bẢng chỈ sỐ...tỷ đồng, giảm 2% so với đầu năm (cuối q.i, casa giảm 11%), cho...
TRANSCRIPT
1
Tính đến cuối tháng 6, tiền gửi không kỳ
hạn - CASA - của 25 ngân hàng đạt hơn 1 triệu
tỷ đồng, giảm 2% so với đầu năm (cuối Q.I,
CASA giảm 11%), cho thấy CASA đã tăng trở
lại trong Q.II. Hiện nay, các ngân hàng đều
muốn tăng tỷ trọng CASA để giảm chi phí vốn.
Điều này, càng quan trọng trong bối cảnh
ngành ngân hàng đang gián tiếp bị ảnh hưởng
bởi dịch Covid-19 và lãi suất tiền gửi liên tục
giảm. Bên cạnh đó, Thống đốc đã y/c các
NHTM thực hiện nghiêm chỉ đạo về tiết giảm
chi phí hoạt động, giảm lương thưởng, lợi
nhuận để tiến tới giảm lãi suất cho vay thực
chất với các khoản vay hiện hữu và khoản cho
vay mới trong nửa cuối năm 2020.
Tin nổi bật
Tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng tăng
mạnh trở lại
Tiền gửi không kỳ hạn hồi phục
Thanh khoản dồi dào nhưng các kênh đầu tư
còn hạn chế
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 sẽ
quanh ngưỡng 2%
Mục tiêu kim ngạch XK tăng 5%/năm giai đoạn
2021-2025
Thứ Năm, ngày 20/8/2020
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 19/8)
VN - Index 851,21 0,56%
HNX - Index 119,19 1,85%
D.JONES CK Mỹ 27.692,88 0,31%
STOXX CK C.Âu 3.317,62 0,85%
CSI 300 CK TQ 4.740,68 1,50%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 20/8)
SJC Ng.đ/L 55.650 3,47%
Quốc tế USD/Oz 1.936,44 3,43%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.200 0,02%
EUR/USD 1,1848 0,78%
Dầu
WTI USD/th 42,72 0,28%
6
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tiền gửi của doanh nghiệp tại
ngân hàng tăng mạnh trở lại
Theo số liệu của NHNN, trong 6th đầu năm 2020, tiền gửi của khách hàng
tại các TCTD đạt trên 9,2 triệu tỷ đồng, 4,75% sv đầu năm. Đáng chú
ý, tiền gửi của TCKT tăng vọt trong tháng 5&6. Đến cuối tháng 6, tiền gửi
của các DN đạt hơn 4,13 triệu tỷ đồng, 4,32% sv đầu năm. Trong khi
trước đó, tiền gửi của TCKT đến cuối tháng 4 vẫn còn tăng trưởng âm,
3,94% sv đầu năm. Như vậy, chỉ trong 2th cuối Q.II, tiền gửi của các
DN tại hệ thống TCTD đã 8,6% sv tháng 4. Trong khi đó, tiền gửi của
dân cư vẫn tăng trưởng đều đặn, đến cuối tháng 6 vượt 5 triệu tỷ đồng,
5,09% sv đầu năm. Sv với cùng kỳ các năm trước, tăng trưởng huy
động tiền gửi 2020 thấp hơn khá nhiều. 6th đầu năm 2019, tăng trưởng
tiền gửi của hệ thống đạt 6,68% trong khi cùng kỳ 2020 chỉ đạt 4,75%.
