bẢn tin cẠnh tranh & ngƯỜi tiÊu dÙng - vca.gov.vn · và không đề nghị cung...

32
BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG SỐ 55 - 2016 Nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của người tiêu dùng Người tiêu dùng thận trọng khi tham gia vay tiêu dùng trả góp Thế giới chia rẽ trong việc trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc Hội nghị tổng kết công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 BỘ CÔNG THƯƠNG CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

Upload: vukiet

Post on 29-Aug-2019

224 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG

SỐ 55 - 2016

Nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của người tiêu dùng

Người tiêu dùng thận trọng khi tham gia vay tiêu dùng trả góp

Thế giới chia rẽ trong việc trao quy chế kinh tế thị trường

cho Trung Quốc

Hội nghị tổng kết công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015

BỘ CÔNG THƯƠNGCỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

Page 2: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

BỘ CÔNG THƯƠNG

CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH

Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh tự vệ.

Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05 tháng 2 năm 2013, Cục Quản lý cạnh tranh hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy và duy trì môi trường cạnh tranh hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh gồm một Cục trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương và một số Phó Cục trưởng do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm.

Page 3: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

BẢN TINCẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG

Của Cục Quản lý cạnh tranh

Giấy phép xuất bản số 04/GP-XBBT Cấp ngày 05/01/2016

Phát hành vào ngày 20 hàng tháng

NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢNBẠCH VĂN MỪNG

Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương

BAN BIÊN TẬPNGUYỄN PHƯƠNG NAM, VÕ VĂN THÚY,

TRẦN THỊ MINH PHƯƠNG, PHẠM CHÂU GIANG,PHẠM THỊ QUỲNH CHI, PHẠM HƯƠNG GIANG, PHAN ĐỨC QUẾ,

PHÙNG VĂN THÀNH, CAO XUÂN QUẢNG, HỒ TÙNG BÁCH, TRẦN DIỆU LOAN, TẠ MẠNH CƯỜNG

HỘI ĐỒNG CỐ VẤNTRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN

Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mạiPGS. TS. LÊ DANH VĨNH

Nguyên Thứ trưởng Bộ Công ThươngÔNG TRẦN QUỐC KHÁNH

Thứ trưởng Bộ Công ThươngGS. TS. HOÀNG ĐỨC THÂN

Đại học Kinh tế Quốc dânPGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

Viện Nhà nước và Pháp luậtTS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

Viện Nhà nước và Pháp luật

Tổ chức sản xuất và phát hànhTRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH (CCID)

25 Ngô Quyền - Hà NộiĐT: (04) 2220 5305 * Fax: (04) 2220 5303

Email: [email protected]

Đại diện tại TP. Hồ Chí MinhSố 12 Võ Văn Kiệt, Quận 1, TP.HCM

Phát hành tạiCông ty phát hành báo chí Trung ương

Mục lục

Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng xin trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của độc giả nhằm nâng cao chấtlượng của Bản tin. Mọi ý kiến đóng góp, thư từ, tin, bài xin gửi về:

Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng25 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 * Email: [email protected]

04 CHUYÊN MỤC Bảo vệ người tiêu dùng

12 TIN TỨC - SỰ KIỆN

23 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 4: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

4 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm 2011 được đánh giá

là một trong những dấu ấn nổi bật, góp phần thay đổi nhận thức về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam. Theo quy định, những đối tượng sau đây sẽ chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật, bao gồm: người tiêu dùng; tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam.

Trong giai đoạn 2011-2015, thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến và bước đầu thực thi các quy định pháp luật, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm của tổ chức xã hội và các cơ quan quản lý nhà nước đã được tập trung làm rõ và tăng cường đẩy mạnh từ trung ương xuống địa phương. Tuy nhiên, nếu xét về cơ cấu các hoạt động trực tiếp hướng tới các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật thì dường như người tiêu dùng vẫn chưa được tập trung tuyên truyền và hướng dẫn kiến thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Người tiêu dùng là chủ thể trực tiếp tham gia các giao dịch tiêu dùng, trực tiếp phát hiện và tố cáo, khiếu nại các tranh chấp phát sinh. Đồng thời, tất cả các hoạt động của các đối tượng khác, từ doanh nghiệp tới các cơ quan, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đều hướng tới mục đích chung là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Với vị trí trung tâm như vậy cùng với nguyên tắc coi người tiêu dùng luôn ở vị trí yếu thế so với doanh nghiệp trong các giao dịch, thực tế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thời gian vừa qua đã xuất hiện một số hạn chế liên quan trực tiếp từ phía người tiêu dùng, cụ thể:

1. Tâm lý “phải được” bảo vệ của người tiêu dùng

Không thể phủ nhận rằng trong phần lớn các quan hệ giao dịch, người tiêu dùng khó có thể có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, thông tin liên quan so với doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Chính vì vậy, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa ra các quy định nhằm chi tiết hóa và tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp nhằm cân bằng

quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Nếu doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện đầy đủ và chính xác các quy định này thì khi đó, vị thế của người tiêu dùng sẽ được đảm bảo cân bằng với vị thế của doanh nghiệp, và khi đó, quan hệ tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích cân bằng cho tất cả các bên.

Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm trên, một số người tiêu dùng cũng đã cho rằng trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là của riêng doanh nghiệp hoặc của các cơ quan, tổ chức chứ hoàn toàn không phải là của người tiêu dùng. Tâm lý này dẫn tới nhiều hành vi sai sót, cụ thể:

Chủ quan trong việc kiểm tra, phòng ngừa các hành vi có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi tiêu dùng.

Không có thiện chí phối hợp với doanh nghiệp hoặc cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các phương thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hộiTại Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, trong quá trình tiếp nhận phản

ánh, khiếu nại của người tiêu dùng, Tổng đài tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838 đã tiếp nhận nhiều trường hợp người tiêu dùng có tâm lý “phải được” bảo vệ, ví dụ:

Khi giao nhận hàng hóa, mặc dù nhân viên bán hàng đã khuyến cáo người tiêu dùng kiểm tra hàng hóa trước khi nhận để tránh các sai sót, nhầm lẫn có thể xảy ra nhưng người tiêu dùng bỏ qua. Sau khi mua về, thay vì sử dụng luôn thì một thời gian sau, khi bắt đầu sử dụng hàng hóa, người tiêu dùng mới phát hiện các dấu hiệu kém chất lượng ở vỏ ngoài của sản phẩm (vết xước, vết nứt…). Khi đó, việc giải quyết tranh chấp sẽ rất khó khăn trong việc xác định nguyên nhân thuộc về bên nào. Theo quy định, tại thời điểm giao nhận hàng, nếu phát hiện những sai sót có thể nhìn thấy trực quan thì người tiêu dùng phải phản ánh luôn tới người bán để ghi nhận và xử lý.

Phổ biến xảy ra là hành vi ký hợp đồng nhưng không nghiên cứu trước nội dung và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời gian vừa qua, các tranh chấp phát sinh trong giao dịch tín dụng tiêu dùng chủ yếu tập trung vào hành vi người tiêu dùng bị gây nhầm lẫn khi ký kết hợp đồng. Đa phần người tiêu dùng với tâm lý chủ quan, muốn nhanh chóng được việc của mình đã ký vào bản hợp đồng mà không đọc trước nội dung. Chỉ đến khi tranh chấp xảy ra, khi công ty tài chính cung cấp hợp đồng có chữ ký của người tiêu dùng thì người tiêu dùng mới ý thức được các nội dung mà mình đã tham gia ký kết. Có những trường hợp, vì nghe theo thông tin tư vấn bằng miệng của nhân viên, người tiêu dùng cho rằng lãi suất vay chỉ từ 1-2%/tháng, thủ tục đơn giản nên đã nhanh chóng ký vào

NGHĨA VỤ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG

CHUYÊN MỤC

Page 5: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

5ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

hợp đồng. Sau đó, mới phát hiện ra lãi suất thực ghi trên hợp đồng là 6-7%/tháng. Khi đó, việc xem xét và xử lý các tranh chấp về mức lãi suất rất khó khăn vì trên hợp đồng có chữ ký của người tiêu dùng đã thể hiện rõ mức lãi suất.

Một số trường hợp, sau khi phản ánh vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì không có thiện chí phối hợp với doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý để làm rõ vấn đề. Ví dụ, chỉ cung cấp thông tin rất hạn chế về vụ việc; chỉ đưa ra yêu cầu xử lý nhưng không cung cấp tài liệu chứng minh sự liên quan hoặc không tham dự buổi làm việc khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước. Một số vụ việc, người tiêu dùng đã kết hợp đưa tin lên các phương tiện báo chí với mục đích tác động tới kết quả buổi làm việc của các bên theo hướng có lợi cho người tiêu dùng…

Từ thực tế trên, có thể thấy, để thực thi tốt công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì không chỉ xuất phát từ phía các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức mà bản thân người tiêu dùng cũng phải ý thức được nghĩa vụ của mình trong các hoạt động tự phòng ngừa và phối hợp xử lý vụ việc. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đã quy định rõ nghĩa vụ của người tiêu dùng khi tham gia các giao dịch với doanh nghiệp. Vì vậy, rõ ràng, để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì bản thân người tiêu dùng cũng phải tuân thủ một số nghĩa vụ cơ bản để đảm bảo hiệu quả của hoạt động.

2. Lợi dụng quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của doanh nghiệp hoặc tổ chức, cơ quan

Với tâm lý người tiêu dùng là trung tâm của các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong thời gian vừa qua, đã có một số vụ việc người tiêu dùng lợi dụng các quy định pháp luật để gây ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp, quấy rối hoạt động của các cơ quan, tổ chức.

Có một số vụ việc, mặc dù giá trị tranh chấp rất nhỏ và thực tế chưa xảy ra các thiệt hại phát sinh liên quan khác nhưng người tiêu dùng đã đưa ra các yêu cầu không có căn cứ thực tế, lớn hơn rất nhiều lần giá trị tranh chấp hoặc trong quá trình các bên giải quyết vụ việc, người tiêu dùng cố ý hoặc thực hiện các biện pháp nhằm gây rối, cản trở các hoạt động làm sáng tỏ vụ việc của các bên liên quan. Tại Cục Quản lý cạnh tranh, thực tế đã phát sinh một số vụ việc sau khi được tổ chức hòa giải thành công, người tiêu dùng đã tiếp tục quay lại có hành vi tống tiền, đe dọa hoạt động của doanh nghiệp hoặc vụ việc người tiêu dùng thông qua Cục Quản lý cạnh tranh liên tục gửi đơn thư khiếu nại với cùng một nội dung tới doanh nghiệp, từ đó, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời quấy rối hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước. Đối với những vụ việc như vậy, người tiêu dùng đã cố tình lợi dụng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để làm căn cứ thực hiện các hoạt động, qua đó, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của các bên khác.

Những hành vi như vậy đã được quy định cấm thực hiện tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3. Tăng cường sự tham gia của người tiêu dùng vào hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Từ thực tế trên cho thấy, để thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì các hoạt động cần chú trọng hướng tới đồng bộ cả người tiêu dùng và các tổ chức, cơ quan, đơn vị liên quan.

Người tiêu dùng chủ động tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Người tiêu dùng thay vì ở vị thế “bị động” cần được bảo vệ thì cần chuyển sang vị trí chủ động trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hiện tại, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định rõ và chi tiết các quyền của người tiêu dùng trong quá trình thực hiện giao dịch với doanh nghiệp. Việc biết và hiểu rõ các quy định pháp luật này sẽ tăng thêm tự tin và cải thiện vị thế của người tiêu dùng khi tiến hành các giao dịch. Đồng thời, với những doanh nghiệp cố tình vi phạm các quy định, chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật đã giao trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng cho một hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương xuống địa phương, bao gồm cả mạng lưới các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi cả nước.

Như vậy, có thể thấy, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước hết cần được thực hiện ngay từ người tiêu dùng. Các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức cần giúp cho người tiêu dùng hiểu được quyền của người tiêu dùng và đồng thời, xây dựng một cơ chế hữu hiệu để các bên đều có thể phát huy được tính chủ động của mình khi tham gia công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Có như vậy, người tiêu dùng mới có thể tự tin sử dụng các quyền của mình để tự bảo vệ quyền lợi trước khi nhờ tới sự can thiệp của các cơ quan, tổ chức liên quan./.

TÙNG BÁCH

CHUYÊN MỤC

Page 6: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

6 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

Tại Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, tranh chấp về dịch vụ tín dụng tiêu dùng là một trong

những nội dung khiếu nại được tiếp nhận nhiều trong năm 2015 vừa qua. Các hành vi có dấu hiệu vi phạm quyền lợi người tiêu dùng chủ yếu như sau:

i) Nhân viên tư vấn có dấu hiệu cung cấp thông tin gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Ví dụ: mời chào ký hợp đồng với lãi suất thấp; có thể thanh lý hợp đồng bất kỳ thời điểm nào; thủ tục thanh lý đơn giản…trong khi thực tế đây đều là những nội dung xảy ra tranh chấp khi thực hiện hợp đồng.

ii) Nhân viên tư vấn không chủ động cung cấp hợp đồng để người tiêu dùng tham khảo trước khi ký và lưu giữ sau khi ký. Một số phản ánh của người tiêu dùng cho thấy: khi ký kết, nhân viên thường giải thích qua loa nội dung hợp đồng sau đó nhanh chóng đề nghị người tiêu dùng ký; khi ký xong nhân viên giải

NGƯỜI TIÊU DÙNG THẬN TRỌNG KHI THAM GIA

VAY TIÊU DÙNG TRẢ GÓP

CHUYÊN MỤC

Page 7: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

7ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

thích hợp đồng sẽ được gửi qua địa chỉ bưu điện cho người tiêu dùng. Thực tế, một số người tiêu dùng cho rằng khi ký kết có để ý đến nội dung mức lãi suất nhưng trên hợp đồng khi đó để khoảng trống. Chỉ khi được cung cấp hợp đồng sau khi đã ký kết, người tiêu dùng mới phát hiện thấy thông tin về mức lãi suất (thường từ 6-6.5%/tháng, thay vì từ 1-2%/tháng như tư vấn ban đầu).

iii) Khi xảy ra tranh chấp, việc liên hệ và phản ánh tới công ty cung cấp dịch vụ (thường là các công ty tài chính) rất khó khăn và tốn kém: tổng đài liên tục bận; lời thoại hướng dẫn rất dài; chỉ tiếp nhận phản ánh qua điện thoại, không hỗ trợ tiếp nhận trực tiếp tại văn phòng công ty hoặc email…Việc kéo dài thời gian giải quyết như vậy sẽ phát sinh thời gian, qua đó, làm tăng số tiền phạt mà người tiêu dùng phải nộp cho công ty trong một số vụ việc.

iv) Khi xảy ra tranh chấp, người tiêu dùng, thậm chí là người thân, đồng nghiệp của người tiêu dùng liên tục bị các số máy lạ gọi điện, nhắn tin từ 6h sáng tới 9-10h tối để giục đóng tiền nợ. Rất nhiều cuộc gọi điện bao gồm cả việc đe dọa, sử dụng từ ngữ “chợ búa”, giang hồ để thách thức người tiêu dùng.

Trước thực trạng của dịch vụ tín dụng tiêu dùng như vậy, ngay từ giữa năm 2015, Cục Quản lý cạnh tranh đã phát hành nhiều thông tin trên các phương tiện truyền thông nhằm hướng dẫn và cảnh báo người tiêu dùng lưu ý khi tham gia các hợp đồng tín dụng tiêu dùng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số vụ việc người tiêu dùng khiếu nại trong lĩnh vực này vẫn tiếp tục có xu hướng tăng cao. Nghiêm trọng hơn, số lượng công ty tài chính bị khiếu nại cũng đang có xu hướng mở rộng.

Tâm lý của người đi vay thường chỉ chú trọng vào việc được vay nên thường bỏ qua hoặc không chú ý tới các điều khoản, điều kiện của hợp đồng, chỉ đến khi xảy ra tranh chấp và được cung cấp các hợp đồng đã ký kết thì người vay mới nhận thức được các yếu tố ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Khi đó, rất khó có thể bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng vì hợp đồng đã được ký kết, hiệu lực thi hành đã được áp dụng. Nhằm cảnh báo người tiêu dùng trước khi thực hiện các hợp đồng tín dụng tiêu dùng, tránh các phát sinh ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi tài chính của người tiêu dùng và người thân của người tiêu dùng trong quá trình thực hiện hợp đồng, từ thực tiễn các tranh chấp xảy ra trong quá trình giao dịch tín dụng tiêu dùng vừa qua, người tiêu dùng cần lưu ý một số nội dung sau. Các nội dung lưu ý có thể chia làm ba giai đoạn tương

ứng với các bước ký hợp đồng, bao gồm: Cân nhắc trước khi tham gia vay tiêu dùng trả góp; Lưu ý trước khi ký hợp đồng và Lưu ý sau khi ký hợp đồng.

Ảnh: Người tiêu dùng phải chủ động nghiên cứu nội dung trước khi ký hợp đồng

1. Cân nhắc trước khi tham gia vay tiêu dùng trả gópĐể tránh dẫn tới tình trạng phải đi vay để tiêu dùng, trong

quá trình chi tiêu người tiêu dùng nên lập kế hoạch các tài sản, các nhu cầu cần mua sắm, từ đó bố trí nguồn tài chính và cân đối các khoản thu chi để đảm bảo đáp ứng nhu cầu chi tiêu.

Khi quyết định vay tiêu dùng, người tiêu dùng cũng cần đảm bảo tính ổn định của thu nhập, ít nhất trong toàn bộ thời hạn của khoản vay. Có trường hợp khi ký hợp đồng vay tiêu dùng, người tiêu dùng cho rằng mỗi tháng chỉ phải trả nợ một số tiền nhỏ sẽ không ảnh hưởng đến khả năng tài chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều sự việc phát sinh trong quá trình người tiêu dùng thực hiện hợp đồng, ví dụ: mất việc, ốm đau, bệnh tật…dẫn tới khả năng tài chính bị hạn chế, không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Sau khi quyết định vay tiêu dùng, người tiêu dùng nên cân nhắc, tham khảo thông tin từ nhiều nguồn để lựa chọn đơn vị cho vay tiêu dùng. Hiện nay, có nhiều công ty tài chính cung cấp khoản vay tiêu dùng với thủ tục đơn giản, thời gian nhanh gọn. Tuy nhiên, so với các ngân hàng, lãi suất của các công ty tài chính cao hơn rất nhiều. Trước khi lựa chọn đơn vị cho vay, người tiêu dùng có thể tham khảo thông tin về hoạt động của đơn vị thông qua website hoặc qua người thân, bạn bè hoặc liên hệ tới Tổng đài tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838 để được tư vấn thông tin.

Theo quy định pháp luật, hiện nay dịch vụ cho vay tiêu dùng thuộc Danh mục dịch vụ phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung tại các cơ quan quản lý nhà

nước. Vì vậy, khi lựa chọn bất kỳ đơn vị nào cung cấp dịch vụ, người tiêu dùng có quyền yêu cầu công ty thông báo về việc đã hoàn thành nghĩa vụ đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền hay chưa? Người tiêu dùng có thể kiểm tra hành vi này thông qua Tổng đài tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838.

Người tiêu dùng cũng cần lưu ý, chỉ khi thật sự cần thiết thì mới vay tiêu dùng vì lãi suất của các khoản vay tiêu dùng là rất cao.

CHUYÊN MỤC

Page 8: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

8 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

2. Lưu ý trước khi ký hợp đồngTrước khi đặt bút ký hợp đồng vay tiền, trách nhiệm của

người tiêu dùng phải làm rõ những nội dung trong hợp đồng nhằm đảm bảo đã hiểu rõ hợp đồng, tránh các trường hợp nhầm lẫn, bị tư vấn thông tin chưa đầy đủ, chính xác. Một khi người tiêu dùng đã ký hợp đồng thì các điều khoản, điều kiện quy định tại hợp đồng sẽ có giá trị ràng buộc trách nhiệm của người tiêu dùng.

Ảnh: Người tiêu dùng cần làm rõ các điều khoản, nội dung của hợp đồng

Một số điều khoản, điều kiện cần đặc biệt lưu ý trước khi ký kết hợp đồng:

Lãi suất vay. Trong quá trình tư vấn, người tiêu dùng có thể được cung cấp thông tin với mức lãi suất rẻ, hợp lý. Ngay cả trước khi ký hợp đồng, mục thông tin thể hiện lãi suất thường được nhân viên tư vấn bỏ qua, không lưu ý người tiêu dùng kiểm tra lại. Nhiều người tiêu dùng sau khi ký hợp đồng một thời gian mới phát hiện mức lãi suất thực tế trên hợp đồng rất cao. Vì vậy, người tiêu dùng phải đề nghị nhân viên ghi rõ mức lãi suất trên hợp đồng trước khi ký.

Các khoản phí. Ngoài mức lãi suất phải trả hàng tháng, một số hợp đồng có thể phát sinh các khoản phí, chi phí khác. Ví dụ, phí mua bảo hiểm cho khoản vay. Các khoản phí này có thể được tính gộp vào khoản tiền phải trả hàng tháng của người tiêu dùng. Vấn đề quan trọng là người tiêu dùng phải được thông tin về các khoản phí này. Để bảo vệ quyền lợi, người tiêu dùng nên đề nghị nhân viên nêu rõ các khoản phí có thể phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Lãi phạt. Mức phạt trong các hợp đồng tín dụng tiêu dùng thường rất cao và rất chặt chẽ. Tuy nhiên, nhân viên tư vấn thường bỏ qua nội dung này. Để hiểu rõ các hành vi có thể dẫn tới mức phạt, người tiêu dùng đề nghị nhân viên chỉ rõ nội dung quy định về lãi phạt, cách thức tính lãi phạt, hình thức thông báo cho người tiêu dùng khi bị phạt.

Thời hạn trả nợ và Phương thức trả nợ. Đề nghị nhân viên chỉ rõ thời gian phải trả nợ định kỳ. Người tiêu dùng cũng cần lưu ý một số vấn đề, ví dụ, nếu ngày trả nợ trùng với ngày nghỉ lễ, ngày cuối tuần (thứ Bảy, Chủ nhật) thì hợp đồng sẽ quy định thế nào. Liên quan tới thời hạn trả nợ, nhiều người tiêu dùng sử dụng cách thức chuyển khoản qua ngân hàng để thanh toán. Người tiêu dùng cũng nên lưuý là đôi khi việc chuyển khoản giữa các ngân hàng khác nhau sẽ mất thời gian 1 hoặc 2 ngày làm việc. Việc này có thể dẫn tới tiền báo có vào tài khoản

công ty sẽ bị chậm. Thanh lý hợp đồng hoặc hủy hợp đồng. Có nhiều người

tiêu dùng sau khi thực hiện hợp đồng một thời gian thì có nhu cầu thanh lý sớm hoặc khi phát hiện sai phạm của công ty nên muốn hủy hợp đồng. Trong quá trình tư vấn, có thể người tiêu dùng sẽ được cung cấp các thông tin về việc thanh lý hợp đồng đơn giản, gọn nhẹ, không phát sinh chi phí hoặc quyền có thể chấm dứt hợp đồng khi phát hiện các nội dung sai phạm của hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải tất cả trường hợp đều như vậy. Người tiêu dùng phải đáp ứng rất nhiều điều kiện theo quy định của hợp đồng để có thể được thanh lý hoặc chấm dứt hợp đồng. Quy định về thanh lý hợp đồng là một trong những căn cứ quan trọng để người tiêu dùng quyết định ký hợp đồng vay tiền đối với các công ty.

3. Lưu ý sau khi ký hợp đồngSau khi ký hợp đồng, người tiêu dùng cần thực hiện ngay

các nội dung sau:- Kiểm tra một lần nữa các nội dung của hợp đồng. Nếu

có gì sai khác, thông báo ngay cho công ty và thực hiện quyền hủy hợp đồng (nếu cần thiết).

- Người tiêu dùng có trách nhiệm yêu cầu và lưu giữ hợp đồng để làm căn cứ đối chiếu, so sánh trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

- Tóm tắt và lưu giữ một số thông tin cơ bản như số tiền trả nợ hàng tháng, phương thức trả nợ và thời hạn trả nợ để có thể theo dõi và thực hiện đúng định kỳ.

- Lưu giữ tất cả các hóa đơn, tài liệu chứng minh nghĩa vụ thanh toán nợ.

- Khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng có quyền yêu cầu công ty giải quyết tranh chấp hoặc khiếu nại tại Phòng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương.

Người tiêu dùng hiện đang có tranh chấp liên quan đến dịch vụ tín dụng tiêu dùng có thể liên hệ Tổng đài tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng miễn phí thuộc Cục Quản lý cạnh tranh: 1800.6838 để được tư vấn và hỗ trợ giải quyết khiếu nại./.

TÙNG BÁCH

CHUYÊN MỤC

Page 9: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

9ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

Ngày 07 tháng 1 năm 2016, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2011-2015 tại Thành phố Hà Nội. Thứ

trưởng Bộ Công Thương – ông Trần Quốc Khánh và Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội – ông Lê Bộ Lĩnh đã đến tham dự Hội nghị.

Tham dự Hội nghị còn có đại diện Lãnh đạo Sở Công Thương 63 tỉnh, thành phố; Lãnh đạo 51 Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đại diện các Bộ, ban, ngành, các tổ chức quốc tế, hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp và đại diện phương tiện truyền thông.

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị

Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh khẳng định, những kết quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đạt được trong thời gian vừa qua mặc dù mới chỉ ở giai đoạn ban đầu nhưng rất đáng được khích lệ và cần tiếp tục tăng cường đẩy mạnh trong thời gian tới. Báo cáo của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương đã cho thấy một số kết quả nổi bật của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giai đoạn 2011-2015. Cụ thể:

1. Một số kết quả đạt đượcHệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng được đánh giá là ban hành nhanh và đồng bộ so với các hệ thống văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội khóa 12 thông qua năm 2010 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Ngay sau đó, trong giai đoạn 2011-2013, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các Nghị định, Quyết định và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo nhằm đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đặc biệt, ngày 10 tháng 7 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1035/QĐ-TTg công nhận ngày 15 tháng 3 hàng năm là Ngày Quyền người tiêu dùng Việt Nam.

Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bước đầu đã có sự thống nhất và phân cấp rõ ràng. Hiện tại, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương

là đơn vị chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cùng với đó, chúng ta có 63 Sở Công Thương tại các tỉnh, thành phố thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động tại các địa phương, trong đó có 50 tỉnh, thành đã giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho Phòng Quản lý thương mại. Việc hình thành hệ thống thống nhất như vậy sẽ tạo sức mạnh và phát huy hiệu quả trong việc triển khai các công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ trung ương xuống từng địa phương.

Ông Trịnh Anh Tuấn – Phó Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh báo cáo tại Hội nghị

Các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có sự lớn mạnh về số lượng. Từ chỗ chỉ có 39 Hội trước năm 2011, tính đến nay, Việt Nam đã có 51 hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên phạm vi cả nước. Tại các tỉnh, thành, các chi hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đã có sự phát triển lớn mạnh về cơ cấu, không chỉ dừng ở cấp tỉnh mà còn triển khai hoạt động xuống các cấp huyện và xã. Phong trào hoạt động của các hội không chỉ bao gồm các hoạt động tuyên truyền, cung cấp thông tin mà đã đi sâu vào các chuyên đề gắn liền với thực tế tiêu dùng của người dân, đồng thời, sáng tạo và đề xuất nhiều hoạt động có giá trị hữu ích cho người tiêu dùng. Đặc biệt, liên quan đến vấn đề kinh phí hoạt động, hiện đã có một số Hội đã chủ động bố trí được nguồn ngân sách hoạt động thường xuyên. Những Hội này thực sự là tấm gương tiêu biểu để các Hội khác học tập trong quá trình hoạt động của Hội.

HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2015

CHUYÊN MỤC

Page 10: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

10 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

Ông Nguyễn Mạnh Hùng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Vinastas

Nhận thức của xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được nâng cao. Người dân đã chủ động tìm hiểu quy định pháp luật và chủ động thực hiện các quyền của người tiêu dùng; doanh nghiệp đã có trách nhiệm hơn trong công tác tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của khách hàng; các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội ngày càng quan tâm và chú ý tới hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để có được kết quả này là do công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được thực hiện liên tục và hiệu quả trong những năm vừa qua.

Đối với công tác kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung, nếu như năm 2012 là năm đầu tiên thực hiện

quy trình này, Bộ Công Thương mới chỉ tiếp nhận và xử lý 110 hồ sơ thì năm 2014 số lượng đã tăng lên 194 bộ hồ sơ và từ đầu năm 2015 đến nay đã tiếp nhận hơn 600 hồ sơ. Sự gia tăng về số lượng các hồ sơ đăng ký một mặt cho thấy ý thức của doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, mặt khác, việc xử lý các hồ sơ đăng ký theo quy định của Luật sẽ góp phần đảm bảo sự cân bằng trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng và các tổ chức kinh doanh, từ đó, giảm thiểu các tranh chấp phát sinh.

2. Xác định rõ các tồn tại, hạn chếBên cạnh các thành tựu đã đạt được, trong Báo cáo của

Cục Quản lý cạnh tranh cũng như các bài tham luận, phát biểu của các đại biểu tham dự Hội nghị đã tập trung làm rõ và nhấn mạnh những tồn tại, hạn chế đang cản trở sự phát triển của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam. Ông Trần Quốc Khánh nhấn mạnh một số tồn tại chủ yếu sau:

- Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chưa hoàn thiện. Hiện tại, theo báo cáo có 53/63 Sở Công Thương giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho Phòng Quản lý thương mại trong khi vẫn có 13/63 Sở Công Thương giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho đơn vị khác. Tại cấp huyện, thực tế cho thấy nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa được triển khai và người tiêu dùng còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong công tác phản ánh và giải quyết khiếu nại.

- Các quy định về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh chưa hoàn thiện. Hòa giải là phương thức quan trọng được sử dụng trong công tác giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng (Chỉ đứng sau phương thức thương lượng). Tuy nhiên, các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về tổ chức đơn vị hòa giải chưa được thực thi trong thực tế, dẫn tới công tác hòa giải tranh chấp của người tiêu dùng chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Thủ tục rút gọn đối với các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được quy định tại Luật và thực tế được đánh giá là phương thức hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp của người tiêu dùng. Tuy nhiên, thực tế các quy định về trình tự tố tụng tại Tòa chưa đầy đủ để có thể thực hiện theo thủ tục này. Cùng với sự ban hành và có hiệu lực từ năm 2017 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, các quy định về thủ tục rút gọn giải quyết vụ việc khiếu nại người tiêu dùng tại Tòa án sẽ có thêm cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện.

Đại diện các Sở Công Thương, các Hội phát biểu tại Hội nghị

CHUYÊN MỤC

Page 11: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

11ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Bảo vệ người tiêu dùng

- Hoạt động của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều khó khăn, bất cập. Các hội có vai trò quan trọng và thực tế cũng cho thấy trách nhiệm liên quan của các hội trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, một trong những trở ngại chính của các hội là không có nguồn kinh phí để đảm bảo hoạt động, ngay cả đối với những hoạt động cơ bản như bố trí văn phòng và thiết bị làm việc. Vấn đề này đã luôn được nhìn nhận từ nhiều năm trước nhưng đến thời điểm hiện tại, mặc dù các nội dung tại Luật và các văn bản hướng dẫn đã có nhiều quy định nhằm hỗ trợ hoạt động của các tổ chức, tuy nhiên, thực tế triển khai vẫn còn thiếu tính chủ động, thiếu sự liên kết giữa các đơn vị, tổ chức liên quan. Tại Hội nghị lần này, báo cáo cũng đã nêu rõ sự khác nhau trong tên gọi của các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng là một trong những hạn chế để có thể áp dụng thực hiện các quy định hỗ trợ theo quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3. Định hướng công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thời gian tới

Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công Thương cho rằng công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới. Để thực hiện được điều đó, cần tập trung vào những nội dung sau:

- Định vị lại khái niệm người tiêu dùngTrong thời đại công nghệ thông tin, người tiêu dùng không

chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ mà có thể mở rộng trên phạm vi toàn cầu và di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Vì vậy, công tác bảo vệ người tiêu dùng cũng cần cập nhật và theo kịp sự thay đổi này. Các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần chuẩn bị các cơ sở pháp lý và công cụ hữu hiệu để có thể bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch xuyên biên giới như các giao dịch qua mạng, qua điện thoại, email...

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng, công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không chỉ là trách nhiệm riêng của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương mà đó còn phải là trách nhiệm chung của các Bộ, ngành, cơ quan trong lĩnh vực khác. Cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần nhận thức rõ nội dung này, trước hết, để tránh tình trạng chồng chéo trong việc xử lý công việc và quan trọng hơn là để tránh tâm lý cho rằng cơ quan mình là trung tâm giải quyết mọi sự việc liên quan đến người tiêu dùng.

- Nâng cao vị trí, vai trò của Cục Quản lý cạnh tranhTừ việc xác định rõ vị trí của công tác bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng, Thứ trưởng đề nghị Cục Quản lý cạnh tranh cần đẩy mạnh hoạt động của mình. Cụ thể, Cục cần phát huy hơn nữa vai trò đầu mối tiếp nhận khiếu nại của người tiêu dùng. Để thực hiện chức năng này, Cục cần xây dựng và vận hành các hệ thông thông tin sao cho đủ sức đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người tiêu dùng. Đối với công tác xử lý khiếu nại của người tiêu dùng, trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình, Cục cần tập trung vào những nội dung khiếu nại trong thẩm quyền xử lý. Với những khiếu nại nằm ngoài phạm vi chức năng, để tránh sự chồng chéo trong thực hiện, Cục cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị khác để hỗ trợ, tư vấn người tiêu dùng thông tin xử lý hiệu quả.

- Xác định vị trí của các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Một trong những băn khoăn, lo ngại của Thứ trưởng là sự

khó khăn trong hoạt động của các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thứ trưởng cho rằng, hiện tại các hội bảo vệ người tiêu dùng đang hoạt động rất nhiệt tình và đóng góp thành tích lớn vào công tác này tại Việt Nam. Tuy nhiên, chắc chắn sự nhiệt tình này sẽ không thể duy trì nếu như thiếu các cơ chế hỗ trợ hoạt động của các hội, đặc biệt là hỗ trợ về kinh phí. Để thực hiện được nội dung này, các cơ quan quản lý cần làm rõ các chính sách, các điều kiện để có thể hỗ trợ hiệu quả hoạt động của các hội.

Ông Bạch Văn Mừng – Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh

Tại Hội nghị, ông Bạch Văn Mừng – Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh khẳng định Lãnh đạo Cục và tập thể cán bộ Cục sẽ tiếp thu những ý kiến chỉ đạo của Thứ trưởng và sẽ nhanh chóng đưa các nội dung chỉ đạo này vào các hoạt động thực tế của Cục trong năm 2016. Trước hết, ngay trong tháng 3 năm 2016, Cục sẽ phối hợp chặt chẽ với các Sở Công Thương, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các đơn vị liên quan để tổ chức chuỗi hành động hưởng ứng Ngày Quyền của Người tiêu dùng Việt Nam năm 2016. Với sự mở đầu đầy ý nghĩa này, năm 2016 chắc chắn sẽ là một năm tiếp tục ghi dấu nhiều thành công của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh trao Bằng khen cho tập thể, cá nhân

Để ghi nhận những nỗ lực và đóng góp của các tập thể, cá nhân, Bộ Công Thương đã công bố Quyết định khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2015./.

TÙNG BÁCH

CHUYÊN MỤC

Page 12: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

12 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Ngày 19 tháng 12 năm 2015, tại Hội nghị bộ trưởng lần thứ 10 tổ chức tại Nairobi - Kenya, 162

thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã đạt được thỏa thuận về vấn đề loại bỏ trợ cấp nông sản xuất khẩu.Thỏa thuận này được các quốc gia thành viên coi là một đột phá lớn của WTO đối với lĩnh vực nông nghiệp. Để đạt được thỏa thuận này, các thành viên của WTO đã trải qua một thời gian dài đàm phán. Tại sao việc WTO đạt được thỏa thuận về trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản lại có ý nghĩa lớn đối với các quốc gia như vậy? Sự kiện quan trọng này sẽ là cơ hội để nhìn lại toàn diện về vấn đề trợ cấp nông sản xuất khẩu theo các thỏa thuận của WTO.

NHÌN LẠI VỀ THỎA THUẬN CỦA WTO ĐỐI VỚI TRỢ CẤP

NÔNG SẢN XUẤT KHẨU

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 13: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

13ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

1. Trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO

Về mặt khái niệm, từ điển Oxford dành cho giới kinh doanh định nghĩa trợ cấp là khoản tiền do nhà nước cấp cho các nhà sản xuất một số hàng hóa nhất định để giúp họ có thể bán các hàng hóa đó cho dân chúng với giá thấp, để cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài, để tránh hàng tồn đọng thừa ế và tránh tạo ra thất nghiệp,…. Nhìn chung, trợ cấp gây bóp méo thương mại quốc tế và không phổ biến nhưng đôi khi vẫn được các chính phủ sử dụng để giúp tạo dựng một ngành sản xuất mới trong nước. Với định nghĩa đó, vấn đề trợ cấp xuất khẩu được hiểu là việc trợ cấp dựa trên kết quả xuất khẩu, nhằm tăng lượng xuất khẩu.

Với mục tiêu cao nhất là tự do hóa thương mại, về cơ bản, các Hiệp định WTO quy định cấm trợ cấp xuất khẩu. Trong khuôn khổ thương mại đa phương của WTO, vấn đề về cắt giảm và loại bỏ các trợ cấp được quy định tại 2 Hiệp định:

- Đối với hàng hóa phi nông nghiệp: Hiệp định WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM)

- Đối với hàng hóa nông nghiệp: Hiệp định nông nghiệp của WTO (Hiệp đinh AA). Các quy định về trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản tại Hiệp định AA được tóm tắt trong bảng sau:

Quy định Nội dung

Điều 9.1 Các trợ cấp xuất khẩu cần phải cam kết cắt giảm

Điều 10 Lẩn tránh nghĩa vụ cắt giảm trợ cấp xuất khẩu liên quan đến trợ cấp lương thực

Điều 3.3 Quy định về cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm không thuộc cam kết cắt giảm

Các nước phát triển

Các nước đang phát triển

Lộ trình cam kết cắt giảm (Điều 9.2)

Cắt giảm đáng kể về cả lượng (21%) và ngân sách (36%) vào năm thứ 6 của giai đoạn thực hiện

Lượng cắt giảm bằng 2/3 các nước phát triển và thời gian là trong 10 năm;

Điều 9.4

Không yêu cầu cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu về chi phí tiếp thị và vận chuyển nội địa

So với Hiệp định SCM, quy định về trợ cấp xuất khẩu theo Hiệp định nông nghiệp ít hạn chế hơn. Nếu trợ cấp xuất khẩu đối với hàng hóa phi nông nghiệp quy định tại Hiệp định SCM được quy định là bị cấm, các trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản được quy định có những trợ cấp xuất khẩu có thể cam kết cắt giảm và mức cắt giảm dựa trên mức cơ sở cũng không cao. Cụ thể, theo điểm (b) Điều 9.2 Hiệp định AA, mức cắt giảm vào cuối năm thứ 6 của giai đoạn thực hiện cắt giảm thì “chi tiêu ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu và số lượng nông sản được hưởng trợ cấp không vượt quá 64% và 79% các mức tương ứng trong giai đoạn cơ sở 1986-1990. Đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ phần trăm tương ứng là 76% và 86%” . Danh mục các trợ cấp xuất khẩu được cam kết cắt giảm quy định tại Điều 9.1 cũng tương đối phong phú:

(a) trợ cấp trực tiếp của chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ, kể cả trợ cấp bằng hiện vật, cho một hãng, một

ngành, cho các nhà sản xuất, sản phẩm nông nghiệp cho một hợp tác xã hoặc hiệp hội của các nhà sản xuất , hoặc cho một cơ quan tiếp thị, tuỳ thuộc vào việc thực hiện xuất khẩu;

(b) việc bán hoặc thanh lý xuất khẩu của chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ dự trữ sản phẩm phi thương mại với giá thấp hơn giá so sánh của sản phẩm cùng loại trên thị trường nội địa;

(c) các khoản thanh toán xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hoàn toàn do chính phủ thực hiện, dù có tính vào tài khoản công hay không, kể cả các khoản thanh toán lấy từ khoản thu thuế từ sản phẩm nông nghiệp có liên quan hoặc từ sản phẩm xuất khẩu được làm ra;

(d) trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp (ngoài các trợ cấp dịch vụ xúc tiến xuất khẩu và dịch vụ tư vấn ), bao gồm chi phí vận chuyển, nâng phẩm cấp và các chi phí chế biến khác, và chi phí vận tải quốc tế và cước phí;

(e) phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất khẩu, do chính phủ cung cấp hoặc uỷ quyền, với điều kiện thuận lợi hơn so với các chuyến hàng nội địa;

(f) trợ cấp cho sản phẩm nông nghiệp tuỳ thuộc vào hình thành của sản phẩm xuất khẩu.

Trong số các trợ cấp này, Điều 9.4 còn quy định nới lỏng hơn với trợ cấp (d) và trợ cấp (e). Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ không cần phải cam kết cắt giảm các trợ cấp này.

Các quy định về trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản trong Hiệp định AA được xây dựng dựa trên việc nông sản là mặt hàng nhạy cảm, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Việc đưa ra các mức cam kết như trong Hiệp định AA nhằm tạo điều kiện để các nước đang phát triển nâng cao tính cạnh tranh về nông sản trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, các mục tiêu đề ra của Hiệp định AA hầu như không đạt được. Thị phần hàng nông nghiệp của các nước đang phát triển không tăng lên đáng kể trong khi các trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản thể hiện những tác động tiêu cực tới nhiều chủ thể kinh tế.

Dự đoán trước về việc cần đàm phán thêm về vấn đề nông nghiệp, Điều 20 của Hiệp định AA cũng đã quy định về sự cần thiết của việc ràng buộc các nước thành viên phải tiến hành vòng đàm phán mới về nông nghiệp tiếp theo Hiệp định này. Và thực tế là vấn đề nông nghiệp đã trở thành đề tài nóng hổi suốt nhiều năm tại WTO.

2. Các cuộc đàm phán về trợ cấp nông sản xuất khẩu trước ngày 19 tháng 12 năm 2015

Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Seattle (Hoa Kỳ) - Tháng 12/1999

Hội nghị Bộ trưởng tại Seattle là thời điểm sớm nhất các quốc gia ngồi lại với nhau để thảo luận về các quy định về nông nghiệp. Vấn đề cắt giảm trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông nghiệp được thảo luận khá căng thẳng. Trong khi một nhóm các quốc gia yêu cầu phải cắt giảm các trợ cấp nông nghiệp để đảm bảo hội nhập kinh tế, một nhóm khác lại cho rằng mặt hàng nông nghiệp có tính đặc thù, không thể cắt giảm hơn nữa các trợ cấp. Bế mạc Hội nghị Seattle, các bên không đạt được thỏa thuận về vấn đề nông nghiệp.

Vòng đàm phán DohaVòng đàm phán Doha được bắt đầu từ Hội nghị Bộ trưởng

WTO lần thứ 4 tại Doha, Quata vào tháng 11 năm 2001. Tuyên bố Doha nêu rõ 3 mục tiêu mà đàm phán nông nghiệp toàn diện cần phải đạt được, đó là: (i) cải thiện hơn nữa khả năng tiếp cận thị trường của nông sản xuất khẩu; (ii) giảm và tiến tới xóa

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 14: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

14 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

bỏ tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu nông sản; và (iii) cắt giảm đáng kể các hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại1. Đúng tinh thần của Tuyên bố Doha, các quốc gia thành viên đã liên tục tổ chức các buổi làm việc thảo luận để phát triển Hiệp định Nông nghiệp, tiến tới các quy định hiệu quả và phù hợp hơn. Tuy nhiên, mâu thuẫn lợi ích quá lớn của các quốc gia đối với mặt hàng nhạy cảm này dường như luôn đưa các hội nghị đi vào bế tắc, nhiều cuộc họp về vấn đề này vào năm 2003 còn bị hoãn lại.

Tuy nhiên, đàm phán nông nghiệp đã bắt đầu được khởi động lại khi phía EU và Hoa Kỳ thể hiện quan điểm linh hoạt hơn về vấn đề hỗ trợ và trợ cấp nông nghiệp. Ngày 16 tháng 7 năm 2004, dự thảo đầu tiên của “July Package” đã được đưa lên bàn đàm phán, trong đó Phụ lục A là dự thảo sau cùng về Khuôn khổ đàm phán trong lĩnh vực nông nghiệp. Các cuộc đàm phán rất căng thẳng và gay cấn diễn ra sau đó đã gặt hái được thành công bước đầu với việc Đại hội đồng chính thức thông qua dự thảo lần thứ 3 của văn bản này dưới hình thức Quyết

1 Đoạn 13 trong Tuyên bố Doha, nguồn: https://www.wto.org/english/thewto_e/minist_e/min01_e/mindecl_e.htm

định vào ngày 1 tháng 8 năm 2004. Đáng quan tâm nhất trong “July Package” chính là Khuôn khổ để xây dựng các nguyên tắc đàm phán/thể thức cam kết trong nông nghiệp (Framework for Establishing Modalities in Agriculture) tại Phụ lục A của Quyết định. Điểm nổi bật của Khuôn khổ này là:

Lần đầu tiên, các nước thành viên nhất trí sẽ xóa bỏ tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu nông sản vào một thời điểm cụ thể (vấn đề là thời điểm nào thì sẽ phụ thuộc vào đàm phán);

Các nước thành viên nhất trí cắt giảm mạnh các biện pháp hỗ trợ trong nước gây bóp méo thương mại nông sản;

Đạt được bước đột phá trong lĩnh vực thương mại về mặt hàng bông, mở ra cơ hội to lớn cho nông dân trồng bông ở Tây Phi và các nước đang phát triển khác.

Bước ngoặt quan trọng này ghi dấu sự đóng góp và dẫn dắt của Nhóm 5 Bên quan tâm (Five Interested Parties -FIPs) gồm Hoa Kỳ, EU, Brazil, Ấn độ và Úc. Khuôn khổ này đã đưa ra những đặc trưng chủ yếu của các nguyên tắc đàm phán mà không đi quá sâu vào chi tiết, chẳng hạn như không chỉ ra công thức cắt giảm chính xác là như thế nào hay mức độ cắt giảm cụ thể phải thực hiện

là bao nhiêu. Khuôn khổ này cũng nhấn mạnh về yêu cầu phải cân đối kết quả đàm phán nông nghiệp trong tổng thể đàm phán chung cũng như phải cân đối giữa các nội dung riêng trong đàm phán nông nghiệp. 2

Sau khi đã đạt được những thống nhất quan trọng vào năm 2004, vòng đàm phán lại đi vào những bế tắc mới để đưa ra những quy định chi tiết. Từ Hội nghị bộ trưởng lần thứ 6 tại Hồng Kông (2006), Hội nghị Geneva (2006), Hội nghị Postdam (2007), Hội nghị Geneva (2008), Kỳ họp tại Bali (2009), các quốc gia không đạt được những thỏa thuận cốt lõi cho việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu. Vào thời điểm này, các quốc gia bắt đầu chú ý hơn đến các hiệp định song phương và khu vực và cho rằng đây là con đường dễ dàng đạt được thỏa thuận về những vấn đế khó như nông nghiệp hơn là khuôn khổ đa phương tại WTO.

3. Tuyên bố Nairobi về trợ cấp nông sản xuất khẩu

Sau vòng đàm phán Doha, các quốc gia vẫn tiếp tục đấu tranh để đạt được thỏa thuận về xóa bỏ trợ cấp nông nghiệp

2 Mutrap,Vấn đề trợ cấp trong nông nghiệp trong Vòng Doha và Tác động tới Việt Nam, trang 5

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 15: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

15ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

nhưng không đi được đến thống nhất cuối cùng. Phải đến Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 10 tại Nairobi, các thành viên WTO mới xây dựng và thống nhất được gói Nairobi với nhiều thỏa thuận quan trọng, bao gồm cả thỏa thuận về cắt giảm trợ cấp nông nghiệp. Theo đó, các trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp phải được cắt giảm ngay lập tức đối với các nước phát triển và trong 3 năm đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, thời hạn này có thể được gia hạn đến 5 năm (đối với các nước phát triển) và 7 năm (đối với nước đang phát triển). Hội nghị Bộ trưởng thống nhất rằng các nước đang phát triển phải cắt giảm trong 8 năm các trợ cấp xuất khẩu tại điều 9.4 (về tiếp thị và chi phí vận chuyển nội địa).

Các thành viên của WTO bày tỏ sự ủng hộ và kỳ vọng rất lớn với những cam kết mới này. Tổng giám đốc WTO Roberto Azevedo đánh giá cao thỏa thuận dỡ bỏ trợ giá xuất khẩu nông sản, và coi đây là kết quả đáng kể nhất về lĩnh vực nông nghiệp trong lịch sử 20 năm thành lập và hoạt động của tổ chức này. Ông Vương Thụ Văn – Thứ trưởng Thương mại Trung Quốc cho rằng: “Đây là một thành công của lĩnh vực nông nghiệp và là thành công đối với các nước đang phát triển bởi nó sẽ giúp cải thiện thu nhập của người nông dân.” Ủy ban châu Âu cũng hoan nghênh và cho rằng thỏa thuận khiến thương mại toàn cầu trở nên

công bằng hơn. Ủy viên thương mại Liên minh châu Âu (EU) Cecilia Malmstroem cho rằng đối với những người còn nghi ngại, thỏa thuận trên đã chứng minh vai trò và năng lực của WTO trong việc giải quyết các vấn đề.

4. Tác động của Tuyên bố Nairobi về trợ cấp nông sản xuất khẩu đối với nông nghiệp Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ của các quốc gia trên thế giới đối với việc cắt giảm trợ cấp nông sản nhìn qua tưởng sẽ tác động tiêu cực đối với các nước đang phát triển - nơi mà kinh tế nông nghiệp vẫn là cốt lõi. Nhưng thực tế cho thấy, một nước đang phát triển như Việt Nam cần vui mừng với thỏa thuận về cắt giảm trợ cấp với nông sản xuất khẩu bởi lẽ mức trợ cấp của những nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Úc..dành cho nông nghiệp mới thực sự đáng kể. Các nước phát triển không chỉ có nền nông nghiệp tiên tiến mà còn được hưởng những chính sách trợ giá của Chính Phủ nhằm mở rộng thị phần xuất khẩu.

Nói đến vấn đề trợ cấp của Hoa Kỳ, các chuyên gia nông nghiệp thường nhắc đến câu chuyện về ngô của Mê-hi-cô. Mê-hi-cô, quê hương của ngô đã mở cửa biên giới cho các nhà xuất khẩu ngô của Mỹ sau khi hai nước ký hiệp định thương mại tự do Napta vào năm 1994. Chỉ sau 1 năm, sản lượng nhập khẩu ngô của Mỹ vào Mê-hi-cô đã tăng gấp đôi.

Đến nay, một phần ba lượng ngô tại thị trường Mê-hi-cô là nhập khẩu từ Mỹ. Để có được kết quả này, Hoa Kỳ đã dành cho người trồng ngô hơn 10 tỷ đô la trợ cấp xuất khẩu mỗi năm để họ có thể bán ngô ở mức giá thấp hơn rất nhiều so với chi phí sản xuất. Ngô rẻ của Hoa Kỳ tràn ngập Mê-hi-cô và nông dân Mê-hi-cô không thể cạnh tranh nổi trên chính thị trường của mình. Hơn nữa, giá ngô của Mê-hi-cô cũng bị ép giá, mức giảm lên đến 70% kể từ khi nhập khẩu ngô từ Hoa Kỳ.

Thực tế cho thấy, trợ cấp nông sản xuất khẩu không những không đem lại lợi ích cho các nước đang phát triển, mà ngược lại, còn là rào cản khiển cho các nước đang phát triển khó có thể cạnh tranh với hàng nông sản của các nước phát triển. Đối với Tuyên bố Nairobi ngày 19 tháng 12 năm 2015 vừa qua, ông Nguyễn Hữu Dũng, nguyên phó chủ tịch VASEP cho rằng “thỏa thuận của WTO vừa rồi sẽ tạo ra sự công bằng hơn trên thế giới về thương mại nông sản và phần có lợi sẽ nghiêng về các nước đang phát triển”3 . Với cam kết mang tính lịch sử này, chắc chắn nông sản của các nước phát triển sẽ không thể giữ mức giá thấp như hiện nay, do vậy, hàng nông sản của các nước đang phát triển như Việt Nam sẽ gia tăng năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu.

3 Phát biểu tại chương trình “Thỏa thuận lịch sử” phát trên sóng VTV1 ngày 22/12/2015

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 16: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

16 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Ngày 17 tháng 02 năm 2016, Bộ Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đã ban hành kết luận cuối cùng về vụ việc

điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá với đá granite nhập khẩu từ Việt Nam.

Trước đó, ngày 12 tháng 12 năm 2014 Thổ Nhĩ Kỳ đã khởi xướng điều tra vụ việc trên để xem xét liệu ở Việt Nam có tồn tại việc lẩn tránh thuế chống bán phá giá với đá granite của Trung Quốc không.

Trong bản kết luận cuối cùng, Bộ Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ xác định có 05 nhà sản xuất/ xuất khẩu đã hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra, trong đó, có hai (02) công ty được xác định là có cơ sở sản xuất tại Việt Nam và tự tiến hành sản xuất sản phẩm, ba (03) công ty còn lại cũng có cơ sở sản xuất và tiến hành

sản xuất tại Việt Nam, tuy nhiên một số thông tin do các công ty này cung cấp lại không được chứng thực. Các công ty khác do không trả lời đầy đủ bản câu hỏi/cung cấp thiếu thông tin nên bị coi là không hợp tác. Trong trường hợp này, các dữ liệu sẵn có được sử dụng để xác định việc lẩn tránh thuế.

Trên cơ sở tài liệu và kết quả thẩm tra tại chỗ, Thổ Nhĩ Kỳ kết luận rằng các nhà sản xuất/xuất khẩu Việt Nam (ngoại trừ hai công ty được xác định là tự tiến hành sản xuất đã nêu ở trên) đã thực hiện hành vi lẩn tránh thuế chống bán phá giá mà Thổ Nhĩ Kỳ áp dụng đối với sản phẩm đá granite nhập khẩu từ Trung Quốc. Do đó, mức thuế chống bán phá giá đang áp dụng với đá granite nhập khẩu từ Trung Quốc (174 USD/tấn) cũng sẽ được áp dụng đối với đá granite nhập

khẩu từ Việt Nam, trừ các giao dịch có liên quan đến sản phẩm sản xuất bởi hai công ty này (các giao dịch này phải xuất trình giấy chứng nhận sản xuất). Ngoài ra, những thay đổi về mức thuế chống bán phá giá áp dụng đối với Trung Quốc cũng sẽ được áp dụng đối với Việt Nam.

Để biết thêm thông tin chi tiết, xin liên hệ:

Phòng xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài - Cục Quản lý cạnh tranh

Địa chỉ: 25 Ngô Quyền, Hà NộiĐiện thoại: (04) 222 05012Fax: (04) 222 05003(Phòng xử lý các vụ việc phòng vệ

thương mại của nước ngoài)

THỔ NHĨ KỲ BAN HÀNH KẾT LUẬN CUỐI CÙNG VỀ VỤ VIỆC ĐIỀU TRA CHỐNG LẨN TRÁNH THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM ĐÁ GRANITE NHẬP KHẨU TỪ VIỆT NAM

Ngày 4 tháng 2 năm 2016, Toà án Tư pháp thuộc Liên minh Châu Âu (CJEU) đã ra thông báo quyết

định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da (certain leather footware) nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam bị vô hiệu một phần.

1. Thông tin chung vụ việc:Ngày 5 tháng 10 năm 2006, Uỷ ban

Châu Âu (EC) ban hành quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm

giày mũ da nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam. Mức thuế áp dụng đối với Trung Quốc là 16,5%, Việt Nam là 10%.

Năm 2010 và 2012, nhà nhập khẩu giày Clark của Anh Quốc và nhà nhập khẩu Puma của Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức đã yêu cầu cơ quan hải quan của hai nước này hoàn lại tiền thuế chống bán phá trị giá đã áp dụng với sản phẩm này với lý do lệnh áp thuế chống bán phá giá không hợp lệ. Tuy nhiên, yêu cầu này sau đó đã bị từ chối. Do đó, hai công ty

Clark quyết định tiếp tục đưa vụ việc lên Toà án về Thuế (First-tier Tribunal (Tax Chamber)) của Anh Quốc và Toà Tài chính Munich (Finance Court, Munich) của CHLB Đức.

Toà án của hai nước nói trên đã đề nghị Toà án Tư Pháp thuộc Liên minh Châu Âu (Court of Justice of EU - CJEU) tiến hành

đánh giá tính hợp lệ của lệnh áp thuế.2. Phán quyết của CJEUNgày 4 tháng 2 năm 2016, CJEU đã

ban hành phán quyết cho rằng việc quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam bị vô hiệu một phần do Uỷ ban Châu Âu đã tiến hành điều tra không phù hợp với quy định liên quan đến đối xử như nền kinh tế thị trường “Market economy treatment – MET” và đối xử riêng rẽ “Individual Treatment – IT” đối với một số doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

Công báo của Tóa án Tư pháp EUMọi thông tin chi tiết xin liên hệ:Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ

thương mại của nước ngoài – Cục Quản lý cạnh tranh- Bộ Công Thương

Địa chỉ: 25 Ngô Quyền – Hà NộiĐiện thoại: (04) 2220.5002 (máy lẻ:

1031 – gặp anh Hoàng Anh)Fax: (04)2220.5003(Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ

thương mại của nước ngoài)

EU THÔNG BÁO VÔ HIỆU MỘT PHẦN QUYẾT ĐỊNH ÁP THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI GIÀY MŨ DA NHẬP KHẨU TỪ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 17: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

17ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Vừa qua, Cục Quản lý cạnh tranh nhận được thông tin ngày 07 tháng 01 năm 2016, Tổng

vụ Chống bán phá giá, chống trợ cấp Ấn Độ ra thông báo về kết luận cuối cùng trong vụ việc điều tra chống bán phá giá với máy chế biến nhựa (Plastic Processing machines or Injection moulding machines) nhập khẩu từ Đài Loan, Philippines, Malaysia và Việt Nam.

Một số thông tin chung về vụ việc:Ngày khởi xướng điều tra:

14/10/2014.Sản phẩm bị điều tra: Máy chế biến

nhựa có mã HS: 84771000.Nguyên đơn: Hiệp hội các nhà

sản xuất máy nhựa của Ấn Độ (Plastics Machinery Manufacturers Association of India)

Giai đoạn điều tra bán phá giá:

tháng 4 năm 2013 đến tháng 3 năm 2014. Giai đoạn điều tra thiệt hại: từ năm

2010 đến 2014.Trong bản kết luận cuối cùng, cơ

quan điều tra xác định rằng họ đã không nhận được bất kỳ bản trả lời đầy đủ nào đối với bản câu hỏi điều tra từ phía các nhà sản xuất/xuất khẩu nào của Việt Nam, Phillipines và Malaysia. Do vậy, các dữ liệu có sẵn được sử dụng để xác định mức độ và phạm vi bán phá giá (nếu có) đối với các doanh nghiệp này.

Trước đó, tại thông báo về bản kết luận điều tra (ngày 29/12/2015) mức biên độ phá giá đối với Việt Nam được xác định là 40-50%. Sau khi xem xét cả biên độ thiệt hại, cơ quan điều tra đã quyết định thuế suất chống phá giá áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu Việt Nam là 23.15%, Phillipines là

30.85%, và Malaysia là 44.74%. Chỉ có duy nhất hai (02) doanh nghiệp của Đài Loan được coi là hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra và được hưởng mức thuế suất 0 - 6.06%. Các doanh nghiệp Đài Loan không hợp tác khác phải chịu mức thuế 27.98%.

Để biết thêm thông tin chi tiết xin liên hệ:

Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài – Cục Quản lý cạnh tranh

Địa chỉ: 25 Ngô Quyền – Hà NộiĐiện thoại: (04)222. 05002 (1033)Fax: (04)222.05003(Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ

thương mại của nước ngoài – Cục Quản lý cạnh tranh)

ẤN ĐỘ RA THÔNG BÁO KẾT LUẬN CUỐI CÙNG VỤ VIỆC ĐIỀU TRA CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VỚI MÁY CHẾ BIẾN NHỰA (PLASTICS PROCESSING MACHINE

OR INJECTION MOULDING MACHINES)

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 18: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

18 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Ngày 02 tháng 02 năm 2016, Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT) nhận được thông tin từ Uỷ ban

Chống bán phá giá Indonesia (KADI) gửi Bản thông tin về các dữ liệu quan trọng (Essenstial Facts) và thông báo tổ chức phiên điều trần liên quan đến vụ việc rà soát cuối kỳ về chống bán phá giá thép cuộn cán nguội (CRC/S) nhập khẩu từ Việt Nam, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

1. Một số thông tin chung về vụ việc:

- Sản phẩm bị điều tra: Thép cuộn cán nguội (CRC/S).

- Mã HS: 7209.16 .00.10, 7209.17.0 0.10 , 7209.18 .99.0 0 , 7209.26.0 0.10, 7209.27.0 0.10, 7209.28.90.0 0, 7209.90.90.0 0, 7211.23.90.90, 7211.29.90.00, và 7211.90.10.00.

- Ngày khởi xướng điều tra rà

soát cuối kỳ: Ngày 4 tháng 9 năm 2015.- Nguyên đơn: PT Krakatau Steel.- Mức thuế: KADI đã khởi xướng

điều tra vụ việc ban đầu vào năm 2011 và ra quyết định áp thuế vào năm 2013 với mức thuế dành cho doanh nghiệp Việt Nam là từ 12,3% - 27,8%.

2. Thông tin cụ thể về phiên điều trần:

- Thời gian: bắt đầu từ 10h – 12h (giờ Jakarta), Thứ hai ngày 15 tháng 02 năm 2016.

- Địa điểm: Dahlia Room, Building I – Ground Floor, Ministry of Trade - JI.M.I. Ridwan Rais No.5 Central Jakarta.

Mục đích của phiên điều trần là cơ hội để cho các bên liên quan trực tiếp nêu lên các quan điểm, lập luận liên quan đến vụ việc này.

Bản đệ trình dưới dạng mật và không bảo mật (hard copy và soft copy) liên quan đến Bản thông tin về các dữ liệu

quan trọng (Essential Facts) cần gửi đến KADI không muộn ngày 11 tháng 02 năm 2016.

Mọi ý kiến trình bày tại phiên điều trần tham gia phải được gửi cho KADI trước ngày 11 tháng 02 năm 2016, danh sách thành phần tham gia phiên điều trần phải được gửi cho KADI trước ngày 09 tháng 02 năm 2016. KADI cũng lưu ý chỉ những đại biểu đã đăng ký tham gia mới được tham dự phiên điều trần.

Mọi thông tin chi tiết xin liên hệ:Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ

thương mại của nước ngoài – Cục Quản lý cạnh tranh

Địa chỉ: 25 Ngô Quyền – Hà NộiĐiện thoại: (04)222. 05002 (máy lẻ

1030) (gặp anh Tuấn Nghĩa)Fax: (04)222.05003(Phòng xử lý các vụ kiện phòng vệ

thương mại của nước ngoài – Cục Quản lý cạnh tranh)

UỶ BAN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ INDONESIA (KADI) THÔNG BÁO TỔ CHỨC PHIÊN ĐIỀU TRẦN LIÊN QUAN VỤ VIỆC RÀ SOÁT CUỐI KỲ VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

THÉP CÁN NGUỘI NHẬP KHẨU TỪ VIỆT NAM

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 19: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

19ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Lời nói đầuNgày 11 tháng 12 năm 2016 tới đây

sẽ là cột mốc đáng ghi nhớ của Trung Quốc nói riêng và toàn thế giới nói chung khi tất cả các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) không thể tiếp tục đối xử với Trung Quốc như một “nền kinh tế phi thị trường” (non-market economy – NME) trong quá trình tiến hành những cuộc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước này. Chủ đề này liên tục được tranh luận trong thời gian gần đây dù rằng mốc thời gian này đã được xác định ngay từ khi Trung Quốc gia nhập và trở thành thành viên của WTO. Rõ ràng, Trung Quốc đang chờ đón một sự bùng nổ của xuất khẩu khi mà kinh tế trong nước không còn ở thời kỳ tăng trưởng cực thịnh, thậm chí có dấu hiệu đi xuống bất ổn định. Vào tháng 7 năm 2015, thị trường chứng khoán Trung Quốc mất hơn 30% giá trị vốn hóa, đồng Nhân dân tệ phá giá hơn 3% vào tháng 8, các chỉ số kinh tế vĩ mô đáng thất vọng vào tháng

9, dường như không chỉ các nhà đầu tư Trung Quốc, mà ngay cả những đối tác nước ngoài cũng hoài nghi tính “thức thời” của kinh tế Trung Quốc.

Nguồn gốc “nền kinh tế phi thị trường” và cam kết của Trung Quốc

Khái niệm “nền kinh tế phi thị trường” có nguồn gốc từ Hiệp định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết vào năm 1935. Sau thế chiến thứ hai, các học giả nhận thấy thế giới xuất hiện hiện tượng Nhà nước đóng vai trò chi phối trong hoạt động ngoại thương, chủ yếu là các nước Đông Âu. Bằng quyền lực tuyệt đối của mình, Nhà nước đã độc quyền trong hoạt động giao dịch ngoại thương, một đặc tính của “nền kinh tế phi thị trường”. Tới năm 1973, thuật ngữ “nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung” được gắn liền với thuật ngữ “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, ám chỉ việc Nhà nước có những hoạt động gây bóp méo sự vận hành thông thường của thị trường. Tới những năm 1980 và 1990, các thuật ngữ này được sử dụng

phổ biến và xuất hiện thêm thuật ngữ “quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường” đồng thời với đối tượng là “các nước đang trong thời kỳ chuyển đổi”. Tuy nhiên, tại thời điểm này, thuật ngữ “nền kinh tế phi thị trường” chủ yếu mang tính chính trị chứ không thực sự có nhiều ý nghĩa về kinh tế.

Tiếp đó, trong khuôn khổ WTO, khái niệm “nền kinh tế phi thị trường” được đề cập trong Khoản 1 Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994) “thừa nhận rằng trong trường hợp nhập khẩu từ một nước mà thương mại hoàn toàn mang tính chất độc quyền hoặc hầu như độc quyền hoặc toàn bộ giá trong nước do Nhà nước định đoạt, việc xác định tính so sánh được của giá cả nhằm mục đích nêu tại khoản 1 có thể có những khó khăn đặc biệt và trong những trường hợp đó, các bên ký kết và bên nhập khẩu có thể thấy cần tính toán đến khả năng việc so sánh chính xác giá cả trong nước của nước đó không phải lúc nào cũng thích đáng”. Thông qua quy

THẾ GIỚI CHIA RẼ TRONG VIỆC TRAO QUY CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CHO TRUNG QUỐC

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 20: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

20 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

định này, các thành viên của WTO nhận thấy một cách rõ ràng rằng, các nước có “nền kinh tế phị trường” có thể cần phải được đối xử khác biệt hơn các nước có nền kinh tế thị trường trong các vụ điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Tuy nhiên, GATT và các hiệp định của WTO không đưa ra các tiêu chí xác định tính chất thị trường hay phi thị trường của một nền kinh tế, mà để các nước thành viên tự quyết định trong quá trình nội luật hóa miễn rằng tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của WTO, mà thực chất là nguyên tắc của thị trường, đó là không được phân biệt đối xứ được thể hiện thông qua quy chế tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT), đảm bảo tính minh bạch trong chính sách thương mại, toàn cầu hóa; thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, phát triển và cải cách kinh tế. Những yêu cầu nêu trên cho phép duy trì sự công bằng trong việc hưởng ưu đãi chính sách chung của Nhà nước, thúc đẩy tự do hóa thương mại thông qua cắt giảm, dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; giảm và tiến tới dỡ bỏ rào cản gia nhập thị trường; đảm bảo công khai, minh bạch trong việc can thiệp chính sách của Nhà nước, ngăn cản các hành vi hạn chế cạnh tranh, chống độc quyền, bóp méo giá cả… Các nước xin gia nhập WTO phải cam kết cải cách kinh tế theo hướng đáp ứng các yêu cầu thị trường nêu trên. Theo các thành viên WTO, những nước kinh tế tập trung, kinh tế chuyển đổi là những nước có mức độ phát triển kinh tế thị trường thấp. Nếu các nước này muốn gia nhập WTO phải cần một thời gian nhất định để cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Cụ thể đối với trường hợp của Trung Quốc, nước này sau khi trở thành thành viên của WTO vẫn phải chấp nhận bị coi là có “nền kinh tế phi thị trường” và phải tiếp tục cam kết cải cách kinh tế theo hướng thị trường trong vòng 15 năm. Các nước thành viên của WTO trong thời gian này có quyền không chấp nhận các thông tin về giá cả hay chi phí sản xuất của Trung Quốc và có quyền sử dụng thông tin của nước thay thế làm cơ sở tính toán giá trị thông thường (normal value) trong các vụ điều tra chống bán phá giá và/hoặc ngưỡng chuẩn bên ngoài (external benchmark) trong các vụ điều tra chống trợ cấp. Trong mỗi vụ điều tra, các nước được lựa chọn để thay thế phải ở cũng mức độ phát triển với nước bị điều tra chống bán phá giá và/hoặc chống trợ cấp. Trong một số trường hợp, cơ quan điều tra có quyền tự xây dựng thông tin

tổng hợp về chi phí và giá để đảm bảo sự công bằng của thông tin và tính chất có thể so sánh được. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước điều tra đều có xu hướng sử dụng nước thay thế có mức phát triển cao hơn, dẫn tới chi phí sản xuất cao với mục đích nâng biên độ bán phá giá, biên độ trợ cấp ở mức rất lớn, nhằm mục đích triệt tiêu hoàn toàn sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu.

Sự ủng hộ của Liên minh Châu Âu (EU) đối với Trung Quốc

Trong 11 năm qua, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU. Kim ngạch thương mại song phương Trung Quốc – EU đã vượt 600 tỷ USD năm 2014. Đặc biệt 2014, lần đầu tiên vốn đầu tư của Trung Quốc vào EU đã vượt con số đầu tư của khối này vào Trung Quốc. Trong bối cảnh EU hy vọng thực hiện kế hoạch đầu tư quy mô lớn để chấn hưng nền kinh tế châu lục. Dường như các nhà lãnh đạo EU đang có xu hướng ủng hộ lời đề nghị của Trung Quốc về việc trao quy chế kinh tế thị trường để đổi lấy nguồn vốn đầu tư. Dự kiến vào khoảng tháng 2 năm 2016, Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ đưa ra quyết định về vấn đề này. Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng cũng hộ việc trao MES cho Trung Quốc trong khi Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh George Osborne từ lâu vẫn tìm cách thúc đây quan hệ thương mại với Bắc Kinh. Trong khi đó, một số thành viên EU khác như Italy lại phản đối mạnh mẽ.

Theo quy định pháp luật chống bán phá giá của EU, sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu từ các nhà sản xuất trong nước đưa ra các bằng chứng rõ rằng về việc các nhà sản xuất từ các nước ngoài EU đang bán phá giá sản phẩm nhập khẩu vào EU, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hạng đáng kể, EC sẽ tiến hành cuộc điều tra chống bán phá giá. Đầu tiên, họ sẽ các định liệu hàng hóa nhập khẩu có thực sự bán phá giá hay không. Để làm được điều này, cơ quan điều tra sẽ cần thực hiện một loạt các kỹ thuật tính toán phức tạp để đưa giá xuất khẩu và giá trị thông thường về mức độ có thể so sánh được. Sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường chính là biên độ phá giá – một cơ sở quan trọng để có thể áp dụng các biện pháp đối kháng phù hợp. Tiếp đó, cơ quan điều tra sẽ phải xác định thiệt hại đáng kể và đưa ra một mức biên độ thiệt hại cụ thể. Cuối cùng, cơ quan điều tra phải chỉ ra được mối quan hệ nhân quả của hành vi bán phá giá và thiệt hại nêu trên, sau khi xem xét tất các

cả các yếu tố khác có thể tạo ra thiệt hại.Như vậy, khi tính toán biên độ phá

giá, nếu giá trị thông thường càng lớn thì biên độ phá giá sẽ càng cao, và ngược lại. Khi EU chính thức trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc thì EC không còn có thể sử dụng giá của nước thứ ba nhằm thực hiện các điều chỉnh trong quá trình tính toán biên độ phá giá; trong khi phương pháp này trước đây vẫn được chấp nhận rộng rãi kể cả khi làm cho biên độ phá giá có thể lên tới hàng trăm phần trăm.

Điều 3(6) của Quy định 459/68 (Quy định về chống bán phá giá đầu tiên của EU) đã công nhận rằng giá trị thông thường có thể được xác định mà không cần dựa trên giá nội địa của các nước mà ở đó thương mại được thực hiện dựa trên toàn bộ hoặc một phần của độc quyền và giá nội địa được quyết định bởi Nhà nước. Vào ngày 05 tháng 8 năm 1979, Quy định 1681/79 có hiệu lực đã đưa ra khai niệm về phương pháp sử dụng “nước thay thế” trong quá trình xác định giá trị thông thường đối với nước có nền kinh tế phi thị trường (mà cụ thể là Trung Quốc). Quy định này được bổ sung tại Quy định 384/96 với dẫn chiếu tới các nước có nền kinh tế phi thị trường cụ thể. Cuối cùng, vào ngày 01 tháng 7 năm 1998, Quy định 905/98 có hiệu lực theo đó công nhận rằng Trung Quốc và Nga đang có những thay đổi đáng kể trong nền kinh tế, và đưa ra định nghĩa cho phép tính toán giá trị thông thường cho các nhà sản xuất riêng rẽ theo cách thông thường nếu họ có thể chứng minh được việc vận hành theo các điều kiện của nền kinh tế thị trường – dù cho trong thực tế các công ty khó có thể làm được điều này. Đối với cả Trung Quốc, Kazakhstan và Việt Nam, hệ thống này vẫn được áp dụng cho tới tận ngày nay.

Nếu như giới chức EU đưa ra quyết định cấp quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc vào cuối tháng 2 này, dường như họ đã phải cân nhắc đến những hệ quả có thể xảy tới với thị trường và ngành sản xuất trong nước của mình.

Sự phản đối của Hoa KỳHoa Kỳ ngay lập tức lên tiếng cảnh

báo EU về việc trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc, và cho rằng “những nhương bộ, thỏa hiệp về thương mại có thể đẩy thị trường Hoa Kỳ và EU đến chỗ tràn ngập trong hàng hóa giá rẻ với sự cạnh tranh không công bằng”.

Theo giới chức nước này, quyết định trao quy chế kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc EU sẽ mất đi vũ khí quan

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 21: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

21ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

trọng trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc bởi điều này có thể sẽ giúp các công ty Trung Quốc không bị EU áp mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp ở mức cao đủ để trừng phạt những hành vi thương mại không công bằng.

Rõ ràng, quan ngại của Hoa Kỳ không phải là không có căn cứ khi mà Trung Quốc không thể đưa ra các cam kết cải cách thị trường hóa dài hạn ngay trong Hiệp định Đầu tư song phương Hoa Kỳ - Trung Quốc. Mặc dù hai nước này đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán nhưng việc mở cửa thị trường Trung Quốc do các doanh nghiệp của Hoa Kỳ vẫn là một nhiệm vụ hết sức khó khăn với chính quyền của ông Obama. Trong danh sách đầu tư chọn – bỏ (negative list) của Hoa Kỳ chỉ quy định khoảng 10 ngành Trung Quốc không được đầu tư trong khi danh sách của Trung Quốc với Hoa Kỳ lên tới khoảng 1000 ngành. Trung Quốc nói rằng họ chưa có kinh nghiệm trong việc quản lý đầu tư dù đã gia nhập WTO gần 15 năm. Có thể thấy những chuyển biến trong việc hạ thấp rào cản gia nhập thị trường của nước này trong nhiều lĩnh vực vẫn tiến triển hết sức chậm chạp. Xu hướng bảo hộ thậm chí có phần gia tăng khiến Washington lo ngại rằng Bắc Kinh chỉ tuyên bố cải cách chứ không thực sự muốn có nền kinh tế thị trường.

Công nhận hay không công nhận?Chính bởi GATT và WTO mặc nhiên

coi vấn đề phương pháp xác định các tiêu chí về tính thị trường thuộc thầm quyền của Chính phủ từng nước nên không có công thức chung trong việc xác định liệu Trung Quốc có đáp ứng được tiêu chí về thị trường của tất cả các nước thành viên WTO hay không.

Tham khảo tiêu chí của UNCTAD (United Nations Conferenceon Trade and Development), nền kinh tế phi thị trường và nền kinh tế thị trường được định nghĩa theo các cách sau: (i) một nước được coi là có nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế thị trường đó phải dựa chủ yếu vào lực lượng của thị trường để xác định mức độ của sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm mà không có sự can thiệp của Chính phủ; và (ii) Một nước có nền kinh tế phi thị trường là thị trường mà trong đó Chính phủ tìm mọi cách để quản lý các hoạt động kinh tế một cách rộng lớn thông qua cơ chế quản lý tập trung. Trong đó, mục tiêu sản xuất, giá cả, phân bổ đầu tư, nguyên liệu thô, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết các tổ chức kinh tế khác được điều chỉnh theo một bản kế hoạch lập ra bởi các cơ quan Nhà nước

mà không quan tâm đến cung cầu trong của thị trường.

Trong khi đó, EU đưa ra 5 tiêu chí mà các nước phải đạt được nếu muốn được EU trao quy chế kinh tế thị trường: (i) mức độ ảnh hưởng của Chính phủ thấp trong việc phân bổ nguồn lực và đưa ra quyết định của doanh nghiệp; (ii) không có sự bóp méo do Nhà nước gây ra trong hoạt động của các doanh nghiệp liên quan đến vấn đề cổ phần hóa và không sử dụng các hệ thống thương mại phi thị trường hoặc bồi thường (chẳng hạn như thương mại hàng đổi hàng); (iii) việc ra đời và thực thi Luật Doanh nghiệp một cách minh bạch và bình đẳng nhằm đảm bảo quản trị doanh nghiệp đầy đủ (áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, bảo vệ quyền lợi cổ đông, công khai thông tin chính xác về doanh nghiệp); (iv) sự tồn tại và thực thi tập hợp luật nhất quán, hiệu quả và minh bạch để đảm bảo sự tôn trọng quyền sở hữu và sự vận hành của cơ chế phá sản; và (v) sự tồn tại của một lĩnh vực tài chính đích thực mà hoạt động độc lập với Nhà nước, và về mặt quy định pháp luật và thực tế có các quy định được đảm bảo và giám sát đầy đủ.

Lần đánh giá cuối cùng của EU đối với quy chế kinh tế thị trường của Trung Quốc được thực hiện vào năm 2008. Trước đó vào năm 2004, Trung Quốc chỉ có thể chứng minh thỏa mãn tiêu chí thứ 2 trong số 5 tiêu chí của EU. Các cuộc đàm phán không đạt được tiến triển từ năm 2011 và dậm chân tại chỗ tới tận ngày nay. Tuy nhiên cần phải đặc biệt lưu ý rằng bản đánh giá năm 2008 của EU có đoạn: “…bản đánh giá này là biện pháp kỹ thuật chỉ sử dụng duy nhất cho mục đích điều tra phòng vệ thương mại… các kết luận không được coi là phán xét đối với toàn bộ sự vân hành của nền kinh tế Trung Quốc cũng như đánh giá về mặt chính trị đối với nền kinh tế thị trường vốn đã tồn tại ở Trung Quốc”. Nghĩa là, quy chế về “nền kinh tế thị trường” chỉ liên quan tới các vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu cũng như Chính phủ Trung Quốc, việc được các nước, nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ hay EU công nhận quy chế “kinh tế thị trường” là một mục tiêu bắt buộc để nâng cao các chỉ số về xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nước đi đầu về phòng vệ thương mại trên thế giới lại có cách hành xử hài hòa hơn với toàn bộ các nước thành viên WTO trong vấn đề này, bao gồm cả Trung Quốc. Đơn cử là trường hợp của Canada. Trong các vụ điều tra

chống bán phá giá và chống trợ cấp, Cơ quan điều tra Canada (CBSA) sẽ tiến hành một cuộc điều tra theo Điều 20 của Đạo luật về Các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA) để xem xét tình trạng của ngành sản xuất nước bị điều tra có hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường hay không. Cụ thể trong vụ việc điều tra chống trợ cấp, CBSA sẽ yêu cầu Chính phủ nước bị cung cấp một số thông tin theo “Câu hỏi cho chính phủ theo Điều 20 RFI” bên cạnh “Câu hỏi về trợ cấp của Chính phủ”. Sau khi nhận được trả lời các RFI nêu trên, CBSA có thể tiếp tục yêu cầu các thông tin bổ sung tiếp theo. Bên cạnh cuộc điều tra với Chính phủ, cũng theo Điều 20 SIMA, CBSA sẽ điều tra về các cáo buộc nhận trợ cấp đối các nhà xuất khẩu, yêu cầu cung cấp thông tin trong các bản RFI riêng rẽ. Quy trình tương tự được áp dụng trong vụ việc điều tra chống bán phá giá, chỉ khác đối tượng ở đây là các doanh nghiệp.

Như vậy, Canada ngoài việc điều tra hành vì bán phá giá và các chương trình trợ cấp, còn tiến hành thêm một một cuộc điều tra theo Điều 20 của SIMA để xem xét tình trạng của ngành sản xuất OCTG của nước xuất khẩu có hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường hay không. Về nguyên tắc, tuy Canada có thể chưa công nhận nước xuất khẩu là nước có “nền kinh tế thị trường”, Canada sẽ không tự động coi đó là nước có “nền kinh tế phi thị trường” mà chỉ tiến hành điều tra trong trường hợp có yêu cầu (khác với EU và Hoa Kỳ). Trong trường hợp nguyên đơn trong vụ việc đưa ra các cáo buộc rằng giá nội địa của ngành sản xuất bị điều tra phần lớn phụ thuộc Chính phủ chứ không phải được quyết định trên thị trường cạnh tranh, Canada sẽ tiến hành điều tra xác định liệu có sự kiểm soát của Chính phủ với ngành sản xuất đó hay không thông qua việc ban hành bản câu hỏi theo Điều 20 SIMA (như đã nêu ở trên). Việc trả lời cùng lúc các bản câu hỏi về bán phá giá, chương trình trợ cấp và giải trình cơ chế kinh tế thị trường đòi hỏi sự phân biệt rõ ràng mục đích cũng như cách thức trả lời phù hợp với từng bản câu hỏi và sẽ làm gia tăng khối lượng công việc cho các bên bị điều tra, là một phương pháp hiệu quả nhằm tạo áp lực cả về thời gian lẫn chất lượng của các bản trả lời câu hỏi.

Lời kếtNhư đã diễn giải ở phần trên, nếu

Trung Quốc được coi là nước có “nền kinh tế thị trường”, nghĩa là giá trị thông thường được tính toán dựa trên giá nội

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 22: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

22 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

địa và biên độ trợ cấp dựa trên các điều kiện phổ biến ở Trung Quốc. Theo đó, hàng hóa bị điều tra có thể không bị áp thuế hoặc áp thuế ở mức rất thấp.

Tuy vậy, Trung Quốc cũng không nên lầm tưởng rằng việc không bị đối xử như nước có “nền kinh tế phi thị trường” là lệnh bài miễn tử đối với hàng hóa xuất khẩu, có thể tự do quyết định giá bán thấp mà không phải đối mặt với bất kỳ khó khăn nào từ các nước thành viên WTO. Bất kỳ nước nào trên thế giới cũng quan tâm và đặt sinh mệnh của ngành sản xuất trong nước lên hàng đầu, thậm chí kể cả khi phải chịu rủi ro khi bị kiện tại WTO. Do vậy, các nước chắc chắn sẽ có những điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm hạn chế hàng hóa ồ ạt với giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc.

Giới chức và doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần theo dõi sát sao diễn biến và xu hướng công nhận quy chế “kinh tế thị trường” của Trung Quốc: Liệu thực sự các nước thành viên WTO có đơn thuần chấp nhận cấp một quy chế mà sự tồn tại của nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới ngành sản xuất trong nước hay không? Bởi lẽ bên cạnh hệ lụy từ làn sóng nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc, không thể phủ nhận rằng kịch bản diễn ra với Trung Quốc cũng có

thể lặp lại với Việt Nam khi trong cam kết gia nhập WTO (Đoạn 255 Báo cáo của Ban công tác), các nước thành viên WTO khác cũng có quyền sử dụng biện pháp tính toán biên độ chống bán phá giá và chống trợ cấp cho tới năm 2018. Nếu tận dụng tốt cơ hội, có khả năng Việt Nam cũng sẽ được công nhận cùng với tiến trình công nhận của Trung Quốc. Đây có thể là lối đi tắt để Việt Nam được hưởng “quy chế kinh tế thị trường” thay vì chờ đợi thời hạn 12 năm theo cam kết khi gia nhập WTO.

Nguồn tham khảo:1. Phạm Sỹ Thành, 2015, “Kinh tế

Trung Quốc: Thúc đẩy hay rời xa nguyên tắc thị trường”, Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR).

2. Alan H. Price, Timothy C. Brightbill and D. Scott Nance, 2015, “Đối xử với Trung Quốc như nước có nền kinh tế phi thị trường sau 2016”, Tạp chí Thương mại và sản xuất Hoa Kỳ.

3. David Kleimann và Sophia Muller, 2015, “Từ chối cấp quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc sẽ tạo ra hiệu ứng chính trị xấu”, Tạp chí Nghị viện Châu Âu.

4. Laura Puccio, 2015, “Cấp quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc: Phân

tích về pháp luật WTO và chính sách của một số nước thành viên WTO”, Nghị viện Châu Âu.

5. Nguyễn Ngọc Tú, 2012, “Các tiêu chí nền kinh tế thị trường trong thương mại quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử

6. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)

7. Hiệp định Chống bán phá giá (ADA) của WTO

8. Alexander Polouektov, “Nền kinh tế phi thị trường” (The Non-Market Economy-NME) Quy định trong thương mại quốc tế: Trong bối cảnh gia nhập WTO, Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển, NCTAD/DITC/TNCD/MISC.

9. Báo điện tử VTV, 2016, “Mỹ cảnh báo EU về việc trao quy chế kinh tế thị trường cho Trung Quốc”.

10. Sputniknews Việt Nam, 2016, “EU e sợ sức mạnh của Trung Quốc”.

11. UNCTAD (United Nations Conferenceon Trade and Development).

PHÙNG GIA ĐỨC(Phòng điều tra vụ kiện phòng vệ

thương mại của doanh nghiệp trong nước)

TIN TỨC - SỰ KIỆN

Page 23: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

23ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Lời dẫnTrong các Hiệp định WTO không có

định nghĩa hay quy định nào về nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, EU và một số nước thành viên khác đã có sự tuỳ ý trong quá trình xây dựng nội luật của mình liên quan đến vấn đề này. Khi đàm phán gia nhập WTO, theo yêu cầu của một số thành viên, đặc biệt là Hoa Kỳ, Việt Nam phải chấp nhận cam kết bị đối xử là nước có nền kinh tế phi thị trường cho đến năm 2018, nhưng điều này không có nghĩa mặc nhiên sau năm 2018 Việt Nam sẽ được coi là nước có nền kinh tế thị trường. Vấn đề kinh tế phi thị trường có ảnh hưởng lớn tới quá trình tính toán biên độ phá giá trong vụ việc điều tra. Khi một quốc gia bị coi là có nền kinh tế phi thị trường, cơ quan điều tra sẽ sử dụng giá trị của một nước thứ ba (surrogate country) để tính toán giá trị thông thường (normal value) cho hàng

VẤN ĐỀ KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

TRONG CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ hóa xuất khẩu của Việt Nam. Điều này làm cho biên độ phá giá bị bóp méo một cách đáng kể và dẫn đến thuế chống bán phá giá áp dụng đối với hàng xuất khẩu thuộc diện bị điều tra áp thuế chống bán phá giá của Việt Nam tăng cao, không công bằng và không đúng với thực chất vốn có của các giao dịch thương mại. Trong bối cảnh các vụ điều tra chống bán phá giá ngày càng gia tăng và có xu hướng phức tạp, các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu những mức thuế chống bán phá giá cao do Việt Nam bị đối xử là nền kinh tế phi thị trường, bài viết này đề cập đến các vấn đề sau: khái quát chung về vấn đề kinh tế phi thị trường; các quy định đối với nền kinh tế thị trường của các nước; tác động của việc bị đối xử là nước có nền kinh tế phi thị trường đến các doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ việc chống bán phá giá; và một số khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt

Nam trong các vụ điều tra chống bán phá giá của nước ngoài.

Khái quát chung về vấn đề kinh tế phi thị trường

Nền kinh tế phi thị trường là tên gọi được sử dụng cho các nền kinh tế của các nước thuộc Trung và Đông Âu, Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, Việt Nam và một số nước vào những năm cuối 1980 đầu 1990.1 Ở các nền kinh tế đó, nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất, các hoạt động kinh tế được dựa trên kế hoạch hàng năm do một cơ quan chuyên trách của Nhà nước soạn thảo và được coi là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nền kinh tế này hầu hết đã hoặc đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hay còn gọi là đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh

1 TS. Phan Thế Hè, Tạp chí Khoa học chính trị - Số 4/2015, trang 33.

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 24: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

24 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

tế thị trường.Sự hình thành quy định đối với

nền kinh tế phi thị trườngNăm 1947, Hiệp định chung về

thuế quan và thương mại (GATT), nền tảng hình thành hệ thống thương mại đa phương lớn nhất thế giới, được ký kết bởi 23 thành viên và được xem là tạo ra bởi các nước có nền kinh tế thị trường và hoạt động theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Tại Điều VI của Hiệp định GATT2 1947 quy định về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào các nước thành viên tham gia hiệp định.3 Trong quá trình thực thi Hiệp định GATT, các thành viên cho rằng khái niệm bán phá giá được diễn giải không áp dụng đối với các nước thuộc khối Xô viết, Trung Âu và Đông Âu.4 Lý do bởi những nước đó được cho là có nền kinh tế kế hoạch tập trung. Tại những nước này, giá cả được ấn định bởi nhà nước và không phản ánh đúng quan hệ cung cầu, ngoại thương được thực hiện theo các kế hoạch kinh tế quốc gia, tiền tệ cũng không có tính tự do chuyển đổi.

Nhằm xử lý những vấn đề thương mại phát sinh, Điều VI của Hiệp định GATT đã được bổ sung điểm thứ 2, đoạn 1.5 Đây có thể được xem là khởi đầu của sự phân biệt đối xử giữa việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá của một nước thành viên GATT đối với một nước có nền kinh tế thị trường và nước có nền kinh tế phi thị trường thông qua

2 Khoản 1, Điều VI, GATT 1947.3 Điều VI của Hiệp định GATT 1947 quy

định: Một sản phẩm được xem là bán tại nước nhập khẩu thấp hơn giá trị thông thường của nó nếu giá của sản phẩm xuất khẩu từ nước này sang nước khác

(a) thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường của sản phẩm tương tự tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc

(b) trong trường hợp không có giá nội địa, thì thấp hơn

(i) giá có thể so sánh được và cao nhất của sản phẩm tương tự xuất khẩu sang nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc

(ii) chi phi sản xuất của sản phẩm nước xuất xứ cộng với chi phí bán hàng và lợi nhuận

4 Francis Snyder, “The Orgin of the non-market economy: Ideas, Pluralism and Power in the EC anti-dumping laws about China”, European Journal of Law, Vol 7, 2001, đoạn 381.

5 Điểm thứ 2, đoạn 1, Điều VI của Hiệp định GATT được bổ sung: “Thừa nhận rằng, trong trường hợp nhập khẩu từ một nước độc quyền hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về thương mại và giá cả trong nước đều do Nhà nước ấn định, có thể tồn tại những khó khăn đặc biệt trong việc xác định mức độ tương thích của giá cả … trong những trường hợp đó, các nước nhập khẩu tham gia Hiệp định này thấy cần phải tính tới khả năng là việc so sánh chặt chẽ với giá cả nội địa ở một nước như vậy có lẽ không phải lúc nào cũng phù hợp”.

khả năng “so sánh chặt chẽ” giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường. Do điểm bổ sung này không nêu rõ sự diễn giải quy định cũng như không quy định rõ cách thức áp dụng, nên các thành viên đã có sự tùy ý trong việc dự thảo nội luật của mình. Do vậy, các thành viên đã có sự tuỳ ý trong quá trình xây dựng nội luật, thể hiện ở hai khía cạnh:

Không có bất kỳ một định nghĩa hay một tiêu chí pháp lý nào đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường, các cơ quan điều tra có thể xây dựng những quy định nội luật khác nhau về nước có nền kinh tế phi thị trường trong từng vụ việc cụ thể và đưa ra những danh sách những nước có nền kinh tế phi thị trường.

Các cơ quan điều tra được tự do thiết lập các phương pháp thay thế lựa chọn để xác định giá trị thông thường cho những nước có nền kinh tế phi thị trường.

Khi Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập năm 1994, cộng đồng Châu Âu và Hoa Kỳ, hai thành viên chủ chốt của WTO, đã tận dụng lợi thế của cách suy luận rộng về Điều XII.1 của Hiệp định Marrakesh thành lập WTO và quy định không rõ ràng của WTO về đối xử đối với nền kinh tế phi thị trường trong các vụ việc điều tra chống bán phá giá đặt ra các yêu cầu đàm phán đối với các nước đàm phán gia nhập có nền kinh tế đang chuyển đổi phải chấp nhận chính thức hóa quy định này trong văn kiện gia nhập. Theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) của WTO, khi vấn đề đối xử đối với nền kinh tế phi thị trường đã được chính thức hóa trong văn kiện gia nhập, các thành viên khác đều có thể đối xử phân biệt tương tự đối với các thành viên mới gia nhập.

Như vây, có thể nói vấn đề kinh tế phi thị trường xuất phát từ điểm bổ sung đối với điều VI của GATT 1947 và đã trở thành sự phân biệt đối xử rõ ràng giữa các thành viên của GATT và sau này là WTO đối với những nước bị coi là có nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam và Trung Quốc.

Cam kết của Việt Nam liên quan đến vấn đề kinh tế phi thị trường khi gia nhập WTO

Khi Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, Hoa Kỳ là thành viên đưa ra yêu cầu nhằm đưa một phương pháp thay thế vào nội dung cam kết gia nhập để tính toán giá trị thông thường trong điều tra chống bán phá giá có liên quan tới các nhà xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù đã đấu tranh trong quá trình đàm phán, nhưng cuối cùng Việt Nam phải chấp nhận cam

kết thời gian bị phân biệt đối xử là 12 năm (cho đến 2018). Cam kết này được quy định chi tiết tại đoạn 255 của Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO như sau:

“Đại diện của Việt Nam xác nhận rằng ngay sau khi gia nhập WTO, Điều VI của GATT 1994, Hiệp định Thực hiện Điều VI của GATT 1994 (Hiệp định chống bán phá giá - ADA) và Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng (SCM) sẽ được áp dụng trong các vụ kiện liên quan đến xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang một Thành viên WTO phù hợp với các điểm sau:

(a) Khi tiến hành so sánh giá theo Điều VI của GATT 1994 và Hiệp định chống bán phá giá, Thành viên WTO là nước nhập khẩu phải sử dụng hoặc là giá hoặc chi phí ở Việt Nam đối với ngành hàng đang được điều tra hoặc là một phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với chi phí hoặc giá cả ở Việt Nam. Quy tắc để lựa chọn phương pháp phù hợp là:

(i) Nếu các nhà sản xuất trong diện điều tra có thể chỉ ra rõ ràng rằng các điều kiện của nền kinh tế thị trường đang tồn tại trong ngành sản xuất mặt hàng tương tự liên quan đến sản xuất và bán mặt hàng đó, nước nhập khẩu là Thành viên WTO khi xác định giá tương đối phải sử dụng giá và chi phí ở Việt Nam cho ngành sản xuất trong diện điều tra.

(ii) Nước nhập khẩu là Thành viên WTO có thể sử dụng một phương pháp không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với giá cả và chi phí ở Việt Nam nếu các nhà sản xuất thuộc diện điều tra không thể chỉ ra rõ ràng rằng các điều kiện của nền kinh tế thị trường đang tồn tại trong ngành sản xuất mặt hàng tương tự liên quan đến sản xuất và bán mặt hàng đó.

(b) Trong các vụ kiện tiến hành theo phần II, III và V của Hiệp định SCM, khi xử lý vấn đề trợ cấp, các quy định của Hiệp định SCM sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, nếu có những khó khăn đặc biệt cản trở việc áp dụng các quy định đó, nước nhập khẩu là Thành viên WTO có thể sử dụng các phương pháp khác nhằm xác định và đo lường tác động của trợ cấp, có cân nhắc đến khả năng các điều kiện đang tồn tại phổ biến ở Việt Nam có thể không phải là những cơ sở đối chiếu phù hợp.

……..(d) Một khi Việt Nam khẳng định

được rằng nền kinh tế nước mình là kinh tế thị trường chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là Thành viên WTO,

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 25: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

25ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

các quy định tại tiểu mục (a) sẽ hết hiệu lực với điều kiện luật quốc gia của nước Thành viên có quy định các tiêu chí về kinh tế thị trường tại thời điểm gia nhập. Trong mọi trường hợp, các quy định trong tiểu mục (a)(ii) sẽ hết hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2018. Ngoài ra, nếu Việt Nam khẳng định được rằng các điều kiện của kinh tế thị trường tồn tại ở một ngành cụ thể chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là Thành viên WTO, các quy định trong tiểu mục (a) liên quan tới kinh tế phi thị trường sẽ không còn được áp dụng cho ngành đó.”

Tuy nhiên, việc liệu Việt Nam có thực sự được đối xử bình đẳng như các nền kinh tế thị trường khác sau thời hạn cam kết 2018 trong báo cáo gia nhập WTO hay không vẫn còn đang gây tranh cãi bởi nguy cơ có khả năng các thành viên WTO chủ chốt vẫn tiếp tục tìm cách tận dụng các diễn giải lỏng lẻo, mang tính tùy nghi trong Hiệp định GATT để duy trì sự phân biệt đối xử không công bằng với các nền kinh tế phi thị trường.

Các quy định đối với nền kinh tế thị trường của các nước

Việc công nhận một nước có nền kinh tế thị trường được phân tích và đánh giá trên cơ sở hệ thống các tiêu chí được

quy định trong nội luật của mỗi nước. Một số nước có quy định nội luật về vấn đề này như: Hoa Kỳ, EU, Canada, Brazil, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Ấn Độ, Nhật Bản…vv. Trong đó, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các quy định của Hoa Kỳ và EU. Đây là hai đối tác thương mại lớn và quan trọng của Việt Nam, đồng thời có khả năng liên quan nhiều nhất đến các vụ việc điều tra chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Quy định của Hoa KỳTheo Đạo luật Chống bán phá giá

của Hoa Kỳ, các nước sẽ mặc nhiên được coi là nền kinh tế thị trường trừ khi Hoa Kỳ chính thức coi nước đó có nền kinh tế phi thị trường. Đối với nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường, Hoa Kỳ cho rằng việc kiểm soát, chi phối của nhà nước trong nền kinh tế sẽ làm cho việc so sánh giá và tính toán chi phí sản xuất không chính xác. Do vậy, theo quy định tại Section 773(c) Đạo luật Thuế quan 1930, trong điều tra chống bán phá giá đối với các nền kinh tế phi thị trường, để đánh giá các yếu tố chi phí sản xuất, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) sẽ tính toán giá trị thông thường thông qua các thông số dữ liệu của nước thay thế có nền kinh

tế thị trường (surrogate country).6 DOC sẽ dựa trên mức độ phát triển kinh tế để lựa chọn nước thay thế, cụ thể là chỉ số GDP đầu người của nước thay thế đó. Các yếu tố về chi phí sản xuất, chi phí chung, và lợi nhuận sẽ được dựa trên các thông tin số liệu công khai của nước thay thế (trừ chi phí lao động).7 Trong trường hợp nước có nền kinh tế phi thị trường sử dụng đầu vào từ nước có nền kinh tế thị trường khác (theo đồng tiền của nước có nền kinh tế thị trường), thì Hoa Kỳ sẽ sử dụng giá này cho phần yếu tố đầu vào còn lại của nền kinh tế phi thị trường.8

Để được Hoa Kỳ công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường, Chính phủ nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường phải gửi một yêu cầu chính thức trong đó đề nghị rà soát quy chế kinh tế thị trường của nước đó hoặc chính phủ ủng hộ doanh nghiệp bị đơn nước mình trong vụ việc điều tra chống bán phá giá riêng biệt chứng minh nền kinh tế

6 Quy định này được pháp điển hóa tại Title 19 CFR §351.408.

7 Để tính toán chi phí lao động, cơ quan điều tra Hoa Kỳ sẽ sử dụng mức lương dựa trên hồi quy phản ánh mối quan hệ giữa tiền lương và thu nhập quốc gia của các nước có nền kinh tế thị trường.

8 Xem 19 CFR 351.408 (c) (1).

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 26: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

26 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

thị trường.9 Khi nhận được yêu cầu đó, DOC sẽ tiến hành phân tích sáu tiêu chí quy định tại Section 771(18)(B) của Đạo luật chống bán phá giá.10

Tiêu chí xác định một ngành hoạt động theo cơ chế thị trường

Trong một vụ kiện chống bán phá giá, nếu nước xuất khẩu chưa được DOC công nhận là nước có nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nước đó có thể yêu cầu DOC xem xét việc hoạt động theo cơ chế thị trường của ngành sản xuất đó.

Theo quy định tại Section 773(c)(1) của Đạo luật Thuế quan 1930, trong một số trường hợp nhất định, DOC được áp dụng phương pháp tính toán áp dụng cho nền kinh tế thị trường đối với một ngành cụ thể trong vụ việc điều tra hoặc rà soát chống bán phá giá khi thỏa mãn các tiêu chí xác định một ngành theo định hướng thị trường.11

9 Phần II, Chương 10 (NME) – Import administration of DOC, Antidumping manual, 2009.

10 Phần 771(18)(B) của Đạo luật quy định rằng DOC phải xem xét các yếu tố sau đây khi xác định liệu một nước có bị coi là có nền kinh tế phi thị trường hay không:

(1) Mức độ mà đồng tiền của nước ngoài đó có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của các nước khác;

(2) Mức độ mà các mức tiền công lao động được xác định bởi sự thương lượng tự do giữa người lao động và người sử dụng lao động;

(3) Mức độ mà các liên doanh hoặc các dạng đầu tư khác của các doanh nghiệp từ các nước khác được phép hoạt động trên lãnh thổ nước sở tại;

(4) Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ đối với các phương tiện sản xuất;

(5) Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của doanh nghiệp;

(6) Những yếu tố khác mà cơ quan tiến hành điều tra cho rằng phù hợp.

11 Có ba tiêu chí xác định một ngành theo định hướng thị trường theo quy định tại Section 773(c)(1) của Đạo luật Thuế quan 1930:

(1) Đối với hàng hóa bị điều tra hoặc rà soát, Chính phủ hầu như không can thiệp vào việc xác định giá hoặc sản lượng. Ví dụ, việc Nhà nước đặt ra một mức sản lượng nào đó hoặc đứng ra phân bổ sản xuất mặt hàng đó, dù là để xuất khẩu hay tiêu dùng nội địa tại nước có nền kinh tế phi thị trường, sẽ là một rào cản gần như không thể vượt qua trong việc chứng minh một ngành hoạt động “theo định hướng thị trường”. Tuy nhiên, quy định của Hoa Kỳ không đưa ra bất kỳ định nghĩa hay chỉ rõ mức độ can thiệp của chính phủ bao nhiêu thì được xác định là không can thiệp.

(2) Ngành sản xuất hàng hóa bị điều tra hoặc rà soát phải có đặc điểm là do tư nhân sở hữu hoặc đồng sở hữu. Có thể có doanh nghiệp nhà nước trong ngành nhưng nếu sở hữu Nhà nước chiếm đa số thì đó sẽ là một yếu tố để Hoa Kỳ không thể công nhận ngành đó hoạt động “theo định hướng thị trường”;

(3) Hầu hết đầu vào quan trọng, dù là nguyên vật liệu hay không phải nguyên vật liệu (ví dụ chi phí lao động và chi phí quản lý chung) và hầu hết đầu vào quyết định giá trị của hàng hóa đang bị

Theo quy định của Hoa Kỳ, đối với các nền kinh tế phi thị trường, DOC cho rằng tất cả doanh nghiệp trong trong nền kinh tế này hoạt động như một thực thể thống nhất có sự kiểm soát của chính phủ (government-wide entity). Do đó mức thuế chống bán phá giá cho các doanh nghiệp này là duy nhất (single anti-dumping rate) và đây được gọi là mức thuế suất toàn quốc (country-wide rate hoặc NME-wide rate). Thông thường mức thuế suất toàn quốc sẽ dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có bất lợi (adverse facts available) nếu như một số nhà xuất khẩu trong nền kinh tế phi thị trường không trả lời bản câu hỏi trong vụ điều tra chống bán phá giá.

Theo quy định của cả WTO và Hoa Kỳ, biên độ phá giá dùng để xác định mức thuế chống bán phá giá riêng rẽ (separate rate) sẽ tự động áp dụng cho từng nhà xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đối với nước có nền kinh tế phi thị trường thì các nhà xuất khẩu bị điều tra sẽ phải “vượt qua bài kiểm tra mức thuế riêng rẽ” (pass a separate rate test) nếu muốn đạt được mức thuế riêng rẽ khác với mức thuế toàn quốc. Để có được mức thuế riêng, các nhà xuất khẩu phải chứng minh được trên thực tế (de facto) hoặc theo quy định pháp luật (de jure) chính phủ không kiểm soát các hoạt động xuất khẩu.

Như vậy, theo pháp luật Hoa Kỳ, đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường, có 3 loại mức thuế áp dụng trong các vụ điều tra áp thuế chống bán phá giá, bao gồm: mức thuế suất cụ thể áp dụng cho từng bị đơn bắt buộc (separate rate); mức thuế suất chung áp dụng cho các bị đơn tự nguyện tham gia nhưng không phải là bị đơn bắt buộc (all others rate); và mức thuế suất toàn quốc (country wide rate) dành cho các doanh nghiệp còn lại.

2. Quy định của Liên minh Châu Âu

Tiêu chí Đối xử kinh tế thị trường (Market Economy Treatment - MET) đối với một doanh nghiệp

Liên minh Châu Âu (EU) không quy định thế nào là một nền kinh tế phi thị trường mà chỉ liệt kê các nước bị coi là

điều tra hoặc rà soát phải có giá do thị trường quyết định. Ví dụ, giá của một loại đầu vào sẽ không được coi là do thị trường quyết định nếu như các nhà sản xuất hàng hóa đang bị điều tra hoặc rà soát thanh toán giá do Nhà nước quy định đối với đầu vào này hoặc nếu như đầu vào được cung cấp cho các nhà sản xuất theo chỉ đạo của Chính phủ. Hơn nữa, nếu như việc sản xuất đầu vào là do Nhà nước yêu cầu, tỷ trọng của đầu vào do Nhà nước yêu cầu phải không đáng kể.

nền kinh tế phi thị trường. Theo quy định số 384/1996 của EC, có 15 nước bị coi là các nền kinh tế phi thị trường và phân ra thành 3 nhóm chính.12 Đối với các nước thuộc nhóm 1 và 2 như Trung Quốc, Việt Nam thì doanh nghiệp bị đơn trong điều tra chống bán phá giá có thể yêu cầu “Đối xử kinh tế thị trường” (Market Economy Treatment – MET), tức là khi cơ quan điều tra tính toán giá trị thông thường (normal value) sẽ dựa trên số liệu về giá cả và chi phí của nước bị đơn.

Theo quy định của EU, nếu doanh nghiệp được hưởng MET thì sẽ được đối xử tương tự như các doanh nghiệp của các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp sẽ phải chứng minh 5 tiêu chí mà EU đưa ra.13

Tiêu chí Đối xử riêng rẽ (Individual Treatment - IT) đối với một doanh nghiệp

Trong trường hợp doanh nghiệp bị điều tra không được hưởng MET thì có thể yêu cầu được đối xử riêng rẽ (IT). Điều này có nghĩa doanh nghiệp phải chứng minh rằng quyết định liên quan đến xuất khẩu của doanh nghiệp đó không bị bóp méo bởi sự can thiệp của chính phủ. Theo Điều 9(5) Quy định cơ bản của EC, để chứng minh được điều

12 Alexander Polouektov, “Non-Market Economy Issues in the WTO Anti-Dumping Law and Accession Negotiations Revival of a Two-tier Membership?” (2002) 36 Journal of World Trade, Issue 1,trang 1–37: ba nhóm chính bao gồm:

(i) Những nước đã thực hiện đổi mới dẫn đến sự chiếm ưu thế của các doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường bao gồm: Trung Quốc, Việt Nam và Kazakhstan;

(ii) Bất kỳ nước có nền kinh tế phi thị trường nào là thành viên của WTO tại thời điểm khởi xướng điều tra như: Albania, Armenia, Azerbaijan, Georgia, Kyrgyzstan, Moldova và Mông Cổ;

(iii) Nền kinh tế phi thị trường khác: Belarus, Bắc Triều Tiên, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan.

13 Năm tiêu chí được quy định tại Điều 2.7 (c) của Quy định cơ bản 1225/2009 (Basic regulation):

(1) Các quyết định của doanh nghiệp về giá, chi phí, đầu vào, kể cả nguyên liệu thô, chi phí công nghệ và nhân công, sản lượng, doanh số bán và đầu tư, được thực hiện theo cung cầu của thị trường, không có sự can thiệp rõ rệt của Nhà nước; giá của các nguyên liệu đầu vào chính, về cơ bản, thể hiện giá thị trường;

(2) Các doanh nghiệp có hệ thống sổ sách kế toán độc lập, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, được dùng cho mọi mục đích;

(3) Chi phí sản xuất và tài chính doanh nghiệp không bị bóp méo do hậu quả của hệ thống kinh tế phi thị trường trước đây, đặc biệt là đối với việc khấu hao tài sản cố định, xoá nợ, thương mại hàng đổi hàng hoặc thanh toán thông qua bù nợ;

(4) Doanh nghiệp bị điều tra chịu sự điều chỉnh của luật sở hữu và phá sản nhằm đảm bảo sự ổn định và chắc chắn về mặt pháp lý đối với hoạt động của doanh nghiệp;

(5) Tỷ giá được xác định theo giá thị trường

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 27: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

27ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

đó, doanh nghiệp cần phải thỏa mãn 5 tiêu chí của EC.14

Nếu doanh nghiệp được hưởng MET, việc tính toán giá trị thông thường sẽ dựa trên số liệu do các doanh nghiệp xuất khẩu cung cấp. Do đó, biên độ phá giá sẽ là mức khác biệt giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường. Nếu như doanh nghiệp bị điều tra không được hưởng MET thì theo quy định của EU, doanh nghiệp còn có một cơ hội nữa để tránh việc tính toán biên độ phá giá dựa trên so sánh giữa giá trị thông thường (tính toán theo phương pháp áp dụng đối với nền kinh tế phi thị trường) và giá xuất khẩu bình quân của tất cả các nhà xuất khẩu - đó là yêu cầu được hưởng IT. Các nhà xuất khẩu được hưởng IT sẽ được tính toán biên độ phá giá thông qua việc so sánh giá trị thông thường với giá xuất khẩu của từng nhà xuất khẩu đó, thay vì giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu sang EU. Tuy nhiên, khi số lượng các nhà xuất khẩu là rất lớn, cơ quan điều tra có thể phải sử dụng việc chọn mẫu (sampling). Điều này có nghĩa mức thuế đối với các nhà xuất khẩu không thuộc mẫu (và đáp ứng các điều kiện nói trên về đối xử riêng rẽ) sẽ dựa trên thuế bình quân gia quyền của các nhà xuất khẩu nằm trong mẫu đáp ứng điều kiện được đối xử riêng rẽ.

Tiêu chí xác định một nước có nền kinh tế thị trường

Pháp luật của EU không có quy định về tiêu chí xác định một nước có nền kinh tế phi thị trường hay nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, EC cho rằng các nền kinh tế phi thị trường thuần túy trên góc độ quốc gia mà ở đó Nhà nước kiểm soát hoàn toàn và trực tiếp các phương tiện sản xuất và phân phối là hiếm có, mà phổ biến là trường hợp các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường. Trong những nền kinh tế này, chi phí và giá cả, xét ở góc độ rộng,

14 Theo Điều 9(5) Quy định cơ bản của EC 5 tiêu chí bao gồm:

(1) Trong trường hợp các doanh nghiệp do nước ngoài sở hữu toàn bộ hoặc sở hữu một phần, các liên doanh thì các nhà xuất khẩu được tự do chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài;

(2) Giá cả và số lượng hàng xuất khẩu, điều kiện bán hàng được quyết định một cách tự do;

(3) Phần lớn cổ phần thuộc về khu vực tư nhân và các quan chức nhà nước tham gia Ban Giám đốc hoặc giữ các vị trí quản lý chủ chốt sẽ chỉ ở mức thiểu số hoặc phải chứng minh được rằng doanh nghiệp vẫn độc lập với sự can thiệp của Nhà nước;

(4) Tỷ giá chuyển đổi theo giá thị trường;(5) Can thiệp của Nhà nước không tạo điều

kiện cho các nhà xuất khẩu riêng rẽ có thể lẩn tránh thuế trong trường hợp nhà xuất khẩu bị áp dụng các mức thuế khác nhau.

vẫn không có sự điều khiển của các xung lực thị trường, thay vào đó, sự can thiệp của chính phủ trực tiếp hay gián tiếp sẽ bóp méo giá trị. Các cơ chế như khung pháp lý và tổ chức cần phải được thiết lập, cho phép doanh nghiệp hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường.

Với quan điểm này, dựa trên 5 tiêu chí về MET tại điều 2.7 của Quy định cơ bản, EC đã vận dụng để quy định 5 tiêu chí tạo cơ sở cho việc đánh giá các yếu tố quan trọng cần phải có của một nền kinh tế chuyển đổi. Thông lệ này được EC sử dụng để đánh giá khi các quốc gia vẫn bị EU coi là nền kinh tế phi thị trường yêu cầu công nhận nền kinh tế thị trường trong bối cảnh các vụ kiện chống bán phá giá.15

Trái với các tiêu chí về yêu cầu MET hoặc IT của doanh nghiệp theo Điều 2.7(b) và (c) của Quy định cơ bản mà theo đó mỗi tiêu chí cụ thể phải được chứng minh hoàn tất riêng, trong tiêu chí xác định một nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sẽ đưa ra bức tranh tổng thể để quyết định công nhận nền kinh tế trên toàn bộ các mặt của nền kinh tế có hoạt động theo cơ chế thị trường hay không. Điều đó có nghĩa nếu như một vài yếu tố không hoàn thiện sẽ không nhất thiết dẫn đến kết luận tiêu cực cho toàn bộ nền kinh tế, khác với sự đánh giá từng tiêu chí trong MET hay IT.

Ngoài Hoa Kỳ và EU, một số thành viên WTO khác như Canada, Thổ Nhĩ Kỳ cũng có quy định nội luật liên quan đến vần đề kinh tế phi thị trường. Theo quy định của Canada, trong một cuộc điều tra chống bán phá giá, việc tính

15 Năm tiêu chí về MET tại điều 2.7 của Quy định cơ bản của EU:

(1) Mức độ ảnh hưởng của chính phủ đối với việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp, bất kể gián tiếp hay trực tiếp (ví dụ như cơ quan công) thông qua nhà nước ấn định giá hay chính sách phân biệt đối xử thuế, cơ chế thương mại hay tiền tệ;

(2) Không có sự bóp méo do nhà nước gây ra trong hoạt động của doanh nghiệp liên quan tới tư nhân hóa (tức là sự chuyển tiếp từ cơ chế cũ). Không sử dụng trao đổi thương mại phi thị trường hoặc hệ thống đền bù (ví dụ hàng đổi hàng);

(3) Việc tồn tại và thực thi pháp luật doanh nghiệp minh bạch và không phân biệt đối xử đảm bảo quản trị doanh nghiệp đầy đủ (áp dụng các chuẩn mức kế toán quốc tế, bảo vệ cổ đông, công khai các thông tin doanh nghiệp một cách chính xác);

(4) Việc tồn tại và thực thi hệ thống pháp luật thống nhất, hiệu quả và minh bạch nhằm đảm bảo tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ và chức năng của cơ chế phá sản;

(5) Tồn tại nền tài chính hoạt động độc lập với nhà nước theo pháp luật và trên thực tế phụ thuộc vào các quy định bảo lãnh tín dụng và giám sát đầy đủ.

toán biên độ bán phá giá của hàng hóa từ quốc gia “phi thị trường” phải được xác định bằng cách sử dụng quy tắc đặc biệt thông qua việc xác định giá trị thông thường bằng cách sử dụng giá và chi phí của hàng hóa tương tự ở nước thứ ba.16 Theo quy định này, trách nhiệm chứng minh doanh nghiệp bị đơn hoạt động trong nước có nền kinh tế phi thị trường thuộc về nguyên đơn trong từng vụ việc cụ thể.

Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra các tiêu chí để xác định một doanh nghiệp được hưởng quy chế kinh tế thị trường nhằm xác định giá trị thông thường trong các cuộc điều tra chống bán phá giá đối với các mặt hàng nhập khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường. Nếu doanh nghiệp chứng minh đáp ứng đủ các tiêu chí theo quy định thì sẽ được công nhận là hoạt động theo điều kiện kinh tế thị trường.17

Cho đến nay, đã có 57 thành viên WTO công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, trong số đó bao gồm một số nền kinh tế lớn như: 9 nước ASEAN, Trung Quốc, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Nga...18 Hình thức công nhận chủ yếu thông qua con đường ngoại giao như Thông cáo chung, Tuyên bố chung, Bản ghi nhớ hay Công hàm.

Tác động của các quy định về nền kinh tế phi thị trường đối với các vụ việc chống bán phá giá

1. Hiệp đinh Chống bán phá giá của WTO

Theo Điều 2.1 Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, một sản phẩm bị coi là bán phá giá khi sản phẩm đó được đưa vào lưu thông thương mại của một nước với giá thấp hơn giá thông thường của sản phẩm đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường. Việc áp thuế chống bán phá giá đối với một mặt hàng nhập khẩu bị coi là phá giá tại một thị trường tuỳ thuộc vào biên độ phá giá của hàng hoá đó.

Điều 2.4.2 Hiệp định Chống bán phá

16 Điều 20 Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (Special Import Measures Act - SIMA).

17 Quy định bổ sung điều khoản đối với Quy định về ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh trong nhập khẩu đăng trên Công báo số 24743 ngày 2 tháng 5 năm 2002.

18 Theo số liệu cập nhật của Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, Cục Quản lý cạnh tranh

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 28: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

28 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

giá quy định, việc xác định biên độ phá giá thông thường sẽ được tính dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình quân gia quyền giá trị thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được (W-W) hoặc thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở từng giao dịch (T-T). Công thức chung tính biên độ phá giá như sau:19

[(Giá trị thông thường được điều chỉnh – Giá xuất khẩu được điều chỉnh) / Giá xuất khẩu được điều chỉnh] x 100 = % biên độ phá giá

2. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá ở Việt NamCho đến thời điểm hiện nay (12/2015) Việt Nam đã chịu 61 vụ điều tra chống

bán phá giá của nước ngoài.20 Các vụ việc có chiều hướng gia tăng và tăng mạnh trong những năm gần đây. Bảng dưới đây thể hiện các vụ điều tra chống bán phá giá của nước ngoài đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam:

Bảng 1: Số lượng các vụ điều tra chống bán phá giá của nước ngoài (tính theo năm, đến tháng 12/2015):

Nguồn: VCA Các nước điều tra áp thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam dẫn đầu như Hoa

Kỳ, Ấn Độ, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Brazil, Malaysia, Thái Lan.... Bảng dưới đây thể hiện tình hình các nước tiến hành điều tra áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Bảng 2: Các vụ điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam (tính theo nước, đến tháng 12/2015):

Nguồn: VCA

19 Judith Czako, Johann Human and Jorge Miranda “A Handbook on Anti-Dumping Investigation”, Cambridge University Press, 2004, trang 120-129.

20 Theo số liệu thống kê của Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, Cục Quản lý cạnh tranh.

3. Tác động của các quy định về nền kinh tế phi thị trường đối với các doanh nghiệp Việt Nam

3.1. Gia tăng nguy cơ đánh trùng thuế (double counting)

Hai trong các nguyên tắc cơ bản của WTO là: (i) mức thuế phải được áp một cách bình đẳng đối với tất cả các thành viên dựa trên nguyên tắc Đối xử Tối huệ quốc (MFN),21 và (ii) cam kết thuế trần (bound rate) sẽ không được tăng trừ phi các thành viên đàm phán với nhau.22 Tuy nhiên, WTO vẫn có một số ngoại lệ đối với hai nguyên tắc cơ bản nêu trên, hai trong số đó là biện pháp chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng.

Hiện nay, nhiều thành viên WTO có xu hướng điều tra cùng một lúc hai biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với cùng một sản phẩm của một nước có nền kinh tế phi thị trường mặc dù Hiệp dịnh GATT 1994 không cho phép việc đánh trùng thuế lên cùng một sản phẩm.23 Đây bị coi là một hành vi thương mại không công bằng.

Thông thường, đối với nước có nền kinh tế thị trường, khi cùng áp dụng biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp đối với một mặt hàng cụ thể từ nước có nền kinh tế thị trường, DOC tiến hành cộng thêm đủ mức thuế đối kháng để loại bỏ trợ cấp xuất khẩu trên giá xuất khẩu của sản phẩm. Lý do cho sự điều chỉnh này là DOC giả định rằng trợ cấp xuất khẩu có tác động làm giảm giá của hàng hóa xuất khẩu; nếu không có sự điều chỉnh này, hàng hóa xuất khẩu được hưởng lợi từ trợ cấp xuất khẩu sẽ chịu hình phạt kép.

Tuy nhiên, đối với nước có nền kinh tế phi thị trường thì áp dụng hai loại thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp mang lại một kết quả khác. Cụ thể, trong thực tiễn điều tra và áp dụng thuế chống bán

21 Điều III - Hiệp định GATT 1947. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép một số trường hợp ngoại lệ được miễn trừ áp dụng quy định về MFN. Chẳng hạn, hai hoặc một số nước có thể ký kết một hiệp định thương mại tự do (BFTA, RFTA), theo đó một quy chế thuế quan ưu đãi có thể chỉ được áp dụng đối với những hàng hoá trao đổi trong nội bộ hai hoặc nhóm nước đó - đây là một hình thức phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các nước ngoài nhóm.

22 Điều XXVIII.4 Hiệp định GATT 1947.23 Khoản 5 Điều VI của GATT 1994 quy

định “Không một sản phẩm nào trong lãnh thổ của một bên nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp) để bù đắp cho cùng một khoản bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu”.

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 29: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

29ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

phá giá của Hoa Kỳ cũng như EU, DOC hay EC đã sử dụng nước thay thế. Với phương pháp sử dụng số liệu nước thay thế này, chi phí sản xuất và giá nội địa của nền kinh tế phi thị trường cũng đã bị loại bỏ và và được thay thế bởi chi phí và giá nội địa của nước thay thế mà có nền kinh tế thị trường. Như vậy, trừ phi cơ quan điều tra đã điều chỉnh giá trị thông thường để phản ánh tác động của trợ cấp nội địa của nước phi thị trường bị điều tra, cơ quan điều tra sẽ so sánh giữa giá trị thông thường cao hơn so với mức giá xuất khẩu.

Tác động đến tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam

Kể từ khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong nỗ lực tự do hóa thương mại, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường với việc ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA).24 Việc tích cực tham gia đàm phán và ký kết các Hiệp định FTA đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức trong thương mại quốc tế, đặc biệt là các vụ việc về chống bán phá giá từ các nhà điều tra nước ngoài.

Tính đến tháng 11 năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt gấn 299,35 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất hàng hóa đạt 148,24 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước và nhập khẩu hàng hóa là 151,11 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước.25 Sự gia tăng xuất khẩu này sẽ kèm theo nguy cơ các nước khởi kiện chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng tăng theo.

Do Việt Nam vẫn bị nhiều nước đối tác coi là nước có nền kinh tế phi thị trường, Việt Nam luôn ở vào thế bất lợi và gặp nhiều khó khăn khi kháng kiện các vụ việc chống bán phá giá. Trong nhiều vụ việc, hàng hóa của Việt Nam bị đánh thuế chống bán phá giá rất cao bởi các cơ quan điều tra các nước sử dụng chi phí, số liệu của nước thay thế (surrogate country) với mức thuế chống bán phá giá “hủy diệt” lên đến vài trăm phần trăm, đặc biệt trong các vụ điều tra áp thuế của Hoa Kỳ.

Bảng 3: Vụ việc và mặt hàng bị điều tra áp thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp của Hoa Kỳ

đối với Việt Nam (tính đến 12/2015):

NămVụ việc

Chống bán phá giá

Vụ việc Chống trợ

cấp

Kết luận cuối cùng

2002 Cá tra, cá Ba-sa 36,84% - 63,88%

2003 Tôm 4,13% - 25.76%

24 Theo Bộ Công Thương, Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết và thực hiện 13 Hiệp định FTA: ASEAN-AEC, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN – Australia/New Zealand (ACERFTA), ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA), ASEAN – Nhật Bản (AJFTA), ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) , Việt Nam – Nhật Bản (EPA), Việt Nam – Chile (VCFTA), Việt Nam – Lào, Việt Nam – Hàn Quốc(VKFTA), Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu (VCUFTA), Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), và đang đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), và Việt Nam – EFTA.

25 Số liệu thống kê Hải quan, tại: http://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=874&Category=Th%C3%B4ng%20t i n % 2 0 s % E 1 % B A % A F p % 2 0 c % C 3 % B 4 n g % 2 0b%E1%BB%91&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch

2008 Lò xo đệm không bọc 116,31%

2009Túi PE 52.30% - 76.11%

Túi PE 0.44% - 52.56%

2011

Ống thép cuộn Cacbon Không áp thuế

Ống thép cuộn Cacbon Không áp thuế

2012 Tháp gió (Turbin) 51.50% - 58.49%

2012Mắc áo thép 157% - 220.68%

Mắc áo thép 31.58% - 90.42%

2013Tôm nước ấm đông lạnh

Không áp thuế

2013 Thép chịu lực không gỉ 16.25%

2013 Ống dẫn dầu 24.22% - 111.47%

2014Đinh thép 323.99%

Đinh thép 288.56% - 313.97%

Nguồn: VCABảng 4: Vụ việc và mặt hàng bị điều tra áp thuế

chống bán phá giá của EU đối với Việt Nam (tính đến 12/2015):

NămSản phẩm bị điều tra

áp thuế

Kết luận cuối cùng Ghi chú

1998 Giày dép Không áp thuế

Vụ kiện chấm dứt do không gây thiệt hại cho ngành công nghiệp nội địa EU

2002 Bật lửa gas Không áp thuế

12/9/2003 EC thông báo chấm dứt vụ việc do bên khởi kiện rút đơn kiện.

2004 Xe đạp 15,8% - 34,5%

13/7/2010 EC thông báo không tiến hành điều tra rà soát cuối kỳ đối với xe đạp nhập khẩu của Việt Nam.

2004 Ống tuýp thép

Không áp thuế

Vụ kiện chấm dứt do bên khởi kiện rút đơn kiện

2004Ốc vít bằng thép và phụ

tùng7,7% Vụ việc chấm dứt

2005 Giày mũ da 10%16/3/2011, EC thông báo chấm dứt áp dụng biện pháp CBPG

Nguồn: VCA

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 30: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

30 ACVC Ạ N H T R A N H & N G Ư Ờ I T I Ê U D Ù N G | S ố . 5 5 - 2 0 1 6

Trong vụ việc Hoa Kỳ điều tra áp dụng một số biện pháp áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh xuất khẩu từ Việt Nam, do Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là nền kinh tế phi thị trường nên trong quá trình điều tra vụ việc, DOC đã áp dụng thuế suất toàn quốc đối với toàn bộ doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam với lý do hoạt động của các doanh nghiệp này không có sự độc lập với Chính phủ. Mức thuế cao nhất áp dụng cho doanh nghiệp bị đơn Việt Nam trong vụ việc này lên đến 25,67%. Với mức thuế này, doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam phải chịu mức đặt cọc (bond) rất lớn khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Việt Nam đã khiếu kiện Hoa Kỳ liên quan đến một số biện pháp chống bán phá trong đó có biện pháp áp dụng thuế suất toàn quốc này ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Theo báo cáo cuối cùng của vụ việc, Ban Hội thẩm đã kết luận Hoa Kỳ có các hành vi vi phạm các điều khoản của Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp định GATT 1994 đối với khiếu kiện này của Việt Nam.

Như vậy, nếu như doanh nghiệp không bỏ một số tiền lớn (hàng trăm ngàn đô la Mỹ) để thuê luật sư để khiếu kiện Hoa Kỳ trong vụ việc liên quan đến sản phẩm tôm này ra cơ quan giải quyết tranh chấp WTO thì các doanh nghiệp có liên quan trong vụ việc phải chịu một mức thuế chống bán phá giá cao (theo VASEP đây là mức thuế chống bán phá giá cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây). Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình sản xuất và xuất khẩu tôm của các doanh nghiệp Việt Nam. Họ hoặc là phải tăng giá thành sản phẩm, đồng nghĩa với khả năng có thể giảm lượng khách hàng nhập khẩu hoặc có thể bị thiệt hại do đã ký các hợp đồng xuất khẩu trước đó với khách hàng với giá chưa bao gồm thuế chống bán phá giá này. Tình trạng xấu hơn là các doanh nghiệp phải thay đổi thị trường xuất khẩu, mặc dù Hoa Kỳ luôn là thị trường chính nhập khẩu mặt hàng này.

Trong vụ việc Hoa Kỳ điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp (kiện kép) đối với sản phẩm đinh thép từ một số nước trong đó có Việt Nam, cũng với lý do Việt Nam bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường nên trong quá trình điều tra DOC đã sử dụng nước thay thế trong tính toán giá trị đầu vào, kết quả là mức thuế chống bán phá giá DOC áp dụng cho các doanh nghiệp bị đơn Việt Nam lên đến 323,99% và mức thuế chống trợ cấp từ 288.56% - 313.97%. Đây có thể coi là mức thuế “hủy diệt” đối

với các doanh nghiệp bị đơn. Với mức thuế này, doanh nghiệp không thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu cho các đối tác trước nữa, trong khi đó, theo doanh nghiệp thì Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu lớn nhất và chủ yếu của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa doanh nghiệp phải từ bỏ thị trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm đinh thép đã bị áp thuế này. Vụ việc Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá đối với mặt hàng mắc áo thép xuất xứ từ Việt Nam cũng xảy ra tình trạng tương tự với vụ việc đinh thép nêu trên.

Lời kếtTrong bối cảnh Việt Nam vẫn bị coi

là nước có nền kinh tế phi thị trường theo cam kết trong WTO, hơn nữa các đối tác thương mại lớn và là thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam như Hoa Kỳ và EU vẫn chưa công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Việt Nam cần chủ động tích cực và đặt ra các phương án đối phó, đầu tranh đem lại lợi ích chính đáng cho doanh nghiệp mình trong các cuộc điều tra chống bán phá giá của các cơ quan điều tra nước ngoài, đặc biệt là các vụ điều tra thuộc các nước vẫn chưa công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam.

Một số khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam như sau:

(i) Nâng cao sự hiểu biết về pháp luật chống bán phá giá: doanh nghiệp nên có một bộ phận chuyên trách về pháp lý đặc biệt liên quan đến lĩnh vực pháp luật chống bán phá của WTO và của các nước đối tác nhập khẩu thường xuyên của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp nên tích cực tham gia các hội thảo, khóa đào tạo chuyên về pháp luật chống bán phá giá của WTO và của một số nước đã thực hiện áp dụng nhiều vụ điều tra áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu Việt Nam như pháp luật của Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, hay EU do các cơ quan có thẩm quyền hoặc các văn phòng luật tổ chức.

(ii) Chuẩn bị sẵn danh sách các văn phòng/công ty luật uy tín của nước ngoài để thuê tư vấn dịch vụ pháp lý khi cần: bộ phận pháp lý của doanh nghiệp nên có sẵn danh sách và thông tin về các văn phòng/công ty luật của nước sở tại nơi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa tới thị trường nước đó. Trong các vụ điều tra chống bán phá, nhằm mang lại lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp, ngoài nguồn lực sẵn có, các doanh nghiệp nên thuê dịch vụ tư vấn pháp lý của các công ty hay văn phòng luật nước ngoài tại nước điều

tra vì hơn ai hết các công ty này có vốn hiểu biết về quy định, quy trình, thủ tục liên quan đến pháp luật chống bán phá giá nước mình đồng thời họ cũng có những kinh nghiệm hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài trong các vụ điều tra chống bán phá giá của cơ quan điều tra nước họ.

(iii) Tăng cường sự liên kết với các cơ quan chức năng: để có các thông tin cập nhật và nhận được sự giúp đỡ liên quan đến pháp luật chống bán phá giá, các doanh nghiệp nên có sự liên kết chặt chẽ với các cơ quan chức năng như Cục Quản lý cạnh tranh (VCA), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), và Hiệp hội của ngành mình.

(iv) Chủ động xin MET hoặc IT: để tránh bị các cơ quan điều tra áp dụng phương pháp nước thay thế (surrogate country) trong tính toán giá trị thông thường trong các vụ điều tra chống bán phá giá và giảm nguy cơ bị đánh trùng thuế trong các vụ kiện kép, đối với các vụ điều tra từ Hoa Kỳ, doanh nghiệp nên yêu cầu DOC xem xét việc hoạt động theo cơ chế thị trường của ngành sản xuất của mình với việc chứng minh ba tiêu chí như đã đề cập ở trên; đối với các vụ điều tra từ EU, các doanh nghiệp nên chủ động xin quy chế đối xử kinh tế thị trường (MET) hoặc đối xử riêng rẽ (IT) theo năm tiêu chí đã nêu.

(v) Hợp tác với cơ quan điều tra để tránh bị áp mức thuế AFA: trong quá trình điều tra vụ việc chống bán phá giá bởi các cơ quan điều tra nước ngoài, nếu các doanh nghiệp bị đơn không thuộc loại bị đơn bắt buộc và không xin MET hay IT thì nên hợp tác chặt chẽ với cơ quan điều tra để tránh bị áp dụng mức thuế “NME-wide rate” vì đây là mức thuế suất thường dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có bất lợi (adverse facts available - AFA) được áp dụng trong trường hợp nhà xuất khẩu trong nền kinh tế phi thị trường không trả lời bản câu hỏi trong vụ điều tra chống bán phá giá.

LUẬT SƯ/THẠC SĨ PHẠM VÂN THÀNH

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Page 31: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

Trung tâm thông tin (CCID) là đơn vị trực thuộc Cục Quản lý cạnh tranh được thành lập theo quy định tại Quyết định số 848/QĐ-BCT ngày 05 tháng 02 năm 2013 của Bộ Công Thương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh.

NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN1. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu trong và ngoài nước phục vụ công tác quản lý nhà nước về cạnh

tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng biện pháp tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 2. Cung cấp thông tin trong nước và quốc tế liên quan đến công tác quản lý, điều hành của Cục theo yêu cầu của Lãnh

đạo Cục.3. Phát triển các hoạt động dịch vụ thông tin phục vụ yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân

trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Cục trưởng. 4. Chủ trì và phối hợp với các đơn vị trong, ngoài Cục biên tập, phát hành các ấn phẩm định kỳ tuyên truyền, giới thiệu

về quản lý cạnh tranh, phòng vệ thương mại và bảo vệ người tiêu dùng và các hoạt động khác của Cục.5. Xây dựng, duy trì và quản lý mạng thông tin điện tử và các trang thông tin điện tử của Cục.6. Vận hành, duy trì và phát triển hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của Cục.7. Phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về cạnh tranh, phòng vệ thương

mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;8. Tham gia hỗ trợ và phối hợp với các đơn vị thuộc Cục trong công tác nghiên cứu, phân tích thông tin theo sự chỉ đạo

của Cục trưởng.9. Tìm kiếm các nguồn hỗ trợ trong nước và quốc tế thuộc thẩm quyền của Trung tâm để thực hiện nhiệm vụ được giao10. Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản được giao theo quy định.11. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và theo phân công của Cục trưởng.

CƠ CẤU TỔ CHỨC

CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANHTRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANHLuôn vượt sự mong đợi của bạn

Trụ sở: 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt NamTel: (84.4) 2220 5305 ; Fax: (84.4) 2220 5303 ; Email: [email protected]

Page 32: BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG - vca.gov.vn · và không đề nghị cung cấp hợp đồng để lưu giữ. Liên quan đến ví dụ này, thực tế thời

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO ĐIỀU TRA VIÊNTrung tâm Đào tạo điều tra viên là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Cục Quản lý

cạnh tranh, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, thực hiện chức năng giúp Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ và bảo vệ người tiêu dùng.

Cùng với Trung tâm Thông tin cạnh tranh, Trung tâm Đào tạo điều tra viên là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục Quản lý cạnh tranh.

Trung tâm Đào tạo điều tra viên có tên giao dịch tiếng Anh là: Competition Train-ing Center (CTC).

Thông tin liên hệ:Trung tâm Đào tạo điều tra viên (CTC)Địa chỉ: Số 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà NộiĐiện thoại: 04 - 2220 5010

CÁC ẤN PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN