bÀi 4: phÁp luẬt cẠnh tranh -...

36
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh v1.0 79 BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Nội dung Cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh Các khái niệm kinh tế cơ bản liên quan đến Luật Cạnh tranh Vi phạm pháp luật cạnh tranh và trách nhiệm pháp lý Mục tiêu Hướng dẫn môn học Sử dụng kiến thức kinh tế vi mô để giúp học viên nắm được cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh Trang bị cho người học những khái niệm cơ bản về cạnh tranh, độc quyền và thị trường liên quan. Giúp học viên biết sử dụng các công cụ để xác định thị trường liên quan trong một vụ việc cạnh tranh cụ thể. Thời lượng 10 tiết Để học tốt bài này, học viên cần thực hiện các công việc sau: Đọc kỹ Bài 4 Pháp luật cạnh tranh trong giáo trình Luật Kinh tế của Chương trình TOPICA. Tích cực thảo luận với giáo viên và học viên qua mạng Internet. Tham khảo thông tin có trên trang web của Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương www.vcad.gov.vn Đọc Luật Cạnh tranh 2004.

Upload: lamnhan

Post on 05-Feb-2018

226 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 79

BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

Nội dung

Cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh

Các khái niệm kinh tế cơ bản liên quan đến Luật Cạnh tranh

Vi phạm pháp luật cạnh tranh và trách nhiệm pháp lý

Mục tiêu Hướng dẫn môn học

Sử dụng kiến thức kinh tế vi mô để giúp học viên nắm được cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh

Trang bị cho người học những khái niệm cơ bản về cạnh tranh, độc quyền và thị trường liên quan.

Giúp học viên biết sử dụng các công cụ để xác định thị trường liên quan trong một vụ việc cạnh tranh cụ thể.

Thời lượng

10 tiết

Để học tốt bài này, học viên cần thực hiện các công việc sau:

Đọc kỹ Bài 4 Pháp luật cạnh tranh trong giáo trình Luật Kinh tế của Chương trình TOPICA.

Tích cực thảo luận với giáo viên và học viên qua mạng Internet.

Tham khảo thông tin có trên trang web của Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương www.vcad.gov.vn

Đọc Luật Cạnh tranh 2004.

Page 2: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

80 v1.0

TÌNH HUỐNG KHỞI ĐỘNG BÀI

Tình huống

Siêu thị của công ty BTN nhận thấy nhu cầu xe máy hiệu WZ của thị trường đang tăng cao. BTN đề nghị hãng sản xuất xe máy nhãn hiệu nói trên ký hợp đồng mua 100 xe. Biết đây là loại xe đang được thị trường ưa chuộng nên hãng này đã hạn chế số lượng hàng bán ra nhằm tăng giá bán. Đối với đề nghị của BTN, hãng xe này chấp nhận bán 100 xe WZ với điều kiện BTN phải chấp nhận trong hợp đồng mua thêm 100 mũ bảo hiểm do hãng này sản xuất. BTN đã nhập về rất nhiều mũ bảo hiểm của hãng khác và thị trường mũ bảo hiểm đã bắt đầu trở nên bão hòa, do vậy BTN không có nhu cầu mua thêm mũ bảo hiểm. Do không chấp nhận yêu cầu muakèm mũ bảo hiểm nên hợp đồng giữa BTN và hãng xe máy không được ký kết.

Câu hỏi gợi mở

Theo anh (chị), yêu cầu buộc phải mua kèm mũ bảo hiểm của hãng xe máy nói trên có vi phạmpháp luật không? Vì sao?

Page 3: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 81

4.1. Cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh

4.1.1. Hiệu quả kinh tế Bất cứ nền kinh tế nào cũng phải hướng tới hiệu

quả. Nếu các hoạt động của nền kinh tế không đạt

hiệu quả hoặc đạt hiệu quả thấp thì sẽ dẫn đến sự

lãng phí nguồn lực và kém phát triển. Hơn nữa,

nguồn lực xã hội không phải là dồi dào mà ở dạng

khan hiếm so với nhu cầu vô tận của con người,

chính vì vậy sử dụng nguồn lực sao cho hiệu quả

luôn là vấn đề đặt ra trong quản lý kinh tế và quản

lý xã hội.

Lý thuyết cấu trúc – hành vi – kết quả (S – C – P)

của nhà kinh tế học Joe Bain đã chỉ ra mối liên hệ

giữa hiệu quả kinh tế và cấu trúc thị trường. Theo lý thuyết này cấu trúc thị trường sẽ

quyết định hành vi của doanh nghiệp. Thông qua hành vi thực hiện trên thực tế, thị

trường sẽ cho kết quả tốt hoặc xấu.

Joe Bain chỉ ra bốn dạng cấu trúc thị trường phổ biến là thị trường cạnh tranh hoàn

hảo, thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền, thị trường độc quyền nhóm và thị

trường độc quyền. Hai loại thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền

nhóm được gọi chung là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.

Cấu trúc thị trường được xác định dựa trên các tiêu chí:

Số lượng người bán,

Số lượng người mua,

Sự khác biệt về sản phẩm

Sự tồn tại của rào cản gia nhập thị trường. Cấu trúc thị trường được thể hiện qua

bảng sau:

Hình thái

thị trường

Số người mua Số người

bán

Sự khác biệt sản phẩm

Rào cản

gia nhập

Cạnh tranh

hoàn hảo Rất lớn Rất lớn

Không khác, giống hệt nhau

Không có

Cạnh tranh mang tính độc quyền

Rất lớn Lớn Khác chút ít Không có

Độc quyền nhóm Rất lớn Ít Khác nhiều Lớn

Độc quyền Rất lớn Một Sản phẩm

đơn nhất Rất lớn

Dưới đây chúng ta sẽ xem xét hiệu quả kinh tế tương ứng với từng cấu trúc thị trường.

Page 4: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

82 v1.0

4.1.1.1. Hiệu quả phân bổ nguồn lực Trước hết, chúng ta xem xét hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hình thái thị

trường này dựa trên các giả định sau:

Người tiêu dùng muốn tối đa hóa giá trị sử dụng;

Các doanh nghiệp muốn tối đa hóa lợi nhuận và doanh nghiệp có được tự do cũng như dễ dàng tiếp cận mọi thông tin cần thiết để đánh giá những giao dịch nào có

thể tối đa hóa lợi nhuận. Nói cách khác doanh nghiệp có được thông tin hoàn hảo;

Sản phẩm trên thị trường là giống nhau;

Số lượng người bán đủ lớn do vậy không doanh nghiệp nào có khả năng chi phối giá cả trên thị trường;

Không có rào cản gia nhập thị trường.

Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, tỷ suất lợi nhuận cân bằng trên tất cả các thị trường. Không doanh nghiệp nào có được tỷ suất lợi nhuận lớn hơn doanh nghiệp khác. Vì vậy, mỗi người tiêu dùng sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất về hàng hóa và dịch vụ

đối với chi tiêu của họ.

Độc quyền là hình thái thị trường đối lập của cạnh tranh hoàn hảo. Trong thị trường độc quyền, chỉ có một người bán và tồn tại rào cản thị trường để ngăn cản việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp độc quyền sẽ ấn định giá sản phẩm cao hơn so với điều kiện của thị trường cạnh tranh. Điều này có thể làm giảm số lượng bán ra nhưng tổng lợi nhuận của nhà độc quyền vẫn cao hơn. Vì vậy, người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn cho sản phẩm.

Nói tóm lại, độc quyền dẫn tới sự phân bổ không hiệu quả các nguồn lực của xã hội.

Mô hình dưới đây sẽ chứng minh cho tính không hiệu quả này.

Pc 50

Giá/ Chi phí

Chi phí

Sản lượng Qm 700

L D

Cầu

Qc 1000

Pm 80

Page 5: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 83

Giả thiết rằng, trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, chi phí sản xuất một sản phẩm nhất định là 50 đồng (Pc). Nếu một doanh nghiệp thực hiện tăng giá trên chi phí, giá sẽ bị kéo về bằng với chi phí do áp lực thị trường và tổng sản phẩm được sản xuất sẽ là 1.000 (Qc). Khi đó tổng chi phí là 50 x 1.000 = 50.000 đồng và cân bằng với tổng doanh thu.

Trong điều kiện độc quyền, chỉ có một người bán và doanh nghiệp độc quyền là người ấn định giá. Do đó, doanh nghiệp sẽ tối đa hóa lợi nhuận bằng việc hạn chế sản lượng. Giả sử doanh nghiệp độc quyền giảm sản lượng còn 700 sản phẩm (Qm) và giá tăng lên 80 đồng cho một sản phẩm (Pm). Tổng chi phí lúc này là 50 x 700 = 35.000 đồng và tổng doanh thu là 80 x 700 = 56.000 đồng. Do đó lợi nhuận là 21.000 đồng.

Giá cả độc quyền làm ngắt quãng đường cầu từ Qc xuống Qm và dẫn tới sự phân bổ không hiệu quả nguồn lực. Xét trên toàn nền kinh tế, chỉ có 35.000 đồng được phân bổ cho sản xuất trong khi đó dưới điều kiện cạnh tranh sẽ có 50.000 đồng được phân bổ cho sản xuất. Bản thân người tiêu dùng cũng bị thiệt hại bởi họ không có cơ hội được sử dụng sản phẩm do giá cả tăng cao. Tam giác D trong đồ thị thể hiện phần thiệt hại đối với người tiêu dùng. Trong kinh tế học, hiện tượng này được gọi là “thiệt hại mất trắng về của cải”.

4.1.1.2. Hiệu quả sản xuất Các doanh nghiệp có vị trí độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh thường có xu hướng hạn chế sản lượng và tăng giá sản phẩm. Hơn nữa, các doanh nghiệp này cũng sẽ ít đầu tư vào việc đổi mới sản xuất và nghiên cứu phát triển sản phẩm. Ngược lại, trong các thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải đổi mới để nâng cao hiệu quả sản xuất bởi vì người tiêu dùng có sự lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm để mua với giá thấp và chất lượng cao. Như vậy, cạnh tranh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phải chú ý đến hiệu quả sản xuất, qua đó góp phần làm tăng hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế cũng như mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Chi phí sản xuất thấp là một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất. Chi phí sản xuất trong nhiều trường hợp sẽ được hạn chế nhờ vào “tính kinh tế của quy mô” và “tính kinh tế của phạm vi”.

“Tính kinh tế của quy mô” là khái niệm được dùng để chỉ sự thay đổi về chi phí sản xuất một sản phẩm nếu sản phẩm được sản xuất ở quy mô lớn. Chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống theo mức độ tăng lên của quy mô sản xuất. Chẳng hạn như trong lĩnh vực may mặc, việc sản xuất hàng loạt có thể làm cho giá thành sản

Page 6: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

84 v1.0

phẩm hạ xuống rất nhiều nhờ tiết kiệm chi phí vận hành máy móc, chi phí nhân công và nhờ vào việc được hưởng những ưu đãi về giá sản phẩm đầu vào do mua với số lượng lớn.

“Tính kinh tế của phạm vi” là khái niệm để chỉ việc giảm chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm do việc kết hợp sản xuất hai hay nhiều hàng hóa trong cùng một doanh nghiệp thay vì phải sản xuất ở nhiều doanh nghiệp khác nhau. Chẳng hạn như các hãng vận tải thường bán vé khứ hồi rẻ hơn vé một chiều hoặc nếu các nhà máy đóng tàu sản xuất được động cơ tàu thủy thì sản phẩm sẽ có giá thành thấp hơn trường hợp nhà máy chỉ đóng vỏ tàu và phải nhập động cơ từ nhà máy sản xuất khác.

4.1.2. Quan điểm xây dựng chính sách và pháp luật cạnh tranh Cạnh tranh có tác dụng duy trì hiệu quả phân bổ nguồn lực, vì vậy, pháp luật cạnh tranh có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, phân tích về hiệu quả phân bổ nguồn lực cho thấy rằng, pháp luật cạnh tranh không nên đặt tham vọng quá lớn vào việc điều chỉnh cấu trúc thị trường trở về với cạnh tranh hoàn hảo.

Lý do là vì mô hình cạnh tranh hoàn hảo dựa trên những giả định đã được đơn giản hóa và không thể đạt được trên thực tế.

Chẳng hạn như giả định các sản phẩm trên thị trường là đồng nhất nhưng trong thực tế các nhà sản xuất luôn luôn có xu hướng tạo ra những khác biệt về sản phẩm của chính mình.

Giả định tất cả các doanh nghiệp đều theo đuổi mục đích tối đa hóa lợi nhuận cũng không phù hợp với thực tế, bởi trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường chỉ dừng ở mục đích tìm kiếm lợi nhuận ở mức độ thỏa mãn.

Bên cạnh đó, giả thiết về việc có một số lượng rất lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ trên thị trường cũng cần xem xét. Trong nhiều trường hợp, “tính kinh tế của quy mô” đòi hỏi chỉ cần một hoặc một vài doanh nghiệp trên thực tế. Chẳng hạn trên phạm vi một tỉnh, thành phố chỉ cần một hoặc hai tờ báo được phát hành là đủ. Các ngành dịch vụ hạ tầng cơ sở như mạng điện thoại, đường truyền tải điện, hệ thống đường dẫn khí gas, cảng biển, sân bay thuộc dạng độc quyền tự nhiên bởi vì chỉ cần một nhà cung cấp là có khả năng thỏa mãn được toàn bộ nhu cầu của xã hội.

Chính vì những lý do này mà chúng ta không thể đạt được cạnh tranh hoàn hảo. Các nhà kinh tế học đã đưa ra lý thuyết cạnh tranh hiệu quả với mục đích mang tính thực tế hơn khi xây dựng chính sách và pháp luật cạnh tranh.

Quan điểm này đặt cơ sở cho việc xây dựng pháp luật cạnh tranh theo hướng không nên thay đổi những đặc điểm của cấu trúc thị trường, tức là không nên chia nhỏ các doanh nghiệp đang tồn tại trong thị trường độc quyền hoặc độc quyền nhóm

Page 7: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 85

mà chỉ điều chỉnh các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp đó.

Xét về phương diện hiệu quả sản xuất, cạnh tranh và hợp tác giữa các doanh nghiệp đều có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế trong những trường hợp nhất định. Điều đó đặt ra yêu cầu là luật cạnh tranh sẽ điều tiết các hoạt động tập trung kinh tế như thế nào để sao cho thỏa mãn được nhu cầu sử dụng “tính kinh tế của quy mô” và “tính kinh tế của phạm vi” trong khi vẫn kiểm soát được các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp có quy mô lớn. Nói cách khác, có những hành vi gây hạn chế cạnh tranh như sáp nhập hay thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh làm tăng sức mạnh thị trường vẫn có thể được phép thực hiện nếu xét về tổng thể nó mang lại hiệu quả kinh tế.

Quan điểm này cho thấy khi xem xét bất cứ một hành vi gây hạn chế cạnh tranh nào cũng phải tính đến nó có tác động ra sao đến người tiêu dùng và nền kinh tế nói chung. Nếu hiệu quả kinh tế mà nó mang lại lớn hơn những thiệt hại mà nó gây ra thì hành vi đó vẫn nên được thừa nhận.

4.2. Các khái niệm kinh tế cơ bản liên quan đến luật cạnh tranh

4.2.1. Cạnh tranh trong kinh doanh và thị trường liên quan

4.2.1.1. Cạnh tranh trong kinh doanh Cạnh tranh trong kinh doanh là hành vi của các doanh nghiệp đối lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch vụ, nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên.

Cạnh tranh trong kinh doanh có 3 đặc trưng sau:

Phải tồn tại thị trường để ở đó cạnh tranh diễn ra

Có sự tham gia của ít nhất hai hoặc nhiều người cung cấp hoặc có nhu cầu

Những người này có ít nhất một số mục đích đối kháng, việc đạt được mục đích của người này là tương ứng với sự thất bại của người kia.

Như vậy, để xác định có cạnh tranh xảy ra giữa hai hoặc nhiều sản phẩm thì điều đầu tiên cần xác định được là giữa những sản phẩm đó cùng tồn tại một thị trường chung. Thị trường chung đó được gọi là thị trường liên quan. Đây là khái niệm cơ bản và đòi hỏi phải được xác định trong mọi vụ việc cạnh tranh bởi vì các hành vi chỉ được coi là cạnh tranh với nhau nếu chúng xảy ra trên cùng một thị trường. Chẳng hạn như các nhà sản xuất giầy chỉ có thể cạnh tranh với nhau trên thị trường sản phẩm giầy hoặc ít nhất là trên thị trường sản phẩm gần với nó như dép hoặc guốc chứ không thể cạnh tranh với các sản phẩm như túi xách hoặc quần áo…

Chính vì lý do này mà trong mọi vụ việc cạnh tranh, nguyên đơn luôn cố gắng lập luận để đi đến một định nghĩa về thị trường theo nghĩa rộng, ngược lại bị đơn thường tìm mọi cách để thuyết phục tòa án bằng việc đưa ra một định nghĩa thị trường theo nghĩa hẹp.

Page 8: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

86 v1.0

4.2.1.2. Thị trường liên quan

Thị trường liên quan là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ các hàng hóa, dịch vụ có thể

thay thế cho nhau một cách hợp lý trong một khu vực địa lý nhất định.

Xác định thị trường liên quan là một công việc quan trọng nhưng không đơn giản.

Thông thường thị trường liên quan được xác định dựa trên hai yếu tố thị trường về

mặt sản phẩm và thị trường về mặt địa lý.

Thị trường về mặt sản phẩm:

Để được coi là tồn tại trong một thị trường liên quan thì các hàng hoá phải có khả

năng thay thế cho nhau một cách hợp lý. Hàng hóa "có khả năng thay thế cho

nhau" là một khái niệm trừu tượng, được xác định dựa vào các yếu tố định tính,

định lượng và dựa trên suy đoán của cơ quan giải quyết tranh chấp. Có nhiều tiêu

chí để xác định khả năng thay thế cho nhau của sản phẩm, trong đó có ba yếu tố cơ

bản là thay thế về đặc tính, về mục đích sử dụng và về giá cả.

o Đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác

định dựa vào các yếu tố tính chất vật lý, hóa

học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ và khả

năng hấp thụ đối với người sử dụng. Nếu các

sản phẩm có nhiều đặc tính giống nhau thì

được coi là có khả năng thay thế cho nhau về

đặc tính.

o Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định bằng mục đích sử dụng

chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Nếu mục đích sử dụng của hàng hóa,

dịch vụ giống nhau thì chúng được coi là có khả năng thay thế cho nhau về mặt

sản phẩm. Chẳng hạn như các sản phẩm cùng thoả mãn một nhu cầu như giầy,

guốc, dép thì được coi là thuộc một thị trường liên quan.

o Giá cả của sản phẩm được xác định là giá ghi trong hóa đơn bán lẻ theo quy

định của pháp luật. Khả năng thay thế về mặt giá giữa các sản phẩm với nhau

thường được xác định dựa trên độ co giãn chéo về giá.

Thị trường về mặt địa lý:

Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý

cụ thể trong đó có các hàng hoá, dịch vụ có thể

thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh

tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu

vực địa lý lân cận.

Khu vực địa lý của thị trường thường được xác

định dựa trên các yếu tố sau :

o Khu vực địa lý có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tham gia phân phối sản

phẩm liên quan

o Cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp khác đóng trên khu vực địa lý lân cận đủ

gần với khu vực địa lý có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp để có thể tham

gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu vực địa lý đó

Page 9: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 87

o Chi phí vận chuyển trong khu vực địa lý

o Thời gian vận chuyển hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong khu vực địa lý

o Rào cản gia nhập thị trường.

Quy tắc SSNIP

Quy tắc SSNIP, hay còn gọi là quy tắc “tăng giá ít nhưng kéo dài” thường được sử

dụng để xác định độ co giãn chéo về giá. Quy tắc này được hiểu như sau “giả sử một

doanh nghiệp có vị trí độc quyền tăng giá sản phẩm lên khoảng từ 5% đến 10% trong

một thời gian đủ dài (từ 6 tháng đến 1 năm) thì những sản phẩm được người tiêu dùng

chuyển sang mua sẽ được coi là sản phẩm thay thế”. Quy tắc SSNIP được áp dụng

đối với doanh nghiệp có sức mạnh thị trường. Trong trường hợp doanh nghiệp không

có sức mạnh thị trường thì phải giả định doanh nghiệp đó có vị trí độc quyền hoặc vị

trí thống lĩnh để xác định sự thay thế về giá giữa các sản phẩm.

Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng sử dụng quy tắc SSNIP để xác định thị

trường sản phẩm liên quan. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nội dung của

nguyên tắc này như sau: hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho nhau

về giá cả nếu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh

sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch

vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử

dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên

quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp. Trường hợp số người tiêu dùng sinh

sống tại khu vực địa lý liên quan quy định tại điểm này không đủ 1.000 người thì lượng

mẫu ngẫu nhiên được xác định tối thiểu bằng 50% tổng số người tiêu dùng đó. (Điểm

C, Khoản 5, Điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/9/2005 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh).

Quy tắc SSNIP có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho việc xác định khả năng thay thế về

giá giữa các sản phẩm, qua đó xác định được thị trường liên quan. Tuy nhiên, quy tắc

này có hạn chế ở chỗ nó có thể dẫn đến “hội chứng giấy bóng kính”. Đây là hiện

tượng doanh nghiệp đã lạm dụng vị trí độc quyền để định giá sản phẩm rất cao so với

giá trị thực tế trước khi vấn đề xác định thị trường liên quan được đặt ra. Vì vậy, nếu

doanh nghiệp tiếp tục nâng giá thì người tiêu dùng sẽ chuyển sang mua những sản

phẩm thực sự không tương đồng về mặt mục đích. Trong trường hợp đó, về mặt lý

thuyết, sản phẩm của doanh nghiệp và sản phẩm người tiêu dùng chuyển sang mua

được coi là có thể thay thế cho nhau về giá nhưng về mặt thực tế, những sản phẩm đó

có tính năng sử dụng quá khác xa nhau nên việc khẳng định chúng tồn tại trên cùng

một thị trường là khó thuyết phục. Điều đó dẫn đến kết quả là thị trường liên quan sẽ

được hiểu quá rộng so với thực tế. Hệ quả nguy hại của nó là sẽ xác định không chính

xác vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền của một doanh nghiệp bởi vì nếu thị trường

được xác định ở phạm vi hẹp thì doanh nghiệp đã có thể bị rơi vào trường hợp có

sức mạnh thị trường nhưng trên thị trường có phạm vi rộng hơn, thị phần của

doanh nghiệp giảm đi và do đó doanh nghiệp thoát khỏi vị trí độc quyền hoặc vị trí

thống lĩnh.

Page 10: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

88 v1.0

Để khắc phục tình trạng này, trong trường hợp cần thiết, pháp luật cho phép xác định

thêm cả những người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan không thể

chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với

hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá

của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong 6 tháng liên tiếp.

Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này chỉ trong trường hợp thật cần thiết, nếu không

sẽ có thể dẫn đến sự tùy tiện trong việc xác định thị trường liên quan và khả năng dẫn

đến sai lệch trong giải quyết vụ việc cạnh tranh là rất lớn.

4.2.2. Rào cản thị trường

Rào cản được coi là đặc trưng quan trọng nhất của

một thị trường độc quyền, bởi lẽ nếu không có rào

cản, các doanh nghiệp khác sẽ lập tức tham gia vào

thị trường kinh doanh khi nhà độc quyền thực hiện

chính sách tăng giá bán hoặc giảm chất lượng và số

lượng sản phẩm. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh

khi muốn trở thành độc quyền đều cần phải có một

rào cản và nhờ vào đó để cản trở các đối thủ khác.

Rào cản thị trường được thể hiện dưới nhiều hình

thức khác nhau, trong đó có các hình thức phổ biến

như quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh,

doanh nghiệp thực hiện cắt giảm giá bán hàng hóa

hoặc rào cản hình thành do độc quyền tự nhiên.

4.2.2.1. Các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh

Đây là loại rào cản rất thường gặp, nó tạo ra sự độc quyền hợp pháp cho các doanh

nghiệp. Rào cản thị trường do pháp luật tạo ra có thể mang tính hợp lý hoặc bất

hợp lý.

Trong trường hợp Chính phủ của các quốc gia sử dụng pháp luật để đảm bảo phát

triển kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng hoặc bảo hộ sản xuất trong nước thì những

quy định mang tính chất rào cản đó là cần thiết.

Ví dụ Điển hình cho “hội chứng giấy bóng kính” là trường hợp của công ty E.I. du Pont de

Nemours. Đây là doanh nghiệp sản xuất giấy bóng kính. Nếu giấy bóng kính được coi là có

thị trường riêng biệt thì công ty này có vị trí độc quyền trên thị trường đó. Tuy nhiên, lạm

dụng vị trí này, DuPont đã ấn định giá bán sản phẩm rất cao ngay từ đầu khiến cho khi giá

bán tăng thêm 5%, người tiêu dùng chuyển sang mua các loại giấy khác như giấy ráp, giấy

nhôm, giấy poly… Dựa vào tiêu chí độ co giãn về giá, DuPont cho rằng giấy bóng kính

không có thị trường riêng mà có thị trường liên quan với các loại giấy thay thế như đã nói ở

trên. Vì lý do này, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã khẳng định DuPont không có sức mạnh thị

trường nên không phải chịu phán quyết lạm dụng sức mạnh thị trường. Đây là quyết định

không thuyết phục của tòa án và sau đó được thừa nhận là “hội chứng giấy bóng kính”.

Page 11: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 89

Chẳng hạn như pháp luật trao cho chỉ một hoặc

một số doanh nghiệp nhất định được hoạt động

trong các lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ độc

quyền như các ngành thuộc an ninh, quốc phòng

hay những ngành dịch vụ công ích hoặc những

lĩnh vực có tác động mạnh và ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ xã hội như cấp, thoát nước,

nắm giữ mạng lưới truyền tải điện quốc gia,

mạng lưới đường sắt, tàu hỏa…

Ngoài ra, trong các trường hợp để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các chủ thể sáng

tạo, Nhà nước sẽ cấp bằng phát minh sáng chế - patăng cho các chủ thể đó. Bằng

phát minh sáng chế này sẽ tạo ra sự độc quyền tạm thời cho một chủ thể nhất định

phù hợp với thời gian sáng chế đó được bảo hộ.

Các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh còn tồn tại trong những trường

hợp để bảo hộ sản xuất trong nước, chẳng hạn như việc quy định đánh thuế cao đối

với một số mặt hàng nhập khẩu nhất định.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, những quy định của pháp luật lại tạo ra rào cản

bất hợp lý và cần phải được loại bỏ.

Chẳng hạn như ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quy định buộc các doanh nghiệp

đóng trên địa bàn tỉnh chỉ được mua xi măng do tỉnh nhà sản xuất, hay việc sở giáo

dục của một địa phương yêu cầu các trường học của địa phương đó chỉ được mua

bút bi của một doanh nghiệp nhất định.

Một ví dụ khác liên quan đến rào cản pháp luật bất hợp lý là việc trước khi có

Pháp lệnh số 43/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội về Bưu chính viễn thông, pháp luật quy định chỉ các doanh

nghiệp nhà nước mới được hoạt động trong lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa là pháp

luật đã đưa ra một quy định cản trở tất cả các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế

nhà nước tham gia kinh doanh trên thị trường bưu chính viễn thông.

Ví dụ Một số nước như Mỹ và các nước phương Tây có các quy định về bảo hộ hay trợ giá

các mặt hàng nông sản. Chính phủ Australia thì “trao quyền độc quyền cho các nhà

xuất khẩu một số mặt hàng nhất định như đường, lúa mì, bởi họ cho rằng quyền độc

quyền sẽ giúp Australia có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới”. Nhìn chung bất cứ

quốc gia nào cũng thừa nhận sự tồn tại của rào cản thị trường do pháp luật tạo ra, bởi lẽ

đây là một trong các điều kiện để đảm bảo lợi ích xã hội và lợi ích quốc gia.

Ví dụ Ở Australia, để đảm bảo an toàn cho xã hội, Chính phủ một số bang chỉ cho phép vận chuyển than đá, gỗ, xi măng, xăng dầu bằng đường sắt. Ở nước ta, chỉ một số doanh nghiệp nhà nước nhất định mới được tham gia vào việc sản xuất vũ khí, đạn dược và vật liệu nổ.

Page 12: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

90 v1.0

Bên cạnh đó, những quy định của Chính phủ về việc đấu thầu hay chỉ định quota trong một số trường hợp cũng là biểu hiện của các rào cản do pháp luật tạo ra trong nền kinh tế thị trường.

4.2.2.2. Cắt giảm giá bán hàng hóa Nhờ vào sức mạnh tài chính và kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường, doanh nghiệp giảm giá tới mức làm cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường cũng như các doanh nghiệp khác là đối thủ đang kinh doanh trên thị trường không đủ sức cạnh tranh và phải rút lui khỏi thị trường đó. Kết quả là doanh nghiệp sẽ giành phần thắng trong cuộc đua về giá.

4.2.2.3. Độc quyền tự nhiên Độc quyền tự nhiên là hiện tượng xảy ra trên thị trường khi toàn bộ sản phẩm của thị trường đó nếu được cung cấp bởi một doanh nghiệp thì sẽ ở mức giá thấp hơn so với việc có hai hay nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp sản phẩm đó.

Điều này là do tính chất của sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp quyết định. Nói cách khác độc quyền tự nhiên là mô hình tối ưu trong những lĩnh vực nhất định, khi mà chỉ cần một nhà sản xuất là đủ khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Vì thế nếu cho phép các nhà cung cấp khác tham gia vào thị trường sẽ dẫn tới “sự cạnh tranh lãng phí”.

Ví dụ Sau khi tham gia vào thị trường nước uống có ga của Việt Nam, Coca Cola đã giảm giá bán bằng cách tăng dung tích chai từ 207ml tới 300ml và giữ nguyên giá. Hơn thế nữa, công ty này đã thực hiện khuyến mại bằng cách tặng thêm một thùng khi mua 3 thùng Coca Cola. Trong thực tế, giá bán loại sản phẩm này đã giảm tới 25%. Coca Cola có thể làm như vậy bởi vì so với các công ty của Việt Nam kinh doanh cùng lĩnh vực thời kỳ đó thì công ty này có sức mạnh tài chính vượt trội. Kết quả là tất cả công ty nước uống có ga của Việt Nam đã phải đóng cửa và Coca Cola trở thành độc quyền trên thị trường nước uống có ga ở Việt Nam. Sau khi có được vị trí độc quyền, Coca Cola thực hiện tăng giá bán sản phẩm và khách hàng vẫn phải chấp nhận vì không có sản phẩm khác thay thế.

Page 13: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 91

Ví dụ Trong ngành sản xuất và kinh doanh điện, việc có nhiều nhà sản xuất điện cạnh tranh sẽ

làm giảm giá bán điện và nâng cao chất lượng điện được cung cấp. Tuy thế, trong một quốc

gia thì không nhất thiết mỗi nhà sản xuất điện phải xây dựng một hệ thống dây truyền tải

riêng biệt. Đó là điều không thể làm được đối với tất cả các doanh nghiệp vì nó đòi hỏi chi

phí rất lớn cũng như gây ra sự lãng phí không cần thiết. Chính vì vậy các doanh nghiệp sản

xuất điện chỉ cần cùng sử dụng một hệ thống đường truyền tải là đủ. Khi đó doanh nghiệp

nắm giữ hệ thống truyền tải điện sẽ trở thành nhà độc quyền và hiện tượng này được gọi là

độc quyền tự nhiên. Những ví dụ khác về độc quyền tự nhiên có thể tìm thấy trong các

ngành như vận tải đường sắt, đường hàng không hay viễn thông. Trong các trường hợp này

độc quyền tự nhiên tồn tại ở chỗ chỉ cần một nhà cung cấp hệ thống đường ray, một nhà

cung cấp nhà ga sân bay và tương tự như vậy chỉ cần một doanh nghiệp cung cấp đường

trục viễn thông là đủ.

Các yếu tố mà ở đó độc quyền tự nhiên tồn tại được gọi là các “phương tiện thiết

yếu”. Hiện tượng này được gọi là độc quyền tự nhiên bởi vì có một lý do “tự nhiên”

cho độc quyền tồn tại, đó là bản thân sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quy

mô kinh tế đủ lớn mới có thể cung cấp được sản phẩm ở hiệu quả cao nhất. Và do vậy,

độc quyền tự nhiên là một rào cản được hình thành tự nhiên trong thị trường.

Việc xác định rõ ranh giới của độc quyền tự nhiên là điều rất quan trọng trong việc

quy định độc quyền của một số ngành nhất định. Ở nước ta việc chưa phân định rõ

ràng đã dẫn đến độc quyền của các ngành như điện lực, đường sắt, hàng không.

Ngoài các loại rào cản phổ biến như trên, trong thực tế còn tồn tại nhiều loại rào cản

khác như: quảng cáo và tiếp thị sản phẩm để xây dựng nhãn hiệu hàng hóa khiến cho

các doanh nghiệp mới tham gia thị trường không thể đưa sản phẩm của mình tới khách

hàng; hay một loại rào cản khác là việc doanh nghiệp nắm giữ độc quyền về nguồn tài

nguyên là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất v.v...

Như vậy, không phải mọi rào cản thị trường đều là xấu và cần phải loại bỏ, bởi vì có

những rào cản là do nỗ lực kinh doanh của doanh nghiệp tạo nên (như đẩy mạnh

quảng cáo tiếp thị, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu hạ giá thành sản phẩm và đưa ra sản

phẩm mới). Chính vì thế trong những trường hợp này pháp luật không thể cấm doanh

nghiệp trở thành độc quyền được mà chỉ có thể đưa ra các quy định để doanh nghiệp

đó không thể lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền của mình gây

hạn chế cạnh tranh và làm tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng.

4.3. Vi phạm luật cạnh tranh và trách nhiệm pháp lý

4.3.1. Vi phạm pháp luật cạnh tranh

4.3.1.1. Các hành vi được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh Pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều hướng đến giải quyết

hai vấn đề, đó là kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy

nhiên, xét về mặt kỹ thuật lập pháp, hai vấn đề này có thể được quy định trong một

hoặc nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

Page 14: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

92 v1.0

Luật cạnh tranh của một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc chỉ điều chỉnh các hành vi gây hạn chế cạnh tranh, trong khi đó hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong các văn bản pháp luật khác. Điều này lý giải vì sao ở một số nước văn bản pháp luật quy định về cạnh tranh chỉ gọi là luật chống độc quyền. Ngược lại, các quốc gia như Hàn Quốc, Bungari, Việt Nam lại ban hành luật cạnh tranh điều chỉnh đồng thời cả vấn đề chống độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh.

Sự khác biệt này chỉ mang ý nghĩa về kỹ thuật lập pháp, còn về nội dung, dù các quy định của pháp luật cạnh tranh nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng chúng đều bao gồm 2 bộ phận cấu thành, đó là kiểm soát hành vi gây hạn chế cạnh tranh và điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Mục đích của luật cạnh tranh đều là hướng đến tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và bảo vệ người tiêu dùng, qua đó thúc đẩy việc sử dụng nguồn lực kinh tế xã hội có hiệu quả nhất.

Luật Cạnh tranh Việt Nam được mô hình hóa theo sơ đồ như sau:

4.3.1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh Cũng giống như mọi vi phạm pháp luật khác, vi phạm pháp luật cạnh tranh gồm 4 yếu tố cấu thành là chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan.

Chủ thể của vi phạm pháp luật cạnh tranh

Chủ thể của vi phạm pháp luật cạnh tranh là các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Luật Cạnh tranh 2004 gọi chung những chủ thể này là doanh nghiệp. Xét về nội dung, việc gọi như vậy là chưa chính xác. Tuy nhiên, có lẽ nhà làm luật sử dụng cách gọi này để tiện cho việc trích dẫn về sau, còn về bản chất khái niệm doanh nghiệp được dùng trong Luật Cạnh tranh trùng với khái niệm chủ thể kinh doanh của Luật Thương mại.

Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí

độc quyền

Các hành vi được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh

Thoả thuận về hạn chế cạnh

tranh

Các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh

Các hành vi gây hạn chế cạnh tranh

Tập trung

kinh tế

Page 15: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 93

Như vậy, mọi chủ thể kinh doanh đều có thể trở thành chủ thể của vi phạm pháp luật cạnh tranh. Lẽ đương nhiên, chủ thể kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp phải là những cá nhân, tổ chức thỏa mãn các điều kiện về độ tuổi và khả năng nhận thức để có được năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Khách thể của vi phạm pháp luật cạnh tranh

Khách thể của vi phạm pháp luật là các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại.

Pháp luật cạnh tranh hướng đến bảo vệ trật tự kinh tế bình đẳng và hiệu quả kinh tế của toàn xã hội. Môi trường bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh, không kể đó là doanh nghiệp lớn hay nhỏ, có kinh nghiệm hay mới gia nhập thị trường là đòi hỏi quan trọng để thúc đẩy hiệu quả phân bổ nguồn lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả xã hội.

Nguồn lực tự nhiên và xã hội luôn có hạn trong khi nhu cầu của con người là vô tận, bởi vậy cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ giúp cho việc phân bổ các nguồn lực đó đạt hiệu quả tối ưu. Xét trên phương diện xã hội, cạnh tranh góp phần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng thông qua việc thúc đẩy doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư nghiên cứu phát triển và hạ giá thành sản phẩm.

Như vậy, pháp luật cạnh tranh hướng đến bảo vệ những quan hệ cạnh tranh bình đẳng cũng như bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Hành vi cạnh tranh xâm hại những quan hệ này sẽ bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật cạnh tranh

Trong mặt chủ quan của vi phạm pháp luật, lỗi là yếu tố quan trọng đầu tiên cần phải được xác định. Khoa học pháp lý phân biệt hai loại lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý.

o Lỗi cố ý trong vi phạm pháp luật cạnh tranh là trường hợp chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra tác hại phản cạnh tranh cho nền kinh tế nhưng vẫn mong muốn thực hiện hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả phản cạnh tranh xảy ra.

o Lỗi vô ý trong vi phạm pháp luật cạnh tranh là trường hợp chủ thể vi phạm nhận thức được hành vi của mình có thể gây tác hại phản cạnh tranh cho nền kinh tế nhưng tin là hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được hoặc chủ thể không nhận thức được tác hại phản cạnh tranh của hành vi mặc dù có thể thấy hoặc buộc phải thấy trước.

Lỗi trong vi phạm pháp luật cạnh tranh là yếu tố bắt buộc phải được chứng minh khi khẳng định chủ thể có vi phạm pháp luật hay không.

Quan hệ pháp luật cạnh tranh có thể phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa chủ thể kinh doanh với cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh. Trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, dù bên khiếu nại vụ việc cạnh tranh (nguyên đơn) là chủ thể kinh doanh hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn là chủ thể có trách nhiệm tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh tính có lỗi của hành vi.

Page 16: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

94 v1.0

Hành vi trái pháp luật cạnh tranh không mặc nhiên bị coi là có lỗi mà cần phải được chứng minh trên thực tế. Nếu không chứng minh được yếu tố lỗi thì hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Mặt khách quan của vi phạm pháp luật cạnh tranh

Yếu tố quan trọng nhất cần phải được xác định trong mặt khách quan của bất kỳ vi phạm pháp luật nào là hành vi trái pháp luật. Ngoài ra, mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn bao gồm yếu tố hậu quả thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thực tế.

o Hành vi trái pháp luật là yếu tố bắt buộc phải xác định trong mọi vi phạm pháp luật, hành vi trái pháp luật cạnh tranh trong thực tế rất đa dạng và thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp có thể được phân thành hai nhóm như sau:

Hành vi gây hạn chế cạnh tranh: Là những hành vi được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh nhằm làm giảm áp lực cạnh tranh trên thị trường. Thông thường, hành vi gây hạn chế cạnh tranh tồn tại dưới dạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng sức mạnh thị trường nhờ vào việc doanh nghiệp có vị trí độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh trên thị trường ấy và hành vi tập trung kinh tế giữa các doanh nghiệp nhằm có được sức mạnh thị trường để loại bỏ cạnh tranh.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Là những hành vi được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích xã hội, lợi ích của các đối thủ cạnh tranh và lợi ích của người tiêu dùng.

o Trong khi đó yếu tố hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả không nhất thiết phải xác định trong mọi vi phạm pháp luật. Nếu theo quy định của pháp luật, trong cấu thành chỉ cần mô tả hành vi thì trường hợp đó gọi là cấu thành hình thức. Trong trường hợp cấu thành đòi hỏi phải xác định được cả hành vi, thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa chúng thì gọi là cấu thành vật chất. Như vậy, cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể tồn tại dưới dạng cấu thành hình thức hoặc cấu thành vật chất.

Trong pháp luật cạnh tranh, việc áp dụng cấu thành hình thức đối với một vi phạm pháp luật còn được gọi là áp dụng quy tắc cấm đoán tự thân. Theo quy tắc này, pháp luật sẽ quy định những hành vi bị cấm tuyệt đối, không có ngoại lệ. Chủ thể kinh doanh chỉ cần thực hiện hành vi đó là bị coi vi phạm pháp luật cạnh tranh mà không cần xác định thiệt hại do hành vi đó gây ra là gì. Quy tắc này được áp dụng đối với một số hành vi như thông đồng để thắng thầu hoặc ngăn cản doanh nghiệp khác gia nhập thị trường.

Bên cạnh quy tắc cấm đoán tự thân, pháp luật cạnh tranh còn sử dụng quy tắc lý do để xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Page 17: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 95

Quy tắc này được áp dụng đối với một số hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường, tập trung kinh tế. Quy tắc lý do đòi hỏi phải xem xét vì lý do nào mà hành vi trái pháp luật cạnh tranh được thực hiện. Nếu các hành vi đó được thực hiện để thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ và lợi ích mà hành vi đó mang lại lớn hơn những thiệt hại do tính hạn chế cạnh tranh của nó gây ra thì không bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Như vậy, ở một chừng mực nhất định, quy tắc lý do đòi hỏi phải xác định thiệt hại do hành vi phản cạnh tranh mang lại, tức là đòi hỏi phải xác định được cấu thành vật chất. Tuy nhiên, những thiệt hại đó không nhất thiết là đã phải xảy ra mà có thể sẽ xảy ra trong tương lai. Chính vì vậy, cấu thành vật chất trong trường hợp này chỉ mang tính giả định. Như vậy, với quy tắc lý do, một hành vi trái pháp luật cạnh tranh không mặc nhiên bị coi là vi phạm pháp luật mà đòi hỏi phải xác định được tại sao hành vi đó được thực hiện. Nếu hành vi đó mang lại lợi ích cho xã hội và cho nền kinh tế lớn hơn những thiệt hại xảy ra hoặc có thể xảy ra thì lý do thực hiện hành vi được coi là tình tiết loại trừ tính phản cạnh tranh của hành vi đó. Quy tắc lý do xuất phát từ cơ sở kinh tế của luật cạnh tranh đó là cạnh tranh phải hướng đến hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Vì vậy, yếu tố hiệu quả luôn phải được xem xét khi giải quyết các vụ việc cạnh tranh.

4.3.2. Các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh

4.3.2.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là trường hợp các chủ thể kinh doanh cùng nhau thỏa thuận những cách thức để làm giảm bớt hoặc triệt tiêu cạnh tranh giữa họ trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, trong trường hợp này, thay vì phải nỗ lực cạnh tranh để giành được phần thắng trong cuộc đua, các doanh nghiệp đi đến thỏa hiệp với nhau để giảm đến mức tối đa sức ép cạnh tranh. Hệ quả của hoạt động này là các doanh nghiệp lẽ ra cạnh tranh với nhau lại trở thành các chủ thể thông đồng với nhau.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể tồn tại dưới hai dạng là thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc.

Thỏa thuận ngang là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thực hiện giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan. Thông thường, thỏa thuận ngang tồn tại dưới các dạng sau đây:

Thỏa thuận ấn định giá. Các doanh nghiệp cùng nhau ấn định giá mua hoặc giá bán hàng hóa, dịch vụ nhằm triệt tiêu cạnh tranh về giá.

Thỏa thuận kiểm soát sản lượng. Các doanh nghiệp cùng nhau thỏa thuận về số lượng,

Page 18: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

96 v1.0

khối lượng hàng hóa, dịch vụ sẽ được cung cấp trên thị trường nhằm hạn chế về mặt cung, qua đó tác động đẩy giá sản phẩm lên cao.

Thỏa thuận phân chia thị trường. Toàn bộ thị trường được chia nhỏ thành nhiều phần và mỗi doanh nghiệp sẽ độc quyền kinh doanh trên phần thị trường của mình.

Thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu. Các doanh nghiệp cùng nhau thông đồng để một hoặc một số chủ thể nhất định thắng thầu.

Trong nhiều trường hợp, để thực hiện được những thỏa thuận nói trên, các doanh nghiệp cùng nhau lập ra một tổ chức chỉ đạo và giám sát thực hiện các thỏa thuận đó. Những tổ chức này được gọi là các-ten (cartel) hoặc tờ-rớt (trust). Tuy nhiên, không nhất thiết mọi thỏa thuận ngang đều phải thành lập các-ten mà chỉ cần có hợp đồng thỏa thuận dưới dạng văn bản hoặc thỏa thuận ngầm giữa các bên là đủ. Những thỏa thuận không thành lập các-ten tồn tại trong một số trường hợp như các doanh nghiệp liên kết cùng sản xuất một sản phẩm hoặc cùng phát triển thị trường…

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn tồn tại dưới dạng thỏa thuận dọc. Đây là trường hợp các doanh nghiệp trong cùng một chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ thỏa thuận với nhau để thực hiện hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Chẳng hạn như, các hãng bia thỏa thuận với cửa hàng bia không được quảng cáo sản phẩm của hãng khác.

Trong thực tế, thỏa thuận ngang thường có mức độ gây hạn chế cạnh tranh lớn hơn nhiều so với thỏa thuận dọc. Chính vì vậy, pháp luật cạnh tranh của các nước đều chú ý nhiều hơn đến việc điều chỉnh các thỏa thuận ngang. Luật Cạnh tranh của Việt Nam quy định 8 loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều thuộc trường hợp thỏa thuận ngang, bao gồm các thỏa thuận về:

Ấn định giá

Phân chia thị trường

Hạn chế, kiểm soát số lượng, khối lượng

Hạn chế đầu tư

Ấn định các điều kiện thương mại không liên quan

Kìm hãm doanh nghiệp khác gia nhập thị trường;

Loại bỏ doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận

Thông đồng để thắng thầu.

Trong tám loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở trên, các hành vi thỏa thuận để kìm hãm doanh nghiệp khác gia nhập thị trường, loại bỏ doanh nghiệp khác và thông đồng để thắng thầu có cấu thành hình thức. Nói cách khác, quy tắc cấm đoán tự thân được sử dụng để xác định các hành vi này có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không. Theo quy định của

Page 19: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 97

pháp luật, bản thân những hành vi này khi được thực hiện sẽ mang lại những thiệt hại phản cạnh tranh mà không thể giải thích bằng bất cứ lý do nào khác. Chính vì vậy, những hành vi này bị cấm tuyệt đối. Chủ thể kinh doanh chỉ cần thực hiện các hành vi nói trên là được xem như là đã đủ yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh và phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Đối với các thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế và kiểm soát số lượng và khối lượng, hạn chế đầu tư và ấn định các điều kiện thương mại không liên quan sẽ sử dụng quy tắc lý do và thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận để xác định tính hợp pháp của chúng. Bản thân những hành vi này tiềm ẩn nguy cơ gây hạn chế cạnh tranh nhưng chúng chỉ bị coi là vi phạm pháp luật nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp đủ lớn để chi phối thị trường và việc thực hiện những hành vi đó không nhằm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và hướng đến thu lợi cho các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.

Thị phần sản phẩm của một doanh nghiệp được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp đó với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh cùng loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp đó với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh cùng loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan theo tháng, quý hoặc năm. Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế.

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận nhỏ hơn 30% thì thỏa thuận đó vẫn được phép thực hiện. Nếu thị phần kết hợp vượt ngưỡng 30% thì quy tắc lý do tiếp tục được sử dụng để xác định tính hợp pháp của hành vi. Nếu lợi ích mà hành vi thỏa thuận mang lại lớn hơn những thiệt hại do tác động phản cạnh tranh của nó gây ra thì hành vi đó được phép thực hiện do được hưởng các yếu tố miễn trừ.

ĐIỀU 10 LUẬT CẠNH TRANH Điều 10 Luật Cạnh tranh đưa ra điều kiện chấp nhận thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp thực hiện thỏa thuận nhằm hạ giá thành, khiến cho người tiêu dùng được hưởng lợi thông qua các biện pháp sau:

Hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;

Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;

Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;

Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và yếu tố của giá;

Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ;

Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Page 20: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

98 v1.0

Pháp luật một số nước trên thế giới còn xác định một lý do khác trong việc loại trừ tính phản cạnh tranh của hành vi thỏa thuận là một thỏa thuận được thực hiện nhằm mục đích phục vụ cho thỏa thuận chính. Bản thân thỏa thuận chính được thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn những hạn chế cạnh tranh thì cả thỏa thuận chính và thỏa thuận bổ trợ đều không bị coi là bất hợp pháp. Lý do này được gọi là quy tắc hạn chế cạnh tranh bổ trợ. Tuy nhiên, hiện nay Luật Cạnh tranh của Việt Nam chưa quy định lý do này là trường hợp miễn trừ tính phản cạnh tranh của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Mô hình dưới đây miêu tả quá trình xác định các hành vi thỏa thuận vi phạm pháp luật cạnh tranh:

CẠNH TRANH THEO LUẬT

Luật Cạnh tranh có hiệu lực từ ngày 1-7-2005. Đến nay, hầu như chưa có vụ việc nào đáng kể được đưa ra ánh sáng công luận. Suy cho cùng, Luật Cạnh tranh ra đời là để bảo vệ người tiêu dùng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Vậy mà luật gần như “vắng mặt” trước hàng loạt sự kiện đang gây bức bối dư luận như giá xăng dầu, giá điện, giá sắt thép, giá vốn (lãi suất ngân hàng). Có thể nói, có luật nhưng chưa… cạnh tranh.

Làm sao có thể giải thích hiện tượng thị trường có tới 11 đầu mối kinh doanh xăng dầu với bộ máy nhập khẩu, chi phí, quy mô khác nhau nhưng đều “đồng tâm” giảm giá giống hệt nhau? Sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là thỏa thuận “ngầm” giữa các đại gia? Nếu đúng thế thì hành vi này rõ ràng là đã vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.

Theo đó, nếu chứng minh có việc thỏa thuận và các bên tham gia thỏa thuận ấn định giá cả hàng hóa chiếm thị phần kết hợp trên 30% là đã đủ yếu tố để xử lý vi phạm. Trong khi những câu hỏi về giá xăng dầu giảm… từng giọt chưa có ai đứng ra trả lời, thì lại “đẻ” ra vụ việc dính dáng đến giá thép.

Trong một cuộc họp mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam, các thành viên đã thống nhất giữ giá thép ở mức 13,5-14 triệu đồng/tấn với cái lý “không để cho thị trường tụt dốc” nhằm… giải cứu các nhà sản xuất trong nước đang hoạt động cầm chừng vì nguồn cung dư thừa, không tiêu thụ nổi. Thỏa thuận này có thể giúp một số doanh nghiệp, thậm chí cả ngành thép vượt qua cơn “hoạn nạn”, nhưng bản chất hành vi đó là triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường.

Thoả thuận được miễn trừ trong một thời gian

nhất định

Thỏa thuận về:

1. Ấn định giá cả 2. Phân chia thị trường 3. Hạn chế, kiểm soát số lượng,

khối lượng 4. Hạn chế đầu tư 5.Ấn định các điều kiện thương mại không

liên quan 6. Kìm hãm doanh nghiệp khác gia nhập

thị trường 7. Loại bỏ doanh nghiệp khác 8. Thông đồng để thắng thầu

Cấm đoán tự thân

Xác định thị phần của thị trường liên quan

Thoả thuận được chấp nhận

Xác định xem thoả thuận có được miễn trừ không

Thoả thuận bị cấm

<30% >30%

Có Không

Page 21: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 99

Do vậy quyền được mua hàng hóa giá rẻ, chất lượng cao của đại bộ phận người tiêu dùng đã bị xâm hại. Hiện tượng liên kết, thỏa thuận cản trở cạnh tranh ở nước ta đang ở mức báo động và trở nên phổ biến mặc dù được che đậy tinh vi dưới hình thức này hay chiêu thức khác.

Cách đây chưa lâu, việc Hiệp hội ngân sách thỏa thuận ấn định lãi suất trần tiền gửi tiết kiệm là một trong những bằng chứng nóng hổi. Soi vào Luật Cạnh tranh, người tiêu dùng không thể bỏ qua hành vi áp đặt giá bán xăng dầu, điện, phân bón, sắt thép… bất hợp lý của một số doanh nghiệp Nhà nước độc quyền hoặc giữ vị trí thống trị thị trường.

Cục Quản lý cạnh tranh, được coi là “tấm lá chắn” bảo vệ người tiêu dùng, có vẻ như “bất động”. Theo một quan chức của Cục là do nhân lực quá yếu và quá thiếu. Cả Cục có 50 cán bộ thì Ban điều tra vụ việc chỉ có 4 người. Song, cái khó lớn nhất chính là một số chính sách, pháp luật thiếu sự tương thích, khiến cho luật chưa thể phát huy tính “cạnh tranh” như tên gọi của nó.

(Nguồn: Báo An ninh thủ đô điện tử

http://www.antd.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=37263&ChannelID=3)

4.3.2.2. Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền (lạm dụng sức mạnh thị trường) Lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền là trường hợp doanh nghiệp có sức mạnh chi phối thị trường sử dụng sức mạnh của mình để gây hạn chế cạnh tranh.

Trong cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh liên quan đến hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường, yếu tố chủ thể là điều cần chú ý. Những hành vi này chỉ bị coi là vi phạm pháp luật nếu được thực hiện bởi những chủ thể có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền.

Theo quy định của Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Hai doanh nghiệp kết hợp được coi là có vị trí thống lĩnh nếu có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan. Đối với nhóm 3 và 4 doanh nghiệp thì tiêu chí tổng thị phần được xác định để có vị trí thống lĩnh lần lượt là 65% và 75%.

Doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp duy nhất kinh doanh một hoặc một số loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường mà không có đối thủ cạnh tranh nào.

Các hành vi cấu thành vi phạm pháp luật dưới hình thức lạm dụng sức mạnh thị trường bao gồm:

Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.

Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.

Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng.

Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.

Page 22: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

100 v1.0

Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.

Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng.

Đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Điều cần lưu ý là chủ thể thực hiện hai loại hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng phải là doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Nếu doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện các hành vi này thì không bị coi là vi phạm pháp luật.

Cấu thành vi phạm pháp luật trong trường hợp lạm dụng sức mạnh thị trường tồn tại dưới dạng cấu thành hình thức, nghĩa là bản thân hành vi khi được thực hiện đã chứa đựng yếu tố phản cạnh tranh, do vậy không cần phải xác định hậu quả do hành vi gây ra trên thực tế trong cấu thành vi phạm. Như vậy, quy tắc cấm đoán tự thân được áp dụng để xác định hành vi vi phạm pháp luật trong trường hợp lạm dụng sức mạnh thị trường.

Mô hình dưới đây miêu tả quá trình xác định các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường:

1. Bán dưới giá 2. Ấn định giá mua, bán bất hợp lý hoặc ấn định

giá bán lại tối thiểu 3. Hạn chế sản xuất, phân phối, cản trở sự phát

triển kỹ thuật, công nghệ 4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong

giao dịch như nhau 5. Áp đặt điều kiện thương mại không liên quan

khi ký kết hợp đồng 6. Ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ

cạnh tranh mới 7. Áp đặt điều kiện thương mại bất lợi 8. Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng

mà không có lý do chính đáng

Doanh nghiệp có vị tríthống lĩnh hay độc

quyền không?

Hành vi lạm dụng bị cấm

Hành vi được chấp nhận

Doanh nghiệp có vị trí độc quyền

không?

Không

Không

Page 23: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 101

4.3.2.3. Tập trung kinh tế Tập trung kinh tế là trường hợp các doanh nghiệp cùng nhau thỏa thuận tích tụ vốn và tài sản để hình thành nên doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Tập trung kinh tế có thể tồn tại dưới các dạng như sau:

Sáp nhập doanh nghiệp là biện pháp được áp dụng với tất cả các loại hình công ty, theo đó một hoặc một số công ty cùng loại sáp nhập vào một công ty khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.

Hợp nhất doanh nghiệp là biện pháp được áp dụng đối với tất cả các loại hình công ty, theo đó hai hoặc một số công ty cùng loại hợp nhất thành một công ty mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các công ty bị hợp nhất.

Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một phần ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.

Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.

Việc xác định hành vi tập trung kinh tế có phải là vi phạm pháp luật hay không phải xác định hậu quả mà hành vi này mang lại. Nói cách khác, vi phạm pháp luật cạnh tranh liên quan đến tập trung kinh tế có cấu thành vật chất. Tuy nhiên, cấu thành vật chất ở đây mang tính giả định bởi vì hậu quả của hành vi này có thể chưa xảy ra trên thực tế mà chỉ là sự tính toán mang tính giả định trong trường hợp có tập trung kinh tế xảy ra. Hậu quả giả định của hành vi này chính là khả năng gây tổn hại cạnh tranh của doanh nghiệp sau khi đạt được quy mô lớn hơn nhờ tập trung kinh tế.

Chính vì vậy, để xác định xem sau khi tập trung kinh tế doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh hay không thì điều trước tiên phải xác định quy mô doanh nghiệp sau tập trung kinh tế:

Nếu sau khi thực hiện tập trung kinh tế mà doanh nghiệp vẫn ở quy mô vừa và nhỏ thì hành vi tập trung đó được phép thực hiện bởi với quy mô này, doanh nghiệp khó có

Ví dụ Công ty Microsoft là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường phần mềm máy tính. Lạm dụng vị trí này, Microsoft đã yêu cầu khách hàng mua máy tính của mình phải mua kèm cả hệ điều hành Microsoft Windows và phần mềm truy cập Internet Explorer. Trong thực tế, người tiêu dùng có thể sử dụng phần mềm tốt hơn như Netscape để truy cập Internet. Tuy nhiên, với quy định bán kèm như trên nên khách hàng buộc phải mua phần mềm của Microsoft thì mới có thể mua được máy tính cá nhân của hãng này. Bộ tư pháp Hoa Kỳ cho rằng công ty Microsoft đã có hành vi vi phạm luật chống độc quyền khi thực

hiện hành vi bán kèm nói trên.

Page 24: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

102 v1.0

khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, pháp luật trao cho các chủ thể kinh doanh quyền được tự do hợp tác kinh doanh trong trường hợp này.

Ngược lại, nếu doanh nghiệp sau tập trung kinh tế đạt được ở quy mô lớn thì khả năng gây ra tác động phản cạnh tranh là lớn hơn doanh nghiệp ở quy mô vừa và nhỏ. Khi đó, tiêu chí thị phần sẽ được sử dụng để đánh giá khả năng doanh nghiệp có thể gây ra hậu quả đối với cạnh tranh, cụ thể như sau:

Nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung nhỏ hơn 50% thì hành vi tập trung kinh tế được pháp luật cho phép vì với thị phần kết hợp như vậy, doanh nghiệp sau tập trung kinh tế chưa bị coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nên chưa có khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp sau tập trung kinh tế có thị phần từ 30% đến 50% thì việc tập trung kinh tế đó phải được thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh biết trước khi thực hiện.

Nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế lớn hơn 50% thì hành vi tập trung kinh tế có thể bị cấm vì trong trường hợp này doanh nghiệp sau tập trung kinh tế trở nên có vị trí thống lĩnh thị trường. Đến đây, quy tắc lý do sẽ được áp dụng để xác định hành vi tập trung kinh tế có bị cấm hay không. Theo quy tắc này, tập trung kinh tế sẽ được phép thực hiện nếu doanh nghiệp đưa ra được một trong các lý do sau:

o Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản.

o Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.

Nếu việc tập trung kinh tế không dựa trên hai lý do này thì hành vi đó sẽ bị cấm.

Những phân tích trên cho thấy rằng pháp luật không cấm một doanh nghiệp nỗ lực kinh doanh để đạt được vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường mà chỉ cấm việc doanh nghiệp đạt được các vị trí đó nhờ vào tập trung kinh tế. Trong trường hợp vị trí thống lĩnh thị trường có được nhờ kết quả kinh doanh thì pháp luật chỉ ngăn cấm việc doanh nghiệp lạm dụng vị trí đó để thực hiện các hành vi phản cạnh tranh.

MUA BÁN, SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP TĂNG GẤP ĐÔI

Công bố khảo sát chi tiết về hoạt động sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp tại VN của Hãng kiểm toán hàng đầu thế giới Pricewaterhouse Coopers (PWC) cho biết số vụ mua bán giữa các công ty VN trong năm 2008 đã tăng gấp đôi so với năm 2007. Lý do của các hợp đồng mua bán này, theo PWC là do các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô hoặc đối phó

với tình hình khó khăn vì suy giảm kinh tế.

Theo PWC, tổng số vụ mua bán, sáp nhập năm 2008 của VN đã tăng lên 146 vụ với tổng giá trị trên 1 tỉ USD, gấp ba giá trị các giao dịch dạng này trong năm 2006. Trong đó, đáng lưu ý là những vụ sáp nhập lớn: Hãng Societé Génerale của Pháp mua 15% cổ phần Ngân hàng Đông Nam Á (Seabank), Ngân hàng HSBC tăng số cổ phần nắm giữ tại Ngân hàng Techcombank từ 14,4% lên 20%, Ngân hàng Đại Dương (Ocean Bank) bán 20% cổ phần

cho Tập đoàn Dầu khí VN, Viettel mua 15% cổ phần của Ngân hàng Quân đội...

(Nguồn: Báo Tuổi trẻ điện tử

http://www3.tuoitre.com.vn/Vieclam/Index.aspx?ArticleID=298516&ChannelID=11)

Page 25: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 103

Mô hình dưới đây miêu tả quá trình xác định các hành vi tập trung kinh tế vi phạm pháp luật cạnh tranh:

4.3.2.4. Cạnh tranh không lành mạnh Theo quy định của Luật Cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Như vậy, bất cứ cá nhân, tổ chức kinh doanh nào cũng có thể trở thành chủ thể của vi phạm pháp luật cạnh tranh dưới hình thức cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi cạnh tranh chỉ bị coi là không lành mạnh nếu hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu sau:

Trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh

Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Như vậy, trong cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không đòi hỏi phải xác định thiệt hại thực tế do hành vi mang lại.

- Sáp nhập - Hợp nhất -Mua lại doanh nghiệp - Liên doanh - Các hình thức khác

Doanh nghiệp sau khi tập trung có là doanh nghiệp vừa

và nhỏ hay không?

Hành vi tập trung được phép thực hiện

Xác định thị phần trong thị trường liên quan

Hành vi tập trung được phép thực

hiện

Hành vi tập trung được phép nhưng phải thông báo tới cơ quan quản lý

cạnh tranh

Hành vi tập trung có thể bị

cấm

Có được miễn trừ hay không

Tập trung kinh tế bị cấm

Tập trung kinh tế được tiến hành sau khi có quyết định miễn trừ

Không

Có <30% >50% (30%- 50%)

Không

Page 26: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

104 v1.0

Nói cách khác, đây là dạng cấu thành hình thức. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể đã gây ra hậu quả hoặc sẽ gây ra hậu quả trong tương lai đều bị coi là vi phạm pháp luật.

Thông thường, cạnh tranh không lành mạnh tồn tại dưới các dạng sau đây:

Chỉ dẫn gây nhầm lẫn là những chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác nhằm làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.

CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT

Công ty TNHH Young Titan đã bán hai loại sản phẩm rượu Whisky Royal Reserve Old 21 Rare Premium sản xuất tại Hoa Kỳ và rượu Whisky pha chế Crowley sản xuất tại Pháp với nhãn hiệu trên bao bì là “Scotch Whisky” bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Anh. Theo luật về rượu Whisky Scotch năm 1988 và luật về rượu Scotch năm 1990 được quốc tế sử dụng rụng rãi, rượu Whisky Scotch là sản phẩm Whisky có nguồn gốc từ Scốtlen. Như vậy, việc đưa thông tin về hai loại rượu nhập khẩu từ Pháp và Hoa Kỳ của công ty TNHH Young Titan đã làm cho người tiêu dùng nhầm tưởng địa điểm xuất xứ của hai loại sản phẩm rượu này là Scốtlen. Ủy ban thương mại lành mạnh của Đài Loan đã xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên của công ty TNHH

Young Titan.

(Nguồn: TS Lê Hoàng Oanh, Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 trích lại từ Ban soạn thảo Luật Cạnh tranh Việt Nam, Vụ việc và tài liệu về Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan, Hà Nội, 2002, trang 153-156)

Xâm phạm bí mật kinh doanh là hành vi của doanh nghiệp sử dụng các thủ đoạn

khác nhau nhằm đạt được một cách bất hợp pháp bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh có thể được thực hiện dưới các

hình thức như:

o Sử dụng phương thức chống lại các biện

pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí

mật kinh doanh nhằm tiếp cận, thu thập

thông tin về bí mật đó.

o Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi

dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật

để tiếp cận, thu thập hoặc làm lộ thông tin về

bí mật kinh doanh.

o Tiếp cận, thu thập thông tin về bí mật kinh doanh thông qua các hồ sơ liên

quan đến kinh doanh, liên quan đến đăng ký sản phẩm của doanh nghiệp.

o Sử dụng phương thức chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước

về bí mật kinh doanh để tiếp cận, thu thập thông tin về bí mật đó.

Ép buộc trong kinh doanh là hành vi của doanh nghiệp cưỡng ép hoặc đe dọa

khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác để buộc họ không giao

dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.

Page 27: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 105

Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi của doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra những thông tin không trung thực gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trong thực tế kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác thường tồn tại dưới dạng tung tin đồn nhằm gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh.

TIN ĐỒN TRONG KINH TẾ : THIỆT HẠI NHIỀU TỈ Hai gã khổng lồ Pepsi và Coca Cola là nạn nhân thường xuyên của những tin đồn thất thiệt như có chân gián hay xác muỗi trong chai hay lon. Năm 2002, Coca Cola bị vu oan trên Internet là “bảo mật công thức pha chế chỉ vì chứa chất độc, gây loét dạ dày”. Tệ hơn, một kẻ nào đó đã cho rằng logo Coca Cola đọc ngược là dòng chữ Ả Rập mang nghĩa “đả đảo Mohamed và Mecca”. Vì vậy mà một dạo doanh số Coca Cola tụt hẳn ở khu vực Trung Đông.

Nếu lĩnh vực thực phẩm mệt mỏi thì lĩnh vực dược - mỹ phẩm cũng mất ăn mất ngủ không ít, chẳng hạn Colgate - Palmolive từng bị đồn là “dầu gội đầu gây rụng tóc, còn kem đánh răng gây lở nướu”. Khi Pfizer tung ra Viagra thì chỉ sau đó nửa năm công ty này đã lãnh đủ nhiều loại tin trời ơi đất hỡi, ví dụ Viagra không những gây suy tim mà còn gây cả bệnh alzheimer. Sau đó, khi Pfizer cải chính liên tục trên mặt báo thì một tin đồn khác lại được tung ra tại San Francisco vào giữa năm 2002: Pfizer và Bayer sẽ tung ra một loại “viacrème” chữa chứng vô sinh cho phụ nữ, chỉ cần bôi kem này ngày hai lần, phụ nữ hiếm muộn sẽ có con. Chẳng cần nói cũng biết cả Pfizer và Bayer bị oanh tạc bởi một núi e-mail, bị điện thoại quấy rối 24/24.

Những công ty liên quan máy tính đều bị tin đồn kiểu này hành hạ, mà càng tên tuổi thì càng khổ. Tại Singapore, tháng bảy năm ngoái, một hacker bí mật đã oanh tạc Internet bằng những thông cáo hết sức giật gân, đại thể "Tổng giám đốc Dell vừa tự sát bằng súng lục tại nhà riêng vì không cứu nổi công ty, còn ban quản trị thì bỏ của chạy lấy người". Chỉ ba ngày sau, tổng hành dinh của Dell bị giội bom bởi vô số e-mail và điện thoại.

Có những công ty không sản xuất trực tiếp sản phẩm, nhưng ăn nên làm ra thì cũng chịu chung số phận. eBay là công ty bán đấu giá nổi tiếng trên Internet, đã chịu hàng trăm lời đồn đại phi lý và ngu xuẩn nhất, từ tin vô thưởng vô phạt đến tin đầy ác ý, có thể gây tụt doanh số như chơi. Năm 2002, eBay bị vu oan là “bán đấu giá xương Hitler và xương sọ của người Do Thái từ thời Thế chiến thứ hai”. Khi eBay cải chính thì đã muộn vì nhiều khách hàng trung thành đã kết tội công ty là “tân phát xít, muốn khôi phục chủ nghĩa phân biệt chủng tộc”.

(Nguồn: Báo Tuổi trẻ điện tử

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=8357&ChannelID=20)

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi của doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.

XỬ PHẠT HÀNH CHÍNH VỤ TAXI THU HƯƠNG PHÁ SÓNG TAXI V20 Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến của Thủ tướng xử lý việc Công ty TNHH Hoàn Thắng (đơn vị quản lý taxi Thu Hương) phá sóng thông tin của đối thủ cạnh tranh Tân Hoàng Minh. Theo đó UBND thành phố Hà Nội được phép xử phạt hành chính mức cao nhất với Hoàn Thắng. Văn bản yêu cầu, Hoàn Thắng nếu tái phạm

sẽ bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Page 28: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

106 v1.0

Sự việc xảy ra từ hồi tháng 2 năm 2002, tại Hà Nội, khi hệ thống liên lạc của Taxi V20 của Tân Hoàng Minh liên tục bị chèn phá, gây nhiễu. Các cơ quan chức năng đã phát hiện

thủ phạm là taxi Thu Hương, ở Tây Sơn, quận Đống Đa.

(Nguồn: vnexpress http://www.vnexpress.net/GL/Phap-luat/2002/12/3B9C3E2D/)

Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp hướng đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh một cách bất hợp pháp hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng nhằm tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thường tồn tại dưới các hình thức như:

o So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;

o Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;

o Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng liên quan đến giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công, cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành…

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động khuyến mại của doanh nghiệp hướng đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh một cách bất hợp pháp hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thường tồn tại dưới các hình thức như:

o Gian dối về giải thưởng;

o Không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng;

o Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;

o Tặng hàng cho khác hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.

VIETTEL “TỐ” MOBIFONE Cuộc cạnh tranh giữa hai “đại gia” Mobifone và Viettel trong năm 2009 có lẽ bắt đầu từ thời điểm Viettel tiến hành “đại hạ giá” (1/6/2009). Không ai nói thẳng ra nhưng việc Viettel tiến hành “đại hạ giá” cước dịch vụ đồng loạt lần này, chắc chắn đã tác động tới kế hoạch doanh thu của các hãng viễn thông khác. Để “đáp lễ”, cả MobiFone và Vinaphone đều tiến hành hạ giá. Tuy nhiên, cách thông báo giảm giá của một số đại lý của Mobifone; rồi văn bản hướng dẫn đổi sim nhằm thu hút khách hàng của Mobifone đã xuất hiện nhiều bất ổn, đến mức Viettel phải gửi công văn thông báo tới các cơ quan chức năng.

Trong công văn gửi cho các cơ quan chức năng, Viettel cho hay, thời gian qua tại một số tỉnh như: Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang… xuất hiện các áp phích in màu, quảng cáo giá cước dịch vụ mới của Công ty Thông tin di động VMS (Mobifone). Nội dung áp phích có so sánh trực tiếp giá cước dịch vụ của Mobifone thấp hơn so với giá cước dịch vụ của Viettel. Cụ thể, mức giá cước của Mobifone thấp hơn 10 đồng một phút ở tất cả các gói cước. Riêng cước thuê bao tháng, mức giá áp dụng cho Mobifone thấp hơn 1.000 đồng…

Ngoài những chiêu quảng cáo thu hút khách hàng nêu trên, Viettel còn “tố”

Page 29: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 107

Mobifone đưa ra chương trình được tổ chức một cách bài bản để lôi kéo khách hàng chuyển từ mạng di động khác sang sử dụng dịch vụ của mình. Tại Hải Dương, Mobifone thực hiện bán hàng lưu động trên địa bàn xã, thôn với chương trình “Đổi sim mạng khác lấy sim Mobifone có 230.000 đồng trong tài khoản”.

Trước những chứng cứ đưa ra, trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Tiếng nói Việt Nam, đại diện MobiFone đã thừa nhận thực tế là có một số chi nhánh của Mobifone có triển khai chương trình đổi sim theo hình thức khuyến mại từ ngày 1/6/2009 đến ngày 10/6/2009. Ngay khi nhận thấy chương trình này không hợp lệ, Mobifone đã chính thức dừng triển khai từ ngày 11/6/2009, được quy định tại văn bản số 2360/VMS-KH-BH ngày 11/6/2009 của Công ty VMS… Mobifone lấy làm tiếc và chân thành xin lỗi vì chương trình khuyến mại trên đã gây ảnh hưởng tới các mạng khác.

Khẳng định với phóng viên, đại diện Mobifone cho hay: “Mobifone không có chủ trương thực hiện việc quảng cáo so sánh trực tiếp về giá cước giữa Mobifone và Viettel trên bất kỳ hình thức quảng cáo nào…”.

(Nguồn: Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam http://vovnews.vn/Home/Dai-gia-vien-thong-quen-luat/20096/115171.vov

Phân biệt đối xử của hiệp hội là hành vi của hiệp hội ngành nghề từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bất lợi trong cạnh tranh hoặc là hiệp hội ngành nghề hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động khác có liên quan tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.

Bán hàng đa cấp bất chính là hình thức bán hàng trực tiếp không thông qua địa điểm bán lẻ cố định mà thông qua mạng lưới người tham gia độc lập gồm nhiều cấp khác nhau và doanh nghiệp tổ chức bán hàng đa cấp thực hiện một trong các hành vi sau:

o Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp

o Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại.

o Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.

o Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.

Như vậy, pháp luật cho phép thực hiện mô hình bán hàng đa cấp và chỉ cấm những hoạt động bán hàng đa cấp bất chính, tức là những hoạt động bán hàng có một trong bốn yếu tố nói trên.

BÁN HÀNG ĐA CẤP NGÀY CÀNG NHIỀU NẠN NHÂN Ngày 15-3-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử ban lãnh đạo Công ty Thế Giới Mới gồm 3 bị cáo: Hoàng Đình Long (Giám đốc công ty), Đặng Ngọc Sơn (Chủ tịch HĐQT), Đinh Hữu Dũng (Phó chủ tịch HĐQT) phạm tội lừa đảo chiếm đoạt hơn 6 tỉ đồng của 190 đại lý tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.

Theo cáo trạng, các bị cáo trên đã gặp một số người Trung Quốc để thành lập Công ty Thế

Page 30: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

108 v1.0

Giới Mới Việt Nam (trụ sở 4-B2 đường Nguyễn Chí Thanh, Q.Đống Đa, Hà Nội), với số vốn pháp định khai 600 triệu đồng, nhưng là vốn khống vì các bị cáo trên đã làm giả chứng từ góp vốn. Với thủ đoạn quảng cáo là nhà phân phối các loại thực phẩm bổ dưỡng đặc biệt từ công ty mẹ ở Trung Quốc, Công ty Thế Giới Mới đã ký hợp đồng làm đại lý với hàng trăm người trên địa bàn cả nước.

Theo phương thức kinh doanh của công ty này, các đại lý chỉ cần nộp vào công ty 120 USD (các đại lý phía Nam phải nộp 240 USD) tiền đặt cọc thì sẽ được cấp giấy ủy quyền đại lý trong 1 năm cùng 3 hộp thực phẩm bổ dưỡng mang đi tiếp thị, mở rộng đại lý bán hàng trực tiếp. Nếu bán được hàng hay rủ thêm người tham gia đại lý, mỗi đại lý cũ sẽ được hưởng tiền hoặc có cơ hội đi du lịch nước ngoài miễn phí.

Tài liệu điều tra xác định từ tháng 4 - 8/2002, Công ty Thế Giới Mới đã thu trên 8 tỉ đồng của 190 người, hơn 3.800 hợp đồng, đến nay còn nợ hơn 6 tỉ đồng không có khả năng thanh toán cho người bị hại. Để chiếm đoạt số tiền đặt cọc của các đại lý, công ty tuyên bố một số chuyên gia người Trung Quốc đã "ăn trộm" hết tiền trong két sắt và về nước. Công an Hà Nội đã điều tra vụ án và xác định những tình tiết két sắt bị phá trộm là không có cơ sở xác định.

Trong ngày xét xử đầu tiên, phần lớn nhân chứng là nhân viên Công ty Thế Giới Mới đã vắng mặt. Trong số hàng trăm người bị hại, có rất nhiều cán bộ hưu trí ở một số tỉnh, thành phố quanh Hà Nội

Ngày 19-3-2004 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử phạt ba lãnh đạo của Công ty Thế Giới Mới Việt Nam từ 8-20 năm tù về tội lừa đảo qua bán hàng đa cấp.

(Nguồn: Việt báo http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Lua-dao-ban-hang-da-cap-thuc-pham-bo-duong-Toan-bo-lanh-dao-Cong-ty-The-Gioi-Moi-hau-toa/45135081/218/ và Báo tuổi trẻ điện tử

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=29091&ChannelID=123).

Mô hình dưới đây miêu tả quá trình xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vi phạm pháp luật cạnh tranh:

4.3.3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm pháp luật cạnh tranh Trách nhiệm pháp lý do vi phạm pháp luật cạnh tranh là những hậu quả bất lợi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Pháp luật cạnh tranh hướng đến bảo vệ môi trường kinh tế bình đẳng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể đồng thời xâm phạm các quan hệ pháp luật công và quan hệ pháp luật tư. Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh xâm hại đến trật tự

1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn 2. Xâm phạm bí mật kinh doanh 3. Ép buộc trong kinh doanh 4. Gièm pha doanh nghiệp khác 5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác 6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 8. Phân biệt đối xử của hiệp hội 9. Bán hàng đa cấp bất chính

Bị cấm

Page 31: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 109

quản lý kinh tế của nhà nước thì chủ thể vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý hành chính và hình sự. Nếu hành vi đó gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh khác thì chủ thể vi phạm pháp luật còn phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại.

Trách nhiệm hành chính do vi phạm pháp luật cạnh tranh

Chủ thể vi phạm pháp luật cạnh tranh phải gánh chịu các hình thức xử phạt hành chính. Có hai hình thức xử phạt là hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.

o Hình thức xử phạt chính bao gồm cảnh cáo và phạt tiền. Mức phạt tiền đối với các hành vi gây hạn chế cạnh tranh tối đa đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Mức phạt đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là từ 10 triệu đồng đến 200 triệu đồng.

o Hình thức xử phạt bổ sung bao gồm thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật và phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Bên cạnh trách nhiệm hành chính nói trên, doanh nghiệp vi phạm pháp luật cạnh tranh còn có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính như:

o Buộc phải cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;

o Buộc phải chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất;

o Buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua;

o Cải chính công khai;

o Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh;

o Buộc áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.

Trách nhiệm hình sự do vi phạm pháp luật cạnh tranh

Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có dấu hiệu của tội phạm thì chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, chủ thể của tội phạm theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam chỉ là cá nhân, do vậy trong trường hợp chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh là tổ chức thì không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Các tội liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 bao gồm: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều156); Tội kinh doanh trái phép (Điều 159); Tội lừa dối khách hàng (Điều 162); Tội quảng cáo gian dối (Điều 168); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).

Hình phạt chính là trách nhiệm hình sự mà chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu nếu thực hiện một trong các hành vi phạm tội nêu trên.

Trách nhiệm dân sự do vi phạm pháp luật cạnh tranh

Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại.

Page 32: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

110 v1.0

Cơ quan quản lý cạnh tranh truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm

Phát hiện của cơ quan quản lý cạnh tranh

Khiếu nại quyết định xử lý tới Hội đồng

cạnh tranh

Khiếu nại quyết định xử lý tới Bộ trưởng

Bộ Công thương

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Điều tra sơ bộ

Điều tra chính thức

Chuyển hồ sơ để khởi tố vụ án hình sự

Chuyển hồ sơ tới Hội đồng cạnh tranh

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được thành lập để tiến hành phiên điều trần

Hội đồng xét xử truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với

chủ thể vi phạm

Khiếu nại của chủ thể kinh doanh

Cơ quan quản lý cạnh tranh

Khởi kiện ra Tòa Hành chính thuộc Tòa án nhân dân tỉnh

Hành vi hạn chế cạnh tranh

4.3.4. Giải quyết vụ việc cạnh tranh Chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thuộc Chính phủ với các thành viên Hội đồng được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và Tòa án nhân dân.

Chủ thể có quyền khởi kiện vụ việc cạnh tranh bao gồm chủ thể kinh doanh có quyền và lợi ích bị xâm hại và cơ quan quản lý cạnh tranh khi cơ quan này phát hiện doanh nghiệp đã hoặc đang thực hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Tiến trình giải quyết vụ việc cạnh tranh được thể hiện như sơ đồ dưới đây:

Sau khi Cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý đơn khiếu nại hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh thì Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ ra quyết định điều tra sơ bộ vụ việc. Điều tra sơ bộ nhằm xem xét cơ sở và độ tin cậy của chứng cứ để qua đó bước đầu xác định hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.

Sau khi điều tra sơ bộ kết thúc, vụ việc được chuyển sang điều tra chính thức. Trong quá trình điều tra chính thức, nếu vụ việc có dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan quản lý cạnh tranh chuyển hồ sơ sang cơ quan nhà nước có thẩm quyền để khởi tố vụ án hình sự.

Page 33: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 111

Nếu vụ việc liên quan đến hành vi gây hạn chế cạnh tranh thì Cơ quan quản lý cạnh tranh chuyển hồ sơ cho Hội đồng cạnh tranh giải quyết. Nếu vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì Cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét và áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể có hành vi vi phạm.

Trong trường hợp vụ việc được chuyển tới Hội đồng cạnh tranh thì một Hội đồng xử lý vụ việc sẽ được thành lập để tiến hành phiên điều trần. Dựa trên nguyên tắc đa số và bỏ phiếu kín, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra Quyết định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm.

Nếu các bên có liên quan không đồng ý với quyết định xử lý thì có thể khiếu nại. Đối với

Quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh thì chủ thể gửi đơn khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Công thương. Đối với quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh thì chủ thể gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng cạnh tranh. Nếu sau khi có quyết định giải quyết đơn khiếu nại mà các bên vẫn không đồng ý thì có thể khởi kiện ra Tòa án hành chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

Như vậy, tòa án không tham gia giải quyết vụ việc cạnh tranh ngay từ đầu mà chức năng này thuộc về các cơ quan hành chính nhà nước, đó là Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Đây là điểm đặc thù của tố tụng cạnh tranh bởi vì cơ quan hành chính thực hiện chức năng xét xử của cơ quan tư pháp. Tòa án chỉ đóng vai trò là cơ quan xét xử cuối cùng nếu có khiếu kiện về các quyết định hành chính do Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh ban hành.

Page 34: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

112 v1.0

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường bởi vì theo lý thuyết của kinh tế học, cạnh tranh mang lại hiệu quả kinh tế xét trên các phương diện phân bổ nguồn lực và đổi mới sản xuất. Chính vì lý do này nên pháp luật cạnh tranh cần phải được ban hành để duy trì sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế.

Pháp luật không nên cấm các doanh nghiệp nỗ lực vươn lên để trở thành chủ thể kinh doanh có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường mà chỉ cấm các doanh nghiệp đó lạm dụng vị trí của mình để gây ra hạn chế cạnh tranh.

Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế cũng chỉ ra trường hợp hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn khi sử dụng “tính kinh tế của quy mô” và “tính kinh tế của phạm vi”. Vì lý do đó nên pháp luật cạnh tranh cũng nên thừa nhận cho doanh nghiệp được thực hiện các hành vi tập trung kinh tế ở một mức độ nhất định.

Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hai nhóm hành vi, bao gồm các hành vi gây hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo Luật Cạnh tranh 2004, các hành vi gây hạn chế cạnh tranh bao gồm thỏa thuận về hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối xử của hiệp hội và bán hàng đa cấp bất chính.

Các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể được xác định theo cấu thành vật chất hoặc cấu thành hình thức. Theo thuật ngữ được sử dụng trong luật cạnh tranh, các trường hợp cấu thành này được xác định dựa vào “quy tắc cấm đoán tự thân” và “quy tắc lý do”. Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự hoặc phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.

Vụ việc cạnh tranh được giải quyết thông qua phiên điều trần tại Cục Quản lý cạnh tranh nếu liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc tại Hội đồng cạnh tranh nếu liên quan đến hành vi gây hạn chế cạnh tranh. Nếu các bên không đồng ý với Quyết định của các cơ quan này thì có thể khởi kiện ra Tòa Hành chính để xét xử theo tố tụng hành chính.

Page 35: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

v1.0 113

CÂU HỎI CUỐI BÀI

1. Trình bày khái niệm thị trường liên quan.

2. Phân tích quy tắc SSNIP trong xác định thị trường sản phẩm liên quan.

3. Phân biệt hành vi hạn chế cạnh tranh với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

4. Hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh phải chịu các hình thức pháp lý nào?

Page 36: BÀI 4: PHÁP LUẬT CẠNH TRANH - eldata11.topica.edu.vneldata11.topica.edu.vn/HocLieu/v1.0/LAW201/Giao trinh/07-LAW201-Ba… · 06.11.2009 · Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

Bài 4: Pháp luật cạnh tranh

114 v1.0

CÂU HỎI THƯỜNG GẶP

1. Tại sao phải duy trì cạnh tranh trong nền kinh tế?

2. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh những hành vi nào?

3. Quy tắc nào thường được sử dụng để xác định thị trường sản phẩm liên quan?

4. Doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh do vậy doanh nghiệp có quyền tự do đàm phán để mua lại, sáp nhập hoặc hợp nhất với doanh nghiệp khác?