bÀi giẢng cÂy rau -...

180
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG CÂY RAU Người biên soạn: TS. Lê ThKhánh Huế, 08/2009

Upload: dangngoc

Post on 28-Apr-2018

225 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN

BÀI GIẢNG

CÂY RAU

Người biên soạn: TS. Lê Thị Khánh

Huế, 08/2009

Page 2: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

1

Bài 1 GIỚI THIỆU VỀ CÂY RAU

1. KHÁI NIỆM, GIÁ TRỊ CÂY RAU TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1. Khái niệ m Rau là cây hoặc phần có thể ăn được và thường là mọng nước, ngon và bổ được sử dụng như là món ăn chính hoặc đồ phụ gia để nấu hoặc ăn sống . Rau rất đa dạng và phong phú, do vậy khi khái niệm về “rau” chỉ có thể dựa trên công dụng của nó. Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mỗi người trên khắp hành tinh, đặc biệt khi lương thực và các loại thức ăn giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Vai trò của cây rau đã được khẳng định qua câu tục ngữ “cơm không rau như đau không thuốc”. Giá trị của rau được thể hiện nhiều mặt trong cuộc sống. 1.2. Giá trị dinh dưỡng - Rau là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thì nhu cầu tiêu thụ rau bình quân hàng ngày của mỗi người trên thế giới cần khoảng 250-300g/ngày/người tức 90-110kg/người/năm. Rau cung cấp cho cơ thể con người các chất dinh dưỡng quan trọng như các loại vitamin, muối khoáng, axit hữu cơ, các hợp chất thơm, cũng như protein, lipit, chất xơ, vv...Trong rau xanh hàm lượng nước chiếm 85-95%, chỉ có 5-15% là chất khô. Trong chất khô lượng cacbon rất cao (cải bắp 60%, dưa chuột 74-75%, cà chua 75-78%, dưa hấu 92%). Giá trị dinh dưỡng cao nhất ở rau là hàm lượng đường (chủ yếu đường đơn) chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần cacbon. Nhờ khả năng hoà tan cao, chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu, tăng tính hoạt hoá trong quá trình ôxy hoá năng lượng của các mô tế bào. Một số loại rau như khoai tây, đậu (nhất là đậu ăn hạt như đậu Hà Lan, đậu Tây), nấm, tỏi cung cấp 70 - 312 calo/100g nhờ các chất chứa năng lượng như protit, gluxit. - Rau là nguồn cung cấp vitamin phong phú và rẻ tiền:

Rau có chứa các loại vitamin A (tiền vitamin A), B1, B2, C, E và PP vv... Trong khẩu phần ăn của nhân dân ta, rau cung cấp khoảng 95 - 99% nguồn vitamin A, 60 - 70% nguồn vitamin B (B1, B2, B6, B12) và gần 100% nguồn vitamin C.

Vitamin có tác dụng làm cho cơ thể phát triển cân đối, điều hòa, các hoạt động sinh lý của cơ thể tiến hành bình thường. Thiếu một loại vitamin nào đó sẽ làm cho cơ thể phát triển không bình thường và phát sinh ra bệnh tật. Nếu ăn uống lâu ngày thiếu rau xanh ta thường thấy xuất hiện các triệu chứng như da khô, mắt mờ, quáng gà... do thiếu vitamin A; bệnh chảy máu chân răng, tay chân mỏi mệt, suy nhược do thiếu vitamin C; miệng lưỡi lở loét, viêm ngứa chủ yếu do thiếu vitamin PP; tê phù do thiếu

Page 3: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

2

vitamin B (chủ yếu là B1)...Ngoài ra thiếu vitamin làm giảm sức dẻo dai, hiệu suất làm việc kém, dễ phát sinh nhiều bệnh tật, khi mắc bệnh chữa cũng lâu lành. Trong lao động, công tác, học tập sinh hoạt hàng ngày mỗi người đều cần một lượng vitamin nhất định, nhu cầu vitamin hàng ngày mỗi người cần 100mg C trong đó 90% lấy từ rau quả. - Rau là nguồn cung cấp chất khoáng cho cơ thể

Rau chứa các chất khoáng chủ yếu như Ca, P, Fe, là thành phần cấu tạo của xương và máu. Những chất khoáng có tác dụng trung hòa độ chua do dạ dày tiết ra khi tiêu hóa các loại thức ăn như thịt, các loại ngũ cốc. Hàm lượng Ca rất cao trong các loại rau cần, rau dền, rau muống, nấm hương, mộc nhĩ (100- 357mg%). - Rau là nguồn cung cấp các dinh dưỡng khác Rau cung cấp cho cơ thể các axit hữu cơ, các hợp chất thơm, các vi lượng, các xellulo (chất xơ) giúp cơ thể tiêu hoá thức ăn dễ dàng, phòng ngừa các bệnh về tim mạch áp huyết cao. Ngoài ra nhiều loại rau còn chứa các kháng sinh thực vật như Linunen, Carvon, Pinen ở cần tây, allixin ở tỏi, hành có tác dụng như một dược liệu đối với cơ thể. Bởi vậy nhu cầu ăn rau ngày càng cao ở tất cả mọi người. Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thì mức tiêu dùng rau tối thiểu cho mỗi người cần 90 -110 kg/năm tức 250-300 g/người/ngày.Liên hệ với các nước phát triển có đời sống cao đã vượt quá xa mức quy định này: Nam Triều Tiên: 141,1 kg; Newzealands: 136,7 kg. Hà Lan lên tới 202 kg/người/năm. Ở Canada mức tiêu thụ rau bình quân hiện nay là 227 kg/người/năm. Xu hướng các nước phát triển là để cải thiện đời sống nhân dân cần tăng tỷ lệ thịt, trứng, sữa, rau, quả. Ở nước ta, do đời sống chưa cao, nhu cầu về rau ngày càng tăng nhưng so với các nước thì sản lượng bình quân trên đầu người vẫn còn thấp. Tiêu thụ rau nhiều chủ yếu ở các thành phố lớn nhưng năm 2000 trở lại đây mức tiêu thụ tăng lên xấp xỉ nhu cầu bình quân của thế giới: Năm 2005 cả nước có dân số 88 triệu người, phấn đấu bình quân nhu cầu tiêu thụ 96,3 kg/người/năm, tức khoảng 263,8 g/người/ngày. Phấn đấu đến năm 2010 mức tiêu thụ105,9 kg/người/năm tức 290,1 g/người/ngày với dân số chừng 95,8 triệu người. 1.3. Giá trị kinh tế - Rau là một mặt hàng xuất khẩu giá trị và có ý nghĩa chiến lược Rau là cây trồng đem lại nhiều lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế quốc dân đáng kể, ngoài ra rau còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Trong những năm gần đây thị trường xuất khẩu rau được mở rộng, năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 329.972 ngàn USD.

Các loại rau chính xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là dưa chuột, cà chua, cà rốt, hành, ngô rau, đậu rau, ớt cay, nấm... trong đó dưa chuột và cà chua có nhiều triển vọng và chúng có thị trường xuất khẩu tương đối ổn định. Thị trường xuất khẩu rau chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Australia, Singapore, Hàn Quốc, Mỹ..và các nước châu Âu. Hàng năm lượng rau được xuất khẩu rất nhiều cả

Page 4: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

3

dạng rau tươi và qua chế biến như rau đóng hộp, rau gia vị, rau muối...trong đó rau tươi là hơn trên 200.000 tấn/năm.

Bảng 1: Thị trường xuất khẩu rau quả tháng 4 và 4 tháng năm 2005 Thời gian Thị trường

Tháng 4/2005 (USD) 4 tháng năm 2005 (USD)

Trung Quốc 5.208.971 15.359.231 Nhật Bản 2.905.127 10.741.899 Đài Loan 2.055.040 6.824.588

Nga 1.316.290 4.773.691 Indonesia 1.178.316 4.233.744

Mỹ 998.720 4.112.364 Hàn Quốc 786.192 2.598.249

Hà Lan 656.111 2.170.692 Pháp 500.743 2.048.384

Singapore 489.692 1.785.933 Malaysia 466.616 1.538.967

Đức 308.694 1.426.445 Brazin 245.157 1.331.510

Arập Thống nhất 303.166 1.136.787 (Nguồn: tổng cục Hải Quan Việt Nam 2006) - Rau là nguyên liệu của ngành công nghiệp thực phẩm

Những loại rau được sử dụng trong công nghiệp chế biến xuất khẩu dưới dạng tươi, muối, làm tương, sấy khô, xay bột... công nghệ đồ hộp (dưa chuột, cà chua, ngô rau, măng tây, nấm...), công nghiệp bánh kẹo (bí xanh, cà rốt, khoai tây, cà chua...), công nghiệp sản xuất nước giải khát (cà chua, cà rốt...), công nghiệp chế biến thuốc dược liệu (tỏi, hành, rau gia vị), làm hương liệu (hạt ngò (hạt mùi), ớt, tiêu....). Đồng thời cũng là loại rau dự trữ được sử dụng trong nội địa. - Rau là nguồn thức ăn cho gia súc Với chăn nuôi gia súc, gia cầm, rau giữ vai trò khá quan trọng: 1 đầu lợn tiêu thụ 1 ngày 2- 3kg rau, trong đó có 50 - 60% loại rau dùng cho người: rau muống, bắp cải, su hào, dền, mồng tơi, rau ngót, rau đậu, lang. Trung bình 9kg rau xanh thì cho 1đơn vị thức ăn và 100g đạm tiêu hóa được. Rau thường chiếm 1/3 - 1/2 trong tổng số đơn vị thức ăn giành cho chăn nuôi, vậy muốn đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính phải tính toán vấn đề sản xuất rau và các loại rau có giá trị dinh dưỡng cao. - Trồng rau sẽ phát huy thế mạnh của vùng, tăng thu nhập hơn so với một số loại cây trồng khác

Page 5: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

4

Cây rau dễ trồng, lại có thời gian sinh trưởng ngắn nhưng cho năng suất cao, có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, tận dụng được đất đai, thời tiết khí hậu, công lao động nông nhàn, quay vòng đồng vốn nhanh, có thể chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mang lại lợi nhuận cao so với một số cây trồng khác cũng trồng trên chân đất ấy. Sản xuất rau là ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất 1 ha rau gấp 2 - 3lần một ha lúa. Từ 2003 đến nay, ngành nông nghiệp phấn đấu thu nhập 50 triệu/ha/năm, thì cây rau có thể thu được giá trị sản xuất 70-100 triêụ đồng/ha/năm. Tại vùng chuyên canh rau Hà Nội (2002-2004) theo mô hình trồng rau ngoài đồng 4 vụ thu nhập bình quân 76-83 triệu đồng/ha/năm, trong nhà lưới 124 -153 triệu là mức có thu nhập cao so với 26,8 triêụ/ha bình quân của ngành trồng trọt. Nông dân trồng rau có xu hướng tạo thu nhập cao hơn nông dân trồng cây khác vì năng suất và giá trị của cây rau cao hơn một cách đáng kể. Vì vậy đây là điều kiện thuận lợi để người nông dân đầu tư mở rộng diện tích trồng rau.

Thuỷ Châu (Hương Thuỷ - Thừa Thiên Huế) trong vụ Hè - Thu 2006 khi chuyển đổi cơ cấu cây trồng lúa (đất lúa cưỡng) sang trồng dưa hấu thì 1 sào dưa hấu (500m2) thu hoạch 1 tấn quả thương phẩm, giá bán sỉ 1500đồng/kg, thu được lãi 1.500.000 đồng. Cũng trên chân đất ấy trồng lúa thu được 200kg thóc, giá bán sỉ 3000đồng/kg, thu 600.000đồng/sào (tổng kết công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng của xã 2006).

Bảng 2: So sánh chi phí sản xuất và tổng thu nhập từ rau và lúa ở Đài Loan

Stt Cây trồng Chi phí sản xuất

(USD/ha) Năng suất

(tạ/ha) Tổng thu nhập

(USD/ha) 1 Lúa 7.663 5,6 399 2 Cà chua 16.199 60,1 4.860 3 Khoai tây 3.876 23,9 1.104 4 Cải canh 2.426 39,7 1.016 5 Súp lơ 4.411 23,9 1.836 6 Hành 6.421 59,5 4.196 7 Tỏi 6.834 9,5 5.677

(Nguồn: Cẩm nang trồng rau, Nxb Cà Mau, 2002) 1.4. Giá trị làm thuốc

Một số loại rau còn được sử dụng để làm thuốc, được truyền miệng từ đời này qua đời khác, đặc biệt cây tỏi được xem là dược liệu quý trong nền y học cổ truyền của nhiều nước như Ai Cập, Trung Quốc, Việt Nam... Dùng nhánh tỏi để chữa bệnh huyết

Page 6: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

5

áp cao và bệnh thấp khớp. Một số loại rau có tính trừ sâu như xà lách, một số loại rau lại có giá trị cho giá trị thẩm mỹ như ớt đỏ, dưa leo, cà chua, mướp đắng... 1.5. Ý nghĩa về mặt xã hội Vị trí cây rau trong đời sống - xã hội ngày càng được coi trọng nên diện tích gieo trồng và sản lượng rau ngày càng tăng. Ngành sản xuất rau phát triển sẽ góp phần tăng thu nhập, sử dụng lao động hợp lý, mở rộng ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động ở các vùng nông thôn, ngoại thành và các lĩnh vực kinh doanh khác như marketting, chế biến và vận chuyển. Ngoài ra ngành sản xuất rau còn thúc đẩy các ngành khác trong nông nghiệp phát triển như cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến... 2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN RAU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 2.1. Trên thế giới

Theo số liệu gần đây nhất, năm 2005 diện tích trồng rau trên thế giới khoảng 17.999.009 ha, năng suất đạt 138,829 tạ/ha, sản lượng đạt 249,879 triệu tấn. Số liệu từ bảng 3 cho thấy: nước có diện tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với 8.266.500 ha

Về sản lượng rau thì Trung Quốc vẫn dẫn đầu với 142 triệu tấn chiếm 56,82% tổng sản lượng rau thế giới. Sau Trung Quốc là Ấn Độ đạt 35 triệu tấn (chiếm 14%). Như vậy, chỉ riêng 2 nước Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm 70,82% tổng sản lượng rau toàn thế giới. Bảng 3.Tình hình sản xuất rau của một số nước trên thế giới năm 2005

Quốc gia Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (triệu tấn)

Toàn thế giới 17.999.009 138,829 249,879 Trung Quốc 8.266.500 171,790 142,000 Ấn Độ 3.400.000 102,941 35,000 Việt Nam 525.000 133,500 6,600 Philippin 500.000 88,000 4,400 Liên Bang Nga 207.000 162,802 3,370 Hàn Quốc 195.000 318,966 3,700 Brazil 195.000 115,385 2,250 Bănglađét 150.000 62,800 0,942 Thái Lan 145.000 162,802 1,005 Italy 144.000 180,556 2,600 Nhật Bản 110.000 280,412 2,700 Phần Lan 75.000 200,000 1,500 Hoa Kỳ 11.050 771,801 852,840

(Nguồn: Records Copyright FAO 2006)

Page 7: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

6

- Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới Trước nhu cầu rau càng tăng, một số nước trên thế giới đã có những chính sách

nhập khẩu rau khác nhau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều nhất thế giới là Pháp đạt 145,224 nghìn tấn; sau Pháp là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh (140,839 nghìn tấn); Đức (116,866 nghìn tấn). Trong khi đó, 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD); Canada (84.496 nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Nhật Bản (75.236 nghìn USD).

Nhiều nước trên thế giới ngày càng có nhiều chủng loại rau, tăng diện tích và năng suất để đáp ứng nhu cầu về rau xanh ngày một tăng. Theo FAO, dự báo thị trường rau của thế giới thì thị trường rau quả cung vẫn không đủ cầu. Thời kỳ 2000 - 2010 nhu cầu nhập khẩu rau quả của các nước trên thế giới sẽ tăng do mức tăng tiêu thụ rau quả bình quân, dự báo nhu cầu tăng 3,6% trong khi mức tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8%.

2.2. Ở Việt Nam - Hiện trạng sản xuất rau: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau cả năm 2006 là 644,0 nghìn ha, tăng 29,5% so với năm 2000 (452,9 nghìn ha). Năng suất đạt 149,9 tạ/ha; là năm có năng suất trung bình cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng rau cả nước đạt 9,65 triệu tấn, đạt giá trị 144.000 tỷ đồng (tương đương 900 triệu USD), chiếm 9% GDP của nông nghiệp Việt Nam, trong khi diện tích chỉ chiếm 6%. Với khối lượng trên, bình quân sản lượng rau sản xuất trên đầu người đạt 115 kg/người/năm, tương đương mức bình quân toàn thế giới và đạt loại cao trong khu vực, gấp đôi trung bình của các nước ASEAN (57 kg/người/năm). Kim ngạch xuất khẩu rau, quả và hoa cây cảnh trong 5 năm (2000 - 2004) đạt 1.222 triệu USD (bình quân mỗi năm đạt 224,4 triệu USD), trong đó khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu rau. Cả nước trồng hơn 80 loại rau thuộc 25 họ thực vật, trong đó có 25 - 30 loại rau chủ lực, có diện tích trên 10.000 ha (chiếm 73 - 75% diện tích và xấp xỉ 80% sản lượng). Có 2 vùng trồng rau chủ yếu ở nước ta hiện nay:

+ Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp với khoảng 40% diện tích, 38% sản lượng. Chủng loại rau rất phong phú (hơn 60 loài). Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho cư dân phi nông nghiệp nên yêu cầu về chất lượng (đa dạng chủng loại và mức độ an toàn sản phẩm) ngày càng gia tăng.

+ Vùng rau luân canh với 2 vụ lúa (vụ rau đông xuân), chiếm 60% diện tích và gần 2/3 sản lượng rau cả nước. Đây là vùng rau hàng hoá có năng suất và chất lượng cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, đặc biệt tại đồng bằng sông Hồng và tỉnh Lâm Đồng.

Page 8: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

7

Bảng 4. Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chủ lực năm 2004 Loại rau Diện tích

(ha) Năng suất (tấn/ha)

Sản lượng (tấn)

Cà chua 20.648 17,34 357.210 Dưa chuột 19.874 16,88 33.537 Dưa hấu 18.140 17,82 322.890 Đậu rau 7.681 6,87 52.760 Cải các loại 26.184 22,64 592.805 Hành tỏi 14.678 15,84 232.500

- Kim ngạch xuất khẩu rau: Theo số liệu thống kê chính thức của tổng cục Hải quan 2006: Năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả của Việt Nam 186,778 triệu USD trong đó rau là 115,32 triệu USD, tỷ trọng rau/rau hoa quả chiếm 62,00%, trong đó rau tươi chiếm 70-80% còn lại là rau chế biến

Kim ngạch xuất khẩu rau quả trong tháng 4/2005 đạt trên 24 triệu USD, tăng 63.88% so với tháng 4/2004. Trong đó, xuất khẩu sang hầu hết các thị trường đều tăng khá cao. Đặc biệt xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Hàn Quốc, Singapore tăng rất mạnh, với mức tăng trên 3 con số. Tuy vậy, xuất khẩu sang một số thị trường thuộc EU như Đức, Italia và sang Canada có xu hướng giảm. Tính chung 4 tháng đầu năm 2005, kim ngạch xuất khẩu rau đạt 80,4 triệu USD, tăng 64.28% so với cùng kỳ năm 2004. Trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc đạt cao nhất và tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm 2004, đạt gần 15,36 triệu USD, chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của cả nước và tăng tới 236.42% so với cùng kỳ năm 2004. Tiếp đến là Nhật Bản, đạt trên 10.47 triệu USD, tăng 82.65% . Việc xuất khẩu sang Nhật Bản tăng mạnh, một thị trường khó tính nhưng ổn định là một tín hiệu đáng mừng đối với xuất khẩu hàng rau quả của nước ta.

Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2004 và 04 tháng đầu năm 2005

Tháng Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)

Tháng Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)

1/2004 10,7 9/2004 14,8 2/2004 8,6 10/2004 13,4 3/2004 14,9 11/2004 15,4 4/2004 14,7 12/2004 26,8 5/2004 17,8 1/2005 1,5 6/2004 14,2 2/2005 21,6 7/2004 12,2 3/2005 24,1 8/2004 15,2 4/2005 24,0

(Nguồn: Vietnam net : 01/06/2005)

Page 9: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

8

Theo FAO 2006, thị truờng nhập khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trên thế giới vào năm 2005 : rau hoa quả 102.900.226.000USD, xuất khẩu của Việt Nam là 186.778.000 USD chiếm 0,2% tổng thị phần của thế giới. (FAO, http://unstats.un.org/unsd/default.htp). - Các nước nhập khẩu chính rau quả của Việt Nam: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Hồng Kông, Mỹ, Lào, Singapore, Pháp, Australia, Malaysia, Anh, Đức, Inđônêxia trong đó Trung Quốc chiếm 36,74% thị trường xuất khẩu của nước ta.

Tuy có nhiều loại rau xuất khẩu dưới dạng tươi khá phong phú nhưng nhìn chung, các loại rau xuất khẩu còn mang tính đơn điệu, nhỏ lẻ, số lượng ít, thiếu tính cạnh tranh. Phản ánh tình trạng sản xuất còn manh mún, mặt hàng chế biến rau cho xuất khấu còn ít,... đây là những điểm yếu cơ bản của xuất khẩu rau của Việt Nam hiện nay.

Đặc điểm của rau là có thời gian sinh trưởng ngắn nên trong một năm có thể bố trí nhiều lần trồng. Do đó trồng rau có tác dụng làm tăng hệ số sử dụng đất, tận dụng tốt đất vườn, đất ruộng mạ. Mặt khác, sản xuất rau phù hợp với sản xuất kinh tế hộ gia đình, tạo cơ hội việc làm cho vùng nông thôn, đặc biệt là lao động ven thành thị; tăng thêm thu nhập trên mỗi đơn vị sử dụng đất, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển. Theo kết quả của một số nghiên cứu gần đây cho thấy nếu bình quân 1 ha rau cho năng suất là 15 tấn thì giá trị kinh tế của rau lớn hơn 2,8 lần so với trồng lúa hoặc 1,8 lần so với trồng đay ở miền Bắc.

2.3. TÌNH HÌNH PHÂN BỐ RAU Ở NƯỚC TA Các vùng trồng rau lớn của cả nước bao gồm các tỉnh phía Bắc thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Phía Nam, các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cữu Long như Tân Hiệp - Tiền Giang, Châu Thành - Cần Thơ, Vĩnh Châu - Sóc Trăng. Miền trung và tây Nguyên gồm vùng rau truyền thống như Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng (Lâm Đồng), các tỉnh duyên hải miền Trung . Cả nước trồng hơn 80 loại rau thuộc 25 họ thực vật, trong đó có 25 - 30 loại rau chủ lực, có diện tích trên 10.000 ha (chiếm 73 - 75% diện tích và xấp xỉ 80% sản lượng). Có 2 vùng trồng rau chủ yếu ở nước ta hiện nay: - Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp với khoảng 40% diện tích, 38% sản lượng. Chủng loại rau rất phong phú (hơn 60 loạiư). Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho cư dân phi nông nghiệp nên yêu cầu về chất lượng (đa dạng chủng loại và mức độ an toàn sản phẩm) ngày càng gia tăng. - Vùng rau luân canh với 2 vụ lúa (vụ rau đông xuân), chiếm 60% diện tích và gần 2/3 sản lượng rau cả nước. Đây là vùng rau hàng hoá có năng suất và chất lượng

Page 10: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

9

cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, đặc biệt tại đồng bằng sông Hồng và tỉnh Lâm Đồng.

Phía Bắc diện tích trồng rau chiếm trên 50% tổng diện tích trồng rau của cả nước. Tuy nhiên, năng suất rau trồng ở các tỉnh phía Bắc thấp hơn các tỉnh phía Nam, do các tỉnh này trồng nhiều loại rau ăn lá có năng suất cao hơn. Do điều kiện sinh thái thích hợp với cây rau và nhu cầu tiêu dùng của xã hội nên rau nước ta thường được sản xuất tập trung chủ yếu là hai vùng có sản lượng lớn. - Vùng rau luân canh trên đất 2 vụ lúa và các cây trồng khác

Diện tích khoảng 241.000ha - chiếm 65,3% diện tích, sản lượng 3,05 triệu tấn - chiếm 63% tổng sản lượng của cả nước. Vùng rau này chia thành hai vùng theo mục đích xuất khẩu và tiêu dùng tại chỗ.

+ Vùng rau hàng hoá lớn: thuộc Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ Ưu thế của vùng này là sản xuất rau trên đất 2 vụ lúa. Tỷ trọng rau ở khu vực này

khá lớn, chiếm 43,6% về diện tích và 46,2% về sản lượng rau của cả nước. + Vùng rau phục vụ cho nhu cầu tại chỗ gồm miền núi phía Bắc và Khu 4 cũ,

vùng Duyên hải miền Trung và một số tỉnh Tây Nguyên Cây rau ở đây được luân canh trên đất màu, cây lương thực, cây công nghiệp (ngô,

lạc, đậu tương), chủ yếu là rau Đông Xuân. Ngoài 2 vùng trên, còn có gần 12 triệu hộ ở nông thôn, bình quân mỗi hộ có từ 35-

40 m2 , diện tích gieo trồng ở vùng này tới 4000 ha, sản lượng có khoảng 400-500 ngàn tấn. - Vùng rau chuyên canh tập trung (Đà Lạt và TP Hồ Chí Minh)

Diện tích: 130.000 ha, sản lượng 1,78 triệu tấn. Diện tích gieo trồng chiếm 34,7% và sản lượng chiếm 37% tổng sản lượng rau cả nước. Sản xuất rau chủ yếu là phục vụ nội vùng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Phân bố vùng trồng rau hàng hoá và rau chuyên canh ở nước ta bao gồm:

+ Vùng trung du và Đồng bằng Bắc Bộ Ở đây trồng được nhiều chủng loại rau có nguồn gốc ở vùng ôn đới như cải bắp,

su hào, hành tây, tỏi tây, xà lách, su hào, là vùng có điều kiện sản xuất rau trên diện tích lớn và tập trung. Sản lượng rau hàng hoá chiếm tỷ trọng cao trong cả nước. Khả năng xuất khẩu rau của vùng Đồng bằng sông Hồng là rất lớn, ngoài năng lực thoả mãn nhu cầu nội tỉnh còn lưu thông rau hàng hoá ra nội vùng.

+ Vùng rau Lâm Đồng: Vùng sản xuất rau hàng hoá tập trung chủ yếu ở Đà Lạt diện tích: 11.500 ha, sản

lượng: 240,5 ngàn tấn chiếm 3,1% diện tích và gần 5% sản lượng rau của cả nước. Nhiệt độ bình quân hàng năm 180C, rất thích hợp cho các loại rau ôn đới phát triển. Đà Lạt còn là vùng sản xuất hạt giống rau tốt.

+ Vùng rau thành phố Hồ Chí Minh và phụ cận

Page 11: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

10

Diện tích: 12.000ha, hàng năm thành phố xuất khẩu khoảng từ 500 -1000 tấn rau sang thị trường Hồng Kông, Thái Lan, Hàn Quốc.

+ Vùng Đồng bằng sông Cửu Long Diện tích : 71.000 ha, sản lượng 958,8 ngàn tấn. Ở vùng nay một số tỉnh có diện

tích và sản lượng rau lớn và có rau xuất khẩu ra nước ngoài như: An Giang, Tiền Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng với diện tích lên tới 521.000ha, sản lượng 719.400 tấn chiếm gần 73% về diện tích và 75% sản lượng rau của cả vùng.

Điều kiện thời tiết của vùng Đồng bằng sông Cửu Long thích nghi cho nhiều loại rau sinh trưởng và phát triển, một năm có thể trồng tới 5 - 6 vụ. Đặc sản của vùng này là dưa hấu, dưa chuột (dưa leo), ngô rau, cải bắp, cà chua là những loại rau cho hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra ở đây còn có những vùng chuyên sản xuất hạt giống rau muống, hạt giống rau xà lách để xuất khẩu sang Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản, Philippin với sản lượng khá cao. - Một số chủng loại rau phân bố thành vùng trồng thích nghi theo vùng sinh thái

Vùng trồng cải bắp: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên. Vùng trồng hành tây: Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phan Rang. Vùng trồng tỏi ta: Hải Dương, Bắc Giang, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Vùng trồng khoai tây: Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang. Vùng trồng dưa hấu: Kiên Giang, Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bình Định, Quảng Nam và Hưng Yên. Vùng trồng cà chua: Hà Nội, Hải Hưng, Hải Phòng, Hà Tây. Vùng trồng ớt: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang. Vùng trồng tiêu: Quảng Bình, Quảng Trị, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Phú Quốc. Vùng sản xuất hạt giống rau: Đồng Văn, Mèo Vạc, Sapa, Đà Lạt.

- Ở miền Trung và Thừa Thiên Huế Trong quá trình phát triển các tỉnh miền Trung, Thừa Thiên Huế đã xuất hiện nhiều

vùng trồng rau chuyên canh mới, không ngừng đổi mới về tiến bộ kỹ thuật, giống mới..., vì vậy năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên. Mỗi tỉnh đều có vùng rau chuyên canh, rau an toàn tập trung quanh thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp và khu du lịch cũng như sản xuất hàng hóa trao đổi buôn bán sang các tỉnh bạn và các quốc gia khác. - Thanh Hóa: Sản xuất rau chủ yếu ở các huyện Nga Sơn, Hoàng Hóa, Quảng Xương, Thọ Xuân, TP. Thanh Hóa - Nghệ An: TP. Vinh, Hưng Nguyên, Diễn Châu Hà Tĩnh: Thạch Hà, Đức Thọ, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên

Page 12: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

11

Quảng Bình: Đồng Phú - Đồng Hới, Cửa Phú, Võ Ninh, Gia Ninh, Hà Thôn (Quảng Ninh), Hồng Thủy, Sen Thủy - Lệ Thủy Quảng Tri: Có vùng rau chuyên canh tập trung như An lạc - thị xã Đông Hà, Nại Cửu, Liên Giang - Triệu Phong, Hải Thọ - Hải Lăng Đà Nẵng: các vùng rau lớn thuộc huyện Hòa Vang (diện tích 25ha, tập trung Hòa Thọ, Hòa Phong, Hòa Phát, Hòa Phước, Hòa Tiến); quận Sơn Trà (diện tích khoảng 23ha, tập trung ở phường Phước Mỹ, Thọ Quang); Quận Ngũ Hoành Sơn (diện tích 24ha, tập trung ở phường Bắc Mỹ An, Hòa hải, Hòa Quý) Quảng Nam: Vùng rau tập trung ở thị xã Hội An, Tam Kỳ, Thăng Bình Quảng Ngãi: Vùng rau lớn nhất là thị Xã Quảng Ngãi, Mộ Dức, Đức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa. Thừa Thiên Huế:

+ Vùng rau truyền thống tại một số phường, xã thuộc thành phố Huế: Phường Tây Linh, Thuận Lộc, Tây Lộc, Kim Long, Hương long, Hương An, Quảng Vinh

+ Vùng sản xuất rau phụ cận thành phố Huế: có diện tích trung bình 30 - 45 ha (Xã Hương Xuân, Hương An, Hương Chữ (Hương Trà), xã Điền Lộc, Điền Môn, Điền Hoà, Điền Hải (Phong Điền), Xã Quảng Thành, Quảng Thọ, Quảng An, Quảng Lợi ( Quảng Điền).

3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH SẢN XUẤT RAU NƯỚC TA 3.1. Sản xuất rau là một ngành sản xuất sản phẩm có tính chất hàng hóa cao Rau luôn luôn đòi hỏi non, ngon, tuơi, không sâu bệnh, thẩm mỹ hàng hóa cao. Vì vậy các khâu sản xuất từ thời vụ đến chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch, vận chuyển phải kịp thời, liên quan nhiều đến các ngành khác: giá cả, thu mua, kế hoạch, phân phối... 3.2. Rau yêu cầu công lao động cao, kỹ thuật cao và tỷ mỉ Đặc điểm của cây rau là bộ rễ nhỏ yếu, thân lá non, mềm, khả năng chống chịu điều kiện ngoại cảnh yếu, nên phải chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên. Hệ số quay vòng cao (trung bình 3 - 5 vụ/năm) nên cần nhiều công lao động/đơn vị diện tích. Thời vụ trồng khẩn trương, đòi hỏi phân bón nhiều, cần nhiều thiết bị như nhà lưới, phòng điều hòa nhiệt độ, thiết bị tưới tự động, định giờ, PE, làm giàn, thiết bị che chắn nắng, mưa, sương muối. 3.3. Rau có thể luân canh, xen canh, gieo lẫn Rau trồng có nhiều loại: cao cây, thấp cây, rễ ngắn, rễ dài, loại ưa sáng mạnh, loại ưa sáng yếu, thời gian sinh trưởng dài ngắn khác nhau và yêu cầu khác nhau về dinh dưỡng. Trồng như vậy để tận dụng không gian và thời gian, tăng sản lượng/đơn vị diện tích, tăng hiệu quả kinh tế đồng thời cải tạo đất, hạn chế sâu bệnh.

Page 13: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

12

3.4. Rau thường được thông qua thời kỳ vườn ươm Bộ rễ của cây rau có khả năng tái sinh tốt (trừ các loại đậu và rau ăn rễ củ), hạt nhỏ, cây con nhỏ, yếu ớt, rễ ăn nông nên cần tập trung gieo trên một diện tích nhỏ để có điều kiện bồi dục, chăm sóc cho bộ rễ khỏe, thân lá phát triển tốt, cứng cáp, đảm bảo tỷ lệ sống cao, sau này dễ thích nghi với ruộng đại trà. Đồng thời tranh thủ không gian và thời gian cho sản xuất. 3.5. Rau thường bị nhiều loại sâu bệnh gây hại. Ruộng rau là môi trường cho sâu bệnh phát triển tốt: trồng với mật độ dày, thâm canh cao, ruộng luôn luôn ẩm, thân lá rậm rạp. Bản chất cây rau do vách tế bào mỏng, hàm lượng chất dinh dưỡng cao, hàm lượng nước cao, trồng nhiều chủng loại liên tục, luân canh không triệt để, khả năng chống thuốc hóa học kém, đặc biệt có những bệnh lây lan hiểm nghèo (xoăn lá, thối nhũn). 3.6. Rau yêu cầu thời vụ nghiêm ngặt Rau là cây rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, nhất là điều kiện thời tiết khí hậu, yêu cầu bố trí thời vụ thích hợp, thu đúng thời vụ, thời điểm tiêu thụ: Ví dụ bắp cải trồng muộn không cuốn, su hào bị xơ, đậu cô ve trồng vụ Hè không ra hoa. 3.7. Rau có thể trồng trong điều kiện nhân tạo Rau có nhiều loại, nhiều biến chủng khác nhau, khối lượng thân lá, rễ nhỏ, chiếm chỗ không gian hẹp, thời gian sinh trưởng ngắn, có thể trồng trong điều kiện nhân tạo: rau sạch, rau trái vụ hay rau trong nhà kính, nhà ấm, hoặc dùng PE che phủ những nơi điều kiện thời tiết bất lợi như băng tuyết, quá lạnh cây không thể sinh trưởng được... 4. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH SẢN XUẤT RAU 4.1. Những thuận lợi tiềm năng - Là một ngành sản xuất truyền thống của nông nghiệp Việt Nam. Nông dân có kinh nghiệm, cần cù và sáng tạo. Nhân dân ta đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc, huấn luyện cây con, chống nóng, chống rét, trồng rau rải vụ, trái vụ... - So với các ngành trồng trọt khác, đây là lĩnh vực sản xuất có hiệu quả cao, nông dân trồng rau có thu nhập cao hơn hẳn trồng lúa và các cây lương thực khác. - Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, vị trí địa lý, lại có những nét độc đáo về khí hậu, địa hình phức tạp, chạy dài trên 15 vĩ độ, có sự chênh lệch về độ cao so với mặt biển. Do khí hậu đa dạng nên cũng đa dạng và phong phú các chủng loại rau. Rau trồng được quanh năm mà không qua nhân tạo, cho năng suất cao, phẩm chất tốt, giá thành hạ. Việt Nam có thể trồng được hầu hết các loại rau có trên thế giới, rau vụ đông xuân ở

Page 14: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

13

các tỉnh phía Bắc có lợi thế so sánh rõ rệt so với các nước sản xuất và xuất khẩu rau lớn của Châu Á và thế giới như Trung Quốc và Thái Lan. - Thị trường tiêu thụ rau xanh trong nước và thế giới ổn định và ngày càng tăng là cơ hội để ngành rau phát triển. - Lực lượng lao động dồi dào, tiếp thu nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới - Nhiều chính sách mới đã được ban hành và tiếp tục hoàn thiện trong thực tiễn, tạo hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi cho hoạt động, sản xuất kinh doanh rau phát triển - Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), kinh tế đối ngoại có nhiều cơ hội phát triển. Quan hệ giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới được thiết lập. Thị trường xuất khẩu rau và các sản phẩm chế biến từ rau ngày càng được mở rộng - Có đội ngũ cán bộ khoa học nghiên cứu về rau có trình độ, năng lực và nhiệt tình - Những kỹ thuật mới đang phát triển trong quá trình sản xuất rau: Trước hết là giống, nông dân đã có cơ hội sử dụng nhiều giống mới. Những giống chịu nhiệt, chịu mưa đã tạo nên những mùa vụ mới mà trước đây chưa từng có. Ví dụ nhờ có giống bắp cải, sup lơ chịu mưa, chịu nhiệt mà các loại rau này không còn là những loại rau độc tôn của vùng Đà Lạt nữa. Chúng đã được sản xuất ở vùng đồng bằng, nhiệt độ cao từ Quảng Nam, Đà Nẵng vào đến Cà Mau. Gần đây, các giống dưa hấu chịu mưa, cùng với các giống dưa hấu vụ truyền thống (vụ đông xuân) đã đem đến cho thị trường vị ngọt quanh năm. Các giống mới còn góp phần nâng cao năng suất, ước tính hơn giống cũ 15 - 20 %. Chủng loại rau mới: Những năm gần đây người tiêu dùng dần dần được thưởng thức sup lơ xanh, đậu cô ve xanh, bắp rau (ngô bao tử/baby corn) và một số loại rau đặc biệt khác như cà chua sơry (cherry) quả nhỏ, dùng ăn sống, bắp cải tím. Đa số các loại rau này được trồng tại vùng mát Lâm Đồng. Các tiến bộ kỹ thuật đáng chú ý là việc sử dụng nilon phủ luống, dùng nilon phủ luống là 1 biện pháp kỹ thuật mang lại nhiều lợi ích tổng hợp rất thiết thực. Các tỉnh áp dụng nhiều biện pháp này có Khánh Hoà, Tiền Giang, Đồng Tháp, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh. Việc sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu sinh học cũng là những nét mới góp phần làm tăng năng suất, sản lượng rau. Các biện pháp dùng nhà lưới để trồng rau sạch, rau an toàn, dùng vỉ để gieo ươm cây con cũng đã bắt đầu được sử dụng. Các tỉnh tiêu biểu áp dụng biện pháp này gồm Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long. Bắt đầu hình thành mô hình sản xuất gắn với chế biến xuất khẩu. Ví dụ một số địa phương như An Giang, Tiền Giang, Nông trường Sông Hậu, TP Hồ Chí Minh đã và đang từng bước sản xuất và chế biến ớt, bắp nhỏ, đậu nành rang. Trong tương lai gần, một nhà máy chế biến cà chua tại Lâm Đồng cũng sẽ được xây dựng.

Page 15: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

14

Các vùng sản xuất rau an toàn đang dần dần được hình thành, nhất là ven các thị xã, thành phố lớn. Tình hình nhiễm độc do rau đã giảm đáng kể. Trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, rau được coi là một trong những cây có vai trò quan trọng được chú ý phát triển để thay thế cây lúa ở những vùng đất ven đô thị. Một điểm đặc biệt là việc hình thành và phát triển các công ty sản xuất giống của Việt Nam hoặc của nước ngoài trên lãnh thổ phía Nam nước ta đã góp phần rất lớn trong việc cung cấp nhiều giống tốt cho ngành trồng rau nước ta. Đáng kể có công ty giống Cây trồng miền Nam, Công ty Đông Tây (hai mũi tên đỏ), công ty Known You, Công ty Xanh (Tropical) 4.2. Những tồn tại, yếu kém của ngành sản xuất rau - Nền sản xuất nhỏ, manh mún, diện tích nhỏ khó đầu tư và áp dụng những tiến bộ mới. Sản xuất rau từ xưa đến nay mang tính tự cung tự cấp cho thị trường nội địa, năng suất và đặc biệt chất lượng rau chưa cao. Vì vậy có rau mà không xuất khẩu được. Sản xuất rau hiện nay hoàn toàn tự do, trôi nổi theo thị trường, thiếu hẳn vai trò tổ chức và quản lý nhà nước. Vì thế thường có tình trạng sản xuất dư thừa, thị trường tiêu thụ không hết, nông dân phải bán rẻ, thậm chí có người bỏ mặc trên nuộng không muốn thu hoạch. - Năng suất rau còn thấp, chỉ bằng 87% so với trung bình toàn thế giới, tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch khá cao (20 - 30%). Sản lượng rau phân bố không đều. Nhiều khu vực còn thiếu về lượng, đơn điệu về chủng loại như các tỉnh miền núi, duyên hải Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Mức độ an toàn rau sản xuất ven thành phố và khu công nghiệp có chiều hướng suy giảm. - Tỷ trọng giống nước ngoài sử dụng trong sản xuất rất cao (trên 50%). Công tác nghiên cứu chọn tạo giống rau trong nước chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất. - Chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế so sánh về khí hậu và lao động để sản xuất rau cho xuất khẩu tại các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và tại Lâm Đồng. - Hệ thống cơ sở vật chất cho sản xuất, chế biến và bảo quản rau còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. - Sự phát triển nghề trồng rau chủ yếu tập trung vào các thành phố và khu công nghiệp, nên có sự chênh lệch về trình độ sản xuất, tiêu thụ giữa các vùng trong nước. - Rau không an toàn: Mặc dù tình hình ngộ độc do rau không còn nghiêm trọng như 3-4 năm trước đây nhưng mối đe doạ sức khoẻ cộng đồng vẫn còn nặng nề. Việc sử dụng nhiều hoá chất độc hại, không có thời gian cách ly an toàn. Thậm chí nhiều nơi đã dùng cả dầu nhớt thải (chứa chì và các chất độc hại khác) để trừ sâu cho rau muống. Việc trồng rau trên vùng đất, nước nhiễm bẩn, nhất là rau muống trên kênh rạch bẩn còn khá phổ biến.

Page 16: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

15

- Việc chuyển giao công nghệ trong sản xuất rau chưa được chú trọng và hiệu quả còn thấp. Các tiến bộ kỹ thuật thích hợp chậm được đánh giá, kết luận và nhân rộng. Công nghệ sau thu hoạch chưa được phát triển mạnh. Sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau vẫn chưa được chú ý đúng mức, nhất là việc tìm kiếm các thị trường xuất khẩu, công tác tiếp thị, thị trường còn hạn chế. - Xây dựng các vùng rau xuất khẩu là cả một chiến lược cho ngành trồng rau đầy tiềm năng của Việt Nam, nhưng vệc phát triển các giống có ưu thế lai trong sản xuất còn hạn chế, do vậy giá thành sản phẩm cao, từ đó kéo theo sự hạn chế trong sản xuất rau xuất khẩu. - Chưa chú trọng công tác quản lý nghề trồng rau và chất lượng sản phẩm, chưa cạnh tranh được trên thị trường trong khu vực và thế giới. - Công tác nghiên cứu về rau chưa được chú ý đầu tư đúng mức, có chiến lược, nhất là việc sản xuất rau hàng hoá xuất khẩu.

4.3. Một số trở ngại lớn trong việc phát triển rau có tính đặc thù ở miền Trung - Thời tiết khí hậu:

Nền nhiệt biến động lớn và lượng mưa lớn, phân bố không đều, thường xảy ra nhiều thiên tai, bão lụt, gây nhiều rũi ro cho sản xuất rau. Ví dụ Thừa Thiên Huế là Tỉnh có tổng nhiệt độ năm đạt từ 8.500 - 90000C. Lượng mưa trung bình năm đạt khoảng 2.800mm. Nhiệt độ và lượng mưa phân bố không đều trong năm. Mùa khô (vụ Hè - Thu) nhiệt độ trung bình tháng khoảng 25oC, có tháng nhiệt độ lên đến 28-29oC với thời gian kéo dài và đây cũng là những tháng ít mưa nhất trong năm nên đã gây ra tình trạng hạn hán kéo dài làm ảnh hưởng đến sản xuất rau xanh. Mùa mưa (vụ Đông - Xuân) có lượng mưa lớn (chiếm khoảng 66 -75% lượng mưa/năm) kết hợp với nhiệt độ và số giờ nắng thấp, gây ra tình trạng ngập úng, làm ảnh hưởng đến mùa vụ và sinh trưởng của các loại rau. Do đó trong sản xuất cần có biện pháp chống hạn, chống nóng cho rau trong mùa khô và chống úng, chống mưa to trong mùa mưa. - Đất đai: Đất đai phong phú về chủng loại có thể phát triển các loại rau xanh, nhưng nhìn chung các loại đất có độ phì thấp, nghèo dinh dưỡng, diện tích đất chua phèn, ngập mặn lớn, độ dốc lớn nên khả năng rửa trôi trong mùa mưa cao. Đặc điểm đất đai và địa hình cho thấy tuy diện tích đất nông nghiệp của các tỉnh lớn nhưng trong đó diện tích có thể phát triển cây rau chiếm tỉ trọng nhỏ, ngoài ra do địa hình dốc nên mùa mưa dễ bị rửa trôi ngập úng, mùa khô khả năng giữ nước kém, hạn hán nên trồng rau phải đầu tư cao dẫn đến lãi thấp. - Chủng loại:

Các loại rau trồng chưa đa dạng, chủ yếu nhóm rau ăn lá, những loại rau cao cấp có giá trị kinh tế cao còn hạn chế như: cà chua, ngô rau, dưa chuột, cải bắp, su hào các loại rau gia vị. Chưa có những giống rau thích ứng cho mỗi vùng, mỗi vụ cụ thể.

Page 17: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

16

- Sản xuất rau vùng ngoại ô: Dù có diện tích lớn hơn thành phố, tuy nhiên vùng này gặp một số khăn như sản xuất tự cung tự cấp, diện tích nhỏ, manh mún nên khó áp dụng các tiến bộ kỹ thuật cũng như khó hình thành vùng sản xuất tập trung, sản xuất hàng hoá. Thiếu kỹ thuật thâm canh cũng như công nghệ chế biến bảo quản một số loại rau cao cấp. Cơ sở vật chất đang còn nghèo nàn lạc hậu chưa tương xứng với tiềm năng của từng địa phương. Thiếu vốn đầu tư sản xuất. Đây là vấn đề cần có sự quan tâm đầu tư của các cấp chính quyền giúp người sản xuất mở rộng diện tích cũng như quy mô sản xuất. - Tiêu thụ rau: Thị trường tiêu thụ rau nhỏ lẻ, hạn chế đối với một số loại rau như rau cải, xà lách, đậu cô ve, bí xanh do đó đòi hỏi người sản xuất phải vận chuyển đi xa, làm ảnh hưởng đến tỉ lệ hao hụt cũng như về mặt thẩm mỹ của sản phẩm. Ngoài ra chất lượng và giá cả các loại rau vẫn chưa cao nên cũng ảnh hưởng đến sức mua và quy mô sản xuất. - Tập quán trồng: Người dân Miền Trung có tập quán trồng lúa lâu đời, do đó khi thay đổi cơ cấu chủng loại cây trồng ít có kinh nghiệm trong sản xuất, để giống, bảo quản giống. Quy mô sản xuất rau nhỏ nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Điều này đòi hỏi cần có những mô hình sản xuất đem lạ i hiệu quả thiết thực, từ đó có sự chuyển giao khoa học kĩ thuật cũng như quy trình sản xuất đến tận người dân. - Giống rau: có thể nói một trong những nguyên nhân lớn khiến năng suất suất rau của chúng ta chưa cao là do giống. Tỷ trọng giống tốt (gồm cả giống lai và giống thuần) chưa nhiều, có một số vấn đề khác như nhà nước không quản lý được việc đánh giá, công nhận và phổ biến giống. Việc giới thiệu, phổ biến giống tốt gần như tuỳ thuộc vào các công ty sở hữu giống. Nông dân có nơi bị nhiễu, có nơi bị thiếu thông tin, không biết giống nào tốt và thích hợp với vùng mình. - Biện pháp canh tác: Sử dụng giống mới trên nền kỹ thuật cũ hay nói cách khác là sự không đồng bộ cũng là một nguyên nhân làm năng suất rau không cao. Ví dụ, các giống lai, bản thân chúng có tiềm năng 30 - 40 tấn/ha nhưng bị đặt trong một điều kiện giống địa phương, gieo ươm cây con không cẩn thận, cây giống xấu, cỏ dại nhiều, không quản lý được sâu bệnh, bón phân không cân đối, hợp lý, mật độ không hợp lý, dàn leo hay choái cắm không chắc chắn v.v.. thì năng suất không thể cao được. Trong biện pháp canh tác có vấn đề về sử dụng phân bón. Nói chung việc sử dụng phân bón hiện nay dựa vào kinh nghiệm là chính với xu hướng coi trọng phân hoá học và lạm dụng phân đạm, phân kali ít được chú ý. - Sâu bệnh và vấn đề rau không an toàn: Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, rau bị nhiều sâu bệnh không những về số lượng mà còn nhiều về chủng loại. Việc sử dụng thuốc trừ sâu bừa bãi gây hiện tượng quen thuốc do đó sâu bệnh phát triển ngày càng mạnh hơn. Đây là 1 trong những vấn đề lớn của sản xuất rau Việt Nam. Do ở vào vùng nhiệt đới

Page 18: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

17

nóng ẩm, thích hợp cho sâu bệnh phát triển quanh năm nên trong sản xuất rau chúng ta gặp tất cả những loại sâu bệnh nguy hiểm đặc trưng của các vùng nhiệt đới. Đối mặt với sự tấn công của sâu bệnh, nông dân đã phải sự dụng nhiều loại thuốc hoá học, hoá chất ngày càng tăng và không ít trường hợp đã sử dụng thuốc cấm (như Methylparathion Methamidophos). Cùng với việc sử dụng thuốc có độ độc cao, liều lượng cao, nông dân còn sử dụng nhiều lần trong một vụ (trung bình từ 11-15 lần/vụ rau, không theo đúng quy trình hướng dẫn đến sâu bệnh “quen thuốc”. Tình trạng trên đã dẫn đến hậu quả là rau không an toàn. Trước hết với người tiêu dùng trong nước, hậu quả trước mắt và lâu dài là rất lớn. Sau nữa, rau như vậy không bao giờ xuất khẩu được. - Vấn đề sản xuất rau trái vụ: Trồng rau ở các tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng của hai mùa khí hậu: mùa mưa và mùa khô. Ví dụ ở miền Trung trong mùa khô, nhất là những tháng trong vụ Hè Thu (tháng 5-8) thời tiết nắng nóng, hạn hán. Ngược lại mùa mưa, nhất là những tháng trong vụ Đông Xuân (tháng 10 -12) thời tiết không thuận lợi, khó trồng. Đây là vụ trái (không thuận lợi) nên cần được đầu tư cao hơn chính vụ, áp dụng một số biện pháp kỹ thuật tiên tiến để giúp cây rau sinh trưởng, phát triển tốt, đảm bảo năng suất cao, chất lượng khá, cung cấp rau quanh năm cho thị trường (biện pháp chọn giống chịu nóng, chịu mưa, chịu sâu bệnh, làm mái che, nhà lưới, che lưới, phủ luống nilon 2 màu, kết hợp đồng bộ giữa tưới nước, bón phân và phòng trừ sâu bệnh) - Đặc điểm mùa vụ và sản lượng rau cung cấp cho thị trường: Mùa mưa: Nhiệt độ thấp hơn, có thể nói hầu hết các loại rau ôn đới và một số ít các loại rau nhiệt đới có thể trồng tốt, cho năng suất cao trong vụ Đông Xuân. Một số loại rau khác có thể trồng được nhưng cần phải có giống thích hợp như cà chua, cải xanh, hành, ngò. Đa số từng được trồng với giống địa phương, năng suất không cao. Mùa khô: Gần như không trồng được hoặc có trồng được thì năng suất thấp, chất lượng kém đối với rau ôn đới, hầu hết trồng rau nhiệt đới như mướp đắng, dưa leo, ớt, dưa, bầu bí. Một số loại rau ôn đới trồng được nhưng giá thành cao. Vì vậy, thường có hiện tượng mùa mưa rau dồi dào, mùa khô thì rau thiếu cả về số lượng lẫn chủng loại. 5. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN RAU 5.1. Công tác giống

- Chọn lọc và cải thiện nâng cao độ thuần của giống địa phương. - Chọn lọc và lai tạo giống rau có chất lượng cao, chống chịu khô hạn, chịu

nóng, có thể trồng được ở các loại đất thấp trũng và đất cao vùng đồi. - Nhập nội những hạt giống ở Miền Trung không sản xuất được do điều kiện thời tiết không phù hợp (bắp cải, su hào, cà rốt) và các giống lai F1 như dưa chuột, dưa hấu.

Page 19: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

18

- Từng bước tiến hành nghiên cứu, xây dựng các xí nghiệp chuyên sản xuất cung cấp giống, cây con sạch bệnh cho dân. 5.2. Tập trung sản xuất rau an toàn.

Tổng kết công tác nghiên cứu phát triển rau an toàn, rau sạch vừa qua. Mở rộng mô hình đã có kết quả, đa dạng các hình thức sản xuất rau an toàn, rau sạch từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ đơn giản đến hiện đại (kể cả nhà lưới, thuỷ canh...) 5.3. Tăng cường sản xuất rau trái vụ:

Rau mùa mưa, mùa khô những tháng khó khăn do thời tiết gây ra, cần được chú ý và phát triển để đảm bảo rau xanh ổn định cho thị trường. 5.4. Nâng cao chất lượng kỹ thuật của các biện pháp canh tác

- Nghiên cứu ứng dụng rộng rãi phủ nilon, rau có thiết bị che chắn, giàn che và các biện pháp tưới tiêu hiện đại.

- Nghiên cứu bón phân cân đối, hợp lý, có hiệu quả cho các loại đất chính trồng rau ở các vùng: Đất cát ven biển miền Trung, đất xám Củ Chi, đất đỏ miền Đông Nam Bộ, đất đen đồng bằng sông Cửu Long. 5.5. Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật, xây dựng và phát triển mô hình sau thu hoạch: Để giảm tổn thất, tăng chất lượng rau tươi, đa dạng hoá các sản phẩm rau chế biến. 5.6. Xây dựng dây chuyền sản xuất - chế biến - tiêu thụ Cần có sự phối hợp với các ngành, các cấp xây dựng những mô hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ hợp thành mạng lưới sản xuất rau trong cả nước. (Ví dụ: gần đây công ty của Nhật đã thu mua và sơ chế để bán cho các siêu thị tại TP Hồ Chí Minh hoặc hiện nay sản xuất bắp rau cung cấp cho nhà máy chế biến xuất khẩu ở An Giang). 5.7. Đẩy mạnh sản xuất rau xuất khẩu

Thời gian gần đây từ phía Nhà nước đã có những chuyển biến trong việc xác định rau là mặt hàng xuất khẩu quan trọng phải từng bước được đầu tư. Ví dụ mới có nhà máy chế biến cà chua xuất khẩu ở Hải phòng, dưa leo xuất khẩu Hải Dương, chế biến bắp và các loại rau khác ở An Giang và sắp tới là nhà máy chế biến cà chua ở Lâm Đồng. Công tác nghiên cứu khoa học về rau cũng được chú ý hơn. Đã có Viện Nghiên cứu Rau Quả ở Hà Nội, viện KHKTNN miền Nam, các trường đại học Nông Nghiệp. Miền Trung cũng rất cần một Viện nghiên cứu rau mới đáp ứng được đòi hỏi và tiềm năng mang sắc thái riêng của vùng.

Câu hỏi bài 1: 1. Vai trò và giá trị của cây rau trong cuộc sống?

2. Tình hình sản xuất trên thế giới và Việt Nam như thế nào? 3. Những đặc điểm chính của nghề trồng rau, những thuận lợi, khó

khăn và giải pháp nhằm phát triển rau ở Việt Nam?

Page 20: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

19

Bài 2 PHÂN LOẠI RAU

Phân loại rau thành hệ thống nhằm tạo điều kiện tốt cho công tác giảng dạy,

nghiên cứu khoa học, chọn giống, nhập nội giống và sử dụng giống trong sản xuất được thuận lợi. Có nhiều phương pháp phân loại, nhưng sau đây là 3 phương pháp chính của P. Mudappa và ctv 1996 và trung tâm nghiên cứu và phát triển rau châu Á (AVRDC)

1. DỰA VÀO PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI THỰC VẬT HỌC

Phương pháp này dựa vào các đặc điểm thực vật học của rễ, thân, lá, hoa, quả, hạt và quan hệ họ hàng giữa chúng mà phân loại thành bộ, họ, chi, loài, giống vv... có tên gọi thống nhất bằng tiếng Latin. Đây là phương pháp phân loại được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tiêu chuẩn chính để xác định mối quan hệ trong phân loại thực vật là dựa vào mối quan hệ giống nhau và khác nhau về cấu trúc hoa. Bộ Nông nghiệp Mỹ (Terrell et al. 1986) đã phân loại thực vật theo họ, chi và loài và tuân theo các quy luật quốc tế về thuật ngữ khoa học. Sự kết hợp của các chi hoặc loài lập thành danh sách tên khoa học của các loại rau được chấp nhận trên thế giới.Ưu điểm của phương pháp phân loại này là có thể tìm hiểu quan hệ về hình thái, họ hàng và có tên gọi thống nhất bằng tiếng Latin. Sự hiểu biết mối quan hệ này là cơ sở khoa học cho công tác chọn tạo và nhập nội giống.

Bảng 6: Danh sách một số loại rau có mặt trong đời sống và trên thị trường Việt Nam Tên Việt Nam Tên khoa học 1. Thực vật bậc thấp (thực vật hạ đẳng) 1- Họ nấm tán Agricaceae Nấm rơm Volvaria volvacea Fr. (V. esculenta ) Nấm mỡ Psalliota bisporus (P. campestri Fr.) Nấm hương Coritellus shiitake P. Hen 2 - Họ mộc nhĩ Auriculoria Nấm mộc nhĩ (nấm mèo) A. judae Shroter ( A.fidae Shroter) Nấm sò Pleurotus sajor- caju Thực vật bậc cao (thực vật thượng đẳng) Nhóm cây một lá mầm (đơn tử diệp) 1- Họ hòa thảo Poaceae/Gramineae Ngô rau (ngô bao tử) Zea mays L. var. saccharata Koern Ngô đường Zea mays L. subsp. mays

Page 21: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

20

Măng tre (bamboo) Phyllostachys sp. Măng mai Dendrrocalamus latifolius Munro. Sả (lemon grass) Cymbopogon citratus. 2- Họ hành tỏi Liliaceae Hành tây (onion): Allium cepa L. Hành ta/hành củ nhỏ (shallot) Allium ascalonicum L. Tỏi củ ta (garlic): A.sativum L Tỏi tây (leek): Allium porum L Tỏi củ ta (garlic): A.sativum L Hành tăm (ném) Allium cepa L. var. cepa Hành lá (bunching onion) Allium cepa var. aggregatum Hẹ (flower garlic): Allium schoenoprasum (Allium odorum L.) Kiệu (scallion) Allium bakeri Regel. Hành hoa (hành pirô -spring Onion)

A.fistulosum L.

Măng tây (asparagus) Asparagus officinalis L. 3- Họ ráy Araceae Khoai môn/khoai sọ (taro) Colocasia antiquorum (L.) Schott. Bạc hà/môn ngọt (dasheen) Alocasia odora Kocn. 4- Họ khoai (củ) Dioscoreaceae : Khoai ngọt (yam - củ tía) Dioscorea alata L. Khoai từ (lesser yam) Diocorea esculenta Burt. 5- Họ gừng Zingiberaceae Gừng (ginger) Zingiber offcinale Rosc Nghệ (turmeric) Curcuma domestica Val. Nhóm cây 2 lá mầm (song tử diệp) 1- Họ thập tự Cruciferae juss (Brassicaceae Burn) Cải bắp (cabbage) Brassica oleracea L. var. capitata L. Cải bắp nhánh (cải bixen, cải bắp chùm)

Brassica oleracea var. gemmifera DC.

Cải xoăn B. oleracea var. acephala DC. Cải thìa Brassica napus L. var. chinensis L. Cải bẹ trắng B. chinensis (L.) Cải bao (cải bẹ cuốn - chinese cabbage)

B. pekinensis (Lour.) Rupr.

Cải canh/cải xanh B. juncea L. Czenrnj. và cosson var. juncea Su lơ (cauliflower) Brassica oleracea var. botrytis L. Súp lơ xanh B. oleracea var. italica Plenck

Page 22: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

21

Cải xoong (xà lách xong - watercress)

Nasturtium officinale (L.)

Cải củ tròn (turnip) Brassica campestris var. rapa Cải củ (Radish) Raphanus sativus L. Cải canh B. juncea Su hào (kohrabis) Brassica oleracea var. caulorapa DC. Cải ngọt (pakchoi) B. integrifolia (O. B. Schultz) Cải làn B. oleracea var. Alboglabra 2- Họ cà Solanaceae Cà chua (tomato) Lycopersicon esculentum Mill Cà tím, cà trắng(eggplant) Solanum melongena L. Cà pháo Solanum melongena L. var. Depressum Bailey Cà bát Solanum melongena L. var. Esculentum Ness Ớt cay (hot pepper) Capsicum annuum L. var. annuum Ớt ngọt (sweet peper) C. frutescense L. Khoai tây (potato) Solanum tuberosum L. Ớt sừng trâu (quả to) C. baccatum var. Pendutum 3- Họ bầu bí Cucurbiraceae Dưa chuột (cucumber) Cucumis sativus L. Dưa hấu (water melon) Citrullus lanatus (Thunb) Matsum Dưa lê (sweet melon) Cucumis melo L. var. modorus. Dưa thơm/dưa hương/dưa lê Cucumis melo L. Bí đỏ/bí ngô (pumkin) Cucurbita pepo L. hoặc Cucurbita moschata

(Duchesne) ex. Poiret Bí đao (bí xanh quả dài -wax gourd)

Benincasa hispida (Thunb.) Cogn

Bí đao (quả tròn) Benincasa hispida Coqn Dưa gang (melon) Cucumis melo var. conomon Bí ngồi Cucurbita maxima Duchesne var. maxima Dưa bở Cucumis melo L. var. reticulatus Naud Bầu (bottle gourd) Lagenaria siceraria (Molina) Stanley Mướp (Luffa) Luffa acutangula (L.) Roxb. Mướp đắng (khổ qua - bitter gourd)

Momordica charantia L.

Mướp hương (long luffa) Luffa aegyptiaca Miller (syn.: Luffa cylindrica Roem)

Mướp khía (angled luffa) Luffa acutangula (L.) Roxb. Su su (Chayote) Sechium adule (Jacq) Sw. 4- Họ đậu Fabaceae (Leguminosae)

Page 23: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

22

Đậu co ve leo (snapbean-frenbean)

Phaseolus vulgaris L.

Đậu co ve lùn P. vulgaris var. humilis Alef Đậu trạch (hạt trắng) Phaseolus liensis Đậu Hà Lan (garden sugar pea) Pisum sativum L. subsp. sativum Đậu đũa (yarlong bean) Vigna unguiculata subsp. sesquipedalis (L.)

Verdc. Củ đậu (yam bean) Pachyrrhizus erosus (L.) Urban Đậu tương rau (Soybean vegetable)

Glycine max. (L.) Merr. (Phaseolus max. L.)

Đậu ván (hyacinth bean) Lablab purpureus (L.) Sweet Đậu ngự (đậu vằn) Phaseolus lunatus L. Đậu rồng (winged bean) Psophocarpus tetragonolubus L. Đậu xanh (green bean) Vigna radiata (L.) R. Wilczek var. radiata Đậu đen Vigna unguiculata (L.) Walp. Subsp.

unguiculata Đậu triều Cajanus cajan (L.) Huth 5- Họ họ hoa tán Apiaceae(Umbeliferae) Cần tây (celery) Apium graveolens L. Cần ta /cần nước(water celery) Oenanthe stolonifera Ngò thơm/mùi(coriander) Coriandrum sativum L Mùi tây/ngò tây Petroselinum crispum (Miller) Cà rốt (carrot) Daucus carota L. Thìa là/thì là (dill) Anethum graveolen L. Dulce Mill D.C 6- Họ họ cúc Asteraceae/Compositae Xà lách xoăn (curly lettuce) Cichorium endivia L. Xà lách (lettuce) Lactuca sativa L. Xà lách cuốn Lactuca sativa var. capitata Diếp Lactuca sativa secalina Alef Cải cúc/cúc tần ô (pyrethrum) Chrysanthemum cinerariaefolium Atisô (Artichaud - artichoke) Helianthus tuberosus L./Cynara scholymus L. 7- Họ bìm bìm Convulvulaceae Rau muống (water spinach) Ipomoea aquatica Forsskal Khoai lang(sweet potato) Ipomoea bataceae (L.) Lam Rau ngỗ lepidium sativum (Forsk) 8- Họ rau muối Chenopodiacea Cải chân vịt (rau cơm xôi) Spinacia oleraceae L. Củ cải đường Beta vulgaris L. subsp. vulgaris Củ cải ăn lá Beta vulgaris subsp. cicla (L.) Koch

Page 24: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

23

Củ cải ra đi Beta vulgaris 9- Họ rau dền Amaranthaceae Rau giền cơm Amaranthus v iridis L. Rau giền gai A.spinosus L. 10- Họ mồng tơi Basellaceae Mồng tơi tím (climbing spinach) Basella rubra L. Mồng tơi xanh (malabar spinach) Basella alba L. 11- Họ hoa môi Labiaceae Húng quế (basil) Ocium basilicum L. Húng cay (mint) Metha arvensis. Húng lủi (japanese mint) Metha arvensis var. piperaseens. Tía tô Perilla frutescens var. Cripa Kinh giới Elsholtzia erislata (Willd) 12- Họ bông Malvaceae Đậu bắp (okra) Hibiscus esculentus L. 13- Họ đay Tiliaceae Rau đay Corchrus olitorius L. 14- Họ nghễ Polygonaceae Rau răm Polygonum odoratum (Lour) 2. PHÂN LOẠI DỰA VÀO BỘ PHẬN SỬ DỤNG (PHẦN ĂN ĐƯỢC)

Phương pháp này là căn cứ vào những cây rau có bộ phận sử dụng làm thực phẩm giống nhau thì được xếp cùng một loại. Các loại rau thông thường được xếp thành 6 loại (nhóm) chính:

- Rau ăn lá (leaf vegetable): cải bắp, cải bao, cải bách khẩu, cải bixen, rau dền, cơm xôi, xà lách, diếp

- Rau ăn quả: Cà chua, cà, dưa chuột, bí đỏ, bí xanh, bầu, mướp, đậu cô ve, đậu trạch, đậu rồng, đậu Hà Lan, su su, đậu cô bơ, dưa hấu, dưa bở, dưa gang, dưa lê, đu đủ....

- Rau ăn củ: + Rau cho rễ củ (root crops): cà rốt, củ cải trắng, củ dền, củ đậu. + Rau cho thân củ (tuber, bulb, shoot): su hào, hành, tỏi, khoai tây, măng

tây. - Rau ăn nụ, hoa: súp lơ, atisô, hoa thiên lý - Rau gia vị: ớt, hành, tỏi, mùi (ngò), nghệ, gừng, hành tây.... - Nấm (mushroom): nấm rơm, nấm mộc nhĩ (mèo), nấm sò, nấm hương

Qua các bộ phận có thể thấy rõ về mối quan hệ hình thái giữa chúng. Những cây có bộ phận sử dụng giống nhau thì thường có kỹ thuật trồng giống nhau, có giá trị cho mục đích trồng trọt, nhưng trong thực tiễn phân loại này chưa nói lên được yêu cầu dinh

Page 25: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

24

dưỡng, phương pháp gieo trồng, mùa vụ ... và các đặc điểm nông sinh học khác nhau của các loại rau. 3. PHÂN LOẠI DỰA VÀO PHƯƠNG THỨC CANH TÁC VÀ ĐẶC TÍNH SINH VẬT HỌC CÂY RAU

Phương pháp phân loại này là dựa vào đặc tính sinh vật học của cây rau và điều kiện

trồng trọt để phân loại. Các cây trồng cùng một nhóm có phương thức canh tác nói chung là giống nhau và bị ảnh hưởng bởi những loaị sâu và bệnh hại tương tự . Vì vậy nhà nông học Xô Viết V.I. Edelstein đề nghị hệ thống phân loại tổng hợp như sau:

1- Rau ăn rễ củ (root crops): cà rốt, củ cải trắng, củ dền. 2- Rau ăn thân củ (tuber crops): khoai tây, khoai lang. 3- Rau ăn lá ngắn ngày (salad crops): xà lách, cơm xôi, dền, thì là, cải ngọt, cải

xanh, cải cúc, cần tây. 4- Rau họ cải (cole crops): cải bắp, cải bông, cải bixen, su hào. 5- Rau họ hành tỏi (bulb crops): tỏi, hành tây, hành pirô. 6- Rau họ đậu (pulses): đậu đũa, đậu cô ve, đậu Hà Lan, đậu ván, đậu rồng. 7- Rau họ cà (Solanaceous crops): cà tím, ớt, cà chua. 8- Rau bầu bí (Cucurbits): bầu, bí, dưa leo, dưa hấu, dưa gang. 9- Rau lâu năm (perennial crops): măng tây, măng tre, atisô. 10- Rau thuỷ sinh: Củ ấu, ngó sen, rau muống. 11- Nấm (mushroom): nấm rơm, nấm mộc nhĩ (nấm mèo), nấm sò.

Phương pháp phân loại này hoàn thiện hơn cả, đáp ứng được yêu cầu sản xuất, thể hiện ưu điểm là vừa hiểu được đặc điểm sinh vật học và biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp với tùng loại rau. 4. PHÂN LOẠI DỰA VÀO NGUỒN GỐC 4.1. Nguồn gốc nhiệt đới Rau có nguồn gốc nhiệt đới là những loại rau có đặc điểm chung là ưa khí hậu ấm áp, khô ráo, ánh sáng đầy đủ, hoặc ưa nóng ẩm, không chịu được rét (thuộc khí hậu lục địa và nhiệt đới biển). Những loại rau này chủ yếu có nguồn gốc ở châu Mỹ (vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và nam Mêhicô), Ấn Độ (Nam châu Á), miền trung châu Phi, quần đảo Indonesia. Nhóm này gọi là nhóm rau mùa nóng gồm các loại rau sống trong trong điều kiện mùa Hè ở nước ta như các loại rau trong họ bầu bí, cà, đậu đũa, dưa hấu, dưa bở, mướp, bầu, rau muống, mồng tơi, rau ngót, đậu bắp...

Page 26: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

25

4.2. Nguồn gốc ở vùng á nhiệt đới, ôn đới. Rau có nguồn gốc ôn đới, á nhiệt đới là những loại rau có đặc điểm chung là

ưa khí hậu lạnh, khô hanh hoặc mát mẻ, ẩm, có thể chịu được rét và nhiệt độ thấp nhưng không chịu được nóng. Các loại rau này chủ yếu có nguồn gốc ở bờ biển Địa Trung Hải, Cận Đông, Trung Á, vùng núi cao Trung Á, miền núi miền Trung Nam Trung Quốc. Nhóm này gọi là nhóm rau mùa lạnh bao gồm các loại rau chủ yếu sinh trưởng trong điều kiện vụ Đông Xuân nước ta như các loại rau trong họ hoa chữ thập, họ hành tỏi, họ đậu ... Một số loại rau được trồng chủ yếu như bắp cải, su hào, su lơ, cà rốt, rau cải cúc, cần tây, hành tây, hành lá, kiệu, tỏi, củ cải, đậu Hà Lan, cô ve...

Như vậy tương ứng với rau 2 nhóm rau là 2 nguồn gốc, nước ta cũng có 2 mùa trồng rau tương ứng đó là mùa nóng và mùa lạnh. Tuỳ vùng mà có các thời vụ trồng rau, vụ Đông và Đông Xuân, Xuân Hè và Hè Thu. Tuy nhiên do trồng trọt lâu đời, giống rau đã được thuần hóa hoặc bằng còn đường tạo giống chống chịu và khả năng thích ứng rộng, có nhiều giống rau có thể trồng quanh năm.

Câu hỏi bài 2: 1. Ý nghĩa của phân loại rau ?

2. Các phương pháp phân loại rau? Phương pháp phân loại nào là hoàn thiện nhất, tại sao?

3. So sánh ưu nhược điểm của mỗi phương pháp phân loại rau nói trên ?

Bài 3

YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH CỦA CÂY RAU VÀ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG BẤT LỢI ĐẾN ĐỜI SỐNG CÂY RAU

1. NHIỆT ĐỘ 1.1. Yêu cầu nhiệt độ theo từng loại rau - Loại rau chịu rét khá:

Măng tây, hành, tỏi, ngó sen, ... vào mùa Xuân và mùa Đông có thể chịu đựng nhiệt độ lạnh - 8 đến -10oC, các bộ phận dưới đất có thể chịu đựng qua mùa đông, có thể chịu được nhiệt độ thấp - 1 đến - 2oC trong thời gian dài. Tuy nhiên để sinh trưởng và phát triển tốt, cây đồng hoá mạnh ở nhiệt độ cao hơn. Nhiệt độ thích hợp 15 - 20oC - Loại rau chịu rét trung bình: Loại này gồm các loại cải 2 năm (bắp cải, su lơ, cải củ, cải trắng, cải bẹ...), cà rốt, xà lách, cơm xôi, hành tây 2 năm, đậu Hà Lan, rau cần ... Rau nhóm này có thể chịu đựng điều kiện lạnh -1 đến -2oC một thời gian lâu và -3 đến -5oC trong vài ngày. Nhiệt độ thích hợp 17 - 20oC (cây đồng hoá mạnh) và điểm bù trừ nhiệt độ khoảng 30 - 32oC. Nếu nhiệt độ hơn 25oC thì quang hợp giảm, nhiệt độ hơn 30oC thì quang hợp

Page 27: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

26

bằng hô hấp, nhiệt độ hơn 40oC thì cây quá trình hô hấp lớn hơn quang hợp, dẫn đến cây chết . - Loại rau ưa nhiệt độ cao:

Loại này gồm có các loại rau sinh trưởng trong mùa Hè nước ta, không chịu nhiệt độ thấp: Dưa chuột, cà chua, ớt, cà, rau ngót, mồng tơi... Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển là 20 - 300C. Khi nhiệt độ dưới 100C, cây sinh trưởng chậm, quá trình thụ phấn thụ tinh bị ảnh hưởng (rụng hoa). Nhiệt độ thấp kéo dài cây sẽ chết nhưng khi nhiệt độ cao hơn 40oC thì hô hấp lớn hơn quang hợp (vật chất quang hợp tạo ra bị tiêu hao do hô hấp) dẫn đến cây chết. - Loại rau chịu nóng: điển hình là dưa hấu, dưa bở, dưa gang, bí đỏ, đậu đũa, rau muống Loại này không chịu nhiệt độ thấp (không chịu rét). Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng phát triển là 30oC - 35oC, ra hoa 25 - 30oC. Nhiệt độ 35- 40oC cây vẫn đồng hoá nhưng phạm vi nhiệt độ thấp nhỏ thua 20oC, cao hơn 40oC cây bị ảnh hưởng . Nhìn chung các loại rau khác nhau, yêu cầu nhiệt độ cũng khác nhau. Trong cùng một loài, 1 giống, các giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì yêu câu nhiệt độ cũng khác nhau. 1.2. Yêu cầu nhiệt độ theo từng thời kỳ sinh trưởng Nói đến từng thời kỳ sinh trưởng của cây là nói đến mối quan hệ của cây đối với nhiệt độ môi trường. - Thời kỳ nảy mầm:

Tất cả các loại rau đều yêu cầu nhiệt độ cao để tăng cường sự hô hấp, kích thích sự hoạt động của men, sự trao đổi chất và làm gia tăng sự phân chia tế bào phôi mầm, phân giải các chất khó tan thành dễ tan, cung cấp năng lượng cho các quá trình nảy mầm (nhiệt độ có ảnh hưởng đến quá trình hút nước, hoạt động của các men phân giải protit, lip it, gluxit ...). Loại rau chịu rét bắt đầu nảy mầm ở nhiệt độ 10 - 15oC. Loại rau ưa nhiệt độ cao, nảy mầm nhanh ở nhiệt độ 25 - 30oC. Sự nảy mầm của tất cả các loại rau xảy ra thuận lợi ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối thích cho sự tăng trưởng của cây từ 4-7oC, ví dụ nhiệt độ tối thích cho sự tăng trưởng của cây cải bắp là 18-22oC, thì hạt cải bắp sẽ nảy mầm tốt ở nhiệt độ 25 - 27oC. Thời kỳ nảy mầm hạt cần nhiệt độ, nước và ô xy trong đất, nhưng nhiệt độ là yếu tố quyết định nhất. - Thời kỳ cây con: Cây con nhỏ, yếu, tế bào chứa nhiều nước, vách tế bào mỏng nên khả năng chống chịu điều kiện ngoại cảnh yếu. Nhiệt độ cao sẽ gia tăng hô hấp làm cho cây con thiếu dinh dưỡng khi chưa đủ khả năng tự dưỡng. Vì vậy thời kỳ này yêu cầu nhiệt độ thấp hơn. Nhiệt độ thích hợp 18 - 20oC - Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng (tăng trưởng và tích lũy chất dự trữ)

Thời kỳ này phụ thuộc vào từng loại rau nhưng nhìn chung nhiệt độ cao thuận lợi cho sự quang hợp (trừ một số loại rau ăn củ hoặc một số loại rau cuốn lá thì yêu cầu nhiệt độ thấp hơn). Ngay trong cùng một loại (rau ưa nhiệt độ cao) giai đoạn đầu cần nhiệt độ cao để quang hợp, cuối gia i đoạn này thời gian tích luỹ chất dinh dưỡng, hình

Page 28: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

27

thành các cơ quan sử dụng thì cần nhiệt độ thấp hơn. Rau ưa nhiệt độ cao yêu cầu nhiệt độ 20 -25oC. Rau chịu nóng yêu cầu 20 - 30oC. Rau ưa nhiệt độ thấp, rau 2 năm (bắp cải, cải bẹ cuốn) hay rau ăn rễ củ, nhiệt độ thích hợp 17 - 20oC. Nếu nhiệt độ cao hơn 25oC thì cải củ hình thành chậm, bắp cải, cải bẹ cuốn cuộn bắp khó khăn. Nhiệt độ cao hơn 30oC, củ khoai tây và hoa su lơ khó hình thành - Thời kỳ sinh trưởng sinh thực (nở hoa kết quả):

Tất cả các loại rau đến thời kỳ ra hoa, nhìn chung cần ánh sáng đầy đủ, nhiệt độ tương đối cao. Thời kỳ ra nụ, ra hoa cần nhiệt độ không khí 20 - 25oC (ở cây một năm nhiệt độ môi trường thấp hơn nhiệt độ tối thích khoảng 2- 4oC ). Thời kỳ kết hạt và hạt chín cần nhiệt độ cao hơn 20 - 30oC (muốn quả nhanh chín, để nhiệt độ môi trường cao hơn nhiệt độ tối thích khoảng 2-3oC)

Trong một chu kỳ sinh trưởng của cây rau. Thời kỳ cây con, thời kỳ dinh dưỡng lúc đầu, cây chịu rét tốt hơn thời kỳ ra hoa đậu quả. Rau yêu cầu nhiệt độ luôn luôn thay đổi cùng với các điều kiện ngoại cảnh khác như nước, ánh sáng, nồng độ CO2, chất dinh dưỡng trong đất... Nhìn chung trong thời kỳ sinh trưởng sinh thực, nhiệt độ thích hợp phụ thuộc vào từng loại rau. Rau chịu rét cần 20oC, rau ưa nhiệt độ cao cần 20 -25oC, rau chịu nóng cần 20 - 30oC. Nhiệt độ quá thấp hay quá cao sẽ làm cho hạt phấn bị chết.

Qua tìm hiểu yêu cầu của rau với yếu tố nhiệt độ, chúng ta cần phải có những biện pháp kỹ thuật chống nóng và chống rét thích hợp cho rau.

2. ÁNH SÁNG 2.1.Yêu cầu thời gian chiếu sáng

Rau có nguồn gốc khác nhau yêu cầu thời gian chiếu sáng cũng khác nhau. Mỗi loại rau yêu cầu thời gian chiếu sáng nhất định mới ra hoa kết hạt. Thời gian chiếu sáng ảnh hưởng đến đặc trưng và tốc độ sinh trưởng, phát triển của cây. Thời gian chiếu sáng đặc biệt quan trọng đối với loại rau ăn hoa (su lơ), ăn quả (bầu bí, cà, đậu...và những loại rau để giống lấy hạt). Thời gian chiếu sáng còn ảnh hưởng lớn đến sự tạo củ một số giống rau như củ đậu (tạo củ trong điều kiện ngày ngắn, hành tây tạo củ trong điều kiện ngày dài), do đo một số giống nhập nội trồng ở nước ta không tạo củ được vì quang chu kỳ không thích hợp. Thời gian chiếu sáng ảnh hưởng tới giới tính rõ rệt. Trong điều kiện chiếu sáng đầy đủ, số lượng hoa cái sẽ tăng, nếu giảm thời gian chiếu sáng số lượng hoa đực sẽ tăng lên. - Yêu cầu thời gian chiếu sáng theo từng loại rau

Thời gian chiếu sáng được đo bằng số giờ từ khi mặt trời mọc (bình minh) đến lúc mặt trời lặn (hoàng hôn) và được gọi là quang chu kỳ hay độ dài ngày. Nó dao động 12 giờ /ngày ở vĩ độ 0 (xích đạo) đến 24 giờ chiếu sáng hoặc tối liên tục ở một giai đoạn nhất định trong năm ở các cực. Vùng nhiệt đới (0-23o vĩ Bắc đến Nam của xích đạo), sự dao động của độ dài ngày là ít hơn 3 giờ giữa ngày ngắn nhất và ngày dài

Page 29: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

28

nhất. Vùng xa xích đạo thì sự chênh lệch này càng lớn. Căn cứ vào quang chu kỳ (phản ứng với ánh sáng ngày và đêm cho phân hoá hoa), có thể chia tương đối các nhóm rau yêu cầu thời gian chiếu sáng trong ngày khác nhau:

+ Nhóm rau ngày ngắn: Rau yêu cầu thời gian chiếu sáng trong ngày từ 10 -12 giờ: Rau dền, đậu xanh, đậu den, đậu tương, đậu rồng, cải cúc (tần ô).

+ Nhóm rau ngày dài: yêu cầu từ 14 - 16 giờ hoặc nhiều hơn: Củ cải đường, cây họ hành tỏi, cải bina, cải bắp, cải bao, cải các loại, cải củ, cà rốt, xà lách, khoai tây, thì cây ra hoa, kết hạt sớm. Nếu thời gian này giảm xuống 10-12giờ/ngày, cây sinh trưởng, phát triển chậm, kéo dài thời gian sinh trưởng.

+ Nhóm rau trung tính: không phản ứng rõ với ánh sáng ngày dài hay ngày ngắn. Cà, cà chua, bầu, bí, mướp, đậu Hà Lan, dưa chuột, ngô rau, ớt ngọt, actiso, Những loại này do thông qua sự thuần hoá, bồi dục, chọn lọc của con người (ngay cả những loại rau yêu cầu ánh sáng nghiêm ngặt). Nhóm này gồm các loại rau trồng 2 - 3 hoặc nhiều vụ/năm. Hiểu biết được yêu cầu thời gian chiếu sáng trong ngày thích hợp của cây cho phép người trồng rau xác định thời gian trồng để cây.

Thời gian chiếu sáng của cây trong năm ở vùng nhiệt đới thay đổi không nhiều. Khi ánh sáng thiếu cần bón thêm phân ka li để thúc đẩy quang hợp, tăng cường sự trao đổi chất và sự vận chuyển vật chất trong cây.

2.2. Cường độ ánh sáng Các loại rau khác nhau phản ứng với ánh sáng khác nhau, nhu cầu rau đối với cường độ ánh sáng chiếu xuống mặt lá cũng khác nhau, ví dụ đậu Hà Lan có thể trổ hoa được là 1.100 lux, cà chua là 4.000 lux, củ hành khi mọc lá xanh đòi hỏi ánh sáng yếu, còn su lơ trước khi thu hoạch cần che trong bóng. Rau có nguồn gốc nhiệt đới yêu cầu cường độ ánh sáng mạnh, rau có nguồn gốc ôn đới yêu cầu cường độ ánh sáng yếu. Nhìn chung cường độ ánh sáng từ 20.000 - 40.000 lux có thể thoả mãn với tất cả các loại rau. Dựa vào yêu cầu cường độ ánh sáng, người ta phân ra các nhóm sau:

+ Nhóm rau yêu cầu cường độ ánh sáng mạnh: dưa gang, dưa hấu, dưa bở, bí đỏ, cà tím, ớt, cà, cà chua, rau muống, đậu đũa, ...

+ Nhóm rau yêu cầu ánh sáng trung bình: cải bắp, cải trắng, cải củ, hành, tỏi... + Nhóm rau yêu cầu cường độ ánh sáng yếu: xà lách, rau diếp, cải cúc, ngò, gừng,

nghệ, cơm xôi phải trồng trong điều kiện có che bóng. Căn cứ vào phân loại này mà có chế độ luân canh, trồng xen, gieo lẫn, trồng gối, thích hợp. 2.3. Thành phần ánh sáng (chất lượng ánh sáng)

Ánh sáng có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển và phẩm chất rau. Các loại rau đa số ưa ánh sáng tán xạ hơn trực xạ (ánh sáng đỏ và ánh sáng vàng chiếm tới 50 - 60%, còn ánh sáng trực xạ chiếm 30 - 40%). Độ cao mặt trời càng thấp thì ánh

Page 30: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

29

sáng trực xạ càng ít và ánh sáng tán xạ càng nhiều. Rau ưa ánh sáng buổi sáng sớm vì ánh sáng tán xạ 100% và ưa ánh sáng đỏ nhiều nhất vì diệp lục hấp thụ nhiều nhất ánh sáng đỏ. Chất lượng ánh sáng (thành phần ánh sáng) khác nhau có ảnh hưởng đến rau cũng khác nhau:

+ Ánh sáng đỏ (tia đỏ cam có độ dài bước sóng 600-700nm có tác dụng tích cực nhất trong sự đồng hóa CO2 ) làm cho rau ngày dài phát triển nhanh, rau ngày ngắn phát triển chậm. Ánh sáng xanh (tia xanh tím có bước sóng 400-500 nm) có tác dụng như bóng tối làm cho rau ngày ngắn phát triển nhanh, ngày dài phát triển chậm, ánh sáng tím làm tăng hàm lượng vitamin C...Ví dụ ánh sáng đỏ làm cho thân, củ su hào phát triển nhanh, ánh sáng xanh lục làm củ su hào phát triển chậm hoặc không hình thành được.

+ Tia cực tím có bước sóng ngắn (nhỏ hơn 300 nm) có hại cho thực vật, nhưng các tia này đều được khí quyển hấp thu và không chiếu đến bề mặt trái đất. Các tia cực tím có bước sóng dài hơn (300 - 380 nm) chiếu qua khí quyển có tác dụng tốt cho thực vật, nó thúc đẩy quá trình trao đổi chất, đặc biệt là tổng hợp vitamin C, ảnh hưởng trên sự phân nhánh, làm giảm hoạt động sống của nhiều vi sinh vật gây bệnh, nâng cao tính chịu lạnh và khả năng thích nghi cao của cây rau. Vì thế rau trong nhà kính chứa ít vitamin C hơn rau trồng ngoài đồng và cây con gieo trong nhà kính thường chống chịu kém khi ra đồng vì kính ngăn cản tia cực tím. Vì vậy các loại rau (dưa chuột và cà chua...) trồng trong nhà kính hàm lượng vitamin C không cao bằng trồng ngoài trời, cây con trồng trong nhà kính bị yếu, vóng, khi trồng tỷ lệ sống thấp.

Sự phân bố ánh sáng phụ thuộc vào vĩ độ địa lý, độ cao mặt trời, độ cao so với mặt biển, mùa trong năm và vào sự phân bố diện tích dinh dưỡng, tình hình cây lộ ra ngoài ánh sáng, hướng luống, hình thái cây.Ví dụ lá ở vị trí cao thu nhận nhiều ánh sáng hơn tầng dưới, loại rau có cuống lá dài thu nhận nhiều ánh sáng hơn cây có cuống lá ngắn - Thời kỳ sinh trưởng khác nhau yêu cầu ánh sáng khác nhau:

+ Thời kỳ nảy mầm: Ánh sáng không ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt do đó trong giai đoạn nảy mầm cây không cần ánh sáng. Thời kỳ cây con cây ưa cường độ ánh sáng yếu. Thời kỳ phát triển thân lá, ra hoa đậu quả yêu cầu cường độ ánh sáng mạnh hơn. Thời kỳ chín (cuối) của sự hình thành cơ quan tích lũy chất dinh dưỡng, yêu cầu ánh sáng giảm dần. Như vậy trong một chu kỳ sinh trưởng thời kỳ cây ra hoa kết hạt yêu cầu nhiều ánh sáng hơn các thời kỳ khác. Cần có biện pháp kỹ thuật nhằm lợi dụng ánh sáng: Người làm vườn cần căn cứ vào đặc điểm từng vùng sinh thái; đặc tính của giống (giống sớm, giống chính vụ, giống muộn); đặc trưng hình thái của cây đối với khả năng lợi dụng ánh sáng như cây cao, cây thấp, phân cành mạnh, yếu, lá to, nhỏ, cuống lá ngắn hay dài... để có các biện pháp kỹ thuật thích hợp như bố trí thời vụ gieo trồng, mật độ - khoảng cách, hướng luống, trồng gối, trồng xen, che chắn...nhằm

Page 31: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

30

lợi dụng không gian, thời gian, ánh sáng, đất trồng có hiệu quả. Đồng thời thỏa mãn yêu cầu ánh sáng đối với từng loại rau . 3. NƯỚC VÀ ĐỘ ẨM 3.1. Ảnh hưởng trực tiếp của nước đến sản lượng và chất lượng cây rau

Nước có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cây rau, nó là môi trường cho các chất dinh dưỡng di chuyển trong cây, tham gia vào các quá trình tổng hợp, điều hoà nhiệt độ trên lá. Nước có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và phẩm chất của rau.

+ Thiếu nước: lá bị héo do các khí khổng bị đóng lại, sự trao đổi khí giữa cây và bên ngoài bị tắc, cường độ quang hợp thấp, sinh trưởng khó khăn, cây còi cọc, mô gỗ phát triển, lá vàng, năng suất, sản lượng và chất lượng rau giảm vì rau xơ nhiều, vitamin ít, có vị đắng, lá vàng, rau cứng, ăn không ngon.

+ Nếu thừa nước: rau trở nên nhũn nước, phẩm chất giảm, nồng độ đường, nồng độ chất tan giảm, mô mềm yếu, khả năng chống chịu sâu bệnh và khả năng chống chịu điều kiện bất lợi khác giảm (chống rét, chống hạn), khả năng bảo quản khó.

+ Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hút nước của rau: Yếu tố nội tại: Sự hút nước trong cây diễn ra mạnh hay yếu là phụ thuộc vào bộ

rễ, đặc điểm sinh lý của từng loại rau, từng thời kỳ sinh trưởng. Rễ là cơ quan hút nước và dinh dưỡng, là chỉ tiêu quan trọng để xác định yêu cầu của cây rau đối với nước. Những cây rau có hệ rễ ăn sâu, rộng, phân nhánh nhiều là hệ rễ khoẻ, cây có thể hút nước được ở những tầng đất sâu, có khả năng chịu hạn. Ví dụ măng tây, atisô, bí đỏ, dưa hấu, dưa thơm, cà chua có thể sinh trưởng ở đất có tầng dày trên 60 cm, đất phải đủ ẩm. Những cây rau có bộ rễ phân bố cạn ở tầng đất mặt, ít phân nhánh thường không chịu hạn. Ví dụ khoai tây, hành, tỏi, xà lách, rau diếp...vì vậy khi canh tác thường trên tầng đất có độ dày 20 - 30 cm, đất luôn đủ ẩm... Những cây rau có hệ rễ phát triển trung bình như dưa chuột, cà rốt, đậu...Ngoài ra sự hút nước phụ thuộc vào từng loại rau.

Yếu tố ngoại cảnh: Sự hút nước của rau phụ thuộc vào yếu tố ngoại cảnh khác như nhiệt độ, ẩm độ, đất đai, kỹ thuật canh tác...

Nhiệt độ: Nhiệt độ đất quá thấp cây không hút nước là do độ nhớt của chất nguyên sinh tăng lên mạnh, có thể bị đông kết và làm ảnh hưởng đến sự phát triển chiều sâu của bộ rễ. Ngược lại nhiệt độ đất quá cao rễ chóng bị già hoá, rễ nhanh chóng bị hoá gỗ, làm giảm diện tích rễ do đó làm giảm khả năng hút nước của rễ.

Đất đai: Trong quá trình sinh trưởng của cây, chọn đất, làm đất có ảnh hưởng đến khả năng hút nước của rễ. Đất nặng, chai cứng, độ tơi xốp kém, rễ hút nước kém do thiếu ô xy trong đất. 3.2. Đặc điểm cần nước của rau - Rau yêu cầu nước nhiều: Trong cơ thể cây rau chứa nhiều nước (nước chiếm 75 - 95%). Các bộ phận yêu cầu đều non, tươi. Rau sinh trưởng rất nhanh nên cường độ quang hợp mạnh. Bộ rễ ngắn, ăn nông nên rau yêu cầu độ ẩm cao, ẩm ướt trong quá

Page 32: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

31

trình sống. Diện tích lá lớn nên khả năng phát tán hơi nước lớn, hệ số thoát hơi nước cao (muốn có 1g chất khô cần 300 - 400g nước, có loại rau cần trên 800g nước). Rễ ăn nông, khả năng chịu úng, chịu hạn kém, vì vậy cần chú ý kỹ thuật tưới thích hợp. - Hệ số thoát hơi nước cao: Hệ số thoát hơi nước bằng lượng nước mà cây trồng sử dụng trong quá trình sinh trưởng, phát triển trên trọng lượng chất khô của cây trồng. Theo Maximop, thực vật sống vùng ẩm ướt, khi hút được 1000gam nước, cây chỉ dùng 2 - 3 gam để tạo chất khô. Ở vùng khô hạn, khi hút được 1000 gam nước, cây chỉ dùng 1gam để tạo chất khô, phần còn lại tiêu hao cho thoát hơi nước.

Bảng 7. Hệ số thoát hơi nưóc của một số loại rau

Loại rau Hệ số thoát hơi nước

Loại rau Hệ số thoát hơi nước

Bắp cải Củ cải Bí xanh Cà chua Dưa chuột

539 397- 450 700- 834 570 - 650

723

Dưa bở Dưa hấu Đậu Hà Lan Đậu cô ve Khoai tây

621 600

250-800 538-570

636 3.2. Yêu cầu nước và độ ẩm theo từng loại rau

Cơ sở để biết được các loại rau yêu cầu nước nhiều, ít khác nhau là nguồn gốc, đặc trưng hình thái (rễ, thân, lá), điều kiện sống (nhiệt độ, ánh sáng, đất đai...).

Những loại rau có nguồn gốc từ vùng khô hạn thường bộ rễ ăn sâu, phân nhánh nhiều, lông hút nhiều, có khả năng hút nước tầng sâu hoặc tầng đất ít nước và sử dụng nước tiết kiệm. Những loại rau có nguồn gốc từ vùng ẩm ướt, mát mẻ có bộ rễ phát triển kém, rễ ngắn, ăn nông, yêu cầu ẩm độ cao trong suốt quá trình sinh trưởng...

Khác với cây lương thực, cây rau có lỗ khí khổng ở lá lớn về mặt kích thước, ít linh hoạt, thường mở cả ngày hay đóng vào ban đêm khi thiếu nước trầm trọng. Dựa vào yêu cầu của rau đối với nước, E.G. Petrov có thể chia rau làm 4 loại tuỳ theo khả năng hút nước trong đất (hệ rễ) và tiêu hao nước (thân lá) của cây rau: + Loại rau hút nước mạnh và tiêu hao ít: dưa hấu, bí, dưa bở, cà chua, ớt, cà tím, đậu.

+ Loại rau hút nước mạnh và tiêu hao nước mạnh: cải bắp, su lơ, dưa leo, su hào. + Loại hút nước yếu nhưng tiêu hao nước nhiều: cải củ, xà lách, cơm xôi, ngò, cải cúc, rau cải.

+ Loại rau hút nước yếu và tiêu hao nước ít: hành, tỏi, kiệu. Hầu hết các cây rau sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao và chất lượng tốt thường đảm bảo độ ẩm đất 70-80%. Những cây rau yêu cầu độ ẩm không khí cao như cải các loại (cải bắp, cải xanh, cải bẹ, cải thìa, cải ngọt), dưa chuột yêu cầu độ ẩm

Page 33: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

32

không khí cao 85 - 95% trong suốt thời kỳ sinh trưởng. Những cây rau quả yêu cầu độ ẩm không khí thấp vừa như cà, cà chua, ớt, rau đậu (đậu đũa, cô ve... trừ đậu Hà lan) yêu cầu yêu cầu độ ẩm không khí từ 55 - 65%. Những cây rau quả yêu cầu ẩm độ không khí rất thấp trong suốt quá trình sinh trưởng: dưa hấu, bầu, bí đỏ, dưa bở, hành, tỏi (củ) yêu cầu 45-55%. Các cây trong họ bầu bí, họ cà nếu trồng trong điều kiện ẩm độ không khí cao ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn, thụ tinh của cây và dễ bị sâu bệnh gây hại. Các trạng thái cân bằng nước trong cây thể hiện bằng tỷ số giữa lượng nước thoát ra (T) và lượng nước cây hút (A). Cân bằng nước trong cây dương thì tỷ số T/A gần bằng 1 (lượng nước thoát ra gần bằng lượng nước cây hút). Cân bằng nước âm thì tỷ số T/A lớn hơn 1 (lượng nước thoát ra lớn hơn lượng nước cây hút). Cân bằng nước tối thích tức T/A nhỏ thua 1 (lượng nước thoát ra nhỏ thua lượng nước cây hút). Khi đầy đủ và cân bằng nước dương thì tất cả các hoạt động diễn ra đều tốt cây sinh trưởng bình thường. Khi trong đất thiếu ẩm hoặc sự thoát hơi nước qua khí khổng quá mức dẫn đến cây thiếu nước và luôn ở tình trạng khủng hoảng nước và sinh trưởng kém, sẽ ảnh hướng đến năng suất và chất lượng rau. 3.3. Rau yêu cầu nước theo từng thời kỳ sinh trưởng

- Thời kỳ nảy mầm: Các loại rau yêu cầu nước để hạt tiến hành các phản ứng hoá học, hô hấp, phân giải các chất phức tạp thành các chất đơn giản để cung cấp năng lượng cho quá trình nảy mầm. Sự hút nước nhiều hay ít mạnh hay yếu là phụ thuộc vào đặc điểm từng loại hạt rau.Ví dụ dưa chuột, cải bắp muốn nảy mầm cần 50% nước so trọng lượng của hạt. Cà rốt, hành cần 100%, hạt đậu cần 150%, ớt 150 - 200%.

- Thời kỳ cây con: Độ ẩm thích hợp là 70 - 80%. Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực: đối với rau ăn lá cần độ ẩm đất 80%, cà chua, dưa chuột lúc ra hoa và ra quả cần 85 - 95%, bắp cải, su lơ, các loại cây ăn quả khác cần 80 - 90%. Thời kỳ trước khi thu hoạch 7 - 10 ngày: yêu cầu nước ít hơn các thời kỳ trước, yêu cầu giữ ẩm, không nên tưới nhiều (nếu tưới nhiều bão hoà nước, giảm phẩm chất, khó bảo quản).

Trong một chu kỳ sinh trưởng, có một số thời kỳ yêu cầu nước tối đa hay gọi là thời kỳ khủng hoảng nước (thời kỳ sinh trưởng tới hạn). Vì vậy cung cấp nước đầy đủ ở các thời kỳ quan trọng của cây là biện pháp kỹ thuật chủ yếu để tăng năng suất và chất lượng rau. Hầu hết các loại rau đều có thời kỳ yêu cầu nước tối đa vào các thời kỳ hình thành và phát triển bộ phận sử dụng. Nếu thiếu nước trong thời kỳ này, nhu cầu độ ẩm không được thỏa mãn sẽ ảnh hưởng xấu đến năng suất và chất lượng rau. Ví dụ cải bắp yêu cầu nước tối đa vào thời kỳ cuốn bắp và bắp lớn; su lơ (hình thành nụ hoa và hoa tăng trưởng mạnh); cà chua, ớt, dưa chuột, bí (ra hoa và phát triển quả); dưa hấu (ra hoa đến thu hoạch); hành tây (hình thành thân củ và củ phình to); cà rốt, cải củ (rễ củ sinh trưởng và củ phình to); đậu Hà Lan và tất cả các loại đậu (ra hoa và hình thành hạt); rau cần (hình thành thân lá và tăng trưởng mạnh); xà lách (thời kỳ cuốn lá)... Nhìn

Page 34: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

33

chung yêu cầu độ ẩm và nước của cây rau ở thời kỳ ra hoa, ra quả lớn hơn thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng và lớn hơn thời kỳ cây con. 4. YÊU CẦU ĐẤT VÀ CHẤT DINH DƯỠNG 4.1. Đặc điểm hút dinh dưỡng của cây rau

Rau là loại hút nhiều chất dinh dưỡng, hút dinh dưỡng ở nồng độ thấp và nhiều lần, hút dinh dưỡng ở tầng đất nông do bộ rễ ngắn, ăn cạn. Rau sinh trưởng nhanh, thời gian sinh trưởng ngắn, quay vòng nhanh nên cần bón lót phân dễ tiêu để cung cấp dinh dưỡng kịp thời. Cũng như cây trồng khác rau có khả năng hút dinh dưỡng qua rễ và qua lá. Cây rau hút nhiều hay ít chất dinh dưỡng là tuỳ thuộc vào khả năng hút dinh dưỡng của bộ rễ (bộ rễ ăn nông hay sâu, phân nhánh nhiều, chiếm thể tích trong đất lớn...). Sự hút dinh dưỡng của cây rau phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, nước, không khí, pH đất và môi trường...

4.2. Yêu cầu dinh dưỡng theo từng loại rau

- Các loại rau khác nhau yêu cầu các nguyên tố đa lượng cũng khác nhau - Những loại rau cho sản lượng cao thì hút nhiều chất dinh dưỡng - Những loại rau có thời gian sinh trưởng dài yêu cầu lượng dinh dưỡng nhiều

hơn loại có thời gian sinh trưởng ngắn. - Trong cùng một đơn vị thời gian, loại rau chín sớm, sinh trưởng nhanh cần

nhiều dinh dưỡng hơn loại rau chín trung bình và muộn. Vì vậy những loại rau ngắn ngày cần bón những loại phân dễ tiêu, cần chăm sóc, tăng cường tưới thúc. Trong các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết thì cây rau thường hút N, K là nhiều nhất... 4.3. Rau yêu cầu dinh dưỡng phụ thuộc vào từng thời kỳ sinh trưởng

- Thời kỳ nảy mầm: Sử dụng dinh dưỡng trong hạt hoặc các cơ quan dinh dưỡng (sinh sản vô tính) để cùng cấp năng lượng cho quá trình nảy mầm.

- Thời kỳ cây con: Yêu cầu chất dinh dưỡng trong hạt hoặc cơ quan dinh dưỡng (1-2 lá thật), sau đó sử dụng dinh dưỡng từ môi trường nhưng rất nhạy cảm với dung dịch đất, cần chú ý bón phân vườn ươm đầy đủ, nếu tưới thúc, cần chú ý nồng độ thấp. Ví dụ: thời kỳ cây con phun N 0,1%, cây trưởng thành 0,3- 0,5%, tưới nước phân hữu cơ dung dịch pha loãng 10 -15%, cây lớn 30 - 50%

- Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng (thân, lá, cành) và sinh trưởng sinh thực (hình thành và phát triển bộ phận sử dụng). Đây là thời kỳ sinh trưởng mạnh, yêu cầu dinh dưỡng tối đa kể cả số lượng và chất lượng. Vì vậy bón phân phải kịp thời, đầy đủ đảm bảo năng suất và phẩm chất tốt (phân dễ tiêu hữu cơ và vô cơ).

Page 35: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

34

4.4. Tác dụng và ảnh hưởng các loại phân, dạng phân, pH môi trường, nồng độ dung dịch đất. - Vai trò, tác dụng và ảnh hưởng của các loại phân đối với rau: + Phân hữu cơ: Phân hữu cơ bón cho rau thường dùng phân chuồng, phân xanh, bèo (ủ hoai mục), rong rêu, bùn ao, bánh dầu lạc... cung cấp chất dinh dưỡng một cách từ từ và cân đối các nguyên tố đa lượng và vi lượng cho rau, cải tạo điều kiện lý hoá tính của đất. Một thí nghiệm ở Hunggary cho thấy năng suất do bón phân chuồng tạo ra nhỏ hơn năng suất bón vô cơ NPK 26 -50% nhưng trọng lượng chất khô và giá trị sinh học cao hơn bón phân vô cơ NPK 23%, hàm lượng vitamin C tăng 28%, Ca 10%, P 13%, Methionin 23%, đường tổng số 19%, K 18%, Fe 77%.

+ Phân vô cơ: Đạm (nitơ) có tác dụng với rau trong suốt quá trình sinh trưởng, đạm là thành phần chính của prôtêin cấu tạo nên tế bào hình thành các cơ quan trong cơ thể, là thành phần của nhiều hợp chất như các ancaloit, enzim, diệp lục, glucozit, photphatit, các chất điều tiết sinh trưởng. Đạm thúc đẩy quá trình quang hợp, phát triển thân lá, kéo dài thời gian sinh trưởng và tuổi thọ của lá. Do đó đạm đặc biệt cần và quyết định năng suất, chất lượng đối với các loại rau ăn lá: cải bắp, cải bao, cải xanh, cải ngọt, cải cúc, rau muống, xà lách, rau ngót, rau thơm...Tuy nhiên nếu dư thừa đạm, rau sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng thân lá, chậm ra hoa, ra quả, tế bào chứa nhiều nước, thân lá non mềm, làm giảm khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất lợi như khô hạn, sâu bệnh, giảm chất lượng rau. Đồng thời khó khăn cho quá trình vận chuyển, bảo quản. Bón đạm quá nhiều hoặc bón sát thời điểm thu hoạch sẽ dư thừa hàm lượng Nitrat (NO3

-) tồn đọng trong các bộ phận của rau, ảnh hưởng tới sức khỏe con người (gây bệnh ung thư) và không mang lại hiệu quả kinh tế. Ngược lại thiếu đạm cây rau sinh trưởng còi cọc, thân nhỏ bé, chậm ra hoa ra quả, lá vàng nhạt, các gân chính bị mất màu. Nếu bị thiếu đạm nghiêm trọng cây bị rụng nụ, rụng hoa, thời gian kéo dài cây sẽ bị khô héo và chết.

Trong các dạng phân đạm, bón cho rau tốt nhất là Urê, thứ đến là NO3-, còn

(NH4 )2SO4 và NH4Cl làm cho đất chua, có hại cho rau (rau quay nhiều vòng/năm, bón nhiều đạm, đất chua sẽ ảnh hưởng đến việc hút dinh dưỡng NPK, rau ăn đắng, muối dưa dễ bị khú, có mùi khó chịu)

+ Lân (P): là thành phần cấu tạo của của axit Nucleic, adenozinphotphat, các polyphotphat, hợp chất chứa năng lượng của tế bào sống (ADP, ATP) trong cây. Lân còn tham gia vào các quá trình tổng hợp hydratcacbon, prôtêin và lipit. Lân xúc tiến rễ phát triển, ăn sâu và phân nhánh mạnh, tăng cường hút nước và dinh dưỡng đặc biệt là đạm cho cây, tăng cường quá trình vận chuyển dinh dưỡng, thúc đẩy quá trình ra nụ, ra hoa, quá trình chín của quả và hạt, giúp cây chống chịu hạn tốt. Lân đặc biệt có tác dụng nhất khi cây rau còn nhỏ, kích thích sinh trưởng của rễ, tăng cường quá trình hút nước, tăng cường sự phát dục làm cây ra hoa kết trái sớm.

Page 36: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

35

Nhìn chung lân rất cần với các loại rau lấy hạt, rau ăn quả, ăn hoa, ăn hạt, ăn thân, ăn rễ củ, thân củ và rau để giống lấy hạt (trừ cây rau ăn quả non như cà) nhưng ít cần với rau ngắn ngày. Thiếu lân lá thường có màu xanh tối, quả hạt lâu già, chín. Thời kỳ đầu có màu tím do trong lá hình thành nhiều sắc tố antoxian, đôi khi có màu đồng xỉn, màu nâu, hệ thống rễ phân nhánh kém, cây sinh trưởng chậm, thời gian kéo dài cây bị chết, năng suất và phẩm chất rau giảm. Trong đất lân ít ở dạng dễ tiêu cho cây do bị kềm giữ và ít di động, nên bón gần rễ. Dạng phân lân sử dụng tốt nhất cho rau là lân supe vì nó dễ tiêu, hàm lượng lân cao.

+ Ka li (K): Không giống ni tơ và các nguyên tố dinh dưỡng khác, kali không tham gia hình thành một bộ phận nào trong cây cả như nguyên sinh chất, chất béo và xenlulô. Kali tăng cường quá trình quang hợp tổng hợp chất hữu cơ, kích thích hoạt động của các enzim, tham gia quá trình vận chuyển các chất về bộ phận kinh tế, thúc đẩy tạo thành các bó mạch, tăng bề dày các mô nên làm cho cây cứng cáp, tăng khả năng chống đỗ, chống sâu bệnh cho cây. K làm tăng tính chống chịu với điệu kiện bất thuận như chống rét, chống hạn, chống chịu sâu bệnh, làm tăng phẩm chất rau ăn củ, rễ củ, ăn quả. Kali thường có dạng ion, có thể vận chuyển rất linh động, thường tập trung ở bộ phận non, bộ phận hoạt động mạnh, do vậy các triệu chứng thiếu K có thể thấy đầu tiên ở những lá thấp hơn. Cây thiếu kali thường lùn (stunting), rìa lá khô vàng (marginal chlorosis), lá già chết trước, rễ thứ cấp mọc thưa, củ bị mềm. Dạng phân K sử dụng thích hợp cho nhiều loại rau là K2SO4, còn KCl không tốt vì nó làm giảm năng suất, phẩm chất kể cả 3 loại rau ăn lá, ăn củ, ăn quả.

+ Can xi (Ca): Chức năng sinh lý của can xi chưa được xác định rõ, nhưng nó là thành phần cơ bản giữ gắn kết các tế bào lại với nhau. Can xi có trong các bộ phận già của cây và trong hạt, ít được vận chuyển và phân phối lại trong cây, nên những lá mới ra và lá đang hình thành biểu hiện triệu chứng thiếu can xi đầu tiên. Can xi có tác dụng đối với sự sinh trưởng của rễ và các bộ phận trên mặt đất. Canxi còn là yếu tố làm tăng độ phì của đất và trung hòa các axit trong cây, giảm tác hại của ion H+ ở trong đất. Can xi giúp cho đất tơi xốp có lợi cho vi sinh vật háo khí hoạt động, chống bệnh có nguồn gốc từ đất. Trong thực tế trồng rau đất thường được bón vôi để khử chua, đặc biệt cần bón với cây họ đậu vì rễ của nó phát triển mạnh trong môi trường pH trung tính. Dạng can xi thường dùng là nitratcanxi [Ca(NO3 ).4H2O] hoặc supephotphat [Ca(H2PO4 )2.H2O]...Cần bón vôi cho những cây rau như hành, cà rốt, dưa chuột, xà lách trước khi trồng.

+ Magiê (Mg): là nhân của phân tử diệp lục, do vậy nó có vai trò quan trọng trong quang hợp tạo chất hữu cơ. Magiê tác dụng tăng cường hoạt động của nhiều enzim và rất linh động, nên những lá ở vị trí thấp hơn có thể có triệu chứng thiếu Mg trước tiên.

+ Lưu huỳnh (S): là thành phần của một số a xit amin, là những đơn vị tổng hợp phân tử protêin, nó có liên quan đến quá trình hình thành dầu ở đậu tương.

Page 37: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

36

Trong kỹ thuật bón phân cần căn cứ vào yêu cầu dinh dưỡng của các loại rau, đặc điểm của các nguyên tố dinh dưỡng cần bón và điều kiện ngoại cảnh. Bón phối hợp và cân đối giữa phân hữu cơ và vô cơ, các nguyên tố N, P, K thích hợp.

Hiện nay trên thị trường đã có mặt nhiều loại phân bón để thay thế hoặc bổ sung cho những loại phân bón truyền thống như các loại phân bón NPK tổng hợp, phân hữu cơ vi sinh Sản phẩm Vườn Sinh thái; Komix, Growmore, hữu cơ sông Gianh...

+ Nguyên tố vi lượng: Nguyên tố vi lượng là thành phần của nhiều enzim, thúc đẩy sự hoạt động của enzim, tham gia vào các quá trình tổng hợp protêin, gluxit, axit nucleic, vitamin. Vi lượng có tác dụng làm tăng quá trình trao đổi chất, tăng tính chống chịu, tăng cường sự hút đạm...do đó làm tăng năng suất và phẩm chất rau, vì vậy vi lượng rất cần thiết để bổ sung cho các nguyên tố đa lượng NPK. Cây trồng cần một lượng vi lượng nhỏ và thiếu các nguyên tố vi lượng là không thường xuyên nhưng nếu thiếu nguyên tố vi lượng sẽ làm thay đổi toàn bộ sự trao đổi chất, cây sinh trưởng phát triển không bình thường, cây dễ bị nhiễm bệnh. Nếu không được khắc phục có thể làm giảm đến năng suất, chất lượng cây rau.Ví dụ thiếu Mn cây bị bệnh vàng úa lá do ảnh hưởng đến sự hút đạm, thiếu B củ xốp và lốm đốm trong củ...Các nguyên tố thường dùng là B, Mo, Zn, Cu, Mn. Bón Mo cho cải bắp, cà chua, đậu Hà Lan làm tăng năng suất hơn đối chứng 30,8; 36,3 và 30,3% (Lê Văn căn, 1978)

Nguồn vi lượng thường được bổ sung từ các loại phân hữu cơ, đặc biệt là phân chuồng.

+ pH môi trường: Độ chua của đất là nồng độ ion H+ trong dung dịch đất. Nếu bón NPK không cân đối sẽ làm thay đổi pH môi trường. Cây rau phản ứng với pH đất phụ thuộc vào chủng loại, phương pháp bón, tưới nước, kỹ thuật làm đất. Cây rau có thể sinh trưởng trên đất pH 7; 6 hoặc dưới 5 nếu không thiếu các nguyên tố dinh dưỡng. Rau ưa pH hơi chua đến trung tính 5,5 - 7,0. Giới hạn pH này làm cây hút NPK dễ dàng, vi sinh vật hoạt động mạnh. Hầu hết cây rau sinh trưởng tốt hơn ở pH 5,5-7, cần cải tạo đất chua bằng cách bón vôi tạo môi trường tốt.

+ Nồng độ dung dịch đất: Mỗi loại rau yêu cầu một nồng độ dung dịch đất nhất định. Thời kỳ cây con các loại rau chỉ chịu nồng độ thấp thua cây trưởng thành 2 - 2,5 lần. Vì vậy khi chọn đất vườn ươm cần chọn đất tốt, nhiều mùn, độ hoãn xung lớn, giữ nước tốt, nồng độ dung dịch đất thấp, không nên chọn đất cát trắng, khi bón phân dễ gây ngộ độc cho cây con.

Page 38: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

37

Bảng 8: Độ pH thích hợp của một số loại rau. Loại rau pH thích hợp Loại rau pH thích hợp

Cải bắp 6 - 7 Dưa hấu 5,5 - 6,5 Cải bẹ 6 - 7,5 Đâụ cove leo 5,5 - 6,7 Súp lơ 5,5 - 7 Lạc 5,3 - 6,6 Cải bao 6 - 6,5 Đậu tương 5,5- 7 Xà lách 6 - 6,5 Đậu ván 5,5 - 6,7 Cà tím 6 - 6,5 Khoai tây 5 - 6,5 Cà chua 6 - 7 Củ cải 6 - 7,5 Dưa chuột 5,5 - 7 Cà rốt 5,5 - 7 Bí đỏ 5,5 - 6,5 Khoai sọ 5,5 - 7

Câu hỏi bài 3: 1. Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng của cây rau như thế nào? 2. Rau yêu cầu nhiệt độ như thế nào, những biện pháp chống nóng và chống rét cho rau? 3. Rau yêu cầu ánh sáng như thế nào, những biện pháp nhằm lợi dụng ánh sáng trong nghề trồng rau? 4. Rau yêu cầu nước và ẩm độ như thế nào, những biện pháp nhằm chống hạn, chống úng cho rau? 5. Rau yêu cầu đất và chất dinh dưỡng như thế nào, những kỹ thuật bón phân thích hợp cho rau để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả ?

Bài 4 CÁC PHƯƠNG THỨC TRỒNG RAU

1. TRỒNG RAU NGOÀI TRỜI (ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN)

Trồng rau ngoài trời là phương thức trồng rau trong điều kiện tự nhiên, được áp dụng phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các khâu từ khi gieo trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh đến thu hoạch đều được thực hiện ngoài trời, không cần những trang thiết bị đặc biệt bảo vệ. - Ưu điểm:

Sản xuất rau theo phương thức này đơn giản, dễ làm, giá thành hạ, có thể sản xuất theo quy mô lớn, những vùng có điều kiện thời tiết khí hậu và đất đai thuận lợi có

Page 39: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

38

thể trồng rau quanh năm. Phương thức này thích hợp với các nước phát triển, sản xuất rau dạng công nghiệp, cơ giới hóa. - Nhược điểm:

Trồng rau ngoài trời là khó quản lý về mặt dịch hại (sâu bệnh) và chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai như mưa lớn, gió bão, ngập lụt, sương muối, bị rủi ro cao trong quá trình sản xuất và ảnh hưởng đến thu nhập của người trồng rau và cung cấp rau cho thị trường. 2. TRỒNG RAU TRONG ĐIỀU KIỆN BẢO VỆ 2.1 Sản xuất rau trong nhà kính, nhà lưới, nhà màn để chống côn trùng gây hại - Khái niệ m:

Phương thức này thường được áp dụng ở những vùng có điều kiện thời tiết khắc nghiệt như mưa nhiều, nhiệt độ biến động mạnh hoặc có sương muối, băng tuyết trong nhiều tháng, cây rau sinh trưởng khó khăn, không thể sản xuất được trong điều kiện tự nhiên. Vì vậy phải trồng trong điều kiện bảo vệ, từ các khâu gieo trồng đến chăm sóc, bảo bệ thực vật, thu hoạch...đều phải tiến hành trong những thiệt bị đặc biệt như nhà kính, nhà lưới, nhà lợp bằng PE, nhà ấm có hệ thống sưởi hoặc điều hòa nhiệt độ. Rau có thể trồng quanh năm, chủ động thời vụ gieo trồng. Cũng có thể ở giai đoạn cây con ta trồng trong điều kiện bảo vệ sau đó nếu thời tiết ấm áp thì cây con được trồng ra ngoài đồng ruộng.

Rau là cây ngắn ngày, trồng với mật độ cao, sinh trưởng với tốc độ nhanh, trong rau chứa nhiều chất dinh dưỡng, vách tế bào mỏng, hàm lượng nước cao (70 - 90%), yêu cầu phân bón cao, đặc biệt là đạm, cũng như độ ẩm cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng. Vì vậy rất dễ dàng tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển Hàng năm sâu bệnh gây thiệt hại trên rau khoảng 25 - 30%, có lúc không cho thu hoạch. Để ngăn chặn sự xâm nhập của côn trùng đối với cây rau, kỹ tuật trồng rau trong nhà màn, nhà lưới (net house), nhà kính (green house) được áp dụng và trở thành biện pháp trồng rau phổ biến đối với các nước phát triển. Công nghệ này là biện pháp kỹ thuật sản xuất rau sạch có trình độ thâm canh cao, đồng bộ nhằm bảo bệ cây rau khỏi sự gây hại của côn trùng, mang lại sản phẩm sạch - Ưu điểm

Phương thức này là tránh được thiên tai, kiểm tra được các dịch hại một cách triệt để. Có thể trồng rau trong những thời điểm rất khó khăn của điều kiện thời tiết hoặc mùa vu bất lợi, có thể trồng các chủng loại rau đặc sản, có năng suất cao và đảm bảo chất lượng cao. Đây là biện pháp sử dụng để sản xuất rau an toàn hay rau sạch hiện nay. Không sử dụng thuốc BVTV, thuốc trừ cỏ, hạn chế những chi phí về vật tư, công lao động, công BVTV trên rau, sản phẩm rau hoàn toàn sạch, năng suất cao. Về mặt xã hội: nâng cao dinh dưỡng và sức khoẻ, nâng cao sự hiểu biết, tạo thêm công ăn việc làm, tránh tích luỹ chất độc, chống ô nhiễm môi trường - Nhược điểm:

Page 40: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

39

Tuy nhiên nó có nhược điểm là chi phí sản xuất lớn, giá thành cao, yêu cầu trình độ kỹ thuật cao, khó chăm sóc, hạn chế về mặt quy mô, số lượng sản phẩm. Đầu tư cơ bản lớn, giá thành cao, quy mô sản xuất không lớn, khó khăn cho cơ giới hoá các biện pháp phòng trừ tổng hợp (trồng giống chống bệnh, vệ sinh đồng ruộng, luân canh cây trồng..., thường xuyên kiểm tra đồng ruộng và theo dõi phát hiện sớm, tập trung phòng trừ sớm). Một số chỉ tiêu về hàm lượng các chất tồn dư cho phép ở một số các loại rau như quy định của Nga hoặc hoặc FAO. 2.2.Trồng rau thủy canh (Hydroponic) - Khái niệ m:

Trồng rau thuỷ canh hay trồng rau trong dung dịch (trồng rau không đất ) là đảm bảo chế độ dinh dưỡng đa lượng, vi lượng cân đối, đầy đủ, pH thích hợp trong dung dịch trồng. Đây là phương thức canh tác tiên tiến hiện nay rất có hiệu quả đã được áp dụng rộng rãi ở các nước phát triển Mỹ, Nhật, Úc, châu Mỹ La Tinh và Nam Á. - Ưu điểm:

Kỹ thuật này thường áp dụng những cây rau ưa ẩm như cà chua, dưa leo, ớt, xà lách, cải. Nó có nhiều ưu điểm không cần đất canh tác, không phải cày cấy, không có cỏ dại. Hoàn toàn chủ động về thời vụ, trồng được nhiều vụ và trái vụ, chủ động tưới nước và bón phân. Tránh gió bão, sương muối... Không phải sử dụng thuốc trừ sâu, bệnh hại, thuốc trừ cỏ. Năng suất cao hơn trồng đại trà (từ 25% đến 400%), đảm bảo chất lượng cao. Sử dụng một cách có hiệu quả lao động và thời gian. Có xu hướng công nghệ và đồng nhất, dễ thương mại hóa. Có ý nghĩa xã hội cao: Đảm bảo sức khỏe, nâng cao sự hiểu biết, tạo công ăn việc làm, tránh tích lũy chất độc, không ô nhiễm môi trường.

Trồng rau trong dung dịch là kỹ thuật trồng cây không dùng đất. Cây được trồng trực tiếp vào dung dịch dinh dưỡng NPK và vi lượng. Kỹ thuật này đã và đang được áp dụng khá phổ biến trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển như Nhật Bản, nhiều kỷ lục năng suất đã đạt được như cà chua 130 -150 tấn/ha/vụ. Dưa leo 250 tấn/ha/năm, xà lách 700 tấn/ha/năm. Ở Đài Loan kỹ thuật trồng cây trong dung dịch được ứng dụng phổ biến để trồng rau sạch và các loại dưa. Ở những vùng đất có khó khăn, kỹ thuật này sẽ trở thành những giải pháp trồng trọt quan trọng. Viện nghiên cứu và phát triển rau châu Á đã đề xuất hệ thống sản xuất rau trong dung dịch không tuần hoàn, nó có nhiều nhiều ưu điểm: Dung dịch dinh dưỡng phù hợp với các loại rau, có khoảng cách thích hợp giữa mặt nước và gốc cây tạo điều kiện cho một số lượng lớn rễ nằm lơ lửng trong không khí. Các rễ này có thể lấy ô xy dễ dàng để hô hấp. Chỉ có một lượng rễ nhất định nhúng trong dung dịch để hút nước và dinh dưỡng. Vì thế cây sinh trưởng rất nhanh. Cây rau có thời gian sinh trưởng 3 - 4 tuần. Khi dung dịch xuống thấp, sự chênh lệch giữa bộ phận trên và dưới hộp tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây. Ở Australia hiện nay đang trồng cây trong dung dịch với 2 hệ thống

Page 41: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

40

(Cocopeat va NFT) tức trồng rau trong dung dich với kỹ thuật sử dụng xơ dừa làm giá thể và dùng nilong đựng dung dịch dinh dưỡng tuần hoàn. - Nhược điểm:

Trồng thuỷ canh phải đầu tư cơ bản lớn, giá thành cao.Yêu cầu kỹ thuật chặt chẽ từ trồng đến thu hoạch. Pha dung dịch dinh dưỡng đa lượng và vi lượng, pH... phù hợp với từng loại rau, phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng. Đây là biện pháp kỹ thuật sản xuất rau sạch, có thể áp dụng để sản xuất rau nơi thiếu đất trồng rau như trên đồi núi, hải đảo, ban công, nhà cao tầng...Trung tâm phát triển rau châu Á (AVRDC) và FAO đã khuyến khích phát triển rau sạch bàng phương pháp thủy canh sản xuất theo hệ thồng tuần hoàn hoặc không tuần hoàn. Hệ thống này gồm hộp xốp, hộp bằng PE; giá thể trồng cây đựng dung dịch.

2.3.Trồng rau bán thủy canh (Semi- Hydroponic)

Phương thức này cũng trồng rau không đất nhưng các giá thể là những nguyên liệu vụn xơ dừa, có thể dùng trấu hun, mùn cưa đã xử lý; dung dịch đa - vi lượng; hệ thống ống dẫn, bình đựng dung dịch, khung, màn chống côn trùng. Diện tích trồng tùy khả năng đầu tư.

Trong những năm gần đây trồng trọt không đất đã có nhiều tiến bộ như là một phương tiện sản xuất thâm canh của nghề làm vườn. Những kỹ thuật này được sử dụng tương đối dễ dàng và có hiệu quả các giá thể tự nhiên đầu tiên là cát, sỏi nhưng ngày nay càng nhấn mạnh đến các môi trường hữu cơ sẵn có ở địa phương: Trấu hun, than bùn, mùn cưa, vụn xơ dừa...Đây là những nguyên liệu rất dễ kiếm, giá thành thấp và sau khi làm xong có thể tận dụng làm phân bón cho hoa, cây cảnh và các cây trồng khác. Với việc sử dụng các giá thể này chúng ta có thể tránh được những mặt hạn chế của đất như: Đất xấu, đất bị ô nhiễm do hoá chất bảo vệ thực vật, các vi sinh vật gây hại trong đất... Đồng thời với kỹ thuật này chúng ta có thể áp dụng vào sản xuất rau sạch.

Ví dụ để trồng cà chua trong giá thể vụn xơ dừa chúng ta cần pha dung dịch dùng trong 500 lít nước, ta pha dung dịch dinh dưỡng áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt như sau:

Các nguyên tố đa lượng: Ca(NO3)2 210g; Ca(NO3)2 200g; Urê 75g; KH2PO-4150g; MgSO4.7H2O 50g

Các nguyên tố vi lượng: FeSO4 10g; H3BO3 3g; ZnSO4.7H2O 2g; MnSO4.4H2O 3g (NH4 )Mo7O24.4H2O 2g; CuSO4.7H2O 2g

Tưới cho cà chua theo từng thời kỳ sinh trưởng: Giai đoạn cây con: mỗi ngày tưới 1 lần vào buổi sáng, mỗi lần tưới 10 phút,

với vận tốc 70 giọt/phút. Giai đoạn ra hoa, ra quả: Mỗi ngày tưới 2 lần (sáng và chiều), mỗi lần tưới 15 phút, với vận tốc 70 giọt/phút.

Page 42: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

41

Giai đoạn bắt đầu thu hoạch đến hết: Ngày tưới 2 lần (sáng và chiều), mỗi lần tưới 10 phút, với vận tốc 70 giọt/phút. Tuỳ vào giống và thời vụ trồng, có thể pha dung dịch dinh dưỡng để tưới cho cà chua 8 -10 lần hoặc nhiều hơn nhằm thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cho cây. Câu hỏi bài 4: 1. Các phương thức trồng rau chủ yếu, ưu nhược điểm của mỗi phương thức trồng? 2. Tại sao phải trồng rau thuỷ canh, bán thuỷ canh, ưu nhược điểm của những phương pháp này ?

Bài 5 CÁC KỸ THUẬT CƠ BẢN ĐỂ TRỒNG RAU

1. KỸ THUẬT VƯỜN ƯƠM 1.1.Chọn đất, làm đất và lên luống - Chọn đất làm vườn ươm:

Vườn ươm là nơi cây con sinh trưởng đầu tiên và có tính chất quyết định đến chất lượng cây giống, do đó ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất sau này. Hầu hết các giống rau thời gian đầu cây nhỏ, yếu, nên gieo vào vườn ươm để có điều kiện chăm sóc cho cây sinh trưởng tốt, trồng ra ruộng sản xuất sẽ có tỷ lệ cây sống cao, vừa tiết kiệm được công lao động, tiết kiệm thời gian, không gian. Đối với các loại rau bộ rễ có khả năng tái sinh mạnh, khi nhổ đi trồng làm đứt rễ chính, sẽ kích thích các rễ phụ phát triển nhiều.

Đất vườn ươm có thể tạm thời hay cố định. Phải chọn đất gần nguồn nước, đất nhẹ, tơi xốp, cao ráo, thoát nước tốt, đất có hàm lượng dinh dưỡng cao, gần nơi trồng đại trà, sau này đỡ tốn công vận chuyển cây giống và hạn chế dập nát do vận chuyển, giảm tỷ lệ sâu bệnh, có thể làm trong nhà lưới để có điều kiện chăm sóc tốt. Vườn ươm cây con thường được che mưa nắng bằng các mái che. Diện tích làm vườn ươm chiếm từ 1 - 1,5% so diện tích trồng đại trà. Trong điều kiện cho phép có thể làm cố định thì xây cao 50 -70cm, có lưới che mưa, che nắng hoặc mái che bằng cót, phên, khung nên làm bằng tre, gỗ, sắt chắc chắn.

Trường hợp chọn đất làm bầu ươm cây giống (gieo hạt vào bầu đất): Trong trường hợp làm thí nghiệm hoặc không chủ động vườn ươm, có thể gieo vào trong khay hoặc gieo vào bầu đất (phương pháp này cũng có thể áp dụng ở vụ rau sớm mà chưa có nhà ươm cây con). Các cây như họ bầu bí gieo sớm thường cho gieo vào bầu đất, các bầu này để trong đất, khi đem trồng vận chuyển dễ dàng). Đất cho vào bầu PE

Page 43: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

42

hay cho vào khay có tỷ lệ 70% đất phù sa + 30% phân chuồng hoai, hoặc theo tỷ lệ trấu hun + đất mặt + phân chuồng hoai mục tỷ lệ 1: 1: 1 tương ứng.

Bầu PE kích thước 7 x 10 cm hoặc 5 x 7cm, 10-12 x 10-15 cm (cây có lá lớn) ; có thể dùng các nguyên liệu địa phương như lá chuối, lá dừa làm bầu. - Làm đất và lên luống: Làm đất là sử dụng những công cụ chuyên dùng tác động vật lý vào lớp đất canh tác, làm thay đổi độ lớn, độ tơi xốp, chế độ nhiệt, nước và không khí trong đất. Sự tác động vào đất sẽ tạo điều kiện tốt cho hạt giống nảy mầm và bộ rễ khỏe, cây sinh trưởng tốt. Đất để gieo hạt, trồng rau cần phải cày sâu, làm kỹ, bằng phẳng, nhặt sạch cỏ dại, đặc biệt với các loại cỏ có thân ngầm như cỏ gấu. Đất gieo trồng rau tốt nhất được phơi ải 10 -15 ngày, bón phân đủ hoai mục và trộn đều vào đất, đất không được mịn quá khi gieo hạt. Lên luống cao 10 - 20cm tuỳ loại đất và mùa vụ, luống rộng 90 - 100cm để thuận lợi trong quá trình chăm sóc, luống dài từ 10-15m nên xẻ rãnh thoát nước khi mưa.

1.2. Chuẩn bị hạt giống trước khi gieo - Kiể m tra độ thuần của hạt giống

Hạt giống thuần có nghĩa là trong kho hạt giống phải mang đầy đủ các đặc trưng đặc tính của giống, ít pha tạp hạt cỏ dại và các vật chất bên ngoài khác. Mục đích của kiểm tra độ thuần hạt giống là xác định thành phần của mẫu đang được thử nghiệm và để nhận biết các hạt giống khác nhau, chất trơ và các vật chất khác có trong mẫu không phải là hạt giống..

+ Độ thuần di truyền: Giống cần gieo là hạt giống thuần không lẫn các loại hạt khác cùng loài, khác

giống, khác loài cùng họ vv..., độ lẫn cho phép thay đổi từ 0 đến 0,1%. + Độ thuần cơ học (độ sạch của hạt): Giống cần gieo là hạt giống sạch không được lẫn các hạt cỏ dại, vật chất trơ như

sỏi, đá, đất, rơm, rác, vỏ hạt, hạt hỏng, quả không hạt, tàn dư một số loài bệnh vv... độ lẫn cho phép từ 1 đến 5%.

Để tìm hiểu ảnh hưởng của tạp chất với quá trình trồng trọt sau này người ta phân tạp chất thành hai nhóm:

Tạp chất sống: Các phần tử sinh học còn sống bao gồm hạt của cây trồng khác loài; hạt cỏ dại; tàn dư của một số loài bệnh; sâu mọt. Trong số các phần tử trên thì hạt của cây trồng khác loài nhưng cùng nhóm canh tác (như cải bẹ và cải bắp), hạt cỏ dại và tàn dư bệnh là các phần tử nguy hiểm. Tạp chất chết: Tất cả các tạp chất còn lại như các mẫu thân, hạt vỡ, sỏi, đá, thuỷ tinh...

Page 44: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

43

Tạp chất làm giảm giá trị kinh tế của lô hạt giống. Tạp chất sống thuộc các phần tử nguy hiểm còn tiếp tục được nhân lên và gây hại cho cây. Lô hạt giống càng ít tạp chất thì độ sạch càng cao và lô hạt giống càng có giá trị, độ sạch cao nhất là 100%. - Thử tỷ lệ nảy mầm (NM) và sức nảy mầm của hạt giống

Tỷ lệ nảy mầm là khả năng mọc mầm tối đa của lô hạt giống trong một khoảng thời gian cho phép đối với từng loài cây rau. Biết được tỉ lệ nảy mầm của hạt giống để xác định lượng giống gieo nhằm đạt được mật độ theo yêu cầu. Tỉ lệ nảy mầm càng cao thì lô hạt giống càng tốt. Giá trị cao nhất của tỉ lệ nảy mầm là 100%. Khi lô hạt giống có sức nảy mầm cao và sức nảy mầm xấp xỉ tỉ lệ nảy mầm thì hạt giống có giá trị gieo trồng tốt nhất. Hạt giống rau càng có độ thuần di truyền cao, càng đồng đều thì càng có tỉ lệ nảy mầm và sức nảy mầm cao.

Sức NM là khả năng mọc mầm đồng đều của hạt giống trong một khoảng thời gian thích hợp. Sức nảy mầm càng cao thì lô hạt càng đồng đều, sức sống càng tốt, khi gieo trồng trên đồng ruộng sẽ tạo ra quần thể đồng đều, sinh trưởng mạnh, tiền đề để áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh có hiệu quả.

Tỷ lệ nảy mầm chính thức tối thiểu cho cây rau bởi các tiêu chuẩn của Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa (ROC) ( Bảng 9). - Đánh giá hạt giống rau

+ Tỷ lệ nảy mầm cao Đây là yêu cầu quan trọng nhất của khách hàng, hạt giống cần được kiểm tra kỹ

ở công ty hạt giống theo nguyên tắc của ISTA (International Seed Testing Assosiation). Có nhiều phương pháp kiểm tra tỷ lệ NM, kiểm tra tình hình sinh trưởng, so sánh với sản phẩm được giới thiệu ở mỗi loại rau yêu cầu có khác nhau nhưng tối thiểu đảm bảo 75 - 80% (đa số rau ăn lá, ăn quả, ăn củ), chỉ một số loại rau đạt 55 - 65% (dưa hấu không hạt, mướp đắng, cải cúc).

+ Độ ẩm hạt tối ưu: Đây là tiêu chuẩn quan trọng có thể kéo dài hay rút ngắn tuổi thọ của hạt. Về

nguyên tắc bảo quản hạt giống, hạt phải đạt độ ẩm thấp (8-12%), độ ẩm cao sẽ làm hạt nhanh chóng mất sức nẩy mầm.

+ Độ thuần, độ sạch của hạt: Hạt giống đem gieo phải đảm bảo độ thuần di truyền và độ thuần cơ học. Giống phải thuần khiết, không lẫn hạt của những cây trồng khác. Nếu bị lẫn giống thì giống sớm gieo vào vụ muộn không ra hoa, giống muộn gieo vào vụ sớm sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng và kéo dài thời gian sản xuất. Đảm bảo độ sạch, không lẫn tạp các loại hạt cỏ dại, gạch, đá, sỏi, que rác, hạt hỏng, vv... Lẫn tạp sinh học hoặc lẫn tạp cơ giới có thể do nhiều nguyên nhân: Do chọn lọc chưa tốt, bị lẫn trong quá trình sản xuất hạt giống, trong quá trình thu hoạch, phơi hong, đóng gói, kho bảo quản hạt chưa tốt...hoặc do quá trình lai tạo. Trên thế giới các công ty giống đặc biệt quan tâm sự lan truyền cỏ dại.

Page 45: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

44

+ Hạt không có mầm mống sâu bệnh hại: Đây là tiêu chuẩn quan trọng, các giống lưu thông trên thị trường quốc tế khi sang nước khác đều được kiểm dịch thực vật. Khi xuất khẩu giống đều tuân theo quy định trong quá trình vận chuyển. Một mặt hàng giống phải gắn một nhãn mác, trên đó có ghi đầy đủ các thông tin:

Bảng 9: Tỷ lệ nẩy mầm (NM) tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc gia ROC

Cây rau NM (%)

Cây rau NM (%)

1. Cây họ đậu đỗ (Legumes) Hành tây, hành ta 75 Đâụ ngựa 70 5.Cây họ cà

(Solanaceaea)

Đậu ngự, Hà Lan, cove leo, đậu đũa

75 Cà tím, ớt (cay, ngọt) 65

Củ đâụ 80 Cà chua 75 2. Cây họ thập tự (Crucifers)

6. Cây rau nhiệt đới khác

Sup lơ xanh, sup lơ, cải bao, bắp cải, cải xanh, cải xoăn, cải củ

75 Rau dền, rau muống 70

Cải củ tròn 80 Ngô bắp 80 3. Cây họ bầu bí (cucubits) Ngô đường 75 Mướp đắng 65 7. Cây rau ưa lạnh khác Mướp hương 75 Măng tây, củ cải đường,

cải thước 75

Bầu, dưa chuột, dưa bở, bí đỏ, dưa hấu

80 Cà rốt 70

Dưa hấu không hạt 60 Mùi (ngò) 75 Bí xanh 70 Xà lách xoăn 70 4. Họ hành tỏi (Alliums) Rau cải cúc (tầng ô) 55 Hẹ, tỏi tây 70 Xà lách 70

(Nguồn: AVRDC - Cẩm nang trồng rau, 2002)

Một là tên của loài, giống hoặc giống lai, miêu tả loài, giống để tránh sự nhầm lẫn, số lượng. Hai là tên đầy đủ và địa chỉ của người vận chuyển vào những nước mua, bán hạt giống hoặc người vận chuyển hạt tới tàu bến. Ba là các thông tin khả năng nẩy mầm như tỷ lệ nảy mầm, ngày thử nghiệm, hạn sử dụng.

+ Giống có những đặc điểm tốt: chín sớm, tính chống chịu tốt, đảm bảo năng suất cao ổn định.

Page 46: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

45

+ Hình thái bên ngoài của hạt giống: Giống có sức sống tốt, biểu hiện ra bên ngoài hạt chắc mẩy, đều, to, tốc độ nảy mầm nhanh. 1.3.Xác định lượng hạt giống trước khi gieo - Cơ sở để xác định lượng hạt giống gieo:

Số lượng hạt giống/đơn vị trọng lượng hạt (hạt/g). Độ thuần của hạt (độ thuần di truyền và độ thuần cơ học). Tỷ lệ nảy mầm của hạt. Số lượng cây sẽ trồng/đơn vị diện tích. Tuy nhiên khi xác định lượng hạt giống cần quan tâm đến giá trị thực dùng của hạt giống, thời gian gieo trồng, điều kiện đất đai, kích thước và khả năng sinh trưởng của cây đó, dự đoán khả năng gây hại của sâu bệnh để có dự trù hạt giống chính xác. - Xác định lượng hạt giống gieo: Lượng hạt giống gieo của một số loại rau nhiều hay ít phu thuộc vào tỷ lệ nảy mầm của hạt, kích thước, khối lượng hạt, khoảng cách gieo trồng trên ruộng.. . Bảng 10: Các nhóm rau chia theo số lượng hạt trong 10g

1 - 500 hạt/10g 700 - 2.400 hạt/10g 2.500 - 4.500 hạt/10g 5.000 - 25.000 hạt/10g

Bí ngô, đậu côve, đậu côbơ (30 - 35 hạt ) Đậu Hà Lan (50 hạt) Dưa hấu (225 hạt) Dưa chuột (320 hạt) Dưa thơm (350 hạt) Măng tây (500 hạt)

Rađi (750 hạt) Cải củ (1.100 hạt) Ớt (1.400 hạt) Cà (2.200 hạt) Súp lơ (2.300 hạt)

Hành tây (2.700 hạt) Cải bắp (2.800 hạt) Su hào (3.100 hạt) Cà chua (3.200 hạt) Sup lơ (3.500 hạt) Tỏi tây (3.500 hạt) Hành hoa (4.500 hạt)

Xà lách (8.600 hạt) Cần tây (25.000 hạt)

Bảng 11: Số hạt gieo/m2 của một số cây rau Tên rau Số hạt gieo/m2 (hạt) Tên rau Số hạt gieo/m2 (hạt) Mướp ngọt 12 Cải củ 45 Mướp đắng 12 Rau muống hạt 250 Bầu 12 Đậu bắp 18 Ngô rau 20 Rau thơm 4-6 cây Dưa leo 18 Ớt 25 Cà tím 8 Rau cần 80 - Xác định lượng giống dự phòng và cơ cấu trồng rau hợp lý:

Ngoài lượng giống thực tế cần chuẩn bị cho kế hoạch gieo trồng, thì phải luôn luôn chuẩn bị 1 lượng giống dự phòng vào khoảng 10 - 20% lượng hạt cần thiết đồng

Page 47: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

46

thời bố trí cơ cấu rau hợp lý để hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và trên thị trường. K thường được ký hiệu là lượng giống dự phòng, còn gọi là hệ số an toàn. - Hệ số nhân giống (HSN):

HSN bằng diện tích trồng ra ruộng sản xuất (m2 )/diện tích vườn ươm (m2). Ví dụ HSN của một số loài rau như sau: Hành: 15 - 20. Xà lách: 30 - 40. Su hào: 40 - 50. Bắp cải, su lơ: 80 -120 . Cà, ớt, ớt ngọt khoảng 60 - 100.

+ Giống rau nhân giống hữu tính: Phần lớn các loại rau đều được nhân giống bằng hạt, cho hệ số nhân giống cao,

phương pháp canh tác dễ dàng, kinh tế hơn so với phương pháp nhân giống vô tính. Cây nhân giống từ hạt thích nghi tốt với sự thay đổi điều kiện canh tác, tuy nhiên để giữ được những đặc tính sinh học và nông học tốt cần áp dụng các biện pháp nhân giống tổng hợp.

+ Giống rau nhân giống vô tính: Phương pháp này cho phép giữ những đặc tính mong muốn của giống, hệ số

nhân giống thấp và chi phí nhân giống cao hơn trồng bằng hạt. Vì vậy việc nhân giống vô tính chỉ thực hiện khi rau không có khả năng nhân giống bằng hạt hay khó có hạt giống như tỏi, hành củ đỏ, gừng. Nhân giống vô tính cho phép thu hoạch sản phẩm nhanh hơn so với gieo giống bằng hạt như rau muống, khoai tây, hành ta, rau húng, bồ ngót. Cơ quan dinh dưỡng dùng làm giống có thể là thân bò (rau má), thân rễ (gừng), thân hành (hành, tỏi), thân củ và củ (củ cải, củ từ, khoai ngọt), sau một thời gian trồng, mầm cho thân non, cây trưởng thành mang trái hạt hay tích lũy trở lại chất dinh dưỡng.

Giá trị nông học của hạt giống rau được xác định bằng phẩm chất giống và chất lượng hạt. 1.4. Xử lý hạt giống trước khi gieo - Mục đích xử lý:

Kích thích hạt nảy mầm nhanh, rút ngắn thời gian mọc mầm, tăng cường quá trình trao đổi chất, thúc đẩy quá trình sinh trưởng của cây, làm cây chín sớm, hạn chế sâu bệnh gây hại, tăng khả năng chống chịu cho cây, góp phần tăng năng suất và trong một số trường hợp có khả năng gây đột biến ở rau. - Các phương pháp xử lý hạt chủ yếu trên thế giới + Xử lý nhiệt độ: Các nước tiên tiến người ta thường xử lý hạt giống rau bằng nhiệt độ gồm xử lý nóng khô và thay đổi nhiệt độ để huấn luyện tính chống chịu cây rau, xử lý nhiệt độ thấp (xuân hoá) đối với cây rau 2 năm sẽ làm cho cây thông qua giai đoạn xuân hoá và trổ ngồng, đồng thời tăng tính chịu rét đối với những cây rau có nguồn gốc nhiệt đới.

+ Xử lý hoá học: Hoá chất dùng là các nguyên tố vi lượng, các chất kích thích sinh trưởng có tác dụng tăng cường hoạt động của các men, quá trình hô hấp, trao đổi

Page 48: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

47

chất, trong nhiều trường hợp gây đột biến ở rau. Đây là 1 phương pháp được áp dụng phổ biến nhất ở các nước phát triển.

+ Xử lý vật lý: Là phương pháp xử lý được nhiều nước áp dụng rộng rãi trong sản xuất rau. Kết quả xử lý là làm tăng tỷ lệ nảy mầm, thúc đẩy sự sinh trưởng, phát triển, tăng năng suất và chất lượng rau.

Người ta thường dùng ánh sáng đỏ, ánh sáng tím và các chất đồng vị phóng xạ như Co60, P32 để xử lý hạt giống rau. Dùng ánh sáng đỏ và ánh sáng tím để xử lý hạt cà chua và hạt cải bắp trong 5 phút làm tăng tỷ lệ nảy mầm 10%. Xử lý hạt giống rau bằng tia laze làm tăng năng suất một số loại rau: Các nhà khoa học phòng Sinh lý thực vật Trường Đại học tổng hợp Kazactan (Liên Xô) đã thu được thành tựu đáng kể về tác dụng sinh lý của chùm tia laze lên hạt giống rau. Với cường độ và thời gian thích hợp phương pháp này có tác dụng rất tốt đối với sự nảy mầm của hạt và sự sinh trưởng, phát triển của cây rau.

Sử dụng các chùm tia laze có thể làm thay đổi tính di truyền của nhiều giống rau: Bằng phương pháp bức xạ laze có thể gây đột biến nhiều giống cà chua so với giống cà chua ban đầu về hàm lượng đường và axít ascorbic.

+ Xử lý hỗn hợp chất dinh dưỡng: Gồm hỗn hợp đa lượng và vi lượng, vôi, nước mưa trong và tự pha chế để dùng

nước trong ngâm hạt...trong điều kiện không ánh sáng (kinh nghiệm của Trung Quốc). Tuy nhiên trên thế giới tại các nước phát triển, phương pháp xử lý hạt rau phổ biến nhất là xử lý hóa học và vật lý. - Một số phương pháp xử lý hạt giống trước khi gieo thông dụng ở nước ta

+ Phương pháp xử lý ngâm nước thúc mầm Phương pháp này chủ yếu rút ngắn thời gian mọc mầm. Thường áp dụng đối với một số loại hạt thuộc họ hoa tán (cà rốt, cần tây, ngò), rau họ hành tỏi... cấu tạo vỏ dày và chắc nên hút nước chậm (vỏ có cutin bao khó thấm nước). Các loại rau có nguồn gốc nhiệt đới ưa nhiệt độ cao nhưng gieo sớm vào vụ Xuân (hoặc rau vụ Xuân Hè gieo sớm trong vụ Đông) gặp nhiệt độ thấp, ngay cả rau có nguồn gốc ôn đới nhưng khi gieo gặp rét đậm, nhiệt độ quá thấp... Nếu gieo thẳng qua nhiều ngày mới mọc như vậy hạt sẽ dễ bị sâu bệnh gây hại, hoặc hạt nằm lâu trong đất dễ bị thối do thiếu ôxy. Mặt khác khi thời vụ khẩn trương, người trồng muốn xử lý gieo hạt, gieo trồng nhanh để đảm bảo thời vụ, cơ cấu cây trồng hoặc tăng vụ. Xử lý thúc mầm còn đảm bảo kế hoạch gieo trồng sát thực tế, tránh lãng phí lượng giống gieo và công làm đất, gieo hạt, tỉa cây cho người trồng. Cách xử lý ngâm nước:

Ngâm nước và gieo hạt: Cho hạt vào nước nóng có nhiệt độ 33oC - 35oC (2 sôi + 3 nguội), sau đó ngâm như nhiệt độ không khí, có thể ngâm ở nhiệt độ cao hơn đối với các loại hạt vỏ cứng ở nhiệt độ 40 - 50oC. Thời gian ngâm tuỳ thuộc vào hạt có vỏ dày hay mỏng. Các loại rau trong họ thập tự (cải các loại) ngâm 3- 4 giờ; bầu bí, cà, ớt

Page 49: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

48

ngâm 6 - 24giờ. Ngò (mùi) ngâm 12 - 24 giờ; các loại hành tỏi, măng tây ngâm 20 - 24 giờ. Trong quá trình ngâm phải thay nước (6-12 giờ/lần với khối lượng hạt nhỏ, 2 - 6 giờ/lần với khối lượng hạt lớn) đảm bảo nước sạch, đủ ô xy cho mầm hô hấp. Sau khi ngâm hạt trương nước đến mức tối đa, vỏ hạt căng lên, vớt hạt rửa sạch, đãi hạt lép, để ráo nước, lúc này có thể đem gieo. Sau khi ngâm nước phải gieo hạt vào đất có đủ ẩm. Những nơi thường xuyên bị khô hạn, không chủ động nguồn nước tưới thì không nên xử lý.

Ngâm nước thúc mầm (ngâm và ủ hạt): Muốn cho hạt nảy mầm nhanh sau khi ngâm hạt cho đến khi no nước, đãi sạch, vớt ra ủ cho hạt nảy mầm rồi mới gieo. Cỏ thể rãi hạt thành lớp dày 8 cm trong khay nhựa, rá, rổ có lỗ hoặc cho vào vải ướt (thấm nước, thấm khí) rồi tẩm nước định kỳ. Đậy kỹ hạt bằng vải ướt và đặt nơi có nhiệt độ 25 - 30oC, ủ đến khi hạt nứt nanh thì đem gieo.

Cần chú ý xử lý một số trường hợp hạt bị hỏng trong quá trình ngâm và sau khi gieo: Không nên ngâm hạt quá lâu vì sẽ làm cho một số chất hòa tan trong hạt bị thất thoát. Sau khi xủ lý ngâm nước thúc mầm, phải gieo hạt trên đất đủ ẩm, hoặc gieo xong phải tưới ngay đảm bảo đất đủ ẩm. Khi nhiệt độ dưới 15oC cần tạm ngừng gieo hạt, hạn chế hạt mọc mầm bằng cách trải hạt ra trên nong nia, rắc một lớp tro mỏng lên hạt.

+ Phương pháp xử lý bằng thuốc hoá học Hóa chất thường dùng là các nguyên tố vi lượng và các chất điều hòa sinh trưởng. Những hóa chất này sẽ kích thích các enzim hoạt động, tăng quá trình trao đổi chất, tăng chất lượng sản phẩm, diệt trừ nấm bệnh trên hạt giống. Xử lý hạt hành trước gieo bằng axít boric (H3BO3 ) nồng độ 0,01% trong 10 -12 giờ đã kích thích hạt nảy mầm nhanh, cây khỏe, giảm tỷ lệ cây bị bệnh chết ẻo.

Bảng 12. Một số hóa chất dùng xử lý hạt cà chua Tên hóa chất Nồng độ (%) Thời gian xử lý (phút)

KMnO4 0,1 30 - 60 CuSO4 0,2 30 - 120 ZnSO4 0,02 30 - 60 H3BO3 0,02 30 - 60

Thuốc hoá học thường sử dụng xử lý hạt diệt trừ nấm bệnh dưới dạng bột hay nước, nguyên tắc là làm cho thuốc phủ đều quanh hạt. Các loại thuốc thông dụng dùng cho hạt giống rau gồm thuốc gốc thủy ngân hữu cơ như Ceresan, Falisan rất độc cho người và gia súc và thuốc không có thủy ngân như Arasan (Thiram), Spergon (Chloronil), Captan ít độc cho người và gia súc. Ngoài ra các loại thuốc như oxit đồng, dung dịch thuốc tím (KMnO4 ) 1%, Formaldehyde:

Cách xử lý ướt :

Page 50: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

49

Xử lý ướt bằng Formaldehyde 37- 40%, nhúng hạt vào dung dịch thuốc pha loãng nồng độ 1/300 và giữ hạt ướt trong 1 giờ, sau đó hong khô hạt. Xử lý hạt bằng thuốc tím 1% trong 10 phút, sau đó rửa sạch hạt bằng nước và hong hạt ráo nước lạ i.

Cách xử lý khô: Trộn hạt với thuốc Thiram hay Captan từ 3-5g thuốc cho 1kg hạt giống. Xử lý

khô thường được thực hiện trong ngày trước khi gieo hạt hay trước một ngày. Có thể xử lý sớm hạt giống khô nhưng phải giảm liều lượng thuốc. Dùng Molipdat natri (Na2MoO4 ) 50 - 100g hòa tan trong 2 lít nước sạch, phun lên khối lượng hạt giống gieo cho 1ha có tác dụng tốt.

+ Xử lý bằng nước nóng: Phương pháp này thường áp dụng với hạt vỏ dày, khi gieo mọc chậm, nên dùng

nhiệt để kích thích hạt nảy mầm nhanh, diệt các nguồn nấm bệnh trên bề mặt hạt. Thường người ta xử lý bằng nhiệt độ 50oC, thời gian xử lý phụ thuộc vào từng loại hạt giống: Bắp cải, su lơ, cải củ: 15 phút; cà chua, hành tây 25 phút; các loại cà 30 phút. Xử lý bằng nước nóng 50 - 52oC (pha nước 3 sôi 2 lạnh) ngâm trong 20-30 phút có khả năng diệt được một số mầm bệnh tốt nhất.

1.5. Kỹ thuật gieo hạt ở vườn ươm 1.5.1. Phương pháp gieo vãi hạt trên luống đất

Phương pháp gieo vãi thường áp dụng khi sản xuất cây giống trong vườn ươm hoặc các loại rau gieo thẳng hạt/luống ở ruộng sản xuất đại trà. Sau khi lên luống bằng phẳng và trộn phân đều trên luống, chia hạt ra từng luống, mỗi luống gieo ít nhất 2 lần: lần đầu phân bố hạt đều trên bề mặt luống, lần 2 gieo bổ sung, cân đối mật độ hạt trên mặt luống, các góc luống, mép luống. Nếu các loại hạt nhỏ, khi gieo có thể trộn đều hạt với tro hay đất bột, vôi bột nhằm tăng khối lượng hạt lên cho dễ gieo.

Lấp hạt : Dùng vồ hoặc dầm, dầm nhẹ trên mặt luống để hạt tiếp xúc với đất tạo điều kiện cho hạt hút nước nảy mầm nhanh (đối với hạt nhỏ có thể dùng cào răng nhỏ cào nhẹ lấp hạt, hoặc dùng chổi rành cùn đập lên mặt luống cho hạt tiếp xúc với đất).

Phủ luống: sau khi lấp hạt xong, dùng trấu, rơm rạ băm ngắn (3- 4cm) phủ lên luống. Lớp này có tác dụng giữ ẩm cho đất, làm mặt luống luôn tơi xốp không bị kết váng hoặc chống trôi hạt sau những lần tưới hoặc mưa, đồng thời chống cỏ dại. Sau khi phân huỷ cung cấp mùn cho đất.

1.5.2. Phương pháp gieo hạt vào bầu đất

Thường áp dụng ở những vùng hoặc mùa vụ có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cho những loại rau bộ rễ tái sinh kém, khối lượng thân lá lớn như dưa hấu, dưa leo, mướp, bầu, bí, đu đủ...và những giống rau quý hiếm để bảo vệ cây giống. Ngoài ra có thể gieo khi thời vụ khẩn trương để kịp thời vụ.

Page 51: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

50

Vỏ bầu: Vỏ bầu thường là dùng túi polyethylen (PE) hay những nguyên liệu sẵn có tại

địa phương như lá chuối, lá dừa tươi. Đường kính của bầu đất khoảng 4-5cm, cao 6-7cm. Gieo hạt trong bầu là thuận lợi nhất cho việc chăm sóc cây con, tiết kiệm hạt giống (chỉ tốn 1/2 lượng hạt giống/ha), đặc biệt chống rét cho cây và tỷ lệ mọc cao, ngoài ra có thể gieo sớm để tranh thủ thời vụ, có điều kiện chăm sóc tốt, đảm bảo cây giống có chất lượng cao. Chuẩn bị đất làm bầu: Ruột bầu (nguyên liệu trong bầu) phải dùng đất tơi xốp, không có nấm bệnh, trứng sâu: Nguyên liệu trong bầu thường dùng là 70% đất phù sa + 30% phân chuồng hoai mục chất lượng tốt trong đó có 1% vôi bột trộn đều ủ với phân trước; có thể trộn hỗn hợp đất mặt (tơi xốp) + tro, trấu hun + phân chuồng hoai mục theo tỷ lệ 1: 1:1; hoặc trộn 1/3 đất bùn ao đã phơi ải, đập nhỏ, sạch cỏ dại và sâu bênh + 1/3 xỉ than + 1/3 phân chuống hoai mục. Cứ 10kg ruột bầu thì cho thêm 0,5kg supe lân để kích thích quá trình ra rễ và sinh trưởng của rễ. Ngoài ra ruột bầu có thể dùng mùn cưa, vụn xơ dừa đã xử lý có khả năng thấm nước thấm khí là tốt nhất.

Túi PE (ni lon) làm bầu phải có chất lượng tốt, nếu không dễ bị vỡ bầu. Kích thước túi đường kính rộng x cao là 7 x 10cm, hoặc 5 x 7cm, hoặc 10 x 15cm với những cây con có lá lớn cây cao. Mỗi túi PE đục 2 lỗ đối diện cách đáy túi 2cm để thoát nước khi tưới và điều hoà không khí trong bầu. Cho đất vào bầu: Cho đất vô đáy bầu 1/3 túi, nén chặt đất ở đáy bầu và tiếp tục cho đầy. Số bầu phải lớn hơn số cây định trồng 10 -15%. Sau đó pha 20g thuốc Captan hay Copper B/10lít nước tưới cho 2m2 bầu đất trước khi gieo hạt.

Vị trí đặt bầu: Chọn nơi bằng phẳng có ánh sáng đầy đủ và thoáng gió để làm vườn ươm. Xếp các bầu chặt khít thẳng hàng, sao cho mặt vườn ươm hình chữ nhật.

Gieo hạt: Hạt ủ nứt nanh khi rễ mầm dài khoảng 5mm là vừa để gieo vô bầu. Trước khi gieo, tưới đẫm nước vào bầu đất, mỗi bầu gieo 1 hạt, đặt hạt nằm ngang, những hạt có mầm dài hoặc cong thì cho rễ phải hướng xuống đất. Gieo xong phủ một lớp đất mịn trên mặt hạt dày 1-1,5cm hoặc rải một lớp tro thảo mộc, sau đó tưới nước giữ ẩm 2 lần/ngày.

Những loại rau này có thể gieo hạt trên luống với khoảng cách nhất định và mật độ thưa theo hàng. Khi cây giống đủ tuổi trồng, dùng dao hoặc dầm (xén) xắn cả phần rễ theo từng khối hình nón lật ngược rồi chuyển ra trồng ở ruộng sản xuất . 1.5.3. Phương pháp gieo hạt vào khay:

Thường áp dụng đối với các hầu hết các loại rau. Nếu bộ rễ tái sinh tốt, cây nhỏ có thể gieo nhiều hạt/lỗ. Nếu cây chiếm diện tích dinh dưỡng lớn có thể gieo 1 cây/lỗ. Số lỗ/khay lớn nhỏ, khoảng cách thưa hay dày, sâu hay nông khác nhau là để gieo các loại hạt khác nhau, thông thường từ 50 -100 lỗ/khay. Độ dày của nguyên liệu cho vào

Page 52: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

51

các lỗ trong khay trung bình 5-7cm. Khi cây giống đủ tuổi nhổ hết cả phần rễ trong lỗ khay đem trồng. 1.6. Chăm sóc sau gieo - Tưới nước:

Sau khi gieo, đất vườn ươm cần phải được giữ ẩm thường xuyên, độ ẩm khoảng 70-80%. Nếu ẩm độ đất thấp, trời nắng nóng đất khô nhanh thì tưới 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm hay chiều mát, nếu trời rét có thể tưới 10 -11giờ sáng hay 3giờ chiều. Phải giữ độ ẩm đều thường xuyên, thời gian tưới và khoảng cách tưới 1 lần hay 2lần/ngày tuỳ độ ẩm đất, mùa vụ gieo - Bỏ rơm rạ ra khỏi luống :

Sau khi gieo một thời gian hạt bắt đầu mọc, thời gian mọc mầm (1 hoặc 2 lá mầm) phụ thuộc vào loại rau và thời tiết khi gieo. Ví dụ: Các loại rau họ hoa chữ thập có 2 lá mầm sau gieo khoảng 2 - 3 ngày, dưa chuột 3- 4 ngày; ớt, cà 7-10 ngày; đậu cô ve 3- 5 ngày; dưa hấu 8 - 9 ngày; hành tỏi 10 -12 ngày; bí, bầu 5 - 7 ngày; ngò 10 -15 ngày, cà chua 5 - 7 ngày... Lúc này cần bỏ lớp rơm rạ trên cùng, nếu để lâu ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây (làm cây cong queo, vóng, yếu ớt). Bỏ rơm rạ phải nhẹ nhàng, vào lúc lặng gió tránh gió to, sau khi bỏ xong rơm rạ cần tưới 1 lần để bộ rễ không bị ảnh hưởng. Trong trường hợp phủ bằng trấu thì không cần giở trấu ra và có thể bổ sung thêm 1 lớp đất mịn để giữ chặt gốc, nếu gieo với mât độ vừa phải cây cứng cáp thì không cần phủ thêm đất. Trường hợp có làm mái che thì phải dỡ mái che cho cây đủ ánh sáng (cây khỏe, cứng cáp, mau hồi xanh bén rễ khi cấy ra ruộng). Trong thời gian cây mới mọc 2 lá thật chú ý che mưa cho cây. - Nhổ cỏ: Tiến hành thường xuyên bằng tay vì ruộng ẩm đất tốt, cỏ mọc nhanh, nhổ cỏ lúc còn nhỏ, nếu cây rau bị tróc gốc đổ ngả, khi nhổ cỏ phải lấp đất bù vào chổ hổng tránh đọng nước. - Tỉa cây:

Nếu gieo hạt cây mọc quá dày, cần phải tỉa bớt cây để tăng diện tích dinh dưỡng tạo điều kiện cho cây đủ ánh sáng, cây mập, khoẻ, trồng ra đại trà có sức sống tốt. Tỉa 1 - 2 lần, lần 1 khi cây có lá thật thứ nhất, loại bỏ toàn bộ những cây bị sâu bệnh, sinh trưởng không bình thường, cây mọc quá dày. Tỉa lần 2 sau lần 1 khoảng 7-10 ngày, tỉa định cây, cây cách cây 5-10cm là tốt nhất với loại lá to hay cây cao như cà chua, cải bắp, su lơ. Tỉa cây phải kịp thời, có thể dùng đất bột để lấp vào chổ cây bị trống để không làm ảnh hưởng đến cây khác - Bón thúc phân:

Ruộng vườn ươm đa số là không bón thúc vì khi gieo thường chọn đất tốt hoặc có bón lót phân hữu cơ hoai mục. Tuy nhiên nếu cây con sinh trưởng kém, có thể bón thúc bằng cách pha loãng các loại phân dễ tan với nồng độ thấp: đạm u rê 0,1% hoặc

Page 53: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

52

nước phân chuồng 10 -15% (thúc tối đa 2 lần: lần 1 lúc cây có 2 - 3 lá thật, lần 2 sau lần 1 khoảng 7-10 ngày (trước khi nhổ đi trồng 10 ngày không nên thúc). Không nên bón thúc nhiều làm cây con quá tốt, non, khả năng chống chịu kém, khi trồng ra ruộng sản xuất tỷ lệ sống thấp. - Phòng trừ dịch hại:

Trước và sau gieo muốn đảm bảo chất lượng và số lượng của cây con cần chú ý phòng trừ dich hại.

Trừ giun, dế: Phơi ải đất, bón vôi trước khi gieo, cho nước vào ruộng, cày bừa, thu gom giun

dế nổi trên mặt đất làm thức ăn cho gà vịt, ngan ngỗng. Trừ kiến và các loại khác phá hạt và cây con: có thể dùng padan tưới vào đất (20g/10 lít nước).

Trừ ốc sên: Đây là đối tượng gây hại nghiêm trọng khi cây có 2 lá mầm, ốc sên gây hại vào

ban đêm, cắn ngang thân mầm làm mất cây con. Có thể bắt bằng tay hoặc rắc supelân, vôi bột xung quanh mép luống hoặc dùng lưới nhỏ lỗ, vải ni lon bao xung quanh ruộng để ngăn chặn chúng gây hại.

Trừ sâu xanh, sâu tơ: Khi cây con có 1-2 lá thật, nếu khi bị sâu hại trên diện tích nhỏ có thể bắt bằng

tay, nếu sâu phát triển mạnh phải phun thuốc trừ sâu theo hướng dẫn của chi cục bảo vệ thực vật như Mach, Sherpa25EC nồng độ 0,1%; Karate 2,5EC, Sumi - alpha 5EC với liều lượng 50-10mm/bình phun 8 lít.

Trừ bọ nhảy: Đáng chú ý nhất là bọ nhảy trong vụ Xuân Hè, tại vườn ươm sau gieo 5-7 ngày

đã thấy xuất hiện bọ nhảy thì nên trừ ngay bằng Hopsan (20cc/8lít nước), nếu xuất hiện mạnh trên ruộng có thể dùng hỗn hợp Hopsan 20cc + Padan 10g/8lít hoặc Politrin (10cc) + Padan (10g)/8 lít để phun. Có thể dùng lưới lỗ nhỏ (1-1,5mm) rào xung quanh ruộng cây giống chiều cao 80-1m để tránh bọ nhảy di chuyển gây hại.

Trừ bệnh lỡ cổ rễ: Bệnh gây hại nặng trên vườn ươm; trong điều kiện có nhiệt độ và ẩm độ cao, có mưa nắng xen kẽ bệnh gây hại nặng. Phòng bệnh bằng cách chú ý mật độ khi gieo, sử dụng phân chuồng hoai mục để bón hoặc làm bầu cây con. Xử lý luống đất trước lúc gieo hoặc đất làm bầu để khử mầm bệnh bằng cách phun ngừa (hoặc trị) một trong các loại thuốc sau: Zineb 80WP; Copper B75WP; Benlate 50WP; Anvil 5SC; Rovral 50WP; Appencarb super 50SL, Bonanza 100SL0,2- 0,5%...sẽ hạn chế sự lây lan. Luống gieo cây con cần phải đặt nơi thông thoáng, có nắng. Bón phân cân đối và chú ý các loại phân bón làm cứng cây như lân, kali) Sau gieo, cây con sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết bất thuận như gió bão, mưa lớn, nắng nóng, cường độ ánh sáng mạnh, sương muối, mưa đá...nên cần làm mái che cho vườn ươm. - Che vườn ươm

Page 54: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

53

+ Che bằng vườn ươm bằng lưới: Hiện nay nơi có điều kiện thâm canh rau, người ta dùng lưới nilon (PE) che mưa lớn (lưới màu trắng), giảm cường độ ánh sáng mạnh (lưới màu đen, xanh đen) vừa kết hợp tưới phun sương, phun mưa qua lưới để đảm bảo độ ẩm, chống hỏng cây + Che vườn ươm bằng nguyên liệu sẵn có địa phương: Tùy điều kiện của địa phương mà có thể làm bằng các nguyên liệu khác nhau như phên tre, nứa, rơm rạ, lá cọ...được nẹp trên các khung. Kinh nghiệm của nông dân là mỗi luống làm 1 khung giàn thấp khoảng 0,8-1m. Dùng phên đặt lên giàn che cho rau để chống giập nát lá rau khi mưa lớn và giảm cường độ ánh sáng mạnh. Cần chú ý bỏ mái che kịp thời để tránh hiện tượng cây vống do thiếu ánh sáng, độ ẩm cao. Trước khi nhổ đi trồng cần điều chỉnh thời giàn che, giảm dần thời gian che trong ngày để huấn luyện tính chống chịu cho cây giống. Nếu có điều kiện nên làm mái che bằng lưới nilon hoặc nhà có mái che để bảo vệ cây giống là tốt nhất. - Đánh giá cây giống trước khi đem trồng:

Cây con mang đặc trưng đặc tính của giống. Đủ tuổi trồng, tuổi cây con là chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của cây con ở vườn ươm, được đánh giá bằng thời gian cây con sinh trưởng trên ruộng (chiếm từ 1/4 -1/3 tổng thời gian sinh trưởng) và có thể tính bằng số lá/cây (có đủ số lá cần thiết từ 4 - 6 lá thật). Ví dụ: tuổi cây con của ớt, cà sau gieo 35 - 40 ngày hoặc 5-6 lá thật; xà lách, rau diếp 25 - 30 ngày hoặc 4-5 lá thật; cà chua, cải bắp 30 - 40 ngày hay 5-6 lá thật...

+ Kiểm tra cây con: Kiểm tra về số lượng và chất lượng cây con, tình hình sâu bệnh gây hại trên cây

giống để có biện pháp xử lý và có kế hoạch trồng: Cây khoẻ, to, mập, cứng cáp, rễ thẳng, không bị sâu bệnh và giập nát. Cây con đạt được tiêu chuẩn như vậy sẽ đem trồng ra ruộng đại trà.

+ Huấn luyện cây con trước khi đem trồng: Tuyệt đối không được tưới nước đẫm cho cây con 4-7 ngày trước khi nhổ đi

trồng ra ruộng sản xuất để huấn luyện cây con có sức chống chịu với điều kiện bất lợi. Quá trình này sẽ kích thích rễ phát triển tập trung quanh rễ chính, đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa rễ và chồi ở các giai đoạn sinh trưởng sau này.

Trước khi nhổ đi trồng 4 - 5giờ, phải tưới đẫm nước cho đất mềm, nhổ cây không bị đứt rễ hoặc hỏng cây. 2. KỸ THUẬT TRỒNG RAU Ở RUỘNG SẢN XUẤT (RUỘNG ĐẠI TRÀ)

Kỹ thuật trồng rau ruộng sản xuất cũng đảm bảo các biện pháp kỹ thuật liên hoàn từ trồng đến chăm sóc, thu hoạch và sơ chế sau thu hoạch 2.1. Thời vụ gieo trồng

Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có thể trồng quanh năm với nhiều loại rau có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Tuy nhiên tùy theo vùng sinh thái, có thể rải vụ quanh năm nhưng chủ yếu có 2 vụ chính là Đông Xuân và Xuân Hè.

Page 55: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

54

Vụ Đông Xuân thích hợp cho cây rau có nguồn gốc ôn đới, á nhiệt đới nên thường gieo các loại rau như cải bắp, su hào, sup lơ, rau cải các loại (cải bẹ, cải xanh, cải thìa, cải bẹ...), cải củ, hành, tỏi, hành tây, tỏi tây, cần tây, đậu cô ve, đậu Hà Lan, xà lách, khoai tây, cà rốt, kiệu, các loại khoai củ, ớt ngọt,...Vụ này rất đa dạng và phong phú các chủng loại rau. Vụ Xuân Hè thích hợp cho những cây rau ở có nguồn gốc nhiệt đới, nên thường gieo các loại rau như: rau muống, rau dền, mồng tơi, rau ngót, mướp đắng, bầu, bí (bí đỏ, bí đao/bí xanh), mướp, dưa hấu, dưa các loại, cà, ớt, đậu đũa, đậu bắp, ngô rau, ngô đường.

Bảng 13. Thời vụ gieo trồng rau ở nước ta Thời vụ Vụ Đông Đông Xuân Xuân Hè Hè Thu Thời vụ gieo trồng rau ở miền Bắc Vụ sớm 7- 8 9-10 12-1 3 Vụ chính 9 11 2 4 Vụ muộn 10 12 3 5 Thời vụ gieo trồng rau ở miền Trung Vụ sớm 8 10 12-1 3 Vụ chính 9 11 1-2 4 Vụ muộn 10 1 3 5 Thời vụ gieo trồng rau ở miền Nam

Gieo trồng quanh năm

9-12 11-12

(đầu mùa khô)

1- 4 5-6

(đầu mùa mưa)

Nhìn chung thời vụ gieo trồng rau có 2 mùa rõ rệt tương ứng với 2 vụ rau trồng chính:Vụ đông và đông xuân có chủng loại rau rất phong phú, thời gian thu hoạch tập trung từ tháng 12 - 2. Thời vụ này rất thích hợp cho các loại rau chịu rét nên thường cho năng suất cao, phẩm chất tốt Vụ xuân hè thường gieo trồng các loại rau ưa nhiệt độ cao, có nguồn gốc nhiệt đới như họ bầu bí (bí đỏ, dưa chuột, dưa hấu, dưa bở, bí đao, bầu, mướp...), đậu đũa, rau muống, rau ngót, mồng tơi... Thời gian thu bắt đầu từ tháng 3 (dưa chuột), tháng 4. Thời gian thu tập trung vào tháng 5, 6.

Nhìn chung miền Trung vụ Đông Xuân đến muộn hơn miền Bắc vì mưa đến muộn. Miền Nam khí hậu ôn hòa, trong năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5-10 (Lâm Đồng tháng 4- 9), mùa khô bắt đầu tháng 11-4. Hầu hết các loại rau đều gieo trồng vào đầu mùa mưa tháng 5, 6. Tùy theo đặc điểm thời tiết của từng vùng sinh thái để có thời vụ gieo trồng và biện pháp chăm sóc sau gieo thích hợp.

2.2. Chọn đất, làm đất, lên luống trồng

Page 56: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

55

Rau là cây sinh trưởng ngắn ngày, sinh trưởng nhanh, cho năng suất cao, bộ rễ ăn nông, ưa ẩm nhưng chịu hạn chịu úng kém. Chọn đất trồng là khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm. Rau có thể trồng trên nhiều loại đất nhưng các loại đất có lý hoá tính tốt, tầng canh tác dày 20 - 40cm, đất tơi xốp, giàu mùn, giữ nước, giữ phân tốt, chủ động tưới tiêu. Các loại đất trồng rau quan trọng là đất thịt nhẹ, thịt pha cát, đất phù sa ven sông, đất phù sa cổ, đất thịt pha sét, đất thịt mịn. Mặt khác đất trồng rau phải tương đối bằng phẳng, không ngập úng trong mùa mưa, không hạn nặng trong mùa khô. Tuỳ theo mùa vụ, chủng loại rau để chọn đất cho phù hợp, yêu cầu cơ bản đất trồng rau là phải tương đối bằng phẳng, thoát nước tốt, mạch nước ngầm cao, gần hệ thống tưới tiêu, đất có lý hoá tính tốt: tơi, xốp, nhiều mùn, tầng canh tác dày. - Bố trí từng loại rau thích hợp trên từng loại đất trồng thích hợp:

Với các loại rau ăn thân củ hay rễ củ trồng trên đất có thành phần cơ giới nhẹ (cát, cát pha, thịt nhẹ). Các loại rau ăn quả bố trí trên đất thịt nhẹ. Các loại rau thuỷ sinh trồng trên đất ngập nước quanh năm, ruộng sâu, đất ngập nước. Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, giá trị dinh dưỡng cao, sản lượng cao, thân lá non, mềm, khó vận chuyển và cất giữ nên đòi hỏi phải thu hoạch, tiêu thụ kịp thời và nhanh chóng. Khi quy hoạch đất rau cần chú ý điều kiện tự nhiên, tính chất lý hóa tính của đất, quy mô diện tích, trình độ sản xuất, loại rau trồng, khả năng tiêu thụ, thị hiếu người tiêu dùng và xuất khẩu.

Vùng rau chuyên canh phải gần đường giao thông, xây dựng hệ thống đường trục chính: đường lớn chia thành các khu sản xuất nhỏ, đi lại, vận chuyển rau bằng các phương tiện ô tô vận tải, máy kéo, xe kéo bằng súc vật, xe cải tiến; hệ thống bờ vùng bờ thửa dùng để đi lại, giữ nước, giữ phân và vận chuyển sản hẩm thu hoạch; hệ thống mương tưới và mương tiêu nước...

Quy hoạch phải đảm bảo yêu cầu kỹ thuật: Cánh đồng rau cần được xây dựng thiết kế một cách khoa học, sát thực tế của địa phương, đạt được mục tiêu kinh tế kỹ thuật của sản xuất trước mắt và lâu dài. Cánh đồng rau phải được chia thành từng ô, từng thửa, từng khu vực để thuận tiện cho việc gieo trồng và chăm sóc các chủng loại rau khác nhau, tiết kiệm lao động và đất đai. Hệ thống tưới tiêu phải thuận tiện để có thể chủ động trong mọi điều kiện (tưới thủ công hay bằng máy, tự chảy), hệ thống tiêu nước tốt (tiêu nước mặt và nước ngầm nhanh chóng), có ao hồ dự trữ nước trong mùa khô. Hệ thống đường giao thông vận chuyển sản phẩm, tránh việc vận chuyển nhiều nấc, gây khó khăn trong quá trình vận chuyển, đồng thời hệ thống giao thông cũng không nên làm ảnh hưởng đến hệ thống tưới tiêu - Làm đất trồng rau:

Làm đất đúng kỹ thuật sẽ cho cây sử dụng độ phì trong đất có hiệu quả hơn, nâng cao hiệu quả việc hút dinh dưỡng và nước, diệt trừ nguồn sâu bệnh, vi sinh vật gây hại và cỏ dại trong đất. Làm đất không đúng kỹ thuật sẽ gây trở ngại cho quá trình

Page 57: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

56

sinh trưởng của cây, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây rau, giảm hiệu quả kinh tế. Sau khi thu hoạch cây trồng trước phải làm đất giữ ẩm, tranh thủ thời vụ. Trong điều kiện mưa nhiều có thể tận dụng luống cũ (vì nếu cày xả luống, trời mưa đất lâu khô). Đất trồng rau tốt nhất phải được để ải 5 - 7 ngày, có bón vôi xử lý đất trừ các nguồn bệnh trong đất, lên luống trước khi trồng. Quá trình làm đất có thể trải qua các bước:

+ Tác động làm vỡ lớp đất mặt: Dùng công cụ làm đất bằng cơ giới như máy cày, máy kéo, máy phay, hoặc cày bằng trâu bò hoặc cuốc đất bằng tay để tách đất, lật đất thành tảng, cục đất to

+ Làm nhỏ đất: Dùng bừa, máy phay, cào cuốc... làm đất nhỏ, vụn, tơi, xốp. Đương kính viên đất ở lớp đất mặt thích hợp từ 2-3cm tùy loại rau, làm đất gieo hạt ươm cây con nhỏ hơn một ít (đường kính hạt đất thích hợp là bằng hoặc lớn hơn 1cm chiếm khoảng 70%). Rễ rau nhỏ, ngắn, yếu, phát triển kém nên đất phải tơi xốp, không nên làm đất quá nhỏ hoặc quá to. Nếu làm đất quá nhỏ, mịn khi mưa hoặc khi tưới đất dễ bị đóng váng sẽ ảnh hưởng đến kết cấu của đất, sự trao đổi khí trong đất. Ngược lại làm đất quá to ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của bộ rễ (rễ không tiếp xúc với đất rễ dễ bị khô). Trong quá trình làm đất cần kết hợp thu gom, nhặt sạch cỏ dại đặc biệt cỏ thân ngầm, tàn dư thực vật và xủ lý kịp thời, vệ sinh đồng ruông.

+ San phẳng mặt đất: dùng công cụ cụ làm đất như bừa, cào răng, máy kéo san đất trên mặt ruộng bằng phẳng để tránh đọng nước khi mưa, tạo điều kiện tốt cho cây sinh trưởng phát triển tốt. - Lên luống trồng:

Sau khi đất cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ, bằng phẳng, tiến hành lên luống để giữ nước, giữ phân tạo điều kiện tốt cho bộ rễ phát triển, chăm sóc dễ dàng. Kích thước luống (chiều rộng, chiều cao, chiều dài), kiểu luống phải phù hợp với từng mùa vụ, từng loại rau, từng loại đất. + Kích thước luống: Luống cao hay thấp tuỳ giống và thời vụ trồng, loại đất, phương thức gieo thẳng hay trồng cây con. Các loại rau trồng trong vụ mưa nhiều thường lên luống cao để chống úng. Chiều rộng, chiều cao tuỳ đất, tuỳ vụ trồng khoảng 15- 30 cm, có rãnh thoát nước lớn. Vườn ươm nên đuợc chia ô nhỏ để tiện chăm sóc sau này. Loại rau có bộ phận kinh tế nằm dưới đất (cà rốt, cải củ, củ đậu, củ từ, khoai sọ, khoai tây) thì lên luống cao hơn 20cm.

Bề rộng luống phụ thuộc vào các loại rau, thời vụ, trung bình luống rộng 1,2m. Mặt luống rộng 90cm, loại có giàn leo 70 - 80cm, các loại bò dưới đất như dưa gang, bí, dưa hấu rộng 2 - 2,50m, có thể làm luống đôi rộng 5-5,5m.

Chiều dài luống tuỳ thuộc địa hình song cũng không nên dài quá 100m (chăm sóc theo phương thức thủ công rất khó, dễ đọng nước. Miền Trung đặc biệt mưa nhiều, nên chiều dài luống 10-20m phải xẻ rảnh thoát nước). Chiều cao tuỳ vụ tuỳ loại đất có

Page 58: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

57

thể từ 15 - 30cm. Mặt luống bằng hay khum mai rùa để tránh đọng nước. Mùa mưa lên luống khum, mặt luống hẹp và cao, mùa khô hạn, làm luống thấp, mặt luống rộng, phẳng hoặc trũng lòng khay để giữ nước, giữ phân.

Rãnh luống để đi lại chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại nên tùy theo thửa ruộng, điều kiện chăm sóc khoảng 20-30cm. - Kiểu luống trồng:

+ Kiểu luống bằng : Áp dụng đối với đất đủ ẩm, bằng phẳng, thời tiết thuận lợi. Kiểu luống này làm tăng diện tích trồng trọt, tận dụng được đất trồng. + Luống lòng khay: là kiểu luống xung quanh có gờ cao ở giữa thấp để giữ nước, giữ phân, giữ nhiệt tốt. Kiểu này thường áp dụng cho nơi đất khô, ẩm độ đất thấp hay trong mùa vụ khô hạn + Kiểu luống khum mai rùa (mui thuyền): Lên luống cao ở giữa thấp dần về 2 bên mép luống để thoát nước nhanh. Luống có dạng hình cánh cung. Kiểu này áp dụng cho những nơi trồng hoặc mùa vụ mưa, ẩm nhiều, đất dễ bị ngập úng, khó thoát nước hoặc đất có mạch nước ngầm cao.

+ Kiểu luống gờ sống trâu: ở giữa luống có rạch thành hàng, khoảng cách giữa các hàng khác nhau tùy thuộc vào từng loại cây. Độ sâu của hàng từ 10-12cm. Cây rau được gieo hoặc trồng dưới rãnh. Kiểu luống này có tác dụng giữ nhiệt, giữ ẩm và hạn chế di chuyển đất ở gốc cây (đất cát) nên thường áp dụng cho vùng thường xuyên có gió hoặc đất dí dẻ, khô hạn, thiếu ẩm. - Hướng luống:

Trồng rau ngoài trời nên chú ý hướng luống vì để tận dụng ánh sáng mặt trời trong ngày tối đa, tránh được gió mạnh làm đổ cây. Vì vậy luống rau thường thiết kế theo hướng Đông - Tây song song với ánh sáng mặt trời chiếu, tránh Bắc Nam vuông góc với tia sáng mặt trời, cây dễ bị che lấp trong ngày, thời gian chiếu sáng ngắn nên ít quả, năng suất thấp. 2.3. Mật độ khoảng cách trồng

Mật độ khoảng cách của cây rau phụ thuộc vào giống (đặc trưng hình thái, đặc tính di truyền của giống), điều kiện ngoại cảnh và kỹ thuật trồng trọt. Khi tăng mật độ trồng dày hợp lý cần tăng cường phân bón, nước tưới, bấm ngọn, tỉa cành, phòng trừ sâu bệnh hại...

Cách xác định mật độ của một loại rau trồng/ha, trước hết tính diện tích dinh dưỡng của 1 cây:

Trường hợp1: Diện tích dinh dưỡng của loại cây rau trồng theo ô vuông, hình chữ nhật và nanh sấu (xen kẽ) bằng khoảng cách trung bình hàng (cm) x khoảng cách trung bình cây trong hàng (cm). Sau đó lấy diện tích gieo trồng/diện tích dinh dưỡng của một cây sẽ được mật độ lý thuyết.

= 162,5 cm2 10

420151515

Page 59: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

58

Trường hợp 2: Diện tích dinh dưỡng của những loại rau trồng theo hàng sẽ

bằng khoảng cách trung bình hàng (cm) x khoảng cách trung bình cây trong hàng (cm)

Bảng 14 . Thời vụ, mật độ, khoảng cách trồng của một số loại rau chủ yếu

ở miền Trung (vụ chính)

Loại rau Tháng trồng K.cách trồng ( cm)

Tháng thu hoạch

Dự tính NS (tấn/ha)

1.Cải bắp 2.Su hào 3.Xà lách 4.Diếp 5.Muống hạt 6.Muống ruộng 7.Cải bẹ xanh 8.Cải bẹ trắng 9.Cà chua ĐX 10.Cà chua X.hè 11.Củ cải trắng 12.Cà rốt 13.Hành củ 14.Bầu bí xanh 15.Bí đỏ 16.Mướp 17.Su le 18.Dưa chuột 19.Ớt cay 20.Dưa gang 21.Đậu đũa 22.Cà tím 23.Hành lá, prô

10 -12 10 -12

7-3 7-3 2-3

3trở đi 9 -12 9 -1 11-1 1-3 9-1 7-2

10-12 12-2 12-2 12-6 9-12 9 -3 11-1 2-6 3-7 11-2 9-3

60 x 40 30 x 20

20 x 5 -10 20 x 5 -10 10 x 10 20 x 10

35 x 20-30 35 x 30 50 x 40 60 x 40 20 x 10 40 x 10 20 x 10

200 x100 200 x100 200 x100 200 x100 150 x 30 50 x 40 70 x 50 30x 25 50 x 40 10 x 5

1-3 1-3 9-4 9-4

4 trở đi 4 trở đi

11-4 11-5 2 -4 4- 6 11-3 10-4

12-3,4 3- 6 4- 7 4 -8 11-5

Q. năm 3-7 4-9 5-9 3-8

11 -5

25 - 30 20 - 25 15-20 15- 20 70- 80

80 - 100 20- 40 20- 40 20 -40 15- 30 20-25 15-20 20- 25 20- 40 20- 40 40- 60 30-40 20-40

15-20 (tươi) 20-40 15-20 30-40 30-40

(thân,lá) (Số liệu điều tra của bộ môn Khoa học Nghề Vườn - ĐHNL Huế, 2007)

Ví dụ: Xác định diện tích dinh dưỡng cho cây hành củ trồng theo hàng: mỗi luống trồng 4 hàng, hàng cách hàng là 15cm, cây cách cây là 10cm, khoảng cách giữa các luống là 20cm. Diện tích dinh dưỡng của 1 cây hành củ là:

Page 60: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

59

2.4. Phương pháp trồng Trồng cây con thường áp dụng đối với các loại rau có hạt nhỏ, hạt mọc chậm trong giai đoạn đầu, rễ có khả năng tái sinh mạnh sau khi trồng như cây họ cải, cà chua, ớt, cà hành tây, xà lách. Ưu điểm là khi nhổ cây đi trồng, rễ chính bị đứt, kích thích rễ phụ phát triển mạnh, đường kính và diện tích rễ bộ rễ lớn, cây hút nước và dinh dưỡng nhiều hơn gieo thẳng. Tiết kiệm hạt giống từ hơn 1/2 lượng giống so với gieo thẳng, do đó thường áp dụng gieo trồng cho hạt giống F1 mua hạt giống giá cao, cây sinh trưởng khỏe. Rút ngắn thời gian trồng ngoài đồng nên nhẹ công chăm sóc, hạn chế sâu bệnh hại. Cho thu hoạch sớm và sản lượng thường cao hơn gieo thẳng. Tuy nhiên phương pháp trồng cây con cũng có một số nhược điểm là bộ rễ ăn cạn hơn cây gieo thẳng, do đó khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trường kém hơn, cần chăm sóc nhiều hơn khi trồng. Trồng cây con sẽ tốn công lao động hơn so với gieo thẳng và làm tăng giá thành sản phẩm cao hơn, nhưng sản lượng cao sẽ bù đắp cho chi phí sản xuất. Thường khó áp phương pháp trồng cây con cho những nơi diện tích trồng lớn và khan hiếm lao động.

Chuẩn bị đất, nếu đất khô phải tưới đủ ẩm. Trong điều kiện có phủ nilon màu phải phủ trước khi trồng, rơm rạ nên phủ sau khi trồng. Chọn những ngày mát mẻ (trời nhiều mây), độ ẩm không khí cao để trồng, nếu trời nắng, trồng vào chiều mát. Tuỳ theo sự phát triển của bộ rễ, khả năng chiếm diện tích dinh dưỡng của từng cá thể mà áp dụng phương pháp trồng thích hợp

2.4.1. Phương pháp trồng rễ trần

Là loại rau khi nhổ đi trồng không mang theo đất (nhổ thẳng cây con từ vườn ươm đem trồng ra ruộng đại trà), có ưu điểm là vận chuyển được nhiều cây, có thể đi xa và trồng nhanh nhưng khi trồng nếu gặp nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao, ẩm độ đất thấp, cây lâu hồi xanh. Vì vậy khi trồng phải cẩn thận, tưới nước giữ ẩm

2.4.2. Phương pháp trồng bầu

Nếu trồng cây con gieo trực tiếp lên luống là khi nhổ cây con mang theo cả bầu đất quanh rễ. Khi nhổ cây cần dùng giầm xén đất vùng rễ theo hình vuông hay hình nón ngược. Phương pháp này có ưu điểm hồi xanh nhanh, không mất thời gian hồi phục, tỷ lệ sống cao, tận dụng được không gian và thời gian, thường áp dụng với cây rau bộ rễ tái sinh kém hoặc khả năng chống chịu kém và chủ động thời vụ trong trường hợp thời tiết bất thuận. Tuy nhiên làm tốn công, vận chuyển cồng kềnh, khó khăn, trồng lâu, mất lớp đất mặt ở ruộng cây giống.

Nếu trồng cây con gieo ươm trong bầu: bầu đất là PE hoặc bầu làm bằng nguyên liệu lá tại địa phương, khi trồng đều đem cả bầu cây giống ra ruộng, nếu vỏ bầu là PE thì phải bỏ PE mới trồng toàn bộ bầu đất vào hốc, nếu vỏ bầu bằng lá chuối, lá dừa...

Page 61: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

60

thì trồng cả bầu vào hốc. Chú ý thu gom PE về xử lý riêng, tránh ô nhiễm môi trường do PE khó phân hũy.

+ Trồng cây con trực tiếp theo hàng, theo hốc: trồng theo hàng thường áp dụng cho rau ăn lá, ăn quả, gia vị có diện tích dinh dưỡng nhỏ, có thể trồng dày (hành, tỏi, cải, xà lách...) và khi có điều kiện phân bón. Trồng theo hốc thường áp dụng cho các loại rau ăn quả (bầu bí, mướp, cà, ớt), bắp cải... có khối lượng thân lá lớn, khả năng sinh trưởng mạnh, thời gian dài, trồng vào hốc để tập trung phân bón cho cây.

+ Trồng cây con một lần: Hạt giống được gieo trên luống hoặc bầu ươm cây, chăm sóc đến khi cây con đủ tiêu chuẩn thì đem trồng ra ruộng sản xuất.

+ Trồng cây con hai lần (cấy chuyền ): hạt được gieo thật dày trên diện tích nhỏ, khi cây có 1 - 2 lá thật, nhổ ra cấy chuyền lên luống hay bầu đất để cây phát triển tốt, sau đó cây đủ tiêu chuẩn trồng thì trồng ra ruộng sản xuất. Cách này tiết kiệm hạt giống vì không phải tỉa bớt cây khi gieo dày, có khả năng lựa chọn cây con tốt cho sản xuất, cây con có khả năng tăng trưởng tốt và cây con được bảo vệ tốt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên việc cấy chuyền hai lần là tốn thêm công lao động (mất 8-30 công/ha). 2.4.3. Trường hợp gieo thẳng:

Một số loại rau gieo thẳng như ngô rau, các cây họ đậu, các cây họ bầu bí, cây rau ăn củ, ...không cần thông qua gia i đoạn vườn ươm. Có 3 phương pháp gieo thẳng: + Gieo vãi: Thực hiện khi đất bằng phẳng, sạch cỏ, làm đất kỹ, đồng đều và tưới phun mưa. Thường áp dụng cho các loại rau có thể trồng dày, có thời gian sinh trưởng ngắn, thân lá nhỏ, ít chăm sóc, giá thành hạt giống rẻ như cải các loại cải, rau diếp, dền, rau muống ... Gieo vãi để lợi dụng đất đai và chất dinh dưỡng trong đất triệt để hơn, nhưng tốn nhiều hạt, chăm sóc không thuận tiện. + Gieo theo hàng: Thường áp dụng cho các loại rau ăn củ như cải củ, cà rốt, đậu... Phương pháp này gieo ít tốn hạt, chăm sóc dễ dàng, tốn nhiều phân. + Gieo theo hốc: Thường áp dụng cho các loại rau có thời gian sinh trưởng dài, hay thân lá lớn, những loại rau có mật độ trồng thưa, khó khăn trong phòng trừ cỏ dại, sử dụng phương thức tưới rãnh và giá thành hạt giống cao. Những loại này có mức phân bón khá lớn, gieo theo hốc để tập trung phân bón, sử dụng phân bón hiệu quả cao. Các cây thường gieo hốc như bầu bí, dưa, mướp, su le

Độ sâu gieo hạt: Dù gieo thẳng bằng phương thức nào thì vấn đề cần quan tâm là độ sâu gieo hạt và độ đồng đều khi gieo. Gieo hạt cạn, hạt dễ tiếp xúc với không khí nhưng chống chịu kém với điều kiện ngoại cảnh bất lợi, lớp đất mặt có khả năng khô nhanh trước khi rễ mầm đâm sâu xuống lớp đất dưới để hút nước. Độ sâu gieo hạt chủ yếu phụ thuộc vào kích thước của hạt và điều kiện ngoại cảnh, tính chất và ẩm độ đất. Độ sâu vừa phải có thể gieo như sau: Loại rau dùng cơ quan dinh dưỡng để trồng thì lấp sâu 5-7cm. Loại rau có hạt rất to như đậu ngự, đậu ván, đậu cove, bầu bí thì độ sâu lấp hạt dày 3- 5cm, hạt to gieo sâu 3 - 4cm, hạt trung bình gieo sâu 2 - 2,5cm; hạt nhỏ

Page 62: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

61

gieo sâu 1,5cm. Hạt có kích thước rất nhỏ như cải các loại, xà lách, rau dền thì lấp đất phủ kín hạt là được, hạt giống nhỏ muốn gieo đều cần trộn hạt với đất bột hoặc cát để tăng khối lượng hạt lên cho dễ gieo.

Đất cát, cát pha và thịt nhẹ thì hạt gieo sâu hơn và ấn chặt hơn đất thịt nặng để tránh khô hạn (gieo sâu hơn bình thường khoảng 20 - 50%). Ở đất nặng (đất sét, đất thịt) gieo cạn hơn bình thường 20 - 50%, ở đất thường xuyên khô hạn nên gieo sâu hơn đất chủ động tưới tiêu. Đất cần được tưới sau khi gieo để đảm bảo độ ẩm thích hợp cho hạt nảy mầm. Nhiệt độ cao và ẩm độ đất thấp thì hạt phải gieo sâu, ấn chặt. Nếu lấp đất quá dày thì trong quá trình mọc mầm vỏ hạt bị giữ lạ i, lá mầm không thể chui ra khỏi vỏ hạt sẽ trở ngại cho sự sinh trưởng của cây, mầm yếu ớt, rễ kém phát triển.

2.5. Phân bón và kỹ thuật bón phân 2.5.1. Nguyên tắc bón phân cho rau

Căn cứu vào yêu cầu dinh dưỡng của cây rau và đặc điểm loại dinh dưỡng bón. Bón đúng lúc, đúng phương pháp, đúng nồng độ và liều lượng theo kinh nghiệm "nhìn trời, nhìn đất, nhìn cây". Bón đầy đủ, cân đối giữa đạm, lân và ka li.

NPK là những nguyên tố cơ bản có ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất rau, nhưng nếu bón không cân đối sẽ dẫn đến hậu quả ngược lại (năng suất thấp, chất lượng kém, dễ hư hỏng khi vận chuyển và khó bảo quản).

2.5.2.Các loại phân bón

Ở miền Trung nguồn phân hữu cơ bón cho rau rất phong phú, phân vô cơ có mặt trên thị trường có thể thoả mãn nhu cầu cho người trồng rau, tuỳ theo loại rau, loại đất, mùa vụ mà xác định liều lượng phân hữu cơ, vô cơ thích hợp thích hợp.

Phân chuồng: Phân chuồng có chứa đầy đủ các nguyên tố đa lượng, vi lượng cân đối, tỷ lệ

mùn cao có tác dụng cải tạo đất, giữ nước giữ phân, giữ nhiệt và khí cho lớp đất mặt tốt. Nhưng có nhược điểm là hàm lượng các chất dinh dưỡng thấp, không đủ và cây hút chậm từ từ nên phải bổ sung một lượng phân vô cơ là cần thiết và phải hài hoà với phân hữu cơ mới có tác dụng tốt, rau cho năng suất cao, phẩm chất tốt, không có tồn dư hàm lượng Nitrat trong cây quá nhiều Phân hữu cơ khác: Ngoài phân chuồng có thể bón phân rác, phân xanh, rong rêu, thân lá cây họ đậu, bánh dầu lạc (khô dầu lạc), đậu tương, bùn ao...

Phân đa lượng NPK có tác dụng cung cấp kịp thời và đầy đủ các nguyên tố dinh dưõng cần thiết cho cây để tạo năng suất và chất lượng rau

Phân vi lượng rất cần cho cây nhưng phải biết trong đất có thiếu nguyên tố đó hay không. Nếu bón vi lượng trong trường hợp đất không thiếu nguyên tố đó thì sẽ không hiệu quả thậm chí cây sẽ bị chết do ngộ độc.

Page 63: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

62

Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, tốc độ sinh trưởng nhanh, thâm canh cao, cho năng suất và sản lượng cao (20 - 60 tấn/ha tuỳ loại rau) nên đòi hỏi phải cung cấp một lượng lớn các chất dinh dưỡng, đồng thời đất đất trồng rau phải tốt, giàu mùn, đầy đủ các nguyên tố đa lượng (NPK) và vi lượng (Zn, Bo, Cu, Mg, Mn...), vì vậy cần bón hỗn hợp hữu cơ và vô cơ. 2.5.3. Kỹ thuật bón phân

Phân hữu cơ trước khi bón cần được xử lý, ủ hoai mục, chất lượng tốt. Có 2 cách bón: - Bón lót: Trước khi trồng, thường bón lót các loại phân chuồng và phân vô cơ chậm tan như lân, vôi và kali (cung cấp cho cả thời gian sinh trưởng của cây), một phần lượng N cung cấp cho cây con gia i đoạn đầu (1/4 - 1/3 lượng N cần thiết). Tuỳ điều kiện cụ thể, từng cây và tập quán canh tác để bón. + Bón theo hốc (hố) là trộn đều phân, lấp đất rồi trồng, nhằm tập trung phân bón (tiết kiệm được phân), thường áp dụng cho cây có khối lượng thân lá lớn, thời gian sinh trưởng dài. + Bón theo hàng (rãnh), lấp phân rồi trồng theo hàng áp dụng khi có điều kiện phân bón.

+ Bón rải đều trên mặt luống là phương pháp trộn đều phân vào đất trước khi gieo hoặc trồng. Phương pháp này thích hợp trong điều kiện cơ giới hoá, thiếu nhân công lao động. - Bón thúc: Bón thúc là cách bón phân vào những gia i đoạn cần dinh dưỡng nhất để sinh trưởng, phát triển, tạo sản phẩm. Các loại phân thường dùng các loại phân dễ hoà tan, dễ tiêu. Số lượng thúc và thời gian thúc phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng dài hay ngắn, mức độ sinh trưởng. Có thể bón thúc các loại phân chuồng hoai mục, phân bón lá hữu cơ vi sinh.

+ Phân vô cơ: đạm và kali trộn đều và bón lót với cây rau ngắn ngày đây là phương pháp bón chính. Có thể hoà tan vào nước để tưới hoặc bón khô vào đất và lấp đất ngay tránh bị mất đạm do rửa trôi khi tưới hay do bốc hơi. Nồng độ thúc tăng theo thời gian sinh trưởng: Cây con 0,1% và cây trưởng thành 0,3- 0,5% .

+ Phân chuồng ngâm ủ, phân bắc, nước giải ngâm ủ hoai mục : Đối với cây ngắn ngày chủ yếu bón lót trên mặt. Cây dài ngày, bộ phận kinh tế là quả, lá, bắp, mầm non có thể dùng để thúc.

+ Phân hữu cơ dung dịch: Nồng độ tăng theo thời gian sinh trưởng, cây con 10 - 15%, cây trưởng thành 40

- 50% (nước phân nước giả i đã pha). + Phương pháp phun phân lên lá (phương pháp bón phân ngoài rễ ) Phun phân lên lá được sử dụng các loại phân đã được tổng hợp có ưu điểm là

tiết kiệm được phân và hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên chỉ áp dụng tốt trong điều kiện

Page 64: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

63

bón đầy đủ phân chuồng và các phân đa lượng khác. Phun phân lên lá nhằm bổ sung kịp thời sự thiếu hụt dinh dưỡng của rau vào giai đoạn quan trọng, áp dụng với một số loại phân đắt tiền, hiệu quả cao

Các loại rau ăn lá như cải các loại, cải bắp, cải bao, các loại rau ăn lá mùa hè, rau gia vị rất nhạy cảm với KOMIX BEC (Biochemical foliar fertilizer - KOMIX BEC) ở các giai đoạn từ cây con đến sắp thu hoạch tăng năng suất 40%, xà lách 62%, các loại rau ăn quả tăng 21-30% mã quả đẹp, tăng vitaimin C, A, đường, các loại rau ăn củ tăng 17-22%, tăng chất lượng củ.

2.5.4. Phương pháp sử dụng phân hữu cơ s inh học lên lá với cây rau

Vai trò của các loại phân hữu cơ sinh học có thể tóm tắt như sau: - Nhóm hàm lượng đạm cao (8-2-2; 6-2-2; 8-4-4...) chuyên dùng cho các loại

rau ăn lá ở giai đoạn mới gieo hạt, hoặc mới trồng - Nhóm có hàm lượng PK cao (3-6-6): có tác dụng bón thúc cho các loại rau ăn

trái và ăn củ giai đoạn chuẩn bị ra hoa, tăng cường tỷ lệ đậu trái - Nhóm các loại có NPK cân đối (4-5-3, 5-5-5...). Đây là loại phân hữu cơ sinh

học bón thích hợp cho tất cả các loại cây trồng, có tác dụng tăng năng suất, tăng phẩm chất nông sản, tăng khả năng chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh khắc nghiệt.

Những loại phân hữu cơ sinh học thường sử dụng bón lên lá cho rau ở Việt Nam:

Các phân hữu cơ sinh học nhập nội: Fish Emulsion; Rootplex, Iron; Seaweed; Omex Micromax, growmore (5 - 5 - 5; 3- 6 - 6; 8 - 2 - 2...); bioganic (8 - 4 -4; 6 - 2 - 2; 5 - 5 - 5; 4 - 5 - 3; 3 - 6 - 6...); Dinamic lifte; Agrostim (dạng bột, dạng lỏng)

Phân hữu cơ sinh học sản xuất trong nước: Phân hữu cơ Humix (chuyên dùng cho rau: rau ăn lá, rau ăn quả, rau ăn củ; hữu cơ Viễn Khang: V.I.P (5-5-5; VK 96-5-5); VK (6-2-2); hữu cơ vi sinh: KOMIX; SÔNG GIANH, UP5; phân hữu cơ sinh học 001; 002; UP5C; UP5T

+ Phương pháp sử dụng: Nhóm rau ăn lá (RAL): Sau trồng 5-7 ngày, sử dụng loại phân có tỷ lệ NPK là

3-1-1 (5ngày/lần, phun liên tục 4-5lần). Trước thu hoạch 15 ngày phun loại phân có tỷ lệ NPK cân đối 1-1-1, phun 2 lần liên tiếp 5 ngày/lần.

Nhóm rau ăn quả (RAQ): Sau trồng 3-5 ngày (cây đã hồi xanh) sử dụng phân loại NPK 3-1-1. Trước ra hoa khoảng 15 ngày, phun loại phân có tỷ lệ NPK 1-5-1 hoặc 1-3-1, phun 1lần/vụ, sau đó dùng loại 1-5-5 (ví dụ: 6-30-30). Khi trái nhỏ (sau thụ phấn) phun loại 1-1-1 (VD 20-20-20). Trước thu hoạch 15-20 ngày phun loại có hàm lượng K cao hoặc các loại phân vi lượng, các axit amin.

Page 65: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

64

Nhóm rau ăn củ (RAC): Quy trình giống như RAL ở gia i đoạn đầu (trồng - 45 ngày). Sau 45 ngày thì xịt phân có hàm lượng K cao để tăng cường tích luỹ chất dinh dưỡng vào củ.

+ Liều lượng bón cho cây rau Tùy đặc điểm sinh trưởng và phát triển của từng nhóm rau, loại phân bón mà có

thể sử dụng bón thúc hay bón lót với liều lượng 5tạ - 2tấn/ha/vụ.

2.6. Kỹ thuật tưới nước cho rau Sau trồng nếu trời nắng nên tưới nước đủ ẩm và che đậy cho đến khi cây hồi

xanh. Trong quá trình sinh trưởng phát triển, cây rau kém chịu hạn, cần nhiều nước nhưng cũng không chịu được úng. Vì vậy tưới nước cho rau là một biện pháp kỹ thuật, phải tưới một cách khoa học, đúng liều lượng, loại rau, đúng gia i đoạn sinh trưởng và đúng phương pháp.

2.6.1. Nguyên tắc và kỹ thuật tưới nước cho rau

Dựa vào điều kiện đất đai, thời tiết, kỹ thuật trồng trọt, mật độ trồng để tưới Tưới theo từng loại rau: Những cây có thời gian sinh trưởng dài, bộ rễ ăn sâu

thì khoảng cách giữa 2 lần tưới xa nhau: cà chua, cà, bắp cải, bầu bí (tuỳ độ ẩm đất mà có lượng tưới thích hợp). Những cây rau rễ cạn, rễ ngắn như xà lách, diếp, hành lá ngắn ngày thì tưới thường xuyên, khoảng cách giữa 2 lần tưới gần nhau, lượng nước ít. Loại ăn rễ củ, số lần tưới ít, lượng nước tưới cũng ít.

Tưới theo từng thời kỳ sinh trưởng: Thời kỳ nảy mầm, cây con, mới trồng: tưới thường xuyên, tưới nhẹ nhàng, hạt nước bé, lượng nước ít để tránh đóng váng. Thời kỳ sinh trưởng mạnh đến hình thành và phát triển bộ phận kinh tế phải cung cấp nước tối đa. Ví dụ rau ăn củ lúc bước vào phình to củ, rau ăn quả lúc phân hoá mầm hoa, ra quả, bắp cải giai đoạn cuốn. Thời kỳ trước thu hoạch (10 ngày): Chỉ tưới giữ ẩm, không nên tưới nhiều vì làm giảm phẩm chất, vận chuyển và bảo quản khó khăn.

2.6.2. Phương pháp tưới nước cho rau

+ Tưới tự chảy (tưới rãnh): Cho nước tự chảy vào rãnh, thấm vào luống rau, cây hút nước thông qua mao

quản đất, thường được áp dụng vào thời kỳ sinh trưởng thân lá hoặc bắt đầu ra hoa (rau ăn quả), bắt đầu cuốn (cải bao, bắp cải, xà lách), bắt đầu cho nụ (cà chua, ớt, cà).

Cho nước ngập 1/3 - 1/2 rãnh sau 3 - 6 giờ thì tháo ra, thời gian không nên quá lâu vì rau chịu úng kém. Tưới rãnh có ưu điểm cung cấp đủ nước cho đất, cho cây sinh trưởng. Phương pháp này không tràn ngập mặt luống nhưng có nhược điểm tốn nhiều nước, làm hỏng cấu tượng đất, dễ bị địa hình chi phối.

+ Tưới thủ công:

Page 66: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

65

Người trồng rau có truyền thống tưới nước cho rau bằng gáo, ô doa. Tưới bằng gáo là phương pháp tưới cổ truyền, thông dụng nhất, có hiệu quả nhất sau khi cấy cây con. Khi cây đã hồi xanh thì biện pháp này kém hiệu quả vì lượng nước tưới không đủ cho cây sinh trưởng. Do đó tưới bằng ô doa, thùng tưới có thể chủ động tưới tuỳ độ ẩm và tuỳ địa hinh nhưng tốn công lao động, dễ đóng váng đất.

+ Tưới cơ giới: Tưới bằng cơ giới là dùng hệ thống tưới bằng vòi phun hay nhỏ giọt, hệ thống

tưới gồm máy bơm nước, bể chứa nước (nguồn nước), hệ thồng ống dẫn bằng kim loại hoặc bằng nhựa, vòi phun, van điều chỉnh, đồng hồ định giờ...hiện nay được áp dụng phổ biến ở vùng trồng rau như Hóc môn, Củ Chi - TP. Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Đà Lạt - Lâm Đồng.

Tưới phun mưa thường được áp dụng cho hầu hết các loại rau, đặc biệt rau ăn lá, ăn quả, gia vị. Dùng hệ thống tưới với ống dẫn nước, vòi phun có áp suất lớn làm cho nước được phân tán trong không gian thành những hạt nhỏ như hạt mưa. Hệ thống tưới này có thể treo hay nằm trên mặt đất. Khi tưới phun hạt nước to hay nhỏ là do áp suất bơm và cấu trúc vòi phun. Phương pháp này có ưu điểm tưới nhanh, đều và tiết kiệm nước, có thể làm thay đổi tiểu khí hậu trong vườn rau trong một thời gian ngắn (nhiệt độ giảm trên lá 3- 4oC), không phụ thuộc vào địa hình, nhưng nhược điểm là đầu tư ban đầu lớn, khi tưới mặt đất dễ bị đóng váng, nếu mặt bằng ruộng rau không đồng đều sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây.

Tưới phun sương cũng dùng hệ thống tưới như tưới phun mưa nhưng khi phun với áp suất lớn (hệ thống vòi phun có rãnh xoắn), hạt nước bay ra dạng sương mù, thường áp dụng cho nhà ghép cây, nhà giâm cành yêu cầu độ ẩm không khí 95-100%. Phương pháp này có đầu tư ban đầu cao nhưng đảm bảo độ ẩm thích hợp cho cây, không bị đóng váng khi tưới.

Tưới ngầm: phương pháp này thường áp dụng với rau ăn củ. Dùng các ống dẫn nhựa hay kim loại có đục lỗ sẵn theo một khoảng cách nhất định, đặt ống dẫn vào luống rau (đặt sâu giữa lòng luống hay bên cạnh cây rau). Khi tưới sẽ bơm nước vào ống dẫn, nước sẽ rỉ qua các lỗ nhỏ mà cung cấp nước trực tiếp cho hệ rễ từ từ. Phương pháp này có ưu điểm là tiết kiệm nước tối đa, giữ được kết cấu của đất, rất thích hợp với các loại rau ưa nhiệt, nhưng nhược điểm là đầu tư ban đầu lớn, các lỗ rỉ nước thường bị tắc do phèn đất bịt kín. Nếu đất không bằng phẳng, chỗ nước rỉ thường xuyên, cây dễ bị úng.

Tưới nhỏ giọt: Phương pháp này thường dùng trong nhà lưới, nhà kính hay các thí nghiệm nghiên cứu khoa học, trong các gia đình có điều kiện tưới. Hệ thống tưới cũng giống như tưới ngầm nhưng đặt trên bề mặt đất. Thường dùng ống dẫn nước bằng nhựa, có đục lỗ nhỏ theo những khoảng cách nhất định. Đặt ống dây dẫn nước có đục lỗ này vào giữa luống (nếu trồng 2 hàng/luống), bên cạnh luống (nếu trồng 1 hàng). Khi tưới, nước sẽ nhỏ giọt từ các lỗ thấm vào đất trên luống. Phương pháp này áp dụng

Page 67: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

66

cho nhiều loại cây rau, hoa, đặc biệt những cây rau dài ngày, ưa ẩm độ đất cao như dưa leo, cà chua, mướp, ớt, bầu, bí... 2.7. Chăm sóc sau trồng - Giặm hạt (sau gieo thẳng), giặm cây (sau trồng):

Giặm hạt được tiến hành sau khi hạt đã nảy mầm lên khỏi mặt đất 3-5 ngày hoặc cây đã hồi xanh. Dặm hạt (đã ủ nảy mầm) ở những nơi hạt mọc không đều hoặc cây con để lạ i trên vườn ươm (tiến hành vào những ngày trời mát). Dặm cây sau khi hồi xanh, tức sau trồng 4-7 ngày hoặc tỉa cây sau gieo 1-2 lá thật (gieo thẳng) để đảm bảo mật độ thích hợp/đơn vị diện tích. Tỉa những cây sinh trưởng kém, cây sâu bệnh, cây dị dạng, sau tỉa phải lấp đất phần gốc bị trốc, chống đổ ngã cho cây. - Tưới, tiêu nước:

Sau trồng nếu đất thiếu ẩm phải tưới nước thường xuyên để giữ ẩm trong suốt quá trình sinh trưởng của cây rau, đảm bảo độ ẩm đất theo yêu cầu ở các thời kỳ sinh trưởng. Tuỳ đất, tuỳ loại rau mà có số lần tưới và lượng nước tưới thích hợp, thường tưới 1-2 lần/ngày.

- Tỉa cây:

Tỉa bỏ các cây bị bệnh, cây xấu, cây nhỏ, gieo quá dày chen chúc nhau, đặc biệt đối với các loại cây ăn củ gieo thẳng. Để đảm bảo năng suất và chất lượng sản phẩm. Tiến hành vào những ngày đẹp trời nắng ráo.

- Xới, vun, làm cỏ Xới xáo, phá váng làm cho đất tơi, xốp, thoáng khí, giữ đất, giữ phân tốt, tuy vậy không nên xới xáo lúc đất ướt hay trời đang mưa vì làm đứt rễ, chột cây hoặc gây rụng nụ rụng hoa, đồng thời các loại sâu bệnh dễ xâm nhập vào các vết thương ở rễ. Xới xáo giữa hàng thường được thực hiện bằng tay 1 hoặc 2 lần trong thời gian từ gieo hoặc trồng đến trước khi ra hoa. Thời kỳ cây con rễ phân bố hẹp, có thể xới gần cây và xới sâu, khi cây đã lớn phải xới xa cây để tránh đứt rễ và làm cây suy yếu.

Vun gốc tăng cường khả năng tiếp xúc của bộ rễ với đất, tạo điều kiện cho rễ bất định trên gốc thân phát triển. Nên xới vun cây vào những ngày khô ráo, tuỳ theo các loại cây khác nhau mà có số lần xới xáo thích hợp: Các loại hành xới nhiều lần nhưng xới nông, các loại ăn củ như cà rốt, cải củ cần xới nông và vun nhẹ. Củ đậu, khoai môn xới sâu vun cao để tạo điều kiện cho củ phát triển, các loại cây cao dễ đổ như ngô hoặc các cây có khả năng ra rễ bất định (cà chua) cần vun cao để kích thích các rễ bất định phát triển, tạo điều kiện cho cây hút nhiều dinh dưỡng nhất. Làm cỏ để diệt trừ cỏ dại kịp thời, rau không bị cỏ dại lấn át, cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng. Sau khi làm cỏ ngừng tưới nước 1-2 ngày để tránh cỏ mọc mầm lại. - Phủ luống:

Page 68: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

67

Có thể phủ luống bằng nguyên liệu hữu cơ sẵn có tại địa phương như rong rêu, thân lá cây đậu lạc, ngô, rơm rạ để giữ ẩm, chống cỏ dại. Sau khi phân huỷ, xác hữu cơ lại cung cấp chất mùn, cải tạo đất, tăng cường hoạt động vi sinh vật đất. Ở miền Trung phần lớn rau được trồng trên đất cát, đất thịt nhẹ luân canh lúa một vụ, lạc, ngô, ... nên nguyên liệu phủ luống trồng rau thường là rong rêu lấy từ đầm phá, rơm rạ sau thu lúa. Chiều dày lớp phủ thay đổi tùy địa phương và loại rau trồng, thông thường 1ha rau cần 4-5 tấn rong rêu, 5 - 6 tấn rơm rạ hay thân cây lạc, cây ngô.

Phủ luống bằng PE: Hiện nay nguyên liệu phủ đất bằng plastic 2 màu/luống (màu đen vào trong, màu xám bạc ra ngoài ánh sáng), chỉ để hở gốc cho cây phát triển, được sử dụng rộng rãi trong canh tác cà chua, ớt, dưa hấu, dưa các loại, mướp đắng... để giữ cho sản phẩm được sạch, không tiếp xúc với mặt đất, giữ ẩm đất, điều hoà nhiệt độ đất và hạn chế sự gây hại của một số loại côn trùng. - Diệt cỏ bằng thuốc hoá học:

Để giảm bớt chi phí chăm sóc rau người ta dùng phương pháp hoá chất diệt cỏ bằng cách bón vào đất trước khi gieo (hoặc trồng) và phun trực tiếp khi tưới nước cho rau, tuy nhiên việc sử dụng thuốc diệt cỏ trên ruộng rau chưa được phổ biến ở nước ta. Thuốc diệt cỏ dùng trong ruộng rau phải có tác dụng chọn lọc (selective herbicide). Rau không bị hại bởi thuốc có thể là nhờ vào đặc tính kháng của cây đối với thuốc hoặc sử dụng thuốc vào lúc cây chưa mọc hoặc mới nảy mầm, hoặc dùng bình xịt với bộ phận che chắn đảm bảo thuốc không dính lên cây. Những thuốc diệt cỏ thông dụng trên rau gồm có: Dinitroanilines Trifluralin diệt cỏ cho hầu hết các loại rau màu; Benzoics Chloamben diệt cỏ cho đậu đũa, cà chua, ớt, bí, khoai lang; Chlorpropham diệt cỏ cho đậu, xà lách, hành tây, cà chua; Butralin Dưa leo, dưa hấu..vv. Thuốc diệt cỏ thường bị phân hủy. Sau một mùa trồng quá trình lý, hoá và sinh học xảy ra trong đất, do bốc hơi, rửa trôi, hoặc bởi các chất hoá học và vi sinh vật trong đất, trong đó sự phân hủy bởi vi sinh vật đóng vai trò quan trọng nhất. Ở đất ngập nước, yếm khí, thuốc tồn độc lâu hơn. Sự dư thừa của thuốc vụ trước có thể hạn chế sự tăng trưởng hoặc làm giảm năng suất của cây rau trồng vụ sau mẫn cảm thuốc đó. 2.8. Phòng trừ sâu bệnh

Trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm, rau sinh trưởng phát triển tốt nhưng cũng bị nhiều loại sâu bệnh phát sinh và gây hại nặng, thậm chí làm thất thu mỗi năm hàng triệu đồng. Nguyên nhân rau bị nhiều loại sâu bệnh hại hơn một số loại cây trồng khác là do rau có nhiều chủng loại, gieo trồng quanh năm, do đó sâu bệnh dễ tồn tại vụ này sang vụ khác, khi gặp điều kiện thuận lợi sâu bệnh dễ phát triển. Sản phẩm rau chứa nhiều nước, non, các mô tế bào mềm lại chứa nhiều chất dinh dưỡng là điều kiện cho côn trùng và nấm ưa thích và dễ xâm nhập. Rau sinh trưởng ngắn ngày lại ít thiên địch diệt côn trùng và bệnh hại, khả năng tái sinh kém so với khả năng gây hại khi gặp điều kiện bất lợi. Rau là cây ưa thâm canh (trồng mật độ dày, bón nhiều phân, ẩm độ cao)

Page 69: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

68

đó cũng chính là môi trường cho sâu bệnh phát triển. Rau có tính chống thuốc hoá học kém (không thể phun thuốc nồng độ cao) trong lúc sâu bệnh dễ quen thuốc. Chưa có quy định nhất quán về quy trình sản xuất rau cho từng vùng chuyên canh, cho từng loại rau. Muốn phòng trừ có hiệu quả, cần quan tâm đến hệ thống phòng trừ dịch hại tổng hợp trên rau: (1). Sử dụng các giống chống chịu sâu bệnh:

Đây là một biện pháp cơ bản trong công tác phòng trừ dịch hại tổng hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất đồng thời bảo vệ được môi sinh, môi trường. Để duy trì và nâng cao tính chống chịu sâu bệnh, cần sử dụng các giống kháng đa gen (kháng ngang) và áp dụng các biện pháp thâm canh thích hợp để duy trì tính kháng sâu bệnh của giống. (2). Biện pháp kỹ thuật canh tác:

Bao gồm nhiều biện pháp kỹ thuật trồng và chăm sóc rau nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho cây rau sinh trưởng phát triển, nâng cao tính chống chịu sâu bệnh, đồng thời tạo tính bất thuận đối với các loài sâu bệnh hại. - Điều chỉnh thời vụ gieo trồng và thu hoạch hợp lý:

Thời vụ trồng hợp lý nhằm tránh các đợt sâu hại phát sinh phát triển phá hoại mạnh vào các giai đoạn xung yếu của cây rau song vẫn giữ được năng suất và phẩm chất. - Luân canh và xen canh: nhằm cách ly về không gian và thời gian giữa các loại rau và các loài sâu bệnh hại loại rau đó. Biện pháp này thường chỉ có tác dụng đối với các loài sâu bệnh hại có tính chuyên hoá hẹp dựa trên cơ sở nắm được thành phần sâu bệnh hại của từng loại rau và phạm vi ký chủ của chúng - Bón phân hợp lý: thể hiện bởi các mặt đảm bảo tỷ lệ NPK cân đối kết hợp với phân chuồng với phân vi lượng, thời điểm bón phân thích hợp để tăng cường sức sinh trưởng và phát triển của cây rau, điều chỉnh cây rau vượt qua các cao điểm của sâu bệnh hại trong từng mùa vụ khác nhau. - Vệ sinh đồng ruộng, tiêu diệt tàn dư cây bị sâu hại và cỏ dại là những nơi cư trú bảo tồn nguồn sâu bệnh hại trên đồng ruộng sang các vụ sau. Vì vậy cần chú ý khi thu dọn sạch cỏ dại, tàn dư thực vật đem đốt hoặc tiêu huỷ để diệt trừ nguồn sâu bệnh, kết hợp cày sâu bừa kỹ, phơi ải ngâm nước để giảm các loài dịch hại trong đất trồng hoặc trên cỏ dại. (3). Biện pháp kiểm dịch thực vật:

Là một hệ thống biện pháp nghiêm ngặt có tính pháp chế của nhà nước quy định nhằm ngăn chặn triệt để sự lây lan của một số sâu bệnh hại nguy hiểm từ nước này sang nước khác (kiểm dịch đối ngoại) hoặc từ vùng này sang vùng khác (kiểm dịch đối nội). Cần chú ý ngặn chặn để tránh sự lây lan sang các vùng khác. (4) Biện pháp thủ công cơ giới và vật lý phòng trừ sâu bệnh:

Page 70: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

69

Biện pháp này thể hiện ở các mặt hoạt động như trực tiếp cắt bỏ các cành lá của cây rau bị sâu bệnh, ngắt ổ trứng, diệt rệp và sâu non bằng tay hoặc bằng các dụng cụ thô sơ. Biện pháp này đơn giản, dễ thực hiện thường xuyên trong gia đình. Ngoài các biện pháp này còn có dùng độc để diệt sâu dựa vào xu tính thích mùi vị chua ngọt của một số côn trùng. Một số nước đã chủ động chú trọng nghiên cứu và sản xuất các loại chất dẫn dụ côn trùng (Pheromon) để bẫy bắt nhiều loại côn trùng hại rau. Ngoài ra dựa vào xu tính dương ánh sáng của một số loài sâu hại có thể dùng bẫy đèn bắt bướm. Dùng nhiệt độ (nước nóng, hơi nước nóng) để xử lý các vật liệu trồng như hạt giống, hom giống, củ giống... (5) Biện pháp sinh học phòng trừ sâu bệnh hại rau:

Biện pháp này bao gồm nhiều biện pháp kỹ thuật nhằm khai thác, sử dụng các loài ký sinh thiên địch hoặc các loài vi sinh vật đối kháng để khống chế, tiêu diệt các loài sâu bệnh hại rau. Đây là biện pháp có nhiều triển vọng, hợp với xu thế phát triển của thời đại, do hoàn toàn bảo vệ môi sinh và không ô nhiễm môi trường, giữ thế cân bằng sinh học trong tự nhiên. Biện pháp này hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng thuốc hóa học và dùng các thuốc chọn lọc có phổ tác động hẹp không hại các loài ký sinh thiên địch. Đồng thời tạo điều kiện sống thuận lợi cho các loài vi sinh vật có ích. Có thể nhập nội các loại ký sinh thiên địch có ích mới và nhân nuôi các loại ký sinh thiên địch như bọ rùa, ong ký sinh, ong mắt đỏ Trichograma với số lượng lớn để đưa vào các vùng trồng rau. Sử dụng một số chế phẩm sinh học được chế tạo từ các vi sinh vật đối kháng với sâu bệnh hại cây trồng nói chung và cây rau nói riêng như các chế phẩm từ nấm Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae để trừ một số sâu hại và chế phẩm từ nấm đối kháng Trichoderma các loại để phòng trừ một số loại nấm gây bệnh vùng rễ trong đất như Rhizoctonia sp, Sclerotium sp, Fusarium sp, ... thường gây ra các bệnh thối gốc héo rũ trên nhiều loại rau... Ngoài ra các chế phẩm sinh học khác như NPV chế từ virus nhân đa diện, chế phẩm BT chế từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis dùng để phòng trừ một số sâu hại như sâu xanh, sâu tơ, sâu khoang, sâu keo hại rau và các cây trồng khác (được phổ biến trên rau cải, bắp cải) . Biện pháp sinh học còn được sử dụng như tạo các chất dẫn dụ côn trùng (Pheromon) nhân tạo nói chung và các hormon điều hòa sinh trưởng côn trùng để phòng trừ các loại sâu hại. Thành phần ký sinh thiên địch côn trùng hại rau đã phát hiện thấy họ bọ rùa Coccinellidae có thành phần loài rất phong phú. Ví dụ: rệp hại các loại rau thường bị các loại bọ rùa như bọ rùa đỏ (Micraspis discolor Fabr), bọ rùa 2 chấm đỏ (Lemnia biplagiata Swartz), bọ rùa 6 vằn (Menochilus sexcumaculatus Fabr). Ngoài ra các loại ký sinh thiên địch khác như bọ cánh cứng cánh ngắn (Paederus fuscipes Curl.), bọ chân chạy đuôi hai chấm trắng (Chlaenius bioculatus), ong ký sinh trên rệp (Lysiphlebus sp), ruồi ăn rệp (Chilosia atterima Sack.). Các loại sâu còn bị nhện linh miêu (Oxyopes lineatipes) tiêu diệt. (6) Biện pháp hóa học phòng trừ sâu bệnh hại rau

Page 71: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

70

Trong trường hợp khi sâu bệnh đã phát triển đến ngưỡng phòng trừ vẫn phải dùng biện pháp hóa học mới có hiệu quả. Để áp dụng biện pháp này cần phải có những hiểu biết cơ bản về chất độc, tính độc, độ độc, hoạt chất, nồng độ và liều lượng sử dụng của mỗi loại thuốc dùng. Với mục đích dùng thuốc hóa học có hiệu quả cao, an toàn và bảo vệ môi sinh, cần thực hiện theo nguyên tắc 3 đúng: Đúng thuốc: đúng đối tượng sâu (hoặc bệnh hại cần phòng trừ) Đúng lúc: đúng vào thời điểm sâu bệnh mẫn cảm nhất với thuốc, cây trồng chống chịu thuốc tốt và điều kiện ngoại cảnh có lợi cho việc sử dụng thuốc. Đúng kỹ thuật: bao gồm đúng nồng độ, đúng liều lượng, đúng cách (thao tác kỹ thuật) và đúng nguyên tắc an toàn bảo hộ lao động. Thuốc hóa học phòng trừ sâu bệnh được chia theo 2 nhóm đối tượng:

Thuốc trừ sâu cho rau: bao gồm các hợp chất vô cơ, hữu cơ, các sản phẩm sinh vật có tác dụng ngăn chặn và tiêu diệt côn trùng. Thuốc trừ sâu có thể xâm nhập vào cơ thể côn trùng qua con đường tiếp xúc, vị độc, xông hơi, thấm sâu nội hấp với nhiều dạng khác nhau (hạt, bột, bột hòa tan trong nước, dạng sữa, dạng lỏng hòa tan, dạng hơi, dạng rắn). Thuốc trừ sâu có thể phun lên cây, xử lý đất, xử lý giống, làm bả độc, xông hơi kho tàng. Thuốc trừ sâu có nhiều nhóm như nhóm thuốc trừ sâu vô cơ, nhóm dầu khoáng, nhóm thuốc thảo mộc (nguồn gốc thực vật), nhóm thuốc trừ sâu tổng hợp vô cơ, nhóm lân hữu cơ (tiếp xúc và nội hấp), nhóm cacbamat, nhóm thuốc trừ sâu Pyrethroit. Trong các nhóm thuốc trừ sâu kể trên, có nhóm thuốc đang được chú trọng phát triển là nhóm thuốc trừ sâu thảo mộc. Đại diện là thuốc Rotenone (2,5kg/ha), Rotenoit và Pyrethrin vì các thuốc này có nhiều ưu điểm, an toàn với cây trồng, người, động vật máu nóng và không gây ô nhiễm môi trường. Các thuốc nhóm Pyrethrin có tính chọn lọc cao, ít ảnh hưởng ký sinh thiên địch, ít độc, dễ phân hủy trong cơ thể sống và môi trường.

Một số thuốc trừ sâu thuộc nhóm này thường được sử dụng rộng rãi trong sản xuất rau trừ sâu hại như: Trebon10EC (rệp), Sherpa (Cypermethrin) 25EC, Atabron 5EC1kg/ha (rệp, sâu đục quả), Sumicidin (Fenvalerat) 10EC (sâu đục quả), Regent 800WG (dòi đục lá), Comite 73EC (nhện đỏ), Admire 50EC (rầy, bọ trĩ) sử dụng 0,3kg/ha ...

Ngoài các nhóm thuốc trừ sâu trên còn có các nhóm thuốc trừ sâu điều hòa sinh trưởng côn trùng có tính ức chế quá trình lột xác của côn trùng, những tính chất có tác dụng xua đuổi côn trùng, những chất triệt sản. Đặc biệt các chất dẫn dụ côn trùng (Pheromon) nói chung đang được nhiều nước trên thế giới chú trọng nghiên cứu sản xuất để phòng trừ một số loài sâu hại. Hướng phát triển mạnh mẽ hiện nay là tạo các chế phẩm sinh học trừ sâu. Tiêu biểu là thuốc vi sinh BT - một loại thuốc vi sinh trừ sâu, sản xuất trên cơ sở lên men vi khuẩn Bacillus thuringiensis và chế phẩm từ vius nhân đa diện NPV hoặc các chế phẩm sinh học từ nấm trừ sâu hại như Beuveria

Page 72: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

71

bassiana, Verticillium lecanii, một số thuốc gốc vi sinh (BT WP, VTB 2,0kg/ha, Xentari 35WDG, Delfil WP (32BIU), Dipel 3,2WP 1,0kg/ha...

+ Thuốc trừ bệnh hại: Cũng như các loại thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh bao gồm các hợp chất vô cơ,

hữu cơ và các loại thuốc kháng sinh... để diệt trừ hoặc hạn chế sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh bằng cách phun lên cây, xử lý đất, xử lý giống, bón vào gốc rễ, quét vào thân cây.... Thuốc trừ bệnh cũng được phân ra theo các nhóm đối tượng gây hại như thuốc trừ nấm, thuốc trừ vi khuẩn, trừ tuyến trùng. Dựa vào thành phần hóa học, thuốc trừ bệnh được phân chia thành nhiều nhóm như nhóm thuốc chứa đồng, nhóm thuốc chứa thủy ngân, nhóm chứa lưu huỳnh, nhóm chứa clo và nitơ, nhóm lân hữu cơ, nhóm hợp chất dị vòng chứa nitơ, thuốc trừ nấm nội hấp, nhóm thuốc kháng sinh và nhiều loại thuốc trừ nấm khác.

Một số thuốc trừ bệnh thường được sử dụng trong việc phòng trừ bệnh hại rau an toàn là : Anvil 5 SC (phấn trắng, đốm lá, gỉ sắt), Benlat (Benomyl) xử lý hạt và cây trước khi trồng, Ridomil MZ72WP (sương mai, phấn trắng, đốm lá), Manozeb 80 WP (sương mai, đốm trắng, thối quả), Rovral 50WP, Validacin 3 DD (lỡ cổ rễ, thối nhũn), Kamulus 80DF (các bệnh do nấm), Score 250ND (thán thư, đốm lá, gỉ sắt) - Một số điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc hợp lý, bảo vệ cây rau, bảo vệ môi trường:

Thuốc trừ sâu bệnh ngoài một số tác dụng có lợi như có thể kích thích cây rau sinh trưởng, tăng tỷ lệ nảy mầm, cứng cây, tăng khả năng chống chịu nhiệt độ thấp hoặc chịu hạn... còn có tác động có hại đến toàn cây hoặc các bộ phận của cây rau nếu không dùng hợp lý. Hậu quả của việc dùng thuốc không hợp lý có thể dẫn đến các hiện tượng xấu như xoăn lá, vàng lá, rụng lá và hoa, thui mầm, biến dạng thân cành và rễ, cây còi cọc hoặc chết. Hiện tượng cháy thuốc trên rau thường xảy ra nếu dùng thuốc quá nồng độ, liều lượng quy định. Thuốc trừ sâu bệnh còn ảnh hưởng đến màu sắc, hương vị của rau nếu dùng không đúng. Ngoài ra cần chú ý điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt thời tiết, nhiệt độ ẩm độ và giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây rau có tác động tăng hay giảm tác dụng cũng như tác hại của các loại thuốc khi dùng. Thuốc trừ sâu bệnh nếu dùng thường xuyên liên tục một loại thuốc dễ dẫn đến hiện tượng quen thuốc của các loại sâu bệnh hại cây rau do trong quá trình phun thuốc còn một số cá thể sống sót có khả năng hình thành các gen chống thuốc và di truyền lạ i cho đời sau. Ngoài ra việc dùng thuốc hóa học thường xuyên còn làm giảm tính ổn định của quần thể sinh vật trong một vùng nào đó làm ảnh hưởng đời sống của các loài ký sinh thiên địch trong sinh quần và dễ hình thành các loài dịch hại mới gây ra hiện tượng tái phát dịch trên đồng ruộng. Ngoài ra việc dùng thuốc lâu dài thiếu chọn lọc dễ dẫn đến sự tồn dư lượng thuốc trên các bộ phân của cây, trên nông sản và trong đất, gây ô nhiễm nước và môi trường, từ đó ảnh hưởng đến môi sinh. Vì vậy cần lựa chọn các loại thuốc ít độc hại có tính chọn lọc cao, dễ phân hủy đồng thời chú ý đảm bảo thời gian cách ly trước

Page 73: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

72

khi thu hoạch sản phẩm và sau mỗi lần phun thuốc. Thời gian cách ly có thể dài hay ngắn tùy thuộc vào loại thuốc, đặc tính cây trồng và điều điện ngoại cảnh để đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất và người sử dụng (xem phụ lục rau an toàn) - Bấm ngọn, tỉa cành:

Bấm ngọn và tỉa cành là kỹ thuật đơn giản nhưng đem lại hiệu quả cao, là khâu quan trọng đối với một số cây nhóm rau ăn quả. Tuỳ cây mà có phương pháp bấm ngọn tỉa cành khác nhau. Cà chua để 2 thân (1 thân chính và 1 cành cấp 1 mọc dưới chùm hoa 1) còn các cành khác bỏ đi (cứ 3 - 4 ngày tỉa 1 lần, tỉa các nhánh nách mới nhú 2-3cm, tránh để nhánh phát triển mạnh mới tỉa vì khi đó nhánh đã hoá gỗ, tỉa bỏ dễ gây tổn thương đến các cây, tạo vết thương để sâu bệnh dễ xâm nhập. Cà chua sinh trưởng hữu hạn không bấm ngọn (có thể tỉa các cành sát đất), sinh trưởng vô hạn khi có 7- 8 chùm hoa sau đó bấm ngọn và tỉa hoa để tập trung dinh dưỡng nuôi quả. Dưa gang phải bấm ngọn từ lúc có 4-5 lá thật, bấm ngọn thường xuyên, các cành cũng bấm ngọn vì quả ra/cành. Dưa hấu được 7- 8 lá cũng bấm ngọn vì ra quả/cành. Cà tím tỉa bỏ các nhánh từ gốc đến quả đầu tiên. Các loại mướp tỉa hết các cành gốc từ mặt đất đến độ cao 40 - 50cm. Bầu bí, bí xanh cần tỉa cành liên tục vì quả chỉ ra/thân chính. Dưa chuột nên tỉa hết các cành dưới lá thứ 6 để tập trung dinh dưỡng cho quả ra trên thân chính. - Tỉa lá:

Khi lá phát triển quá rậm rạp, cần tỉa bỏ các lá già phía dưới, làm cho cây thoáng mát, hạn chế sâu bệnh, hạn chế tiêu hao chất dinh dưỡng của một số bộ phận khác trong cây. Trong trường hợp trồng cà chua hay dưa leo treo dây trong nhà lưới cần khoanh giây xuống (vòng quanh gốc nhiều vòng) để thân chính không cao quá khó thu quả và treo dây. - Tỉa hoa, tỉa quả:

Đối với một số loại cây ăn quả như dưa hấu, cà chua, bầu, bí, đậu... có khả năng ra hoa nhiều nhưng tỷ lệ đậu quả thấp hoặc đậu quả nhưng thường bị rụng. - Làm giàn, bắt giây, phân nhánh:

Có nhiều cách làm giàn như kiểu mái nhà, chữ A, mái vòm, làm thẳng, làm cao, cắm cọc, treo dây...tuỳ điều kiện kinh tế, kỹ thuật và tập quán canh tác của từng vùng, từng cây mà có các kiểu giàn thích hợp. Sau khi làm giàn, đối với các loại dưa, bầu bí, mướp cần buộc giây lên giàn, buộc bằng giây mềm, mịn và dai. Khi cây đã leo giàn thì phải phân bổ giây đều trên giàn mới đảm bảo năng suất, phải theo dõi để sửa lại vị trí quả thì quả mới đều, thẳng, đảm bảo phẩm chất tốt. Ngoài các biện pháp kỹ thuật trên cần chú ý tăng cường chăm bón (tưới nước, bón thúc) để tăng tỷ lệ đậu quả, tăng trọng lượng quả. - Phòng chống rụng hoa, quả:

Trong thực tế sản xuất, do ảnh hưởng của những điều kiện ngoại cảnh bất lợi và giống dẫn đến rau bị rụng nụ, rụng hoa, rụng quả. Do vậy cần chú ý chọn giống có khả

Page 74: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

73

năng đậu quả cao (khả năng chống chịu tốt), thụ phấn bổ khuyết (8-10 giờ sáng) có thể bằng tay hoặc máy, tỉa cành, lá, bấm ngọn thích hợp, bón phân đầy đủ và cân đối NPK, đảm bảo độ ẩm, ứng dụng các chất điều hoà sinh trưởng (α NAA, GA3, NOA 4 -10ppm). - Phòng chống rét

Khả năng chống chịu nóng, rét của cây rau có liên quan đến đặc tính sinh lý - sinh hóa của chất nguyên sinh và quá trình tích lũy chất bảo vệ. Tăng hàm lượng đường, hàm lượng lip it, giảm lượng nước tự do trong tế bào sẽ làm tăng độ nhớt của chất nguyên sinh đồng thời làm tăng tính chịu rét của cây. Cần chọn thời vụ gieo trồng thích hợp, chọn giống chịu lạnh, xử lý hạt giống trước khi gieo, tăng cường bón phân hữu cơ, phân kali, che phủ mặt đất bằng rơm rạ hoặc PE 2 màu. Hạn chế bón đạm khi nhiệt độ thấp, tưới nước giữ ẩm, giữ nhiệt. Trồng rau trong nhà lưới kín hoặc nhà có mái che. - Phòng chống nhiệt độ cao cho rau

Trồng rau trong vụ Hè Thu, nhiệt độ quá cao không thích hợp cho sự sinh trưởng, ra hoa, đậu quả của rau. Nhiệt độ cao sẽ làm cường độ hô hấp tiêu hao nhiều chất dinh dưỡng, quang hợp gặp nhiều khó khăn, dẫn đến cây bị còi cọc, năng suất, chất lượng giảm. Cần chú ý chọn giống chịu nhiệt, chọn thời vụ gieo trồng thích hợp. Tăng cường tưới nước để làm giảm nhiệt độ trên lá (lúc nhiệt độ quá cao, có tưới phun mưa sẽ giảm 4 -7oC), làm thay đổi tiểu khí hậu trong ruộng rau. Trồng rau trong điều kiện có thiết bị che chắn như giàn che nắng, nhà lưới hở (lưới màu đen, đen xanh, xanh) để giảm cường độ ánh sáng mạnh để bảo vệ cây rau. Tăng cường mật độ trồng/đơn vị diện tích, bón phân hữu cơ, bón vôi đồng thời che phủ mặt đất để giảm sự bốc hơi nước mặt đất, giữ ẩm cho cây.

2.9. Bố trí cơ cấu cây trồng, thực hiện chế độ luân canh, xen canh hợp lý Bố trí cơ cấu giống rau hợp lý là xác định thành phần, tỷ lệ giống rau theo không gian và thời gian trên một đơn vị diện tích. Để đạt được năng suất cao, chất lượng tốt, hiệu quả kinh tế lớn, người trồng rau cần phải luôn luôn biết đổi mới về cách sắp xếp các công thức luân canh, cơ cấu giống, chủng loại rau để đa dạng hóa sản phẩm, sản xuất rau quanh năm, thu lợi nhuận cao. Đó chính là kỹ thuật luân canh, xen canh rau. 2.9.1. Luân canh rau Luân canh là kỹ thuật trồng liên tục các loại cây rau kế tiếp nhau theo những khoảng thời gian nhất định trên cùng một đơn vị diện tích. Luân canh rau nhằm cải tạo đất (cải tạo độ phì lý tính và hoá tính đất), phòng chống sâu bệnh hại và đảm bảo cơ cấu cây trồng thích hợp. Luân canh rau phải đảm bảo nguyên tắc: Tạo ra cơ cấu cây rau thích hợp và bố trí hợp lý giữa cây rau cạn và cây rau nước, cây rau có nguồn gốc ôn đới, á nhiệt đới với cây rau có nguồn gốc nhiệt đới để có nguồn rau thu hoạch quanh

Page 75: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

74

năm. Luân canh giữa các cây rau khác họ: Cây rau - màu; rau - rau; rau - lúa nước. Giữa cây trồng nước và cạn để thay đổi điều kiện sống diệt mầm mống sâu bệnh. Bố trí sao cho trong cùng một thời điểm phải có sản phẩm rau đa dạng cung cấp theo nhu cầu trong nước, xuất khẩu cũng như nguyên liệu cho công nghiệp đồ hộp, thực phẩm. - Một số công thức luân canh rau phổ biến ở miền Bắc Trung Bộ và một số tỉnh phía Bắc + Đối với vùng rau trên đất lúa bao gồm các công thức luân canh: 1. Lúa xuân - Lúa mùa - Rau vụ Đông 2. Lúa xuân - Lúa mùa sớm - Rau sớm - Rau muộn 3. Lúa xuân - Mùa ngắn ngày - Rau sớm - Rau muộn 4. Màu vụ xuân - Rau cực sớm - Rau chính vụ Để giải quyết rau giáp vụ từ tháng 8 đến tháng 10, một số vùng đã áp dụng công thức 2- 3 - 4 nhằm tập trung giá bán ở thời điểm khan hiếm rau, tuy nhiên áp dụng theo những công thức này phải hết sức chú ý đến hệ thống giống. Đối với lúa phải sử dụng giống ngắn ngày, đối với rau phải sử dụng giống rau phù hợp với điều kiện khắt khe của vụ sớm. Trong thực tế vụ rau sớm đang là một nguồn lợi mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất, nhưng mới chỉ tập trung ở một số hộ kinh tế khá có đầu tư về giống, kinh nghiệm và trình độ canh tác cao. Chi phí cho sản xuất rau vụ sớm tăng gấp hai lần so với sản xuất đại trà (chi phí về giống, đầu tư công, điều kiện che chắn). Nhưng năng suất thường thấp chỉ đạt 40 -50 % so với chính vụ, do đó giá thành rất cao.

Vùng chuyên canh rau: 1. Cải bắp (10-2) - cà chua xuân hè (2-6) - rau muống (6-9) 2. Cô ve (10 - 1) - Dưa các loại (2- 4) - rau muống (4 - 9) 3. Xà lách, rau diếp (9 - 12) - Mướp, dưa (1- 6) - rau lang (7-8) 4. Cải củ sớm (7- 9) - su hào (9-12) - bí xanh (12- 6) 5. Dưa chuột Đông (9-12) - đậu cô ve (2-5) - cải bẹ dưa (6-9) 6. Cà chua Đông (9-2) - dưa chuột xuân (2-5) - rau muống (6-9) Vùng rau gia vị: 1. Rau ăn lá (10 - 3) - hành lá (4 - 9) 2. Ngò, rau thơm (10 - 4) - rau muống (4 - 9) Vùng bán chuyên canh: 1. Bắp cải (11-3) - Dưa các loại (4 - 7) - khoai lang (8 - 10) 2. Rau các loại ( 9 -1) - Lạc ( 1- 4) - dưa (4 - 8) 3. Ớt (1- 6) - khoai lang (7-12) Vùng trồng rau nước: 1. Rau muống (tháng 2 - 11) - muống giống (12-2) 2. Rau muống (2-10) - rau cần nước (10 - 2)

Page 76: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

75

- Một số công thức luân canh phổ biến ở miền Trung và Thừa Thiên Huế : Vùng chuyên canh rau

1. Cô ve (10 - 1) - Dưa các loại (2- 4) - rau muống (4 - 9) 2. Xà lách, rau diếp (9 - 12) - Mướp, dưa (1- 6) - rau lang (7-8) Vùng rau gia vị 1. Rau ăn lá (10 - 3) - hành lá (4 - 9) 2. Ngò, rau thơm (10 - 4) - rau muống (4 - 9) Vùng bán chuyên canh rau: 1. Bắp cải (11-3) - Dưa các loại (4 - 7) - khoai lang (8 - 10) 2. Rau các loại ( 9 -1) - Lạc ( 1- 4) - dưa (4 - 8) 3. Ơt (1- 6) - khoai lang (7-12)

Vùng trồng rau nước: 1. Rau muống (tháng 3 - 10) - muống giống (11-2) 2. Rau muống (3- 9) - rau cần nước (10 -2) 3. Rau muống (3-7) - môn ngọt /môn bạc hà (8-2) 2.9.2. Xen canh rau Trồng xen hay xen canh là kỹ thuật trồng từ 2 cây trở lên trên một đơn vị diện tích trong cùng một đơn vị thời gian, trong đó có một cây trồng chính Xen canh nhằm tăng năng suất và sản lượng/đơn vị diện tích/một đơn vị thời gian, tận dụng không gian và thời gian trong canh tác, chống sâu bệnh, tận dụng ánh sáng giữa các loại rau, giảm công lao động, hạ giá thành sản phẩm nên thu hiệu quả kinh tế cao. Trồng xen phải đảm bảo các nguyên tắc cây trồng xen không được làm ảnh hưởng và giảm năng suất nhiều của cây trồng chính. Tổng sản phẩm thu thập của cây trồng xen phải cao hơn so trồng riêng cây trồng chính. Chọn các cây trồng xen đối lập nhau với cây trồng chính về nhu cầu ánh sáng, chiều cao, thời gian sinh trưởng: Cây rau yêu cầu ánh sáng mạnh và ánh sáng yếu, cây cao với cây thấp, thời gian sinh trưởng dài và thời gian sinh trưởng ngắn. Chọn các cây trồng xen phải khác họ với cây trồng chính để tránh lây lan sâu bệnh. Chọn cây hàng rộng và cây hàng hẹp, cây tán rộng hoặc leo với cây tán nhỏ. - Một số công thức trồng xen canh rau phổ biến ở miền Trung

1. Ớt + các loại rau cải + môn nước 2. Ớt + xà lách + hành, tỏi 3. Ớt + rau thơm (húng, bạc hà, rau răm) 4. Cà tím + rau thơm các loại 5. Đậu cô ve + các loại cải + su hào 6. Cà + rau cải + xà lách + rau dền, rau thơm 7. Ngô + các loại đậu (lạc, đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ) 8. Ớt + lạc ngắn ngày

Page 77: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

76

9. Cà + dền + xà lách + cải địa phương Các công thức luân canh, xen canh nói trên thể hiện sự đa dạng hoá sản phẩm

rau và mức độ tận dụng đất đai, trình độ thâm canh cao đã mang lại hiệu quả cao gấp 1,5 đến 2,5 lần so với công thức ở vùng luân canh rau với lúa, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Câu hỏi bài 5: 1. Cơ sở khoa học của việc xác định thời vụ và các thời vụ gieo trồng rau ? 2. Các biện pháp kỹ thuật vườn ươm và chú ý chăm sóc cây con như thế nào để đảm bảo chất lượng cây giống tốt ? 3. Các biện pháp kỹ thuật trồng rau ra ruộng sản xuất và chú ý chăm sóc cây như thế nào để đảm bảo năng suất, chất lượng tốt và hiệu quả kinh tế cao?

Bài 6 KỸ THUẬT TRỒNG M ỘT SỐ LOẠI RAU CHỦ YẾU Ở MIỀN TRUNG VÀ

ỨNG DỤNG MỘT SỐ KỸ THUẬT TIÊN TIẾN VÀO SẢN XUẤT RAU MỘT SỐ CÂY RAU THUỘC NHÓM RAU ĂN LÁ

CÂY CẢI BẮP (Brassica oleraceae Var. Capitata) Tiếng Anh: Cabbage Họ Thập tự: Cruciferae (Brassicaceae Burn) Số lượng nhiễm sắc thể: 2n =18

1. GIỚI THỆU CHUNG

1.1. Giá trị dinh dưỡng và cách sử dụng Cải bắp là loại rau ăn lá cao cấp trồng chủ yếu trong vụ Đông Xuân ở nước ta, Riêng ở Đà Lạt - Lâm Đồng có thể trồng quanh năm. Nó được sử dụng làm thực phẩm dưới nhiều hình thức luộc, xào, trộn (cải bắp, hành tây, cà rốt, gia vị khác), nấu canh, kim chi, muối chua, ăn sống, ... cải bắp chứa nhiều chất dinh dưỡng như các loại vitamin B1, B2, PP, C, caroten, các chất khoáng như N, Ca, Fe, P, đường, nhưng chủ yếu là gluco (loại đường đơn dễ hấp thu). Nhiều tài liệu cho thấy khi phân tích 100g phần ăn được của một giống cải bắp thấy rằng: Nước chiếm 90g%; Protit 1,8g%;gluxit 5,4g%; xellulo 1,6g%; calo: 30 calo/100g; Vitamin PP 0,4mg%; B1 0,06 mg%; B2 0,05mg%; C 36mg%; Ca 48mg%; Fe1,1mg%.

Page 78: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

77

1.2. Nguồn gốc, phân bố và phân loại - Nguồn gốc và phân bố Theo Kurt và Decandolle (1957), Decandolle (1957), Lizgunova (1965) và một số tài liệu cho rằng cải bắp có nguồn gốc ở châu Âu, từ cải xoăn biển (sea kale) được tìm thấy dọc bờ biển Địa Trung Hải cách đây khoảng 2.500 năm.

Theo Schery (1929) cải bắp hoang dại cũng được tìm thấy ở châu Âu, nhưng lại được trồng trọt hoá tại vùng trung Đông, nơi mà hàng loạt các giống cải bắp được sử dụng 4.000 năm về trước. Từ lâu cải bắp được trồng ở Hy lạp (cổ La Mã), trước thế kỷ thứ X cải bắp được trồng nhiều ở Nga, Bắc Địa Trung Hải, Pháp, Italia. Từ đó cải bắp được lan truyền khắp thế giới.

Các dạng cải bắp, có bắp giống như bắp cải ngày nay được trồng ở châu Âu, tất cả các dạng bắp cải có nguồn gốc từ bờ biển Anh, Wales, Ailen, Tây và Nam Âu.

Hiện nay nơi trồng cải bắp nhiều nhất là Trung Quốc và một số nước thuộc Liên Xô (cũ)

Ở nước ta, cải bắp được trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc Các tỉnh Duyên Hải Miền Trung, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh đồng bằng

Sông Cửu Long cũng có tập quán trồng cải bắp nhưng với các giống chịu nóng. Hiện nay có nhiều giống cải bắp có tính thích ứng rộng, không kén đất, có thể trồng trong vụ Đông Xuân từ Bắc chí Nam, năng suất từ 20- 30 tấn/ha, năng suất cao có thể đạt 40 tấn/ha. Tuy nhiên khí hậu miền Bắc thích hợp trồng cải bắp hơn miền Nam . - Phân loại: Căn cứ vào nguồn gốc địa lý phát sinh của các dạng dại và dạng trồng, tác giả Lizgunova tại viện VIR (viện thực vật toàn liên bang Nga) đã chia cải bắp thành 6 biến chủng: 1. Brassica capitata Lizg: cải bắp 2. Brassica cauliflora Lizg: Sup lơ 3. Brassica caulorapa Pasq: Su hào 4. Brassica sabauda Lizg (Bulata): cải bắp lá nhăn 5. Brassica gemmifera Lizg: Bi xen cải bắp chùm Brussels 6. Subspontanea Lizg: Cải bắp xòe không cuốn Dựa vào đặc điểm hình thái Theo Mincop (1961) cải bắp có hai loại :

Cải bắp trắng (B. oler L.var. capitata forma alba). Loại này rất có giá trị ở châu Âu và các nước châu Á, được dùng trong sản xuất với diện tích lớn, loại này thường có thời gian sinh trưởng ngắn, cuộn bắp sớm, chất lượng ngon. Cải bắp tím đỏ (B. oler.capitata forma rubra), loại này gần như chưa được trồng ở Việt Nam, ở các nước nó được dùng để làm salad, thời gian sinh trưởng dài. Tuy nhiên có một số giống bắp cải màu tím (bán đỏ) đang được trồng thí nghiệm tại viện

Page 79: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

78

Nghiên cứu Rau - Quả, trung tâm nghiên cứu rau hoa Đà Lạt, hiện nay một số địa phương ở Đà Lạt - Lâm Đồng đã trồng chủ yếu bán cho nhà hàng, khách sạn. Mincop và Recheva (1988) còn dựa vào thời gian sinh trưởng của các giống để phân loại đến các giống Giống chín sớm: 110 -115 ngày Giống chín trung bình: 116-125 ngày Giống chín muộn trên 125 ngày Ngoài ra còn có loại bắp cải dùng cho chế biến, thích hợp với các vùng cao, cải bắp nhánh và cải xa voa, lá của loại cải bắp này thường xoăn, nổi gờ. Cả 3 loại này cũng chưa được trồng ở Việt Nam.

2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC 2.1. Bộ rễ

Bộ rễ cải bắp thuộc loại rễ chùm, ăn cạn, ưa ẩm, phân bố ở tầng đất mặt. Rễ có thể ăn sâu đến 50cm rộng khoảng 30cm, nhưng không chịu úng, chịu hạn kém. Bộ rễ có thể chia 2 loại rễ: rễ chính và rễ phụ.

Khi gieo trồng lấy bắp, ở thời kỳ đầu (2 lá mầm), rễ chính có thể phát triển dài đến 15cm, rễ phụ phát triển chậm, nhưng sau đó rễ chính phát triển chậm, rễ phụ phát triển nhanh. Sau trồng 40 ngày, diện tích rễ phụ và lông hút lớn gấp 10 lần so với diện tích mặt lá. Trong thời kỳ hình thành và phát triển bắp, rễ phụ ăn sâu tới 30 - 40cm, ăn rộng 50 - 80cm. Thời kỳ nở hoa, các rễ phụ vẫn phát triển nhưng không rộng quá 30 - 40cm. Trên đoạn thân sát gốc có khả năng ra rễ bất định. Nếu gặp điều kiện đất đai, ẩm độ thích hợp thì loại này có thể thoát nước và chất dinh dưỡng. Giống chín muộn thường có bộ rễ lớn hơn giống chín sớm. Cần xới xáo, làm cỏ, bón thúc kịp thời và tưới nước đầy đủ để hệ rễ phát triển tốt.

2.2. Thân Trục thân chính của cải bắp ngắn và dày, nhiều đốt, không phân nhánh và được bao bởi một lớp vỏ xốp, lớp này có tác dụng kìm hãm sự phát triển của thân. Thân cải bắp có thể cao 15 - 50cm tuỳ giống, thân mập, đường kính đoạn thân lớn nhất từ 3- 6cm. Khi cây có bắp, thân chia làm 2 đoạn - Thân ngoài: là đoạn thân có nhiều lá xanh sắp xếp sít nhau theo hình xoáy ốc. Giống chín muộn thường có đoạn thân ngoài dài hơn giống chín sớm như vậy độ dài của thân tuỳ thuộc vào đặc tính của giống. Ví dụ : Độ dài thân ngoài của giống cải bắp lá xanh Thượng Hải ngắn hơn cải bắp Lạng Sơn. Độ dài thân ngoài có ý nghĩa lớn trong việc chống đổ và sản xuất giống (thân cao làm giảm khả năng chống đổ và ít nhánh), vì ở mỗi nách lá lại có một chồi ngủ, sau khi bắp được chặt đi, các chồi nách bắt đầu hoạt động và sinh trưởng mạnh.

Page 80: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

79

Chồi gần gốc có tuổi phát dục non nên khả năng ra hoa quả thấp, các chồi gần ngọn có tuổi phát dục già do đó khả năng ra hoa, kết quả cao.

- Thân trong: là đoạn thân có những lá cuộn thành bắp, cũng sắp xếp theo hình xoáy trôn ốc, mật độ lá dày hơn trên thân ngoài. Độ dài thân trong có ý nghĩa rất lớn đến độ chặt của bắp và thay đổi theo đặc tính của giống. Giống có thân ngắn thường chiều dài thân trong chiếm 40% độ cao bắp, loại thân trung bình chiếm 40 - 60%, loại thân dài chiếm trên 60% so với độ cao bắp. Giống có thân trong càng ngắn thì bắp càng chặt, năng suất càng cao vì thân ngắn, mật độ lá càng dày, bắp cuốn chặt). 2.3. Lá Lá là cơ quan quang hợp, là một đặc trưng quan trọng để phân biệt giữa các giống các biến chủng với nhau. Lá cải bắp được sắp xếp sít nhau trên thân theo hình xoáy ốc, càng lên ngọn lá càng xếp sít nhau, có hình dạng, kích thước, màu sắc rất khác nhau (cải bắp trắng có màu xanh, cải bắp đỏ có màu đỏ tía). Lá là bộ phận kinh tế, khi cây trưởng thành có thể phân ra 2 loại rõ rệt: - Lá ngoài là các lá màu xanh, dày, giòn, dễ gãy, làm nhiệm vụ quang hợp. - Lá trong là lá không tiếp xúc với ánh sáng nên có màu trắng ngà, mềm, ngon làm nhiệm vụ dự trữ chất dinh dưỡng, là bộ phận được sử dụng cho mục đích thực phẩm. Tuy nhiên các lá già có hàm lượng vitamin C cao hơn lá trong, lá trong chứa nhiều đường và các chất khoáng, các vitamin, ít xenlulô, ít canxi và vitamin C.

Thời kỳ cây con rất khó phân biệt lá giữa các biến chủng nhất là thời kỳ 1-2 lá thật. Đặc trưng nhất ở các giống cải bắp để so sánh với các loại cải khác là các lá đầu có cuống còn những lá sau không có cuống. Để phân biệt có thể căn cứ vào hình dáng lá, sự phân bố gân lá, răng cưa nông, sâu, màu sắc lá và phiến lá. Bảng 15. Phân biệt lá của một số biến chủng trong họ thập tự Đặc điểm lá Cải bắp Su hào Su lơ Phiến lá Tròn Dài Thuôn hình thìa

Cuống lá Dẹp, rất ngắn, không phân chia rõ với phiến lá

Tròn, dài, nhỏ phân biệt rõ với cuống lá

Dẹp ngắn, không phân biệt rõ với phiến lá

Gân lá Nhiều , nổi rõ Thưa, chìm Mờ, thưa, không nổi rõ

Răng cưa mép lá Ít, nông, đều hoặc không đều

Rất rõ, sâu, không đều

Phân bố đều, nông

Lá ngoài trên cây thường biến động 8 - 20 lá, lá trong 25- 30 lá (tuỳ giống)

Page 81: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

80

Lá cải bắp là cơ quan kinh tế nên mọi biện pháp kỹ thuật nhằm bồi dục bộ lá phát triển tốt, bắp to, cuốn chặt, năng suất càng cao. 2.4. Hoa, quả và hạt - Hoa:

Hoa cải bắp thuộc họ hoa thập tự (chữ thập), hoa mẫu 4, có công thức K4C4A4 + 2G2 (đài, tràng, nhị, nhuỵ 4 chiếc chia 2 vòng). Hoa cải bắp thuộc loại lưỡng tính, thụ phấn chéo nhờ côn trùng (thụ phấn khác hoa), rất dễ la i tạp với các cây trong họ nhưng không có ý nghĩa kinh tế. Nếu thụ phấn bắt buộc có thể nâng cao tính đồng đều của bắp, lai giữa các giống thể hiện ưu thế la i rất rõ. Hoa cải bắp nở từ lúc 7- 8 giờ sáng, hoa dễ lai tạp nên phải chú ý cách ly thời gian 15 - 20 ngày giữa nó với các giống khác (không gian 500m trở lên, thời gian 15 -20 ngày trở lên). Khi qua giai đoạn xuân hóa và gia i đoạn ánh sáng, thân trong và các chồi nách vươn cao (làm nứt đỉnh bắp), ngồng hoa (trục hoa) thẳng, khoẻ, cao 60-180cm, có nhiều cành, nhiều nhánh (nhánh cấp1,2,3) nên khi hoa nở phải làm giàn, cắm cọc chống đổ cho hoa. - Quả:

Quả của cải bắp dài trung bình 8 -10 cm, thuộc loại quả giác 2 mảnh vỏ (khi khô 2 mảnh vỏ quả tự tách ra, hạt rơi rụng), nên thu quả khi vỏ quả vàng (độ chín kỹ thuật). - Hạt:

Hạt cải bắp nhỏ, hình cầu, đường kính 1 - 2mm. Tuỳ mức độ chín màu sắc hạt có thể thay đổi màu nâu đỏ, nâu sẫm, những hạt chín chưa đầy đủ có màu nâu tươi, vỏ hạt không nhẵn như hạt su hào, trọng lượng 1000 hạt từ 2,5 - 3,5g. Nếu bảo quản đúng kỹ thuật có thể cất giữ được giống đến 4 - 5 năm. 3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH

Cải bắp là cây 2 năm (sinh trưởng dinh dưỡng cuối năm này, sinh trưởng sinh thực đầu năm sau), thông qua giai đoạn xuân hoá (gia i đoạn nhiệt độ) và giai đoạn ánh sáng mới ra hoa. Cải bắp thuộc loại cây chịu lạnh nên nó thông qua giai đoạn xuân hoá ở nhiệt độ 1- 100C, vì vậy khi gieo trồng nếu gặp nhiệt độ này, cây có thể ra hoa kết quả mà không cần phải sang năm sau. Cải bắp có bộ lá lớn, nhiều lá (45 - 70 lá), có hệ số sử dụng nước lớn, bộ rễ phát triển mạnh hơn các cây trong cùng họ (su hào, su lơ, cải bẹ) nên khả năng chống chịu hạn, úng cũng tốt hơn các loại trên. Trong quá trình sinh trưởng, phát triển, cải bắp yêu cầu các yếu tố ngoại cảnh nhất định. 3.1. Nhiệt độ

Cải bắp có nguồn gốc từ vùng ôn đới, lạnh, ẩm. Nếu trồng có được những điều kiện như vậy thì năng suất cao, phẩm chất tốt. Ngược lại nếu gặp nhiệt độ cao, khô

Page 82: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

81

hạn, cây sinh trưởng khó khăn, quang hợp giảm, hô hấp tăng, cây nhỏ, cuốn chậm, không chặt, bắp nhỏ, năng suất giảm, phẩm chất kém - Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng 18-20oC - Nhiệt độ thích hợp cho cuốn bắp 17-18oC Cải bắp có khả năng chịu rét, thời kỳ 1-2 lá thật có thể chịu nhiệt độ thấp - 2 đến - 3oC, cũng có thể chịu đến - 5 đến - 6oC. Những giống qua huấn luyện có thể chịu được -10 đến -12oC. Nhiệt độ trên 25oC cây sinh trưởng chậm, cây nhỏ, thời gian cuốn kéo dài. Trên 28oC kết hợp với ẩm độ thấp sẽ ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thu bắp. Nhiệt độ trên 25oC trong thời gian nở hoa gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nhị, nhuỵ, hạt phấn, thụ tinh kém gây hiện tượng rụng nụ, rụng hoa. Nhiệt độ trên 35oC quá trình trao đổi chất bị rối loạn, chất nguyên sinh bị biến đổi, quang hợp giảm, cây chóng già. Tuy nhiên nhiệt độ xuống dưới 10oC bắp cũng không cuốn. - Cải bắp là cây 2 năm, muốn thông qua giai đoạn xuân hoá cần nhiệt độ thấp, tốt nhất từ 3-5oC (trong thời gian ngắn), thường ở thời kỳ cây đã lớn (đường kính khoảng 0,6 cm), cũng có giống thông qua gia i đoạn xuân hoá ở mọi thời kỳ. Các giống muộn (dài ngày) yêu cầu nhiệt độ thấp nghiêm khắc hơn giống sớm (ngắn ngày). 3.2. Ánh sáng - Cải bắp yêu cầu thời gian chiếu sáng trong ngày dài (13-14h/ngày), tuy nhiên chiếu sáng 10 -12h/ngày kết hợp với ánh sáng đầy đủ sẽ làm cho cây sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao. Nếu thoả mãn được nhu cầu ánh sáng ngày dài thì cải bắp rút ngắn thời gian sinh trưởng. Trong điều kiện chiếu sáng ngày ngắn, thời gian sinh trưởng dài thì có lợi cho việc tích luỹ chất dinh dưỡng, cho sản lượng cao. Để qua giai đoạn ánh sáng cải bắp yêu cầu thời gian chiếu sáng trên 14h/ngày. - Cải bắp yêu cầu cường độ ánh sáng trung bình đến yếu, cường độ ánh sáng khoảng 20.000 - 22.000 lux là thích hợp. Cường độ ánh sáng quá mạnh không có lợi cho quá trình tổng hợp vitamin C. - Cây cải bắp trồng chỉ thích hợp trong vụ Đông Xuân ở nước ta. 3.3. Nước Cải bắp là cây yêu cầu độ ẩm cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng, vì bộ rễ chùm ăn nông, háo nước, phân bố chủ yếu tầng đất mặt, bộ lá lớn, lá không có lông, hàm lượng nước chứa trong cây trên 90%. - Độ ẩm đất thích hợp cho sinh trưởng 75- 85% - Độ ẩm không khí thích hợp 80 - 90% - Yêu cầu nhiều nước nhất vào thời kỳ trải lá và cuốn 3.4. Chất dinh dưỡng - Cải bắp yêu cầu đất tốt nhất là phù sa được bồi hàng năm, đất thịt nhẹ, cát pha, tầng canh tác dày, thoát nước tốt và giữ ẩm tốt

Page 83: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

82

- Trong các yếu tố phân đa lượng NPK thì cần nhiều nhất là đạm, thứ đến Kali và lân. - pH 5,5 - 7 thích hợp trồng cải bắp.

4. CÁC THỜI KỲ SINH TRƯỞNG CHỦ YẾU CỦA CẢI BẮP Tìm hiểu đặc điểm các thời kỳ sinh trưởng của cải bắp để tác động các biện

pháp kỹ thuật thích hợp nhằm thu năng suất cao, phẩm chất tốt. Các thời kỳ sinh trưởng từ gieo đến thu bắp có những đặc điểm khác nhau tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng. 4.1. Thời kỳ cây con (hạt nảy mầm đến trồng ra ruộng sản xuất)

- Số lá/cây đạt 5- 6 lá thật (35- 45 ngày sau khi gieo). Theo Trần Khắc Thi (viện rau quả Hà Nội) thì trọng lượng cây bằng 1/300 trọng lượng cây trưởng thành. Diện tích lá = 1% diện tích cây trưởng thành

- Thời kỳ cây con cải bắp dài hay ngắn phụ thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt, thời vụ gieo...

- Tuổi cây con không được quá 1/3 tổng thời gian sinh trưởng - Tiêu chuẩn cây con tối thiểu là: cây có 5- 6 lá thật, lá sít, phiến tròn, lá trên

ngọn có xu hướng cuộn vào trong, cây mập, lá có lông tơ, gân lá nổi rõ, lá có màu xanh, mang đặc trưng, đặc tính của giống.

Chú ý: Mật độ gieo thích hợp, gieo đúng thời vụ, chống nóng, chống rét... 4.2. Thời kỳ bén rễ, hồi xanh (trồng đến ra rễ, ra lá mới)

Thời gian sau trồng thường là 3-7 ngày. Sau khi cây cải bắp nhổ đem trồng, bộ rễ bị tổn thương, khi trồng ra ruộng sản xuất chưa thể khôi phục ngay được khả năng hút nước và dinh dưỡng nên cây bị héo một thời gian rồi trở lại bình thường. Thời gian cây héo dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiệt độ, độ ẩm lúc trồng, nếu nhiệt độ cao, khô hạn hoặc quá thấp thì hồi xanh lâu. Vì thế phải chọn ngày râm mát để trồng. 4.3. Thời kỳ trải lá (trải lá bàng)

- Sau trồng 15 - 20 ngày bắt đầu thời kỳ trải lá, thời gian trải lá phụ thuộc vào giống (thường 15- 30 ngày, có giống 30 - 40 ngày thì bước vào thời kỳ cuốn bắp)

- Các lá xanh trên cây đều trải rộng trên mặt đất. Nếu lấy thân làm trục chính thì cuống lá hợp với thân một góc gần vuông.

- Đặc điểm sinh trưởng: khả năng đồng hoá mạnh, cây sinh trưởng nhanh, tăng nhanh số lá và đường kính tán cây (đường kính tán tối đa đạt trị số rất lớn 50 -70 cm), những giống sinh trưởng tốt, có thể đạt tới 80 - 100cm.

Đây là thời kỳ quan trọng đối với đời sống bắp cải, thời kỳ này chủ yếu tạo bộ lá ngoài, chỉ trên cơ sở bộ lá ngoài phát triển tốt, làm nhiệm vụ đồng hoá tốt thì mới có điều kiện tập trung dinh dưỡng cho bắp sau này.

Page 84: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

83

4.4. Thời kỳ cuốn bắp (bắp vào cuốn - thu hoạch) - Sau trồng 40 - 50 ngày cây cải bắp bước vào cuốn bắp, số lá/cây lúc bắt đầu cuốn (15-23 lá tuỳ giống). - Đặc điểm sinh trưởng: Số lá/cây, diện tích lá và đường kính tán cây đạt trị số tối đa. Lúc đầu thấy các lá phía ngọn cuộn vào trong trước, sau 10 -15 ngày nếu gặp điều kiện thuận lợi thì trọng lượng bắp tăng 50 - 70% so với khối lượng lúc thu hoạch.

+ Yêu cầu nhiều nước và dinh dưỡng đặc biệt là đạm, nước là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc cuốn, năng suất và phẩm chất

+ Những giống chín muộn và chín sớm (dài ngày và ngắn ngày) lúc đầu có tốc độ phát triển bằng nhau nhưng sau đó giống chín sớm ngừng ra lá tập trung dinh dưỡng cho việc cuốn bắp, còn giống chín trung bình và muộn tiếp tục sinh trưởng và cuộn bắp đồng thời yêu cầu nhiệt độ thấp. Nhiệt độ thích hợp cho cuốn bắp là 17-18oC. Nếu nhiệt độ cao trên 25oC kéo dài ảnh hưởng đến cuốn bắp, bắp cuốn chậm hay cuốn không chặt, nhiệt độ trên 30oC sẽ kéo dài quá trình đồng hoá, quá trình cuốn bị ức chế, có thể ngừng cuốn.

Hình thái bắp lúc thu hoạch (chín thương phẩm hay chín kinh tế): hình dạng bắp sẽ khác nhau tuỳ giống: loại bắp bằng đầu (phẳng dẹt), tròn đầu (dạng nồi rang), nhọn đầu (hình nón hoặc hình tim). Thời điểm thu hoạch có thể nhìn qua số lá tồn tại/cây, màu xanh lá ngoài, đè tay lên đỉnh bắp nhận thấy bắp chặt, bắp chắc, tính số ngày sau cuốn bắp...

Kích thước bắp cũng thay đổi theo giống và kỹ thuật trồng trọt, đường kính bắp loại nhỏ 10-12 cm, loại trung bình 21 - 25cm, loại lớn trên 25cm.

Khối lượng bắp thay đổi tuỳ giống và thời vụ gieo trồng, chế độ thâm canh, đất trồng, chăm sóc... Vì khối lượng bắp phụ thuộc vào số lá tạo bắp, khối lượng mỗi lá, độ dày của lá, độ chặt bắp (khả năng cuốn bắp). - Độ chặt bắp là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng suất, chất lượng của một giống. Có nhiều phương pháp đánh giá nhưng đơn giản nhất là tính theo công thức. - Một số đại lượng xác định độ chặt cải bắp: H - h P = n

H - h: Độ dày bắp cuốn (do lá tạo nên) P : Độ chặt bắp (khoảng cách giữa các lá tính bằng mm) H: Chiều cao của bắp (từ cuống bắp đến đỉnh bắp) h: Chiều dài thân trong (đoạn thân mang lá tạo bắp) n: Số lá tạo bắp

Những lá có chiều dài lớn hơn 2cm được coi là 1 lá (có cuống lá và phiến lá) Nếu P > 1 thì bắp cuốn không chặt (bắp xốp) P = 1: Bắp cuốn chặt trung bình

Page 85: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

84

P < 1 thì bắp cuốn càng chặt. Vậy mong muốn trong sản xuất là bắp to, cuốn chặt (P càng nhỏ hơn 1). Cần chú ý: - Hiện tượng bắp cải không cuốn trong sản xuất - Hiện tượng bắp cải ra hoa trước khi cuốn - Biện pháp nhằm hạn chế cải bắp không cuốn và ra hoa trước khi cuốn nhằm thu hiệu quả kinh tế cao. 5. CÁC GIỐNG CẢI BẮP

Giống cải bắp ở nước ta không phong phú. Nguồn giống chủ yếu nhập nội từ Nhật Bản, Trung Quốc và một số giống địa phương ở Miền Bắc.

Trước đây trong sản xuất, các giống cải bắp được trồng ở nước ta là những giống địa phương như Sapa, Lạng Sơn, Hà Nội (Phù Đổng), Lào Cai. Đó là các giống cải bắp trồng thích hợp trong vụ Đông, Đông Xuân, được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta, còn các giống muộn (dài ngày) thường là những giống Trung Quốc hoặc Nhật. - Sapa: là giống có thời gian sinh trưởng dài 135-145 ngày sau gieo. Lá trong có màu trắng ngà hơi vàng. Khối lượng trung bình bắp 1,8 - 2 kg, năng suất trung bình đạt 20 - 27 tấn/ha. Giống này cho năng suất cao trong chính vụ, được trồng phổ biến các tỉnh phía Bắc.

Từ khoảng năm 1980 trở lại đây, nhiều giống F1 trong đó chủ yếu các giống F1 Nhật Bản có nhiều ưu điểm có khả năng chịu nhiệt (có thể cuốn ở nhiệt độ 22 - 25oC), có khả năng thích ứng rộng, năng suất cao (30 - 45 tấn/ha), chất lượng tốt được người trồng ưa thích. Hiện nay trên thế giới có nhiều giống chịu nóng: - CB26: Giống này được tạo ra bằng phương pháp chọn lọc cá thể nhiều năm từ giống cải bắp được trồng lâu năm ở Phù Đổng- Hà Nội, được công nhận giống quốc gia năm 1990. Đường kính tán lá 40-50cm, dạng bắp bánh dày cao 13-15cm, đường kính bắp 15 -17cm. Thời gian sinh trưởng ngắn, từ trồng đến thu hoạch 75 - 90 ngày. Năng suất trung bình 30 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt 35 tấn/ha, tỷ lệ cuống bắp 92 - 95%, khối lượng trung bình 1 bắp từ 1,2 - 1,5kg, cuống khá chặt. Phẩm chất bắp tốt, giòn, kích thước bắp vừa phải, thuận tiện cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, chịu được nhiệt độ cao lúc vào cuốn, chống bệnh héo rũ và thối nhũn tốt. - F1 K.K.CROSS:

Đây là giống chịu nhiệt của Nhật được trồng phổ biến, năng suất bình quân 25- 30tấn/ha/vụ. Có nơi năng suất cao đạt tới 40 - 50 tấn/ha/vụ. Giống này có thời gian sinh trưởng 90- 100 ngày. Từ trồng đến thu hoạch 65 - 70 ngày, (ở Huế từ 75- 80 ngày). Đây là giống tiêu chuẩn được ưa chuộng trên thị trường thế giới cũng như trong nước (vì trọng lượng bắp không lớn (khoảng 2kg), cuốn rất chặt, bắp có dạng tròn dẹt, phẩm chất dòn, ngon, ngọt, khả năng thích ứng rộng, có khả năng cuốn ở nhiệt độ 25 - 27oC. Đây là một giống cải bắp Nhật chịu nóng, giống cải bắp lai nhập nội vẫn là chủ yếu, nhập từ Nhật (Takii seed)

Page 86: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

85

- Giống cải bắp CB1: Giống này do viện Cây Lương thực và Thực phẩm, được chọn từ giống lai F1

KK.CROSS sử dụng phương pháp thụ phấn đồng dạng với cây giao phấn kết hợp phương pháp chọn dòng hệ, được công nhận 1989.

Những đặc tính chủ yếu: Đường kính tán lá 50cm, số là ngoài lúc thu hoạch 15 lá, màu lá xanh đậm, cuốn chặt hơn KK.CROSS. Đường kính bắp trung bình 15,7cm, chiều cao bắp 13,8, dạng tròn dẹt. Thời gian sinh trưởng 75 - 85 ngày. Năng suất trung bình 30 - 35 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt trên 40 tấn/ha. Tỷ lệ cuốn bắp 92 - 95%; khối lượng trung bình bắp 1,2 - 1,8kg/bắp, Phẩm chất ngon, cuốn chặt. Tuy nhiên mật độ cần trồng thưa hơn CB 26 và cần làm gian chống mưa bão cho cây con vụ sớm. - F1 BC310:

Giống này do công ty Syngenta lai tạo năm 2001 nhập từ Hàn Quốc 2002. Thời gian sinh trưởng 110 ngày, lá xanh đậm, dạng bắp tròn, kháng tốt các bệnh cháy lá do vi khuẩn (Xanthomonas campestris), thối bắp do vi khuẩn (Erwinia carotovora) trong mùa nắng nhưng kháng các bệnh này trung bình trong mùa mưa. Giống chống chịu tốt với hiện tượng nứt bắp giai đoạn gần thu hoạch và sau thu hoạch, chất lượng tốt, ăn ngon, năng suất 3,0 -3,5kg/bắp, 80-85 tấn/ha. Giống này được trồng nhiều ở Lâm Đồng - Đà Lạt - NS.CROSS; K.Y.CROSS; OS.CROSS là những giống F1 của Nhật có thời gian sinh trưởng 80 ngày sau trồng.. Lá tròn nhỏ, xanh thẫm, cuống dày, cây gọn, có thể trồng dày, bắp nhỏ, có dạng bằng đầu, khối lượng trung bình bắp 1kg, năng suất trung bình 20-25 tấn, năng suất cao trên 30 tấn/ha, có khả năng chịu nhiệt, cuốn bắp ở nhiệt độ 25-27oC, có thể trồng vụ Đông Xuân muộn (miền Trung).

Những năm gần đây, một số giống chịu nhiệt của các công ty Tropica (T.P Hồ Chí Minh), công ty giống cây trồng Nông Hữu (Đồng Nai) được trồng nhiều trên khu vực duyên hải miền Trung và các tỉnh phía Nam: - F1 ASIA CROSS: Chịu nhiệt tốt, kháng bệnh khoẻ, kháng thán thư Xanthomonas, héo rũ Fusarium yellow và Pseudomonas. Bắp dạng tròn dẹt, sinh trưởng phát triển tốt ở vùng nhiệt đới đất thấp và đất cao, nhiệt độ 25 - 32oC. Thời gian sau trồng 65 - 70 ngày cho thu hoạch. Khối lượng trung bình bắp 2 - 2,5kg. Giống cho năng suất cao nhất khi trồng vào vụ Đông Xuân (40 - 45 tấn/ha). - Cải bắp chịu nhiệt BC34:

BC34 là chủng loại chuyên biệt và chịu nhiệt thuộc thế hệ mới nhất hiện nay có xuất xứ từ Pháp và được khảo nghiệm tại Việt Nam trong những năm qua. Giống này có những đặc tính giống với K.K. CROSS, nhưng kháng được bệnh bã trầu, ít bệnh, ít bị nứt bắp ngoài đồng. Thời gian sinh trưởng sau trồng 60 - 65 ngày, bắp trung bình 1,5 - 2,3kg. Năng suất trung bình 40 - 45 tấn/ha. Bắp cuốn chặt, khả năng tạo bắp nhanh và

Page 87: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

86

đồng đều, chịu được nhiệt độ cao, dạng bắp tròn, hơi dẹt, khắc phục nhược điểm của KK.CROSS. - Cải bắp tím (C- 05) (Red ball):

Giống sinh trưởng khoẻ, lá mọc thẳng, bắp có dạng tròn, chắc. Thời gian cho thu hoạch sau trồng 75 ngày, bắp nặng 1,2 - 1,4kg/bắp, chống chịu tốt trong điều kiện khí hậu ẩm, chống chịu va chạm tốt (tốt cho vận chuyển và bảo quản). Ngoài ra hiện nay còn một số giống chịu nhiệt như F1 BC35, giống chịu lạnh như F1 TARA, - F1 ORIENT (C- 95 -7):

Giống này thích hợp vùng cao, giống chịu bệnh F1 CJN12, kháng thán thư Xanthomonas, héo rũ Fusarium yellow chịu bệnh thối do nấm Peronospora. - Một số giống chịu nhiệt của công ty Nông Hữu (cải bắp Hoà Phong: cây chịu nhiệt, chịu ẩm, chống bệnh sương mai, thối nhũn, không thích hợp trồng vùng lạnh, bắp năng 2 kg, dễ vận chuyển. Giống cải bắp vụ Thu chịu nhiệt, thích hợp trồng vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, bắp nặng khoảng 2 kg, chất lượng tốt, bảo quả lâu, chống chịu bệnh thối nhũn, dễ vận chuyển).

6. KỸ THUẬT CANH TÁC 6.1.Thời vụ gieo - Các tỉnh phía Bắc (3 thời điểm gieo trồng)

Vụ sớm gieo tháng 7, 8 trồng tháng 8,9 thu tháng 11, 12. Vụ chính gieo tháng 9,10 trồng tháng 10, 11 thu tháng 1, 2 năm sau. Vụ muộn gieo tháng 11, trồng tháng 12, thu tháng 2,3 năm sau. Tuổi cây con 25- 30ngày sau khi hạt nẩy mầm hay 5-6 lá thật.

- Các tỉnh miền Trung (có 3 thời điểm gieo trồng) Vụ sớm gieo tháng 9 trồng tháng 10 thu tháng 12. Vụ chính gieo tháng 10 trồng tháng 11 thu tháng 1, 2 năm sau. Vụ muộn gieo tháng 11, trồng tháng 12, thu tháng 3 năm sau.

- Các tỉnh phía Nam và thành phố Hồ Chí Minh (tương tự như ở các tỉnh miền Trung) gieo trồng từ tháng 10 - 3 năm sau. - Đà Lạt Lâm Đồng (vùng cao): khí hậu thích hợp có thể trồng cải bắp quanh năm Chú ý: Tuỳ theo đất đai, địa hình vùng cao thấp, thời tiết khí hậu, giống mà có thời vụ thích hợp. 6.2. Chuẩn bị đất trồng, mật độ, khoảng cách

- Chuẩn bị đất trồng: Đất phải cày bừa kỹ, sạch cỏ, bằng phẳng, lên luống mặt luống rộng 1- 1,2m, cao 15-20cm, rãnh luống rộng 20 - 25cm, có thể làm luống mai rùa hay luống phẳng tuỳ vụ trồng

Page 88: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

87

- Mật độ khoảng cách: Tuỳ đất đai, thời vụ, giống để trồng mật độ thích hợp. Với những giống F1 như hiện nay, những giống dài ngày hoặc trồng trên đất tốt: khoảng cách trồng (60 x 60)cm hoặc (60 x 50)cm đảm bảo mật độ 27.000 - 33.000 cây/ha. Đối với giống ngắn ngày hoặc trồng vụ sớm và vụ muộn (khó khăn thời tiết) nên trồng khoảng cách (60 x 40)cm hoặc (50 x 50)cm đối vụ chính. ở Thừa Thiên Huế mật độ thường trồng với giống K- KCROSS là (60 x 50)cm. 6.3. Bón phân

+ Lượng phân bón/ha: Phân chuồng hoai mục, chất lượng tốt khoảng 20 - 25 tấn /ha Vô cơ: bón 100kg N + 60kg P2O5 + 80kg K2O + 400kg vôi bột Bón lót toàn bộ phân chuồng + lân (trộn đều và bón vào hốc), đạm và kali dùng để bón thúc làm 3 lần, (nếu trời rét có thể bón lót 20% kali), chú ý các gia i đoạn sinh trưởng.

+ Số lần bón thúc/vụ trồng: Lần 1: Sau trồng 10 - 15 ngày 1/3 (N + K) nhằm thúc cây ra lá, trải lá nhanh, tạo bộ lá ngoài tốt (tăng số lá, diện tích lá/cây) Lần 2: lúc bắp bắt đầu cuốn (cuối thời kỳ trải lá), bón 1/3(N+K) nhằm thúc bắp cuốn nhanh, cuốn đều, cuốn chặt. Lần 3: Lúc bắp đã cuốn 10 - 15 ngày, bón số lượng còn lại để nuôi bắp (thúc cho bắp chắc, bắp nặng). Chú ý: Bón thúc phân tốt nhất là hoà nước tưới, nồng độ thấp, nhiều lần hoặc bón vào giữa 2 hàng rồi lấp đất, hay bón xung quanh gốc, cách gốc từ 5 - 10 cm rồi vun gốc để chống mất đạm. Có thể bón lót đạm và kali nhưng không được vượt quá 1/4 tổng lượng cần bón. Khi bón lót, trộn đều N + K + phân chuồng, lấp đất rồi mới trồng để tránh rễ tiếp xúc với phân dẫn đến ngộ độc rễ, cây bị chết. Vôi rãi đều vào đất trước trồng 15 ngày. 6.4. Chăm sóc Chú ý chăm sóc theo các thời kỳ sinh trưởng: + Thời kỳ trồng - hồi xanh: Tưới nước, xới phá váng, dặm cây chết.

Sau khi trồng phải tưới nước ngay và duy trì tưới cho đến khi cây hồi xanh, sau đó tuỳ thuộc vào độ ẩm đồng ruộng nhu cầu của cây để tưới, kết hợp với bón thúc và tưới nước. Tưới nước giũ ẩm thường xuyên, tưới bằng gáo, tưới đẫm cách gốc 7-10cm, tuỳ theo thời tiết mỗi ngày tưới 1- 2 lần. Xới phá váng sau trồng 10-15 ngày (xới sâu, xới rộng) làm cho đất tơi xốp, trừ cỏ dại. + Thời kỳ hồi xanh - trải lá (trải lá bàng):

Page 89: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

88

Tưới nước: tốt nhất bằng phương pháp tưới rãnh, 7-10 ngày/lần để cung cấp nước đầy đủ cho cây hoặc tưới phun mưa 2 lần/ngày . Đây là thời kỳ cần nhiều nước, dinh dưỡng.

Xới đất: xới hẹp, xới nông, vun nhẹ đất vào gốc Tưới thúc: tốt nhất hoà đạm vào nước để tưới (2 - 3 lần, 1-2kg/sào, nồng độ 1-

2%), có thể bón khô (bón đạm cách gốc 7 - 10cm, độ sâu 5cm), lấp đất để tránh mất đạm, sau đó cho nước vào rãnh, dùng gáo tưới nước hoà tan phân đạm. Phát hiện sâu bệnh, phòng trừ kịp thời + Thời kỳ trải lá - cuốn

Đây là thời kỳ quan trọng, cải bắp yêu cầu cao về nước và dinh dưỡng, cần tưới nước và bón phân thúc đầy đủ kịp thời. Vun gốc: vun gốc cao để tạo diện tích dinh dưỡng, chống cỏ dại cạnh tranh cải bắp Tưới nước: Tưới rãnh hoặc tưới phun mưa Tưới thúc 2 - 3 lần, liều lượng 2 - 3 kg/sào? nồng độ 1 - 2%. Tưới phân kali cho cây bắt đầu cuốn và đang cuốn, 10-15ngày/lần để tăng cường quá trình quang hợp và vận chuyển chất hữu cơ về bắp. Theo dõi sâu bệnh hại đặc biệt vụ muộn để phòng trừ kịp thời + Thời kỳ cuốn - thu hoạch: Tiếp tục chăm sóc: tưới nước, tưới thúc, phòng trừ sâu bệnh.Khi bắp đã vào chắc, trước thu hoạch 10 -15 ngày, ngừng tưới nước (khi bắp đã vào chắc thi không tưới rãnh để tránh nổ bắp), tưới thúc, phun thuốc phòng trừ sâu bệnh hại. + Trồng xen: Ở giai đoạn đầu, cải bắp có thể trồng xen với một số loại rau gia vị, xà lách...(cây thấp, ngắn ngày), thu hoạch cây trồng xen khi bắp cải giao tán, bước vào cuốn. 6.5. Phòng trừ sâu bệnh - Những loại sâu hại chủ yếu:

+ Sâu xám (Agrotis ypsilon Rott): Cải bắp thường bị nhiều loại sâu gây hại nhưng chủ yếu sâu xám hại vào ban đêm, cắn đứt ngang cây, tập trung vụ Đông Xuân (chính vụ và vụ muộn)

+ Sâu tơ (Plutella maculipennis Curtiss): còn gọi là sâu nhảy dù, là loại sâu hại nguy hiểm nhất của cải bắp, sâu hại từ cây con đến cây trưởng thành, sâu gặm phần thịt lá, chừa lại các gân lá, lá cây xơ xác, cây không cuốn bắp. Sâu tơ thường rất quen thuốc, do đó cần thay thuốc để phòng trừ có hiệu quả.Áp dụng quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp với sâu. Dùng thuốc hoá học mới Ammate 150SC liều lượng 0,17 - 0,33 lít/ha (pha 20 - 30ml/b ình 8 lít), Dilexson 90WP liều lượng 1-1,2kg/ha ( pha 18-20g/bình 8 lít) để phun.

Page 90: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

89

Rệp rau (Brevicoryne brassica): chúng hại phổ biến rau họ thập tự và nhiều loại rau khác. Rệp chích hút mặt dưới lá ở thời kỳ cây con đến cây trưởng thành, làm xoăn lá, rệp phát triển mạnh trong điều kiện thời tiết khô hạn. Dùng thuốc hoá học Difentox 20EC liều lượng 1,5 lít/ha (pha 25ml/bình 8 lit) Sâu xanh (Heliothis armigera): sâu hại trên bắp cải và họ cải, hại từ cây con đến cây trưởng thành, chúng gặm phần thịt lá, khi bị hại nặng, lá bị thủng nhiều lỗ/lá. sâu hại từ tháng 10 đến tháng 5, nặng nhất trên cải bắp vụ muộn. Phòng trừ bằng thuốc trừ sâu sinh học Bitadin 16000 IU/10.000.000 PIB WP trừ sâu ăn lá, sâu tơ, sâu xanh 0,6 - 0,75kg/ha, thuốc hoá học Dibatox 20EC 0,8 -1lít/ha.

Bọ nhảy (Phyllotreta ssp.) phá hại trong suốt các thời kỳ sinh trưởng từ cây con đến thu hoạch, bọ nhảy hại tất cả các thời kỳ sinh trưởng, đục thủng lá như lỗ rây, làm mất diện tích quang hợp lá, cây vàng và chết. Bọ nhảy hại nặng nhất trên bắp cải vụ muộn.. Dùng Dibonin 5WP trừ bọ nhảy, sâu xanh. - Bệnh hại cải bắp chủ yếu: + Bệnh thối nhũn (do vi khuẩn Erwinia carotovora Jonnes Holland): bệnh xuất hiện khi cây bắt đầu cuốn bắp, lúc đầu bệnh có màu giọt dầu rồi lan rộng ra gây thối nhũn có mùi khó chịu, lá bị rã rời ra khỏi thân, bệnh lây lan nhanh. Trong thời gian bảo quản bệnh phát triển càng mạnh. Phòng trừ: Áp dụng phương pháp phòng trừ tổng hợp, luân canh triệt để, vệ sinh đồng ruộng, bón phân cân đối, đầy đủ và hợp lý, nhổ cây bệnh, tiêu độc bằng vôi bột rắc vào gốc cây bệnh, xử lý bằng nước nóng 54oC, xử lý hạt giống bằng thuốc hoá học trước khi gieo granozan (4g/kg hạt), Captan 1,5-1/1000 (1,5 - 2g/kg hạt) trộn đều 3-5phút rồi đem hạt đi gieo. Khi bị bệnh phun thuốc Alfamil 25WP liều lượng 1,8-2,5kg/ha trên ruộng . + Bệnh thối hạch (thối gốc): Do nấm Sclerotina sclerotionum Lib D.e. Bary. bệnh hại cây con, sau trồng đặc biệt thời kỳ cuốn bắp. Cây thường bị thối nhũn đoạn gốc thân hoặc lá già sát mặt đất rồi chết gục. Vết bệnh dễ thối nhũn nhưng không mùi thối. Nếu thời tiết khô vết bệnh bị teo và khô, nếu ẩm độ cao, ẩm ướt lá bị thối rách, khi khô hanh lá bệnh khô có màu nâu, cây chết và đổ gục tại ruộng. Phòng trừ: Bón phân Cyanamit canxi lúc cày bừa đất, phun boocđô 1%

+ Bệnh đốm vòng (Alternaria brassica Sacc.): Bệnh gây hại thời kỳ cây con đến cuốn bắp. vết bệnh xuất hiện trên lá mầm và thân, màu đen hình tròn hoặc hình bất kỳ. Khi cây trưởng thành, vết bệnh xuất hiện có vòng tròn đồng tâm, màu nâu nhạt hoặc thẫm. Khi ẩm ướt vết bệnh hình thành lớp mốc màu đen.

Phòng trừ tổng hợp, luân canh triệt để, xử lý hạt giống trước khi gieo. Bệnh nặng dùng thuốc Rovral 50% nồng độ 0,1 - 0,2%, Zineb 80WP nồng độ 0,4%, Karufan50WP nồng độ 0,1% hoặc một số loại thuốc trừ nấm khác.

Page 91: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

90

6.6.Thu hoạch Khi bắp cải đã cuốn chặt (bắp căng, chắc, lá ngoài ít) thì có thể thu hoạch. Khi thu hoạch dùng dao sắc để cắt và để lại vài lá già bên ngoài để tránh va chạm bắp khi vận chuyển.

6.7. Sản xuất giống cải bắp Điều kiện cải bắp ra hoa được, phải qua gia i đoạn xuân hoá, yêu cầu nhiệt độ

thấp và giai đoạn ánh sáng, yêu cầu áng sáng ngày dài (trên 14h/ngày). Cải bắp ra hoa tốt ở độ cao 5000 - 6000m so với mặt biển và đảm bảo đủ ẩm, dinh dưỡng đất cao. Nước ta có thể để giống cải bắp được ở vùng Bắc Hà, SaPa. Có 2 phương pháp sản xuất giống, hữu tính (lấy hạt) và vô tính (lấy nhánh)

- Phương pháp hữu tính (ở vùng núi cao):

Gieo hạt vào tháng 6 trồng tháng 7, thu bắp vào tháng 11. Tiến hành chọn ruộng (bắp đồng đều, tỷ lệ cuốn cao, ít bị sâu bệnh, cây to, khoẻ), chọn cây (bắp to, cuốn chặt, cuốn sớm, cuốn nhanh, số lá ngoài ít (8-10lá), thể hiện đặc trưng đặc tính của giống năng suất cao, chống chịu tốt rồi cắm cây thu hoạch. Chặt vát bắp (chặt cao sát bắp), nhổ cây lên trồng lại với mật độ thưa hơn trồng ăn bắp (hoặc có thể để tại chổ), bón lót như trồng mới, sau 10 ngày chồi nách bắt đầu phát triển, sau 30 ngày chồi nách phát triển như một cây con. Trên cây mẹ có nhiều mầm nhưng ta chỉ để lại 3 - 4 mầm (phân bố theo 4 hướng/cây), tiếp tục chăm sóc sau đó nhánh này ra hoa kết quả, đến tháng 4 - 5 ta thu hạt. Khi quả chín màu xanh chuyển sang màu vàng thì chặt, buộc thành túm đem ủ 3 - 4 ngày, sau đó đem phơi khô, tách hạt, phơi lại hạt trong nắng nhẹ cho khô hẳn, để nguội rồi đem bảo quản.

Chú ý: Khi ngồng hoa (trục hoa) cao 50 - 60cm thì cần làm giàn chống đổ cho hoa và tỉa bớt hoa đuôi chồn để tập trung dinh dưỡng cho hoa đậu.

Phương pháp này dễ làm, hệ số nhân giống cao nhưng để sản xuất hạt giống cải bắp cần phải có khoảng cách ly tốt nhất về không gian từ 500 - 2000 m và thời gian 15 - 20 ngày. - Phương pháp vô tính:

Chọn ruộng, chọn cây như phương pháp hữu tính nhưng khi chặt bắp ta chặt thấp hơn hữu tính (chặt vát thấp về phía cuống bắp). Nhổ cây lên đem trồng vào một ruộng giống, nhưng chỉ tưới nước giữ ẩm không bón phân. Sau trồng 30 - 45 ngày trên thân cũng ra nhiều chồi cấp 1, lấy chồi này đem giâm cho mùa sau bằng cách tách nhánh cấp 1 đem giâm (chú ý nhánh này tách cả phần vỏ), đến tháng 6 bấm ngọn cấp 1 để ra cấp 2, chăm sóc cẩn thận cho đến 5- 6 lá thật thì đem trồng.

Chú ý: nếu cần cây giống nhiều ta bấm cành cấp 2 cho ra cấp 3, bấm ngọn cấp 3 cho ra cành cấp 4. Một chu kỳ (bấm ngọn - tách chồi) mất 30 - 45 ngày giâm 25 ngày

Page 92: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

91

thì đem trồng. Cũng có thể bấm ngọn cấp 1 trên cây mẹ cho ra cấp 2, rồi tách cấp 2 đi giâm, chăm sóc đến 5- 6 lá thật đem trồng.

Phương pháp này có tỷ lệ cuốn bắp cao, cuốn chặt, có thể áp dụng nơi không thể để giống bằng hữu tính được nhưng bắp nhỏ, ăn không ngon, dễ bị thoái hoá, tốn nhiều công, thời gian chiếm đất lâu.

Đối với cải bắp là cây dễ tái sinh, việc tạo chồi hàng loạt bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào có hệ số nhân giống cao bằng 20 - 40 lần qua một thế hệ . Tuy nhiên phương pháp này khá tốn kém, người ta chỉ ứng dụng trong trường hợp giữ và nhân các nguồn gen quý. CÁC LOẠI RAU CẢI KHÔNG CUỐN

(Brassica chinensis var. parachinensis L.)

Tiếng Anh: Chinese Mustard Họ Thập tự: Cruciferae 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ RAU CẢI 1.1. Nguồn gốc

- Rau cải có nguồn gốc ở vùng ôn đới, vốn ưa khí hậu mát, lạnh, ẩm. Song cũng có giống có khả năng chịu nóng khá. Bộ rễ thuộc loại rễ chùm, ăn nông, chủ yếu tập trung ở tầng canh tác 10 - 15cm. Bộ lá khá phát triển, to bản, mỏng, mềm, chứa nhiều nước nên chịu hạn kém và dễ bị sâu bệnh phá hoại. Căn cứ vào đặc điểm của cuống lá, phiến lá (kích thước, hình dạng màu sắc...), các giống rau cải ở nước ta hiện nay được phân thành 3 nhóm: 1.2. Phân loại 1.2.1. Nhóm cải bẹ (Brassica campesris L.) Cải bẹ xanh (Brassica campesris L.) là thực vật bậc cao

Ngành hạt kín (Angiospermatophyta) Lớp 2 lá mầm (Discotyledoneae) Phân lớp sở (Dilleniidae) Bộ màn màn (Capparales) Họ cải/họ thập tự (Brassicaceae/Cruciferea) Chi Brassica, loài Brassica sp. L Thứ Brassica chinensis var. parachinensis L.

Nhóm cải bẹ còn gọi là nhóm cải dưa (chủ yếu muối dưa): Gồm có cải Đông Dư, cải Bẹ Nam (cải mào gà), cải bẹ Lạng Sơn, cải Tàu cuốn, cải Hà Lưỡng. Nay có

Page 93: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

92

nhiều giống cải bẹ Thái Lan nhập vào nước ta. Nhóm cải này ưa nhiệt độ thấp, chịu lạnh. Nhiệt độ thích hợp 15- 22oC do đó trồng thích hợp trong vụ Đông Xuân. Đặc điểm nhóm cải bẹ là có bẹ lá to, dày, dòn, lá lớn (bẹ + phiến). Năng suất 1 cây có thể 2 - 4 kg, có giống tới 6kg, thời gian sinh trưởng dài 120 -160 ngày (gieo hạt - thu cây) 1.2.2. Nhóm cải xanh/cải cay/cải canh (Brassica juncea H.P.) - Nhóm cải xanh có khả năng chịu được nóng và mưa to, nhóm cải này có khả năng thích ứng rộng, thường được trồng quanh năm đặc biệt trong vụ Xuân Hè và vụ Thu Đông để chống giáp vụ rau, thời gian sinh trưởng ngắn (sau gieo 30 - 50 ngày có thể thu hoạch), có thể trồng xen hoặc gieo lẫn với các loại rau khác rất tốt. - Nhóm cải xanh có cuống hơi tròn, nhỏ, ngắn. Phiến lá nhỏ và hẹp, bản lá mỏng, cây thấp, nhỏ (so với 2 nhóm cải bẹ và nhóm cải thìa), lá có màu xanh vàng đến xanh đậm, ăn có vị cay nên gọi là cải cay, dễ để giống - Nhóm cải xanh có thể dùng nấu canh, luộc, xào và muối dưa, đặc biệt ăn lẩu (vì có vị cay rất hợp khẩu vị) nên nhóm này được trồng rất phổ biến ở các vùng, trồng gần như quanh năm. - Nhóm cải xanh gồm nhiều giống địa phương, những giống cải xanh ngon như cải xanh Lá vàng, cải xanh Thanh Mai, Vĩnh Tuy, Thừa Thiên Huế và nhiều địa phương khác. Qua nhiều năm thuần chủng nên rất dễ trồng và tự để giống tại địa phương ở tất cả các vùng. - Cải xanh ngọt (hay gọi cải ngọt) cũng được trồng phổ biến, chất lượng cao, ít giống địa phương chủ yếu giống lai, năng suất cao. 1.2.3. Nhóm cải thìa/cải trắng (Brassica chinensis L.)

- Nhóm cải thìa có đặc điểm dễ nhận biết đó là lá hình lòng máng, màu trắng, phiến lá hơi tròn, cây mọc gọn. Đây là nhóm cải được trồng rất phổ biến, đặc biệt là những vùng đất nghèo dinh dưỡng. - Nhóm cải thìa cũng có khả năng thích ứng rộng (10 - 27oC) nên có thể trồng được quanh năm. Nhóm này có thời gian sinh trưởng ngắn (sau trồng 30 - 50 ngày có thể thu hoạch), dễ để giống, có thể trồng xen, gieo lẫn với các loại rau khác và cải xanh, chống giáp vụ rau. Tuy nhiên cải thìa tỷ lệ nước cao, ăn nhạt, không dùng muối dưa, chỉ dùng để luộc, xào hoặc nấu canh. - Nhiều giống cải thìa có năng suất cao như cải trắng Nhật Tân, cải trắng Thanh Mai, cải trắng Trung Kiên, cải trắng Tai ngựa, cải trắng Lá thẫm..

Tóm lại : Các loại cải nói chung đều rất dễ trồng, dễ sử dụng, có thể trồng xen, trồng gối, gieo lẫn ... vì ít khắt khe về đất, phân bón, ánh sáng.

Page 94: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

93

2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CÂY RAU CẢI - Bộ rễ

Cây cải thuộc loại rễ chùm, phân nhánh. Bộ rễ ăn nông trên tầng đất màu, tập trung nhiều nhất ở tầng đất 0 - 20 cm. - Lá Lá cải mọc đơn, không có lá kèm. Những lá dưới thường tập trung, bẹ lá to, lá rất lớn. Bộ lá khá phát triển, lá to nhưng mỏng nên chịu hạn kém và dễ bị sâu bệnh phá hại. - Hoa

Hoa cải có dạng chùm, không có lá bắc. Hoa nhỏ, đều, mẫu 2. Đài hoa và tràng hoa đều 4, xếp xen kẻ nhau. Có 6 nhị trong đó 2 nhị ngoài có chỉ nhị ngắn hơn 4 cái trong. Bộ nhị gồm 2 lá noãn dính bầu trên, một ô về sau có một vách ngăn giả chia bầu thành 2 ô. Mỗi ô có 2 hoặc nhiều noãn. - Quả và hạt

Quả thuộc loại quả giác (quả khi khô chín nứt ra theo 4 đường dọc, mở thành 2 mảnh vỏ, để lại vách ngăn ở giữa mang hạt, chín tự tách vỏ, hạt rơi rụng). Hạt có phôi lớn và cong, nghèo nội nhũ. 3. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH 3.1. Nhiệt độ

Cây cải có nguồn gốc vùng ôn đới, ưa khí hậu mát lạnh. Tuy nhiên, trong quá trình trồng trọt, chọn lọc và thuần hoá, ngày nay cây cải có thể trồng được trên nhiều vùng khí hậu khác nhau. Phần lớn trồng trên vùng có khí hậu lạnh hơn nhiệt đới. Cây cải có thể nảy mầm ở nhiệt độ 2 - 3oC, nhưng quá trình nảy mầm chậm. Ở nhiệt độ 18 - 20oC chỉ 2 -3 ngày. Nhiệt độ cho sinh trưởng và phát triển là từ 15 - 22oC, cho giai đoạn 2 lá mầm là 12 -15oC, gia i đoạn ra hoa là 15 -18oC. Với yêu cầu này, cây cải thích hợp trồng vụ Đông - Xuân. 3.2. Ẩm độ

Cũng như các loại rau nói chung, cây cải rất cần nhiều nước để sinh trưởng phát triển. Lượng nước trong cây rất cao, 75 - 95 %, cây có bộ lá lớn, diện tích lá lớn nhưng lá mỏng, nên tốc độ thoát hơi từ bề mặt lá cao. Bộ rễ tương đối nhỏ và ăn nông, không thể lấy được nước ở sâu trong đất, nên cây yêu cầu được tưới ẩm thường xuyên. Tuy nhiên, nếu mưa kéo dài hay đất úng nước cũng ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, phát triển của cây cải. Theo V.K.Zoza, 1942: cây cải thuộc nhóm ưa ẩm, trong điều kiện đảm bảo đủ nước 60 - 100% thì năng suất tăng 36,34 %. 3.3. Ánh sáng

Page 95: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

94

Là yếu tố quan trọng của cây cải, cây cải có nguồn gốc ôn đới nên yêu cầu ánh sáng thích hợp với thời gian chiếu sáng ngày dài, cường độ ánh sáng yếu.

3.4. Đất và dinh dưỡng

Cây cải không kén đất, nó có thể sinh trưởng phát triển, cho năng suất cao ở các loại đất khác nhau, từ đất cát pha đến đất thịt nặng. Nhưng thích hợp nhất là đất giàu dinh dưỡng, khả năng giữ ẩm tốt.

Về dinh dưỡng: cây cần nhiều đạm, lân, kali, trong đó đạm được sử dụng nhiều nhất. Theo số liệu của viện nghiên cứu rau Gross beerenhe (Đức) thì các chất dinh dưỡng chính mà các cây họ thập tự cần là N, P2O5, K2O. Phân hữu cơ có tác dụng rất lớn trong quá trình sinh trưởng phát triển. Tuy nhiên, do cải có thời gian sinh trưởng ngắn nên cần các loại phân dễ tiêu, dễ phân giải, cung cấp dần những yếu tố cần thiết cho cây.

4. M ỘT SỐ GIỐNG RAU CẢI HIỆN NAY TRONG SẢN XUẤT Ngoài những giống địa phương đã đề cập ở trên, có một số giống đang được trồng phổ biến trong sản xuất đó là: - Cải xanh ngọt CX1:

Giống do viện rau quả Hà Nội thuần hoá và chọn lọc từ giống nhập nội củ Trung Quốc năm 1993. Thời gian sinh trưởng 30 - 40 ngày (sau gieo), lá xanh đậm hình quạt mo (cuống nhỏ, phiến to), bẹ dài màu xanh nhạt, dạng cây chữ V gọn. Khối lượng bình quân mỗi 100 - 150g/cây. Năng suất cao 20 - 30 tấn/ha. Cải xanh ngọt có thể sản xuất giống tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, có thể trồng nhiều vụ trong năm, trồng được nhiều vùng khác nhau, - Cải ngọt số 4:

Giống do công ty giống cây trồng miền Nam tuyển chọn từ giống cải ngọt Cần Thơ. Giống sinh trưởng mạnh chống chịu tốt với điều kiện bất lợi, cho thu hoạch 20 - 25 ngày sau trồng, phiến lá mỏng, to, màu xanh vàng, lá dài 36 - 40cm. Cọng lá xanh trắng, tròn, nhỏ, ăn ngọt, thích hợp với khẩu vị, năng suất 20 - 25 tấn/ha, ít nhiễm bệnh thối nhũn. Giống này gieo trồng được ở đồng bằng phía Nam, gieo bầu hoặc gieo vườn ươm, cây con 5 - 6 lá đem trồng, mật độ trồng 40 - 45 vạn cây/ha 5. KỸ THUẬT CANH TÁC NHÓM CẢI BẸ

Đây là loại cải sử dụng để muối dưa là chủ yếu, nhóm cải này ưa lạnh, thời gian sinh trưởng dài, từ gieo đến thu hạt có thể 120 -150 ngày. Tuy nhiên cải gieo trồng ăn lá có thể từ 30 - 40 ngày cho thu hoạch.

5.1. Thời vụ

Page 96: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

95

Gieo hạt từ tháng 8- 10, trồng ra ruộng từ tháng 9 - 11 (tuổi cây con 30 ngày, 4 -5 lá thật). Lượng hạt gieo 2 - 2,5g/m2 , 1 ha trồng cần 350 - 400g hạt. 5.2. Làm đất, lên luống + Làm đất kỹ, bằng phẳng, sạch cỏ, tơi, xốp. + Lên luống rộng 1,2 - 1,5 m, cao 10 - 20 cm tùy vụ trồng 5.3. Phân bón/ha

+ 25 - 30 tấn phân chuồng (tốt nhất là phân chuồng + Bắc) ủ hoai mục, chất lượng tốt

+ Đạm urê : 100 - 125 kg + Lân supe: 150 - 120 kg + Kali sulphat: 30 - 40 kg Bón lót: 15 - 20 tấn phân chuồng (2/3 tống số phân)? + đạm 20 - 25 kg (20 %) + toàn bộ lân và ka li. Tất cả các loại phân này trộn đều và bón trực tiếp vào hốc, lấp đất và trồng 5.4. Trồng Trồng 3 hàng/luống theo kiểu nanh sấu, trồng theo hốc với khoảng cách 40 - 50 cm, đảm bảo mật độ 32 - 45 ngàn cây/ha (1600 - 2250 cây/sào Trung bộ). Chú ý đặt cây giống nằm ở thế tự nhiên, lấp đất, ấn nhẹ quanh gốc rồi san bằng mặt luống. 5.5. Chăm sóc + Tưới nước: Sau khi trồng phải tưới ngay cho đến khi hồi xanh, sau đó nếu thiếu ẩm thì mỗi ngày/lần. + Vun xới, làm cỏ và bón thúc: Vun xới và làm cỏ tiến hành 2 lần kết hợp với bón thúc đợt 1 và đợt 2. Thúc lần 1: Sau trồng 12 -15 ngày thì thúc đợt 1 bằng cách hòa khoảng 30 -35 kg đạm urê để tưới hoặc bón vào đất gần gốc rồi tưới nước để phân ngấm vào đất Thúc lần 2: Khi cây bắt đầu xòe lá, trước khi bón thúc nên xới xáo vun gốc cho cây để chống đổ và cỏ dại. Các lần tiếp theo: thúc 3 - 5 lần tùy mức độ sinh trưởng của cây mà tăng hay giảm lượng phân bón trong mỗi lần thúc. Trong suốt quá trình sinh trưởng, thúc từ 5 - 7 lần (15 - 20 ngày/lần) tuỳ giống, tuỳ loại đất trồng. 5.6. Thu hoạch + Sau trồng 3 - 4 tháng có thể thu hoạch được, có thể tỉa lá chân, lá giữa để ăn dần hoặc thu cả cây. Khi cây đã có búp, ngồng bắt đầu phân hóa mầm hoa thi thu cả cây để làm dưa. Năng suất giống cải bẹ Việt Nam có thể đạt 30 - 70 tấn/ha.

Page 97: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

96

6. KỸ THUẬT CANH TÁC NHÓM CẢI XANH HAY CẢI CAN H 6.1. Thời vụ: Rau cải có thể trồng quanh năm, nhưng hầu hết các vùng đều gieo trồng các vụ: + Đông Xuân (cải mùa): Gieo hạt tháng 8 - 11 dương lịch, cây giống 20 - 25 ngày có thể đi trồng được. + Vụ Xuân Hè (còn gọi là vụ cải tháng 5 hay cải chiêm): gieo từ tháng 2 - 6, thường là gieo thẳng để ăn và bán (nhổ cả cây). Thời gian từ gieo đến 30 - 45 ngày có thể thu 1 lứa. 6.2. Lên luống Luống cao 10 -15 cm, vụ mưa nhiều phải làm luống cao hơn để phòng mưa ngập 6.3. Bón phân + Phân chuồng hoai mục: 15 - 20 tấn/ha + Tro bếp : 8 - 12 tạ (50 - 80 gánh/ha + Đạm urê: 50 - 100 kg/ha Cách bón: Rải đều phân chuồng, tro bếp lên mặt luống, lấy cuốc trộn đều và trộn sâu vào lòng luống, san phẳng và vải hạt giống. 6.4. Gieo trồng: + Lượng hạt giống gieo 5 - 6 g/m2 + Nếu gieo để trồng (cấy) trong vụ mùa (Đông Xuân) thì khi cây con được 25 - 30 ngày tuổi thì nhổ đi trồng (cây x cây từ 20 - 30 cm) + Nếu để liền chân trong vụ Xuân Hè thì tỉa 2 lần rồi định cây (tỉa lần 1 khi cải xanh có 2 - 3 lá thật (để ăn sống rất ngon, có vị cay dễ chịu), tỉa lần 2 lúc cây có 4 - 5 lá thật để lại khoảng cách cây x cây 12 - 15 cm. 6.5. Chăm sóc + Tưới nước: thường xuyên, giữ ẩm (80 - 85%) + Tỉa cây: tỉa lần 1 khi cải xanh có 2 - 3 lá, lần 2 lúc cây có 4 - 5 lá thật để lại khoảng cách cây x cây khoảng 12 - 15 cm. + Xới xáo làm cỏ: Xới nhẹ mặt luống, sau khi tỉa định cây, nhặt sạch cỏ dại và bón thúc phân. + Bón thúc: Cải xanh là loại rau ngắn ngày nên yêu cầu phải bón phân đầy đủ, kịp thời: Trong suốt chu kỳ sinh trưởng phải bón thúc 3 - 4 lần mỗi lần 15 - 20 kg đạm u rê/ha. 6.6. Thu hoạch

Page 98: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

97

+ Trồng cải xanh trong vụ mùa, khi thấy cây cụp nõn vào trong thì thu hoạch cả cây + Trồng cải trong vụ Xuân Hè: Khi thấy cây sắp có ngồng (trục hoa hay đòng hoa) thì thu ngay, không được để cải ra hoa (nếu ra hoa: cải già, ăn đắng, xơ nhiều và rau cứng). Năng suất chất xanh có thể đạt từ 20 - 40 tấn 7. KỸ THUẬT CANH TÁC NHÓM CẢI THÌA HAY CẢI TRẮNG 7.1. Thời vụ

+ Đông Xuân (cải mùa): Gieo hạt tháng 8 - 11 dương lịch, cây giống 20 - 25 ngày có thể đi trồng được hoặc có thể để rau ăn liền chân, gieo làm nhiều đợt (vụ này chăm sóc như cải xanh).

+ Vụ Xuân Hè + Hè Thu: gieo từ tháng 1 - 6, thường là gieo thẳng để ăn và bán gọi là (nhổ cả cây), cải trắng có thể chịu được nhiệt độ cao trong mùa nóng (27 - 30oC có thể sinh trưởng tốt) nên 2 vụ này trồng chủ yếu để chống giáp vụ rau, thường là để rau ăn liền chân (không nhổ cây lên đi trồng và chăm sóc tiếp). Thời gian từ gieo đến 30 - 45 ngày có thể thu 1 đợt. 7.2. Lên luống:

Lên luống rộng 1,0 - 1,2m cao 10 - 20cm, mùa mưa làm luống khum kiểu mai rùa để thoát nước tốt.

7.3. Bón phân Bón phân như cải xanh nhưng do cải trắng hàm lượng nước cao nên phải bón thêm lân và kali để tăng chất lượng cho rau

+ Phân chuồng hoai mục: 15 - 20 tấn/ha + Kali sulphat 20 - 30 kg/ha, (bón thêm tro bếp 5 - 10 tạ/ha là tốt nhất)

+ Đạm u rê: 50 - 100 kg/ha + Lân supe: 80 - 100 kg/ha 7.4. Chăm sóc + Tưới nước thường xuyên, giữ ẩm (80 - 85%) + Tỉa định cây lần 1 lúc cây có 2 lá thật, lần 2 lúc cây có 4 - 5 lá thật rồi định cây với khoảng cách (12 x 15) cm. + Xới nhẹ mặt luống sau khi tỉa định cây, nhặt sạch cỏ dại và bón thúc

+ Bón phân thúc: Cải trắng là loại rau ngắn ngày nên yêu cầu phải bón phân đầy đủ, kịp thời: Trong suốt chu kỳ sinh trưởng phải bón thúc 4 - 5 lần mỗi lần 20 - 25 kg đạm u rê/ha

7.5. Thu hoạch:

Page 99: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

98

Sau khi gieo 30 - 50 ngày có thể thu hoạch 1 lứa (cải trắng để liền chân), khi cải có ngồng thì thu hết, không để cải ra hoa. Năng suất chất xanh từ 25 - 40 tấn/ha.

7.6. Phòng trừ sâu bệnh - Sâu hại:

Trên rau cải thường có các loại sâu hại như sâu xanh ăn lá, rệp rau, sâu tơ, bọ nhảy... sử dụng một số loại thuốc diệt trừ có hiệu qủa như áp dụng quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp với sâu bệnh. Dùng thuốc hoá học mới Ammate 150SC liều lượng 0,17 - 0,33 lít/ha (pha 20 - 30ml/b ình 8 lít), Dilexson 90WP 1-1,2kg/ha (pha 18-20g/bình 8 lít) để trừ sâu tơ. Difentox 20EC liều lượng 1,5 lít/ha (pha 25ml/bình 8 lit) hoặc Ofatox 400 WP 1,2 - 1,5kg/ha trừ rệp muội. Bitadin 16000 IU/10.000.000 PIB WP trừ sâu ăn lá, sâu tơ, sâu xanh 0,6 - 0,75kg/ha; Decis 25tab 50 - 60g/ha trừ sâu khoang. Dùng Dibonin 5WP 8kg/ha trừ bọ nhảy, sâu xanh - Bệnh hại:

Các loại bệnh gây hại chính trên rau cải thường là bệnh lở cổ rễ, thối nhũn, héo rũ, ....sử dụng một số thuốc diệt trừ có hiệu quả là: Antracol liều lượng 1,5-2kg/ha trừ bệnh lở cổ rễ; Afamil 25WP 1,8-2,5kg/ha trừ bệnh thối nhũn; Alvil 5SC 0,3-0,5 lít/ha pha thuốc với 600 - 800lít nước phun đều/ha trừ các loại bệnh hại do nấm... 7.7. Sản xuất giống các loại rau cải

+ Chọn thời vụ trồng: Muốn trồng rau cải để lấy hạt giống, người ta gieo trồng vào vụ Đông Xuân

sớm. Vụ này có thời gian sinh trưởng dinh dưỡng dài, có điều kiện tích lũy chất dinh dưỡng sau này vào hạt tốt và cây cải sẽ ra hoa vào đầu mùa Xuân khi nhiệt độ tăng dần lên 20 - 25oC, rất thích hợp cho nở hoa, thụ phấn, thụ tinh. + Chọn cây và chăm sóc:

Chọn những cây sinh trưởng, phát triển tốt, mang những đặc trưng đặc tính của giống, không bị sâu bệnh để làm cây giống sau này. Những cây giống phải trồng thưa hơn cây trồng để ăn. Khi cây phát ngồng (trục hoa) thì cắm cọc, làm giàn, giá đỡ, buộc cây cho khỏi gió làm đổ cây, gãy ngồng hoa, gây rụng hoa. Khi quả trên ngồng hoa đậu được 70 - 80 % thì phải bấm bớt những nhánh hoa cuối ngọn và các nhánh phụ để tập trung dinh dưỡng nuôi quả, nuôi hạt ở cành chính. + Thu hoạch cây giống:

Khi quả trên cây chuyển từ xanh đậm sang xanh vàng thì thu hoạch, không để quả chín hẳn trên cây (hạt dễ bị rụng và sau này gieo nhanh ra hoa). Dùng dao sắc cắt cả ngồng hoa và buộc thành từng túm, hong ở hiên nhà vài hôm cho đủ độ chín sinh lý rồi đem phơi khô, quả giác dễ tách ra 2 mãnh vỏ, vò lấy hạt, làm sạch và đưa vào bảo quản. Năng suất hạt cải đạt từ 4 - 8 tạ/ha.

Page 100: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

99

XÀ LÁCH VÀ RAU DIẾP (Lactuca sativa L.)

Tiếng Anh: Lettuce Xà lách xoăn (curly lettuce): Cichorium endivia L. Xà lách cuốn (head lettuce): Lactuca sativa var. capitata Rau diếp: Lactuca sativa secalina Alef. Họ cúc: Compositae/Asteraceae

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY XÀ LÁCH 1.1. Nguồn gốc và phân loại Xà lách là loại rau ăn sống quan trọng và phổ biến ở nhiều nước, đặc biệt ở vùng ôn đới, có số lượng NST 2n = 18, được trồng với diện tích lớn nhất trong số các loại rau ăn sống, vì thế nó là loại rau quan trọng nhất trên thế giới.

Theo Ryder và Whitaker, xà lách có nguồn gốc từ Địa Trung Hải được các nhà truyền đạo, các thương nhân du nhập ra khắp thế giới. Người ta đã tìm thấy dấu hiệu tồn tại của xà lách vào khoảng 4.500 trước công nguyên qua các hình khắc trên mộ cổ ở Ai Cập, được gọi là xà lách măng, giống như một số loại xà lách đã tìm được mới đây. Xà lách đã dần phát triển sang các nước láng giềng và lan rộng ra tất cả các châu lục khác.

Xà lách thuộc họ cúc và chi Lactuca có số lượng nhiễm sắc thể 8,9,17 cặp có rấ t nhiều loại xà lách hoang dại được sử dụng như nguồn chống chịu sâu bệnh. Xà lách lá thực vật thư ợng đẳng có đơn vị phân loại như sau: N gành hạt k ín: Angiospermatophyta Lớp hai lá mầm : Dicotyledoneae Bộ cúc: Asterales Họ cúc: Compositae, dư ới họ hoa thìa lìa Liguliflorae Chi: Lactuca Giống xà lách: Lactuca sativa.L Các loại xà lách: Hiện nay xà lách đư ợc phân làm 4 loại

- Lactuca sativa: Là loại thông dụng nhất, có nhiều dạng khác nhau, năng suất cao, phẩm chất ngon được ngư ời dân ưa thích và đư ợc trồng rộng rãi ở nhiều nơi.

- Lactuca serro ila : Loại này có hạt rất nhỏ, mầ m hình thành ngay ở thân, lá rộng tương đối, nằm ngang, có thể có răng cưa ở mép lá hoặc bảng lá có hình cánh hoa hồng.

Page 101: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

100

- Lactuca saligna: Gần giống với loại hình trên về hình thái nhưng bản lá trải ngang và có răng cưa.

- Lactuca virosa: Có hạt to và phẳng, lá có màu xanh lục nhạt có cả dạng hạt hai năm và hàng năm. 1.2. Giá trị dinh dưỡng và sử dụng Theo Akroyd, 1963: trong thành phần ăn được của lá xà lách có chứa nhiều loại vitamin (tiền vitamin A:1650 I.U, vitamin C = 10,0mg/100g phân tích), các loại axit amin không thay thế (Thiamin 0,09mg/100g, Riboflavin 0,13mg/100g), Cacbuahydrat 2,5g, Protein 2,1g, các chất khoáng 1,2g (Ca, P, Na, S) Ở nước ta, xà lách được sử dụng để ăn sống, còn ở các nước nó được sử dụng như rau trộn dấm với muối. Xà lách cũng có thể dùng để xào nấu nhưng trong quá trình nấu sẽ làm mất nhiều vitamin, giảm giá trị dinh dưỡng.

2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC 2.1. Bộ rễ

Bộ rễ xà lách thuộc loại rễ chùm, phân bố chủ yếu tầng đất 0 - 20cm. Tuy nhiên bộ rễ có thể nhìn thấy 2 phần: rễ chính là rễ thẳng khá phát tr iển làm nhiệ m vụ giữ cây, bám vào đất chắc hơn, ngoài ra còn làm nhiệm vụ hút nư ớc và d inh dưỡng nuôi cây. Trên rễ chính còn có rất nhiều rễ phụ giúp cây bám đất, hút nước và chất khoáng. Bộ rễ ăn nông 10 - 15cm, phân bố hẹp, nhưng phát triển rất nhanh, tái sinh mạnh nên thường gieo cây con rồi nhổ đi trồng. Rễ xà lách ưa ẩm, có khả năng chịu úng tốt hơn chịu hạn, do đó xà lách là đối tượng nghiên cứu thuỷ canh.

2.2. Thân

Thân thuộc loại thân thảo, mềm, rất ngắn, không phân nhánh, phát sinh các lá mọc sít nhau. Thân là nơi kết nỗi giữa bộ rễ và lá, vận chuyển chất khoáng do bộ rễ hút lên và chất hữu cơ cho bộ lá tổng hợp nuôi cây. Thân xà lách rất giòn, có d ịch trắng như sữa trong thân tiết ra có thể dùng là m thuốc trong y học. Cây có bộ rễ rất phát tr iển và phát tr iển rất nhanh. Thời gian đầu thân phát tr iển rất chậm nhưng gia i đoạn sau khi cây đạt cao nhất về sinh khối trở đ i thân phát tr iển cao vống rấ t nhanh và bắt đầu ra hoa. 2.3. Lá

Lá cây xà lách thường mọc dày trên trục thân với số lượng rất lớn, lá sắp xếp trên thân hình xoắn ốc, lúc đầu mật độ lá rất dày, gia i đoạn sau mật độ lá thưa dần. Lá ngoài có màu xanh đậm, xanh hoặc xanh nhạt, lá trong có màu xanh nhạt, xanh trắng hoặc trắng ngà. Các lá phía trong mềm, chứa nhiều chất dinh dưỡng

Page 102: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

101

hơn các lá ngoài. Bề mặt lá không phẳng mà lồi lõm, gấp khúc do đặc t ính d i truyền của loài. Lá làm nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp chất hữu cơ nuôi cây.Tùy theo giống mà lá có thể khác nhau, cuốn (xà lách), không cuốn (rau d iếp).

2.4. Hoa

Chùm hoa dạng đầu, mang số lượng hoa lớn. Hoa mẫu 5 đài, tràng, nhị nhưng có 2 lá noãn (nhụy hoa). Tự thụ phấn rất cao, hạt phấn và noãn luôn luôn có độ hữu thụ cao. Công thức cấu tạo của hoa : K5C5 A5G2

2.5. Quả và hạt Quả xà lách thuộc loại quả bế (quả khô không mở do một hoặc nhiều lá noãn tạo thành nhưng chỉ có một ô, trong đó chứa một hạt, vỏ hạt riêng biệt với vỏ quả) đặc trưng và hạt không có nội nhũ.

Hạt hơi dài và dẹt, có màu nâu vàng. Độ nảy mầ m tương đối cao đạt 80 - 90%.

3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH Đối với xà lách lá là bộ phận sử dụng, lá có thể khác nhau, cuốn hay

không cuốn, mép lá có răng hay không có răng cưa tuỳ giống nhưng cũng là cơ quan quang hợp và tích luỹ chất d inh dưỡng, nếu gặp kiện ngoại cảnh thuận lợi sẽ cho năng suất cao, chất lư ợng tố t.

3.1. Nhiệt độ

Xà lách có nguồn gốc vùng ôn đới ưa nhiệt độ thấp, tuy nhiên trong quá tr ình trồng trọt, chọn lọc và thuần hoá, ngày nay cây xà lách có thể trồng đư ợc trên nhiều vùng khí hậu khác nhau như nhiệt đới, cận nhiệt đới. Cây sinh trưởng phát tr iển tố t ở 8 - 25oC, nhưng nhiệt độ thích hợp là 13 - 16oC. N hiệt độ ngày và đê m rất quan trọng cho sinh trư ởng và phát triển của xà lách. N hiệt độ ngày/đêm thích hợp là 20/18oC. Xà lách cuốn phát tr iển tốt ở nhiệt độ 15- 20oC, chịu đư ợc nhiệt độ 8oC còn rau d iếp phát tr iển đư ợc trong khoảng 10-27oC

Biên độ nhiệt độ ngày và đêm chênh lệch 2oC rất có lợi cho xà lách phát triển.

3.2. Ánh sáng Đối với xà lách ánh sáng thích hợp là ánh sáng vùng cận nhiệt đới với cường độ

khoảng 17.000 lux và thời gian chiếu sáng 16h/ngày sẽ cuốn bắp chặt hơn (đối với xà lách cuốn). Để xà lách ăn lá, sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao yêu cầu thời gian chiếu sáng 10-12 giờ/ngày. Cường độ ánh sáng thích hợp 17.000 lux sẽ ảnh

Page 103: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

102

hưởng tốt đến quá tr ình tổng hợp chất hữu cơ, giúp cây tăng nhanh về sinh khố i mà còn ảnh hư ởng đến sự hình thành nụ hoa.

3.3. Ẩm độ

Cũng như các loại rau nói chung, xà lách yêu cầu ẩm độ đất cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng. Do cây có bộ lá lớn, tốc độ thoát hơi nước từ bề mặt lá cao. Ẩm độ đất thích hợp trong khoảng 70 - 80 %. Tuy nhiên nếu mưa kéo dài hay đất úng nước sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của xà lách.

3.4. Đất và chất dinh dưỡng

Xà lách có bộ rễ chùm, ăn nông, không kén đất, nhưng yêu cầu đất tơi xốp, thoát nước tốt, pH 5,8 - 6,6; yêu cầu lượng dinh dưỡng cao. Sau trồng từ 30 - 40 ngày có thể thu họach được nên đòi hỏi phân dễ tiêu. Bón lót các loại phân hữu cơ chủ yếu (phân chuồng hoai mục, bánh dầu đậu phụng, đậu tương, phân cút) để làm tăng chất lượng, phân vô cơ thích hợp NPK để cây phát triển nhanh, tăng năng suất/đơn vị diện tích.

4. Các giống xà lách và rau diếp Thị trư ờng tiêu thụ xà lách hiện nay trên thế giới đư ợc chia làm 5 nhóm: nhóm lá(leaf), nhóm LaMã (Romaine), nhóm đầu dúm (Crisphead), nhóm đầu láng (Butterhead) và nhóm thân măng (Ste m hoặc asparagus). 4.1. Xà lách

- Giống xà lách trứng (xà lách cuốn): lá trắng, tán cây nhỏ, chịu được nắng, mưa, cuộn chắc.

- Xà lách xoăn: ăn ngon, giòn, năng suất cao, thời gian sinh trư ởng dài, được ngư ời dân ưa chuộng. Mặt khác xà lách còn có giống chịu nóng, loại này thư ờng trồng ở vụ Xuân Hè hoặc Thu Đông.

- Giống xà lách lụa: lá xanh nhạt, lá mỏng, tán lớn, ít cuốn, mềm, chịu úng, chịu nhiệt, là giống địa phương của Quảng Nam - Đà Nẵng.

- Giống xà lách dún cao sản: Giống này có nguồn gốc từ giống O.P nhập nội, do công ty cổ phần Giống Cây trồng miền Nam tạo ra bằng phương pháp chọn lọc quần thể, mở rộng sản xuất 1997-1998. Cây to, lá giòn, phiến lá dún, màu xanh mỡ, bóng (còn gọi xà lách mỡ). Trồng cây con 20 ngày sau gieo, thu hoạch 25-30 ngày sau trồng, năng suất 20 - 25 tấn/ha. Phẩm chất tốt (ăn ngon, giòn, không đắng). Giống có thể trồng được nhiều vụ trong năm, tốt nhất là vụ Đông Xuân, đòi hỏi đất trồng có độ phì cao, cao ráo, đảm bảo nước tưới đầy đủ. Lượng giống trồng 0,5 - 0,7kg/ha (2,3g/m2 ). 4.2. Rau diếp

Page 104: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

103

Rau diếp có 2 loại: - Rau d iếp xoăn: Cho năng suất cao, ăn ngon, dòn và rất được ngư ời dân

ưa thích, đư ợc trồng nhiều. - Rau d iếp thẳng: Lá vàng hoặc xanh, bản lá mỏng, chịu nóng, gân trắng.

Các loại rau này có thể thu tỉa hoặc thu cây nhưng đều phụ thuộc vào cách trồng sau gieo hay gieo đại trà, loại rau này có thể gieo quanh nă m.

5. KỸ THUẬT CANH TÁC XÀ LÁCH VÀ RAU DIẾP 5.1. Thời vụ gieo trồng

- Các tỉnh phía Bắc: Xà lách có thể gieo từ tháng 7 đến tháng 2 năm sau, rau diếp có thể gieo vào tháng 8- 3 năm sau

- Các tỉnh miền Trung: thời vụ tương tự như miền Bắc, riêng giống xà lách lụa chịu nóng có thể gieo tháng 3- 4 hoặc trồng trái vụ để tiêu thụ trong vụ Hè, giống chịu úng thường gieo trong tháng 8 - 9 để trong vụ mưa (vụ Đông) hoặc tháng 7- 8 miền núi.

- Số lượng hạt cần gieo: 1 ha cần 350g - 450g hạt giống (16g/sào), tuổi cây con 25 - 30 ngày. 5.2. Làm đất, bón phân, mật độ trồng

- Làm đất trồng xà lách và rau diếp yêu cầu tơi, nhỏ, bằng phẳng, sạch cỏ. Lên luống cao 10cm, rộng 90 - 100 cm, rãnh luống rộng 20 cm, chiều dài luống thuộc vào ruộng, nếu quá 10m phải có rãnh thoát nước.

- Lượng phân bón: Bón phân hoai mục chất lượng tốt. 1 ha cần bón lót phân chuồng hoai mục: 7-10tấn (3,5 - 5tạ/sào), kali bón 1,5 - 2kg /sào.

- Mật độ trồng: Khoảng cách trồng hàng x cây khoảng (15- 20 x 15 -18)cm. Đảm bảo mật độ trồng 27.000 - 40.000 cây/ha. 5.3. Chăm sóc

- Tưới nước: Trồng xong tưới ngay, tưới mỗi ngày 1 lần, sau hồi xanh bén rễ tưới giữ ẩm thường xuyên cho cây.

- Xới xáo khi cây còn nhỏ chưa giao tán lá kết hợp với làm cỏ. - Bón thúc: Sau trồng 15 - 20 ngày thấy lá trắng nhạt (hiện tượng thiếu dinh

dưỡng) thì bón thúc 15 kg đạm urê/ha hoặc phân chuồng hòa nước tưới, thúc xong cần rửa lá ngay. Các thời kỳ sinh trưởng tiếp theo nhìn vào cây mà có thể tăng giảm lượng phân bón. 5.4. Thu hoạch

Xà lách, rau diếp có thể thu hoạch cả cây 45 ngày sau gieo hoặc 30 ngày sau trồng, có những giống có thể thu tỉa từng đợt. Năng suất có thể đạt 30- 45 tấn/ha.

Page 105: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

104

5.5. Sản xuất hạt giống

Xà lách hay rau diếp để giống lấy hạt phải trồng với khoảng cách thưa hơn trồng ăn. Khoảng cách trồng 30 x 30cm. Khi cây cao 40 - 50cm phải làm giàn để chống đổ cho cây. Hạt phấn xà lách dễ mất sức nảy mầm khi gặp rét nên gieo vào tháng 8- 9 ở vùng đồng bằng, còn vùng núi lạnh gieo vào tháng 10. Cây giống xà lách được bón thúc 1 lần trước khi làm giàn để tăng khả năng ra hoa đậu quả. Quả xà lách chín nhiều lần/cây nên lứa chín trước thu trước, chín sau thu sau. Khi thấy vỏ quả chuyển sang màu vàng là thu được, thu xong phơi nắng nhẹ vài hôm rồi vò lấy hạt, làm sạch, cất và bảo quản.

MỘT SỐ CÂY RAU TRONG NHÓM RAU ĂN QUẢ

CÂY CÀ CHUA (Lycopersicon esculentum Mill.)

Tiếng Anh: Tomato Họ cà: Solanaceae NST 2 n = 24 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY CÀ CHUA 1. 1.Vai trò, giá trị của cây cà chua

Cà chua là một loại rau ăn quả cao cấp được trồng phổ biến nhất ở nhiều nước trên thế giới với sản lượng 48 triệu tấn/năm, chiếm vị trí thứ hai sau khoai tây, là cây ưa nhiệt, được trồng phổ biến từ đồng bằng đến miền núi....

Quả cà chua thường để ăn tươi, nấu chín, làm mứt, làm tương, nước sốt, nước giải khát ... có giá trị dinh dưỡng cao được nhiều người ưa thích. Trong quả chín có nhiều đường, chủ yếu là đường glucoza, loại đường đơn dễ hấp thụ nhất, nhiều axít hữu cơ và nhiều loại vitamin cần thiết cho cơ thể con người, nhất là vitamin C. Trong 100g cà chua tươi có thể cung cấp 2,0 mg/100g tiền vitamin A; 0,06 mg/100g vitamin B1; 10 mg/100g vitamin C và cung cấp 22 calo. Theo các nhà dinh dưỡng học trên thế giới thì người lao động bình thường một ngày ăn 100 - 200g cà chua là có thể thoả mãn nhu cầu của cơ thể đối với vitamin C và các chất khoáng quan trọng như Canxi (Ca), Sắt (Fe), Photpho (P), Lưu huỳnh (S), Kali (K), Natri (Na) và Magiê (Mg). Ngoài giá trị dinh dưỡng, quả có màu đỏ nên có giá trị thẩm mỹ cao, quả được dùng để trang trí trong các món ăn càng thêm sức hấp dẫn.Thành phần hoá học của cà chua thay đổi theo giống, đất đai, chế độ dinh dưỡng, chế độ trồng trọt và điều kiện khí hậu thời tiết.

Page 106: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

105

Ngoài giá trị thực phẩm thì còn có giá trị về mặt y học. Theo Võ Văn Chi (2002) cà chua cung cấp năng lượng, cung cấp khoáng, làm tăng sức sống, làm cân bằng tế bào, khai vị, giải nhiệt, chống hoại huyết (scorbut), chống nhiễm khuẩn, chống nhiễm độc, làm kiềm hoá các máu quá axít, lợi tiểu, thải urê, giúp tiêu hoá dễ dàng tinh bột. Cà chua được chỉ định dùng ăn hay lấy dịch quả để uống trị suy nhược, ăn không ngon miệng, nhiễm độc mãn tính, thừa máu (trạng thái xung huyết), máu quá dính, xơ cứng tiểu động mạch, bệnh về mạch máu, tạng khớp, thống phong, thấp khớp, thừa urê trong máu, sỏi niệu đạo và mật, táo bón, viêm ruột ... Dùng ngoài để chữa trứng cá (dùng quả cà chua thái lát và xoa) và vết đốt của sâu bọ (dùng lá vò ra mà xát). Cà chua là loại rau trồng có giá trị kinh tế cao trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Cà chua là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước và là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến với các sản phẩm đa dạng mà thị trường thế giới có nhu cầu cao. Ở nước ta, những năm gần đây cà chua là một trong những cây trồng có mặt trong những công thức luân canh để thực hiện cánh đồng đạt 50 triệu đồng/ha. Cà chua là loại rau có giá trị dinh dưỡng cao nên nhu cầu của nhân dân ngày càng lớn. Vì vậy diện tích gieo trồng và tổng sản lượng không ngừng tăng lên ở các vùng xung quanh thành phố, thị trấn, khu công nghiệp và khu đông dân cư. Đặc biệt trên phần đất đai của gia đình, cà chua là cây cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, cà chua được xuất nhập khẩu cả ở dạng tươi lẫn dạng qua chế biến công nghiệp. Nhưng mặt hàng chính có giá trị hàng hoá cao vẫn là dưới dạng quả tươi. Hơn nữa cà chua lại là cây trồng tương đối dễ trồng cho năng suất và sản lượng cao, trong điều kiện chăm sóc tốt có thể đạt 50 - 62 tấn/ha. Cà chua là mặt hàng rau quả cao cấp cho nên trồng cà chua không chỉ để cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có thể xuất khẩu sang các nước, đó là nguồn trao đổi ngoại tệ quan trọng của đất nước. Ngoài giá trị kinh tế, cà chua còn có giá trị xã hội rất lớn, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho xã hội. Ngoài ra, cà chua còn có mặt trong các lễ hội cà chua ở Tây Ban Nha ... 1.2. Nguồn gốc và phân bố

Cà chua có nguồn gốc từ Pêru và Ecuador, các nước Nam Mỹ thuộc khu vực nhiệt đới khô, nhiều ánh nắng. Tài liệu công bố về cà chua đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ XVI. Hàng trăm năm, loài người không coi cây cà chua là cây thực phẩm, mà nó chỉ được coi như là cây thuốc và cây cảnh. Trong suốt 3 thể kỷ, cà chua bị xem là quả độc, cấm trồng. Ở vùng Andes xa xôi ở Nam Mỹ, cà chua được người Tây Ban Nha đem về châu Âu từ thế kỷ XVI và gọi tên theo tiếng thổ dân Mỹ là "tomato". Các nhà thực vật học xếp cà chua vào họ cà chung nhóm với loại cà gây độc chết người, đó là cà độc dược. Vì nghĩ rằng cà chua tuy có màu đỏ đẹp nhưng độc nên người ta chỉ trồng làm cảnh và đặt cho nó biệt danh "trái đào của chó sói". Đến năm 1776, cà chua được thực dân Anh âm mưu cùng đầu bếp riêng của tướng George Washington dùng

Page 107: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

106

làm thực phẩm để đầu độc vị tướng tài ba này. Thế nhưng dù ăn hết cả món ăn được nấu với "cà độc" tướng Washington vẫn bình yên vô sự và còn đánh thắng thực dân Anh để trở thành tổng thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Sở dĩ cà chua bị nỗi oan như thế là vì quả cà chua còn xanh có chứa một loại alcaloid độc tố tên là solanin và khi cà chua chín thì độc tố này không còn. Mãi đến năm 1778, cà chua mới được xem là trái cây ăn được. Cách mạng Pháp, cà chua lên ngôi và được gọi bằng tên mỹ miều "táo vàng", "táo tình yêu" và có mặt trong các thực đơn của nhà hàng Paris.

Còn có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của cà chua trồng hiện nay. Một số tác giả cho rằng cà chua trồng có nguồn gốc từ L. esculentum var. pimpinellifolium, tuy nhiên nhiều tác giả lại nhận định rằng L. esculentum var. cerasiforme (cà chua anh đào) là tổ tiên của cà chua trồng. Cà chua L. esculentum cerasiforme được trồng rộng khắp Trung Mỹ sau đó lan rộng sang Yucatan. Tóm lại, L. esculentum được phân thành 5 loài khác nhau. Các dạng khác nhau của cà chua trồng L. esculentum hiện nay là dạng bình thường (cà chua thường), dạng Cerasus (cà chua anh đào), dạng quả lê (cà chua lê), có lá to lơn (cà chua lá khoai tây), có dạng to khoẻ (cà chua cọc).

Về con đường tiến hóa đến dạng cà chua quả to cũng có rất nhiều ý kiến: với các thí nghiệm của mình Stubbe (1967) đã đi đến kết luận khả năng của vai trò đột biến trong sự tiến hóa về hình dạng quả cà chua.

Vào năm 1544, Mathiolus đưa ra tên chung nhất “Pomid’ oro“ nghĩa là “táo vàng“. Sau đó nó được chuyển vào tiếng Ý với cái tên Tomato. Cà chua xuất phát từ châu Mỹ Latinh sau đó sang châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ do những người buôn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vào thế kỷ thứ XVI. Từ châu Âu nó được chuyển sang châu Phi qua những người thực dân đi chiếm thuộc địa.

Theo Rick (1974), phía Tây dãy núi Andes là trung tâm thứ hai của cà chua. Lycopersicon esculentum được Miller đặt tên cho cà chua và tên này được các nhà nghiên cứu thống nhất sử dụng cho tới nay. Với nhiều bằng chứng khảo cổ học, thực vật học, ngôn ngữ học, lịch sử đã thừa nhận Mêhico là trung tâm thuần hoá cà chua trồng (Jenkin,1984). Theo nhà thực vật học người Italia Pier Andrea Matio li (1554), những giống cà chua đầu tiên được đưa vào châu Âu có nguồn gốc từ Mêhicô.

Cà chua được đưa tới châu Á vào thế kỷ XVIII, đầu tiên là Philip in, phía Đông Inđônêxia (Nam Dương) và Malaysia (Mã Lai) từ châu Âu qua các nhà buôn và thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan. Từ đây cà chua được phổ biến đến các vùng khác của châu Á.. Tuy có lịch sử trồng trọt lâu đời nhưng mãi đến nửa đầu thế kỷ XX, cà chua mới thực sự trở thành cây trồng phổ biến trên thế giới (Morrison, 1938).

Ở Việt Nam, lịch sử trồng cà chua chỉ mới hơn 100 năm nay. Đầu thế kỷ 20, cà chua được di thực vào nước ta rồi sau đó được trồng và thu hoạch theo diện rộng. Trong những năm gần đây ở nước ta, diện tích trồng cà chua ngày một tăng. Điều kiện

Page 108: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

107

thiên nhiên, khí hậu và đất đai nước ta rất thích hợp cho cà chua sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, khắp các tỉnh từ Nam chí Bắc, ở đâu cũng trồng được cà chua.

1.3. PHÂN LOẠI THỰC VẬT

Cà chua thuộc chi Lycopersicon, thành viên trong họ Solanaceae. Theo tác giả De Candolle (1884), Muller (1940), Luckwill (1959) và Xinskaia (1969) ... cho rằng số lượng lớn của cà chua hoang dại cũng như cà chua trồng được tìm thấy ở Pêru, Êcuado, Bolivia dọc theo bờ biển Thái Bình Dương, từ quần đảo Galapagos tới Chilê.

Hiện nay có nhiều tác giả đưa ra hệ thống phân loại cho cây cà chua, nhưng cho đến nay hệ thống phân loại của Brenznep 1955 được sử dụng rộng rãi nhất.

Bảng 16. Phân loại thực vật chi Lycopersicon

Chi phụ Loài Tên thường gọi Số NST

L .esculentum Cà chua thông thường

24

L . esculentum cerasiforme

Cà chua đỏ anh đào 24

Eulycopersicon

(quả đỏ, hoặc vàng, hoa to, cây hàng năm)

L . pimpinellifolium Cà chua nho 24

L . peruvianum Loài hoang dại 24

L . hirsutum Loài hoang dại 24

L . cheesmanii Loài hoang dại 24

L . chilense Loài hoang dại 24

L . chmielewskii Loài hoang dại 24

Eriopersicon

(quả xanh, sọc tía, có lông, hạt nhỏ)

L . glandulosum Loài hoang dại 24

( www.landscapeimagery.com/tomato.html)

Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện Brenznep đã chia chi Lycopersicon làm 3 loại: + Lycopersicon esculentum Mill. Đây là loại lớn nhất trong tất cả các giống cà chua được trồng hiện nay, các

biến chủng và giống của loài này có khả năng thích nghi rộng, do vậy được trồng rộng rãi nhiều nơi trên thế giới, cả trong điều kiện ánh sáng ngày dài và ánh sáng ngày ngắn.

+ Lycopersicon peruviarum Mill. Loài này thường mọc ở miền Nam Pêru, Bắc Chilê, sinh trưởng ở độ cao 300 -

2000m có xu hướng thụ phấn chéo (giao phấn) cao hơn so với loài Lycopersicum

Page 109: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

108

esculentum Mill.; trong điều kiện ngày ngắn ra quả tốt hơn ngày dài và có khả năng chống bệnh cao hơn các loài khác.

+ Lycopercicon hisrutum Humb. Loài này sinh trưởng ở độ cao 2.200 - 2.500m ít khi ở độ cao 1000m, đây là

loại ngắn ngày, quả chỉ hình thành trong điều kiện chiếu sáng 8 - 10 giờ/ngày.

Cà chua trồng là cây hàng năm, thân bụi, phân nhánh mạnh, có lớp lông dày bao phủ, trên thân có nhiều đốt và có khả năng ra rễ bất định. Chiều cao và số nhánh rất khác nhau phụ thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt.

2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC

2.1. Bộ rễ

Bộ rễ cà chua thuộc rễ chùm gồm rễ chính và rễ phụ, phát triển rất khoẻ nên có thể chịu nóng, tuy nhiên so với các cây trong họ cà thì cà chua kém chịu hạn. Rễ có khả năng tái sinh tốt, khi đưa cây con từ vườn ươm ra trồng rễ chính thường bị đứt, kích thích rễ phụ phát triển mạnh. Bộ rễ phân bố chủ yếu ở tầng canh tác dày 30cm, có thể ăn sâu 60cm. Đường kính bộ rễ có thể đạt tới đến 1,0 - 1,3m nhưng thường khoảng 60 - 70cm. Bộ rễ ăn nông hay sâu, mạnh hay yếu đều có liên quan đến mức độ phân cành và phát triển của bộ phận trên mặt đất, cà chua trồng bộ rễ sẽ ăn nông và rộng hơn so với điều kiện trồng tự nhiên.

2.2.Thân - Các loại thân: Thân của cà chua là bò lan xung quanh hoặc thân bụi, nên cà chua có thể thành 3 loại thân. + Loại thân lùn (cây bụi): cây mập, lóng ngắn, cây mọc thành bụi, cây chỉ cao 35 - 70cm, có thân cứng, mọc thẳng, không cần dùng cọc để chống đỡ, không cần tạo hình, hạn chế việc tỉa cành, trong sản xuất cần tăng mật độ thích hợp để tăng năng suất. + Loại thân cao: cây cao, khoảng 1,5 - 2,0m, lóng dài, lá có từ 3 - 4 đôi lá chét, thân lá phát triển mạnh, thân mềm. Trong sản xuất cần tỉa cành, tỉa hoa quả và làm giàn, hoặc dùng cọc chống đỡ. + Loại thân cao trung bình: đây là loại trung gian giữa loại cao và loại lùn. Chiều cao đạt từ 65 - 120cm. Thân lá sinh trưởng mạnh (cành, chồi non phát triển mạnh), trong sản xuất cần tỉa cành. Thân cà chua có thể thay đổi lớn và chiụ ảnh hưởng nhiều của các yếu tố ngoại cảnh, kỹ thuật canh tác. Thời kỳ cây con thân tròn, thẳng đứng, mọng nước, giòn, dễ gãy, phủ nhiều lông. Cây trưởng thành thân có tiết diện đa giác, cây cứng, phần gốc hoá gỗ xù xì

Page 110: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

109

Thân cà chua phát triển theo kiểu lưỡng phân, thân mang lá và phát hoa, các chùm hoa sinh ra từ trên thân chính. Vì vậy thân chính có vị trí quan trọng đối sản lượng quả. Chồi nách phát sinh từ các nách lá, ở các vị trí khác nhau có tốc độ sinh trưởng và phát dục khác nhau. Theo quy luật thì chồi nách ở ngay dưới chùm hoa thứ nhất có khả năng sinh trưởng và phát triển mạnh và cho sản lượng gần bằng thân chính. Tất cả chồi nách (nhánh) trưởng thành đều có khả năng ra hoa đậu quả nhưng sản lượng không cao bằng nhánh cấp 1 mọc dưới chùm hoa thứ nhất trên thân chính). 2.3. Lá

Lá cà chua là đặc trưng để phân biệt giữa các giống. Lá thuộc lá kép lông chim lẻ, mỗi lá hoàn chỉnh có 3 - 4 đôi lá chét. Ngọn lá có một phiến lá riêng biệt gọi là lá đỉnh. Giữa các lá chét còn có lá giữa và lá bên nhỏ hơn lá chét. Số lá, màu sắc lá là đặc tính di truyền của giống nhưng cũng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, ánh sáng, nước và dinh dưỡng.

Lá cà chua có thể có giống lá bé ít khía, có giống lá giống lá khoai tây, có giống lá nhiều khía, có giống lá xoăn lạ i. Nhìn chung, các giống cà chua ngắn ngày có lá tương đối bé, màu sắc tương đối nhạt, thân và lá có lông tơ, có mùi hăng đặc biệt.

2.4. Hoa Hoa cà chua thuộc loại hoa hoàn chỉnh (lá đài, cánh hoa (tràng hoa), nhị, nhuỵ), hoa mẫu 5, màu vàng sáng. Hoa cà chua nhỏ, không có màu sắc sặc sỡ, không có mùi thơm hấp dẫn nên không dẫn dụ côn trùng. Tỷ lệ thụ phấn chéo phụ thuộc vào cấu tạo của hoa, giống và thời vụ gieo trồng. Vùng ôn đới là 0,5 - 4%, vùng nhiệt đới tỷ lệ này cao hơn - từ 10 -15%. Hoa cà chua thuộc loại hoa tự thụ phấn do cấu tạo của hoa: Các bao phấn bao quanh nhuỵ, thường vị trí của nhụy thấp hơn nhị. Khi vòi nhụy vươn cao hơn nhị thì cơ hội thụ phấn chéo rất lớn. Quá trình thụ phấn ngoài trời có thể dễ dàng thực hiện nhờ gió, côn trùng di chuyển phấn hoa. Trồng cà chua trong nhà lưới cần tác động bằng cách rung cây, rung cành làm cho hạt phấn dễ dàng tách khỏi bao phấn rơi lên nhụy cái. Hoa cà chua mọc thành chùm. Hoa thường do mầm ở đầu thân cây phân hoá thành. Khi mầm ở đầu thân hình thành hoa, thì mầm ở các nách lá phát triển thành nhánh thay thế, cứ như thế càng tiếp tục phát triển lên. Màu sắc của hoa thay đổi theo quá trình phát triển của hoa từ vàng xanh, vàng tươi rồi đến vàng ứa (vàng sẫm). Trong kỹ thuật lai, người tạo giống thường khử đực trên cây mẹ ở thời kỳ hoa có màu vàng xanh, tràng hoa chưa bị táhc rời. Lấy phấn cây bố ở thời kỳ nở to có màu vàng tươi là tốt nhất.

Page 111: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

110

Hoa cà chua mọc thành chùm, hoa đính vào chùm bởi cuống ngắn. Giữa các hoa có những khoảng trống (một lớp tế bào riêng rẽ (tế bào nhu mô) được hình thành ở cuống hoa. Khi gặp điều kiện không thuận lợi như quá lạnh, quá nóng, quá khô hạn, quá ẩm ướt, thức ăn, nước bị thiếu...các khoảng trống này phình to lên do tích tụ vào đó một loại men làm ảnh hưởng đến sự liên kết của các tế bào gây ra hiện tượng hoa, quả bị rụng. Có thể sử dụng chất kích thích sinh trưởng để hạn chế hoạt động của men này, ngăn cản hiện tượng rụng hoa, rụng quả. Căn cứ vào sự phân nhánh của chùm hoa mà chia ra 3 loại chùm: đơn giản, trung gian và phức tạp. Loại chùm đơn giản chỉ có một trục chính, hoa mọc so le trên trục. Loại hình trung gian thường phân thành 2 nhánh chính. Loại hình phức tạp chia thành nhiều nhánh. Số chùm hoa/cây/ chu kỳ sinh trưởng khoảng 20 chùm hoặc nhiều hơn, phụ thuộc vào giống và kỹ thuật trồng trọt. Mỗi chùm hoa biến động 5 - 20 hoa, thường có 5 - 7 hoa/chùm

Cà chua có cả hoa đực và hoa cái. Nhị có từ năm cái trở lên, phấn hoa màu vàng, tụ tập thành một ống hình thoi tròn, bao quanh bên ngoài nhụy. - Sự nở hoa:

Hoa cà chua là hoa lưỡng tính. Mỗi hoa gồm có đài, tràng, nhị, nhuỵ. Cuống bao phấn rất ngắn. Các bao phấn dính vào nhau tạo thành một ống bao quanh nhụy. Mỗi bao phấn có hai túi phấn, khi chín tách ra theo chiều dọc bên trên.

Nhụy gồm bầu và vòi nhụy, đầu tận cùng của vòi nở rộng gọi là nuốm, nơi thu nhận hạt phấn.

Chùm hoa: hoa cà chua mọc thành từng chùm đơn và kép (tuỳ giống). Những chùm hoa ở phía dưới thường cấu tạo phức tạp hơn những chùm phía trên.

Quy luật nở hoa: Chùm gần gốc, gần thân chính nở trước, thường thì chùm thứ nhất nở hoàn toàn thì chùm thứ hai bắt đầu nở.

Giữa các hoa trong chùm thì hoa ở gần cuống chùm nở trước, hoa của đầu mút chùm nở sau. Từ hoa đầu tiên đến hoa trong chùm nở rộ từ 2 - 4 ngày, từ hoa đầu tiên tới hoa cuối cùng nở là 10 - 14 ngày.

Page 112: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

111

Hình 1. Hoa cà chua

Hình 2. Hình thái học cơ bản của hoa cà chua Nguồn: Steps and Photos of Tomato Crossing, AVRDC

Hoa nở vào lúc 8 - 10 giờ. Nhiệt độ thích hợp nhất cho nở hoa là 18 - 25oC. Ở nhiệt độ dưới 12oC thì sự nở hoa và thụ phấn bị ức chế. Khi nhiệt độ trên 35oC, trời khô hạn, thiếu ánh sáng và chất dinh dưỡng thì hoa nở không bình thường, vòi nhụy mọc dài hơn nhị, gây khó khăn cho thụ phấn.

Thụ phấn và thụ tinh: Thường hai ngày trước khi hoa nở hạt phấn đã chín và nhụy đã có khả năng nhận hạt phấn. Khi đó, nụ hoa có cánh màu vàng nhạt.

Khi hoa nở, khả năng thụ phấn mạnh nhất, nuốm của nhụy tiết dịch nhiều, tạo điều kiện giữ hạt phấn và thúc đẩy hạt phấn nảy mầm. Một hai ngày sau khi nở hoa, tế bào trứng chín và xảy ra quá trình thụ tinh; khi đó cánh hoa bắt đầu héo, màu nhạt dần và bắt đầu cụp lại.

Hạt phấn tốt là những hạt phấn giữ được sức nảy mầm trong thời gian 4 - 5 ngày ở nhiệt độ và độ ẩm bình thường. Nhiệt độ thích hợp cho phấn hoá phát triển là

Cánh hoa

Nhị

Đầu nhụy

Bao pháún hçnh noïn

Âáöu nhuûy

Caïnh hoa

Âaìi hoa

Voìi nhuûy Báöu nhuûy

Cuäúng hoa

Đài hoa

Page 113: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

112

21- 24oC. Nhiệt độ thích hợp nhất cho hạt phấn nảy mầm là từ 16 - 29oC, thích hợp nhất 29oC. Hạt phấn không nãy mầm ở nhiệt độ 10oC và trên 35oC.

Nhuỵ giữ được khả năng thụ phấn đến 4 ngày sau khi hoa nở, khi trời mát, thời gian này có thể kéo dài hơn.

Quá trình phát triển của hạt phấn chịu ảnh hưởng của nhiệt độ, nhiệt độ thấp dưới 15oC và 35oC hạt phấn sẽ bị ức chế, gây ra hiện tượng thụ phấn không đầy đủ. Bầu quả phát triển không bình thường tạo ra những vết sẹo (vết lõm sâu), quả bị nhăn, dị hình làm giảm giá trị thương phẩm. Hiện tượng dị hình còn phụ thuộc vào giống.

- Các loại hình sinh trưởng: Căn cứ vào đặc điểm ra hoa, cà chua có thể chia ra 3 loại hình sinh trưởng:

+ Loại hình sinh trưởng hữu hạn (determinate): Cây thấp, vị trí chùm hoa thứ nhất thấp, khoảng cách giữa các lóng ngắn, chùm hoa thứ nhất thường xuất hiện sớm. Khi trên thân chính có 7 - 8 lá thật. Sau đó cứ 1 - 2 lá có chùm hoa kế tiếp, cho đến khi có 3 - 4 chùm thì đỉnh sinh trưởng có chùm hoa cuối cùng, cây ngừng sinh trưởng chiều cao. Loại này có các giống ngắn ngày, ra hoa, quả tập trung, năng suất không cao. Do vậy trong sản xuất cần tăng số nhánh/gốc, không cần phải làm giàn, có thể thu hoạch bằng cơ giới.

+ Loại hình sinh trưởng bán hữu hạn (semideterminate): Cây thấp, những giống thuộc loại hình này về căn bản cũng giống như loại hình sinh trưởng hữu hạn nhưng khi trên thân chính có 7 - 8 lá thật (có khi 9 - 10 lá) thật thì có chùm hoa thứ nhất, sau đó cứ cách 1 - 2 lá (có khi 2 - 3 lá) có chùm hoa tiếp theo cho đến khi trên thân chính có tới 7 - 8 chùm hoa (cây cho nhiều chùm hoa hơn hữu hạn) thì chiều cao ngừng sinh trưởng bởi kết thúc chùm hoa ở đỉnh sinh trưởng.

+ Loại hình sinh trưởng vô hạn (indeterminate): Cây cao, cành lá sinh trưởng tốt, sum xuê, có thể cao hơn 2m, khoảng cách giữa các lóng dài, vị trí chùm hoa thứ nhất cao. Khi trên thân chính có 9 -10 lá thật (có khi 11-12 lá) thì xuất hiện chùm hoa thứ nhất. Sau đó cứ cách 2 - 3 lá có chùm hoa tiếp theo và tiếp tục như vậy cho đến khi cây già hoặc không đủ các yếu tố nước, dinh dưỡng...thì cây ngừng sinh trưởng. Trong 1 chu kỳ sinh trưởng trên thân chính đạt tới 12 -13 chùm hoa hoặc nhiều hơn. Loại hình này thường là những giống dài ngày, thân tăng trưởng mạnh, tái tạo nhánh mới và ra hoa nhiều, có khả năng cho năng suất rất cao, chất lượng tốt nhưng trong sản xuất cần phải làm giàn, tỉa nhánh, tỉa hoa, tỉa quả. Số hoa/cây, tỷ lệ đậu quả phụ thuộc vào giống, điều kiện ngoại cảnh, kỹ thuật chăm sóc. Giống chống chịu kém, điều kiện nhiệt độ quá thấp, quá cao, chất dinh dưỡng thiếu, kỹ thuật bón phân không hợp lý (thiếu hoặc thừa đạm), thiếu nước, sâu bệnh hại ...dẫn đến rụng hoa. Để hạn chế hiện tượng rụng nụ rụng hoa, cần chọn giống chống chịu điều kiện ngoại cảnh bất lợi và thực hiện tốt các biện pháp canh tác, phòng trừ sâu bệnh kịp thời.

Page 114: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

113

2.5. Quả và hạt

Quả cà chua thuộc loại quả mọng, nhiều nước, bao gồm vỏ quả, thịt quả, dịc quả và hạt. Phần thịt quả có thể đặc hoặc ít đặc, có các vách ngăn ngang tạo thành từng ô, ở giữa là trục quả. Số lượng ô/quả khác nhau, có 2 hoặc 3 đến nhiều ô/quả.

Sát vỏ quả là thành ngoài, bên trong quả chia thành nhiều buồng hạt (2 - 20 buồng hạt). Các buồng hạt được các thành trong ngăn cách ra. Giữa buồng hạt là khoảng trống chứa đầy dịch quả và hạt. Thành quả càng dày thì thịt quả càng nhiều và càng ít hạt. Thành quả, nhất lá các thành trong, có hàm lượng chất khô cao.

Trong thịt quả cà chua có 3,1% chất đường (chủ yếu là gluco); 0,1% nitơ; 0,84% cellulose; 0,5% axit hữu cơ; 0,13% protein; 0,6% tro; phần còn lại là nước. Trong quả xanh có 0,1 - 0,3 % tinh bột, khi quả chín hầu hết tinh bột chuyển thành đường. Vị đắng của cà chua là do Solanin. Lượng chất này trong cà chua xanh là 4mg% và tăng lên 8mg% khi cà chua chín. Cà chua giàu vitamin C (18-35mg%) và caroten (1,2mg%). Chất màu chủ yếu của cà chua là carotinoid, chlorophill. Theo mức độ chín, lượng chlorophill giảm, lượng carotinoid tăng.

Hình 3: Cấu tạo quả cà chua

(TAMU -Tomato FAQ [look at 27])

Ở độ chín hoàn toàn lượng vitamin C và carotinoid đạt tỷ lệ cao nhất, lượng axit giảm, lượng đường tăng, thịt quả có vị ngọt hơn lúc còn xanh. Lượng protopectin giảm làm cho vỏ dễ tách ra và quả bị mềm. Cà chua chín cây có chất lượng cao hơn cà chua bảo quản. Lớp thịt dày buồng đựng hạt càng bé chất lượng quả càng cao.

Lõi quả Võ quả giữa

Võ quả

Hạt

Quả có 2 ngăn

Quả nhiều ngăn

Thực giá noãn

Page 115: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

114

Hình dạng và kích thước quả khác nhau như dạng quả tròn, tròn dẹt, vuông, quả lê, hình bầu dục, hoặc quả anh đào (cherry), quả hồng (quả dài). Hình dạng quả được xác định qua công thức chỉ số hình hạng:

I = H/D, trong đó I là chỉ số hình dạng, H là chiều cao quả (cm), D là đường kính quả (cm).

Nếu I = 0,6 - 0,8 dạng quả tròn dẹt

I > 0,8 đến 1,25 quả tròn

I > 1,25 quả dài (ô van)

Màu sắc quả cà chua phụ thuộc vào màu sắc vỏ quả, là đặc trưng của giống. Thịt quả khi chín có màu hồng nhạt đến đỏ thẫm hoặc màu vàng, vàng sáng. Loài cà chua trồng quả thường có màu đỏ hồng, vàng, vàng da cam. Lycopen là sắc tố chính trong màu đỏ nhưng không thể hiện được hàm lượng provitamin A. Những giống có màu đỏ vàng hoặc vàng da cam có hàm lượng provitamin A gấp 8-10 lần quả màu đỏ. Quả có màu đỏ, vàng da cam thể hiện chứa hàm lượng sắc tố carotenoid cao.

Chất lượng quả cà chua được đánh giá qua các chỉ tiêu hình thái bên ngoài và chất lượng sinh hoá bên trong quả: hinh dạng, kích thước, màu sắc, cấu trúc quả, độ rắn chắc (thể hiện khả năng chịu va chạm khi vận chuyển và bảo quản lâu), tỷ lệ thịt quả, hàm lượng chất khô, tỷ lệ đường/axít và sắc tố. Sự hài hoa tỷ lệ đường/axít (chủ yếu a.malic) thể hiện hương vị thích hợp.

Số lượng quả/cây là đặc tính di truyền của giống nhưng cũng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh. Số quả/cây giữa các loài rất khác nhau, từ 4-5 quả đến hàng trăm quả.

Khối lượng quả thay đổi tuỳ theo giống có thể là 1-2g đến 200 - 300g cũng có thể lớn hơn. Căn cứ vào khối lượng trung bình/quả, có thể chia ra 3 cấp: quả nhỏ có khối lượng dưới 50g, quả trung bình có khối lượng 50-100g và quả to có khối lượng 100g. Trên cùng một cây khối lượng quả và số quả thường có mối tương quan nghịch.

Hạt cà chua nhỏ, dẹt, nhọn, cuống hạt màu vàng sáng, vàng tối hoặc vàng nhạt. Hạt khô có màu vàng bao phủ lông tơ, 1g chứa 300 - 350 hạt, mỗi quả chứa 50 - 350 hạt, sức nảy mầm của hạt có thể giữ được 4 - 5 năm.

3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH

3.1. Nhiệt độ

Cà chua thuộc nhóm cây ưa khí hậu ấm áp, thích nghi rộng, chịu được nhiệt độ cao nhưng mẫn cảm với rét. Cà chua sinh trưởng bình thường trong phạm vi nhiệt độ

Page 116: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

115

15-35oC, thích hợp nhất 22 - 24oC, nhiệt độ tối thấp và tối cao là 10oC và trên 35oC. Hạt nảy mầm tốt ở 25-30oC, quả phát triển tốt ở nhiệt độ 20 - 22oC, các sắc tố hình thành ở nhiệt độ 20oC, quả chín ở nhiệt độ 24-30oC, trên 35oC các sắc tố bị phân giải.

Trong quá trình nảy mầm của hạt, nhiệt độ thích hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hạt nảy mầm nhanh, làm tăng tỷ lệ mọc mầm, giúp cho cây con phát triển được dễ dàng. Nhiệt độ ngày và đêm đều có ảnh hưởng đến sinh trưởng sinh dưỡng của cây. Nhiệt độ ngày thích hợp cho cây sinh trưởng từ 20- 25oC, khi nhiệt độ cao hơn mức thích hợp (> 35oC) quá trình quang hợp sẽ giảm dần, nhiệt độ đêm thích hợp từ 13- 18oC. Theo Clayon (1923), khi nhiệt độ trên 35oC cây ngừng sinh trưởng, ở nhiệt độ 10oC trong một giai đoạn dài cây ngừng sinh trưởng và chết (Swiader J. M. và cộng sự 1992). Ở giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng, nhiệt độ ngày và đêm xấp xỉ 25oC sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ra lá và sinh trưởng của lá. Tốc độ sinh trưởng của thân, chồi và rễ đạt tốt hơn khi nhiệt độ ngày từ 26- 30o C và đêm từ 18- 22oC. Điều này liên quan đến việc duy trì cân bằng quá trình quang hóa trong cây.

Nhiệt độ không những ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng dinh dưỡng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến ra hoa đậu quả, năng suất và chất lượng của quả cà chua. Ở thời kỳ phân hóa mầm hoa, nhiệt độ không khí ảnh hưởng đến vị trí của chùm hoa đầu tiên. Cùng với nhiệt độ không khí, nhiệt độ đất có ảnh hưởng đến số lượng hoa trên chùm. Khi nhiệt độ không khí trên 30/25oC (ngày/đêm) làm tăng số lượng đốt dưới chùm hoa thứ nhất. Nhiệt độ không khí lớn hơn 30/25oC (ngày/đêm) cùng với nhiệt độ đất trên 21oC làm giảm số hoa trên chùm.

Nghiên cứu của Calver (1957) cho thấy sự phân hóa mầm hoa ở 13o C cho số hoa trên chùm nhiều hơn ở 18oC là 8 hoa/ chùm, ở 14oC có số hoa trên chùm lớn hơn 20oC (Tiwari, Choudhury, 1993).

Ngoài ra nhiệt độ còn ảnh hưởng trực tiếp tới sự nở hoa cũng như quá trình thụ phấn thụ tinh, ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát triển của hoa. Khi nhiệt độ ngày/đêm trên 30/24oC làm giảm kích thước hoa, trọng lượng noãn và bao phấn. Nhiệt độ cao làm giảm số lượng hạt phấn, giảm sức sống của hạt phấn và của noãn. Tỷ lệ đậu quả cao ở nhiệt độ tối ưu là 18- 20oC. Khi nhiệt độ ngày tối đa vượt 38oC trong vòng 5 - 9 ngày trước hoặc sau khi hoa nở 1-3 ngày; nhiệt độ đêm tối thấp vượt 25- 27oC trong vòng vài ngày trước và sau khi nở hoa đều làm giảm sức sống hạt phấn, đó chính là nguyên nhân làm giảm năng suất. Quả cà chua phát triển thuận lợi ở nhiệt độ thấp, khi nhiệt độ trên 35oC ngăn cản sự phát triển của quả và làm giảm kích thước quả rõ rệt (Kuo và cộng sự, 1998).

Bên cạnh đó nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các chất điều hòa sinh trưởng có trong cây. Sau khi đậu quả, quả lớn lên nhờ sự phân chia và sự phát triển các tế bào phôi. Hoạt động này được thúc đẩy bởi một số hoocmôn sinh trưởng hình thành ngay trong khi thụ tinh và hình thành hạt. Nếu nhiệt độ cao xảy ra vào thời điểm 2-3 ngày

Page 117: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

116

sau khi nở hoa gây cản trở quá trình thụ tinh, auxin không hình thành được và quả non không lớn mà rụng đi.

Sự hình thành màu sắc quả cũng chịu ảnh hưởng lớn của nhiệt độ, bởi quá trình sinh tổng hợp caroten rất mẫn cảm với nhiệt. Phạm vi nhiệt độ thích hợp để phân hủy chlorophill là 14-15oC, để hình thành lycopen là 12-30oC và hình thành caroten là 10-38oC. Do vậy, nhiệt độ tối ưu để hình thành sắc tố là 18-24oC. Quả có màu đỏ - da cam đậm ở 24-28oC do sự hình thành lycopen và caroten dễ dàng. Nhưng khi nhiệt độ ở 30 - 36oC quả có màu vàng đó là do lycopen không được hình thành. Khi nhiệt độ lớn hơn 40oC quả giữ nguyên màu xanh bởi vì cơ chế phân hủy chlorophyll không hoạt động, caroten và lycopen không được hình thành. Nhiệt độ cao trong quá trình phát triển của quả cũng làm giảm quá trình hình thành pectin, là nguyên nhân làm cho quả nhanh mềm hơn.

Nhiệt độ và độ ẩm cao còn là nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho một số bệnh phát triển. Theo Walker và Foter (1946) bệnh héo Fusarium phát triển mạnh ở nhiệt độ đất 28oC, bệnh đốm nâu Cladosporiumfulvum Cooke phát sinh ở điều kiện nhiệt độ 25-30oC và độ ẩm không khí 85-90%, bệnh sương mai do nấm Phytophythora infestans phát sinh phát triển vào thời điểm nhiệt độ thấp dưới 22oC, bệnh héo xanh vi khuẩn Ralstonia solanacearum phát sinh phát triển ở nhiệt độ trên 20oC. Ở khu vực miền Trung, thời tiết nóng ẩm, ẩm độ cao, mưa nắng thay đổi đột ngột, do đó cà chua bị nhiều loại sâu bệnh gây hại nặng không cho năng suất. Điều này giải thích tại sao vùng này diện tích cà chua rất nhỏ so với tiềm năng cuả vùng.

3.2. Ánh sáng

Cà chua thuộc loại cây ưa sáng nhưng không phản ứng với độ dài ngày nên cà chua có thể ra hoa cả trong điều kiện chiếu sáng ngày dài hay ngày ngắn. Vì thế cà chua có tính thích nghi rộng, có thể trồng quanh năm và ở nhiều vùng khác nhau ở nước ta.

Cà chua ưa cường độ ánh sáng mạnh, từ 4.000 -10.000 lux, nếu được chiếu sáng đầy đủ 11-13h, cây con sinh trưởng tốt, ra quả thuận lợi, năng suất và chất lượng quả cao. Cây thiếu ánh sáng sinh trưởng yếu ớt, lá nhỏ, mỏng, cây vống, ra hoa, ra quả chậm, năng suất và chất lượng quả giảm, hương vị nhạt đồng thời cũng rụng nụ, rụng hoa, rụng quả, nhụy co rút lại làm giảm khả năng tiếp nhận của hạt phấn và quả bị dị hình.

Thành phần hoá học của quả cà chua chịu tác động lớn của chất lượng ánh sáng, thời gian chiếu sáng và cường độ ánh sáng. Theo Hamner và cộng sự (1945) cho biết ánh sáng mạnh rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến hàm lượng axít ascorbic trong quả cà chua, khi ánh sáng yếu làm giảm hàm lượng vitamin C trong quả.

3.3. Nước

Page 118: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

117

Cà chua là cây ưa ẩm nhưng không chịu úng và yêu cầu về nước ở các giai đoạn rất khác nhau, xu hướng ban đầu cần ít nước về sau cần nhiều hơn. Lúc cây ra hoa là thời kỳ cần nhiều nước nhất. Nếu ở thời kỳ này độ ẩm không đáp ứng, việc hình thành chùm hoa và tỷ lệ đậu quả giảm.

Một số nghiên cứu cho thấy giữa năng suất cà chua và lượng nước bốc hơi trên lớp đất mặt sâu 1 cm có mối quan hệ chặt. Một nghiên cứu của Mỹ cho thấy một giống cà chua đạt năng suất 220 tấn/ha thì hiệu quả sử dụng nước là 3,1 tấn/cm/ha lượng nước thoát hơi.

Độ ẩm đất thích hợp cho cà chua nảy mầm là 70%, sinh trưởng phát triển là 70-80% và độ ẩm không khí là 70 - 80%. Thiếu nước cây sẽ bị rụng nụ rụng hoa, rụng quả, cây còi cọc, lá bé. Thời kỳ cần nước nhiều nhất là từ hình thành hạt phấn hoa đến hình thành và phát triển quả (giai đoạn ra hoa - ra quả).

Khi đất quá khô hay quá ẩm đều ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất của cà chua. Biểu hiện thừa nước hay thiếu nước đều làm cho cây héo. Khi ruộng bị ngập nước, trong đất thiếu oxy, thừa khí cacbonic làm rễ cà chua bị ngộ độc đẫn đến cây héo. Khi thiếu nước quả cà chua chậm lớn thường xảy ra hiện tượng thối đáy quả, quả dễ bị nám do canxi bị giữ chặt ở các bộ phận già không vận chuyển đến các bộ phận non. Nhiệt độ đất và không khí phụ thuộc rất lớn vào lượng mưa, đặc biệt là các thời điểm trái vụ, mưa nhiều là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng phát triển của cây.

Cà chua yêu cầu độ ẩm không khí thấp trong quá trình sinh trưởng phát triển, thích hợp 45 - 55%, độ ẩm cao trên 65% cây dễ dàng bị bệnh, ảnh hưởng đến sự tung phấn của hạt phấn, làm hạt phẫn vỡ, làm giảm nồng độ đường ở nuốm nhụy. Như vậy cà chua là cây “chân ướt đầu khô”,.

3.4. Dinh dưỡng

Rễ cây cà chua tập trung chủ yếu ở vùng đất mặt ở độ sâu 0 - 40cm, rễ ăn sâu và rộng hơn nhiều các loại rau khác. Cà chua có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng thích hợp nhất là đất phù sa (thịt nhẹ), cát pha, tơi xốp, tưới tiêu chủ động. Giới hạn pH đất có thể trồng cà chua là hơi chua - hơi kiềm (5,5 -7,5), pH thích hợp nhất từ 6,0 - 6,5; đất giàu mùn, tầng canh tác dày, dễ thoát nước. Cà chua là cây yêu cầu chế độ luân canh, luân phiên rất nghiêm ngặt. Không nên trồng cà chua trên các chân đất trước đó trồng cây họ cà, đất có ít nguồn nấm bệnh là điều kiện rất cơ bản để trồng cà chua có năng suất cao.

Trong các nguyên tố dinh dưỡng thì cà chua hút nhiều nhất kali thứ đến là đạm và ít nhất là lân. Cà chua sử dụng tới 60% N; 50 - 60% K2O và 15-20% P2O5 tổng

Page 119: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

118

lượng bón vào đất trong suốt chu kỳ sinh trưởng. Theo Becseev, để tạo 1 tấn quả cà chua cần 3,8kg N; 0,6kg P2O5 và 7,9kg K2O (Kiều Thị Thư trích dẫn - 1998).

- Đạm (N)

Đạm có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng thân lá, phân hoá hoa sớm, số lượng hoa/cây nhiều, hoa to, tăng khối lượng và kích thước quả, tăng năng suất. Tuy nhiên bón đạm quá nhiều làm sinh trưởng quá mạnh cành lá rậm rạp, chậm ra hoa ra quả, chất lượng quả giảm, nhiều bệnh hại nặng đặc biệt là mốc sương. Trong lúc đó thiếu đạm cây sinh trưởng còi cọc, hoa quả ít, quả nhỏ, rụng hoa, rụng quả... năng suất, chất lượng giảm mạnh. - Lân ( P2O5 )

Lân có tác dụng kích thích hệ rễ phát triển đặc biệt thời kỳ cây con (3- 4 lá thật), tăng cường phát dục của hoa (phân hoá hoa sớm), làm cho quả chín sớm, rút ngắn thời gian sinh trưởng, nâng cao chất lượng quả và hạt (tăng sức sống hạt phấn, tăng tỷ lệ đậu quả, tăng chất lượng quả). Vì vậy nếu ruộng để giống cần bón lân đầy đủ.

- Ka li (K)

Kali tăng cường khả năng quang hợp, tham gia tổng hợp đường (gluxít), tăng cường quá trình vận chuyển các chất hữu cơ và đường vào quả. Ka li còn làm cho cây cứng, khoẻ tăng khả năng chống chịu bệnh và điều kiện bất lợi (chống rét), tăng chất lượng quả (làm cho quả nhẵn, thịt quả chắc, tăng khả năng vận chuyển và bảo quản khi quả chín, tăng hàm lượng đường, hàm lượng chất tan, vitamin C).

Thời kỳ ra hoa - ra quả, quả phát triển yêu cầu tối đa về các yếu tố dinh dưỡng. Cà chua rất mẫn cảm với đạm nên chú ý bón các nguyên tố cân đối.

Theo Raymond A.T. George (1989), đối với đất có dinh dưỡng thấp thì lượng phân vô cơ bón cho 1ha cần: 70-100kgN 105-200kg P2O5 và 150-200kg K2O

Theo Geraldson, để đạt được 60 tấn quả/ha, cần bón 320 kgN ; 60kg P2O5 và 440 kg K2O. Ở vùng khô cà chua sử dụng nhiều đạm hơn, còn vùng khí hậu ẩm cây sử dụng kali và lân nhiều hơn.

Theo Trần Khắc Thi và cộng sự (1999) thì trong điều kiện sinh thái của Việt Nam, lượng phân bón cho 1 ha cà chua là 25 tấn phân chuồng, 150kg N, 90kg P2O5 và 150kg K2O. - Các nguyên tố vi lượng:

Nguyên tố vi lượng có tác dụng quan trọng đến sinh trưởng phát triển của cà chua đặc biệt là nâng cao chất lượng quả. Trong các nguyên tố vi lượng cà chua phản ứng với tốt với các nguyên tố vi lượng B, Mn, Zn... trên đất chua nên bón phân Mo.

Page 120: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

119

Tuỳ theo nhu câu của cây bón liều lượng thích hợp , có thể xử lý hạt, phun lên lá hay bón vào đất.

4. CÁC GIỐNG CÀ CHUA TRỒNG TRONG SẢN XUẤT HIỆN NAY

Nước ta, các giống cà chua đang được trồng chủ yếu phân thành 3 nhóm sau: + Cà chua múi: Quả to, nhiều ngăn tạo thành múi. Quả có vị chua, nhiều hạt,

ăn không ngon nhưng cây mọc khoẻ, sai quả, chống chịu sâu bệnh khá. Giống điển hình là cà chua múi Hải Phòng.

+ Cà chua hồng: Quả hình quả hồng, không có múi hoặc múi không rõ. Thịt quả nhiều bột, ăn ngon. Cây chống chịu sâu bệnh kém so với cà chua múi. Các giống chính của giống này là : Đại Hồng, Yên Mỹ, Số 7, HP-5, Earliana 498, P375.

+ Cà chua bi: Quả bé, cây sai quả, quả ăn chua, hơi ngái. Cây chống chịu sâu bệnh khá. Nhóm cà chua này dễ trồng, nhưng giá trị kinh tế thấp. Thường nông dân trồng trong vườn để tự túc cà chua trong vụ Hè.

Trong 3 nhóm trên, đặc tính chủ yếu của một số giống đang trồng có diện tích lớn:

4.1. Giống cà chua HP5

Giống này do trại giống An Hải, Hải Phòng tạo ra bằng phương pháp chọn lọc cá thể liên tục nhiều năm từ giống cà chua Nhật Bản, được công nhận giống quốc gia và cho phổ biến 1998. Giống thuộc nhóm dài ngày, từ trồng đến thu hoạch 120-135 ngày, thuộc dạng hình sinh trưởng bán hữu hạn. Chiều cao trung bình 90cm, có khả năng phân cành hữu hiệu lớn 93 - 4 cành cấp 1), chín có màu đỏ tươi, hạt ít, số quả/cây 15 - 20 quả, khối lượng 1 quả lớn từ 100-150g. Năng suất trung bình 35 - 40 tấn/ha, chất lượng tốt, thành quả dày, quả chắc chịu vận chuyển, chống chịu tốt (nóng, rét) đặc biệt chống bệnh sương mai, đốm vòng, có khả năng thâm canh, có thể gieo trồng các vùng trong cả nước, gieo 2 vụ Đông Xuân và Xuân Hè.

4.2. Giống cà chua Hồng Lan

Giống này do viện Cây lương thực và cây thực phẩm Hải Dương tạo ra bằng phương pháp chọn lọc từ một dạng đột biến tự nhiên của giống cà chua Ba Lan trắng, được công nhận giống quốc gia và phổ biến trong sản xuất 1994. Thời gian sinh trưởng khoảng 105 -115 ngày, thuộc dạng hình sinh trưởng hữu hạn, thân lá gọn, cây có độ đồng đều cao. Quả tròn, không có múi, ra quả tập trung, năng suất khá cao và tương đối ổn định, năng suất trung bình 25-30 tấn/ha, phẩm chất khá, chống được bệnh mốc sương khá, tỷ lệ nhiễm bệnh virus trên đồng ruộng thấp. Trồng vụ Đông sớm là tốt nhất, trên địa bàn các tỉnh phía bắc.

4.3. Giống cà chua P 375

Page 121: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

120

Giống do KS. Viết Thị Tuất, KS. Nguyễn Thị Quang và cộng tác viên thuộc trung tâm Kỹ thuật rau quả Hà Nội tạo ra bằng phương pháp chọn cá thể nhiều lần từ giống cà chua Đài Loan, được công nhận 1990. Thuộc nhóm giống dài ngày, thời gian từ trồng đến thu hoạch vụ Đông Xuân 140 - 150 ngày, vụ Thu Đông và Xuân Hè 130 -140 ngày.

Giống thuộc dạng hình sinh trưởng vô hạn, cây cao 160-180cm, thân lá to, xanh đậm. Quả to, tròn, màu đỏ đẹp, khối lượng quả trung bình từ 100 -110g. Năng suất cao, vụ Thu - Đông và vụ Xuân Hè đạt 40-45 tấn/ha, vụ Đông Xuân đạt 50-65 tấn. Chất lượng quả tốt, thịt quả dày, ăn ngon, vị đậm. Vỏ quả dày, ít bị nứt và khó dập nát, chịu vận chuyển và bảo quản lâu. Khả năng chống chịu bệnh mốc sương, héo xanh, đốm nâu tốt, bệnh virus khá, các sâu bệnh khác trung bình.

4.4. Giống cà chua MV1

Giống này do TS. Nguyễn Hồng Minh - ĐH Nông Nghiệp I chọn lọc từ giống Mondavi (Liên Xô cũ), được công nhận giống quốc gia năm 1998.

Là giống ngắn ngày 90-100 ngày, từ trồng đến thu 50 - 63 ngày. Chịu nhiệt độ cao và ẩm độ cao thấp khác nhau, trồng vụ trái vẫn cho năng suất cao 33 - 46 tấn/ha. Năng suất vụ chính được thâm canh đạt 52 - 60 tấn/ha. Tỷ lệ đậu quả cao, quả có kích thước vừa phải, ít dập nát khi vận chuyển, quả màu đỏ tươi, hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chống chịu với bệnh xoăn lá. Có thể trồng trái vụ Xuân Hè và Thu Đông để giải quyết giáp vụ rau.

4.5. Giống cà chua quả nhỏ chịu nhiệt VR 2

Giống do KS. Vũ Thị Tình và cộng tác viên thuộc viện Nghiên cứu rau quả Hà Nội tạo ra bằng phương pháp chọn lọc từ tập đoàn cà chua của trung tâm rau châu Á, được khu vực hoá 1998. Giống thuộc nhóm ngắn ngày, thời gian từ trồng đến thu hoạch 50-60ngày. Giống thuộc loại hình sinh trưởng hữu hạn, cây cao trung bình 100 - 110cm

Quả có màu đỏ đậm, thịt quả chắc, ít hạt, khối lượng mỗi quả 5 - 6g, mỗi cây 150-180 quả. Năng suất cao vụ Xuân 18 - 25 tấn/ha, vụ Đông Xuân 26-30 tấn/ha, Hè Thu 8-11 tấn/ha, có khả năng chịu nhiệt cao, chịu bệnh sương mai. Giống này có thể trồng được quanh năm, nhiều vùng trong cả nước. Quả có thể dùng ăn tươi và làm salát, cây thích hợp trên những vùng nắng gay gắt đất cát, cát pha.

4.6. Giống cà chua lai TN 30

Là giống la i F1 do công ty Trang Nông đề nghị đưa vào sản xuất. Giống thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn, cao cây trung bình 0,9 -1m. Thời gian trồng - thu hoạch 80 ngày. Quả tròn, màu đỏ tươi. Thịt quả dày, quả cứng, chất lượng ngon. Khối lượng

Page 122: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

121

quả 105 -110g. Kháng sâu bệnh khá, năng suất quả 4 - 5kg/cây. Có thể gieo trồng quanh năm cả miền Bắc và miền Nam.

4.7. Giống cà chua C95

Giống này do TS. Đào Xuân Thảng, Nguyễn Quốc Tuấn, Đoàn Xuân cảnh - viện Cây lương thực và Cây thực phẩm Hải Dương lai tạo từ tổ hợp lai NN325 x số 7. Giống được công nhận năm 2004. Thời gian sinh trưởng 125-130 ngày. Chiều cao cây đạt tới 90-100cm. Giống cho quả sớm, thu quả đầu 70-75 ngày sau trồng, chín khá tập trung, thời gian cho thu quả 20-30 ngày. Quả thon dài, khối lượng quả trung bình 80-85g, màu đỏ tươi, thành quả dày, ít hạt. Chịu vận chuyển, độ Brix đạt 4,8 - 50%, đạt tiêu chuẩn chế biến xuất khẩu. Giống trồng vụ Thu Đông sớm và chính vụ cho năng suất trung bình 40 - 45 tấn/ha, vụ Xuân Hè năng suất đạt 28-30 tấn/ha.

4.8. Giống cà chua chế biến PT18

Giống do Trần Khắc Thi - Dương Kim Thoa, Trương Văn Nghiệp, Trần Ngọc Hùng - viện nghiên cứu rau quả được chọn tạo từ dòng 2026D của trung tâm nghiên cứu phát triển rau châu Á, được công nhận 2004.

Giống có thời gian sinh trưởng 110 -120 ngày, thân trắng, tán gọn, khả năng phân cành ít. Độ Brix 4,8 - 5,2%, dạng quả thuôn dài, màu sắc đỏ đậm, không nứt quả trong tất cả các thời vụ trồng. Giống có khả năng kháng bệnh tốt đặc biệt là bệnh héo xanh vi khuẩn. Năng suất giống cao, ổn định 40- 45 tấn/ha vụ Đông Xuân và 25 - 30 tấn/ha vụ Xuân Hè.

4.9. Giống cà chua lai VT3

Giống do TS. Đào Xuân Thảng, Nguyễn Tân Hinh, Đoàn Xuân Cảnh viện Cây lương thực - Cây thực phẩm Hải Dương la i tạo từ tổ hợp lai ưu tú 15 x VX3, được công nhận tạm thời 2004. Giống có thời gian sinh trưởng 120 -130 ngày. Thuộc dạng hình bán hữu hạn, thân lá có màu xanh đậm. Quả đẹp, tròn, thành quả dày, đỏ thẫm, độ Brix 4,6%. Năng suất vụ Đông sớm 43,4tấn/ha, vụ Đông chính đạt 60 tấn/ha, vụ hè đạt 30,6 tấn/ha. Chống chiụ bệnh sương mai, héo xanh vi khuẩn, virus khá.

4.10. Giống cà chua RED CROWN 250

Giống cà chua RED CROWN 250 do công ty giống cây trồng miền Nam nhập về từ Đài Loan. RED CROWN 250 thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn, sinh trưởng mạnh, phân cành mạnh. Có thể trồng nhiều vụ, dễ ra hoa kết quả trong điều kiện nóng ẩm. Bắt đầu cho thu hoạch 60 - 65 ngày sau trồng, thời gian thu hoạch 40 - 45 ngày. Quả tròn hơi thuôn, nhẵn, chia múi không rõ, quả màu đỏ đẹp, khối lượng quả 70-80 gam. Thịt quả dầy, ít hạt, quả cứng khi vận chuyển. Chống chịu bệnh héo tươi và thối hạch.

Page 123: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

122

RED CROWN 250 phát triển tốt ở vùng đồng bằng phía Nam, thời vụ gieo tháng 10-1 và tháng 5 - 7, trồng khi cây con được từ 4 - 6 lá. Phải làm giàn tỉa cành hợp lý cho thoáng cây. Mùa mưa chú ý bón thêm vôi phòng bệnh thối đáy quả, chú ý phòng bệnh thán thư.

4.11. Giống cà chua lai HT.21

Giống do TS. Nguyễn Hồng Minh, TS. Kiều Thị Thư, bộ môn Di truyền giống, trung tâm nghiên cứu và phát triển giống rau chất lượng cao, ĐH Nông nghiệp I Hà Nội tạo ra bằng phương pháp tạo giống ưu thế lai, được công nhận tạm thời năm 2004.

Thời gian từ trồng đến thu hoạch vụ Đông 62 ngày, vụ Hè 66 ngày, cây thấp, quả màu đỏ thẫm, ra quả tập trung, độ lớn vừa phải, thích hợp cà chua chế biến. Số quả/cây 30-35 quả, khối lượng trung bình quả 66,2 - 70,5g. Tỷ lệ đậu quả 67,8 - 83,6. Hàm lượng chất khô vụ Đông 5,92%; vụ Xuân hè 5,71%. Độ Brix vụ Đông 5,18%, vụ Xuân Hè 4,78%. Năng suất cao đạt 50,6-57,6tấn/ha. Giống có khả năng chịu bệnh virus tốt, mốc sương, đốm nâu ở mức trung bình. Giống trồng trên vùng thâm canh rau các tỉnh phía Bắc, vụ Đông, Đông Xuân và Xuân Hè.

Ngoài các giống kể trên, còn nhiều giống mới XH2,XH5, CHX1, cà chua lai số 9, TN 19, TN 24, T43, T42, TM2016; 2017 cũng được gieo trồng trong sản xuất.

Đối với cà chua xuất khẩu, thị trường EU có quy định số 888/97 về sản phẩm cà chua tươi và cà chua bóc vỏ đóng lọ, chất lượng quả giống phải đạt yêu cầu như sau:

+ Cà chua còn nguyên quả chưa qua sử dụng, vỏ tươi, không vượt quá độ ẩm cho phép, chịu được điều kiện vận chuyển. Hình dạng phải đặc trưng cho từng giống (tròn, dẹt), đường kính quả > 30 mm và < 35 mm cho quả cà chua hình bầu dục, 30 - 40 mm, 40 - 47 mm cho quả cà chua hình tròn. Màu sắc đồng nhất (đỏ vàng, đỏ, vàng sáng, không có các vết màu). Bề mặt quả, mịn, cho phép một số vết sẹo ở phần đầu và đáy quả. Không có các vết nứt, rám nắng, các vết tổn thương do côn trùng và các vết tổn thương cơ học.

+ Cà chua bóc vỏ đóng lọ thì yêu cầu tỷ lệ axít 0,5 - 0,6%; muối ăn 2,0 - 2,5%; độ khô 5 - 6%; trọng lượng cái 50 - 52%.?

5. KỸ THUẬT CANH TÁC

5.1. Thời vụ Cà chua có thể gieo trồng quanh năm ở vùng có nhiệt độ 15-30oC. Nhìn chung cà chua sinh trưởng phát triển tốt vụ Đông các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Vùng Trung Bộ mưa bão nhiều chủ yếu trồng vụ Xuân từ tháng 1- 4. Vùng Đà Lạt - Lâm Đồng cà chua có thể gieo trồng vụ Đông Xuân từ tháng 9 - tháng 4 là mùa khô lạnh.

Page 124: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

123

- Vùng đồng bằng sông Hồng và trung du Bắc Bộ: + Vụ cực sớm gieo vào cuối tháng 6. + Vụ sớm gieo vào tháng 7, tháng 8. Gieo trồng trong vụ sớm cần che cho vườn ươm, che phủ mặt đất để phòng chống rửa trôi phân bón và xói mòn đất. Đặc biệt lưu ý chọn dùng giống chịu nóng ẩm. + Vụ chính gieo trồng vào tháng 9 đến trung tuần tháng 10. + Vụ muộn gieo trồng vào cuối tháng 10 đến tháng 11. Ở thời vụ này nhiệt độ thấp, trời âm u, độ ẩm cao trong thời gian cây sinh trưởng và phát triển. Bệnh hại phát triển mạnh đặc biệt là bệnh mốc sương. Vì vậy năng suất cà chua không cao và không ổn định, nhưng giá bán cao vì thời kỳ thu hoạch vào tháng 3, tháng 4 là lúc thị trường khan hiếm cà chua. + Cà chua Xuân Hè: Gieo vào trung tuần tháng 1 đến tháng 2, thu hoạch vào cuối tháng 5 đến tháng 6. Ưu điểm của thời vụ này là đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đối với cà chua vào những ngày nắng nóng, giá bán cao nên có lợi cho người sản xuất. - Khu vực miền Trung + Vụ Đông Xuân: gieo vào tháng tháng 10 - 1, trồng tháng 12-1 + Vụ Xuân Hè: Gieo vào tháng 1- 2 trồng tháng 2-3 + Vụ Đông (vùng cát hay vùng chủ động tưới tiêu tốt): gieo vào tháng 8 - 9 trồng tháng 9-10.

Gieo trồng cà chua Xuân Hè có nhiều khó khăn hơn vụ Đông: khi gieo hạt nhiệt độ thấp, hạt mọc khó khăn, trong thời gian ra hoa, quả, thu hoạch nhiệt độ cao, mưa nhiều, lượng mưa lớn, độ ẩm không khí cao nên cây bị nhiễm sâu bệnh hại như: sâu đục quả, bệnh héo xanh và mốc sương, bệnh virus và bệnh đốm nâu. Trồng cà chua Xuân Hè nên chọn dùng những giống chịu nóng ẩm, có khả năng đậu quả cao trong điều kiện nóng ẩm và chống chịu sâu bệnh hại. Ở khu vực miền Trung vụ Đông cũng gặp khó khăn, khi gieo nhiệt độ cao nắng nóng, khi thu hoạch gặp mưa bão, cây dễ đổ ngã hoặc bị úng, nguy cơ thất thu cao. Vì vậy cần lựa chọn thời gian gieo trồng thích hợp để tránh rủi ro.

5.2. Vườn ươm

Cây con chống chịu điều kiện ngoại cảnh kém nên phải qua thời kỳ vườn ươm để có điều kiện chăm sóc tốt, giảm công lao động, tận dụng không gian, thời gian và tránh được ảnh hưởng xấu của thời tiết.

1m2 vườn ươm trung bình gieo từ 2,5 - 3g hạt. Sau khi tỉa định cây, mật độ khoảng 800 - 900 cây. Nếu trồng với mật độ từ 1.000 đến 1.200 cây/1 sào Bắc Bộ cần khoảng 4-5g hạt. Để trồng 1 ha cần khoảng 150-200g hạt. Thời vụ gieo cũng ảnh hưởng đến tuổi cây. Bình thường trong vụ Đông chỉ cần 25-30 ngày, trong vụ Xuân Hè thời gian cần trên 30 ngày (35-40 ngày).

Page 125: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

124

5.3. Làm đất và phân bón - Đất trồng: làm đất sạch cỏ dại, tơi xốp, bằng phẳng, tốt nhất để ải 5-7 ngày. Lên luống rộng từ 1,0 -1,2m (trồng 2 hàng và làm giàn, tạo hình), nếu trồng 1 hàng và không làm giàn, tạo hình, chiều rộng luống 0,7-0,8m. Chiều cao luống thay đổi từ 15- 20cm đến 30- 35cm tuỳ theo mùa vụ trồng. Ở những mùa vụ mưa nhiều, những vùng có mực nước ngầm cao, cần làm luống cao. Trong mùa vụ khô, lượng mưa ít thì làm luống thấp hơn. - Phân bón:

Phân hữu cơ (hoai mục): trung bình 20-25 tấn /ha, có thể bón nhiều hơn càng tốt.

Phân vô cơ nguyên chất bón cho 1ha gieo trồng như sau: + 120-130 kgN + 60 - 90 kg P2O5 + 130 -170 kg K2O + 400 kg vôi bột Nếu đất nghèo dinh dưỡng có thể bón thêm 400-500kg NPK hỗn hợp. Phương pháp bón: Vôi bón lúc làm đất để ải (trung hoà độ chua đất và diệt mầm

mống sâu bệnh). Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân và 1/4 khối lượng phân đạm, kali vào hốc trước khi trồng. Phải trộn đều phân vào đất trong hốc ở độ sâu 15-20cm, lấp đất, trồng cây lên trên.

Bón thúc chia 3 lần (bón vào giữa 2 hàng cây/luống, phân cách gốc 5-10cm để tránh cây bị ngộ độc:

+ Lần 1 sau trồng 15 - 20 ngày, bón 1/4 đạm và kali kết hợp xới xáo làm cỏ, vun gốc (nhẹ).

+ Lần 2 sau trồng 30 - 45 ngày bón 1/4 đạm và kali + 1/2 NPK kết hợp với xới xáo, làm cỏ, vun gốc (cao).

+Lần 3 sau trồng 50- 60 ngày bón 1/4 lượng đạm và ka li + 1/2 NPK còn lại Phối hợp tỷ lệ phân hữu cơ và vô cơ là điều quan trọng đảm bảo năng suất và

chất lượng quả ở tất cả các mùa vụ. Tuỳ theo loại đất trồng, giống ngắn ngày hoặc dài ngày mà có liều lượng và cách bón phân thích hợp (đất cát bón nhiều phân, bón sâu và nhiều lần hơn đất phù sa hay thịt nhẹ). Vụ sớm mưa nhiều không nên bón lót trước khi trồng. Khi cây hồi xanh, thời tiết khô ráo thì bón vào giữa 2 hàng hoặc giữa 2 cây trên hàng.

Có thể dùng phân vi sinh cho cà chua theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất.

5.4. Mật độ và khoảng cách Những giống cây sinh trưởng vô hạn, cành lá xum xuê phải trồng thưa hơn giống sinh trưởng hữu hạn. Trồng 2 hàng trên luống, khoảng cách hàng x cây từ 60 x 50cm, mật độ trồng khoảng 3, 3 vạn cây/1ha. Những giống cây có độ cao trung bình, cành lá sinh trưởng trung bình, thuộc loại hình sinh trưởng bán hữu hạn thì khoảng cách hàng x cây từ 60 - 65 x 35cm, mật độ trồng từ 4,0-4,5 vạn cây/ha.

Page 126: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

125

5.5. Chăm sóc - Vun xới:

Số lần xới trong một vụ trung bình từ 2-3 lần. Sau khi cây hồi xanh cần thực hiện ngay công việc xới cho cây. Yêu cầu về kỹ thuật là phá váng lớp đất cho mặt đất tơi xốp, thông thoáng và trừ cỏ dại. Sau trồng 20 - 25 ngày xới lần 2 kết hợp vun đất vào gốc cho cây đứng vững. Phạm vi xới lần này thu hẹp hơn. Sau trồng 35 - 40 ngày (trước khi làm giàn) dùng cuốc nạo vét đất ở rãnh vun cao vào gốc cây. Sau khi làm giàn thì không vun xới nữa. - Tưới nước:

Sau khi trồng phải tưới nước ngay để cây chóng hồi phục. Hàng ngày tưới nước từ 1-2 lần tuỳ theo độ ẩm đất và điều kiện thời tiết. Trước khi cây hồi xanh thì tưới bằng gáo, cách gốc 7-10cm. Khi cây bắt đầu sinh trưởng mạnh thì tưới rãnh là có hiệu quả nhất. Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ 7-10 ngày. Khi tưới đưa nước vào rãnh ngập 1/2 độ cao luống, khi nước thấm đều thì tháo cạn. Độ ẩm đất từ 70-80% là thích hợp cho cà chua sinh trưởng và phát triển. Các thời kỳ cây phân hoá hoa, ra nụ, hoa rộ và thời kỳ có quả, quả phát triển không được thiếu nước. - Bón thúc Cà chua là loại rau có khối lượng thân lá lớn, thời gian sinh trưởng tương đối dài, khả năng ra hoa, quả rất lớn, năng suất trên đơn vị diện tích cao. Khi ra hoa, quả thì cây vừa sinh trưởng sinh dưỡng vừa sinh trưởng sinh thực nên có nhu cầu lớn đối với các chất dinh dưỡng. Vì vậy cần bổ sung kịp thời những chất dinh dưỡng dễ hoà tan. Sử dụng các loại phân khoáng như phân đạm, phân kali và các loại chế phẩm có nguyên tố vi lượng. Số lần bón thúc từ 3-5 lần vào các thời kỳ quan trọng như bắt đầu phân cành, bắt đầu ra hoa, thu quả đợt 1 và sau mỗi lần thu hái. Tuỳ theo tình hình sinh trưởng của cây sau những lần thu hoạch cần bổ sung dinh dưỡng để duy trì sự sinh trưởng và cung cấp dinh dưỡng cho các đợt quả sau. Phương pháp bón thúc: có thể bón ở dạng dung dịch hoặc bón ở dạng khô. Nồng độ dung dịch từ 1- 2 %, tưới cách gốc từ 7-10cm; hoặc bón phân khoáng ở dạng khô, dùng dầm (xén) đào đất cách gốc 7-10cm, sâu 5-7cm bón đạm vào hốc rồi lấp đất. Phương pháp bón khô (bón dúi gốc) thuận tiện, có thể kết hợp với tưới nước. Sau khi bón phân, đưa nước vào rãnh, dùng gáo tưới nước vào gốc cây để hoà tan phân bón. Cần phải tưới đầy đủ, thiếu nước, nồng độ phân bón cao, ảnh hưởng không tốt đến hệ rễ. - Làm giàn, tỉa cành, tạo hình + Làm giàn (staking) chủ yếu đối với cà loại hình sinh trưởng vô hạn để tăng mật độ cây trên đơn vị diện tích, tập trung chất dinh dưỡng nuôi quả, giúp quả to, chín sớm, tạo điều kiện cho cây quang hợp tốt, cây được thoáng khí, chăm sóc dễ dàng và trái không bị thối do tiếp xúc với mặt đất. Thời gian làm giàn phải sớm và kịp thời (sau

Page 127: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

126

trồng 35-40 ngày). Nguyên liệu làm giàn thường là: tre, trúc, nứa tép, cây dóc. Có thể làm giàn kiểu chữ A, chữ X, kiểu hàng rào hay cắm cọc giăng dây thép. Làm giàn khi cây cao 30 - 40 cm, cà chua không leo quấn được phải buộc cây vào giàn để cây khỏi đổ ngã.

+ Có 2 cách tỉa nhánh (pruning): Tỉa nhánh 1 thân (single stem): áp dụng cho ruộng trồng dày, chỉ để 1 thân

chính có 5 -6 chùm hoa thì bấm ngọn. Tỉa nhánh chừa 2 thân (double stem) gồm 1thân chính và thân phụ mọc dưới chùm hoa thứ nhất, bấm ngọn khi thân chính có 5 - 6 chùm hoa và thân phụ có 3 - 4 chùm hoa. Nên tỉa bỏ khi nhánh mới mọc dài 3 - 5 cm, không nên cắt tỉa khi nhánh đã lớn làm cây suy yếu. Kết hợp tỉa bỏ những lá già vào những ngày khô ráo. Chồi nách sinh trưởng rất mạnh vào mùa ẩm ướt nên cần tỉa bỏ kịp thời. Cứ 2-3 ngày vặt chồi 1 lần, mùa khô 5-7 ngày tỉa bỏ chồi 1 lần. Công việc tỉa bỏ chồi nách thường xuyên kết hợp với tỉa bỏ lá già, lá úa vàng, lá bệnh, thu gom và xử lý kịp thời.

Việc tỉa nhánh, bấm ngọn và mật độ trồng có liên quan rất lớn đến năng suất và kích thước của trái cà chua.

Số chùm hoa trên thân chính của loại hình sinh trưởng vô hạn rất nhiều: từ 12 đến 30 chùm. Những chùm hoa ra sau thường không đậu quả hoặc quả nhỏ không đạt tiêu chuẩn thương phẩm. Nên tỉa bỏ những quả phát triển không bình thường, quả dị hình, quả nhỏ không đạt tiêu chuẩn phẩm cấp. - Phòng trừ sâu bệnh hại: Cà chua là cây trồng bị nhiều loại bệnh phá hại gây tổn thất lớn cho người trồng cà chua. Vì vậy cần phòng trừ kịp thời bằng các biện pháp kỹ thuật liên hoàn, thực hiện nghiêm túc quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp. Ưu tiên chọn những giống chịu sâu bệnh hại, thực hiện chế độ luân canh nghiêm ngặt, không trồng cà chua trên đất mà cây trồng trước là những cây trồng họ cà. Bón phân hợp lý và cân đối các yếu tố đa lượng NPK... là những biện pháp kỹ thuật trồng cà chua rất có hiệu quả. - Sâu hại cà chua: Bọ phấn (Bemisia myricae)

Sâu xanh (Heliothis sp.) Sâu đục quả (Maruca testubalisg) Sâu khoang (Spodoptera littura)

Ở vườn ươm cây nhỏ, diện tích nhỏ nên công việc phát hiện, bắt tay hoặc phòng trừ bằng thuốc hoá học là hết sức thuận lợi và có hiệu quả. Ở ruộng sản xuất khi có sâu phát triển mạnh (mật độ sâu từ 1-2 con/cây) sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Trước hết sử dụng triệt để thuốc sinh học BT 0,3%, thuốc thảo mộc (HCĐ 0,3%) phun kịp thời, phun kỹ để không phải phun lạ i. Đối với các loài sâu hại tuỳ mức độ có thể dùng thuốc Sherpa 25EC 0,1%, Trebon 10EC 0,1% phun lên cây khi mức độ hại đạt tới ngưỡng kinh tế. Sử dụng chế

Page 128: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

127

phẩm NPV với nồng độ 3.1012PIB để trừ sâu xanh đục quả, hoặc Sherpa 25EC 0,1% liều lượng 1lít/ha để trừ sâu đục quả và sâu vẽ bùa hại lá. Sau khi phun thuốc 10 ngày trở lên mới được thu hái quả. Trong thực tiễn sản xuất, cà chua bị thất thu do bệnh hại nhiều hơn sâu hại. - Bệnh hại cà chua

+ Bệnh mốc sương Phytophthora infestan (mont) de Bary: Bệnh mốc sương xuất hiện trong điều kiện nhiệt độ từ 18-200C, độ ẩm không khí cao. ẩm độ thấp nhất cho nấm phát triển là 76%, ẩm độ càng cao thì bệnh gây hại càng nhanh. Bệnh xuất hiện từ tháng 11, phát triển mạnh vào tháng 1,2; có những năm thời tiết thuận lợi cho bệnh phát triển, hại cà chua Xuân Hè đến tháng 5. Phương pháp phòng trừ: thực hiện quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp. Khi bệnh xuất hiện cần hạn chế bón đạm, tăng cường bón kali, hạn chế tưới nước. Khi cần thiết phải dùng thuốc BVTV như: dung dịch Booc đô 1%, Zineb 80WP 0,1%, liều lượng 2,5 - 3 kg thuốc thương phẩm cho 1 ha, hoặc Ridomil MZ 72WP, nồng độ 0,15% và liều lượng như trên. + Bệnh héo xanh vi khuẩn (Pseudomonas solanacearum Smith):

Bệnh gây hại ở các vùng trồng cà chua, trên tất cả các giống. Bệnh phát triển thuận lợi ở nhiệt độ 26 -30oC, độ pH tương đối rộng (6,8-7,2). Bệnh phát triển mạnh ở chân đất cao và vàn. Luân canh với cây trồng nước (lúa nước) bệnh giảm nhẹ hơn so với cây trồng cạn. Vi khuẩn gây hại ở tất cả các thời kỳ và nghiêm trọng là thời kỳ hoa và quả. Hiện chưa có thuốc đặc trị, phương pháp phòng ngừa chủ yếu qua kỹ thuật canh tác. Coi trọng công tác chọn tạo giống chống chịu bệnh, xử lý đất, thực hiện chế độ luân canh nghiêm ngặt, thu gom tàn dư thực vật, thân lá cây bị bệnh và xử lý kịp thời. + Bệnh xoăn lá (do virus):

Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ không khí từ 25 - 30oC và ẩm độ không khí cao. Bệnh xoăn lá thường phát triển mạnh ở cà chua Xuân Hè, Hè Thu (Bọ phấn là côn trùng môi giới truyền bệnh). Có khoảng 35 loài virus gây hại trên cà được tìm thấy (Green và Kim, 1988; Martelli và Quacquarelli, 1983) trong đó có các loài quan trọng như sau:

TMV (Tomato mosaic virus) có nhiều dòng gây hại trên cà chua và làm thiệt hại năng suất 20 - 30%, đôi khi đến 50%. Bệnh làm mất màu lá, lá xanh vàng loang lổ (mosaic), lá méo mó (leaf distortion) hay nhăn nheo (leaf punckering).

Giống kháng mang gen Tm1 và Tm2 được bán rộng rãi trên thị trường. CMV (Cucumber mosaic virus) được truyền chủ yếu bởi rệp Aphis gossypii

và Myzus persicae. Triệu chứng nhận diện CMV là phiến lá cà nhỏ như sợi chỉ (fern leaf). CMV cũng có nhiều dòng gây bệnh khác nhau như CMV - RNAL, 2,3,4 và CMV -S (south African strain).

Page 129: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

128

Nhiều loại khác cũng được ghi nhận gây hại trên cà chua như TSWV (tomato spotted wilt virus) làm ngẽn mạch, hoại tử trên thân, trái, gây héo chết cây. TYDV (tomato yellow dwarf virus) làm cây bị lùn, gân lá có màu xanh đậm, mép lá quăn vặn vẹo.

Hiện nay phòng trừ bằng cách dùng giống kháng, nhổ bỏ cây bệnh và diệt tác nhân truyền bệnh để ngừa bệnh virus. Công tác nghiên cứu giống kháng bệnh trên cà chua có khả quan. Tính kháng nhiều bệnh trên cà được kiểm soát bởi gen trội và nhiều giống dòng kháng bệnh được tìm thấy, nhờ đó công tác tạo giống lai kháng nhiều bệnh gặt hái được nhiều thành công đáng kể ở các nước. xử lý hạt giống trước khi gieo, diệt trừ bọ phấn và các côn trùng truyền bệnh thật triệt để ngay tại vườn ươm bằng thuốc bảo vệ thực vật Sherpa 25EC 0,1% hoặc Trebon 10EC 0,1%...

Nhổ bỏ cây bị bệnh và tiêu độc bằng vôi bột. Trồng cà chua ở vụ Hè Thu và Xuân Hè chọn những giống có khả năng chống chịu bệnh xoăn lá như MV1, giống cà chua múi, CS1, Hồng Lan, TN 19...

+ Bệnh đốm nâu (hay còn gọi bệnh úa sớm early blight) do nấm Alternaria solani gây ra.

Nấm bệnh tạo thành những đốm bệnh tròn với viền màu nâu đậm, trung tâm có màu nâu hay đen. Nấm sản xuất độc tố làm lá trở nên vàng, mau rụng. Nấm cũng tấn công trái và gây các vết cháy trên thân, cành hoặc tấn công cây con nơi tiếp xúc với mặt đất làm chết cây. Có thể dùng giống kháng hay xịt định kỳ Maneb hoặc thuốc Copperzin C, Copper B để phòng trị. 6. THU HOẠCH , BẢO QUẢN VÀ ĐỂ GIỐNG 6.1.Thu hoạch

Thời điểm thu hoạch cà chua tùy mục đích sử dụng, thu quả ăn tươi, chế biến, cung cấp cho thị trường... Cà chua bắt đầu cho thu hoạch 75 - 80 ngày sau trồng, cho năng suất kinh tế 30 - 35 ngày sau khi hoa nở và thu hoạch kéo dài 30 - 35 ngày, từ 4 - 7 lứa.

Cà chua ăn tươi đòi hỏi phải có kích thước, màu sắc, hình dáng hấp dẫn, không sâu bệnh và khẩu vị ngon (tỷ lệ axit/đường hài hoà), hương vị thơm ngon, thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng.

Người tiêu dùng và các chuyên gia chế biến mong muốn và yêu cầu cà chua phải chín đỏ nhưng trong thực tế việc tiêu thụ có nơi xa phải vận chuyển lâu nên thu sớm, tiêu thụ gần thu quả muộn hơn. Vì vậy người sản xuất cần hiểu biết và hợp đồng với nhà kinh doanh, những người thu gom sản phẩm xác định thời vụ thu hái quả thích hợp. Theo dõi quá trình chín của cà chua qua các thời kỳ sau đây để quyết định thời điểm thu hái:

Page 130: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

129

+ Thời kỳ quả xanh: quả và hạt phát triển chưa hoàn chỉnh nếu thu quả thời kỳ này và thông qua các phương pháp thúc chín, thì quả chín không bình thường, quả không có hương vị, màu sắc đặc trưng của giống.

+ Thời kỳ chín xanh: chất keo bao quanh hạt được hình thành, quả chưa có màu hồng hoặc màu vàng. Nếu đem thúc chín thì quả sẽ thể hiện màu sắc đặc trưng của giống.

+ Thời kỳ chín vàng: Đỉnh quả xuất hiện màu vàng hoặc hồng chiếm diện tích bề mặt quả khoảng 10%.

+ Thời kỳ chuyển màu: diện tích bề mặt quả có màu đặc trưng của giống chuyển từ màu vàng - hồng - đỏ (diện tích bề mặt quả có 10-30% vàng hoặc đỏ; 30-60% hồng nhạt hoặc vàng, 60-90 % chín vàng hoặc đỏ)

+ Thời kỳ quả chín hoàn toàn (quả chín đỏ): diện tích bề mặt quả có màu đặc trưng của giống, diện tích bề mặt quả có 90-100% màu đặc trưng của giống (đỏ).

Nếu phải chuyên chở đi xa nên thu hoạch vào thời kỳ quả chín xanh. Trước khi bán nếu trái vẫn còn xanh, làm chín trái bằng cách để cà chua nơi kín, xông hơi Ethylene (C2H4) trong 48 giờ trong điều kiện tự nhiên. Muốn rút ngắn thời gian chín người ta còn cho cà chua xanh tiếp xúc với Ethylene từ 12-18 giờ ở nhiệt độ 20oC. Như vậy sẽ giảm được 1/2 thời gian chín so với cà chua chín bình thường.

6.2. Bảo quản Nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng đến quả sau khi thu hái. Cà chua chín ít mẫm cảm với lạnh nên có thể bảo quản ở nhiệt độ 10 -13oC trong 4 ngày, sau đó cà chua vẫn có thể tiếp tục chín khi nhiệt độ tăng lên. Cà chua có màu hồng nhạt có thể bảo quản ở nhiệt độ 5oC trong 4 ngày, sau đó tăng nhiệt độ lên 13-15oC để hoàn thiện thời kỳ quả chín. Bảo quản trong điều kiện tự nhiên: Chọn những quả có khối lượng quả trung bình, khi chín quả rắn chắc. Chọn quả ở thời kỳ chín xanh, thu hái quả về sắp xếp quả ở nơi thoáng mát (không được chất đống) để giảm nhiệt độ trong quả, giảm hô hấp. Dùng vải mềm, giấy mềm lau chùi quả sạch, tách bỏ lá đài, không để lạ i vết nứt, rách. Sau đó đưa quả lên giàn hoặc xếp quả vào khay gỗ, khay nhựa, những khay nhựa có thể trồng lên nhau nhưng không cao quá 1m. Nên phân cấp quả khi bảo quản, thường xuyên kiểm tra trong thời gian bảo quản để giảm thiểu hiện tượng hao hụt khối lượng và chất lượng. 6.3. Để giống

Muốn để giống cà chua, phải đảm bảo nguyên tắc 5 tốt (ruộng tốt, đám tốt, cây tốt, quả tốt, hạt tốt). Chọn quả chín hoàn toàn trên cây tốt, chín sớm, nhiều trái, nên chọn trái để giống ở chùm hoa thứ 2 - 3 là tốt nhất. Trên mỗi chùm nên chọn 2 - 3 quả, các quả còn lại cắt bỏ để chất dinh dưỡng tập trung nuôi quả giống. Quả chín hái về để

Page 131: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

130

thêm vài ngày nữa để đủ độ chín sinh lý rồi cắt ngang trái, gạt hạt (cả phần dịch quả) vào chậu sành hoặc nhựa để lên men 1-2 ngày cho chất dịch keo quanh hạt phân giải mới rửa sạch hạt, đãi hạt lép lửng.

Không nên ủ hạt quá 48 giờ vì hạt có thể mất sức nảy mầm. Hạt rửa xong sấy khô ở 40oC hay phơi trong phòng ở nhiệt độ 15oC ẩm độ không khí 15% cho đến khi ẩm độ hạt còn 6 -7% là đủ. Nên bảo quản hạt trong chai, lọ, túi kín và để nơi khô ráo (hoặc tốt nhất giữ hạt vào tủ lạnh khô có thể bảo quản được 2- 3 năm).

CÂY DƯA CHUỘT (Cucumis sativus L.)

Tiếng Anh : Cucumber Họ bầu bí: Cucurbitaceae Số lượng nhiễm sắc thể 2n = 14 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY DƯA CHUỘT

Dưa chuột hay còn gọi là dưa leo được trồng rất nhiều nơi ở đồng bằng và miền núi Việt Nam. Đây là loại rau trồng vào vụ Xuân - Hè và Thu - Đông nhằm giải quyết giáp vụ rau trong các tháng 3 - 4 và tháng 9 - 10.

1.1. Giá trị của dưa chuột

- Giá trị dinh dưỡng

Dưa chuột là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, được sử dụng phổ biến trong các bữa ăn hàng ngày của nhiều dân tộc trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau như: ăn tươi, nấu chín (nấu canh, xào), muối nén, muối mặn, muối chua hay dầm dấm đóng lọ ... Quả dưa chuột có hàm lượng nước thấp hơn các loại quả khác thuộc họ bầu bí nhưng lại có hàm lượng protein cao. Dưa chuột chứa nhiều loại đường, glucô, một số loại axit amin, beta-carôten, vitamin B1, C, các chất canxi, phốt pho, sắt và kali. Do đặc điểm giàu các nguyên tố khoáng như Kali và ít Natri, dưa chuột kích thích sự lưu thông nước trong cơ thể, có tác dụng lợi tiểu và tái tạo khoáng (Đỗ Tất Lợi, cây thuốc Việt Nam).

Ngoài ra, dưa chuột có công dụng thanh nhiệt, chống khát, giả i độc, tốt cho người tiểu tiện khó, rôm sảy. Dưa chuột có tác dụng ức chế sự hình thành mỡ trong cơ thể, người béo ăn nhiều dưa chuột rất có lợi, đồng thời giảm lượng cholesterol và chống khối u. Bên cạnh đó dưa chuột còn có tác dụng làm đẹp, đắp mặt nạ bằng dưa chuột có tác dụng bảo vệ da và chống lại các nếp nhăn.Theo “Bảng thành phần hóa học thức ăn Việt Nam - 1972”: Trong 100 g dưa leo ăn được có chứa 95% nước; Protein 0,8 mg; gluco 3,0 mg; canxi 23 mg; photpho 27 mg; tiền Vitamin A (caroten) 0,3 mg;

Page 132: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

131

B1 0,03 mg; B2 0,04 mg; PP 0,1 mg; vitamin C 5 mg.

- Giá trị kinh tế:

Dưa chuột là loại rau ăn quả có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Trong vụ Thu - Đông có thời gian chiếm đất 70 - 85 ngày, mỗi ha có thể thu được 15 - 20 tấn quả xanh, trong vụ Xuân - Hè khả năng cho năng suất còn cao hơn. Vì vậy, trong những năm gần đây, dưa chuột là loại cây trồng đã được một số địa phương mạnh dạn đưa vào sản xuất và thu được hiệu quả kinh tế cao.

Một thí dụ điển hình là ở Hợp tác xã Minh Tân, huyện Vũ Bản, Nam Định. Các xã viên thu hoạch dưa chuột vụ Xuân được hơn 1,8 tấn/sào (bằng vụ Đông), giá bán 700 đồng/kg, thu về khoảng 1,3 triệu đồng. Như vậy, chỉ tính riêng trồng dưa chuột xanh xuất khẩu vụ Đông và vụ Xuân đã cho thu nhập gần 70 triệu đồng; thêm 1vụ lúa mùa nữa thì thu nhập cả năm không dừng lại ở con số 80 triệu đồng/năm.

Theo số liệu điều tra của Viện Kinh Tế Nông nghiệp 2005 tại 4 tỉnh phía Bắc gồm Hà Nội, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình cho thấy hiệu quả kinh tế thu được từ việc trồng dưa chuột gấp 1,6 - 7,0 lần so với các loại cây trồng khác như: lúa, ngô, bắp cải, cà chua.

Ngoài ra, dưa chuột còn là nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị thu ngoại tệ lớn. Theo số liệu của tổng cục rau quả Việt Nam, dưa chuột được chế biến chẻ thanh đã xuất khẩu sang thị trường châu Âu, từ năm năm trở lạ i đây trung bình 2.309 tấn mỗi năm.

2. Nguồn gốc, phân bố và phân loại

2.1. Nguồn gốc và phân bố

Cây dưa chuột trong họ bầu bí, có nguồn gốc ở vùng rừng nhiệt đới ẩm thuộc Nam châu Á (ven rừng đông Ấn Độ, Malaca, Nam Trung Quốc), thuộc nhóm cây ưa nhiệt. Trong họ bầu bí, dưa chuột là cây được trồng nhiều hơn. Dưa chuột có mặt ở Trung Quốc rất sớm, hơn 100 năm trước công nguyên), tuy nhiên, hầu hết các loại dưa chuột có ở châu Phi. Nhiều tài liệu cho rằng dưa chuột có nguồn gốc từ chân dãy núi Hymalaya nơi có những loài dưa chuột hoang dại có quan hệ chặt chẽ với loài Cucumis hardi Wichil Royle và đã được đưa đến một số vùng Tây châu Á, Bắc Phi và Nam châu Âu. Dưa chuột được gieo trồng ở Ấn Độ cách đây 3.000 năm Từ đó, được lan truyền khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước vùng nhiệt đới. Vì vậy, dưa chuột là loại rau ưa nhiệt độ ấm áp và những vùng nhiệt đới mát mẻ. Nhiệt độ thích hợp để trồng dưa chuột là 18 - 30oC.

Page 133: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

132

Nước ta, cây dưa chuột có thể trồng được ở tất cả các vùng trong cả nước nhưng thích hợp nhất chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du, miền núi phía Bắc. Một số tỉnh trồng nhiều dưa chuột như Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Hà Bắc, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bình Thuận, An Giang...Một số địa phương, ngoài sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng còn xuất khẩu thu ngoại tệ lớn.

2.2.Phân loại

- Dựa vào đặc điểm chín sớm tức là thời gian tính từ lúc cây mọc cho đến lúc thu quả đầu tiên, các giống dưa chuột ở nước ta được chia thành 3 nhóm:

+ Nhóm các giống chín sớm có thời gian 30 - 35 ngày trong vụ Đông và 35 - 40 ngày trong vụ Xuân. Các giống dưa chuột Việt Nam ở dạng sinh thái đồng bằng đều thuộc nhóm này.

+ Nhóm các giống chín trung bình, có thời gian 35 - 40 ngày trong vụ Đông và 40 - 45 ngày trong vụ Xuân.

+ Nhóm các giống chín muộn, có thời gian 40 - 45 ngày trở lên. Các giống dưa chuột Việt Nam ở dạng sinh thái miền núi thuộc nhóm này.

- Dựa vào mục đích sử dụng, vào chiều dài của quả, có thể chia thành 4 nhóm:

+ Nhóm quả rất nhỏ (hay dưa chuột bao tử):

Nhóm này cho sản phẩm để chế biến là 2 - 3 ngày tuổi. Khối lượng trung bình được sử dụng là 150 - 220 g/quả. Phần lớn các giống thuộc nhóm này là dạng cây 100% hoa cái (Gynoecious) như F1 Marinda, F1 Dunja, F1 Levina (Hà Lan) và một giống của Mỹ. Riêng giống Marinda quả mọc thành chùm 3-5 quả trên mỗi nách lá. Do năng suất cao trên 10 tấn/ha giá trị thương phẩm lớn nên có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên một khó khăn lớn của sản xuất với nhóm quả bao tử là giống dễ bị bệnh, chủ yếu là bệnh sương mai từ trung bình đến nặng.

+ Nhóm quả nhỏ: Quả có chiều dài dưới 11 cm, đường kính 2,5 - 3,5 cm. Nhóm này có thời gian sinh trưởng ngắn (65 - 80 ngày tùy vụ trồng). Năng suất khoảng 15 - 20 tấn/ha (7 - 8 tạ/sào). Ngoài ăn tươi, dạng này sử dụng chủ yếu là chế biến đóng hộp nguyên quả. Đại diện cho nhóm này là giống Tam Dương (Vĩnh Phú) và Phú Thịnh (Hải Dương).

+ Nhóm quả trung bình: Nhóm này gồm hầu hết các giống địa phương trồng trong nước và giống H1 (giống lai tạo). Quả có kích thước 13 - 20 x 3,5 - 4,5 cm. Thời gian sinh trưởng 75 - 85 ngày, năng suất 22 - 25 tấn/ha. Một số giống trong nhóm này (H1, Yên Mỹ, Nam Hà) có thể sử dụng để chẻ nhỏ đóng lọ thủy tinh.

Page 134: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

133

+ Nhóm quả to: Gồm các giống lai F1 của Đài Loan và Nhật Bản. Các giống của Đài Loan có kích thước (25 - 30 x 4,5 - 5) cm, quả hình trụ, màu xanh nhạt, gai trắng.

Các giống Nhật Bản quả dài hơn (30 - 45 x 4 - 5 cm), quả nhẵn, gai trắng, vỏ quả xanh đậm. các giống trên có năng suất khá cao, trung bình đạt 40 - 55 tấn/ha, nếu thâm canh tốt có thể đạt 80 tấn/ha. Quả sử dụng để ăn tươi hay muối mặn. Điển hình là F1 266 của Đài Loan, giống sao xanh, PC1 của viện cây lương thực - thực phẩm Hải Dương. Phần lớn các giống này được sản xuất theo đơn đặt hàng của các công ty nước ngoài.

2.3. Tình hình sản xuất tiêu thụ dưa chuột

Dưa chuột là cây ăn quả thương mại quan trọng, được trồng lâu đời và trên thế giới rất nhiều nước trồng dưa chuột:

Hiện nay, 5 nước nhập khẩu dưa chuột lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ (423.431 tấn), Đức (410.084 tấn), Anh (104.054 tấn), Newtherlands (66.091tấn) và Pháp (59.019 tấn). Trong khi đó, 5 nước xuất khẩu dưa chuột lớn nhất thế giới là: Tây Ban Nha (399.256 tấn), Mexico (398.971tấn), Newtherlands (360.054 tấn), Jordan (64.308 tấn) và Canada (54.967 tấn), như vậy nhiều quốc gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu dưa chuột. Điều đó cho thấy rằng công nghệ chế biến đồ hộp chỉ đang tập trung vào một số nước phát triển như Hoa Kỳ, Canada, Newtherlands...Những nước này, ngoài lượng dưa chuột sản xuất trong nước, đã nhập khẩu một lượng lớn dưa chuột ở dạng quả tươi, sau quá trình chế biến, xuất khẩu dưa chuột dưới dạng đồ hộp.

Dưa chuột là loại rau ăn quả có thể được sử dụng để ăn tươi, giấm hay muối mặn ... Trong những năm gần đây đã có nhiều nước trên thế giới đã xuất, nhập khẩu loại quả này dưới dạng ăn tươi hay chế biến.

Nước ta, dưa chuột được xuất khẩu chủ yếu ở một số tỉnh phía Bắc, một số công ty rau quả Hà Nội, Công ty rau quả Thanh Hoá, Hải Dương... thu lợi nhuận cao. Các mặt hàng dưa chuột xuất khẩu chủ yếu dưới dạng dưa quả tươi, dưa bao tử, dưa chuột muối dưa, dầm giấm... sang một số nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á: Trung Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc...

Page 135: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

134

Bảng 17.

Diện tích, năng suất và sản lượng dưa chuột một số nước trên thế giới năm 2005

STT Quốc gia Diện tích

(ha) Năng suất ( tấn/ha)

Sản lượng (1000 tấn)

Toàn thế giới 2.483.200 168,4 41.807,8

1 Trung Quốc 1.553.100 171 26.559,6

2 Cameroon 100.000 120 1.200

3 Liên Bang Nga 87.000 149,4 1.300

4 Iran 80.000 175 1.400

5 Hoa Kỳ 68.660 141,2 969,4

6 Thổ Nhĩ Kỳ 60.000 287,5 1.725

7 Ukraine 55.000 135,6 7.126

8 Indonesia 50.064 84,6 423,3

9 Pháp 541 234,9 127,1

10 Newtherlands 600 725,0 435

11 Anh 130 472,3 61,5

12 Bỉ 83 277,1 230

13 Đức 40 400 14

14 Iseland 3 333,3 1.000

(Nguồn: Records Copyright FAO 2006 )

Hải Dương và Hưng Yên là 2 tỉnh đứng đầu về diện tích và sản lượng dưa chuột. Năm 1997, tỉnh Hưng Yên có diện tích là 227 ha, sản lượng là 8,7ngàn tấn, và năng suất là 38,14 tấn/ha. Năm 1998, diện tích 196 ha, sản lượng 3,7 ngàn tấn và năng xuất đạt 18,75 tấn/ha. Theo số liệu mới nhất cho thấy, năm 2003 Hưng Yên có 559 ha trồng dưa chuột, sản lượng 94,58 ngàn tấn, năng suất 16,91 tấn/ha, năm 2004 diện tích

Page 136: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

135

đạt 725 ha, sản lượng là 423,9 ngàn tấn, năng suất đạt 19,64 tấn/ha. Năm1995, tỉnh Hải Dương xuất khẩu được 13.000 tấn, năm 2000 đạt 8.000 tấn, năm 2005 đạt 15.000 tấn, dự kiến đến năm 2010 toàn tỉnh sẽ xuất khẩu dưa chuột đạt 20.000 tấn. Năm 1999, tỉnh Thái Bình xuất khẩu dưa chuột đạt 19,5 tấn, năm 2000 là 62,5 tấn, năm 2001 là 72 tấn.

Bảng 18.

Tình hình xuất nhập khẩu dưa chuột một số nước trên thế giới năm 2005

Nhập khẩu Xuất khẩu

Quốc gia Khối lượng (tấn) Quốc gia Khối lượng (tấn)

Hoa Kỳ 423.431 Tây Ban Nha 399.256

Đức 410.084 Mexico 398.971

Anh 104.054 Newtherlands 360.054

Newtherlands 66.091 Jordan 64.308

Pháp 59.019 Canada 54.967

Liên Bang Nga 44.112 Hoa Kỳ 48.460

CH.Czech 43.256 Honduras 38.253

Canada 42.470 Iran 36.948

Thế giới 1.545.819 Thế giới 1.331.695

(Nguồn: Records Copyright FAO 2006)

Cùng với quá trình mở rộng diện tích sản xuất và quy mô xuất khẩu là sự phát triển không ngừng của công nghiệp chế biến dưa chuột. Ngoài các công ty rau quả ở miền Bắc và miền Nam thì miền Trung đang từng bước phát triển công nghiệp chế biến. Ngày 31-7- 2002, công ty TNHH Kim Sơn (thuộc liên hiệp HTX Bến Thành, TP.HCM) khởi công xây dựng nhà máy chế biến dưa chuột xuất khẩu tại khu công nghiệp Phan Thiết (TP.Phan Thiết, Bình Thuận). Nhà máy nằm trong dự án trồng và chế biến dưa chuột xuất khẩu theo qui trình, công nghệ tiên tiến của Mỹ, được triển khai giai đoạn đầu trên diện tích 341 ha với tổng vốn đầu tư 48 tỉ đồng. Riêng nhà máy chế biến dưa chuột được đầu tư 20 tỉ đồng, trang bị máy móc thiết bị, bồn muối dưa theo tiêu chuẩn Mỹ, dự kiến hoàn thành sau 5 tháng. Sau khi hoàn thành, công xuất nhà máy sẽ đạt 4.000 -16.000 tấn dưa chuột xuất khẩu/năm (Trần Khắc Thi, 2003)

Page 137: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

136

2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC 2.1. Bộ rễ

Rễ dưa chuột thuộc loại rễ chùm. Khi hạt mới mọc, rễ chính (rễ non) do phôi rễ của hạt vươn dài ra, sau 5 - 6 ngày mới mọc rễ phụ. Rễ chính tương đối phát triển, phân bố chủ yếu ở tầng đất canh tác có độ sâu từ 0 - 30 cm, rộng 50 - 60 cm. Rễ chính có thể ăn sâu từ 60 - 100 cm trong điều kiện lý tưởng (đất có tầng canh tác dày, nhiều mùn, tơi xốp, thoáng khí). Rễ phụ phân bố tương đối nông, chủ yếu ở độ sâu 0 - 20 cm. Tốc độ phát triển của bộ rễ mạnh hay yếu, nhanh hay chậm, nhiều hay ít phụ thuộc vào chất lượng hạt giống, nhiệt độ, ẩm độ lúc gieo. Thời kỳ cây con rễ sinh trưởng yếu, khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất lợi bất lợi kém.

Bộ rễ ưa ẩm nhưng khả năng chịu úng, chịu hạn kém. Dưa chuột có nguồn gốc nơi ẩm ướt nên rễ chịu hạn yếu hơn dưa hấu, bí ngô và

dưa thơm. Nồng độ phân quá cao có thể làm cho bộ rễ vàng, thân đen, rễ phụ ra ít, rễ ngắn, dẫn đến rễ bị ảnh hưởng xấu hoặc bị thối, đồng thời ảnh hưởng đến các bộ phận trên mặt đất, thân lùn, lá nhỏ, lá mầm dễ bị rụng và rụng sớm. Đặc điểm rễ dưa chuột như vậy nên khi trồng phải chọn đất nghiêm ngặt, chống úng, chống hạn cho cây. Thời kỳ cây con nên cung cấp nước, phân đầy đủ và chú ý nồng độ phân tăng theo thời kỳ sinh trưởng. Bộ rễ tái sinh kém nên không thông qua thời kỳ vườn ươm. 2.2. Thân Thân dưa chuột, thuộc loại thân thảo một năm, có đặc tính leo bò. Độ dài thân chính phụ thuộc vào giống, điều kiện ngoại cảnh và kỹ thuật chăm sóc. Chiều cao cây khoảng từ 1,3 - 3m, dài nhất có thể đạt trên 3m.

Trên thân chính có khả năng phân nhánh cấp 1, cấp 2, 3...ở mỗi nách lá/thân mọc ra tua cuốn phân nhánh hoặc không phân nhánh. Trong kỹ thuật tỉa cành cần giữ lại 1-3 cành cấp 1 tuỳ điều kiện thâm canh cụ thể . Ở các đốt trên thân chính có lớp tế bào có khả năng phân chia mạnh làm cho lóng vươn dài. Vì vậy trong kỹ thuật trồng có thể điều chỉnh lóng cân đối với thân.

Chiều dài thân, đường kính thân chính, các nhánh phát triển trên thân chính phụ thuộc vào đặc điểm của giống, điều kiện ngoại cảnh, và kỹ thuật canh tác: Giống chín sớm có độ dài thân ngắn, phân cành ít hơn so với giống chín trung bình và chín muộn. Điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi thì chiều cao thân chính thường không đạt tới chiều cao của giống.

Đường kính thân là một chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng. Đường kính thân quá to hoặc quá nhỏ đều không có lợi, giống chín trung bình và chín muộn đường kính thân đạt khoảng 1cm là cây sinh trưởng tốt và cân đối. Yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng đường kính thân là khả năng cung cấp nước, phân bón vào thời kỳ trước

Page 138: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

137

khi ra hoa cái, nếu tác động sau thời kỳ này thì không có hoặc ít có hiệu quả đến việc tăng trưởng của đường kính thấp. 2.3. Lá

Lá dưa chuột gồm lá mầm và lá thật: 2 lá mầm (nhú ra đầu tiên) có hình trứng, tròn dài, mọc đối xứng qua trục thân, làm nhiệm vụ quang hợp, tạo vật chất nuôi cây và ra lá mới. Kích thước của lá mầm phụ thuộc vào phẩm chất hạt giống, khối lượng hạt to hay nhỏ, nhiệt độ, độ ẩm đất lúc hạt nãy mầm. Nếu 2 lá mầm bị ảnh hưởng xấu bởi những điều kiện nói trên thì nó phát triển không đầy đủ và cân đối, có thể dị hình. Thời gian tồn tại của đôi lá mầm tương đối dài, có khi thu quả lứa đầu mới rụng. Số lượng lá (tính từ lá thật thứ nhất đến hoa cái đầu tiên) là đặc trưng của giống.

Nách lá là nơi phát sinh ra lá, tua cuốn, hoa đực, hoa cái và rễ bất định. Lá thật là những lá đơn có cuống dài, lá có 5 cạnh, chia thuỳ nhọn hoặc có dạng

chân vịt , 2 mặt phiến lá, cuống lá đều có lông. Tốc độ ra lá thời kỳ cây con chậm nhất là lúc gặp rét. Màu sắc lá thay đổi màu xanh vàng hay xanh thẫm.

Sự phát triển của lá về số lá, diện tích lá thật của dưa chuột ở thời kỳ cây con rất chậm, sau đó tăng dần và đạt tối đa vào thời kỳ thu quả và giảm đi ở giai đoạn già cỗi.

2.4. Hoa Hoa dưa chuột thuộc loại hoa đơn tính, thụ phấn khác hoa (giao phấn) nhờ côn

trùng, nhờ gió. Hoa mẫu 5, bầu thượng, có màu vàng, đường kính từ 2 - 3cm. - Đặc điểm giới tính: Hoa đực có cuống dài hơn hoa cái. Giới tính của dưa chuột biều hiện rất đa dạng. + Hoa đơn tính cùng gốc (monoecious) tức hoa đực và hoa cái trên cùng một cây. + Trên cây chỉ có hoa cái (gynoecious): trong thực tế trên đồng ruộng dạng hình này ít khi thấy quần thể dưa chuột chỉ có hoa cái, + Dạng hình hoa đơn tính khác gốc (dioecious): trên cây có thể xuất hiện tất cả hoa đực hoặc tất cả hoa cái. + Dưa chuột cũng có thể sinh ra dạng hình hoa cái và hoa lưỡng tính cùng gốc

(gynomocious), dạng hình cơ bản là trên cây ra hoa cái hoặc tập tính cây ra hoa cái và nhưng mang thêm một số hoa lưỡng tính.

Hoa dưa chuột chủ yếu là đơn tính cùng gốc (đơn tính đồng chu) - hoa đực hoa cái trên cùng một cây nên hiểu là hoa cái thường chiếm ưu thế hơn hoa đực.

Hoa dưa chuột thụ phấn nhờ côn trùng (ong mật) trừ những hoa là hoa lưỡng tính. Dưa chuột không thể giao phấn với dưa thơm (C.melo)

Page 139: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

138

Đặc điểm giới tính này cũng phụ thuộc nhiều vào giống, các yếu tố ngoại cảnh như chế độ ánh sáng, nhiệt độ, chất dinh dưỡng và nồng độ CO2...Nhiệt độ 18oC (6oC), thời gian chiếu sáng 10 -11h/nồng độ CO2 thích hợp, dinh dưỡng đầy đủ thì hoa cái xuất hiện sớm và nhiều.

- Đặc tính ra hoa: Hoa đực ra trước, hoa cái ra sau, hoa cái có xu hướng ra trên thân chính, ở

nhánh ra muộn và ít nên thường tỉa nhánh. Hoa đực mọc thành chùm trên nách lá, hoa cái mọc đơn nhưng vị trí cao hơn hoa đực. Hoa cái có cuống ngắn và mập hơn hoa đực

Nắm được đặc tính ra hoa của dưa chuột khi tạo hình nên để 2 - 4 thân.

2.5. Quả và hạt. - Quả dưa chuột thuộc loại quả thịt (quả do một số lá noãn tạo thành, thường

mềm hay nạc, không mở. Vỏ quả ngoài thường dai, vỏ quả giữa và vỏ quả trong hoá thịt (cơm quả) chứa nhiều dịch. Quả thuôn, dài, có 3 múi, hạt đính vào giá noãn.

- Hình dạng, kích thước, khối lượng, màu sắc phụ thuộc vào giống và có sự sai khác rất lớn. Quả dưa chuột hầu hết các giống có màu xanh, xanh vàng, có xen kẻ các chấm trắng hoặc đen ta thường gọi là gai quả, gai quả có thể màu nâu, đen hay trắng. Khi chín vỏ quả nhẵn hoặc có gai, quả màu xanh khi chín thương phẩm (thời điểm thu hoạch để ăn hoặc chế biến) thường phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Quả nhanh chuyển màu xanh sang màu vàng là nhược điểm của giống

- Đường kính quả là chỉ tiêu đánh giá chất lượng, giá trị sử dụng và thị hiếu người tiêu dùng. Năng suất dưa chuột đóng hộp được đánh giá bởi đường kính quả và khối lượng quả.

Trong quá trình trồng dưa chuột thường xuất hiện những hiện tượng quả dị dạng (quả cong, quả eo, phát triển không cân đối, quả không hạt, quả đắng, quả có sẹo...). Có thể là do yếu tố nội tại nhưng chủ yếu do ảnh hưởng lớn của điều kiện ngoại cảnh: nhiệt độ, ẩm độ, dinh dưỡng trong hoa, trong thời kỳ hình thành hạt (quá cao hoặc quá thấp) sự thay đổi quá lớn sẽ sản sinh ra quả dị hình (tức do ảnh hưởng thời kỳ hình thành quả - sự biến đổi quá mạnh trong thời kỳ phôi thai).

Ví dụ: Khi trồng trong nhà kính quả thường bị dị hình, độ ẩm thay đổi thất thường, nhiệt độ quá thấp dẫn đến quả không cân đối. Khi không có côn trùng đầy đủ sẽ hình thành quả không hạt.

Khi trồng quả thụ phấn muộn sau hoa nở rộ 1 hoặc 2 ngày sẽ dẫn đến quả bị cong. Cuối vụ Xuân thường thiếu nước kết hợp nhiệt độ cao làm quả bị đắng, thiếu dinh dưỡng và nước quả cũng sẽ bị cong và không cân đối. Cũng có thể do một số loại côn trùng gây hại (dòi đục quả, ong chích quả, rệp, nhện...)

Do vậy cần gieo trồng thời vụ thích hợp, có chế độ chăm sóc tốt để quả phát triển bình thường.

Page 140: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

139

- Hạt hình bầu dục hay thuôn dài, hình trứng, số lượng hạt nhiều hay ít phụ thuộc vào giống (1 quả có số hạt biến động 10 - 150 hạt tùy giống). 3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH. 3.1. Nhiệt độ

Dưa chuột có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới, ưa khí hậu ấm áp nhưng có thể nãy mầm ở nhiệt độ tối thiểu 12-15,0oC, tối đa 35 - 40oC, tối thích 25 - 30oC. Nhiệt độ thích hợp cho quá trình ra lá 20oC, nhiệt độ dưới 15oC kéo dài cây sinh trưởng rất khó khăn, đốt ngắn, hoa nhỏ, hoa đực màu nhạt

Tổng tích ôn từ lúc gieo đến lúc thu hoạch là 900oC, thu hết 1650oC. Liên hệ thấy rằng nước ta dưa chuột có thể được trồng ở các vùng trong cả nước đặc biệt là trung du và vùng núi. Tuy nhiên dưa chuột cũng như các cây trong họ bầu bí rất mẫn cảm với sương giá, đặc biệt là nhiệt độ thấp nhất về ban đêm 3 - 4oC. 3.2. Ánh sáng

- Dưa chuột ưa ánh sáng ngày ngắn (thời gian chiếu sáng trong ngày 10- 12 giờ), nắng nhiều có tác dụng tốt đến hiệu suất quang hợp làm tăng năng suất và phẩm chất quả, rút ngắn thời gian sinh trưởng (TGST ngắn)

- Cường độ ánh sáng thích hợp là 15.000 - 17.000lux. Ngoài thời gian chiếu sáng, dưa chuột rất mẫn cảm với thành phần ánh sáng.

3.3. Yêu cầu nước và độ ẩm - Dưa chuột yêu cầu độ ẩm cao đứng đầu trong họ bầu bí: Độ ẩm đất thích hợp

là 85- 95%, độ ẩm không khí là 90 - 95% (dưa chuột yêu cầu độ ẩm lớn hơn cả cải bắp).

- Dưa chuột là cây chịu hạn rất yếu: Thiếu nước cây không những sinh trưởng kém mà còn tích lũy hàm lượng Cucurbitaxina là chất gây đắng trong quả (do caroten C có tác dụng kháng khối u, hơi độc).

Thời kỳ cây ra hoa, tạo quả yêu cầu nước cao nhất. 3.4. Chất dinh dưỡng

- Đất trồng dưa chuột thích hợp là đất cát pha, thịt nhẹ, pH 5,5 - 6,5 - Dinh dưỡng yêu cầu: K > N > P. Cây dưa chuột rất mẫn cảm với sự thiếu hay

thừa dinh dưỡng khoáng. - Phân chuồng có tác dụng tăng năng suất dưa chuột rõ rệt.

4. GIỐNG DƯA CHUỘT 4.1. Phân nhóm các giống dưa chuột (dựa vào kích thước quả)

Page 141: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

140

Các giống dưa chuột nước ta phần lớn đều là giống địa phương. Các giống này được phân ra 2 nhóm theo quy cách sử dụng thông qua kích thước quả.

- Nhóm quả ngắn (vùng trung du): có giống phổ biến là Tam dương - Vĩnh Phú Chiều dài quả 10cm, đường kính 2,5 - 3 cm, thời gian sinh trưởng ngắn (65 -80 ngày), năng suất thấp (12 - 15 tấn/ha), dạng quả ngắn này rất thích hợp cho đóng hộp, làm dấm.

- Nhóm quả trung bình (thuộc nhóm sinh trưởng vùng đồng bằng) gồm các giống Yên Mỹ, Thủy Nguyên (Hải Phòng), Yên Phong, Quế Võ (Hà Bắc): Quả có kích thước dài15 -20cm, đường kính quả 3,5 - 4,5 cm, thời gian sinh trưởng 75 - 85 ngày, năng suất 22 - 25 tấn /ha. Các giống này thường để ăn tươi hay chẻ nhỏ để đóng vào lọ thủy tinh. Nhìn chung các giống dưa chuột Việt Nam đều có đặc điểm gai đen, nâu. Đặc điểm di truyền này là nguyên nhân làm quả ngả màu vàng, quả để giống có màu vàng hay nâu. Các giống Việt Nam này có chất lượng tốt, chống được bệnh sương mai trung bình, chống được bệnh phấn trắng cao.

- Nhóm quả dài: + Dạng quả dài, to: Là các giống của Nhật Bản đem sang trồng để muối mặn.

Đây là các giống lai F1, kích thước 30 - 40 x 4 - 6cm, khối lượng quả 200 - 400g (khối lượng quả chín khoảng 700g/quả). + Dạng quả nhẵn: Là các giống F1 của Đài Loan.

+ Kích thước quả nhỏ hơn nhóm quả ngắn (25 - 30 x 4 - 5)cm, loại này dùng để ăn tươi, quả có màu xanh hay màu xanh đậm, gai trắng.

+ Năng suất cao: trung bình 30 - 35 tấn/ha, thời gian sinh trưởng 90 - 110 ngày. + Bệnh hại: Thường bị bệnh sương mai nặng, phấn trắng nhẹ.

4.2. Một số giống dưa chuột trong sản xuất

Các giống dưa chuột bao tử hiện nay chủ yếu thuộc dạng cây có 100% số hoa cái (Gyncoeius) như F1 Marinda, F1 Dunja, F1 Levina (Hà Lan) và một giống của Mỹ. Riêng giống Marinda quả mọc thành chùm (3- 5 quả ), trên mỗi nách lá. Mặc dù năng suất không cao (2 - 5 tấn/ha) song giá trị thương phẩm lớn nên trồng các giống này vẫn có hiệu quả .

+ F1 PC1: do Viện CLT - CTP lai tạo, được Hội đồng khoa học công nghệ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép khu vực hóa đầu năm 1998. PC1 sinh trưởng ngắn ngày (85 - 90 ngày) thu quả sớm (sau mọc 35 - 40 ngày), sinh trưởng khỏe, năng suất cao (35 - 40 tấn/ha), quả nhỏ (kích thước 9 x 3,2 cm, trọng lượng 100 - 110 g/quả, thành quả dày (1,2 cm), thích hợp chế biến xuất khẩu và bảo quản, kéo dài thời gian tiêu dùng trong nước. Thu non có thể chế biến thành dưa bao tử, sau thu hoạch quả ít bị vàng. Dưa chuột PC1 phẩm chất tốt hơn các giống địa phương, ăn tươi

Page 142: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

141

khẩu vị giòn thơm, chống chịu khá với các bệnh nguy hiểm như : sương mai, phấn trắng héo rũ. PC1 có thể trồng được cả 2 vụ Xuân Hè (gieo 20-25/2) và Thu - Đông (25/9 -1/10) đều cho năng suất cao.

+ F1 Sao xanh 1: từ tổ hợp lai DL15 x CP1583 được công nhận giống quốc gia 2000. Những đặc tính chủ yếu của giống Sao xanh 1 là sinh trưởng ngắn ngày (85 - 90 ngày), thời gian thu hoạch kéo dài 45 - 50 ngày, sinh trưởng khỏe, thân mập, lá xanh đậm, quả to, đường kính quả 3,5 - 4,0 cm, trọng lượng bình quân 200 g/quả, quả có cùi dày (1,3 cm), ít bị vàng sau thu hoạch, quả có phẩm chất tốt, giòn thơm, được người tiêu dùng ưa thích. Năng suất bình quân cao 35 - 40 tấn/ha. Sao xanh 1 chống chịu khá với bệnh nguy hiểm: sương mai, phấn trắng, héo rũ và virus.

+ Giống dưa chuột Phú Thịnh phục tráng: là giống do viện Rau quả Hà Nội phục tráng theo phương pháp hỗn hợp và là giống dưa chuột chế biến công nghiệp, được công nhận 2004. Giống có thời gian sinh trưởng 70 - 90 ngày (vụ Xuân); 65-85 ngày (vụ Đông). Chiều cao cây từ 158 - 250cm, lá màu xanh vàng, quả màu xanh trắng, chiều dài quả 6-9cm, đường kính quả 2,5 - 3,0cm, 17-20 quả/cây. Tỷ lệ quả đạt tiêu chuẩn chế biến từ 87- 90%. Giống có khả năng chống chịu với bệnh phấn trắng, nhiễm nhẹ bệnh sương mai và virus. Năng suất ổn định ở cả 2 vụ Xuân Hè và thu Đông ở mức 28 - 35 tấn/ha.

+ F1 PC4 : Con la i của tổ hợp lai (DL7 x TL15) cho kết quả tốt về cả đặc tính sinh học và năng suất, chất lượng tốt thích hợp ăn tươi, thái lát và đặc biệt đạt tiêu chuẩn chế biến muối mặn xuất khẩu. PC4 có thời gian sinh trưởng trung bình từ 85 - 90 ngày cây sinh trưởng và phát triển khỏe. Chỉ sau 42 - 45 ngày sau khi trồng đã có thể thu hoạch, thời gian thu quả kéo dài 40 - 45 ngày. Quả dưa có màu xanh đậm, gai quả đen, chiều dài quả 20 cm, cùi dày 1- 1,2 cm, đường kính 2,8 - 3,0 cm. Lá dưa có màu xanh đậm, cứng, khỏe và bền, không bị vàng úa sớm. PC4 được gieo trồng chủ yếu vào 2 vụ Xuân - Hè và Thu - Đông. Trồng đúng vụ, dưa rất sai quả, bình quân mỗi cây đạt 6,5 - 7,2 quả, trọng lượng quả trung bình 210 - 220 g/quả, năng suất mỗi cây khá cao 1,34 - 1,54 kg/cây (tức gần 48 tấn/ha/vụ), có nơi đạt trên 50 tấn/ha. Không chỉ có năng suất cao, PC4 còn đạt chất lượng khá cao: độ chua thấp, ăn giòn, mùi thơm đặc trưng, hấp dẫn, dễ bảo quản và kháng tương đối tốt cả 4 loại bệnh khác nhau sương mai, phấn trắng, héo rũ và virus.

+ Giống dưa chuột F1 Happy 14: do công ty giống cây trồng nhập nội từ Hà Lan. Giống sinh trưởng khoẻ, lóng dài, bò xa, thân lá to. Thời gian sinh trưởng dài, cho thu hoạch 40 - 60 ngày. Cây thuộc loại hình 100% cây cái nên tiềm năng năng suất cao, hoa cái phải qua thụ phấn nên trong quần thể phải có 10 -15% cây đực cho phấn. Quả thẳng dài 18 - 22cm. Khối lượng quả 200 - 220g, màu xanh, gai màu trắng, ruột nhỏ, ít hạt, ăn ngon, hợp thị hiếu. Năng suất quả 30 - 40tấn/ha, trong điều kiện thâm canh và có làm giàn có thể đạt 60 tấn/ha.

Page 143: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

142

Ngoài ra, công ty sản xuất giống Trang Nông đã lai tạo được một số giống như: TN83, TN81, TN82, TN63, TN78, TN20 ... Những giống này đã được khảo nghiệm rộng rãi ở các tỉnh phía Nam và từng bước được đưa vào sản xuất.

5. KỸ THUẬT CANH TÁC 5.1. Thời vụ - Miền Bắc và các tỉnh khu vực miền Trung: có thể gieo trồng 2 - 3vụ/năm. + Vụ Xuân là vụ chính, gieo cuối tháng 1, 2 thu vào cuối tháng 3,4. + Vụ Hè Thu: Gieo liên tục từ tháng 4 - 7 thu liên tục từ tháng 6 - 9. + Ngoài ra còn có vụ Đông: gieo vào tháng 9,10 thu cuối tháng 11 - 12. - Các tỉnh phía Nam: Gieo cuối tháng 4 đầu tháng 5 thu vào tháng 6 - 7. 5.2. Làm đất, lên luống, bón phân, gieo hạt

- Làm đất: Do bộ rễ của dưa chuột phát triển yếu nên phải làm đất kỹ: Đất đảm bảo yêu cầu tơi, xốp, đủ ẩm và sạch cỏ dại.

- Lên luống: Luống lên rộng 1,5 m, mặt luống 1,2 cm, rãnh 0,3 cm), cao 20 -30 cm

- Lượng phân bón/ha và cách bón: Phân chuồng 20 tấn + 70kgN + 40kg P2O5 + 90kg K2O

(150 kg urê + 200kg lân supe + 200kg Kali sul phat) Vôi bột: 400 - 500kg, nếu pH thấp dưới 5 có thể bón 600 - 800 kg vôi bột. Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân và 50% tổng lượng N và K vào hốc, trộn đều, lấp 1 lớp đất nhẹ.

- Gieo hạt: + Cách gieo: Hạt được gieo theo 2 hàng/luống với khoảng cách 60 x 40cm, mật

độ 30 ngàn cây/ha, mỗi hốc gieo 2 hạt, nếu giống F1 chỉ gieo 1 hạt . + Lượng hạt gieo: Lượng hạt giống gieo/ha: 1,3kg (giống Việt Nam), 0,8 -1,0kg

(F1) Chú ý vụ xuân nếu gieo gặp rét thì ủ cho hạt nứt nanh mới đem gieo, mùa mưa nếu làm vụ sớm cần gieo vào bâu đất, khi hết mưa lụt thì đem ra ruộng trồng. 5.3. Chăm sóc

- Xới vun + bón thúc: + Bón thúc lần 1: kết hợp vun xới với bón thúc đợt 1 lúc cây có 4 - 5 lá thật

gồm 25% tổng số N + K, nếu thiếu ẩm thì nên tưới rãnh (cho nước vào ngập rãnh 4 - 6 giờ thì tháo ra), khi rãnh khô, đất ở rãnh còn ẩm tiến hành cắm giàn nuôi cây. + Bón thúc lần 2: Khi thu quả lứa đầu gồm 25% tổng lượng N và K còn lại. Chú ý: Bón phân giữa 2 hàng cây và lấp đất, kết hợp làm cỏ, tỉa lá già ở gốc. Nếu có nước phân chuồng pha loãng tưới cho dưa chuột thì thời gian thu quả sẽ kéo dài hơn.

Page 144: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

143

- Cắm giàn (cắm dóc): Cắm que theo vị trí cây 2 hàng/luống theo kiểu dấu nhân (X); sau khi cắm, dùng dây mềm buộc ngọn dưa lên giàn (làm thường xuyên để phân bố đều ngọn/giàn). 5.4. Phòng trừ sâu bệnh Các bệnh thường gặp ở dưa chuột:

- Bệnh sương mai là bệnh gây hại nguy hiểm nhất ở tất cả các thời kỳ ở tất cả các vụ trồng (trong điều kiện nhiệt độ thấp < 20oC và ẩm độ cao). Bệnh gây các vết thâm đen trên lá do làm chết các tế bào, sau đó lá khô. Dùng Boócđô 1% hoặc Zineb 80% pha loãng với nước theo nồng độ 0,4% (400g thuốc cho 100 lít nước lã) phun phòng và trừ bệnh). Ngoài ra, có thể dùng Ridomil MZ 72 WP phun 1 lần, lượng 1,5kg/ha hoặc Alliette 80WP phun 2 lần, lượng 2,0 kg/ha/1 lần phun.

- Bệnh phấn trắng: Bệnh xuất hiện giữa hoặc cuối thời kỳ sinh trưởng. Các giống địa phương ít bị bệnh. Các giống nhập nội nhiễm nặng hơn. Dùng Bayleton (Triadiamefon) sữa 25% với 200-250g để pha tưới cho 1 ha dưa chuột. Ngoài ra có thể dùng Sumi - 8 loại bột thấm nước 12,5% pha với nước nồng độ 0,01% để phun 5.5. Thu hoạch

- Khi quả đậu được 7 - 10 ngày tuổi có thể thu hoạch không nên để quá già sẽ ảnh hưởng đến lứa quả sau. Nên thu quả vào buổi sáng để chiều tưới nước phân.Thời kỳ quả rộ có thể thu 2 - 3 ngày 1 lần.

5.6. Để giống (sản xuất hạt giống)

- Ruộng để giống: Ruộng để giống phải cách ly 2 km. - Số lượng quả: Mỗi cây để 3 - 4 quả giống (sau khi thu quả lứa đầu, để những

quả giữa thân làm giống), các hoa cái ra sau sẽ vặt hết để tập trung dinh dưỡng nuôi quả giống.

- Lấy hạt giống: Khi quả đậu 25 - 30 ngày tuổi có thể thu được quả giống, để chín sinh lý 4 - 5 ngày, bổ dọc quả, lấy thìa cạo toàn bộ hạt cho vào chậu nhựa hay sành sứ 1 ngày đêm sau đó đãi kỹ, phơi 2 - 3 nắng nhẹ, cất vào lọ thủy tinh, chum vại, sành sứ, đậy kỹ ( các giống F1 không để giống cho vụ sau được).

Page 145: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

144

CÂY DƯA HẤU (Citrullus vulgaris Scharad hoặc Citrullus lanatus (Thum.) Mansf.)

Tiếng Anh: Water melon Họ bầu bí: Cucurbitaceae

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY DƯA HẤU 1.1. Nguồn gốc và giá trị dưa hấu - Nguồn gốc:

Dưa hấu được xác định là khu vực nhiệt đới Trung Phi, một phần phía Bắc sa mạc Sahara, khô hạn. Dưa hấu được trồng sớm nhất ở Châu Âu thế kỷ thứ VI. Có lẽ cũng từ đây dưa hấu được vào nước ta qua sự giao lưu văn hóa và hàng hóa thương mại. - Giá trị dinh dưỡng:

Dưa hấu có giá trị dinh dưỡng khá nhờ hàm lượng đường trong trái cao (5 - 10%) và chứa nhiều vitamin A và C. Dưa hấu ngoài việc ăn tươi, làm rượu (ở Nga) còn là nguồn nước quan trọng ở vùng sa mạc. Theo Salunkhe, 1984 thành phần dinh dưỡng chính của cây dưa hấu/100g phần ăn được có nước 94g nước; Carbohydrat 5,3g; 5mg Ca; 8mg P; 0,3mg Fe; 5mg Na; 120mg K; 0,02mgVitamin B; 0,2mgVitamin PP; 5mgVitamin C; chất béo (không đáng kể). - Giá trị kinh tế:

+ Dưa hấu là một mặt hàng xuất khẩu, có ý nghĩa chiến lược, thu ngoại tệ (đã xuất khẩu với khối lượng lớn, góp phần tích cực trong kim nghạch xuất khẩu rau quả ở nước ta: năm 1998 xuất khẩu 11.300tấn thu được 1,7 triệu đô la Mỹ). + Dưa hấu là loại rau quả ngắn ngày, nhưng cho năng suất cao (20 - 25 tấn/ha), thích hợp trong cơ cấu cây trồng ở nước ta (đặc biệt thay thế cây lúa cưỡng trong vùng canh tác khó khăn, phát huy thế mạnh của vùng, mang lại giá trị kinh tế cao). + Dưa hấu có giá trị hàng hoá cao: Đặc biệt dưa hấu là loại hoa quả có thể bảo quản với thời gian tương đối dài, dễ vận chuyển đi xa nhờ vỏ ngoài cứng nên giá trị hàng hóa cao. 1.2. Các vùng trồng

Dưa hấu được trồng ở nước ta từ lâu, các vùng trồng dưa hấu truyền thống trồng tập trung 3 vùng chính là Đồng bằng sông Hồng, Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long, thường cung cấp lượng hàng hóa nhất định để tiêu thụ nội địa và xuất khẩu: Hải dương, Hưng Yên, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và các tỉnh ĐBSCL đều có trồng dưa hấu, nhưng tập trung nhiều các tỉnh, huyện như Sóc Trăng (huyện Phú Tâm, Đại Tâm, Long Phú), Bạc Liêu (HồngVân), Tiền Giang (Gò

Page 146: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

145

Công Tây, Chợ Gạo), Long An (Tân Trụ), Kiên Giang (Hà Tiên, Hòn Đất), Trà Vinh (Cầu Ngang), Cần Thơ (Ô Môn, Vị Thanh), Đồng Tháp (Lấp Vò); An Giang (Châu Phú), Cà Mau (Năm Căn) ... 2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC 2.1. Bộ rễ

Rễ dưa hấu thuộc loại rễ chùm, bộ rễ phát triển mạnh, bao gồm rễ chính và rễ phụ. Rễ chính có khả năng ăn sâu tới 0,6 -1m nhưng chủ yếu tập trung ở độ sâu 30cm nên khả năng chịu hạn tốt. Rễ phụ có khả năng nhân nhánh mạnh, thời kỳ trưởng thành có bán kính tối đa 50 - 60cm, ăn sâu 20 - 30cm, lan rộng khắp cả mặt luống, do đó không nên đi lại trên mặt luống.

2.2. Thân

Thân thảo hàng năm, thân chính dài từ 1- 6m, có nhiều mắt đốt, mỗi đốt mang 1 lá, 1 chồi nách và 1 vòi bám có phân nhánh. Nhánh có khả năng phát triển mạnh như thân chính nhưng những chồi gần gốc phát triển mạnh hơn chồi gần ngọn. Khi bấm ngọn thân chính, chồi ngọn phát triển mạnh và có thể làm rau. Thân có nhiều lông tơ dài, màu trắng, lông nhiều hay ít tùy theo giống và tuổi cây.

2.3. Lá

Lá gồm lá mầm, lá thật (nông dân thường gọi lá nhám) : 2 lá mầm lớn, hình trứng, trơn, có ý nghĩa lớn trong việc quang hợp tạo vật chất

nuôi cây và lá thật đầu tiên, do đó cần bảo vệ lá mầm khỏi sự thiệt hại của côn trùng. Tuổi thọ lá mầm dài, trong điều kiện cây sinh trưởng tốt, lá mầm vẫn giữ trên cây cho đến khi trái chín.

Lá thật là lá đơn, mọc xen, hình chân vịt, xẻ thùy sâu. Lá thật có nhiều lông, cuống dài, phiến lá rộng có khả năng tiếp nhận ánh sáng mặt trời lớn.

2.4. Hoa

Hoa đơn tính, đồng chu, hoa nhỏ, có kích thước 2,5 - 3,0cm, nằm ở nách lá, 5 lá đài nhỏ màu xanh và 5 cánh dính màu vàng, thụ phấn nhờ côn trùng. Số lượng hoa đực và cái không cân đối, thường hoa đực xuất hiện sớm, sau đó 3-5 hoa đực mới có 1 hoa cái mọc xen kẽ trên thân. Hoa đực có 3 -5 tiểu nhị, chỉ ngắn, bao phấn hợp thành khối. Hoa cái có vòi nhụy ngắn, nuốm nhụy phân 3 thùy, bầu noãn hạ với 3 tâm bì. Hoa cái ở gần gốc thường nhỏ do đó cho trái chín sớm, hoa cái ở xa gốc ra sau nên cho trái chín muộn, chỉ có hoa cái ở vị trí lá 12-20 dễ đậu quả và cho quả tốt nhất.

2.5. Quả và hạt

Page 147: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

146

Quả dưa hấu thuộc loại quả thịt (quả do một số lá noãn hợp thành, mềm hay nạc, không mở). Vỏ quả ngoài thường dai, cơm quả chứa nhiều dịch), to và chứa nhiều nước. Quả có hình dạng thay đổi từ hình cầu, hình trứng đến bầu dục tùy theo giống, nặng từ 1,5 -5,0 kg. Vỏ quả cứng, láng, có nhiều gân và hoa văn màu sắc thay đổi từ đen, xanh đậm, xanh nhạt hay có sọc, khi quả chín gân nổi rõ trên mặt vỏ. Thịt quả có màu từ đỏ đậm đến vàng, chứa nhiều hạt, hạt nằm lẫn trong thịt quả, số hạt trung bình 200 - 700 hạt/quả.

Hạt có màu nâu nhạt, nâu đậm đến đen. Kích thước hạt thay đổi tùy giống, trọng lượng trung bình 25 - 30 hạt/gam (hạt F1 nhỏ hơn hạt giống địa phương), hạt có màu nâu nhạt đến đen và có chứa nhiều chất béo từ 20 - 40%. Hạt có giá trị dinh dưỡng cao nên dùng làm nguyên liệu chế biến, hạt dễ mất sức nảy mầm. 3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH ĐỐI VỚI DƯA HẤU 3.1. Nhiệt độ

+ Dưa hấu là loại cây trồng nhiệt đới ưa nhiệt độ cao. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng phát triển là 25 - 30o C. Nhiệt độ thích hợp cho hạt nảy mầm là 28oC, ra hoa 25oC, sinh trưởng thân lá 30oC. + Nhiệt độ dưới 18oC và 38oC cây sinh trưởng khó khăn, dưới 10oC và trên 40oC, cây ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ thấp quá trái phát triển chậm, vỏ dày không lớn, màu thịt lợt, ít ngọt, năng suất và phẩm chất giảm. 3.2. Ẩm độ

Khí hậu khô ráo là điều kiện tốt cho dưa hấu phát triển. Độ ẩm đất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của dưa hấu trong phạm vi 70 - 80%, ẩm độ không khí thấp 50-60%

Mưa nhiều ẩm độ đất và không khí cao quá, cây dưa hấu phát sinh nhiều tua đâm xuống đất (rễ khí sinh) hút nước và dinh dưỡng, cành lá phát triển mạnh, ảnh hưởng đến sự ra hoa kết trái, thường bị nhiều bệnh hại. Tuy nhiên lượng nước trong quả dưa chiếm tỷ lệ lớn (95%), hệ số thoát nước lớn nên cần phải đủ nước đặc biệt thời kỳ hình thành và phát triển quả.

3.3.Ánh sáng

Do nguồn gốc từ vùng sa mạc nhiều nắng nên dưa hấu cần ánh sáng ngay từ khi xuất hiện lá cho đến khi kết thúc sinh trưởng. Nắng nhiều và nhiệt độ thích hợp là 2 yếu tố cơ bản làm tăng năng suất và chất lượng quả “nắng được dưa, mưa được lúa”.

Dưa hấu là loại cây trung tính (có thể ra hoa trong điều kiện ánh sáng ngày dài hay ngày ngắn), khi ra hoa cần thời gian chiếu sáng trung bình, tuy nhiên thời gian chiếu sáng trong ngày dài, lá phát triển mạnh, quả to, chắc quả.

Page 148: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

147

Thời gian chiếu sáng trong ngày tối thiểu (8-10h/ngày), yêu cầu 600 giờ và tổng tích nhiệt phải đạt 1000oC/chu kỳ sinh trưởng. Thời gian chiếu sáng không đủ hoặc nhiệt độ thấp, ẩm độ cao thì ngọn dưa hấu bò dài nhanh, cây dễ bị bệnh. Dưa hấu ưa cường độ ánh sáng mạnh, ánh sáng yếu ảnh hưởng tới khả năng đậu quả (ánh sáng mạnh và đầy đủ, cây thường ra hoa cái sớm và nhiều hơn hoa đực) - Đất và chất dinh dưỡng:

Dưa hấu có nguồn gốc từ vùng khô hạn, có bộ rễ phát triển mạnh về chiều sâu và chiều rộng, nên đất trồng phải có tầng canh tác dày, nhiều mùn, tơi, xốp, thoát nước tốt, mạch nước ngầm sâu. Đất trồng dưa hấu thích hợp nhất là thịt nhẹ, cát pha, phù sa ven sông. Chịu được kiềm, độ muối 0,2% dưa hấu có thể sinh trưởng được, khả năng chịu phèn khá.

Dưa hấu cho năng suất cao nên yêu cầu dinh dưỡng cao hơn những cây dưa khác. pH thích hợp 6 -7, yêu cầu 3 yếu tố NPK cân đối. Kết quả nghiên cứu tỷ lệ NPK bón cho dưa hấu trên đất lúa 100: 90: 90 kg/ha, trên đất cát 120 : 140 : 90) cho năng suất cao nhất - Luân canh:

Không nên luân canh dưa hấu với các cây cùng họ để tránh sâu rầy và các bệnh quan trọng như nứt thân, thán thư... nên luân canh với lúa, mía, bắp, đậu...không nên luân canh với khoai lang, mè, các loại dưa khác. Có thể dùng phương pháp ghép để tránh bệnh héo rũ, nứt thân dưa. 4. CÁC THỜI KỲ SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN CHÍNH CỦA DƯA HẤU 4.1. Nảy mầm (gieo đến có 2 lá mầm)

Dưa hấu không chịu lạnh , yêu cầu nhiệt độ từ 25o - 30oC, chú ý bảo vệ 2 lá mầm. 4.2. Cây con (2 lá mầm đến 4 -5 lá thật)

Khả năng chống chịu kém (lạnh, úng, sâu bệnh...), chú ý bón thúc kịp thời, tưới nước giữ ẩm, kích thích rễ phát triển, thúc đẩy sinh trưởng của thân để tăng năng suất.

4.3. Ra hoa

- Bắt đầu ra hoa (4 -5 lá thật đến hoa cái thứ nhất): Tốc độ ra lá nhanh, lóng thân dài nhanh, chuyển sang trạng thái bò, phân nhánh

cấp 1, hoa đực ra nhiều, xuất hiện hoa cái đầu tiên, rễ phát triển nhanh. Chú ý: Dễ xảy ra tình trạng lốp, dẫn đến mất cân đối giữa sinh trưởng, phát

triển. Nếu chăm bón không đúng kỹ thuật: thân lá nhiều, chậm ra hoa, hoa quả ít (phải điều tiết nước, dinh dưỡng, tỉa nhánh, xới vun).

- Hoa rộ (ra hoa cái thứ nhất - quả thứ nhất): Hoa cái thứ nhất đến ra hoa cái tập trung và hình thành quả đầu tiên. Rễ, thân,

lá, hoa quả phát triển tối đa, yêu cầu dinh dưỡng nước cũng tối đa, độ ẩm đất 70-80%.

Page 149: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

148

4.4. Thời kỳ quả phát triển - già, chín (quả rộ - tàn) Hoa được thụ phấn thụ tinh, quả hình thành và phát triển nhanh, nhất là 20 ngày đầu và sau đó chậm lạ i dần đến khi quả bắt đầu chín.Thời kỳ này quyết định đến năng suất, lúc này yêu cầu nước và chất dinh dưỡng tối đa tập trung nuôi quả. Thân lá sinh trưởng chậm lại. Giai đoạn quả chín (giai đoạn cuối) có sự biến đổi sinh hóa mạnh, chuyển hoá đường dạng đường đơn thành đường đa, quả trở nên ngọt và sự thành lập sắc tố đỏ bên trong thịt. Thời kỳ này ảnh hưởng khả năng tích luỹ chất dinh dưỡng trong quả, ruột quả càng đỏ càng ngọt. Tùy vào vị trí mang trái trên dây mà thời gian chín khác nhau, sinh trưởng thân lá giảm nhanh, lúc thu hoạch. 5. CÁC GIỐNG DƯA HẤU 5.1. Phân nhóm các giống dưa hấu:

Có 3 nhóm dưa hấu trên thế giới đó là giống O.P (tức thụ phấn tự do) bao gồm các giống địa phương vừa nhập nội. Giống F1 (giống lai) bao gồm các giống lai tạo trong nước và nhập nội. Giống đa bội thể không hạt có năng suất và chất lượng cao. Ở Việt Nam chúng ta thường có 3 nhóm trồng phổ biến 5.2. Giống

- Giống địa phương (Quảng Ngãi): Vỏ xanh đen, ruột đỏ nhưng cùi vỏ dày, hạt nhiều, ít ngọt thua các giống F1 nhập nội.

- Giống nhập nội: Sugar baby (O.P) và các giống F1 năng suất cao hoặc chất lượng cao

+ F1 Lai tạo trong nuớc: Các giống An Tiêm (công ty giống Cây Trồng Miền Nam sản xuất): Quả to, năng suất cao, sinh trưởng khoẻ

+ F1 nhập nội của Đài Loan hay Nhật Bản: Vỏ đen, ruột vàng, hay ruột đỏ, thời gian sinh trưởng 70- 85 ngày, do công ty giống cung cấp.

+ F1 có năng suất cao: Để phục vụ khách du lịch và xuất khẩu, hiện nay các hộ nông dân đã trồng dưa hấu F1 có năng suất cao, phẩm chất tốt, quả tròn, vỏ xanh đen, vỏ có sọc chìm mờ, ruột đỏ, ngọt (độ ngọt cao 8- 9% ), năng suất trung bình 20 - 30 tấn/ha, khối lượng quả trung bình 3- 4 kg, có khả năng chống bệnh héo rũ, có tính thích ứng rộng. Nhờ các giống này các hộ nông dân đã chuyển đổi diện tích trồng lúa cưỡng (thiếu nước, NS thấp) sang trồng dưa hấu thu hiệu quả kinh tế cao hơn.

- Giống dưa hấu đa bội thể (ít hạt: tứ bội 4n), không hạt (tam bội - 3n), có giá trị cao, song loại này do giá thành cao, quy trình trồng phức tạp nên nông dân ít trồng.

- Các giống có năng suất và phẩm chất cao, được ưa chuộng trong sản xuất - Sugar baby (O.P) do nhiều công ty phân phối: Trang Nông, Hai mũi Tên Đỏ,

Technisem...: Giống thụ phấn tự do, nhập từ Mỹ, Thái Lan, Nhật, Đan Mạch, ... đã được trồng từ lâu, có thể sản xuất hạt giống trong nước, thời gian sinh trưởng 70 - 80 ngày, vỏ quả màu xanh đen, hình tròn, ruột đỏ, quả ngọt (hàm lượng đường 8 - 9%),

Page 150: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

149

hạt nhỏ và ít, P quả trung bình 3 - 3,5kg, năng suất trung bình 20 - 25 tấn (tùy vụ trồng).

- Giống F1 An Tiêm: do công ty giống Cây Trồng miền Nam sản xuất: Là dưa hấu la i F1, sinh trưởng mạnh, thích nghi rộng với thời tiết, chống bệnh tốt, dễ ra hoa, đậu quả, khối lượng quả 6 - 9kg, năng suất cao và ăn ngon.

Hiện nay các giống An tiêm ruột đỏ: sinh trưởng khoẻ, năng suất cao 30-45 t/ha, dễ đậu quả, thời gian sinh trưởng ngắn 55 - 75 ngày như An Tiêm 94: quả có sọc xanh đậm; An Tiêm 95: vỏ đen có sọc mờ; An Tiêm 98: sọc xanh; An Tiêm 101; 103; 107; 109; 111 năng suất 25 - 40 tấn và giống ruột vàng như An Tiêm 100 năng suất 25 - 30 tấn/ha.

- Giống F1 Hồng Lương (công ty Trang Nông độc quyền phân phối): vỏ màu xanh nhạt, có sọc xanh đậm, khối lượng quả trung bình 5 - 6 kg, năng suất 30-35 t/ha, ruột đỏ, nhiều nước, vỏ quả mỏng nhưng cứng, thuận tiện chuyên chở, kháng bệnh tốt, thích hợp cho một số vùng trong vụ Hè Thu, thời gian sinh trưởng 65 - 70 ngày.

- Giống F1 Xuân Lan (công ty Trang Nông độc quyền phân phối): vỏ mỏng màu xanh nhạt có sọc xanh đậm, tròn hơi cao trung bình 2-3 kg, ruột vàng, rất ngọt, trồng mật độ dầy gấp đôi dưa Sugar baby, thời gian sinh trưởng 60 - 65 ngày.

- F1 Kim Phụng (công ty Gino độc quyền phân phối): vỏ có hoa vân sẩm, ruột vàng, nước nhiều, ít hạt, rất ngọt, hương vị đặc sắc. Khối lượng trung bình quả nặng 3 - 4 kg, hình oval. Năng suất 30 - 40 tấn/ha, thời gian sinh trưởng 60 - 65 ngày. Vỏ cứng dễ vận chuyển, bảo quản.

- Ngoài ra một số giống được trồng phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung như giống Tiểu Long 246, Hắc Mỹ Nhân 1430, Thành Long TN 522. 6. KỸ THUẬT CANH TÁC 6.1. Kỹ thuật vườn ươm (giai đoạn cây con) 6.1.1. Ngâm ủ hạt:

Hạt phải ngâm ủ giống trước khi gieo cho những giống F1 khó mọc hoặc tất cả các giống dưa hấu gieo sớm vào vụ Xuân Hè, nhiệt độ thấp.

+ Ngâm hạt: Bảng 19. Sự liên hệ giữa nhiệt độ với sự nảy mầm (NM) của hạt dưa hấu

Nhiệt độ (oC)

Thời gian bắt đầu NM (ngày)

Thời gian NM tối đa

(ngày)

Tỷ lệ NM (%)

15 4 6 86 20 2 5 96 28 2 3 100 32 2 2 97

Page 151: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

150

Hạt giống đủ tiêu chuẩn đem gieo, phơi hạt ngoài nắng nhẹ 1- 2 giờ rồi đem ngâm vào nước nóng (sạch) có nhiệt độ 30 - 35oC (3 nguội + 2 sôi), ngâm 4 - 6 giờ, đãi hạt lép lững, vớt ra rửa sạch, dùng khăn lau sạch lớp nhầy bám trên vỏ hạt, rửa sạch một lần thứ 2, lau khô, bọc hạt vào một loại khăn ẩm, thấm nước thoáng khí, ủ hạt trong một hộp (giấy hoặc gỗ) giữ được độ ẩm và để ở nhiệt độ 28 - 30oC.

+ Ủ hạt: Dùng hộp ủ hạt, bên trong mắc một bóng điện và một nhiệt kế biểu. Hạt giống

để trong hộp luôn có nhiệt độ 28 - 30oC và khăn gói hạt lúc nào cũng phải ẩm. Nếu nhiệt độ trên 35oC hạt sẽ bị hỏng và không nãy mầm được. 6.1.2. Gieo hạt

- Gieo thẳng: Hạt được gieo thẳng cần 1kg hạt/ha, mỗi hốc gieo 1 -2 hạt, độ sâu gieo hạt sâu

khoảng 2cm, lấp hạt bằng tro trấu hay rơm rạ chặt khúc (nếu ngâm hạt nứt nanh thì phải gieo trên đất đủ ẩm, không gieo trên đất khô hạn. Gieo thẳng có ưu điểm là rễ mọc sâu, cây sinh trưởng rất khoẻ không bị mất sức, chịu hạn tốt nhưng nhược điểm là tốn công lao động, không tiết kiệm được hạt, khó chăm sóc, dễ rủi ro khi gặp mưa to hay dịch hại, cây con hao hụt nhiều.

- Gieo hạt để ươm cây trong bầu (gieo vào bầu đất): Gieo hạt trong bầu là thuận lợi nhất cho việc chăm sóc cây con, tiết kiệm hạt

giống (chỉ cần 0,5kg/ha), đặc biệt chống rét cho cây và tỷ lệ mọc cao, ngoài ra có thể gieo sớm để tranh thủ thời vụ. + Túi PE (ni lon) làm bầu: phải có chất lượng tốt, nếu không dễ bị vỡ bầu; kích thước túi bầu có đường kính rộng x cao là 7x 10cm, đục 2 lỗ đối diện cách đáy túi 2cm để thoát nước.

+ Chuẩn bị đất làm bầu: Dùng đất tơi xốp, không có nấm bệnh, trứng sâu: Tỷ lệ 70% đất bột + 30% gồm phân

chuồng hoai mục chất lượng tốt và 1% vôi bột trộn đều cho vô bầu (hoặc hỗn hợp đất vào bầu trộn theo tỷ lệ đất: tro: phân chuồng hoai là 1: 1 :1). Khi cho đất vô bầu nên nén chặt đất ở đáy bầu và tiếp tục cho đầy, không nén đất trong bầu quá chặt. Số bầu phải lớn hơn số cây định trồng 10 -15%. Để phòng bệnh cho cây con nên dùng một trong các loại thuốc trừ nấm như Rovral, Copper zinc, Champion pha nồng độ 1-2%o tưới lên bầu đất, sau đó xăm lỗ sâu 0,5 - 1cm rồi gieo hạt.

+ Gieo hạt: Hạt ủ nứt nanh khi rễ mầm dài khoảng 5mm là vừa để gieo vô bầu. Trước khi

gieo, tưới đẫm nước vào bâu đất, mỗi bầu gieo 1 hạt, đặt hạt nằm ngang (2 lá mầm bật lên nhanh nhất), những hạt có mầm dài hoặc cong thì cho rễ phải hướng xuống đất.

Page 152: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

151

Gieo xong phủ một lớp đất mịn trên mặt hạt dày khoảng 1 - 1,5cm hoặc rải một lớp tro thảo mộc (phủ kín hạt).

+ Vị trí đặt bầu: Chọn nơi bằng phẳng có ánh sáng đầy đủ và thoáng gió để làm vườn ươm. Xếp

các bầu chặt khít thẳng hàng, sao cho mặt vườn ươm hình chữ nhật. Vườn ươm phải chọn nơi giả i nắng có nhiều ánh nắng, bằng phẳng, không được đọng nước. Nếu đất thấp đặt bầu đất trên luống cao 10 -15 cm, bên dưới rải một lớp tro trấu dầy 5 -10 cm để hạn chế đứt rễ khi đem cây trồng ra đồng.

Trong vườn ươm cây con thường bị rệp, nhện, bọ dưa, sâu ăn tạp, bệnh chết rạp cây con gây hại nên thường xuyên kiểm tra để phòng trị kịp thời. Khi cây lên đều khoảng 80% thì loại bỏ những cây con mọc chậm. Cần dự trừ 10 -15% bầu để trồng dặm. Gieo bầu có ưu điểm cây sinh trưởng đồng đều, dễ chăm sác, tiết kiệm hạt giống, ít hao cây con, tranh thủ thời gian làm đất kỹ lưỡng hơn. Nhưng nhược điểm là đầu tư ban đầu nhiều hơn, tốn công làm bầu, bộ rễ không phát triển sâu. 6.1.3. Chăm sóc thời kỳ vườn ươm

+ Tưới nước: Bầu ươm cây phải luôn ẩm, nếu khô nước phải tưới 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều mát nhưng tưới không quá ướt.

+ Bóc vỏ: Khi hạt dưa nảy mầm, bóc vỏ các hạt dưa còn dính trên 2 lá mầm, thường làm vào buổi sáng lúc vỏ hạt còn ướt hoặc tưới nhẹ 1 lượt để không làm tổn thương lá mầm hoặc vặn gãy gốc non

+ Phòng trừ sâu bệnh: các bệnh chủ yếu trong vườn ươm là thối gốc (lở cổ rễ), thán thư. Sâu hại có sâu xám, rệp, bọ trĩ, nên xịt thuốc chống bệnh và sâu, phòng trước khi đem đi trồng. 6.1.4. Kỹ thuật ghép dưa hấu để chống bệnh:

- Chuẩn bị cây gốc ghép: Hạt "bầu sao" hay bầu địa phương thường được chọn làm gốc ghép vì khả năng

tăng trưởng mạnh, thích nghi rộng rãi với điều kiện thời tiết, đất đai và để giống dễ dàng. Hạt bầu ngâm trong nước ấm pha tỉ lệ 3 sôi + 2 lạnh 10 - 12 giờ, gieo trong túi nilon kích thước 8 x 12 cm, đặt nơi có nhiều ánh nắng để cây con lên đều, khoẻ mạnh.

- Chuẩn bị cây dưa ghép: Khi cây bầu mọc đều, có 2 lá mầm vừa mở ra là chuẩn bị ủ hạt dưa hấu. Hạt dưa

hấu ngâm nước ấm 5 - 7 giờ, gieo trong nia (đáy bằng, đường kính khoảng 50- 60cm). Chọn trấu mới ngâm ướt, nhồi cho hơi mềm rãi trên nia chừng 2 - 3 cm, rãi hạt dưa đã nảy mầm đều lên mặt trấu, phủ lên trên lớp trấu dày khoảng 3cm. Trong thời gian ủ hạt dưa ban ngày đem nia ra phơi nắng vài giờ giúp hạt ấm hơn, nảy mầm nhanh, đều. Nên dùng lá chuối đậy bên trên nia để giữ ẩm và tránh ánh nắng chiếu trực tiếp khi hạt vừa

Page 153: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

152

nhú lên mặt trấu để thân mầm vươn dài chậm mọc lá. Một số tỉnh khu vực miền Trung thường ủ hạt dưa và đất cát, cho nắng dọi vào, hạt ấm nhanh mọc hoặc ủ hạt dưa bằng rơm, lá chuối, thùng trấu...) - Ghép cây dưa hấu/bầu sao:

Khoảng 3 ngày sau hạt dưa nảy mầm thì đem ghép. Thời điểm ghép cây tốt nhất khi cây bầu có một lá thật đầu tiên, cây dưa sắp mở hai lá mầm. Dùng phương pháp ghép nối ngọn, tưới đẫm gốc ghép trong bầu đất trước lúc ghép vì sẽ không tưới 2 - 3 ngày sau khi ghép. Địa điểm ghép và đặt cây con nơi không có ánh nắng, được che mát và che gió 2 - 3 ngày đầu, không được tưới bằng thùng vòi hoa sen, chỉ dùng bình xịt phun sương 1-2 lần trong ngày, bắt đầu từ ngày thứ 2 sau khi ghép.

Huấn luyện cây ghép: Khi ngọn dưa thật sự tăng trưởng trên gốc bầu có thể đem cây ra nắng, để cây ghép dưới nắng nhẹ trong 20 - 30 phút ở ngày 4, vài giờ ở ngày thứ 5 - 6, sau đó đem ra nắng hoàn toàn. Khi cây dưa ghép lên bầu có lá thật là trồng được, từ khi ngâm hạt bầu đến khi trồng cây dưa ghép 18 - 22 ngày.

Phương pháp ghép cây có ưu điểm là rất ít bị bệnh héo rũ, có thể trồng dưa hấu liên tục nhiều năm trên một nền đất. Nhưng có nhược điểm là tốn nhiều thời gian và công lao động để ghép cây con, khó áp dụng rộng rãi vì đòi hỏi kỹ thuật ghép ghép cao (cần phải có nhà ghép để điều hoà nhiệt độ và ẩm độ sau ghép thích hợp, không thể ghép trong điều kiện tự nhiên).

6.2. KỸ THUẬT CANH TÁC 6.2.1. Chuẩn bị đất trồng Đất trồng dưa hấu yêu cầu tơi, xốp, dễ thoát nước, pH có thể từ 5,5 - 7 (thích hợp từ 6 - 7), cày bừa kỹ trước khi lên luống. Xử lý đất bằng vôi bột 400 - 500 kg/ha trước khi lên luống 5 - 7 ngày. Có thể trồng luống đôi hay luống đơn (tức trồng 2 hàng hay 1 hàng dưa tương ứng). Nếu luống đôi khoảng cách giữa 2 tim rãnh 5 - 5,5m, cao 15- 20cm trong đó rãnh rộng 30 - 50cm, mặt luống rộng 5m. Kiểu này tiết kiệm được diện tích đất nhưng khó chăm sóc Để dễ dàng chăm sóc thì thường làm luống đơn: Luống rộng 2,5m (mặt luống rộng 2,2m, rãnh 0,3m). Chiều dài tùy theo thửa ruộng, nếu ruộng dài trên 50m giữa ruộng phải xẻ rãnh thoát nước, chiều cao luống 0,2 - 0,25m. 6.2.2.Gieo hạt

Nên trộn hạt với Thirman 80WP hoặc Benlate 50WP trong 1-2 giờ để phòng các bệnh do nấm, vi khuẩn có sẳn trong hạt hoặc bên ngoài tấn công cây con lúc mới gieo. Ngâm hạt trong nước ấm pha tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh khoảng 2-3 giờ, chà rửa sạch nhớt, sau đó ủ hạt từ 36-48 giờ. Gieo hạt trong bầu được xử lý thuốc để ngăn ngừa sâu bệnh tấn công. Khi cây con vừa ra lá thật (lá nhám) khoảng 7-10 ngày sau gieo thì chuyển cây con ra trồng.

Page 154: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

153

- Mật độ khoảng cách trồng: Dưa hấu là cây sinh trưởng mạnh, đặc biệt với giống F1, ra nhánh nhiều, cần bố

trí sao cho dưa đủ diện tích bò, dễ chăm sóc và cho trái lớn. Vụ sớm, trời còn mưa, ít ánh sáng, độ ẩm không khí cao, nên trồng thưa để dễ chăm sóc và ít sâu bệnh. Trồng luống đôi 5,5m (2 hàng/ luống), luống đơn 2,5m (1 hàng/luống), cây x cây 60cm, mật độ trồng 7000 cây/ha. Vụ chính nắng nhiều có thể trồng dày hơn (8000 cây/ha) nhưng muốn trái lớn không nên trồng dày. Trên đất cát có thể trồng dày cây x cây khoảng 40 - 60cm, hàng x hàng 60 -70cm - Phương pháp trồng:

Sau khi ươm hạt từ 15- 20 ngày, cây con ra được từ 2 - 3 lá thật thì đem trồng: Dùng dao lam rạch bao ni lon, đặt bầu xuống mặt luống đã có hốc sẵn, ấn chặt gốc, trồng vào buổi chiều, trồng xong tưới nước ngay để rễ cây con bám chắc vào đất và phát triển nhanh. Số cây còn lại trong vườn ươm tiếp tục chăm sóc, sau 5 -7 ngày đem dặm.

Ở những vùng đất nhẹ nên trồng dưa hấu có màng phủ nông nghiệp (plastic), nhằm hạn chế sâu bệnh, cỏ dại, phân bón; điều hoà ẩm độ đất; không xói lở, phá vở kết cấu đất hay luống khi mưa. Dùng phương pháp tưới thấm vào rãnh sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng thường. 6.2.3. Thời vụ trồng - Các tỉnh khu vực miền Trung:

+ Vụ Xuân Hè: là vụ chính, gieo tháng 2 đến đầu tháng 3 thu hoạch đầu tháng 5. + Vụ Hè Thu: gieo tháng 4- 6 thu hoạch tháng 6-8 (trên đất trồng lúa 1 vụ Đông Xuân). Chú ý: Thời vụ gieo trồng có thể sản xuất dưa từ tháng 2 - 8 nhưng tập trung nhất tháng 3, 4. Đối với vùng cát có thể gieo vụ dưa tết (gieo vào tháng 10 âm lịch). - Các tỉnh phía Nam: + Vụ dưa Noel: Gieo 20/9 -1/10 dương lịch thu dịp 25/12 (20/8 - 01/9 âm lịch). + Vụ dưa hấu tết: gieo từ 5-15/10 âm lịch thu hoạch vào dịp tết Nguyên đán (thu từ 25 tháng chạp) + Vụ dưa sau tết: Tùy từng vùng mà có thời vụ khác nhau, thường trồng những vùng có nước ngọt để tưới.

+ Dưa Hè Thu: gieo trồng trong suốt mùa mưa. - Các tỉnh phía Bắc

+ Vụ Xuân - Hè: là vụ chính, gieo hạt cuối tháng 2 đầu tháng 3 thu hoạch cuối tháng 5 đầu tháng 6 tùy giống

+ Vụ Thu - Đông: gieo vào cuối tháng 9 thu hoạch cuối tháng 11 đầu tháng 12

Page 155: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

154

Nên sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân bón và nước tưới. 6.2.4. Phân bón

Khó xác định lượng phân bón bao nhiêu cho mọi trường hợp vì lượng phân bón và cách bón phụ thuộc vào đất đai, mùa vụ, giống và tập quán canh tác. Tuy nhiên sau đây là lượng phân cơ bản làm cơ sở cho thực hiện canh tác. Sau đó tùy theo mức độ tăng trưởng của cây dưa mà có thể tăng giảm lượng phân bón cho thích hợp - Lượng phân bón cho 1ha dưa hấu:

Bón 10 - 20 tấn phân chuồng (5 tạ - 1tấn/sào) + 500kg vôi bột + 130kg N + 80 kg P2O5 + 180 kg K2SO4 .

Lượng phân bón trên đất trồng lúa có thể theo tỷ lệ N:P:K = 100 : 90: 90, trên đất cát 120: 140: 90. - Cách bón:

+ Bón lót toàn bộ phân chuồng (hoặc lân hữu cơ vi sinh) + lân + vôi trước khi trồng + Thúc lần 1: kết hợp xới vun khi cây được 30 - 40 sau gieo (12-15 ngày sau trồng bầu) ngày gồm 1/3 lượng đạm + Kali . + Thúc lần 2 (sau đợt 1 từ 15 - 20 ngày): khi cây ra hoa rộ gồm 1/3 lượng đạm và kali.

+ Thúc đợt 3 (sau đợt 2 từ 10 -15 ngày): khi đã có quả gồm 1/3 lượng đạm và kali còn lại. Sau đó 5 - 7 ngày dùng nước phân chuồng ngâm mục pha loãng tưới cho cây để giữ bộ lá và tăng trọng lượng quả. Có thể sử dụng phân bón lá như sản phẩm vườn sinh thái, Supermes, Komix... để bổ sung chất dinh dưỡng cho cây dưa nhưng không nên phun lúc cây ra hoa rộ và chọn trái. Chỉ nên phun đúng nồng độ và thời gian theo hướng dẫn trên nhãn chai.

6.2. 5. Chăm sóc

- Dặm cây: Sau khi trồng 5-7 ngày thì tiến hành trồng dặm lại các cây bị hao hụt.

- Tưới nước:Dưa hấu cần ẩm nhưng không chịu được úng. Cần tưới nước khi cây khô hạn hoặc sau khi bón thúc, dùng thùng tưới vào sáng sớm hoặc chiều mát, tưới vào gốc tránh tưới vào ngọn, tránh tưới vào buổi trưa. Tốt nhất là tưới nước tự chảy (cho nước vào 2/3 rãnh luống, để 4 - 6 giờ cho thấm qua luống rồi tháo cạn). Sau cơn mưa phải tháo nước ngay.

+ Thời kỳ thân cành, hoa sinh trưởng mạnh: không nên tưới nước quá nhiều tránh tình trạng dây lá quá rậm rạp, ảnh hưởng đến sự ra hoa, kết trái.

Page 156: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

155

+ Thời kỳ trái phát triển: cần phải tưới nước nhiều nhất (lượng nước tưới và số lần tưới) để thúc đẩy trái lớn nhanh, khi trái lớn đến mức nhất định, nên giảm lượng nước tưới.

+ Thời kỳ chín (trước thu hoạch 7 - 10 ngày): Không nên tưới nhiều, tránh hiện tượng nứt quả. Cần lưu ý vào mùa khô nắng nóng phải tưới nước đầy đủ. Nếu khô hạn kéo dài thì nên áp dụng phương pháp tưới rãnh (tưới thấm), tưới 1lần/3-5ngày. Tưới thấm vào rãnh giúp tiết kiệm nước, không văng đất lên, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Trong mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt, không để nước ứ đọng lâu. - Làm cỏ, xới xáo kịp thời kết hợp bón thúc phân - Phủ mặt luống:

Khi dưa có chiều dài 50 - 100cm dùng rơm rạ phủ kín mặt luống để giữ ẩm, chống cỏ dại, giúp tua cuốn giữ cho cây khỏi bị gió lay và tránh bệnh thối quả. - Phân bố đều ngọn cây trên mặt luống (sửa dây): Sau khi trồng được 20 ngày thì tiến hành sửa và cố định vị trí bò của dây, giúp các dây bò có thứ tự, song song nhau trên khắp mặt luống, không quấn chồng lên nhau, đủ ánh sáng tạo điều kiện cho cây quang hợp tốt, cây thoáng gió, tránh để bộ lá quá dày che lấp lẫn nhau. 6.2.6. Thụ phấn nhân tạo, tỉa nhánh, định trái

- Thụ phấn hay úp nụ là biện pháp kỹ thuật rất cần thiết trong canh tác dưa, giúp cho quả có độ đồng đều cao, dễ chăm sóc. Khi dây dưa dài khoảng 1,5m (25 - 30 ngày sau trồng hoặc 35 - 40 ngày sau khi gieo hạt). Chọn hoa đực bất kỳ vừa nở, to, tốt lấy phấn chấm phấn lên nuốm nhụy của hoa cái vừa nở. Nên thụ phấn bổ sung cho dưa vào sáng sớm mỗi buổi sáng 7- 9giờ, tiến hành 2 - 3 lần trong thời kỳ hoa nở rộ. Thụ phấn được thực hiện tập trung trong 4 - 7 ngày, thời gian thụ phấn càng ngắn càng tốt.

- Tỉa nhánh: Để cho cây dưa khoẻ mạnh, dễ chăm sóc cần tiả bớt nhánh, lá già. Nên tỉa sớm

khi nhánh vừa nhú ra 5-7cm, mỗi cây nên tỉa chừa lại 1 thân chính và 2 dây nhánh phụ (dây chèo) cho bò song song với thân chính, nhưng dưa hấu ghép tỉa chừa 1 thân chính và 1 nhánh phụ. Việc tỉa nhánh phải được tiến hành thường xuyên cho đến khi thụ phấn (tỉa bỏ tất cả các dây chèo và các dây bơi ra sau để tập trung dinh dưỡng nuôi trái), không cần tỉa sau khi đã lấy trái. Nên tỉa vào buổi sáng lúc nắng ráo để vết cắt mau khô, thỉnh thoảng nhúng kéo vào dung dịch thuốc Benlale hoặc Copper B 1-2% để ngừ bệnh lây lan. Trường hợp dây phát triển quá tốt có thể ngắt bỏ ngọn, nhưng phải ngắt ngọn sau 55 ngày kể từ khi gieo và giữ đoạn thân mang lá ở phần ngoài của trái 5 - 7 lá.

- Định trái (tuyển trái):

Page 157: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

156

Để cho trái dưa to, tròn đều chỉ nên để mỗi cây một trái. Việc tuyển trái tiến hành khoảng 40 - 45 ngày sau khi gieo hạt. Khi trái bằng trái chanh chọn trái thứ 3 trên dây chính tức vị trí lá thứ 15 - 20, nếu dây dưa quá sung sức có thể chọn trái ở vị trí 20 - 24 sẽ cho trái tốt hơn. Nếu trên dây chính không tuyển trái được thì chọn trái thứ 2 trên dây nhánh tức vị trí lá 8 - 14. Chọn trái có bầu noãn đầy đặn, cuống to, dài, có nhiều lông tơ thẳng, không sâu bệnh. Khi chọn trái xong cắm que làm dấu đồng thời tỉa bỏ tất cả các trái khác đậu tự nhiên, các trái ra sau. 6.2.7. Lót rơm kê trái và trở dưa:

Khi trái lớn bằng trái cam, sửa cho trái đứng để trái phát triển đồng đều. Lót kê trái để hạn chế thối đít trái và giúp trái phát triển thuận lợi. Trong qúa trình trái phát triển thỉnh thoảng trở bề để trái tròn đẹp và màu vỏ trái xanh đều, tránh bị sâu bệnh tấn công dưới đít trái. Trở quả để màu vỏ quả đều và đẹp, không bị thối do sâu bệnh. Khi dưa lớn khoảng 10- 15cm thì cứ cách 3 ngày trở dưa một lần, mỗi lần trở 1/4 quả hết phải sang trái, chú ý không vặn cuống dưa, không cho cuống dưa tiếp xúc với mặt đất, dưa dễ bị thối và nứt quả. Trở trái khi không còn ướt sương. Trước khi thu hoạch 10 ngày nên dựng đứng quả dưa cho nắng chiếu hoàn toàn vào quả dưa để dưa chín đều, tăng giá trị thương phẩm. 6.2.8. Phòng trừ sâu bệnh. - Sâu và một số loại côn trùng gây hại

+ Sâu xám (Agrotis upsilon Rottem berg): Sâu hại thời kỳ cây con, cắn rễ, cắn ngang cây dưa về ban đêm, ban ngày ẩn náu trong đất 3 - 5cm. Dùng que đào quanh gốc, bắt sâu vào sáng sớm. Có thể xử lý đất trước khi trồng một trong các loại thuốc sau: Furadan 3 % hạt (50kg/ha đất), Karphos 2 % hạt 40 kg/ha đất.

+ Bọ trĩ (thrip palmi) Bọ trĩ còn gọi là bù lạch, kích thước rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống tập

trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non bị xoăn lại. Bọ trĩ cùng với bọ dưa là môi giới truyền bệnh “đầu lân” và bệnh khảm. Dùng luân phiên một số thuốc sau đây để tránh bọ trĩ quen thuốc. Có thể dùng các loại thuốc luân phiên để trị: Confidor 100SL, Admire 50EC...0.5-1..., Danitol 10EC 0.5-1..., Regent 800 WP

+ Nhện đỏ (Tetranychus kanzanwai) còn gọi rầy lửa: cơ thể rất nhỏ, có 8 chân, di chuyển nhanh, nhả tơ bao thành một lớp ở dưới mặt lá. Nhện sinh sản rất nhanh, chích hút nhựa làm lá vàng khô đi.

Page 158: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

157

Nên thay đổi thuốc thường xuyên phun Confidor 100SL, Admire 50EC...0.5 -1%o, Regent 5SC từ 1-2%o hoặc Regent 800WP 0.80g/ 8 lít nước, Danito l 10EC 0.5-1%o.

+ Bọ dưa (Aulacophora similis) Con trưởng thành có cánh cứng, màu vàng cam, dài 7-8mm, sống lâu 2 - 3

tháng, đẻ trứng dưới đất quanh gốc cây dưa, hoạt động ban ngày, ăn gặm lá thường gây thiệt hại nặng khi cây dưa còn nhỏ đến lúc cây có 4 - 5 lá nhám. Ấu trùng có màu vàng lợt, đục vào trong gốc cây dưa làm dây héo chết. Có thể bắt bằng tay vào sáng sớm khi cây dưa còn nhỏ, thu gom tiêu hủy cây dưa sau mùa thu hoạch. Rãi thuốc hạt như Regent 0.3 G 1-2kg/công phun, các loại thuốc phổ biến Sumi-alpha, Baythroit 5SL, Admire 50 EC 1-2 %o. Kinh nghiệm cho thấy phun Sevin 1-2 %o cho hiệu quả cao.

+ Sâu ăn lá (Heliothis amigera) và sâu khoang (Spodoptera litura): con trưởng thành là loại bướm đêm rất to, cánh nâu, giữa có một vạch trắng. Trứng đẻ thành từng ổ hình tròn ở mặt dưới phiến lá, có lông vàng nâu che phủ. Sâu non lúc nhỏ sống tập trung ở mặt dưới phiến lá nên gọi là sâu ổ, khi lớn lên phân tán dần, mình có màu xám với khoang đen lớn ở trên phía lưng giáp đầu. Sâu ăn lủng lá có hình dạng bất định, hoặc cắn đứt ngang thân cây con. Sau đó sâu thường chui vào sống trong đất, ẩn náu dưới các kẽ nứt hay rơm rạ phủ trên mặt đất, nhộng ở trong đất.

+ Sâu xanh da láng hay còn gọi sâu đàn (Spodoptera exigua): sâu màu xanh, ở mặt lưng trơn láng (tuy nhiên màu sắc thay đổi nhiều). Dùng một số thuốc sau: Cascade 5EC, Voltage 50 EC, Lannate 40SP, Atabron 5EC, Mospilan, Sumicompi alpha. Một số loại sâu khác như sâu ăn tạp, cắn lá (sâu khoang). Mình có màu xám với khoang đen lớn ở trên phía lưng sau đầu, ăn lủng lá có hình dạng bất định, hoặc cắn đứt ngang thân cây con. Sau đó sâu thường chui vào sống trong đất, ẩn dưới các kẽ nứt hay rơm rạ phủ trên mặt đất, nhộng ở trong đất. Nên thường xuyên thay đổi loại thuốc và phun vào giai đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao: Sumicidin 10EC, Cymbus 5EC, Karate 2.5EC, Fenbis 2.5 EC, Decis 2.5 EC... 1-2... có thể pha trộn với Atabron 5EC, Match 50 ND từ 2-3 cc /biònh phun 8 lít. Nên làm đất kỹ trước khi trồng vụ sau để diệt sâu và nhộng còn sống trong đất, xử lý đất bằng thuốc hạt. Có thể ngắt bỏ ổ trứng hay bắt sâu non đang sống tập trung. Phát hiện sớm lúc sâu còn non, dùng luân phiên một số thuốc. Nên thay đổi loại thuốc thường xuyên, phun vào gia i đoạn trứng sắp nở sẽ cho hiệu quả cao

+ Ruồi đục trái và rầy mềm: Chúng chích hút đọt và lá non, truyền bệnh virus. Dùng luân phiên một số loại

thuốc sau: Oncol 20ND, Voltage 50EC, Lannate 40SP, Hopsan75ND, Cyper 25ND. - Bệnh hại:

+ Bệnh khảm (do vi rus):

Page 159: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

158

Bệnh này do vius gây hại, triệu chứng bệnh là chồi ngọn hơi bị chùn lại, lá ngọn nhỏ quăn queo, màu xanh đậm xen màu xanh nhạt hay vàng, cây chậm lớn, lóng ngắn hơn bình thường, trái có màu hơi vàng. Phun thuốc trừ môi giới truyền bệnh, loại bỏ các cây bị bệnh để tránh lây lan

+ Bệnh héo rũ (do nấm Fusarium sp.) Bệnh héo rũ còn gọi bệnh chạy dây do cây bị mất nước, chết khô từ đọt, thân

đôi khi bị nứt, trên cây con bệnh làm chết rạp từng đám. Trên cây trưởng thành, nấm gây hại từ thời kỳ ra hoa đến tạo quả, cây dưa bị héo từng nhánh rồi chết cả cây hoặc héo đột ngột như bị thiếu nước. Bệnh này có liên quan nhiều đến tuyến trùng và ẩm độ đất. Nấm Phytophthora sp. cũng gây hại cho bệnh này.

Phòng trị bằng cách lên luống cao, làm đất thông thoáng, bón thêm phân chuồng, tro trấu, nhổ cây bệnh tiêu hủy. Phun Copper -B, Derosal 60WP, Rovral 50W, Topsin-M 50WP, Zin 80WP...2 -3 phần ngìn hoặc Appencarb, Supper 50FL, Alliette 80WP, Ridomil 25WP, CurzateM8 ... 1-2 phần ngìn tưới vào gốc. Tránh trồng dưa hấu và các cây cùng nhóm như bí đỏ, bó đao, dưa leo... liên tục nhiều năm trên cùng một thửa ruộng.

+ Bệnh chết rạp cây con, héo dây, tóp thân (nấm Rhizoctonia sp.; Pythium sp.)

Vết bệnh có hình bầu dục màu vàng nâu, đốm nâu nhạt, ướt mềm trên cổ rễ hay phần thân sát mặt đất. Sau đó vết bệnh khô, thắt lại lõm xuống, nhăn nheo. Cổ rễ bị thối nhũn, cây đổ ngã, lá non vẫn xanh. Nấm chỉ gây hại ở giai đoạn cây con, bệnh còn làm thối đít trái. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm độ cao. Nấm lưu tồn trên xác thực vật sau vụ thu hoạch. Phun Scor, Monceren, Validacin 5L, Anvil 5SC, Rovral 50WP, Ridomil 25WP 1-2%o; Copper -B 2-3%o (thuốc trị bệnh đốm vằn trên lúa đều trị được bệnh này).

+ Bệnh phấn trắng (Do nấm Sphaerotheca funliginea): Triệu chứng là trên lá có từng chỏm mất màu xanh, hóa vàng dần, bao phủ một

lớp nấm như bột trắng che phủ lá. Về sau lá chuyển dần từ màu xanh sang màu vàng úa, khô dần. Phòng trừ: Dùng luân phiên một số thuốc Carbenda 50SC, Bavitin 50FL .

+ Bệnh bã trầu, nứt thân chảy nhựa (do nấm Mycosphaerella melonis): Bệmh này nông dân còn gọi là đốm lá gốc hay bã trầu. Vết bệnh lúc đầu là

những chấm nhỏ màu nâu nằm thành từng đám như bị phun bã trầu lên lá, vết bệnh ở rìa lá thường bị cháy nâu, sau đó héo khô. Trên thân nhất là nhánh thân, có đốm màu vàng trắng, hơi lỏm, làm khuyết thân hay nhánh nơi bị bệnh. Nhựa cây ứa ra thành giọt, sau đó đổi thành màu nâu đen và khô cứng lạ i, vỏ thân nứt ra. Bệnh làm héo dây và nhánh.

Tiêu hủy cây bệnh sau vụ thu họach. Phòng trị luân phiên một trong các loại thuốc Topsin M, Manzate, Penncozeb, Ridomil, Derosal, Anvil, Copper B, Appencarb

Page 160: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

159

super 50 FL với nồng độ 1-2%o hoặc Tilt 250 EC, Nustar 40 EC, Mexyl-MZ 72WP từ 2-3cc /bình phun 8 lít. Tránh bón nhiều phân đạm, bệnh dễ phát triển và lây lan nhanh, trồng dưa nơi thoáng gió, đủ ánh nắng.

+ Bệnh chạy dây, chết muộn, héo rũ: Cây bị mất nước, chết khô từ đọt, thân đôi khi bị nứt, bệnh làm chết rạp từng

đám lúc cây còn non. Trên cây trưởng thành, nấm gây hại từ thời kỳ ra hoa đến tượng trái, cây dưa bị héo từng nhánh rồi chết cả cây sau đó hoặc héo đột ngột như bị thiếu nước. Phòng trị: nên lên luống cao, làm đất thông thoáng, bón thêm phân chuồng, tro trấu, nhổ bỏ cây bệnh, kết hợp phun các loại thuốc sau: Copper-B, Derosal 60WP, Rovral 50W, Topsin -M 50WP, Zin 80WP hoặc Appencarb, Supper 50FL, Alliette 80WP, Ridomil 25WP, Curzate M8 ... tưới vào gốc (nồng độ và liều lượng ghi trên bao bì).

+ Bệnh thán thư (nấm Colletotrichum lagenarium) Bệnh gây hại trên lá trưởng thành, vết bệnh có vòng tròn nhỏ đồng tâm, màu

nâu sẩm, quan sát kỹ thấy những chấm nhỏ nhỏ li ti màu đen tạo thành các vòng đồng tâm, trên cuống lá và thân cũng có những vết màu nâu. Vết bệnh trên quả có màu nâu tròn lõm vào da, bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối quả. Bệnh xuất hiện nặng và thời điểm trồng dưa sớm vụ Noel do trời còn mưa hoặc ruộng tưới quá nhiều nước, ẩm độ cao. Phun Manzate 200, Mancozeb 80WP, Antracol 70W, Curzate M8, Copper-B, Topsin-M, Benlat -C 50WP nồng độ 2-3 phần nghìn. 6.2.9. Thu hoạch Quả sau khi đậu được 30 - 35 ngày tuổi, khoảng 65 - 70 ngày sau trồng, quả lớn đạt kích thước tối đa của giống; vỏ bóng láng, gân nổi rõ trên mặt trái; nơi vỏ trái tiếp xúc với mặt đất trở nên vàng; dây, lá, tua cuốn ở đốt mang trái bắt đầu chuyển sang vàng, cuống quả đã khô thì có thể thu hoạch được. Thời điểm thu hoạch tùy giống và thời vụ, điều kiện vận chuyển đến thị trường tiêu thụ xa hay gần. Thu hoạch dưa hấu thương phẩm thường được thu khi quả có độ chín 80 - 90%. Gõ lên trái có tiếng âm thanh thấp (hàm lượng nước trong tế bào giảm) là quả già chín, âm thanh cao là quả chưa đủ độ chín. Tốt nhất kết hợp quan sát đặc điểm hình thái bên ngoài quả với bổ một vài quả để đánh giá độ chín và đem đối chiếu với số quả trên ruộng để quyết định ngày thu hoạch. Cần ngưng tưới nước 4-5 ngày trước khi thu hoạch, giúp dưa ngon ngọt, ít dập bể khi vận chuyển và bảo quản được lâu.

Khi thu hoạch nên cắt chừa cuống và đoạn thân hai bên cuống 10 -20cm. Nếu dưa trồng đúng kỹ thuật có thể trữ 15-20 ngày sau thu hoạch mà vẫn còn ăn được. Năng suất trung bình trong vụ Xuân - Hè (vụ chính) ở một số tỉnh miền Trung 20 - 25 tấn /ha, vụ Hè - Thu trồng trên đất lúa 1 vụ đạt năng suất 10 - 20 tấn/ha (giống Hắc Mỹ Nhân). 6.2.10. Để giống và bảo quản hạt giống

Page 161: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

160

Dưa hấu là cây thụ phấn chéo nên khi để giống cần cách ly với các ruộng lân cận và trong vùng trồng nhiều giống khác nhau.

Chọn quả to, cân đối, chín hoàn toàn trên dây, không sâu bệnh, thu về để nơi mát 5 -10 ngày cho thật chín, cắt bỏ phần đỉnh và đáy quả, bổ lấy hạt ở đoạn giữa quả.

Ủ hạt 1-2 ngày (dụng cụ đựng hạt bằng sứ hoặc nhựa) cho chất nhờn quanh hạt bị phân hủy, rửa hạt trong nước sạch rồi đem phơi nắng nhẹ một số ngày cho khô (độ ẩm hạt đảm bảo 12 - 13%), rồi cho vào chai lọ, đậy kín và bảo quản.

Năng suất hạt/quả khoảng 3-5g.

RAU ĂN CỦ CẢI CỦ (Raphanus sativus L.)

Tiếng Anh : Radish Thuộc họ Thập tự: Crucifea Số lượng nhiễm sắc thể 2n = 18; 36 (radish) 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY CẢI CỦ 1.1. Nguồn gốc Cây cải củ là một loại rau ăn củ vừa là cây rau 2 năm vừa là cây một năm. Nhiều tài liệu cho rằng cải củ hoang dại có nguồn gốc từ Nhật Bản và Địa Trung Hải. Sau đó được trồng ở nước Anh 1548, châu Mỹ 1692. Dạng cải củ trắng, dài, xuất hiện ở châu Âu vào thế kỷ XVI. Thế kỷ XVIII loại cải củ tròn phát triển đầu tiên là cải củ trắng sau đó là cải củ đỏ. Trong quá trình phát triển và tiến hoá, có nhiều dạng và màu sắc củ (dài, tròn, ngắn, hình lê, thậm chí dẹt, màu trắng, đỏ, đen, vàng) đã được trồng. 1.2. Giá trị dinh dưỡng và kinh tế

Củ cải trắng là củ của cây cải củ. Cải củ ngoài cách dùng củ làm thức ăn còn dùng lá để luộc, muối dưa. Củ cải được chế biến tương đối nhiều món: thái mỏng muối dưa, luộc ăn uống nước, kho với thịt, xào với trứng hoặc thịt, nấu canh, làm gỏi, ngâm nước mắm thành món dưa ngâm, ăn quanh năm, phơi khô dự trữ để làm dưa.

+ Cải củ là một nguồn vitamin lớn: Trong củ có chứa 15 - 45mg/100g và nhiều loại chất khoáng khác. Cải củ đỏ chứa nhiều vitamin hơn cải củ trắng.

+ Ngoài ra cải củ còn chứa các loại đường: trong đó đường Gluco là quan trọng nhất.

+ Nguồn nguyên liệu trong công nghiệp chế biến: Mùi đặc trưng của cải củ là isothioxyanat và màu sắc của cải củ là do sắc tố antoxian, lá cải củ là nguồn chiết xuất protein quan trọng, hạt cải củ được dùng để chế biến dầu trong công nghiệp thực phẩm và mỹ phẩm

Page 162: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

161

Bảng 20.Thành phần các chất chứa trong củ và thân lá cải củ

Củ Lá và quả Thành phần các chất

Cải củ trắng Cải củ đỏ Lá Quả Độ ẩm (%) Protein (g) Chất béo (g) Chất xơ (g) Cácbuahydrat (g) Chất khoáng (g) Can xi (mg) Photpho (mg) Sắt (mg) Vitamin (I.U.) Thiamin (mg) Riboflavin (mg) Axit nicotinic (mg) Vitamin C (mg)

94,7 0,7 0,1 0,8 3,4 0,6 50 22 0,4 5

0,06 0,02 0,5 15

90,8 0,6 0,3 0,6 6,8 0,9 50 20 0,5 5

0,06 0,02 0,4 17

90,3 2,7 0,6 0,9 3,4 2,1 310 60

16,1 18,66 0,03 0,16 0,3 10,3

90,5 2,3 0,3 1,4 4,7 0,8 80 100 2,8 50

0,07 0,05 0,2 69

(Theo Gopalan và Balasubramanium 1996) 2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC

- Cải củ là loại rau có rễ cái (rễ cọc): Rễ cái phát triển phình to ra dùng làm thực phẩm gọi là củ. Củ có hình dạng khác nhau tuỳ thuộc vào giống (có thể tròn hay dài), các rễ dinh dưỡng kém phát triển do đó kém chịu hạn, chịu úng. Bộ lá tương đối phát triển (trong điều kiện khí hậu lạnh).

+ Cải củ thuộc nhiều họ khác nhau: So với các loại rau ăn lá và ăn quả, số lượng và chủng loại các loại rau ăn củ ít hơn nhiều và chủ yếu tập trung vào vụ Đông Xuân. Chúng thuộc nhiều họ khác nhau. Bộ phận gọi là củ có thể là rễ hình thành (cải củ, cà rốt, củ đậu), thân ngầm (khoai tây). Các loại rau ăn củ có nhiều khả năng năng dự trữ và chế biến.

Trong cơ cấu trồng trọt, bên cạnh các cây rau họ đậu cần bố trí một tỷ lệ nhất định các loại rau ăn củ để cải tạo dần tính chất và độ màu mỡ của đất, tạo điều kiện cho cây trồng sau đạt năng suất cao.

3. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH

- Cải củ ưa khí hậu mát, lạnh: Cải củ ưa khí hậu mát, lạnh nhưng có thể chịu được nóng, tuy nhiên phụ thuộc vào giống. Nhiệt độ thích hợp 18- 25oC, trên 30oC, củ bị ức chế, vì thế cải củ vụ chiêm không có củ to, lá cứng, ăn hăng, ít ngon.

- Cải củ kém chịu hạn và chịu úng: (bộ rễ kém phát triển), độ ẩm đất thích hợp 60 -70%, ưa đất cát pha, đất phù sa, thoát nước nhanh., không chịu úng.

Page 163: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

162

4. KỸ THUẬT CANH TÁC 4.1. Giống

Ngoài các giống lai F1 nhập nội, hiện nay các tỉnh phía Bắc thường trồng và để giống một số giống tốt như cải củ Tứ Liên (Hà Nội), cải củ chiêm Thái Bình. Giống Tứ Liên cho củ dài, to đều, vỏ mỏng, trắng. Củ ăn nổi trên mặt đất, lá thưa, dọc nhỏ và ngắn. Củ dài trung bình 18 - 20cm, đường kính củ 2 - 4cm. Khối lượng cả thân, củ và lá khoảng 300 - 400g, trong đó củ nặng 250 - 300g. Thịt củ chắc, không xốp rỗng, phẩm chất tốt, được nhiều người ưa dùng. Thời gian sinh trưởng 45 -55 ngày. Giống cải củ Thái Bình, củ to và ngắn hơn cải củ Hà Nội, thích hợp cho trồng trái vụ, cho năng suất cao, được trồng nhiều ở các huyện của tỉnh Thái Bình.

4.1. Thời vụ - Miền Bắc: Củ cải có thể được trồng thành có 3 vụ

Vụ sớm: gieo vào tháng 6, 7 thu vào giữa tháng 8 đầu 9 Vụ chính: Gieo vào tháng 8 - 9 thu vào tháng 9 - 10 Vụ muộn: Gieo tháng 10 - 11 thu vào tháng 12 -1 (củ thường bị xốp) Trái vụ gieo từ tháng 4 - 6, nhưng cho năng suất thấp.

- Miền Trung: Vụ sớm: gieo tháng 9 thu tháng 11. Vụ chính: Gieo vào tháng 10 -11 thu tháng 12, 1 Vụ muộn: Gieo tháng 12 thu tháng 2 (củ thường nhỏ).

4.2. Làm đất, bón phân và gieo hạt Đất được cày phơi ải để hạn chế sâu bệnh, lên luống rộng 1,2-1,4m, cao 30cm, rãnh rộng 30cm.

- Phân bón: Phân chuồng ủ mục 10-15 tấn/ha hoặc phân hữu cơ vi sinh từ 2,5-3 tấn/ha. Đạm urê 100-110 kg/ha. Nếu sử dụng phân bón lá sinh học phun từ 2-3 lần cách nhau 7-10 ngày/lần thì lượng đạm urê chỉ cần từ 40-60 kg/ha, supe lân 300 kg/ha, kali sunphat 80 kg/ha.

Toàn bộ phân chuồng ủ mục hoặc phân hữu cơ vi sinh cùng với phân lân dùng bón lót trộn đều, rải trên mặt luống hoặc bón theo rạch trước khi gieo. Số phân đạm và kali dùng tưới thúc vào 2 thời kỳ: lần 1 khi cây 3-4 lá thật, kết hợp tỉa và vun xới lần 1; lần 2 khi cây phình củ, kết hợp tỉa và vun xới lần 2.

Nếu dùng các loại phân bón lá sinh học thì căn cứ vào chỉ dẫn sử dụng của từng loại phân để xác định liều lượng thích hợp.

- Gieo hạt: Có thể gieo đều trên mặt luống sau khi đã bón lót phân và san phẳng mặt luống.

Page 164: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

163

Để tiện chăm sóc, rạch 3 hàng dọc trên luống: khoảng cách hàng cách hàng 25 - 30cm, cây cách cây 20cm. Lương hạt gieo 10 -12kg/ha. Hạt gieo xuống xong cần được phủ bởi một lớp mùn hoặc trấu. Hàng cách hàng 25 - 30cm, hạt cách hạt 5 -10cm. 4.3. Tưới nước và chăm sóc Sau khi gieo cần phủ rơm, rạ, tưới giữ ẩm cho hạt nảy mầm đều, kết hợp làm cỏ, tưới thúc nước phân loãng.

Vun xới, tỉa cây: củ cải là cây có thời gian sinh trưởng ngắn 45-55 ngày, vì vậy chỉ cần tỉa cây và vun xới 2 lần kết hợp bón thúc: lần 1 khi cây 3-4 lá thật, nhặt cỏ, tỉa bỏ cây xấu và xới nhẹ; sau 5- 7 ngày lại tiến hành tỉa lần 2, để lại khoảng cách cây x cây 15 - 20cm, khi cây bắt đầu phình củ, tỉa định cây kết hợp với vun cao. Chú ý xới nông để tránh làm đứt rễ, long gốc, chết cây. Bón thúc đợt 3 lúc củ đang phình to sau đó xới phá váng và vun. 4.4. Phòng trừ sâu bệnh:

Sâu bệnh hại cải củ chủ yếu rệp và bọ nhảy, bệnh hại chủ yếu là chết ẻo cây con và thối củ. Có thể dùng các loại thuốc đặc hiệu cho các loài sâu bệnh này như các loại cải khác.

4.5. Thu hoạch và để giống

- Thu hoạch: Sau 45-55 ngày gieo có thể thu hoạch, nếu thu hoạch muộn củ sẽ xốp và giảm

chất lượng hàng hoá. Thu hoạch xong rửa sạch củ, để khô ráo và xếp vào bao, sọt... vận chuyển đi tiêu thụ.

- Để giống: Chọn cây để giống: Trên ruộng trồng cải củ, chọn những cây mang đặc trưng

đặc tính tốt cho giống, củ đẹp, đều, không bị sâu bệnh. Tiến hành để giống: Để giống cải củ bằng kỹ thuật trồng cắt mặt củ: Muốn để giống cải củ tốt nhất là

gieo thẳng vào đầu tháng 10, thu hạt vào tháng 3 năm sau sẽ cho năng suất cao nhất. Nếu trồng bằng củ cắt mặt thì trồng vào cuối tháng 12 đến tháng 1 năm sau sẽ cho chất lượng hạt giống tốt nhất. Chọn đất không bị cớm rợp, thoát nước tốt, làm đất nhỏ, nhặt sạch cỏ dại, lên luống cao 20-25cm, rộng 1-1,2m; bón lót 5 - 6 tạ phân chuồng hoai mục ủ với 2% supe lân, nếu đất chua (pH dưới 5,5) bón thêm 20kg vôi bột/sào trước khi làm đất.

Chọn cây có củ to, đều, không bị xây xước cắt bỏ bớt phần dưới củ chỉ lấy 1/3 củ phía dưới đất (non củ) và để khoảng 15 - 18 cm lá. Cắt bỏ phần chóp củ (cắt vát để mặt cắt chóng khô). Chấm mặt cắt vào tro bếp, khi lát cắt se trồng theo hàng với khoảng cách 30 - 40cm hoặc 40 x 50cm (ruộng giống đã được làm đất sẵn) tuỳ giống và đất đai ấn chặt đất quanh gốc và tưới giữ ẩm liên tiếp cho cây ra rễ. Sau trồng 15

Page 165: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

164

ngày tiến hành tưới thúc (bằng phân hỗn hợp hoặc nước phân chuồng, không tưới riêng đạm). Tuỳ điều kiện sinh trưởng của cây mà có số lần tưới, lượng tưới thích hợp. Khi cây trổ ngồng thì bấm ngọn để kích thích ra nhánh, sẽ thu được nhiều hoa và quả. - Lấy hạt:

Khi quả chuyển từ màu xanh sang màu vàng thì cho thu hoạch. Cắt cả cành bó lại, đem về để trong hiên nhà 3-7 ngày sau đó phơi, vò lấy hạt. Năng suất hạt có thể đạt 600 - 1000kg/ha. Có thể để giống bàng cách gieo thẳng vào thời vụ muộn tháng 10 - 11, không thu hoạch để cây lên ngồng, khoảng tháng 3 - 4, thu hoạch nhưng năng suất thấp, quả bị lép nhiều, hạt không đạt chất lượng. Gieo thẳng tiết kiệm được công lao động, phù hợp với sản xuất quy mô diện tích lớn, nhưng không chọn lọc được theo ý muốn, do vậy giống dễ bị thoái hoá .

MỘT SỐ LOẠI RAU TRONG NHÓM RAU GIA VỊ

CÂY ỚT CAY (Capsicum annuum L.)

Tiếng Anh: Chili, hot pepper Họ cà: Solanaceae Số lượng NST: 2n = 24 1.GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG, GIÁ TRỊ KINH TẾ, NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÂN BỐ. 1.1. Giá trị dinh dưỡng

- Ớt là một loại rau quả gia vị, rất cần thiết trong mỗi bữa ăn của mỗi người, có

lịch sử trồng trọt từ lâu đời ở nước ta và được ưa chuộng nhất trong nhóm cây gia vị. . Ớt chứa nhiều chất dinh dưỡng dễ tiêu hoá như đường, đạm, caroten (tiền vitamin A), các sinh tố khác như vitamin C, B1, B2,...

Theo J.M.Poulos (1994), phân tích 100g ớt phần ăn được có chứa 1,9g protein; 1,9g chất béo; 9,2g cacbuahydrate; 1,2g Fe; 14,4mg Ca; 163-250mg vitamin C, 10mg Caroten; và 109 calo. Vitamin C, và tiền vitamin A đứng đầu trong các loại rau gia vị. Đặc biệt trong ớt có nhiều chất cay không màu, dạng tinh thể gọi là Capsicain (C18H27NO3) hay Capsisin, là một ancaloid có vị cay, thơm ngon, chiếm từ 0,34- 2% hàm lượng chất khô, tạo ra vị cay hấp dẫn và không thể thiếu được trong nhiều món ăn.

- Ớt là nguyên liệu có giá trị trong công nghiệp chế biến xuất khẩu:

Page 166: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

165

Chất cay của ớt dùng để chế biến thuốc chữa bệnh, nước hoa, dùng trong y học, trong quốc phòng.Tinh dầu ớt được chiết để điều chế thuốc chống thấp khớp, rượu ớt đỏ là loại thuốc chống bệnh hoại huyết, ớt ngọt dùng làm thực phẩm (còn gọi là ớt thực phẩm), làm thức ăn trộn (salad), nhồi thịt....ớt cay chủ yếu làm làm gia vị, rất dễ chế biến và sử dụng, có thể ăn tươi, nấu chín, chế biến làm tương ớt, nước ớt, muối chua, muối mặn, xay bột, ép nước. Ớt có màu sắc đẹp, có thể trang điểm thêm cho bữa ăn càng thêm sức hấp dẫn, ớt đã tham gia vào ngành công nghiệp chế biến đồ hộp (tương ớt ở Mỹ).

1.2. Giá trị kinh tế

Ớt là cây gia vị quen thuộc với nhân dân. ớt cay xay thành bột là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị trong nhiều năm gần đây. Nếu chế biến được tinh dầu ớt thì giá trị xuất khẩu lại càng tăng lên gấp bội.

Từ năm 1986-1990 là thời kỳ trồng ớt xuất khẩu mạnh nhất, mỗi năm nước ta xuất khẩu trên 2000 tấn ớt bột khô sang thị trường Liên Xô (cũ) .

Một tấn ớt bột xuất khẩu loại một thu được 1400 - 1500 rúp tương đương 7 tấn đạm urê hoặc 17- 18 tấn thóc, 1 tấn lạc nhân 450 - 500 rup, một tấn gạo ngon 300- 350 rup (1987). Nó là mặt hàng xuất khẩu cao và ổn định về giá cả trong vòng 5 năm (1985-1990) nhưng khi thị trường các nước Đông Âu bị mất thì hiện nay ớt được xuất khẩu dưới dạng muối mặn (10-20% muối) hoặc quả khô bằng con đường tiểu ngạch ra nước ngoài. Xuất khẩu qua công ty Rau quả mỗi năm khoảng 500-700 tấn ớt quả tươi. Một sào trồng ớt thu lãi 1-1,6 triệu đồng trên vụ. Ớt là nguyên liệu trong công nghiệp chế biến thực phẩm, làm gia vị. Vì chất cay tan trong nước và không bị mất mùi vị do đun nấu hoặc bảo quản.

Cây ớt rất dễ tính, kỹ thuật gieo trồng và đầu tư cho sản xuất ít tốn kém và phức tạp so với một số cây trồng khác. Ớt được trồng trên nhiều chân đất khác nhau, nếu chăm sóc đúng kỹ thuật thì trên đất kém màu mỡ vẫn cho năng suất, hiệu quả kinh tế khá hơn một số cây màu, cây công nghiệp khác cũng trồng trên đất ấy. Vì vậy đẩy mạnh trồng ớt là điều kiện sử dụng có hiệu quả các loại đất, góp phần cải tạo đất trong một chế độ luân canh thích hợp đồng thời tận dụng được sức lao động ở địa phương để phát triển nông nghiệp toàn diện.

1.3. Nguồn gốc và sự phân bố của cây ớt

Cây ớt có nguồn gốc từ rất cổ xưa. Người ta đã tìm thấy quả ớt khô trong ngôi mộ cổ của Pêru hàng ngàn năm về trước. Nhiều tác giả khẳng định rằng ớt có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ và được trồng trọt lâu đời ở Pêru, Mêhicô. Trung tâm khởi nguồn của ớt có thể là Mêhicô, trung tâm thứ hai là Guatêmala và trung tâm thứ ba là Amazôn, Pêru và Bôlivia và phân bố phân bố rộng rãi ở châu Mỹ cả dạng hoang dại và dạng trồng trọt.

Page 167: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

166

Ớt là cây trồng được Christop Culông đưa đến Tây Ban Nha vào năm 1493 khi ông ghé nước này trên hành trình trở về sau chuyến đi vòng quanh thế giới. Ớt vào châu Âu đầu thế kỷ thứ XVI, việc gieo trồng ớt phổ biến từ vùng Địa Trung Hải đến nước Anh vào năm 1548 và đến Trung Âu vào cuối thế kỷ thứ XVI. Sau đó người Bồ Đào Nha mang ớt từ Braxin đến Ấn Độ vào năm 1885.

Ớt vào châu Á đầu thế kỷ XV, được trồng ở Trung Quốc và lan rộng qua Nhật Bản, Bán đảo Triều Tiên .

Ớt là cây "đặc sản" của vùng nhiệt đới, các giống ớt trồng ở vùng này thuộc nhóm cay hoặc hơi cay. Tuy nhiên ngày nay ớt được trồng rộng rãi trên toàn thế giới từ 55oB - 55oN, đặc biệt nhiều nước ở châu Mỹ và một số nước châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam, Malaysia. Nước trồng ớt sớm nhất ở Đông Nam Á là Inđônesia, sớm hơn châu Âu.

Nước trồng ớt nhiều nhất là Ấn Độ (70 - 80 ngìn tấn ớt/năm), Brazin (40-50ngìn tấn/năm), Liên Xô (cũ), Trung Quốc (30 - 40 ngìn tấn), Bungari, Hunggari (20 - 25 ngìn tấn).

Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu đầy đủ về lịch sử trồng trọt ớt cay, nhưng căn cứ vào sự đa dạng của các giống địa phương đã khẳng định ớt được trồng từ rất lâu đời. Nhiều giống ớt cũng được người Pháp đưa sang trồng rất sớm, từ đó ớt được trồng phổ biến ớ các vùng sinh thái khác nhau và chủ yếu trong vụ Xuân Hè.

Trong khu vực này có nhiều giống ớt địa phương được hình thành để phục vụ cho từng mục đích sử dụng khác nhau. 2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC 2.1. Bộ rễ

- Thuộc loại rễ chùm: Rễ ăn sâu và phân nhánh mạnh về bốn phía, có thể ăn sâu tới 70 -100 cm (gieo cố định) nhưng chủ yếu tập trung ở tầng đất 0 - 30cm. Phân bố theo chiều ngang với đường kính từ 50 -70 cm. Có hai loại rễ: rễ chính (rễ trụ) và rễ phụ (rễ bên).

- Bộ rễ có khả năng tái sinh nên có thể thông qua thời kỳ vườn ươm và nhổ đi trồng trần.

- Bộ rễ ớt rất háo nước, ưa ẩm, ưa tơi xốp, không có rễ bất định. - Rễ ớt sợ ngập úng, chịu hạn khá hơn so với một số loại cây rau khác. Sự phát triển của bộ rễ ớt có liên quan với các bộ phận trên mặt đất, hay sự phân

nhánh của rễ có liên quan đến sự phát triển của cành cấp 1, cấp 2, cấp 3 trên thân. Gieo ớt ở nơi cố định, thời gian đầu sau 4 - 6 tuần, rễ chính ăn sâu tới 20cm.

Thời gian này phân biệt rõ rễ chính và rễ phụ, về sau khi rễ phụ phát triển mạnh, phân nhánh nhiều thì không rõ giữa rễ chính và rễ phụ. Ớt gieo thẳng chống hạn tốt, rễ có thể ăn sâu lớp đất ở phía dưới trong một thời gian dài hơn. Trường hợp trồng bằng cây

Page 168: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

167

con, rễ chính bị đứt, do đó kích thích rễ bên phát triển mạnh hơn và phân bố chủ yếu ở tầng đất mặt.

- Bộ rễ ớt ăn nông hay sâu, mạnh hay yếu có liên quan đến mức độ phát triển các bộ phận trên mặt đất. Phụ thuộc vào phương pháp trồng, cấu tượng của đất, loại đất, độ ẩm và chế độ canh tác. Khi tưới nước đầy đủ, bộ rễ ăn nông phân bố rộng và ngược lại khi gặp hạn, rễ ăn sâu và phân bố hẹp.

- Nắm được đặc tính của rễ ta phải giữ ẩm, chống úng, xới xáo, vun gốc cho cây vững chắc và tăng diện tiếp xúc của rễ. 2.2. Thân

Thân thuộc loại thân gỗ, thân tròn, dễ gãy, một số giống còn non thân có lông mỏng. Khi thân già, phần sát mặt đất có vỏ xù xì, hoá bần. Thân chính cây ớt dài hay ngắn phụ thuộc vào giống, thường biến động 20 - 40cm thì ngừng sinh trưởng, trong lúc đó các nhánh mọc ra từ thân chính phát triển mạnh nhánh cấp 1, 2, 3,... Khi cây già thì khó phân biệt thân chính và các nhánh cấp. Trên thân các cành phát triển mạnh và mọc đối xứng hoặc so le tuỳ giống, kiểu lưỡng phân tạo cho cây ới có dạng nón lật ngửa, do vậy rất dễ đổ khi gặp mưa, gió mạnh (đa số các giống ớt hiện nay, các cành cấp 1 mọc so le còn các cành xa cấp 1 mọc đối). Sự phân cành trên thân chính cao hay thấp, sớm hay muộn là phụ thuộc vào đặc tính của giống và kỹ thuật canh tác.

2.3. Lá ớt

Lá ớt ngoài nhiệm vụ quang hợp, thì còn là một đặc điểm rất quan trọng để phân biệt giữa các giống với nhau. Lá có hai dạng chủ yếu: Dạng elip (bầu dục), dạng lưỡi mác.

- Phiến lá nhẵn không có răng cưa, đầu lá nhọn, gân lá dày nổi rõ, phân bố dày và so le.

- Cuống lá mập, khoẻ, dài, chiều dài cuống thường chiếm 1/3 so với tổng chiều dài lá (2,5 - 5cm) tuỳ giống.

- Lá ớt thường có màu xanh đậm, xanh nhạt, xanh vàng và màu tím. Một số giống trên mặt lá non có phủ lông tơ.

- Diện tích, hình dạng, màu sắc lá phụ thuộc vào giống và điều kiện trồng trọt. - Lá ớt nhiều hay ít có ảnh hưởng đến sản lượng quả sau này. Lá ít không những ảnh hưởng đến quá trình quanh hợp của cây mà còn làm cho ớt ít quả vì ở mỗi nách lá nơi phân cành là vị trí ớt ra hoa ra quả. 2.4. Hoa ớt Ớt là cây hàng năm (cây 1 năm). Hoa lưỡng tính (tự thụ phấn). Công thức cấu tạo của hoa: K5C5A5G5, đầu nhụy chia hai vòi dài, rất thuận tiện cho quá trình tự thụ phấn. Hoa mẫu 5, đều, thường có hiện tượng rụng hoa, rụng nụ trên cây. Hoa thường

Page 169: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

168

phân bổ đơn hoặc thành chùm (1- 3 hoa/chùm nhưng rất ít). Nhị có túi phấn tách rời và hợp lại thành 2- 3 bó.

Mỗi hoa đều có cuống hoa, phát sinh từ nách lá và 2 cánh đối xứng nhau. Cuống hoa màu xanh, đầu cuống hoa loe ra thành đế hoa. Trên các đế hoa có các bộ phận chính như đài, tràng, nhị, nhụy hoa

Khi gặp điều kiện ngoại cảnh bất lợi cho quá trình thụ phấn, thụ tinh và sinh trưởng dinh dưỡng, thì lớp tế bào riêng lẻ có cấu tạo đặc biệt, bằng nhu mô được hình thành nơi đính cuống hoa (với cành nách lá). Lớp tế bào này sẽ chết đi hình thành tầng rời và làm cho hoa bị rụng, sự mẫn cảm của lớp tế bào này đối với điều kiện ngoại cảnh là phụ thuộc vào giống.

Hoa ớt có màu trắng nở vào buổi sáng lúc 9 - 10h sáng. Qua quá trình phân hoá mầm hoa chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như nhiệt

độ, ánh sáng, ẩm độ, dinh dưỡng, và tỉ lệ C/N trên cây - Căn cứ vào đặc tính ra hoa phân loại ớt như sau: + Loại hình sinh trưởng vô hạn: Khi có nhánh đầu tiên thì hoa xuất hiện sau đó cứ tiếp tục ra hoa khi có cành xuất hiện ở các cấp, cây tiếp tục sinh trưởng cho đến khi chết. Đa số các giống ớt năng suất cao hiện nay đều sinh trưởng vô hạn (cây cao cành nhiều). + Loại hình sinh trưởng hữu hạn: Khi cây xuất hiện cành thứ nhất thì có hoa đầu tiên. Hoa tiếp tục xuất hiện trên các cành thứ cấp khoảng đến cành cấp 4,5 thì cuối ngọn xuất hiện chùm cuối cùng và cây ngừng sinh trưởng chiều cao. Hiện nay loại này nước ta ít sử dụng. 2.5. Quả và hạt

Quả ớt thuộc loại quả mọng, nhiều nước có 2- 3 ô cách nhau bởi vách ngăn dọc theo trục quả (lõi quả). Cấu tạo quả chia làm 3 phần (từ ngoài vào trong): + Thịt quả, xơ thịt (lõi quả) và hạt + Nửa quả gần cuống to hơn và chứa nhiều hạt hơn nửa quả phần ngọn. Hạt ớt nằm tập trung xung quanh lõi quả. Phần lớn chất cay được tập trung phân giữa đến cuống quả. Quả ớt chín có màu đỏ, vàng hoặc tím đen Dạng quả: to hoặc nhỏ, dài hoặc nhọn cuối quả (chìa vôi), quả dài cong ở cuối quả (sừng bò), quả tròn dài. Ớt ngọt quả to hơn. Ớt cay, ớt ngọt có nhiều hình dạng: tròn dẹt như quả cà chua, tròn dài như quả cà tím, quả đào tròn bầu như quả lê, hoặc dạng sừng bò, chìa vôi phụ thuộc vào đặc tính của giống và kĩ thuật canh tác + Độ lớn của quả, trọng lượng và số lượng quả trên hạt nhiều hay ít phụ thuộc vào giống, do đó tỉ lệ chất khô/tươi trên cây cũng phụ thuộc vào giống và biện pháp kĩ thuật, hàm lượng chất cay, dinh dưỡng thay đổi ngay trong một quả và phụ thuộc vào giống cũng như chế độ dinh dưỡng, nước.

Page 170: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

169

- Hạt ớt nhẵn, dẹp có màu vàng. P1000 hạt 4 - 5g. Sức nảy mầm hạt giống khá cao, nếu bảo quản tốt có thể giữ được 2- 3 năm

3. M ỘT SỐ GIỐNG ỚT HIỆN NAY TRONG SẢN XUẤT 3.1. Các nhóm giống ớt: Trong sản xuất và đời sống chủ yếu có 3 nhóm giống

- Nhóm ớt cay (ớt gia vị): Ớt được dùng rất phổ biến. Nhóm này có rất nhiều giống (địa phương, F1). Đại diện là ớt chìa vôi, sừng bò, chỉ thiên

- Nhóm giống ớt ngọt (ớt thực phẩm): nhóm giống này không phổ biến trong sản xuất, chủ yếu trồng ở một số vùng chuyên rau, thí nghiệm ở các trường đại học, các Viện, trạm trại nghiên cứu.

- Nhóm giống ớt cảnh: Gồm những giống thấp cây, quả nhiều màu, sử dụng để làm cây cảnh.

3.2. Một số giống ớt phổ biến trong sản xuất: - Giống sừng bò, chìa vôi: quả dài 15-18 cm, đầu nhọn, cong hoặc nhọn vót. Đường kính 1,5-2 cm, màu đỏ tươi. Thời gian sinh trưởng dài từ 150 -180 ngày. Trọng lượng trung bình 100 quả là 150-180 gam, có 30- 80 quả/cây, năng suất 15-20 tạ quả khô/ha, sinh trưởng vô hạn, khả năng thích ứng rộng, phẩm chất tốt, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Giống chìa vôi quả nhỏ hơn nhưng số quả trên cây nhiều hơn (tỷ lệ khô/tươi 14%). - Giống chỉ thiên (quả to): quả dài từ 5- 8 cm, quả nhọn, khi mọc quả chỉ thẳng lên trời (nên được gọi là chỉ thiên), đường kính quả từ 0,7-1cm. Cây cao nhiều cành, thời gian sinh trưởng dài (trên 200 ngày). Nếu trồng phân tán trong vườn thì có thể sống 2-3 năm. Trọng lượng 100 quả là 50- 60 gam, năng suất trung bình từ 5- 8 tạ quả khô/ha (tỷ lệ khô/tươi 20%, phẩm chất tốt, khả năng thích ứng rộng, chống chịu điều kiện ngoại cảnh khá. Có thể trồng tận dụng làm bờ rào, thu nhiều lứa quả trên năm do đó giá trị kinh tế cao. 4. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH 4.1. Nhiệt độ Ơt là cây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nên yêu cầu ấm áp, nhiệt độ cao trong suốt quá trình sinh trưởng. Khả năng chịu hạn, chịu nóng khá nhưng chịu rét và úng kém. Phạm vi nhiệt độ cho ớt sinh trưởng phát triển từ 15- 35oC, bắt đầu nảy mầm ở nhiệt độ 15oC, nhưng nảy mầm nhanh ở nhiệt độ 25-30oC. Nhiệt độ thích hợp cho quá trình ra hoa kết quả là 20 - 25oC. Nhiệt độ không khí <10oC và >35oC ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của ớt. Nếu thời gian nhiệt độ cao kéo dài ớt sẽ rụng hoa, rụng quả, rụng lá và chết. Ớt là cây vừa sinh trưởng vừa phát triển nghĩa là vừa ra cành, lá nhưng vừa ra hoa quả trên cây, thời gian từ trồng đến thu hoạch quả/đợt 1 là 80 - 90 ngày (nhiệt độ thích hợp và chăm sóc tốt).

Page 171: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

170

Yêu cầu tổng tích ôn 1 chu kỳ sinh trưởng từ 3.800- 4.000oC . Thời kỳ cây con cần 800 - 900oC. Nếu gặp nhiệt độ thấp thời kỳ cây con bị kéo dài, sinh trưởng chậm. Hoa bị thui, ít hoa, hoa không nở, hoặc không có khả năng thụ phấn thụ tinh.

Yêu cầu nhiệt độ để thông qua giai đoạn xuân hoá có 2 loại: Loại ớt thông qua giai đoạn xuân hoá ở nhiệt độ cao 20- 26oC và loại có phản ứng không rõ với nhiệt độ cao hay thấp. 4.2. Yêu cầu đối với ánh sáng Ớt là cây có nguồn gốc từ vĩ độ Nam nên ưa cường độ ánh sáng mạnh. Hầu hết các giống ở nước ta ưa ánh sáng ngày dài (đòi hỏi thời gian chiếu sáng 12-13h/ngày)và cường độ chiếu sáng mạnh, cường độ ánh sáng từ 40.000- 50.000 lux có thể thoả mãn nhu cầu trong thực tế ớt có thể chịu được cường độ ánh sáng mạnh đến hàng vạn lux. Nhưng nếu trong quá trình sinh trưởng phát triển thiếu ánh sáng liên tục từ 10- 15 ngày, ớt sẽ bị rụng lá, hoa và quả. Thiếu ánh sáng kết hợp nhiệt độ không khí thấp, cây con sinh trưởng khó khăn: vươn dài, vống, quá trình phân hoá mầm hoa cũng bị ảnh hưởng, sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng, năng suất thấp. Vì vậy cần bố trí thời vụ, mật độ thích hợp để tận dụng ánh sáng, bố trí nơi trồng phải đầy đủ ánh sáng. 4.3. Nước, độ ẩm - Ớt là cây có quả mọng nước, cành lá nhiều nên yêu cầu có 1 lượng nước lớn. Ớt yêu cầu độ ẩm đất cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng. + Thời kỳ cây con yêu cầu 70 - 80% +Thời kỳ ra hoa tạo quả yêu cầu 80 - 85% + Giai đoạn chín yêu cầu 70 - 80% +ẩm độ không khí thấp 55 - 65% trong quá trình sinh trưởng

- Độ ẩm đất thiếu: quả bé, ít lứa quả, chín sớm, năng suất thấp. Độ ẩm cao quá trước khi cây nở hoa sẽ làm sinh trưởng dinh dưỡng quá mạnh, thời kỳ ra hoa thụ phấn thụ tinh khó khăn, hoa bị rụng. Thời kỳ quả chín quả dễ bị bệnh, và lâu chín, tỷ lệ khô/tươi thấp. Phải tưới nước, che tủ luống giữ ẩm, chống úng cho ớt.

4.4. Dinh dưỡng và đất trồng - Dinh dưỡng:

Ớt là cây có năng suất cao, có thời gian sinh trưởng dài, lại vừa ra hoa ra quả, quả lớn cùng một lúc do vậy yêu cầu nhiều dinh dưỡng +Ớt cần dinh dưỡng nhiều về số lượng và chất lượng, mẫn cảm với phân hữu cơ và phân khoáng. Theo tài liệu trồng ớt, ở Hungary, muốn thu được 2 tấn quả khô/ ha phải bón 30 tấn phân chuồng, 400kg urê, 200kg kali, 800kg vôi. Vì vậy, sử dụng phân bón thích hợp sẽ nâng cao chất lượng, sản phẩm ớt. +Trong các nguyên tố dinh dưỡng, ớt hút nhiều đạm thứ đến là kali và lân, Ca cũng rất cần thiết cho quá trình sinh trưởng.

Page 172: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

171

+ Đạm cần trong suốt thời kỳ sinh trưởng. Nhưng cần nhiều nhất vào thời kỳ phân cành đến ra hoa, ra quả vì xúc tiến phát triển cành lá, hoa, quả và là yếu tố quyết định năng suất ớt + Lân xúc tiến ra rễ giúp cho quá trình đồng hoá đạm, xúc tiến sự chín của quả, làm cho quả chín sớm và tăng phẩm chất quả, chống sâu bệnh + Kali xúc tiến quá trình quang hợp, quá trình vận chuyển, tăng cường khả năng hút đạm, chống rét và hạn chế sâu bệnh, tăng trọng lượng quả và phẩm chất quả (bón phân gà vịt cho ớt rất tốt). Tăng khả năng chín sớm và chống đỡ cho ớt. Ớt yêu cầu nhiều dinh dưỡng vào thời kỳ ra hoa, ra quả. Do vậy phải bón kịp thời, đầy đủ cân đối cho các đợt quả ra trước nhiều, đợt quả ra sau không hoặc ít làm giảm trọng lượng. Tỷ lệ NPK thích hợp cho ớt là 2: 0,75 : 1 hay 2:1:1 + Ca: kích thích sự sinh trưởng của rễ, làm cho thân cứng. Tránh ảnh hưởng độc của những nguyên tố làm tăng pH của môi trường dinh dưỡng và tạo điều kiện tốt cho ớt hấp thụ tốt nhất các nguyên tố (lân, vi lượng...). Chú ý:

+Thiếu Ca đỉnh sinh trưởng yếu, lá màu vàng quả nhỏ. Yêu cầu Ca tăng lên trong điều kiện thiếu ánh sáng. + Thiếu kali xuất hiện vết nâu vàng ở mép lá, lá cuộn lại, cây ngừng sinh trưởng, lá héo và chết. + Thiếu lân cũng dẫn đến cây ngừng sinh trưởng, kéo dài thời gian phát dục của quả và chín muộn. Thân có màu nâu tím, lá có màu xanh lục, sau đó màu lục. + Thiếu đạm cây sinh trưởng phát triển kém, cây bé, ít hoa, ít quả, quả bé, năng suất thấp. + Bón phân gà vịt, phân dơi, khô dầu lạc, làm tăng phẩm chất ớt. Ngoài những yếu tố chính, ớt còn yêu cầu các nguyên tố vi lượng để sinh trưởng, phát triển bình thường như Bo, Mo, Mn, Cu, Fe, Mg... bón phân vi lượng sẽ nâng cao sản lượng và chất lượng quả. - Đất trồng: Ớt không kén đất nhưng tốt nhất là trồng trên đất cát pha, thịt nhẹ, đất phù sa ven sông suối (đất bãi hàng năm có ngập nước, được bồi phù sa hoặc đất có độ màu mỡ khá), đất thoát nước, giải nắng, ớt ưa đất tơi xốp, nhẹ, tầng canh tác dày. Đất đồi, đất cát xám nội đồng có mạch nước ngầm cao nếu được chăm sóc tốt đều cho năng suất cao. pH thích hợp 5,5 - 6,5.

5. CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG CỦA ỚT -Nảy mầm: Tính từ khi gieo đến khi 2 lá mầm (8 - 10 ngày) sau khi gieo. Yêu cầu về nhiệt độ : 25 - 30oC, ẩm độ 70 - 80% - Thời kỳ cây con: (2 lá mầm đến 5,6 lá thật) Thời gian 30 - 40 ngày sau gieo. Yêu cầu về nhiệt độ 18 - 20oC, ẩm độ đất 80% .

Page 173: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

172

- Thời kỳ hồi xanh: Sau trồng 5- 7 ngày. Yêu cầu về nhiệt độ là 18 - 20oC, ẩm độ đất là 80%. - Thời kỳ phân cành: 20 - 25 ngày sau trồng. Yêu cầu ẩm độ là 70%, yêu cầu lân đạm kali nhưng nồng độ thấp. - Thời kỳ ra hoa: Sau trồng 40 - 45 ngày. Yêu cầu tối đa về dinh dưỡng, nước, nhiệt độ 20 - 25oC, ẩm độ đất là 80 - 90%. - Ra quả và chín: + Ra quả đợt 1: 50- 60 ngày sau trồng. + Thu quả đợt 1: 90 - 100óau trồng. + Thu quả đợt 2 đến thu quả đợt cuối cùng: 110 - 180 ngày sau trồng.

Thời gian ra quả và thu quả liên tục trên 1 tháng. Giai đoạn này yêu cầu tối đa về dinh dưỡng và nước. Yêu cầu về nhiệt độ 20 - 30oC và ẩm độ đất là 80%. Qua các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ta cần tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp, chọn thời vụ trồng và có chế độ chăm sóc tốt.

6. KỸ THUẬT TRỒNG ỚT 6.1. Thời vụ - Miền Bắc :

Vụ Đông Xuân gieo tháng 11,12 để trồng tháng 12, 1 Vụ Thu Đông gieo tháng 6, 7 trồng tháng 8, 9

- Miền Trung (chủ yếu Bình -Trị - Thiên, Hà Tĩnh): Vụ sớm: gieo từ 20/10- 5/11, trồng 30/11 đến 15/12, tuổi cây con là 40- 45

ngày. Thường trồng cho những vùng gò đồi, bãi cát, nước rút sớm hoặc vùng đất cát. Vụ chính: gieo từ 5/11- 20/11, trồng 15/12- 30/12, tuổi cây con là 40 ngày trồng ở đồng bằng, ven biển.

Vụ muộn: gieo từ 20/11- 5/12, trồng 5/1- 25/1, tuổi cây con là 45 ngày, trồng ở vùng nước rút chậm, đất thấp, được áp dụng chủ yếu do thời tiết mưa hết sớm hay muộn mà áp dụng thời vụ cho từng năm. Thời vụ trồng kết thúc muộn nhất từ 20/2, không được muộn quá. 6.2. Mật độ trồng

Tuỳ thuộc vào đất đai và giống có thể trồng mật độ trung bình 60 x 50 cm với khoảng 32 nghìn cây/ha. Mỗi luống trồng 2 hàng, kiểu nanh sấu trên luống. Mỗi luống rộng từ 0,9 - 1,2m ; cao 20 - 25cm, rãnh luống rộng 20-25cm. Cách ươm cây giống đối với ớt:

Đưa hạt ngâm nước 2 đêm đem bọc vải ủ 3- 4 ngày, nơi có nhiệt độ cao (30oC như gần bếp, lò sưởi) khi hạt nảy mầm thì đem gieo vãi hạt trên luống, phủ một lớp đất bột mỏng, tiếp tục phủ 1 lớp tro trấu hay rơm rạ băm nhỏ phòng mưa to trôi hạt. Tưới nước giữ ẩm. Sau khi gieo 8-10 ngày cây mọc, sau 30 ngày tuổi có thể nhổ đi trồng

Page 174: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

173

được (Xem phần kỹ thuật vườn ươm và xử lý thúc mầm). - Lượng hạt gieo khoảng 1 ha trồng cần 1kg hạt giống trong đó kể cả giống dự phòng (0,2kg).

6.3.Làm đất và bón phân

- Chọn đất : Cây ớt không kén đất, nhưng để ớt sinh trưởng thuận lợi thì cần chọn đất thịt nhẹ, cát pha, cát nội đồng, pH trung tính (6-7). Ớt trồng luân canh tốt với các cây hoa màu, đậu đỗ đất mạ chiêm xuân. Đất trồng ớt phải cày bừa sạch cỏ, bón vôi khử chua, diệt mầm mống sâu bệnh. Bổ hốc sâu 10-15cm để bón phân hữu cơ (nơi đất ẩm thấp có thể trồng 3-5cm).

- Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha là 20 - 25 tấn phân chuồng, 10 - 15 tấn phân xanh (rong rêu, phân xanh, bèo tây), 80- 100kg N; 70- 80kg P2O5, 100 -120kg K2O theo tỷ lệ 2:1 :1 hay 2: 0,8 :1 và 400-500kg vôi bột. Vôi được bón lúc cày ải trước trồng 10-15 ngày. Cách bón: + Bón toàn bộ phân lân cộng với phân chuồng vào hốc + 1/4 lượng đạm + 1/4K2O trộn đều trong nước + Bón thúc 3 lần :

* Lần 1: Sau trồng 15 - 20 ngày 1/4N +1/4K2O. Nếu có phân xanh thì bón phủ (phải 10 tấn/ha)

* Lần 2: Bắt đầu ra hoa 1/4N + 1/4K2O. Che tủ phân xanh còn lại lên luống và lấp đất. * Lần 3: Sau khi quả lứa 1 chín: 1/4N +1/4K2O còn lại. Ngoài ra có thể thúc

thêm phân hữu cơ dung dịch lúc ớt ra quả. - Chú ý: Nếu phân chuồng hoai mục muốn bón hiệu quả hơn thì lót 1/2 và 1/2 còn lại thúc vào thời kỳ bắt đầu ra hoa (bón vào giữa 2 hàng ớt và lấp đất, kết hợp tủ phân xanh giữ ẩm, chống cỏ dại, có thể dành toàn bộ N + K để thúc mà không bón lót vì sợ xót cây khi trồng). 6.4. Trồng ớt Trộn đều phân và lấp 1 lớp đất mỏng, sau đó đặt cây theo chiều thẳng đứng tự nhiên cho rễ phân bố đều và phủ đất ấn chặt gốc, độ sâu 2- 3cm lấp đất bằng phần rễ cây mọc trên vườn ươm (bằng phần vừa nhổ gốc lên). Sau đó khoả và lấp đất vào hốc, để hốc cao hơn mặt luống (phòng ứ đọng nước lúc mưa). Nếu trồng ớt vụ muộn thì để hốc thấp hơn mặt luống một ít, để giữ nước có độ ẩm, giúp cây phát triển tốt.

6.5. Chăm sóc (chú ý 3 thời kỳ) - Từ trồng đến hồi xanh:

+ Tưới nước: sau trồng tưới nước đủ ẩm cho cây chóng hồi xanh, sau đó giữ cho độ ẩm đất 70 - 80%.

Page 175: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

174

+ Dặm cây: sau trồng 5 - 7 ngày dặm cây kịp thời đảm bảo mật độ. Xới xáo kết hợp thúc lần 1 và vun gốc nhẹ sau trồng 15- 20 ngày. Chú ý: thúc thúc cách gốc 5cm, nếu tưới phải pha nồng độ loãng và thoát nước tốt trên ruộng. - Thời kỳ hồi xanh đến ra hoa: Thời gian sau trồng 40 - 45 ngày, cây sinh trưởng dinh dưỡng mạnh, yêu cầu ẩm độ 70- 75% do bộ rễ phát triển sâu

+ Thúc lần 2 kịp thời kết hợp với vun cao lần cuối (sau trồng 30 ngày) + Tủ gốc, giữ ẩm và chú ý không được để đọng nước lâu

- Thời kỳ ra hoa thu quả đợt cuối cùng: chia 2 giai đoạn + Bắt đầu ra hoa đến thu quả đợt 1: (50- 95 ngày sau trồng). Cây ra hoa quả, quyết định năng suất sản lượng. Tiếp tục giữ ẩm 80- 85% bón thúc lần 3 + Thu quả lần 1 đến kết thúc chu kỳ sinh trưởng (thu cuối cùng). Cây luôn luôn vừa ra hoa vừa ra quả nên giữ độ ẩm 70- 85%. Sau mỗi lứa thu tuỳ điều kiện sinh trưởng trên ruộng mà thúc thêm phân Chú ý: Đối với ớt không được tưới tràn trên mặt luống, để kéo dài thời gian thu quả. Nếu tưới rãnh chỉ để nước ngấm vào rãnh rồi tháo ra ngay. 6. 6. Phòng trừ sâu bệnh:

Ớt có thời gian sinh trưởng dài 6 -7 tháng nên có nhiều sâu bệnh hại nhưng mạnh nhất là tháng 3, 4, 5.

- Sâu: sâu xám (thời kỳ cây con sau trồng). Bọ trĩ, rệp, sâu xanh, sâu khoang, sâu đục hoa và quả suốt thời kỳ sinh trưởng, tuỳ từng thời kỳ sinh trưởng đều bị loại này hại.

- Bệnh hại: Bệnh héo xanh, héo rũ, xoăn lá, thối quả, nên phải phòng trừ tổng hợp: canh tác, xử lý đất, vệ sinh đồng ruộng, bắt bằng tay, bẫy bả, dùng thuốc hoá học (Xem sâu bệnh hại ớt và biện pháp phòng trừ). 6.7. Để giống và thu hoạch và sơ chế - Để giống:

Chọn giống theo nguyên tắc 4 tốt (ruộng tốt, đám tốt, cây tốt, quả tốt), trong thực tế thường chọn cây tốt và quả tốt. Lấy cành cấp 3,4 có quả căng đều và đẹp mang đặc tính của giống. Quả chín hoàn toàn, thu cả cuống đem về để vào nơi mát 2- 3 ngày cho ớt tiếp tục chín sinh lý, sau đó tách hạt giống bằng dao nhỏ rạch dọc quả hoặc cắt 1/3 quả phía ngọn bỏ riêng (đầu quả). Phần quả còn lại quả dùng bằng dao nhỏ rạch dọc quả hoặc cắt 1/3 quả phía ngọn bỏ riêng (đầu quả). Phần quả còn lại dùng que tách lấy hạt ngâm vào dụng cụ sành sứ hay chậu men, nhựa, thuỷ tinh tránh không được ngâm trong đồ kim loại. Để 20 - 24h hạt ớt lên men phân giải chất keo xung quanh hạt. Vớt hạt ra đãi sạch rồi phơi vào nong nia, tránh phơi trực tiếp trên sân xi măng, mái tôn hoặc phơi giữa trưa hạt mất sức nảy mầm, hạt khô để nguội đem bảo quản.

Page 176: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

175

- Thu hoạch - sơ chế: + Thu hoạch: Ớt chín trên ruộng theo lứa nên có thể thu xanh để bán thì ớt có nhiều quả trên

cây. Nếu thu chín thì theo từng lứa quả, thu cả cuống đem về phơi (70 % số cây trên ruộng có màu quả đỏ) thì thu hoạch được. Những quả chín chưa hoàn toàn (mới chuyển màu cũng thu hết và để riêng 2-3 ngày nó sẽ tiếp tục chín).

+ Phân loại: Sau thu hoạch đem về phân loại, đem phơi. Ngày mưa hay đất ướt thì không nên

thu hoạch. + Ủ quả: Khi thu về nên ủ thêm 2-3 đêm cho ớt chín đều màu đẹp rồi phơi. + Phơi: Tránh phơi trên mái tôn, sàn xi măng sẽ làm rám quả mất giá trị thương

phẩm. Có thể phơi trên bãi cỏ, nong nia, 2-3 nắng, quả héo rồi đem phơi trên nền xi măng tiếp cho khô. Khi bóp quả nát vụn là quả khô (12- 13 % nước ) thì đạt yêu cầu xuất khẩu hay đem bảo quản. Chú ý: Nếu khi phơi 1-2 nắng bị mưa ướt quả thì cứ cho mưa thấm đều quả sau đó đem vào rải mỏng để hong khô và tiếp tục phơi lại lúc có nắng cho đến lúc đạt tiêu chuẩn bảo quản (ớt thường phơi 6-7 nắng mới đạt yêu cầu xuất khẩu).

Câu hỏi bài 6: 1. Nguồn gốc, đặc điểm, các thời kỳ sinh trưởng và kỹ thuật bón phân thích hợp cho các loại rau ăn lá như thế nào? 2. Nguồn gốc, đặc điểm, các thời kỳ sinh trưởng và kỹ thuật bón phân thích hợp cho các loại rau ăn quả như thế nào? 3. Nguồn gốc, đặc điểm, các thời kỳ sinh trưởng và kỹ thuật bón phân thích hợp cho các loại rau ăn củ như thế nào? 4. Nguồn gốc, đặc điểm, các thời kỳ sinh trưởng và kỹ thuật bón phân thích hợp cho các loại rau gia vị như thế nào?

Page 177: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

176

PHẦN THỰC HÀNH VÀ THẢO LUẬN

BÀI 7 THẢO LUẬN VỀ

THU HOẠCH VÀ SƠ CHẾ, BẢO QUẢN RAU SAU THU HOẠCH, RAU VÀ THỊ TRƯỜNG RAU

(2 tiết)

1. M ục tiêu thảo luận - Hiểu được vai trò tác dụng của các biện pháp kỹ thuật thu hoạch, sơ chế, bảo quản rau sau thu hoạch nhằm nâng cao giá trị của cây rau (sử dụng, kinh tế)

- Hiểu được đặc điểm đặc thù của sản phẩm rau, thị trường tiêu thụ rau, những điểm mạnh, điểm yếu, những thách thức và cơ hội của sản phẩm rau và thị trường rau, những kênh tiêu thụ rau và vấn đề cần quan tâm khi tiêu thụ rau nhằm đảm bảo kế hoạch sản xuất, nâng cao tỷ trọng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, tăng thu nhập từ sản xuất rau. 2. Chuẩn bị bài tập ở nhà 1.Tóm tắt các phương pháp thu hoạch, sơ chế và bảo quản rau sau thu hoạch, marketting rau, các kênh tiêu thụ rau ? 2. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của việc marketing rau ? 3.Tóm tắt các đặc điểm thị trường rau và hoạt động marketing đối với sản phẩm rau ? 4.Những cơ hội và thách thức của sản phẩm rau và thị trường tiêu thụ rau ? 5. Những vấn đề cần quan tâm khi tiêu thụ rau, các kênh phân phối rau chủ yếu hiện này trên thị trường ? 3. Nội dung thảo luận 1. Khái niệm, các phương pháp thu hoạch, sơ chế, bảo quản sau thu hoạch 2. Liên hệ thực tế, cho ví dụ cách thu hoạch, sơ chế và bảo quản một loại rau nào đó cụ thể, cách tiêu thụ rau ở địa phương ? 4. Các câu hỏi đánh giá 1. Phương pháp thu hoạch, sơ chế và bảo quản rau sau thu hoạch như thế nào ? 2.Dựa trên các phương pháp thu hoạch, sơ chế, bảo quản rau sau thu hoạch, tìm hiểu cách thu hoạch, sơ chế và bảo quản của một loại rau khác có giá trị ? 3. Dựa trên các đặc điểm thị trường rau và hoạt động marketing sản phẩm rau, liên hệ các kênh phân phối rau ở địa phương?

Page 178: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

177

BÀI 8

THỰC TẬP TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM: NHẬN DIỆN CÁC LOẠI RAU, HẠT GIỐNG RAU,PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÀI VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA MỘT SỐ LOẠI RAU CAO CẤP

(2 tiết) 1. M ục tiêu: Rèn luyện kỹ năng nhận biết các sản phẩm rau, hạt giống rau 2. Nội dung thực tập trong phòng - Nhận biết các loại hạt giống rau (mô tả hình dạng, kích thước, màu sắc), các bước thao tác về đánh giá các chỉ tiêu số lượng và chất lượng rau - So sánh các loại hạt, phân cấp hạt rau (hạt to, vừa, hạt nhỏ) - Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng rau: mô tả đặc điểm hình thái (chiều dài, chiều rộng, độ dày thành quả, số hạt/quả, số ô/quả, màu sắc, độ Brix. 3. Bài tập ở nhà Viết bản tường trình bài thực tập này: thời gian, địa điểm, nội dung, đề xuất học tập 4. Các câu hỏi đánh giá 1. Nêu rõ các bước thao tác về đánh giá các chỉ tiêu số lượng và chất lượng rau? 2. So sánh đặc điểm của một số loại hạt rau giống và khác nhau như thế nào? 3. Mẫu hạt giống không đề tên, hãy nhận diện các loại hạt rau ?

BÀI 9

THAM QUAN VÙNG RAU (THỰC TẾ) THAM QUAN MỘT SỐ MÔ HÌNH SẢN XUẤ RAU, HẠT GIỐNG RAU

(HÀNH, PRÔ, XÀ LÁCH, RAU DỀN, BẦU BÍ, MƯỚP...), KỸ THUẬT SẢN XUẤT RAU GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM, TRỒNG RA RUỘNG SẢN XUẤT (2 tiết) 1. Mục tiêu tham quan: Học hỏi những kinh nghiệm từ nông dân trên đồng ruộng; - Củng cố lý thuyết đã học thông qua thực tiễn trên dồng ruộng - Rèn luyện kỹ năng tay nghề, nhận biết sâu bệnh hại trên rau

Page 179: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

178

2. Chuẩn bị địa bàn tham quan học hỏi Chuẩn bị địa điểm tham quan, xe cộ đi lại; mẫu quan sát, máy ảnh, bút viết, sổ tay 3. Nội dung tham quan - Tham quan kỹ thuật trồng rau ở giai đoạn vườn ươm - Tham quan kỹ thuật trồng rau ở giai đoạn trưởng thành - Tình hình sâu bệnh gây hại, sản xuất rau an toàn - Tham quan những tiến bộ kỹ thuật mới được áp dụng trên đồng ruộng, vườn rau gia đình - Tìm hiểu hiệu quả kinh tế thu được từ sản xuất rau - Rút được những kinh nghiệm trong chuyến tham quan - Ghi chép cẩn thận các nội dung đã tham quan để bổ sung những kiến thức chuyên môn 4. Các câu hỏi đánh giá 1. Nêu rõ các bước thao tác về kỹ thuật gieo ươm cây con 2. So sánh kỹ thuật lên luống bằng và lòng khay? 3. Cần chú ý gì trong quá trình làm đất, gieo hạt trên luống đất và bầu đất? 5. Bài tập ở nhà Viết bản tường trình bài thực tập này: Mô tả các hoạt động tham quan, thời gian, địa điểm, nội dung đạt được, đề xuất học tập

Page 180: BÀI GIẢNG CÂY RAU - thuvienso.vnuf2.edu.vnthuvienso.vnuf2.edu.vn/components/com_booklibrary/ebooks/B563B5… · ... chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu,

179