Tiền gửi tăng chậm trong bối cảnh LS huy động liên tục xuống thấp. Hiện
LS tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6th chỉ phổ biến từ 3,7-4,25%; tiền
gửi kỳ hạn 6 đến dưới 12th từ 4,4-6,4%/năm; tiền gửi kỳ hạn 12th trở lên
có LS 6-7,3%/năm. Sv cuối 2019, LS huy động đã 1-1,5%/năm. Huy
động tiền gửi tăng chậm còn do đầu ra là tín dụng tăng rất thấp, nhu cầu
vay vốn của DN sụt giảm do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Tín dụng 6th
đầu năm của hệ thống mới chỉ 3,65%, thấp hơn nhiều sv mức 7,36%
đạt được cùng kỳ 2019 và mức 7,86% cùng kỳ 2018
Tiền gửi không kỳ hạn hồi phục
Thống kê 25 NH, tiền gửi khách hàng chỉ 4% sv đầu năm, thấp hơn
mức 6% nửa đầu năm 2019. Tăng trưởng huy động thấp hơn cùng kỳ
1 phần do ảnh hưởng của mức tăng thấp của tín dụng trong nửa đầu
năm và thanh khoản LNH dư thừa. Đến cuối tháng 7, tín dụng chỉ
3,45%, thấp hơn mức 7,13% trong cùng kỳ. Dịch Covid-19 tác động
đến nền KT khiến nhu cầu vay của người dân và DN giảm, đồng thời các
NH cũng thắt chặt hơn việc giải ngân nhằm hạn chế NX phát sinh. Tăng
trưởng tiền gửi mạnh nhất gồm HDBank hơn 19% và NamABank 17%.
VietBank, VPBank, BacABank, PGBank… dao động quanh 10%. 3 NH
trong nhóm Big4 ghi nhận mức tăng tiền gửi thấp, BIDV chỉ 1,6%,
VietinBank 2,3% và Vietcombank 5,7%... Ở chiều ngược lại, 3 NH ghi
nhận tiền gửi khách hàng thấp hơn đầu năm. Eximbank 11%, MB 5,6%,
SCB giảm nhẹ. Hệ thống NH dư tiền cũng tác động khiến mặt bằng LS
Tài chính – Ngân hàng
3
trên thị trường liên tục giảm từ đầu năm với tốc độ nhanh hơn từ tháng 8.
LS tiền gửi 70-90 bps ở kỳ hạn dưới 12th và 100 bps ở các kỳ hạn
trên 1 năm sv mức BQ 2019. Đồng thời, LS LNH cũng ở vùng thấp nhất
lịch sử dao động 0,3-0,39%. Đến cuối tháng 6, tiền gửi không kỳ hạn
(CASA) 25 NH đạt hơn 1 triệu tỷ đồng, 2% sv đầu năm. Cuối Q.I, CASA
11%. Điều này cho thấy Q.II, CASA đã tăng trở lại. Đến cuối Q.II, riêng
tiền gửi thanh toán của cá nhân tại các NH đạt 532.809 tỷ đồng, 11%
sv thời điểm cuối tháng 3 và cao hơn 5% sv đầu năm. 3 NH nhóm Big4
dẫn đầu hồi phục. Vietcombank là tăng trưởng lớn nhất CASA trong Q.II,
16.121 tỷ đồng, #6,6%. VietinBank 15.406 tỷ đồng, #12%. BIDV
14.737 tỷ đồng, #9%. MB, Techcombank, ACB, Sacombank… CASA
6.000-9.000 tỷ đồng, cao hơn 13-16% sv thời điểm cuối Q.I. Nhóm dưới
gồm Kienlongbank, BacABank, SaigonBank, CASA chỉ 120-200 tỷ
đồng. SeABank là NH duy nhất ghi nhận giảm tiền gửi không kỳ hạn
trong Q.II 852 tỷ đồng, #9%. Cuối Q.I, chỉ 3 NH ghi nhận CASA tăng
trưởng là MSB, HDBank và ABBank dao động 1-5%, trong khi hơn 20
NH còn lại đều giảm với mức 5-41%. Hiện nay, MB và Techcombank
là NH có CASA lớn nhất hệ thống, cùng chiếm 33% tiền gửi khách hàng.
Tiếp theo là Vietcombank với 28%, MSB 20%...
Thanh khoản dồi dào nhưng các
kênh đầu tư còn hạn chế
Theo BC chuyên đề KT nửa cuối năm 2020 do CTCK Rồng Việt (VDSC)
vừa công bố, mặc dù tốc độ tăng cung tiền trong 6th đầu năm giảm đáng
kể sv cùng kỳ 2019, từ 6,05% xuống 4,59% nhưng tốc độ TTTD ½
xuống 3,26%, đưa chênh lệch cung tiền và tín dụng hàng tháng lên mức
cao. Xu hướng này có thể sẽ duy trì trong những tháng còn lại của năm
2020 bởi 2 lý do như sau: (i) Về cung tiền, bất chấp tác động gia tăng
của Covid-19 đối với đầu tư FDI mới và XK, NHNN đã tăng cường dự trữ
USD trong 7th đầu năm nhờ thặng dư thương mại tăng mạnh và giải ngân
vốn FDI giảm nhẹ. Thặng dư thương mại có thể tiếp tục tăng vì trong khi
DN e ngại nhập hàng để mở rộng KD thì XK có khả năng đi ngang. Ngoài
ra, mặc dù giải ngân đầu tư công 27% trong 7th sv cùng kỳ 2019, Chính
phủ mới hoàn thành 43% kế hoạch năm, phần còn lại của kế hoạch giải
ngân còn rất lớn và sẽ bổ sung vào cung tiền; (ii) Mặc dù Chính phủ đặt
mục tiêu TTTD 2020 từ 9-10% nhưng nhu cầu tín dụng sẽ không cải
thiện nhiều trong thời gian còn lại của năm do nhu cầu tiêu dùng thấp ở
cả nội địa và các thị trường XK chính sẽ hạn chế DN XD hoặc mở rộng
quy mô SX. Hơn nữa, nhu cầu tín dụng trong BĐS ở mức thấp. Trong khi
4
nguồn cung căn hộ tại Hà Nội và Tp.HCM giảm sv cùng kỳ thì tỷ lệ hấp
thụ cũng giảm. Bức tranh BĐS trong vài tháng tới sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng
bởi lo ngại về Covid-19 và thiếu vắng sự tham gia của người nước ngoài.
Trong bối cảnh nền KT đang dồi dào thanh khoản, các kênh đầu tư còn
hạn chế. Đối với BĐS, mặc dù giá căn hộ cho thuê đã giảm gần đây
nhưng giá trung bình tại Hà Nội và Tp. HCM vẫn tăng nhẹ. Trong khi đó,
mặc dù giá vàng trong nước đã tăng mạnh sau 7th và vượt trội sv hầu hết
các tài sản khá, nhưng những thông tin gần đây về tiến độ phát triển vắc-
xin có thể khiến giá vàng đảo chiều. Đối với trái phiếu, Nghị định mới về
phát hành TPDN sẽ có hiệu lực vào tháng 9 sẽ hạn chế việc phát hành
TPDN mới trong Q.IV do khoảng cách giữa 2 đợt phát hành liên tiếp là
6th. NĐT cá nhân đã tham gia tích cực vào thị trường TPDN với tỷ lệ sở
hữu 27% tổng số TPDN lưu hành trong 6th đầu năm 2020, tăng từ mức
9% sv 2019. Đối với tài sản thu nhập cố định khác, NH đã hạ LS huy
động do thanh khoản trong hệ thống NH dư thừa do TTTD chậm.
5
Mục tiêu kim ngạch XK tăng
5%/năm giai đoạn 2021-2025
Bộ Công Thương đã XD BC Kế hoạch phát triển KTXH 2021-2025 đối
với ngành Công Thương bằng nhiều mục tiêu và giải pháp đồng bộ. XK
hàng hóa là 1 trong những điểm sáng của hoạt động KT cả nước nhiều
năm qua, đóng góp tích cực cho tăng trưởng GDP. Kim ngạch XK hàng
hóa 2016-2019 đã tăng từ 176,58 tỷ USD trong 2016 lên 264,27 tỷ USD
vào 2019. Từ 2017, XK BQ đầu người bắt đầu vượt mục tiêu đề ra trong
Chiến lược XNK hàng hóa 2011-2020 (đạt 2.552 USD sv mục tiêu 2.000
USD). Trong 2016-2019, cơ cấu hàng hóa XK đã đảm bảo đúng mục tiêu
đề ra tại Chiến lược XNK hàng hóa 2011-2020, định hướng đến 2030.
Trong đó, nhóm hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng trên 80%; nhóm nông
- thủy sản chiếm trên 10% và nhóm nhiên liệu khoáng sản chỉ còn chiếm
hơn 1%. Bên cạnh đó, hàng hóa đã khai thác tốt các thị trường truyền
thống và tìm kiếm, phát triển các thị trường mới. Nhờ các FTAs được ký
kết, VN đã XK hàng hóa đến hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
đó, nhiều thị trường có y/c cao về chất lượng như EU, Nhật, Mỹ… Năm
2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, XK gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
ở các thị trường NK truyền thống. Tuy nhiên, kim ngạch XK 7th vẫn đạt
145,79 tỷ USD, 0,2% sv cùng kỳ và dự kiến cả năm 2020 duy trì mức
độ tăng trưởng dương. Do vậy, khả năng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng XK
2016-2020 đạt trên 10%. Trước KQ đạt được, 2021-2025 phấn đấu tốc
độ tăng trưởng XK hàng hóa BQ từ 5%/năm, kim ngạch XK đạt #340 tỷ
USD vào 2025; tốc độ tăng trưởng XK hàng hóa của DN trong nước
5%; trong đó, XK sang thị trường châu Âu-châu Mỹ tăng trưởng trung
bình 7-10%/năm. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực
của XK hàng hóa với tỷ trọng trong tổng kim ngạch tăng lên 85,3% và tỷ
trọng nhóm nhiên liệu, khoáng sản giảm xuống còn 1,15% vào năm 2025
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam
năm 2020 sẽ quanh ngưỡng 2%
Theo dự báo của CTCK Rồng Việt, trong bối cảnh các trụ cột chính của
KT đều sụt giảm mạnh, tăng trưởng KT VN 2020 sẽ quanh ngưỡng 2%
khi các đợt bùng phát dịch bệnh đang kéo lùi đà hồi phục KT. VN và các
nền KT mới nổi, đang phát triển (EMDEs) nói chung phải đối mặt với ‘cơn
bão lớn’, cụ thể là gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu, đơn đặt hàng XK sụt
giảm, giá hàng hóa lao dốc và dòng vốn đầu tư hạn chế. 6th cuối năm,
Kinh tế Việt Nam
6
sẽ có 1 số điểm sáng chính hỗ trợ cho tăng trưởng KT, đó là: (i) Thặng
dư thương mại dự báo đạt mức cao kỷ lục mới, đây là điểm tựa quan
trọng cho sự ổn định vĩ mô nói chung; (ii) XK sang EU dự kiến sẽ phục
hồi mạnh mẽ khi tỷ giá EUR/VND đang tăng cao và EVFTA đã có hiệu
lực từ đầu tháng 8; (iii) Chính phủ cam kết hỗ trợ sự hồi phục KT thông
qua thúc đẩy đầu tư công… Khủng hoảng y tế vẫn tiếp diễn, Chính phủ
phải cân nhắc lựa chọn chính sách. Về ngắn hạn, Chính phủ cần tìm sự
cân bằng giữa bảo vệ sức khỏe người dân và hoạt động KT. Bên cạnh
đó, việc cân đo đong đếm giữa biện pháp kích thích KT trong ngắn hạn
và sự ổn định vĩ mô dài hạn. Trong khi nguồn lực công rất hạn chế, nhu
cầu hỗ trợ KT đang rất lớn, đặc biệt là việc hỗ trợ đối với các tập đoàn KT
quy mô lớn. Về phía NHNN, câu hỏi quan trọng hiện tại liên quan tới việc
duy trì ổn định tài chính khi rủi ro NX gia tăng và tỷ lệ nợ/GDP của VN
thuộc top đầu KV. Rủi ro NX đang tích lũy nhanh chóng và sẽ sớm bộc
lộ ra ngoài, đặc biệt khi quy định cho phép cơ cấu thời hạn trả nợ và sắp
xếp nhóm nợ kết thúc. Cả 2 chỉ số đo lường khả năng vỡ nợ trong 1 năm
và mức độ tổn thương của DN VN đều thuộc nhóm đầu KV. 6th cuối năm,
CSTT sẽ mang tính trung hòa. Việc nới lỏng sẽ chậm dần, khi Dư
nợ/GDP của VN thuộc nhóm đầu KV. Bên cạnh đó, kỳ vọng có thêm 1
đợt cắt giảm LS điều hành dù áp lực lạm phát gia tăng. NHNN tiếp tục
y/c NHTM chia sẻ khó khăn với DN. Tuy nhiên, khó có khả năng nới lỏng
các quy định an toàn tài chính và đẩy mạnh TTTD đột ngột
Economist: Việt Nam nhiều triển
vọng thu hẹp khoảng cách với
các nước phát triển
Năm 2020 có thể là 1 năm rất khó khăn nhưng có thể được coi là năm
"hội tụ" theo các nhà KT học. Việc này diễn ra khi các quốc gia nghèo
tăng trưởng nhanh hơn các quốc gia giàu có, qua đó thu hẹp khoảng
cách thu nhập. Năm nay có thể khác biệt đôi chút. Hầu như không có thị
trường mới nổi nào đạt tăng trưởng – có thể trừ TQ, Ai Cập và VN. Tuy
nhiên, vì các nền KT tiên tiến có thể còn bị tổn hại nhanh hơn nữa nên
khoảng cách giữa các quốc gia sẽ được thu hẹp lại… Dựa trên mức năng
suất của 97 nền KT kể từ 2000 đến nay, World Bank đã xác định được 5
khối. 3 khối ảm đạm nhất gồm các quốc gia tương đối nghèo. Khối thứ 4
gồm 1 số quốc gia lớn chưa phát huy hết tiềm năng, gồm Argentina,
Brazil, Indonesia, Mexico và Nam Phi. Khối quốc gia thành công nhất
bao gồm tất cả các nền KT phát triển, cùng với 16 nền KT mới nổi gồm
có TQ, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan và VN. Các thành viên nghèo hơn có
xu hướng tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu hơn, ở tốc độ sẽ khiến
7
khoảng cách về năng suất giữa các quốc gia ½ sau mỗi 48 năm. Đại
dịch Covid-19 sẽ kìm hãm đầu tư, rút ngắn các chuỗi cung ứng và nuôi
dưỡng sự thiển cận, tất cả những yếu tố này đều có thể ngăn trở sự hội
tụ nhưng vẫn có điểm sáng. Ví dụ, những cơn khủng hoảng có thể thúc
đẩy các cải cách cơ cấu, sự thiếu bảo tồn các nguồn vốn lạc hậu trong
những thời kỳ đen tối có thể thúc đẩy sự thay thế bằng các công nghệ
mới hơn trong quá trình phục hồi. Những nhà tiên phong của học thuyết
hội tụ hiểu rằng một quốc gia không thể khai thác triệt để những tiến bộ
công nghiệp nếu họ cứ tiếp tục theo sát các mô hình SX và tiêu dùng
thông thường, hay còn được gọi là "phong tục tập quán". Vì vậy, chiến
tranh và các bất ổn chính trị có thể được coi là "trải nghiệm khai thông
cơ bản để mở đường cho những con người mới, tổ chức mới và phương
thức hoạt động mới". Những người lạc quan, những người mong chờ sự
hội tụ sẽ kéo dài hơn 1 năm đầy biến động này, cần phải giữ niềm tin
rằng đại dịch Covid-19 sẽ mở ra những cải cách mới cho các nền KT.
8
Chỉ số thương mại hàng hóa của
WTO chạm mức thấp kỷ lục
Theo WTO, thước đo thương mại hàng hóa đã chạm mức thấp kỷ lục,
cho thấy thương mại hàng hóa toàn cầu giảm xuống mức thấp nhất trong
Q.II khi đại dịch Covid-19 lan rộng. Thương mại và SX toàn cầu sẽ phần
nào hồi phục trong Q.III nhưng sự hồi phục này có mạnh hay không vẫn
là điều chưa chắc chắn. WTO cảnh báo 1 biểu đồ hồi phục hình chữ L,
thay vì hình chữ V như mong đợi, vẫn có nguy cơ xảy ra. Chỉ số thương
mại hàng hóa dừng ở mức 84,5, 18,6 điểm sv cùng kỳ 2019. Thông
thường, chỉ số này có thể dự báo thay đổi trong biểu đồ thương mại thế
giới trong vài tháng nhưng thời gian gần đây, những bất ổn do đại dịch
khiến giá trị dự báo của chỉ số này giảm. Đây là mức thấp nhất từng ghi
nhận trong hơn 1 thập kỷ qua và tương đương với mức được ghi nhận
trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Các số liệu tháng 6 chỉ ra
tỷ trọng thương mại hàng hóa Q.II 14% sv Q.I. Dựa trên ước tính này
cùng với mức điểm thước đo thương mại hàng hóa kể trên, có thể hiểu
rằng thương mại thế giới 2020 sẽ diễn biến theo kịch bản ít tiêu cực hơn
trong số 2 kịch bản mà WTO đưa ra trong dự báo hồi tháng 4.
FED tin cuộc khủng hoảng y tế sẽ
tác động nặng nề đến hoạt động
kinh tế, việc làm Mỹ
Biên bản cuộc họp bàn CSTT 28-29/7 vừa được FED công bố đã khiến
TTCK Mỹ mất 1 phần thành quả tăng điểm, lợi suất TPCP giảm và USD
tăng giá. Trong biên bản, FED cam kết giữ LS ngắn hạn gần mức 0% do
nền KT đang suy giảm tăng trưởng quá nhiều sv trước khủng hoảng. Biên
bản nhấn mạnh:“Các nhà quản lý thuộc FED đồng thuận rằng cuộc
khủng hoảng y tế công cộng đang diễn ra sẽ tác động nặng nề đến hoạt
động KT, việc làm và lạm phát trong ngắn hạn, đồng thời nó tiềm ẩn
nhiều rủi ro với triển vọng KT trong trung hạn”. FED đồng thuận v/v cần
thêm hỗ trợ tài khóa từ Quốc hội. Về tác động của Covid-19 lên nền KT,
các thành viên khẳng định họ có kế hoạch giữa LS cho vay qua đêm
trong ngưỡng 0-0,25% cho đến khi tự tin nền KT vượt qua nhiều khó khăn
và đang trong quá trình đạt được trạng thái việc làm và ổn định giá tối
đa. GDP Mỹ suy giảm 32,9% trong Q.II khi đại dịch khiến cho phần lớn
các hoạt động KT không cần thiết đóng cửa. Căng thẳng thương mại Mỹ-
Trung đã và đang có những tác động lên quá trình phục hồi của KT Mỹ.
Kinh tế Quốc tế
9
Trung Quốc thừa nhận nợ xấu
tăng vọt hàng trăm tỷ USD: Sức
ép đáng sợ "bóp nghẹt" hệ thống
tài chính?
Theo Chủ tịch UB Quản lý NH và Bảo hiểm TQ (CBIRC), các NH TQ sẽ
phải giải quyết khoản NX trị giá 3.400 tỷ CNY, #489,5 tỷ USD trong 2020.
Tổng số NX đã mức tăng mạnh từ 2.300 tỷ CNY của 2019 và NX dự báo
có thể còn tăng cao hơn vào 2021 sự gia tăng NX sẽ tạo ra sức ép rất
lớn lên NH, đặc biệt là NH nhỏ và NH KV."Do có nhiều khoản vay sẽ tới
hạn, 1 số vấn đề sẽ chỉ nổi lên vào năm sau". Xu hướng tồn đọng các
khoản NX là "không thể tránh khỏi" vì hoạt động KD của nhiều DN bị ảnh
hưởng nặng nề do đại dịch Covid-19. Các NH đã nhận được chỉ thị gia
tăng hỗ trợ cho DN nhỏ và khuyến khích NH đầu tư nhiều hơn vào TPDN.
TQ là 1 trong những nước đang duy trì tỷ lệ NX ở mức thấp nhất trên thế
giới. Tỷ lệ NX tại NHTM 0,03% trong Q.II lên mức 1,94% vào cuối tháng
6. Tuy nhiên, các khoản nợ xấu tiềm ẩn, khi tích lũy lại sẽ nhanh chóng
chiếm hết LN NH và xói mòn lượng vốn gốc. 6th đầu năm 2020, LN tổng
của các NH tại quốc gia tỷ dân lần đầu tiên giảm trong hơn 1 thập kỷ,
9,4% xuống mức 1.000 tỷ CNY. Tỷ lệ NX tại NHTM nông thôn là 4,22%.
Việc sáp nhập các NH nhỏ, thường do chính quyền địa phương quản lý,
đang diễn ra ngày càng phổ biến hơn. CBRIC đã cam kết bổ sung vốn
đăng ký của NH nhỏ, mở rộng phạm vi vốn để xử lý rủi ro và cải thiện
quản trị DN. “Quá trình cải cách các NH quy mô vừa và nhỏ là chìa khóa
để cải thiện tính ổn định và hiệu quả của nền tài chính TQ".
Lào: Nợ công tăng do ảnh hưởng
của Covid-19
Theo 1 BC gần đây, Chính phủ Lào cho biết, nợ công có thể 65-68%
GDP trong 2020, do thu NSNN giảm mạnh cùng với xu hướng gia tăng
các khoản vay trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Thu NSNN 2020 có thể
6.322 tỷ Kip, #696 triệu USD. Kim ngạch XK 6th đầu năm chỉ đạt 2,6 tỷ
USD,5,1% sv cùng kỳ 2019. Ngành chế biến và XD, 2 lĩnh vực đóng
vai trò then chốt đối với KT Lào, cũng đối mặt xu hướng giảm. Hoạt động
đầu tư đang thể hiện xu hướng giảm. 5th đầu năm, tổng giá trị các dự án
đầu tư được phê duyệt thông qua các chương trình nhượng quyền chỉ
đạt 151 triệu USD, giảm mạnh sv mức 2.383 tỷ USD cùng kỳ. Ngành du
lịch cũng được dự đoán tiếp tục gánh chịu tác động của đại dịch trong 6th
cuối năm. Do những hạn chế đi lại để ngăn chặn dịch bệnh lây lan, ngành
du lịch Lào chỉ đón 887.447 du khách trong 6th đầu năm, 60% sv cùng
kỳ 2019. Phát biểu tại Kỳ họp thứ 9, Thủ tướng Lào cho biết, GDP 2020
có thể 3,3-3,6% nhưng còn tùy mức độ ảnh hưởng của dịch Covid-19
với nền KT. Đa số chỉ tiêu Chính phủ Lào đã đề ra trước đây, đến nay
đều bị ảnh hưởng và nhiều khả năng không đạt như kỳ vọng.
10
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://cafef.vn/tien-gui-cua-doanh-nghiep-tai-ngan-hang-tang-manh-tro-lai-
20200819114056685.chn
https://cafef.vn/tien-gui-khong-ky-han-hoi-phuc-20200819073237388.chn
https://cafef.vn/thanh-khoan-doi-dao-nhung-cac-kenh-dau-tu-con-han-che-
20200819093315325.chn
Tin KT vĩ mô https://cafef.vn/muc-tieu-kim-ngach-xuat-khau-tang-5-nam-giai-doan-2021-2025-
20200819104928013.chn
https://vietstock.vn/2020/08/vdsc-tang-truong-kinh-te-viet-nam-nam-2020-se-quanh-nguong-2-
761-786443.htm
https://ndh.vn/quoc-te/economist-viet-nam-nhieu-trien-vong-thu-hep-khoang-cach-voi-cac-nuoc-
phat-trien-1274298.html
Tin KT quốc tế https://vietstock.vn/2020/08/chi-so-thuong-mai-hang-hoa-cua-wto-cham-muc-thap-ky-luc-775-
786822.htm
http://nhipsongdoanhnghiep.cuocsongantoan.vn/the-gioi/fed-tin-cuoc-khung-hoang-y-te-se-tac-
dong-nang-ne-den-hoat-dong-kinh-te-viec-lam-my-3550465.html
https://cafef.vn/trung-quoc-thua-nhan-no-xau-tang-vot-hang-tram-ti-usd-suc-ep-dang-so-bop-
nghet-he-thong-tai-chinh-20200819202944763.chn
https://vietstock.vn/2020/08/lao-no-cong-tang-do-anh-huong-cua-covid-19-1326-785658.htm
11
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
BH BH Khách hàng cá nhân KHCN
BH tiền gửi BHTG KT KT
BH y tế BHYT KT xã hội KTXH
BH thất nghiệp BHTN KT vĩ mô KTVM
BH xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
BH nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN NĐT NĐT
D NĐT nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT NX NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
12
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
SX SX Xuất nhập khẩu XNK
SX kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH VN VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu KT và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
TCTD TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
TP Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
TP DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển KT OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF