm
2017, xuất khẩu gạo sang Gana giảm mạnh. Bên cạnh việc sụt giảm khối lượng xuất khẩu,
giá gạo xuất khẩu trong năm 2016 nhìn chung không cao hơn nhiều so với năm 2015. Theo
tính toán, giá trung bình gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2016 đạt 364,4
USd/tấn, chỉ tăng nhẹ 0,4% so với mức trung bình 362,8 USD/tấn của năm 2015.
2.3.1 Nhập khẩu
Ngoài nguồn sản xuất trong nước, lượng lúa gạo của Việt Nam còn được bổ sung
lượng nhỏ bởi nguồn nhập khẩu. Theo tính toán từ số liệu hải quan, từ năm 2012 – 2016
Việt Nam nhập khẩu từ 10 – 20 nghìn tấn thóc lúa (đã quy gạo) mỗi năm, trị giá từ 5 – hơn
8 triệu USD. Con số này là rất nhỏ so với khối lượng xuất khẩu hàng triệu tấn và kim ngạch
hàng tỷ USD của cả nước.
Hình 8: Lượng và trị giá nhập khẩu gạo của Việt Nam 2012 – 2016
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong những năm gần đây, gạo nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ
Thái Lan và Lào. Trong đó, Thái Lan chiếm tới 80% về trị giá nhập khẩu gạo của Việt
Nam từ các thị trường; Lào chiếm 18%. Mặc dù, lượng lúa nhập khẩu không nhiều so với
lượng sản xuất ra, nhưng đây cũng được xem là một nguồn quan trọng bổ sung vào tổng
sản lượng lúa gạo của Việt Nam.
0
2,000,000
4,000,000
6,000,000
8,000,000
10,000,000
0
4,000
8,000
12,000
16,000
20,000
2012 2013 2014 2015 2016
US
D
Tấ
n
Lượng Trị giá
20
III. CHUỐI GIÁ TRỊ NGÀNH HÀNG LÚA GẠO TẠI ĐỒNG THÁP
3.1. Đặc điểm chung của các tác nhân trong chuỗi lúa gạo Đồng Tháp
3.1.1. Nông dân
Theo khảo sát, số nhân khẩu của các hộ trồng lúa dao động phổ biến trong khoảng
từ 3 – 6 người. Trong đó, tỷ lệ số hộ có 4 nhân khẩu là nhiều nhất, chiếm 33%; hộ có 5
nhân khẩu chiếm tỷ lệ 28%; số hộ có 6 nhân khẩu chiếm 16% và số hộ có 3 nhân khẩu
chiếm 12%.
Hình 9: Số nhân khẩu của hộ trồng lúa tại Đồng Tháp
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Mặc dù số lượng nhân khẩu khác nhau, song rất ít hộ huy động toàn bộ thành viên
trong gia đình tham gia vào hoạt động trồng lúa. Theo khảo sát, có tới 48% số hộ chỉ có
một lao động gia đình tham gia việc trồng lúa và 38% số hộ có hai lao động gia đình tham
gia trồng lúa. Chỉ có 12% hộ có trên 2 thành viên trực tiếp tham gia trồng lúa.
Việc thuê lao động trực tiếp trồng lúa diễn ra rất phổ biến tại các địa phương. Có tới
96% số hộ cho biết có thuê lao động cho việc chăm sóc lúa và chỉ có 4% cho biết hoàn
toàn không thuê lao động. Các hộ không thuê lao động hầu hết có diện tích đất lúa nhỏ
(dưới 2 ha) và nhà có đông người trong độ tuổi lao động.
Diện tích đất trồng lúa trung bình của người nông dân tham gia khảo sát là 3,8%.
Trong đó, hộ thấp nhất là 0,3 ha; cao nhất là 40 ha. Tỷ lệ số hộ có diện tích dưới 1 ha chiếm
2 Người
4%
3 Người
12%
4 Người
33%5 Người
28%
6 Người
16%
7 Người
3%
Khác
4%
21
7%; từ 1 – dưới 2 ha chiếm 27%; từ 2 – dưới 5 ha chiếm 44%; từ 5 – dưới 10 ha chiếm
13%, từ 10 – dưới 20 ha chiếm 6% và từ trên 20 3%. Như vậy, diện tích đất trồng lúa của
các hộ phổ biến từ 1 – 5 ha, chiếm tới trên 70% số hộ được phỏng vấn. Sản xuất nông hộ
nhỏ, thiếu liên kết trong quản lý đầu vào – đầu ra là điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại của
các trung gian thị trường, nới rộng khoảng cách giữa nông dân với nhà chế biến – kinh
doanh và với thị trường. 95% nông dân trồng lúa vẫn tiêu thụ lúa tươi qua các thương lái
thay vì ký hợp đồng trực tiếp với các doanh nghiệp chế biến – xuất khẩu dù đã có chính
sách tiêu thụ hàng hóa nông sản theo hợp đồng và chính sách khuyến khích liên kết sản
xuất giữa doanh nghiệp – nông dân.
Hình 10: Quy mô đất trồng lúa của hộ nông dân tại Đồng Tháp
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Nhìn chung, các hộ tham gia cánh đồng lớn hoặc ký hợp đồng nông sản với doanh
nghiệp đa phần có ruộng ở vị trí thuận lợi cho sản xuất và vận chuyển. Có nhiều hộ ở các
vùng sâu, vùng xa, khó khăn đi lại vẫn chưa được doanh nghiệp tiếp cận tới. Nhiều năm
trước đây, việc thuê ruộng đất ở khu vực ĐBSCL diễn ra phổ biến hơn so với các vùng
khác. Người dân ở khu vực này sẵn sàng bán ruộng đất đi khi cần, họ chuyển sang các hoạt
động tạo thu nhập khác, hoặc trở thành người làm thuê trong nông nghiệp. Tuy nhiên trong
vài năm gần đây, đất lúa thường được mua bán, sang tên giữa các hộ. Theo khảo sát, phần
lớn đất lúa các hộ đang sử dụng đều có quyền sử dụng bởi hộ (hộ có giấy chứng nhận hoặc
Dưới 1 ha
7%
Từ 1 - dưới 2
ha
27%Từ 2 - dưới 5
ha
44%
Từ 5 - dưới
10 ha
13%
Từ 10 - dưới
20 ha
6%
Trên 20 ha
3%
22
mua), chiếm tỷ lệ 81%. Trong khi, tỷ lệ thấp các hộ đi thuê đất (13%) hoặc mượn đất (6%).
Một số hộ có diện tích canh tác lớn do họ mua tích tụ dần qua các năm.
Thu nhập của các hộ chủ yếu là trồng lúa, với nguồn thu phổ biến từ 72% đến 100%.
71% số hộ được phỏng vấn cho biết nguồn thu nhập của hộ chỉ đơn thuần từ hoạt động
trồng lúa. 18% cho biết ngoài trồng lúa gia đình có thu nhập từ nghề phụ khác và lúa vẫn
là nguồn thu chủ yếu. Chỉ có 11% cho biết họ có các thu nhập khác có doanh thu cao hơn
nghề trồng lúa.
Hình 11: Cơ cấu doanh thu trồng lúa trên tổng thu nhập của các hộ (%)
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Các giống lúa sản xuất chính được các hộ nông dân trồng thuộc 03 nhóm chính:
Giống ngắn ngày thơm: bao gồm Jasmine 85, VD20, ST5; giống tẻ thường ngắn ngày:
OM3536, VND 95-20, OM57; giống trung ngày địa phương: IR29723, IR 42 và các giống
địa phương khác. Các giống lúa chất lượng cao chủ yếu được trồng ở vụ Đông Xuân do
đây là thời điểm có nhiều lượng phù sa nhất. Tuy nhiên, gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu vẫn là các loại gạo thường và gạo chất lượng thấp. Các giống lúa không có sự khác
biệt nhiều. Trong điều kiện có rất nhiều hộ trồng lúa, nhưng các giống lúa không có sự
khác biệt nhau về chất lượng, phẩm cấp, sẽ khiến cho những người trồng lúa càng có ít vị
thế mặc cả hơn trên thị trường.
Theo khảo sát, các giống lúa được sử dụng có tỷ lệ như sau: nhóm lúa OM chiếm
khoảng 23% (phổ biến nhất là các chủng loại OM6976, OM4900, OM5451); Nàng hoa 9
(16%); Jasmine 85 (15%), IR 50404 9%, VD 20 6%, Đài Thơm 8 5%... Người dân cho biết
Dưới 25%
tổng thu nhập
3%
Từ 25% - 50%
tổng thu nhập
5%
Từ 50% - 75%
tổng thu nhập
13%
Trên 75% tổng
thu nhập
79%
23
chọn lựa giống lúa là do giống có năng suất, có tính kháng bệnh và quan trọng là họ cảm
thấy giống lúa họ lựa chọn dễ tiêu thụ (nhu cầu thị trường cao).
Hình 12: Tỷ lệ các giống lúa được sử dụng phổ biến tại Đồng Tháp
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Trong khuôn khổ dự án VnSat, các nông dân trên địa bàn dự án sẽ được tập huấn
các kỹ thuật canh tác bền vững, bao gồm: 1 phải 5 giảm, 3 giảm 3 tăng và VietGap. Theo
kết quả khảo sát, 100% các hộ được khảo sát đã tham gia các lớp tập huấn nhưng phần lớn
các hộ dân sản xuất lúa chỉ áp dụng một hoặc một số tiêu chuẩn canh tác lúa bền vững
(chiếm 96%) chứ không tuân theo toàn bộ quy trình. Đối với các hộ cho biết không áp
dụng, thực tế họ sản xuất lúa theo kinh nghiệm bản thân là chủ yếu. Tiêu chuẩn được áp
dụng nhiều nhất tại địa phương là: 3 giảm 3 tăng (34%), 1 phải 5 giảm (23%), VietGap
(19%), Áp dụng tiêu chuẩn riêng do doanh nghiệp yêu cầu (13), các tiêu chuẩn khác (11%).
Hình 13: Các tiêu chuẩn sản xuất an toàn bền vững mà người dân áp dụng (%)
AG 114
4%Đài thơm 8
5%
IR
50404
9%
Jasmine 85
15%
Nàng hoa 9
16%Nếp
6%OM 4900
6%
OM 5451
5%
OM 6976
8%
VD 20
6%
Khác
20%
24
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Đối với các hộ nông dân thuộc cánh đồng lớn hoặc liên kết toàn diện với doanh
nghiệp, thong thương người nông dân phải sử dụng giống, phân bón do công ty cung cấp
hoặc phải tuân theo các quy trình sản xuất gạo an toàn bền vững mà công ty yêu cầu. Nếu
như họ vi phạm hoặc phá vỡ hợp đồng, họ sẽ khó có cơ hội được tham gia trở lại vào mô
hình liên kết theo chuỗi giá trị này. Ở những mức độ liên kết lỏng lẻo hơn, công ty chỉ ký
hợp đồng bao tiêu sản phẩm, nông dân được tự chủ hơn trong việc chọn kỹ thuật sản xuất.
Quá trình liên kết giữa nông dân với công ty hoàn toàn tự nguyện. Hiện nay, trong các mô
hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, tổ chức hợp tác xã tại địa phương đóng vai
trò cầu nối quan trọng: HTX đứng ra đại diện cho xã viên ký hợp đồng tiêu thụ lúa với
doanh nghiệp.
3.1.2. Hợp tác xã (HTX)
Để khắc phục một phần hạn chế của sản xuất nông hộ, các HTX được kỳ vọng sẽ là
bước đệm giữa người nông dân với thị trường đầu ra – đầu vào, tổ chức sản xuất quy mô
lớn theo tiêu chuẩn canh tác tốt, là một đại diện tiếng nói của nông dân đối với các vấn đề
sản xuất – kinh doanh – xuất khẩu lúa gạo. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của HTX
không đáp ứng được những kỳ vọng trên. Hiện nay, phần lớn HTX ngành lúa gạo nói riêng,
nông nghiệp nói chung chủ yếu cung cấp một số dịch vụ tưới tiêu, phun thuốc, giống,…
cho hộ nông dân; chưa cung cấp được các dịch vụ cơ giới; chưa đóng vai trò đàm phán với
các nhà cung cấp đầu vào – đầu ra cho lúa hàng hóa và hỗ trợ nhà nước về quản lý chất
lượng.
3 giảm 3 tăng
34%
1 phải 5 giảm
23%
VietGap
19%
Tiêu chuẩn riêng
của DN
13%
Tiêu
chuẩn
khác
11%
25
Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có 126 HTX nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp,
chăn nuôi và thủy sản). Đối với lĩnh vực trồng lúa, các hợp tác xã được nghiên cứu chọn
đều nằm trong vùng dự án VNSAT.
Liên quan tới ngành lúa gạo, hầu hết các HTX trên địa bàn tỉnh đều có lĩnh vực hoạt
động chính là dịch vụ bơm nước tưới tiêu phục vụ bà con sản xuất lúa (chiếm trên 80%
tổng doanh số). Tất cả các HTX tham gia khảo sát đều có nguồn thu từ dịch vụ tưới tiêu là
chính, chiếm tỷ trọng trên 80% doanh thu.
Đặc điểm tác nhân HTX liên quan tới lĩnh vực lúa gạo:
- Các HTX đều khuyến khích, hướng dẫn người dân sản xuất lúa gạo theo tiêu
chuẩn bền vững (3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm).
- Khó khăn nổi bật trong sản xuất lúa gạo của xã viên:
+ Thời tiết dịch bệnh
+ Giá vật tư đầu vào cao
+ Giá lúa bán ra không ổn định
- Khó khăn nổi bật trong hoạt động kinh doanh:
+ Thiếu vốn, khó tiếp cận vốn
+ Thiếu thông tin về công nghệ, thị trường
+ Ít nhận được hỗ trợ từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Do các HTX không tham gia trực tiếp vào quá trình tiêu thụ lúa gạo (chỉ đóng vai
trò là tổ chức đại diện cho người nông dân trồng lúa trong phạm vi hoạt động của mình
đứng ra ký hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp (nếu có). Nhìn chung, các HTX chưa
thể hiện được vai trò liên kết nông dân – nông dân, nông dân – doanh nghiệp và vai trò đại
diện tiếng nói của nông dân như được kỳ vọng; quản lý yếu và thiếu sức lôi cuốn đối với
cộng đồng nông dân.
3.1.3. Thương lái
Trên thị trường lúa gạo, các hoạt động chính của thương lái là thực hiện quá trình
thu mua lúa, bán gạo trong mùa thu hoạch và quá trình thu mua chênh lệch giá gạo tại các
vùng khác nhau. Xét trong toàn bộ chuỗi giá trị gạo xuất khẩu, thương lái là tác nhân đóng
26
vai trò rất quan trọng trong việc kết nối từ người sản xuất lúa đến nhà xuất khẩu, và có hoạt
động trải dài nhất trong chuỗi.
Thương lái ở ĐBSCL nói chung và Đồng Tháp nói riêng có đặc điểm phân tán cao,
di chuyển thường xuyên, không được tổ chức, không được quản lý mặc dù các hoạt động
của họ hiện có ưu điểm nổi bật là hoàn toàn theo tín hiệu thị trường. Thương lái gồm những
người đến tận ruộng để đặt cọc, thu mua lúa tươi từ nông dân. Họ có thể bán cho hàng xáo,
là những người thu mua lúa, chở lúa đến các cơ sở chế biến lúa gạo để bán hoặc sử dụng
dịch vụ của các cơ sở này, lấy lại gạo thô, tấm, tiếp tục bán cho các doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu hoặc chợ (bán buôn-bán lẻ), kho. Đôi khi, hàng xáo cũng đóng vai trò bán
buôn – bán lẻ gạo thành phẩm. Thương lái có vai trò quan trọng trong việc thu mua lúa gạo
cho nông dân, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, đồng thời giúp các doanh nghiệp ổn
định đầu vào sản xuất. Không có thương lái, các doanh nghiệp rất khó có đủ nguyên liệu
đầu vào do doanh nghiệp chưa ký hợp đồng trực tiếp tiêu thụ nông sản cho nông dân, trong
khi, nông dân cũng muốn bán lúa cho các thương lái vì việc mua bán thuận tiện và đơn
giản. Vì thế, ở thời điểm hiện tại, thương lái được coi là cánh tay nối dài của các cơ sở xay
xát, công ty xuất khẩu nhưng chưa được quản lý dưới bất kỳ hình thức nào.
Những mặt hạn chế lớn nhất của đội ngũ thương lái thực chất là làm giảm khả năng
truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng thuốc và làm giảm mức độ nguyên chất của gạo
Việt Nam. Do một chuyến ghe thu mua từ nhiều ruộng khác nhau, với mức dư lượng thuốc
khác nhau, nên việc truy xuất nguồn gốc và kiểm soát dư lượng thuốc hầu như là không
thể thực hiện. Ngoài ra, việc thu mua cùng lúc các loại lúa có hình thức khá tương đồng
nhau ngay từ khi thu mua để buộc nông dân giảm giá lúa chất lượng cao, rồi pha trộn lại
theo tỷ lệ được doanh nghiệp xuất khẩu chấp nhận, khiến gạo xuất khẩu Việt Nam kém
nguyên chất hơn so với gạo từ các nước khác.
Một tác nhân trung gian khác có vai trò khá quan trọng không thể không nhắc đến
đó là “cò lúa” tại địa phương. Họ chủ yếu là nông dân, không có thêm các trang thiết bị
nào khác như ghe hay thuyền. Họ chủ yếu nhờ nhanh nhạy, nắm vững về tình hình sản xuất
của địa phương, và có mối quan hệ rộng với các thương lái nên trở thành người môi giới ở
giữa. Những cò lúa này sẽ thông báo thông tin tới thương lái về thời điểm thu hoạch ở địa
phương, sản lượng, chất lượng. Thương lái thường phải trả phí cho các cò lúa này số tiền
khoảng 20đ/kg lúa. Theo khảo sát tại Đồng Tháp, thương lái mua gạo thông qua cò lúa
chiếm tới trên 65%. Sự tồn tại của các cò lúa này giúp tiết kiệm thời gian và các chi phí
27
giao dịch khác trong việc tìm kiếm nguồn hàng của các thương lái, giúp họ chủ động hơn
trong việc thu gom lúa.
Do các hộ nông dân sản xuất với quy mô quá nhỏ, sự tồn tại của các cò lúa là quan
trọng và hiển nhiên. Hoạt động của các cò lúa giúp tiết kiệm thời gian và các chi phí giao
dịch khác trong việc tìm kiếm nguồn hàng của các thương lái, giúp họ chủ động hơn trong
việc thu gom lúa. Thay vì phải tới tận nơi để khảo sát, thương thảo với từng nông dân một,
thương lái chỉ cần phải liên lạc và thỏa thuận với một vài cò lúa ở mỗi vùng. Các nông dân
khi làm ăn với cò lúa cũng thấy rất yên tâm do là người cùng địa phương, có mối quan hệ
thân thiết hơn, và được các cò lúa thông tin về tình hình giá cả cũng như giúp bán lúa được
nhanh hơn.
Tóm lại, mặc dù đang đóng vai trò chính trong liên kết nông dân với doanh nghiệp
và thị trường, thể chế của các trung gian thương mại chưa tồn tại, là mắt xích thiếu sự quản
lý và trách nhiệm xã hội nhất trong chuỗi giá trị
3.1.4. Doanh nghiệp
Các nhà máy xay xát lúa gạo ở ĐBSCL vừa đơn thuần làm gia công xay xát thuê,
đồng thời vừa trực tiếp cung cứng gạo cho tiêu thụ nội địa và cho các công ty xuất khẩu.
Cùng với xu hướng mở rộng về quy mô, các nhà máy xay xát hiện nay thực hiện cả khâu
sấy lúa, bóc vỏ, chà cám. Sản phẩm thu được từ quá trình xay xát được tận dụng để làm
than trấu, cám được dùng để tạo ra các phụ phẩm khác như củi đun, cám chăn nuôi, tinh
dầu...
Tại Đồng Tháp, nhiều nhà máy xay xát có hệ thống kho chứa, với sức chứa của kho
quy mô nhỏ khoảng 3.000 tấn, vừa khoảng 5.000 tấn hoặc lớn hơn khoảng 10.000 - 50.000
tấn, thậm chí hơn nữa. Tuy nhiên, thời gian lưu trữ trong kho của các nhà máy này không
lâu, chỉ khoảng 2 - 3 tháng.
Các doanh nghiệp lúa gạo hoặc nhà máy xay xát phần lớn đều được bố trí gần nơi
sản xuất và dọc theo các tuyến đường thủy để thuận tiện cho việc vận chuyển lúa gạo. Hiện
nay, nhiều doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo đều có các nhà máy xay xát của riêng mình.
Đa số các nhà máy đều hoạt động liên tục trong cả năm. Tuy nhiên, vào các thời điểm như
tháng 3, tháng 6, 7, 8, gần như tất cả các nhà máy đều hoạt động và đạt công suất tối đa.
Các nhà máy hoạt động ít nhất vào các tháng 10, 11, 12 của năm. Vụ Đông Xuân do năng
28
suất và sản lượng lúa cao nhất nên cũng là những thời điểm mà các nhà máy hoạt động với
công suất cao nhất.
Lợi nhuận của các nhà máy xay xát tương đối ổn định, không phụ thuộc vào biến
động giá cả trên thị trường của lúa gạo. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh, lợi nhuận
còn cao hơn, đặc biệt với hoạt động xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo hiện nay cũng
phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Hiện nay. Trung Quốc là thị trường đối tác nhập khẩu gạo
lớn của Việt Nam song xuất khẩu gạo sang thị trường này cũng không hề dễ dàng do những
điều chỉnh chính sách thường xuyên từ phía nước bạn.
Gần đây xu hướng liên kết dọc trong chuỗi giá trị lúa gạo đang được hình thành.
Một số doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng đặc trưng, các loại gạo chất lượng cao, quy
trình sản xuất phức tạp, đã tiến hành xây dựng vùng nguyên liệu, liên kết và gắn bó chặt
chẽ với nông dân trong quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng liên kết với
các doanh nghiệp sản xuất giống, phân bón, thuốc trừ sâu để cung ứng đầu vào đảm bảo
chất lượng cho nông dân. Tuy nhiên, tỉ lệ các doanh nghiệp thực hiện các liên kết như thế
này chưa nhiều do các doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh các giống lúa có sẵn trên thị
trường, và vẫn chỉ hoạt động trong phân khúc gạo chất lượng trung b.nh và thấp trên thị
trường thế giới.
3.2. Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
3.2.1. Tổ chức chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
Đã có nhiều nghiên cứu về chuỗi giá trị của ngành lúa gạo khu vực ĐBSCL. Các
nghiên cứu đều chỉ ra thương lái và công ty xuất khẩu gạo là những chủ thể đóng vai trò
quan trọng trong chuỗi giá trị gạo của vùng ĐBSCL. Các công ty xuất khẩu là đơn vị quyết
định giá bán gạo trên thị trường thế giới, từ đó truyền tín hiệu về cho toàn bộ chuỗi giá trị,
thông qua các tác nhân khác bao gồm thương lái và nhà máy xay xát.
Các tác nhân chính trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam gồm: nông dân, thương lái,
nhà chế biến (sấy, xay xát, đánh bóng), và doanh nghiệp kinh doanh lương thực - xuất
khẩu. Đối với một số ít doanh nghiệp kinh doanh lương thực – xuất khẩu đã sở hữu hoặc
đang đầu tư xây dựng hệ thống chế biến khép kín để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất
khẩu gạo theo Nghị định 109/2010/NĐ-CP, các doanh nghiệp này đảm nhiệm vai trò nhà
chế biến trong chuỗi giá trị.
29
Hình 14: Sơ đồ chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
Nguồn: Điều tra của IPSARD, 2017
Trong khuôn khổ phạm vi và mục đích nghiên cứu của dự án, dự án nghiên cứu lựa
chọn ra một số tác nhân chính trong chuỗi giá trị chuỗi giá trị lúa gạo, bao gồm:
Các kênh phân phối chính trong chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp:
Kênh 1: Nông dân –> doanh nghiệp
Kênh này là kênh ngắn nhất trong chuỗi giá trị gạo xuất khẩu Đồng Tháp, với sự
tham gia của 2 tác nhân là nông dân và doanh nghiệp lương thực, xuất khẩu. Đây là kênh
thị trường ngắn và được cho là hiệu quả nhất trong số các kênh tiêu thụ. Trong kênh này,
các doanh nghiệp lương thực/xuất khẩu lớn trực tiếp ký hợp đồng với nông dân thông qua
hợp tác xã; do vậy, hạn chế được các khâu trung gian khác. Một số doanh nghiệp điển hình
thực hiện mô hình liên kết với nông dân tại tỉnh Đồng Tháp bao gồm: Tập đoàn Lộc Trời,
Công ty giống cây trồng miền Nam. Thông thường, các công ty mua gạo với yêu cầu cao
hơn bao gồm: giống thuần chủng, lúa không bị lẫn với các loại khác, tỷ lệ lúa đổ. Các tiêu
Thương
lái
Xay sát,
đánh
bóng
Đầu
vào:
Giống
Phân
Thuốc
Nông
dân Doanh nghiệp
lương thực, XK
Nhà bán
sỉ/bán lẻ
Chú thích:
Kênh 1: Nông dân -> Doanh nghiệp lương thực, xuất khẩu (LT, XK)
Kênh 2: Nông dân -> Xay sát, đánh bóng -> Doanh nghiệp LT, XK
Kênh 3: Nông dân -> Thương lái -> Xay sát, đánh bóng -> Doanh nghiệp LT, XK
30
chuẩn này khác nhau đối với mỗi công ty. Trong trường hợp của Tập đoàn Lộc Trời, nông
dân phải áp dụng đúng quy trình kỹ thuật, có cán bộ của công ty giám sát từ khi gieo đến
khi thu hoạch. Tập đoàn chỉ mua lúa của các nông dân đạt tiêu chuẩn.
Trong tổng mẫu điều tra, có đến 37 trên tổng số 100 hộ được phỏng vấn có hợp
đồng liên kết trực tiếp với các công ty. Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm bán cho công ty theo hình
thức liên kết trực tiếp với doanh nghiệp tại Đồng Tháp rất ít. Thông thường, mỗi hộ chỉ ký
hợp đồng với công ty với diện tích khá nhỏ (từ 1-5ha) so với tổng diện tích đất canh tác
Chủ yếu, nông dân ký kết với doanh nghiệp để sản xuất lúa giống, hoặc lúa thương phẩm
theo yêu cầu của công ty. Tùy theo công ty, hợp đồng liên kết giữa doanh nghiệp với nông
dân có nhiều nội dung khác nhau. Như trường hợp của Tập đoàn Lộc Trời, công ty cung
cấp giống, vật tư và có cán bộ hướng dẫn quy trình kỹ thuật cho nông dân. Còn các trường
hợp khác, các công ty lương thực thường chỉ ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Về giá thu
mua, các công ty cam kết sẽ mua lúa của nông dân với giá cao hơn mức giá thị trường từ
200-500 đồng/kg lúa tươi. Hợp đồng liên kết không những mang lại lợi ích cho nông dân
mà cả doanh nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu của IPSARD (2014), nếu không thông qua
các tác nhân khác, chi phí chế biến lúa tươi thành gạo thành phẩm giảm đến 65% do khi
doanh nghiệp mua lúa trực tiếp từ nông dân, đầu tư hệ thống sấy – xay xát – đánh bóng
liên hoàn đã giảm được chi phí lao động và chi phí vận chuyển
Mặc dù tiêu thụ lúa gạo qua kênh 1 mang lại hiệu quả cao cho cả nông dân và doanh
nghiệp, tuy nhiên, trên thực tế, việc triển khai hợp đồng giữa người nông dân trồng lúa và
doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc, từ khâu ký kết hợp đồng đến khâu
thu hoạch và vận chuyển do những bất đồng trong việc thực hiện hợp đồng giữa doanh
nghiệp với nông dân. Đây cũng là rào cản cho việc tăng tốc độ phát triển liên kết trực tiếp
giữa nông dân và doanh nghiệp. Những khó khăn của doanh nghiệp trong việc triển khai
các hơp đồng nông sản với nông dân bao gồm: (i) thị trường đầu ra không chắc chắn; (ii)
cần có nguồn vốn đầu tư lớn; (iii) rủi ro không lường trước khi có biến động của thị trường;
(iv) quy mô của mỗi hộ nông dân nhỏ, do vậy việc đạt được sự đồng thuận của số lượng
lớn hộ, hướng dẫn và giám sát chặt chẽ quy trình sản xuất gặp nhiều khó khăn nếu không
tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị.
Kênh 2: Nông dân –> Xay sát, đánh bóng –> Doanh nghiệp
Trong kênh này, 3 tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị gạo xuất khẩu bao gồm: người
nông dân trồng lúa, cơ sở xay xát, đánh bóng và doanh nghiệp lương thực, xuất khẩu. Cơ
31
sở xay xát, đánh bóng ngoài thu mua lúa từ tác nhân thương lái còn thu mua trực tiếp từ
nông dân. Kênh này được thực hiện khi nhu cầu lúa của các cơ sở xay xát lớn trong khi
lượng lúa do thương lái cung cấp chưa đủ so với yêu cầu. Hoặc trong trường hợp vào vụ
thu hoạch rộ, lượng lúa trên thị trường lớn, cơ sở xay xát nếu có nguồn vốn, kho dự trữ và
những mối hàng tiêu thụ thường xuyên sẽ mua trực tiếp từ nông dân để tích trữ.
Tại Đồng Tháp, số lượng cơ sở xay sát, đánh bóng nhỏ, tuyền thống giảm đáng kể,
thay vào đó là các doanh nghiệp xay sát, đánh bóng nhỏ. Ngoài mua lúa của nông dân, họ
mua lúa của các thương lái, sau đó xay sát, đánh bóng gạo và bán cho các công ty xuất
khẩu hoặc các cơ sở bán buôn, bán lẻ trong địa phương.
Kênh 3: Nông dân – thương lái – Xay sát, đánh bóng – Doanh nghiệp
Trong kênh thị trường này, lúa gạo từ nông dân đi qua thương lái, xay xát và doanh
nghiệp kinh doanh, xuất khẩu gạo. Kết quả khảo sát cho thấy, đây là kênh thị trường chiếm
vị trí chủ đạo trong chuỗi giá trị lúa gạo tại ĐBSCL nói chung và Đồng Tháp nói riêng.
Phạm vi hoạt động của thương lái rất rộng, có cả các thương lại chỉ mua trong tỉnh và liên
tỉnh. Các thương lái trực tiếp mua lúa tươi của nông dân, không qua hợp đồng (chỉ có hợp
đồng miệng), hoặc mua của cò lúa hoặc người thu gom lúa nhỏ. Trước khi thu hoạch,
thương lái sẽ đến ruộng lúa của nông dân để xem chất lượng lúa và thỏa thuận giá. Các
thương lái thường không quan tâm đến sản xuất lúa theo quy trình bền vững hay không
bền vững, có tiết kiệm đầu vào không, mà chỉ quan tâm đến chất lượng lúa tại thời điểm
thu hoạch. Giá lúa được thỏa thuận theo giá thị trường, nhưng các thương lái vẫn giữ quyền
quyết định nhất là trong thời điểm giữa vụ thu hoạch, giá lúa trên thị trường chững lại.
Thông thường, thương lái sẽ thực hiện trả tiền mặt ngay cho người nông dân khi thu mua
lúa tại ruộng, cung cấp thanh khoản thanh toán các khoản nợ về phân bón, thuốc trừ sâu
cho người nông dân. Trong khi đó, các thành phần khác trong thị trường như doanh nghiệp
xuất khẩu hay nhà máy xay xát thường gặp khó khăn khi có sẵn nguồn tiền mặt đủ lớn trả
trực tiếp cho nông dân, vốn của họ phải đầu tư thêm vào máy móc, thiết bị, quản lý doanh
nghiêp. Sau khi thu mua lúa, các thương lái sẽ tiêu thụ dưới các hình thức sau: (1) bán cho
các nhà máy xay xát; (2) Đem lúa đi xay xát rồi bán cho các nhà máy lau bóng/xuất khẩu;
(3) bán gạo sau khi xay xát cho các nhà bán buôn/bán lẻ hoặc các doanh nghiệp cung ứng
gạo.
Do mỗi thương lái đều thực hiện thu mua trên nhiều vùng khác nhau ở Đồng bằng
sông Cửu Long nên hoạt động của thương lái rất khó để kiểm soát, số lượng thương lái
32
cũng không được các cấp chính quyền thông kê một cách đầy đủ, chi tiết. Đây cũng là tác
nhân khó tiếp cận nghiên cứu nhất, đặc biệt trong thời điểm mùa vụ thu hoạch do họ rất
bận rộn.
Mặt hạn chế lớn nhất của thương lái thực chất là làm giảm chất lượng gạo Việt Nam
do không có khả năng truy xuất nguồn gốc và làm giảm mức độ nguyên chất của gạo. Do
một thương lái thu mua từ nhiều ruộng khác nhau, nên việc truy xuất nguồn gốc hầu như
là không thể thực hiện. Việc thu mua cùng lúc các loại lúa có hình thức khá tương đồng
nhau khiến gạo Việt Nam có tỷ lệ nguyên chất thấp, làm giảm chất lượng gạo xuất khẩu.
Ngoài ra, chi phí trung gian giữa các tác nhân cũng là một vấn đề khiến chuỗi giá trị lúa
gạo kém hiệu quả.
3.2.2. Hiệu quả kinh tế của các tác nhân chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
a. Phân bổ chi phí - lợi nhuận trong chuỗi giá trị lúa gạo tại Đồng Tháp
Từ tính toán, tổng hợp dữ liệu điều tra của các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo
ở Đồng Tháp, chi phí, lợi nhuận của các tác nhân tại địa bàn khảo sát được thể hiện trong
Bảng 4 dưới đây.
Bảng 2: Chi phí – lợi nhuận trên 01 kg lúa của các tác nhân trong chuỗi giá trị
Tác nhân
Chi phí
gộp
(đồng/kg)
Chi phí Giá bán
(đồng/kg)
Lợi nhuận
Giá trị
(đồng/kg)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(đồng/kg)
Tỷ lệ
(%)
Nông dân 2.864 2.864 83% 5.017 2.153 77%
Thương lái 5.102 85 2% 5.325 223 8%
Nhà máy xay xát/đánh
bóng (*) 5.628 303 9% 5.813 185 7%
DN kinh doanh/XK 6.017 204 6% 6.250 233 8%
Tổng 3.456 100% 2.794 100%
Ghi chú (*): Chi phí đã được bù đắp bởi phụ phẩm sau xay xát.
Nguồn: Kết quả điều tra của IPSARD, 2017
Theo bảng trên, ban đầu người nông dân bán lúa tươi cho hệ thống thương lái tại
địa phương. Khi lúa chuyển tới nhà máy xay xát sẽ trải qua công đoạn chuyển đổi: từ 01
33
kg lúa sẽ tạo ra 0,6 kg gạo nguyên liệu, 0,15 kg cám và 0,25 kg trấu. Do bảng trên chỉ đề
cập đến sản phẩm chính từ lúa – gạo qua các tác nhân, nên giá trị thu được từ phụ phẩm
sau xay xát (cám, trấu) sẽ được bù đắp vào chi phí của tác nhân nhà máy xay xát, doanh
nghiệp. Và giá trị đầu ra của nhà máy xay xát được tính là 0,6 kg gạo được quy đổi từ 01
kg lúa ban đầu.
Trong các tác nhân tham gia chuỗi giá trị ngành gạo, nông dân là tác nhân có tỷ
trọng chi phí rất lớn (83%) và cao hơn tỷ trọng lợi nhuận (77%), cho thấy tác nhân này
chịu rủi ro nhiều nhất trước các sú shock thị trường. Trong khi đó, tác nhân thương lái tỷ
trọng chi phí chỉ 2% trong khi tỷ trọng lợi nhuận tới 8% cho thấy sự an toàn và linh hoạt
cao. Doanh nghiệp cũng có chênh lệch tỷ trọng lợi nhuận (8%) cao hơn tỷ trọng chi phí
(6%). Nhà máy xay xát, đánh bóng có chênh lệch tỷ trọng lợi nhuận (7%) cao hơn tỷ trọng
chi phí (9%) song phụ thu từ phụ phẩm có thể làm thay đổi tương quan này.
Mặc dù chiếm tỷ trọng lợi nhuận cao nhất trong chuỗi nhưng quy mô sản xuất nhỏ
lẻ (bình quân 1 – 2 ha/hộ) nên tổng lợi nhuận của hộ trồng lúa thấp hơn nhiều so với các
tác nhân khác trong chuỗi. Theo khảo sát, trong một năm trung bình mỗi hộ nông dân chỉ
sản xuất dưới 10 tấn lúa trong khi với các tác nhân khác như thương lái, nhà máy xay xát
lượng tiêu thụ lên tới hàng nghìn, chục nghìn tấn, thậm chí một số doanh nghiệp thương
mại tiêu thụ lên tới cả trăm nghìn tấn. Bên cạnh đó, rủi ro mùa màng của người nông dân
rất cao, khiến họ luôn phải đối mặt với thua lỗ, thậm chí mất trắng do mất mùa.
Trong khi đó, Quy mô của thương lái, cơ sở xay sát và đánh bóng, doanh nghiệp lương
thực và xuất khẩu đều có quy mô lớn hơn rất nhiều so với nông dân. Vì vậy, tuy lợi nhuận
tính trên 1kg lúa của các tác nhân thấp nhưng tổng lợi nhuận lại lớn hơn nhiều so với nông
dân. Tóm lại, phân bổ lợi nhuận toàn chuỗi giá trị ngành gạo chịu sự chi phối của quy mô
sản xuất, chu kỳ sản xuất kinh doanh, và quyền lực vận hành chuỗi của từng tác nhân.
b. Nông dân
Theo tính toán từ số liệu khảo sát đối với nhóm giống lúa phổ biến, có điều kiện
không quá khác biệt về năng suất, giá bán tại các địa bàn khảo sát, nhóm chi phí lớn nhất
trong hoạt động trồng lúa vẫn là các loại vật tư đầu vào, bao gồm: giống, phân bón, thuốc
BVTV, chiếm 56,3% tổng chi phí sản xuất. Tiếp đến là công lao động chiếm 23,1% (trong
đó công lao động gia đình chiếm 12,7%) và chi phí thuê máy móc, dịch vụ trong toàn bộ
quá trình canh tác, chiếm 19,9%. Các chi phí khác như khấu hao dụng cụ, nhiên liệu, vận
chuyển… không đáng kể chỉ chiếm chưa đến 1%.
34
Hình 15: Cơ cấu chi phí sản xuất trung bình của nông dân tại Đồng Tháp
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Chi tiết các khoản chi phí được trình bày cụ thể trong Bảng 2. Trong các loại vật tư
đầu vào, chi phí cho thuốc BVTV trung bình chiếm khoảng 26,9% tổng chi phí, tiếp đến là
phân bón (với 3 loại chính là đạm urê, kali và DAP) chiếm 20,6% và giống chiếm gần
8,8%. Tình hình cơ giới hóa tại các địa phương tỉnh Đồng Tháp rất tốt, đặc biệt là khâu
làm đất, thu hoạch lúa, thủy lợi. Hầu như 100% hộ nông dân được phỏng vấn sử dụng máy
trong làm đất và thu hoạch lúa. Có một số hộ tự mua máy làm đất, máy gặt lúa để kinh
doanh và tự làm cho gia đình. Dịch vụ thủy lợi được quản lý và cung cấp thông qua các
HTX.
Chi phí thuê máy móc cho các khâu này chỉ chiếm khoảng 20% tổng chi phí, trong
đó thuê máy gặt đập chiếm 9%, máy làm đất 5,5% và dịch vụ bơm tưới tiêu (chủ yếu sử
dụng dịch vụ của HTX) chiếm 5,2%. Chi phí lao động vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong
tổng chi phí (23%). Trong đó công lao động gia đình chiếm 12,7% và thuê ngoài 10,5%.
Tuy nhiên, thực tế như đã nêu ở phần đặc điểm nhân khẩu học, phần lớn các hộ trồng lúa
tại Đồng Tháp hiện nay đều thuê máy móc và lao động ngoài vào việc canh tác trực tiếp.
Phần việc của lao động gia đình chủ yếu là đi thăm đồng, chuẩn bị vật tư, quản lý lao động
làm thuê hoặc thực hiện các công việc nhỏ khác. Do vậy việc ước tính chính xác công lao
động gia đình khá khó khăn và chỉ mang tính tương đối.
Đầu vào
56.3%
Máy móc, dịch vụ
19.9%
Công lao động
23.1%
Chi phí khác
0.7%
35
Bảng 3: Chi phí sản xuất bình quân của người nông dân trồng lúa tỉnh Đồng Tháp
Chỉ tiêu Hạng mục
Chi phí theo 1
ha (nghìn
đồng/ha)
Chi phí theo
1 kg lúa
(đồng/kg)
Tỷ trọng
(%)
1. Đầu vào
1.1. Giống 1.592 253 8,8
1.2. Phân bón 3.715 590 20,6
1.3. Thuốc BVTV 4.846 769 26,9
2. Máy móc,
dịch vụ
2.1. Bơm, tưới tiêu 946 150 5,2
2.2. Thuê máy làm đất 992 158 5,5
2.3. Thuê máy gặt đập 1.646 261 9,1
3. Thuê lao
động
3.1. Gieo/cấy 385 61 2,1
3.2. Làm cỏ 445 71 2,5
3.3. Rải phân 392 62 2,2
3.4. Phun thuốc 669 106 3,7
4. Lao động gia đình 2.285 363 12,7
5. Chi phí khác 131 21 0,7
Tổng chi phí 18.045 2.864 100
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Như vậy, chi phí trung bình tính trên 1ha lúa tại Đồng Tháp vào khoảng 18,05 triệu
đồng/ha, và tính trên 1kg lúa tươi là 2,87 nghìn đồng/kg. Giá lúa trung bình tại thời điểm
điều tra là 5.017 đồng/kg, nông dân thu được lợi nhuận là 2.153 đồng/kg. Với năng suất
trung bình vào khoảng 6,3 tấn lúa/ha/vụ, doanh thu trồng lúa đạt khoảng 32 triệu đồng/ha,
sau khi trừ chi phí cho lợi nhuận 11 triệu đồng/ha. Đối với các hộ nông dân trồng lúa với
quy mô lớn trên 20 ha, lợi nhuận thu được mỗi năm trên cả 3 vụ lên tới hàng tỷ đồng. Tuy
nhiên, tỷ lệ hộ có quy mô trên 20ha khá nhỏ (tỷ lệ hộ trồng lúa canh tác trên diện tích dưới
2 ha vẫn chiếm đến 86,6% tại vùng ĐBSCL), hơn nữa sản xuất lúa chịu nhiều rủi ro như
dịch bệnh, thời tiết, biến động giá trên thị trường. Ngoài ra, các phụ phẩm từ trồng lúa vẫn
chưa được nông dân tận dụng hiệu quả như rơm, rạ. Qua kết quả khảo sát, có rất ít hộ thu
36
gom rơm để bán và thu tiền cho các hộ nuôi vịt chạy đồng sau khi thu hoạch. Tuy đây chỉ
là các khoản thu nhỏ, nhưng nếu tính trên tổng diện tích cũng có thể tăng thêm thu nhập
cho hộ.
Bảng 4: Hiệu quả kinh tế tính trên 1 kg lúa tại Đồng Tháp (đồng/kg)
Chỉ tiêu Số tiền Tỷ lệ trên doanh thu (%)
Giá bán lúa (đồng/kg) 5,017 100
Chi phí (đồng/kg) 2,864 57,1
Lợi nhuận (đồng/kg) 2,153 42,9
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
100% số hộ đều cho biết họ thấy được một số hiệu quả từ canh tác theo phương
pháp an toàn bền vững mang lại. Trong đó, tỷ lệ cho biết biết áp dụng tiêu chuẩn canh tác
an toàn bền vững giúp: giảm lượng giống gieo (83%); giảm lượng phân bón (81%); giảm
lượng thuốc BVTV (74%); giảm nước tưới (68%); Tăng năng suất lúa (61%); tăng chất
lượng lúa (47%); tiêu thụ lúa gạo dễ dàng hơn (33%); bán giá cao hơn gạo thường (19%)…
Hình 16: Lợi ích các tiêu chuẩn sản xuất an toàn bền vững đối với người dân (%)
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
83
81
74
68
35
29
61
47
54
37
28
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Giảm giống
Giảm phân
Giảm thuốc BVTV
Giảm nước tưới
Giảm thất thoát
giảm khí thải
tăng năng suất
tăng chất lượng
tăng hiệu quả kinh tế
dễ tiêu thụ
bán giá cao hơn
%
37
Rất khó để xác định hiệu quả kinh tế của việc sản xuất lúa áp dụng theo các quy
trình như 1 phải 5 giảm, 3 giảm 3 tăng do các nguyên nhân sau. Thứ nhất, các hộ nông dân
không tuân theo toàn bộ quy trình mà chỉ áp dụng một vài nội dung trong quy trình. Nông
dân có thể nhận thức được lợi ích của việc áp dụng quy trình sản xuất mới thông qua các
cuộc tập huấn nhưng do không có thói quen ghi chép lại chi phí nên rất khó để so sánh.
Một nguyên nhân nữa là do chưa có chứng nhận về sản phẩm nên không có sự phân biệt
giá lúa trên thị trường. Chỉ có một số ít hộ bán lúa cho các công ty mới thấy được chênh
lệch giá, còn lại đại đa số nông dân vẫn bán lúa cho thương lái.
Về áp dụng các tiêu chuẩn, phần lớn các hộ dân cho biết việc thực hiện theo tiêu
chuẩn tương đối dễ dàng không gặp khó khăn trở ngại nào (76%). Thậm chí, một số hộ cho
biết tiêu chuẩn họ đang áp dụng còn dễ dàng hơn phương pháp canh tác thông thường
truyền thống (21%). Cụ thể, tỷ lệ người dân đồng ý rằng việc áp dụng quy trình quá phức
tạp chỉ chiếm 22%; không quá khó với trình độ người dân (26%); lợi nhuận thấp so với
cách thức truyền thống (24%), điều kiện tự nhiên không phù hợp (31%), thiếu chính sách
hỗ trợ của nhà nước (43%).
c. Thương lái
Hầu hết thương lái dùng ghe lớn với công suất khác nhau để thu mua lúa của nông
dân. Theo khảo sát, công suất ghe tàu của họ rất đa dạng, từ 10 tấn, 20 tấn, 30 tấn…, thậm
chí cả trăm tấn, được sử dụng tùy theo chuyến hàng, điều kiện cho phép của hệ thống kênh
rạch.
Các khoản chi phí của thương lái bao gồm: chi phí mua lúa tươi, tiền chênh lệch trả
cho cò lúa (nếu có) chi phí vận chuyển. Theo kết quả điều tra, chi phí tăng thêm mà thương
lái chi (trừ tiền mua lúa) khoảng 85 đồng/kg. Với giá lúa chênh lệch khoảng 300-350
đồng/kg, thương lái thu được lợi nhuận khoảng 223 đồng/kg. Tính trên 1kg lúa, lợi nhuận
của thương lái thu được rất nhỏ nhưng trên thực tế, lượng thu mua lúa của thương lái rất
lớn nên lợi nhuận thương lái thu được là rất lớn. Trung bình thu gom 1 tấn lúa, thương lái
thu được lợi nhuận là 223 nghìn đồng. Trong khi đó, chỉ tính trong 1 vụ, một thương lái
chỉ cần sở hữu 1 ghe trọng tải 40 tấn (mức trọng tải trung bình) có thể thu mua trên 100 tấn
lúa, lợi nhuận thu được khoảng 25-30 triệu đồng/vụ, tổng lợi nhuận hàng năm của một
thương lái nhỏ từ 1 ghe có thể đạt 65-75 triệu đồng.
Trong toàn chuỗi giá trị, thương lái là nhà trung gian chịu rủi ro trong kinh doanh
thấp nhất bởi vì chu kỳ kinh doanh ngắn nên ít bị ảnh hưởng của biến động giá cả lên xuống
38
nên họ thu được mức lợi nhuận biên cao. Trong trường hợp rủi ro, chẳng hạn giá biến động
giảm, họ có thể “hủy kèo” với nông dân và chịu mất tiền cọc ứng trước. Mức tiền cọc mất
đi thấp hơn đáng kể so với việc họ phải bỏ tiền ra mua lúa trong bối cảnh giá có xu hướng
đi xuống.
d. Nhà máy xay xát và doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo:
Theo kết quả tính toán trên, lợi nhuận của nhà máy xay xát, đánh bóng đạt 185
đồng/kg. Đối với cơ sở sấy lúa trung bình, cơ sở chỉ cần hoạt động với công suất tối đa 500
tấn lúa tươi/ngày trong vòng 3 tháng cao điểm mỗi năm, sử dụng lò sấy vỉ ngang bán công
nghiệp, thì có thể thu tổng lợi nhuận hàng năm khoảng 3,6 tỷ đồng. Trong khi đó, doanh
nghiệp lương thực-xuất khẩu có bỏ ra chi phí 204 đồng/kg và thu được lợi nhuận 233
đồng/kg. Như vậy, cứ một tấn lúa doanh nghiệp thu được lợi nhuận 233 nghìn đồng. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp phải đầu tư vốn lớn (mua máy móc, thiết bị, đầu tư nhà xưởng,
văn phòng, vốn lưu động), cũng là đối tượng chịu rủi ro nếu có biến động lớn trên thị
trường. Quy mô sản xuất của nhà máy xay sát và doanh nghiệp lớn, duy trì trong cả năm
nên tổng lợi nhuận thu được là rất lớn. Đây cũng là khâu mang lại giá trị gia tăng cho sản
phẩm lúa gạo.
3.3. Những khó khăn đối với sản xuất kinh doanh lúa gạo
a. Các yếu tố khách quan
Trong nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng, các loại rủi ro thường
gặp đó là: Rủi ro do thời tiết; do dịch bệnh; do ô nhiễm; do thị trường; do thể chế chính
sách; do khâu hậu cần và do quản lý của các tác nhân tham gia. Những rủi ro này có thể
ảnh hưởng đến toàn bộ các tác nhân tham gia chuỗi với các mức độ khác nhau.
Hình 17: Khó khăn của người nông dân trồng lúa (% lựa chọn trên tổng mẫu)
39
Nguồn: Điều tra của IPSARD tại Đồng Tháp, 2017
Theo khảo sát, các yếu tố khó khăn phổ biến nhất đối với người nông dân sản xuất
lúa gạo đó là tác động của thời tiết (84% số người lựa chọn). Biến động của thời tiết là
những thứ rất khó dự báo. Tại xã An Phong huyện Thanh Bình, vụ mùa năm 2016 tại địa
phương đã xảy ra lũ lụt khiến cho mùa màng của đa số người dân bị mất trắng, thiệt hại lên
tới hàng trăm triệu đồng. Đối với các tác nhân khác, mức độ thiệt hại do thời tiết xấu gây
ra thấp hơn người nông dân rất nhiều (chỉ 34%) do họ hoặc thời gian lưu chuyển lúa ngắn
(thương lái), hoặc có phương tiện lưu trữ (nhà máy xay xát, doanh nghiệp).
Khó khăn lớn tiếp theo đó là diễn biến dịch bệnh làm giảm năng suất/ sản lượng lúa
(71%). Mặc dù công tác tuyên truyền, cảnh báo, khuyến cáo tại địa phương hiện nay tương
đối tốt, giúp bà con chủ động phòng tránh được thiệt hại từ các loại dịch bệnh như đạo ôn,
rầy, lùn xoắn lá… song thiệt hại vẫn xảy ra ở mức độ nào đó và người dân vẫn phải tốn chi
phí cho việc phòng chống dịch, chi phí thuốc BVTV… Tuy nhiên, các tác nhân khác hầu
như không bị tác động trực tiếp bởi yếu tố dịch bệnh này.
Một khó khăn lớn khác đó chính là sự biến động thất thường của giá lúa (68% lựa
chọn). Có những thời điểm trong vụ thu hoạch, giá lúa đã giảm xuống rất thấp khiến nhiều
hộ dân đối mặt với thua lỗ. Người nông dân vẫn là chủ thể dễ tổn thương nhất khi giá lúa
biến động. Bên cạnh đó, họ còn thường xuyên đối mặt với tình trạng thương lái ép giá.
Trước sức ép trả nợ vay vật tư đầu vào hoặc đầu tư từ đầu vụ, nhiều trường hợp phải bán
lúa cho thương lái với giá thấp để có tiền trang trải chi phí. Không chỉ người nông dân,
84
71
11
16
5
68
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Thời tiết
Dịch bệnh
Hệ thống thủy lợi
Cơ sở hạ tầng
Vật tư đầu vào
Giá cả
%
40
doanh nghiệp cũng chịu những rủi ro và sức ép lớn khi giá cả biến động. Trong khi đó,
thương lái ít chịu rủi ro hơn cả do họ luôn nhanh chóng quay vòng vốn của mình.
Cũng theo khảo sát, các yếu tố như hệ thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng ít gây ra khó
khăn cho người dân trồng lúa vì họ cho biết hệ thống thủy lợi tại địa phương tốt, đáp ứng
được nhu cầu mùa vụ (91%), đường xá tốt (78%), điện lưới tốt (86%). Họ cũng không gặp
khó khăn đối với vấn đề vật tư đầu vào do dịch vụ nhà cung ứng tốt (85%), không hoặc rất
ít khi gặp phải tình trạng phân bón giả, kém chất lượng, hoặc giống không tốt.
b. Liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị lỏng lẻo
Theo kết quả điều tra, nông dân bán lúa thường qua hai kênh chính là thương lái và
cơ sở xay xát theo nguyên tắc thuận mua vừa bán và theo giá cả thị trường. Những giao
dịch này được thực hiện chủ yếu bằng miệng mà không có hợp đồng hay bất cứ cam kết
nào. Tương tự như nông dân bán lúa, các giao dịch khác như thương lái – cơ sở xay xát,
cơ sở xay xát – bán buôn/ bán lẻ hầu như cũng không có cam kết. Sự lỏng lẻo và yếu kém
của mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo không chỉ gây ra những khó khăn, bất
lợi cho nông dân khi bị thương lái, doanh nghiệp ép giá mà nông dân còn gặp rất nhiều khó
khăn trong tiếp cận, tiếp nhận vốn tín dụng, chuyển giao, ứng dụng khoa học - kỹ thuật.
Nông dân phải mua vật tư nông nghiệp với giá cao, chi phí sản xuất cao do sử dụng lãng
phí vật tư và tiêu thụ lúa gạo với giá bất lợi, lợi nhuận bị giảm thấp. Ngay cả khi giá lúa
trên thị trường nội địa và giá xuất khẩu gạo cao lợi nhuận này cũng phải chia cho nhiều
tầng nấc trung gian. Hệ quả tất yếu là đã gây bất ổn cho sản xuất nông nghiệp, gây trở ngại
cho phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
b. Động lực và năng lực liên kết trực tiếp nông dân – doanh nghiệp còn thấp
Trong các kênh sản xuất – tiêu thụ lúa gạo, liên kết trực tiếp nông dân – doanh
nghiệp có hiệu quả kinh tế cao nhất, khả năng truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng
và độ nguyên chất của sản phẩm tốt nhất. Tuy nhiên, liên kết trực tiếp nông dân – doanh
nghiệp chiếm tỷ trọng thấp nhất trong các kênh tiêu thụ lúa từ đồng ruộng của nông dân,
do động lực và năng lực liên kết giữa cả hai bên còn thấp. Mặc dù các chính sách hiện hành
đã có (như: Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Quyết định số
62/2013/QĐ-TTg về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông
sản, xây dựng cánh đồng lớn) tác động trong việc kiến tạo động lực, nhưng động lực này
chưa được thúc đẩy bằng những ưu đãi, hỗ trợ cụ thể và những chế tài quản lý chặt chẽ.
41
Theo phản hồi của các doanh nghiệp, các điều kiện ưu đãi trong Quyết định 62 chưa
cụ thể và hấp dẫn, trong khi các điều kiện hưởng ưu đãi lại đang vượt quá năng lực của
doanh nghiệp, khiến động lực liên kết trực tiếp với nông dân của họ bị giảm sút. Hai thách
thức lớn nhất đối với doanh nghiệp trong liên kết trực tiếp với nông dân này là: vốn và
nhân lực để phát triển liên kết, vùng nguyên liệu thì không được đề cập trong nội dung ưu
đãi. Hiện tại, đội ngũ thương lái đang có hệ thống phương tiện nhỏ và cò lúa để thu mua
tới tận ruộng của từng hộ nông dân trồng lúa. Trong ngắn và trung hạn, doanh nghiệp không
có đủ tiềm lực vốn để xây dựng một đội ngũ hoạt động hiệu quả và có kinh nghiệm để thay
thế hoàn toàn đội ngũ thương lái hiện tại.
Hơn nữa, Quyết định 62 quy định doanh nghiệp phải có hợp đồng trực tiếp hoặc liên
kết với các doanh nghiệp khác để cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào cho nông dân; đây là
quy định còn khá cứng nhắc và sẽ khiến tốc độ liên kết, vốn đã chậm, càng chậm hơn, đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp chỉ có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh – xuất khẩu
lương thực. Nông dân ưa thích sự tùy chọn vật tư sản xuất và hiện các doanh nghiệp vật tư
nông nghiệp đều dựa vào hệ thống đại lý nhiều cấp để phân phối sản phẩm, nên quy định
buộc doanh nghiệp vật tư đầu vào – doanh nghiệp thu mua lúa liên kết với nhau rất khó
thực hiện và đạt đồng thuận giữa các tác nhân. Hiện nay, các địa phương đang kỳ vọng có
thể nhân rộng mô hình liên kết doanh nghiệp – nông dân có sự tham gia của HTX; trong
đó, HTX đóng vai trò pháp nhân liên kết giữa doanh nghiệp – nông dân (gồm cả doanh
nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và doanh nghiệp thu mua) dựa trên sự đồng thuận và tự
nguyện tham gia của nông dân. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng kỳ vọng HTX có thể sấy
và lưu kho một phần lúa vào vụ thu hoạch rộ để giảm áp lực tại cơ sở chế biến của doanh
nghiệp. Tuy được kỳ vọng nhiều, nhưng hầu hết các HTX hiện nay chỉ cung cấp dịch vụ
tưới tiêu, năng lực quản lý hạn chế và thiếu khả năng liên kết với các tác nhân trong chuỗi
ngành hàng.
Trong khi đó, về phía nông dân, giá cả là vấn đề được quan tâm hàng đầu và cũng
là nguyên nhân chủ yếu khiến nông dân – doanh nghiệp phá vỡ hợp đồng. Mặc dù nhiều
doanh nghiệp đang thực hiện chính sách thu mua cao hơn giá thị trường từ 100-200đ/kg
nhưng nông dân cho rằng, với những yêu cầu cụ thể về chất lượng, quy trình sản xuất, giá
thu mua này không mang lại cho họ lợi nhuận cao hơn, trong khi nông dân phải bỏ nhiều
công hơn, đặc biệt trong các giai đoạn mùa vụ cao điểm (cấy, gặt) để đáp ứng các yêu cầu
này. Mặt khác, những rủi ro khiến nông dân mất khả năng thanh toán, hoặc làm giảm năng
42
suất, chất lượng lúa (như mưa gió làm đổ ngã lúa, lũ lụt), chưa được bảo hiểm và doanh
nghiệp cũng không sẵn sàng chia sẻ các rủi ro này, nên nông dân không nhận thấy rõ lợi
ích khi liên kết với doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều nông dân chưa quen với cách tính giá
lúa khô dựa trên ẩm độ lúa tươi tại ruộng nên không đồng thuận về giá giao dịch với doanh
nghiệp. Như trong mô hình liên kết với Tập đoàn Lộc Trời, nông dân được cung cấp đầu
vào, hướng dẫn kỹ thuật và thu mua sản phẩm với giá cao hơn. Tuy nhiên, không phải nông
dân nào cũng sẵn lòng tham gia liên kết vì: (i) yêu cầu của công ty khá cao về chọn vị trí
ruộng, chọn giống, sử dụng vật tư và quy trình canh tác, (ii) nông dân quen sản xuất theo
kinh nghiệm của bản thân nên gặp khó khăn khi thực hành theo quy trình có sự giám sát
của công ty.
Những thực tế trên cho thấy động lực và năng lực liên kết trực tiếp giữa nông dân –
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, mặc dù đây là kênh sản xuất – kinh doanh lúa gạo có tiềm
năng tốt trong nâng cao giá trị, tạo lập thương hiệu, kiểm soát chất lượng và truy xuất
nguồn gốc, cũng như mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn về dài hạn cho cả nông dân và
doanh nghiệp.
3.4. Các chính sách hỗ trợ
Nhìn chung, nhiều chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như địa phương không tới
được người dân trồng lúa. Theo khảo sát, chính sách chính mà người dân tiếp cận được là
chính sách hỗ trợ liên kết cánh đồng mẫu lớn (64%). Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ
khác gần như không nhận được, bao gồm: hỗ trợ ưu đãi tín dụng mua máy móc phục vụ
sản xuất, chính sách về bảo hiểm nông nghiệp, chính sách hỗ trợ bảo vệ đất lúa (Nghị định
35 mới), chính sách thu mua tạm trữ lúa gạo hàng năm, chính sách liên kết tiêu thụ sản
phẩm (Nghị định 62), chính sách hỗ trợ tổn thất sau thu hoạch (Nghị định 68).
Các chủ thể là thương lái cũng cho biết hầu như không tiếp cận/nhận được chính
sách hỗ trợ gì. Một số doanh nghiệp cho biết các chính sách của nhà nước giúp doanh
nghiệp giảm được khó khăn về thuế phí, có cơ hội thực hiện liên kết cánh đồng mẫu lớn
với người nông dân trồng lúa.
Một vấn để gặp phải là hiện nay chưa có cơ chế chính sách quy định cụ thể về đơn
vị chứng nhận sản phẩm từ sản xuất lúa gạo theo các quy trình lúa theo các phương pháp
như “1 phải 5 giảm” hay “3 giảm 3 tăng” mặc dù việc tập huấn và tuyên truyền những lợi
ích các quy trình này mang lại đang được triển khai rộng rãi. Do không được chứng nhận,
sản phẩm lúa gạo sản xuất theo quy trình khi bán trên thị trường không có sự khác biệt về
43
giá, người trồng lúa và doanh nghiệp do đó không có động lực để sản xuất và kinh doanh
sản phẩm này.
III. KẾT LUẬN
Nông dân là chủ thể chịu nhiều rủi ro nhất, bởi cả nguyên nhân chủ quan và khách
quan. Về phía nội tại, quy mô sản xuất nhỏ, tính toán lợi nhuận thiếu chính xác khiến thu
nhập từ trồng lúa của nông dân càng bấp bênh và nhỏ bé so với các tác nhân khác trong
chuỗi giá trị. Về các điều kiện khách quan, bên cạnh những rủi ro hiện hữu như thời tiết,
dịch bệnh, quy trình chế biến truyền thống và sự phân vai các tác nhân trong chuỗi giá trị
theo kênh phổ biến hiện nay khiến giá trị hạt gạo Việt Nam chưa đạt hết tiềm năng. Giá trị
toàn bộ chuỗi giá trị xuất khẩu bị chi phối lớn bởi giá xuất khẩu mà doanh nghiệp đàm
phán. Nông dân gánh tỷ trọng chi phí lớn nhất nhưng chỉ nhận được phần lợi nhuận nhỏ và
không có quyền đàm phán giá trong chuỗi, nên chịu nhiều rủi ro về thị trường.
Thương lái là bộ phận hoạt động tích cực trong chuỗi giá trị nhưng cần được đặt
dưới sự quản lý chặt chẽ hơn. Cho đến nay, thương lái vẫn là tác nhân có vai trò kết nối
toàn chuỗi giá trị, từ nông dân đến doanh nghiệp xuất khẩu, có lợi nhuận biên hoạt động
khá nhỏ do cạnh tranh mạnh. Điều kiện cơ sở vật chất của thương lái đang ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng gạo do thời gian vận chuyển dài, điều kiện bảo quản lúa gạo trên ghe
nghèo nàn, và lúa gạo được chế biến tại nhiều địa điểm khác nhau dẫn tới chất lượng không
đồng đều. Tuy vậy, về khách quan, thương lái không chủ động nâng cao chất lượng và
quản lý chất lượng do doanh nghiệp kinh doanh lương thực, xuất khẩu mới là đầu mối yêu
cầu chất lượng sản phẩm, phần lớn vẫn quan tâm đến độ trắng, độ trong, độ trọng nên quy
trình hiện tại mà thương lái đang thực hiện vẫn đáp ứng yêu cầu.
Các nhà máy xay xát tư nhân nhỏ sẽ đối diện với sự cạnh tranh mạnh từ phía các
doanh nghiệp chế biến quy mô lớn trong tương lai. Tuy nhiên, hiện nay, các nhà máy xay
xát vẫn là các vệ tinh cung ứng quan trọng cho các doanh nghiệp kinh doanh lương thực,
xuất khẩu và bán lẻ, cũng như cung ứng dịch vụ cho đội ngũ thương lái. Do đó, trong ngắn
hạn, đây sẽ là khâu trọng tâm để đổi mới công nghệ chế biến và thay đổi quy trình chế biến
theo hướng tăng chất lượng, giá trị, và giảm thất thoát, từ đó tạo đột phá về dài hạn cho
ngành lúa gạo Việt Nam.
Sự nổi lên của các doanh nghiệp chế biến – kinh doanh lớn, có hệ thống chế biến
khép kín, liên hoàn, và có liên kết trực tiếp với nông dân là một khuynh hướng quan trọng
trong ngành lúa gạo 5 năm qua. Về mặt khách quan, Nghị định 109 về điều kiện kinh
44
doanh, xuất khẩu gạo có ảnh hưởng quyết định tới sự hình thành khuynh hướng này. Tuy
nhiên, đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp lớn nằm trong khuynh hướng này là những doanh
nghiệp ngoài ngành, có các lĩnh vực kinh doanh truyền thống ngoài ngành gạo (như
AGPPS, Võ Thị Thu Hà, Cẩm Nguyên…). Do vốn đầu tư ban đầu, chi phí hoạt động
thường xuyên lớn và thanh khoản tiền mặt cao vào vụ thu hoạch, các doanh nghiệp ngoài
ngành có lĩnh vực kinh doanh khác bù đắp cho hoạt động thu mua – chế biến – kinh doanh
gạo có lợi thế lớn để đi đầu khuynh hướng này.
Mặc dù HTX và các tổ chức kinh tế hợp tác không được thể hiện trong chuỗi giá trị
phổ biến hiện tại nhưng với sự nổi lên của hình thức hợp tác giữa nông dân – doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế hợp tác được kỳ vọng sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong thời gian tới.
Trên thực tế, ngoài AGPPS ký hợp đồng trực tiếp với nông dân, các doanh nghiệp khác
đều tìm kiếm kênh hợp tác với nông dân thông qua các HTX và tổ chức kinh tế hợp tác
mạnh để giảm chi phí giao dịch và quản lý. Bởi vậy, để thúc đẩy khuynh hướng nói trên
trở thành một kênh thị trường chủ chốt trong chuỗi giá trị lúa gạo, phát triển các tổ chức
kinh tế hợp tác là một điều cần thiết.
Sản xuất lúa theo các tiêu chuẩn bền vững (như 1 phải 5 giảm, 3 giảm 3 tăng,
Vietgap) mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu. Các hộ nông dân chưa chủ động áp dụng hoặc chỉ áp
dụng một phần do chưa thấy được lợi ích các quy trình. Chưa có cơ quan chức năng nào
tham gia chứng nhận các sản phẩm được sản xuất theo các quy trình trên và cũng chưa có
sự phân biệt giá trên thị trường. Vì vậy, để khuyến khích nông dân áp dụng, cần tăng cường
tập huấn về việc áp dụng các quy trình sản xuất lúa bền vững, minh chứng hiệu quả thực
tế từ tiết kiệm đầu vào và năng suất được cải thiện. Ngoài ra, cần thiết phải có chứng nhận
sản phẩm theo các quy trình sản xuất bền vững để nâng cao chất lượng lúa gạo và xây dựng
thương hiệu cho sản phẩm Việt Nam. Chứng chỉ giảm phát thải trong canh tác lúa cũng là
một thị trường tiềm năng cần được khai thác để tăng lợi nhuận cho nông dân và đóng góp
vào mục tiêu canh tác lúa bền vững.