b ng s c m nh tƯ duy - kornai-janos.hukornai-janos.hu/mem/vietnamese/kornai2008 memoirs...

511
TSÁCH SOS 2 Kornai János BNG SC MNH TƯ DUY Tiu stthut đặc bit

Upload: others

Post on 09-Mar-2020

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • TỦ SÁCH SOS2

    Kornai János

    BẰNG SỨC MẠNH TƯ DUY

    Tiểu sử tự thuật đặc biệt

  • Kornai János

    BẰNG SỨC MẠNH TƯ DUY

    Tiểu sử tự thuật đặc biệt

    Người dịch: Nguyễn Quang A

  • Kornai János

    A GONDOLAT EREJÉVEL

    Rendhagyó önéletrajz

    OSIRIS KIADÓ BUDAPEST / 2005

  • Tưởng nhớ Munyó

  • Mục lục

    LỜI GIỚI THIỆU.........................................................................................15

    LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................17

    1. GIA ĐÌNH, TUỔI NIÊN THIẾU/ 1928-1944

    Cha tôi ..........................................................................................................25 Gia đình ........................................................................................................29 Trường Đế chế Đức ......................................................................................32 Tìm con đường tinh thần ..............................................................................34 1944: số phận của cha tôi .............................................................................36 1944: sự thoát chết của tôi............................................................................38

    2. TÔI TRỞ THÀNH NGƯỜI CỘNG SẢN NHƯ THẾ NÀO?/ 1945-1947

    Các cấp độ thuộc về đảng cộng sản..............................................................47 Phản ứng với tổn thương của năm 1944.......................................................49 Chuyển biến tư tưởng, chấp nhận các tư tưởng chính trị cộng sản ..............53 Các nhân vật có sức lôi cuốn........................................................................59 Thuộc về cộng đồng .....................................................................................61 Các tác động ngẫu nhiên và những năng khiếu............................................63

    3. TRONG BAN BIÊN TẬP TỜ SZABAD NÉP/ 1947-1955

    Con đường sự nghiệp dựng đứng .................................................................66 Những thôi thúc............................................................................................69 Cuộc sống của chúng tôi ở toà soạn .............................................................73 Cái tôi cảm nhận được từ hoạt động của nền kinh tế ...................................74 Sự nghèo nàn trí tuệ......................................................................................78 Quyết toán đạo đức.......................................................................................81

    4. BẮT ĐẦU THỨC TỈNH/ 1953-1955

    “Giai đoạn mới” ...........................................................................................82 Gặp đồng nghiệp được thả khỏi nhà tù.........................................................84 Các cuộc trò chuyện và các bài đọc làm sáng tỏ ..........................................87 “Sự từ chối tuân lệnh” đầu tiên ....................................................................90 Điểm sách của Nagy Imre ............................................................................91 “Szabad Nép nổi loạn” .................................................................................93 Kết thúc thời kì Szabad Nép.........................................................................94

  • 5. BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG NGHIÊN CỨU/ 1955-10/1956 ● Sự tập trung quá mức của chỉ đạo kinh tế ●

    Tiền đề ..........................................................................................................98 Các xung lực tinh thần................................................................................101 Từ bỏ chính trị kinh tế học Marxian...........................................................106 Tôi bắt đầu nghiên cứu ...............................................................................110 Những khẳng định chính của luận văn .......................................................115 Sự tiếp đón lần đầu của cuốn sách..............................................................120 Hậu trường chính trị ...................................................................................123

    6. CÁCH MẠNG VÀ CÁI XẢY RA SAU ĐÓ/ 23/10/1956-1959

    Cương lĩnh chính phủ mới của Nagy Imre.................................................128 Tờ Magyar Szabadság (Quyền Tự do Hungary) ........................................132 Những ngày phiền muộn, các năm lận đận ................................................135 Sự Tập trung Quá mức tiếp tục cuộc sống của nó......................................136 Họ đuổi tôi ra khỏi viện..............................................................................140 Được tự do, trong cái bóng của nhà tù .......................................................144 Tình bạn và tình đoàn kết ...........................................................................151

    7. CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI/ 1957-1959

    Tự đào tạo...................................................................................................154 Tranh luận Lange-Hayek............................................................................156 Tiếp tục nghiên cứu ngành công nghiệp nhẹ..............................................158 “Tách mình khỏi” .......................................................................................160 Ngõ cụt .......................................................................................................162 Những quyết định cho cả cuộc đời .............................................................164

    8. ỨNG DỤNG KINH TẾ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP

    TOÁN HỌC/ 1957-1968 ● Kế hoạch hóa hai mức ●

    Làm quen với Lipták Tamás.......................................................................167 Khảo sát toán học của phần hưởng lợi nhuận.............................................169 Quy hoạch công nghiệp đệt ........................................................................173 Kế hoạch hoá hai mức ................................................................................176 Mô hình lí tưởng của kế hoạch hoá tập trung.............................................178 Quy hoạch kinh tế quốc dân: vài nguyên lí xuất phát ................................181 Những tính toán..........................................................................................184 Có đáng không?..........................................................................................187 Hợp tác với các nhà toán học .....................................................................193

  • 9. HÀNH TRÌNH SANG PHƯƠNG TÂY/ 1963-

    Các tiền đề ..................................................................................................195 Cambridge, nước Anh ................................................................................196 London School of Economics (Trường Kinh tế học London)....................198 Cũng cái đó, với con mắt của những kẻ chỉ điểm và nhân viên phản gián200 Vài nhận xét chung về các chuyến đi và những công bố ở nước ngoài .....207 Một “vụ án dàn dựng” thất bại ...................................................................210

    10. BƠI NGƯỢC DÒNG/ 1967-1970

    ● Anti-equilibrium ● Lai lịch cuốn sách.......................................................................................216 Cái gì thúc đẩy tôi viết cuốn sách này? ......................................................218 Những sự giống nhau đáng suy ngẫm ........................................................220 Cái có thể mong đợi và cái không thể mong đợi từ lí thuyết tổng quát .....222 Người ra quyết định duy lí .........................................................................225 Các tín hiệu không mang tính giá cả ..........................................................229 Cân bằng, thị trường của những người mua và những người bán..............229 Giải nghĩa lí thuyết cân bằng chung từ quan điểm chính trị ......................232 Cải cách hay cách mạng trong khoa học ....................................................233 Sự tiếp nhận đầu tiên, tác động dài hạn......................................................234 Có bõ công viết không?..............................................................................237 Vài nhận xét kết thúc chủ quan ..................................................................239

    11. VIỆN, ĐẠI HỌC, VIỆN HÀN LÂM/ 1967-

    Người chỉ đạo số một của khoa học kinh tế chính thống ...........................241 Cứ như đã chẳng có gì xảy ra cả ................................................................242 Sự tin cậy và sự kiên nhẫn..........................................................................244 Cuộc cải cách viện bị sẩy ...........................................................................249 Họ đã cấm – tôi vẫn dạy.............................................................................252 Tôi trở thành viện sĩ thế nào? .....................................................................255 Những đặc ân của viện sĩ............................................................................259

    12. TÌM ĐƯỜNG VÀ CHUẨN BỊ/ 1971-1976

    ● Sự tăng trưởng cưỡng ép, điều tiết không có tín hiệu giá ● Tăng trưởng cưỡng ép hay hài hoà.............................................................262 Lời mời đến Cambridge Anh......................................................................263 Bó bột đến thắt lưng – Keynes và Hirschman............................................264 Dạy học ở Princeton ...................................................................................266

  • Tiếp tục ở Stanford và ở Washington.........................................................269 Điều tiết thực vật ........................................................................................272 Bộ máy thích nghi cọc cạch........................................................................277 Chúng tôi xây nhà mới ...............................................................................279 Cải cách theo hướng thị trường - với con mắt của các Maoist ở Calcutta .281

    13. BỨC TRANH HÌNH THÀNH/ 1976-1980

    ● Sự thiếu hụt ● Môi trường gây cảm hứng ..........................................................................283 Thông điệp của cuốn sách ..........................................................................286 Tự kiểm duyệt.............................................................................................289 Hiệu đính-Phản biện...................................................................................291 Những ảnh hưởng đầu tiên .........................................................................294 Tranh luận với trường phái “disequilibrium”.............................................295 Tranh luận với một nhà kinh tế học soviet chính thống .............................297 Đóng góp vào sự làm xói mòn hệ thống.....................................................298 Một lần nữa về thế lưỡng nan chính trị và đạo đức của việc công bố........301

    14. SỰ ĐỘT PHÁ/1979-

    ● Ràng buộc ngân sách mềm ● Ý nghĩa và tầm quan trọng của khái niệm..................................................305 Các tiền đề ..................................................................................................307 Sự chứng thực kinh nghiệm........................................................................311 Mô hình hoá toán học của hiện tượng ........................................................312 Câu chuyện về bài báo tổng kết đầu tiên....................................................314 … và vài bài học của câu chuyện ...............................................................317

    15. VỚI SỰ PHÊ PHÁN THÂN THIỆN,

    GIỮ KHOẢNG CÁCH/ 1968-1989 ● Quá trình cải cách Hungary: Những ảo ảnh, hi vọng và thực tế ●

    Các hi vọng được thực hiện một nửa, bị thất bại một nửa .........................324 Từ nhà cải cách ngây thơ thành nhà phân tích phê phán............................327 “Đáng lẽ ra anh ta phải bảo, chúng ta hãy làm gì…”.................................332 Tính hiệu quả và đạo đức xã hội chủ nghĩa................................................335 Tầm quan trọng của các quyền sở hữu .......................................................337 Mô hình-Lange và sự thật của cải cách Hungary .......................................339 Rẽ ngang: một mẩu khác của sự thật Hungary...........................................340 Nhìn lại với con mắt hôm nay ....................................................................342

  • 16. HARVARD/ 1984-2002 Princton, Institute for Advanced Study ......................................................345 Người ta bổ nhiệm các giáo sư của Đại học Harvard thế nào? ..................349 Chúng tôi chuyển về Cambridge ................................................................354 Niềm vui và những khó khăn của dạy học .................................................357 Tính muôn hình muôn vẻ và sự khoan dung ..............................................360 Tính nghiêm khắc đạo đức .........................................................................361

    17. Ở TRONG NƯỚC TẠI HUNGARY, Ở NHÀ KHẮP THIÊN HẠ/1985-

    Cái gắn bó với Hungary .............................................................................364 Những so sánh: cuộc sống thường nhật ở Cambridge và ở Budapest ........367 Tại một trong những trung tâm của văn hoá thế giới .................................370 Những mối dây bạn bè ...............................................................................372 Tham gia vào cộng đồng các nhà kinh tế học châu Âu và thế giới ............377 Đi Trung Quốc............................................................................................380 Tổ ấm ở nơi đâu?........................................................................................383

    18. TỔNG HỢP/ 1988-1993

    ● Hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ● Cuốn sách được hoàn thành thế nào? .........................................................389 Ý định tổng kết ...........................................................................................392 Phân tích thực chứng và các giá trị.............................................................395 Các mô hình tổng quát................................................................................396 Bị muộn? Quá sớm? ...................................................................................399 Sự thừa nhận từ Phương Tây và Phương Đông…......................................400 và sự bác bỏ, từ cánh hữu và cánh tả ..........................................................401 Một tình tiết kì cục .....................................................................................403

    19. BƯỚC NGOẶT ĐỔI ĐỜI/ 1989-1992

    ● Con đường ● Các giới hạn của dự đoán ...........................................................................405 Những quyết định trong vườn của Business School và trên núi Gellért ....407 Con đường được hoàn thành thế nào? ........................................................409 Những phản ứng đầu tiên ...........................................................................411 Giả vờ thế là đủ rồi!....................................................................................413 Vì sự phát triển lành mạnh của khu vực tư nhân........................................416 Trách nhiệm vì tiền chung..........................................................................419 Phẫu thuật ổn định......................................................................................420 Cán cân .......................................................................................................423

  • 20. TRÊN RANH GIỚI CỦA KHOA HỌC VÀ CHÍNH TRỊ/ 1990-

    ● Tìm đường, vật lộn và hi vọng, về cải cách y tế ●

    Bày tỏ lập trường về những công việc của chính sách kinh tế vĩ mô Hungary....................................................................................................................428 Về cải cách y tế ..........................................................................................433 “Họ có hỏi cậu? Có nghe cậu hay không?”................................................437 Tác dụng thật sự .........................................................................................441 Tham gia vào hình thành chính sách tiền tệ ...............................................444 Những góp ý cho sự chuyển đổi của các nước khác ..................................446

    21. TIẾP TỤC CÁI TÔI ĐÃ LÀM ĐẾN NAY/ 1990-

    ● Thay đổi chế độ có nghĩa là gì và không có nghĩa là gì ● Giải nghĩa sự thay đổi chế độ .....................................................................449 Những mong đợi và thất vọng, chủ nghĩa bi quan và chủ nghĩa lạc quan .452 Collegium Budapest ...................................................................................458 Một khúc trung gian, intermezzo đẹp: sinh nhật thứ 70.............................461 Đại học Harvard: giảng dạy và chia tay .....................................................463 Trong môi trường trong nước.....................................................................468 Cậu làm việc sáng tạo gì?...........................................................................470

    CHÚ GIẢI ..................................................................................................472

    DẪN CHIẾU ..............................................................................................486

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................491

    CHỈ MỤC ...................................................................................................501

    CÁC ẢNH ..................................................................................................515

  • LỜI GIỚI THIỆU

    Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười lăm+ của tủ sách SOS2, cuốn Bằng Sức mạnh Tư duy - tiểu sử tự thuật đặc biệt của Kornai János. Đây là cuốn sách thứ tư của Kornai trong tủ sách này và là cuốn thứ năm của Kornai bằng tiếng Việt. Hồi kí của Kornai đặc biệt theo nhiều nghĩa: nó nói về bản thân tác giả, như mọi hồi kí khác, song chỉ nói về các công trình chính của ông; về quá trình chuyển biến tư duy qua từng thời kì, qua từng tác phẩm của ông; về cảm nhận của ông với thời cuộc liên quan đến các vấn đề mà ông nghiên cứu, đến những sự kiện mà ông đã trải qua, đến những nơi mà ông đã đến; về việc nghiên cứu chính nội tâm của ông, đánh giá lại các công trình của ông một cách phê phán.

    Những ai đã đọc Kornai, có thể được nhiều thông tin bổ ích khác liên quan đến các công trình của ông, mà khi viết các công trình đó ông không thể trình bày (vì tự kiểm duyệt, vì không hợp với thể loại, và vì các lí do khác). Những người chưa đọc Kornai có thể có được bức tranh khái quát về toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội của ông, về con người ông, và sau đó có thể có hứng thú để tìm đọc các tác phẩm chuyên môn sâu hơn của ông.

    Là người suốt đời nghiên cứu hệ thống xã hội chủ nghĩa và kinh tế học so sánh, ông hiểu rất kĩ hệ thống này. Hơn 15 năm qua ông nghiên cứu về chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa. Ông đã từng làm báo của đảng cộng sản 6 năm, sau đó ông chuyển hẳn làm khoa học, làm nhà giáo. Ông là người trong cuộc, chính vì thế các tác phẩm của ông rất gần gũi với những người đã từng sống trong các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, hay đang còn sống trong các nước xã hội chủ nghĩa chuyển đổi. Và như thế đối với cả người Việt Nam chúng ta nữa. Qua hồi kí của ông nhiều trí thức Việt Nam có thể cũng nhìn thấy mặt nào đó của tình cảnh trái ngược của chính mình

    + Các quyển trước gồm: 1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản

    Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002. 2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002 3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002 4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản 5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn của Vốn] 6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? sắp xuất bản 7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô, sắp xuất bản 8. G. Soros: Xã hội Mở, sắp xuất bản 9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử, sắp xuất bản. 10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato 11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx 12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học, NXB Trí thức 2006 13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006 14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn

  • nữa. Đấy là những cái làm cho cuốn sách hấp dẫn, là cái khiến tôi dịch cuốn hồi kí này để nó có thể đến tay bạn đọc Việt Nam. Nguyên bản tiếng Hungary, mà bản tiếng Việt dựa vào, được xuất bản năm 2005, bản tiếng Anh với nhan đề By Force of Thought. Irregular Memoirs of an Intellectual Journey. Cambridge: The MIT Press, sẽ ra trong năm nay, 2006, bản tiếng Nga cũng đang được hoàn thành. Tác giả đã có bản sửa (8-2006) bằng tiếng Hungary, bản tiếng Việt này cũng đưa ra những sửa chữa tương ứng.

    Tôi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, các nhà giáo, các nhà báo, các sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến hệ thống xã hội chủ nghĩa và chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa, đến nghiên cứu khoa học, đến giáo dục đào tạo, đến nghề báo, những người đã đọc hay chưa đọc các công trình khác của Kornai.

    Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót.

    Mọi chú thích cuối sách của tác giả được đánh bằng số. Các chú thích cuối trang được tác giả đánh dấu *. Vì thế ngược với truyền thống của tủ sách SOS2, người dịch không còn thể dùng dấu * để chỉ các chú thích của mình trong cuốn sách này. Tất cả các chú thích đánh cộng (+) ở cuối trang là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 66 Kim Mã Thượng Hà Nội, hoặc qua điện thư [email protected] hay [email protected]

    9-2006

    Nguyễn Quang A

  • 17

    LỜI NÓI ĐẦU Trong khi đã viết hồi kí của mình được khá nhiều, hết lần này đến lần khác tôi tự hỏi: thực ra vì sao tôi lại làm việc này? Cái gì khiến tôi hồi tưởng lại? Cuốn sách này dành cho những ai?

    Tôi là người e thẹn và khá lầm lì, đến nay tôi hiếm khi và ít nói về cuộc đời tư của mình. Trong những ngày thay đổi hệ thống hồi hộp nhất, một nhà báo quen đã thúc giục tôi cho một phỏng vấn dài về cuộc đời. Anh ta lập luận rằng, muộn hơn sẽ chẳng ai quan tâm đến. Tôi đã đợi mười lăm năm, hi vọng tôi không bị trễ.

    Từ nhiều năm vợ tôi đã gợi ý, đã bảo tôi viết hồi kí, còn tôi thì trì hoãn hết năm này đến năm khác. Cuối cùng bây giờ tôi đã quyết; đến mức từ khi bắt đầu viết, từ giữa năm 2003, tôi tập trung mọi sức lực và thời gian còn lại cho việc này sau khi thực hiện những công việc khác không thể tránh được.

    Việc vợ tôi cứ nhất quyết với ý tưởng này, bản thân nó là một động cơ khá mạnh. Nếu cần phải kể tên một độc giả, mà cuốn sách này được viết cho, và tôi muốn làm cho người ấy vừa lòng, thì đó là Zsuzsa.

    Tôi hi vọng nhiều trong số những người tôi có quan hệ với trong đời cũng quan tâm đến hồi kí của tôi: các con tôi, các cháu tôi, các thành viên khác trong gia đình tôi, bạn bè tôi, các cộng sự một thời và hiện nay của tôi, các học trò của tôi, các bạn đọc những cuốn sách và bài báo của tôi. Đấy là một giới không nhỏ.

    Tất cả những người có quan hệ với tôi, trực tiếp hay qua các công trình của tôi, đều có cảm tưởng nào đó về tôi. Tôi muốn, nếu có thể để - bên cạnh hình ảnh chủ quan đã hình thành trong họ- một hình ảnh khác (cũng chủ quan) mà tôi hình thành về chính mình. Số bài phê bình các cuốn sách của tôi lên đến hàng trăm. Bây giờ có thể đối sánh chúng với đánh giá của riêng tôi. Tôi kể lại tôi thấy công trình của mình thế nào, ngay sau khi tôi hoàn tất, và bây giờ nhìn lại tôi thấy chúng ra sao khi tôi viết hồi kí của mình. Tôi chưa bao giờ phản ứng công khai đối với các bài phê bình. Nếu tôi vấp phải ý kiến phản đối, tương đối hiếm khi tôi sa vào tranh luận. Tuy nhiên giờ đây, một lần và một cách ngoại lệ, trong khuôn khổ những hồi tưởng, bản thân tôi cũng muốn viết “các bài phê bình” về các công trình của riêng mình.

    Về cơ bản hồi kí của tôi theo trình tự thời gian, nhưng không theo thứ tự các sự kiện một cách nghiêm ngặt. Nó không phải là nhật kí. Mỗi chương xoay quanh một chủ đề nào đó, dù là một sự kiện trước kia, một công trình nào đó của tôi hay một địa điểm trong đời tôi. Trong đầu đề các chương tôi cũng chỉ rõ chúng là các thời kì nào. Các giai đoạn này - lật qua các chương- có thể chờm lên nhau, giữa chúng có thể có những chồng chéo, nếu thảo luận các chủ đề đòi hỏi vậy.

  • 18

    Có thể, có những người chưa đọc các tác phẩm trước đây của tôi, cũng chưa từng gặp tôi cũng sẽ cầm cuốn sách này lên và quan tâm hơn đến thời mà tôi đã sống là thời đại thế nào. Tôi không muốn họ bị thất vọng. Những người muốn tìm hiểu thời kì Rákosi, cách mạng Hungary 1956 hay chế độ Kádár phải tìm tòi trong những tài liệu phong phú về các đề tài này. Cuốn sách của tôi không đảm nhiệm công việc của một nhà sử học. Phù hợp với điều đó tôi cũng chẳng biết bảo bạn đọc hãy nghiên cứu các tác phẩm nào. Tôi đã là một nhân vật của các thời kì đó, và tôi không thuộc vào các nhân vật chính. Tuy nhiên, do tính chất của thể loại hồi kí, tôi là nhân vật trung tâm trong hồi kí của mình. Về thời đại tôi chỉ có thể và muốn giới thiệu ở mức độ gắn với đời sống riêng của tôi. Môi trường xã hội-lịch sử, trong đó các sự kiện của riêng đời tôi xảy ra.

    Tuy nhiên, đối với những người quan tâm đến Đông Âu, đến hệ thống cộng sản và sự sụp đổ của nó, đến những lầm đường lạc lối và sự tìm đường của trí thức Đông Âu, đến các quá trình nhận thức của nghiên cứu kinh tế và đến nhiều đề tài bao quát khác, thì hồi kí của tôi có thể là một phần bổ sung cho các nguồn khác của tri thức. Những lời chứng khác nhau, mà những người đã sống qua các thời kì đã thổ lộ một cách chân thực về đời họ và những trải nghiệm của họ, sẽ mang lại nguồn quan trọng không thể thay thế được cho các nhà nghiên cứu tương lai. Những người khác cũng đã hoàn thành lời chứng của họ; với hồi kí này của mình tôi cũng trình diện làm nhân chứng. Thực ra các công trình trước của tôi, được viết với đòi hỏi khoa học, cũng được tôi dành làm bằng chứng, làm sự báo tin về các thời đại đang biến mất. Trong các công trình đó tôi đã cố gắng khách quan càng đầy đủ càng tốt. Bây giờ tôi hoàn tất với việc bổ sung chủ quan cho chúng. Cái bị bỏ ra khỏi Sự Thiếu hụt và Hệ thống Xã hội Chủ nghĩa, bởi vì mang tính quá riêng tư, hay cái gì đó đã cản trở tôi phát biểu đầy đủ hơn ý kiến của mình, thì bây giờ tôi cố gắng đưa vào cuốn sách này. Thể loại hồi kí cho phép tôi trình bày niềm tin cá nhân của tôi về nhiều vấn đề- trong đó có các vấn đề đạo đức, chính trị hay khoa học. Những lập trường và tín điều chung này không thể được nhồi vào các công trình khoa học, bị giới hạn về chủ đề.

    Tôi đã nghĩ nhiều về đầu đề của cuốn sách. Đầu tiên tôi thiên cho đầu đề: Hiểu biết… Trước hết tôi cố thử hiểu bản thân mình. Tôi muốn giải thích, khi nào tôi nghĩ gì và vì sao, cái gì đã tác động đến tư duy và hành động của tôi, do cái gì mà tôi đã thay đổi. Tôi muốn hiểu cả những người, mà tôi đồng ý với lẫn những người tôi không đồng ý, những người đứng cạnh tôi và những người quay mặt lại với tôi.

    Trong tiếng Hung, và cả trong nhiều ngôn ngữ khác, gắn với từ “hiểu” là một loại tán thành hay chí ít sự miễn thứ đạo đức. Hãy thử nói từ này với các luyến âm khác nhau. Mọi người dễ dàng thấy sự nhấn mạnh miễn thứ của từ “tôi hiểu”. Đây không phải là ý định của tôi. Tôi không hề có ý định miễn thứ, và cả sự phán xử tự tin nữa. Trong cuốn sách này tôi không cố

  • 19

    làm việc khác với các công trình thông báo các kết quả nghiên cứu khoa học trước đây: tôi muốn hiểu cái mà tôi khảo sát. Đôi khi khá khó để lần ra những động lực thúc đẩy các hành động, các bẫy của tư duy, các lực ẩn sâu thúc đẩy những con người, các nguyên nhân được thú nhận công khai hay được giữ kín. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ khi khảo sát quá khứ của bản thân tôi, và hiển nhiên còn khó hơn khi tôi phân tích quá khứ của những người khác.

    Cuối cùng tuy vậy tôi đã chọn đầu đề khác: Bằng sức mạnh tư duy. Tôi cảm thấy rằng, vài từ này đúc kết khéo nhất một trong những thông điệp quan trọng nhất của những hồi ức của tôi. Tôi không nỗ lực đạt quyền lực, cũng chẳng đến sự giàu sang. Nếu đây đó có lẽ tôi đã có thể có ảnh hưởng đến diễn tiến của các sự kiện, điều đó đã xảy ra không phải vì tôi đã có thể ra lệnh cho nhân viên của tôi từ địa vị cao hay vì tôi có thể mua sự hợp tác của họ bằng nhiều tiền. Nói chung nếu tôi có ảnh hưởng đến bất kì ai hay đến bất cứ gì, thì tôi đạt được tác động đó bằng những suy ngẫm được nói ra hay được in ra của tôi.

    Một trong những người đọc bản thảo đã bày tỏ những ngờ vực của mình. “Ngây thơ đi tin vào ảnh hưởng của lập luận, niềm tin, tư duy. Động lực thực sự của các sự kiện lịch sử là các lợi ích.” Với tư cách nhà quan sát và nhà phân tích chuyên nghiệp về những thay đổi xã hội, tôi không có các ảo tưởng, và tôi cố gắng lưu ý và xử lí các tác động nhân quả theo trọng lượng của chúng. Tuy vậy, các ông chủ mọi thời của quyền lực và của cải là những người hành động, họ lựa chọn giữa những chọn lựa khả dĩ. Có nhiều loại nhân tố tác động lên họ, và giữa các nhân tố đó các giá trị, các lí tưởng, các suy nghĩ không bị dồn vào vị trí cuối cùng. Ngoài ra tất nhiên cái mà hàng triệu, hàng trăm triệu người ít hùng mạnh hơn, ít giàu có hơn nghĩ và tin vào, cũng có ảnh hưởng lên tiến trình của các sự kiện. Toàn bộ sự nghiệp của đời tôi sẽ mất hết ý nghĩa, nếu giả như tôi không tin rằng, tư duy có sức mạnh của nó.

    Tất nhiên, sức mạnh này vấp phải các giới hạn, các trở ngại. Một trong những đề tài chính của những hồi ức chính là: khi nào và vì sao tư duy của riêng tôi lại rối mù lên và được sắp xếp lại ra sao; tư tưởng của những người khác ảnh hưởng đến tôi thế nào; và những suy nghĩ, phân tích và kiến nghị của tôi xung đột với của những người khác thế nào. Tư duy liên tục phải đọ sức. Mỗi chương sẽ tường thuật về các cuộc đọ sức mới và mới hơn, thành công hay thất bại.

    Tôi cho cuốn sách đầu đề phụ là tự sự đặc biệt. Nguyên nhân của việc này là, trong hai khía cạnh cuốn sách trệch khỏi tập tục của các hồi kí. Trong quá trình thuật lại các sự kiện của đời mình, đôi khi tôi dừng lại và trình bày những suy nghĩ của mình gắn với mỗi tình tiết. Khi đó trọng tâm không phải là ở tường thuật câu chuyện, mà là ở sự phân tích tình hình và vấn đề. Những giãi bày như vậy, liên quan đến vấn đề nào đó của khoa học

  • 20

    xã hội, đạo đức học, quá trình nghiên cứu-sáng tạo hay của đề tài khác, cũng có thể coi là các “tiểu luận”. Tác phẩm của tôi là một hỗn hợp của một hồi kí và một loạt tiểu luận.

    Phần lớn các hồi kí nói về cuộc sống riêng của tác giả. Tuy hồi kí của tôi là tường thuật mang giọng cá nhân, có quan điểm chủ quan, xét về cơ bản tôi đã viết một hồi kí tự sự trí tuệ. Tính ngữ trí tuệ này phải được hiểu theo nghĩa rất rộng; nó bao hàm các khía cạnh chính trị, đời sống xã hội và xã hội khác của đời tôi, bao hàm tình bạn và các quan hệ cá nhân khác gắn với hình thái tồn tại của giới trí thức. Ở nhiều chỗ cuốn sách sẽ nói về những người thân thích của tôi hay về các sự kiện gia đình, trong bản viết nó hoàn toàn không chiếm dung lượng, không có trọng lượng tương đối, như nó thực có trong đời tôi. Các bức ảnh được công bố trong cuốn sách có lẽ có thể giới thiệu đôi nét về lĩnh vực cuộc sống của tôi, mà văn bản hồi kí không thể diễn đạt bằng lời. Cuốn sách là hồi kí đặc biệt cũng theo nghĩa rằng, tôi rất ít nói về cái tôi gọi là việc riêng theo nghĩa hẹp. Đến cuối cuốn sách sẽ trở nên sáng tỏ, tôi đã thử vạch đường ranh giới ở đâu.

    Tôi cần nói vài lời về thể loại và văn phong của cuốn sách. Suốt năm mươi năm tôi đã viết những phân tích, nỗ lực để trình bày cái tôi hiểu, lập luận nó, theo dòng suy nghĩ có thể theo dõi được và mạch lạc. Tôi không muốn đột nhiên trở thành nhà văn. Đừng ai mong đợi ở tôi những mô tả hay về phong cảnh, các đối thoại sinh động, mô tả sống động dáng vẻ của các bạn tôi hay gợi không khí của thời điểm căng thẳng. Cảm tưởng tồi nhất mà bạn đọc có thể có là giả như một gã nhà văn quèn nói với họ- thế thì tốt hơn tôi cứ dùng thể loại quen thuộc của tôi, cùng với từ vựng và văn phong quen thuộc của tôi. Nhà văn bỏ ngỏ hay chủ đích che mờ các vấn đề một cách chủ ý hay tự phát, để những suy nghĩ “lơ lửng” – và như thế là phải. Nhà nghiên cứu khoa học không thể làm như vậy. Tôi không thể chối từ nhà nghiên cứu trong tôi, ngay cả khi viết hồi kí. Trong văn phong, cấu trúc, và cách thức diễn đạt, tôi cố tránh sự mơ hồ.

    Khi viết các tác phẩm trước tôi đã tương đối dễ xác định, tôi nói cho những ai. Điều này ít nhiều xác định, tôi cần giải thích cái gì và cái gì tôi có thể giả sử bạn đọc đã biết. Lần này tình hình là khác. Tôi hi vọng, các nhà kinh tế và các nhà chuyên môn khác, những người già và các bạn trẻ, những người Hung và người nước ngoài, “những người phương đông” và “những người phương tây” sẽ cầm hồi kí của tôi. Tôi cố gắng để tất cả mọi người có thể theo dõi điều tôi muốn nói. Ở nhiều chỗ của cuốn sách đã gây ra thế lưỡng nan khó xử, tốt hơn tôi hãy cố gắng đến cái gì. Đến sự chính xác tối đa, cái sẽ buộc phải có các định nghĩa chi tiết, có trình bày các giả thiết xuất phát, các hạn chế và những sự phân định? E rằng, việc này sẽ gây khó khăn cho bạn đọc không phải là nhà kinh tế. Hay tôi hãy chọn cách diễn đạt đơn giản hơn – và phải chịu rủi ro, là việc này có thể dẫn đến quá-đơn giản hóa? Bởi vì tôi viết không phải một luận văn khoa học, tốt hơn tôi chấp nhận rủi

  • 21

    ro sau. Với những người chưa đọc các tác phẩm trước kia của tôi, hồi kí cho họ nếm một chút thông điệp của các cuốn sách và bài báo của tôi; với những người đã đọc, có lẽ nó giúp làm tươi kí ức. Tôi xin lỗi trước và mong sự thông cảm của độc giả cảm thấy rằng, tôi nói cái gì đó với dư chi tiết – có lẽ có một bạn đọc khác lại cần chính đến sự chỉ dẫn này.

    Hiển nhiên là, nguồn quan trọng nhất của cuốn sách là kí ức riêng của tôi. Nhưng tôi phải dè chừng để chỉ dựa vào nguồn này. Tôi không coi việc viết cuốn sách là việc sát hạch trí nhớ, mà ở chừng mực có thể, tôi đã cố làm tươi lại các kí ức. Tôi không chỉ hồi tưởng lại các suy nghĩ và cảm giác của mình, mà cả các sự kiện đã xảy ra, các tác phẩm đã công bố. Tôi cảm thấy có nghĩa vụ để kiểm tra các thông báo sự thực một cách thận trọng nhất có thể.

    Tôi có nhiều loại nguồn. Như đã nhắc tới, trong cuốn sách tôi quay lại các tác phẩm được cho là quan trọng nhất của mình.* Nếu một tác phẩm của tôi được công bố ở dạng ấn phẩm, thường tôi không xem lại. Nhưng bây giờ tôi lần lượt đọc lại chúng, và cùng với chúng đọc cả các bài phê bình ban đầu và tiếng vang muộn hơn.

    Tôi chẳng bao giờ viết nhật kí. Nhưng từ khi tôi trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, tôi cất nhiều sổ ghi chép, mà tôi diễn đạt trong lúc nghiên cứu, tôi lưu trữ nhiều loại tư liệu. Tôi lưu trữ chúng ở dạng dễ theo dõi, trong hàng trăm hồ sơ được đánh số, phân thành hạng mục. Tôi lưu trữ phần lớn thư từ gửi đến cho tôi, cũng như bản sao thư tôi gửi đi. Bây giờ tôi cố đào sâu đống tư liệu phong phú này.

    Bổ sung cho sưu tập tư liệu của riêng tôi là việc tìm kiếm ở các kho lưu trữ khác nhau, nơi cùng các cộng sự của mình chúng tôi chợt thấy nhiều thông tin lí thú. Việc nghiên cứu các hồ sơ của các cơ quan mật vụ cũ đặc biệt hồi hộp. Các luật mới của Hungary cho phép công dân tiếp cận đến các tư liệu liên quan đến mình. Đọc các báo cáo của những kẻ chỉ điểm ngầm, các biên bản của công an điều tra chuẩn bị cho các vụ án chính trị, những ghi chép của các sĩ quan an ninh quốc gia và tình báo gây cảm xúc nghẹt thở, đôi khi choáng váng. Cuốn sách giới thiệu nhiều tư liệu liên quan đến tôi của cảnh sát chính trị và cơ quan tình báo.

    Tôi thấy quan trọng để làm yên lòng các bạn đọc của tôi ngay lúc mở đầu rằng, cuốn sách không chỉ dựa trên kí ức của tác giả, mà cả trên nghiên cứu các tư liệu nữa. Nhưng tôi không muốn, nếu thay cho việc làm yên lòng tôi lại làm giới độc giả rộng hơn lo sợ. Trọng tâm của cuốn sách sẽ không phải là ở việc giới thiệu khô khan những nghiên cứu lưu trữ, mà là ở sự xử lí cá nhân các kí ức. Kế tiếp là tường thuật về một cuộc chu du trí tuệ dài và li kì, trong đó ánh sáng và bóng tối, những kinh nghiệm sống hào hứng và

    * Sự lựa chọn có thể dễ thấy từ mục lục. Chương nào thảo luận kĩ hơn một tác phẩm nào đó của tôi, ở đó tên của tác phẩm hay các tác phẩm ấy xuất hiện trong tiêu đề phụ của chương.

  • 22

    cay đắng luân phiên nhau. Tôi hi vọng rằng, đến cuối cuốn sách các độc giả của tôi sẽ hiểu kĩ hơn đời tôi, các công trình của tôi và thời đại mà tôi đã sống.

    Bõ đưa ra vài chỉ dẫn thực tiễn để giúp việc đọc dễ dàng. Cuối cuốn sách có thể tìm thấy danh mục tài liệu tham khảo. Danh mục này chỉ chứa các công trình đã công bố mà cuốn sách này nhắc đến. Như thế không thể coi là thư mục tham khảo toàn diện của các đề tài được nhắc đến trong cuốn sách. Nếu tác phẩm nào đó được công bố bằng tiếng Hungary, thì dữ liệu của phiên bản tiếng Hung xuất hiện trong Danh mục tài liệu tham khảo. Nếu một công trình được xuất bản nhiều lần, nếu có thể chúng tôi đưa lần xuất bản cuối cùng vào danh mục, nhưng chúng tôi cũng đưa ra năm xuất bản đầu tiên [trong ngoặc vuông].

    Hai loại chú thích bổ sung cho văn bản chính của cuốn sách, bên dưới các trang có thể thấy chú thích cuối trang [footnote] và sau văn bản là các chú thích cuối [endnote]. Chú thích cuối trang được đánh dấu sao. Các chú thích cuối được đánh số ả rập.

    Lạ là có hai loại chú thích trong một cuốn sách. Tôi chọn giải pháp này là vì, tôi hi vọng việc này làm cho bạn đọc thoải mái nhất. Cuốn sách của tôi không phải là sách văn học, nhưng cũng không là tác phẩm khoa học. Chính “thể loại lửng lơ” này lí giải cho giải pháp khác thường.

    Trong các chú thích cuối trang có thể thấy loại nội dung, mà – xét về mặt thể loại và văn phong- thực ra tôi đã có thể đưa vào văn bản chính. Tuy vậy tôi vẫn đưa vào chú thích cuối trang, bởi vì mỗi chú thích là một đoạn rẽ khỏi hướng suy nghĩ của văn bản chính. Trong các chú thích cuối trang có thể thấy các thí dụ hay dữ liệu minh hoạ, các tình tiết, đôi khi các giai thoại hay các chuyện cười. Tôi hi vọng, những người quyết định đọc văn bản chính cũng sẽ đọc các chú thích cuối trang.

    Các chú thích cuối [sách] có thể tìm thấy dưới đầu đề Dẫn chiếu, chứa các thông tin mà các nhà nghiên cứu gọi là “công cụ chú thích”. Trong phần trên của Lời nói đầu, tôi đã nhấn mạnh rằng, việc viết hồi kí của tôi dựa vào việc thu thập dữ liệu rộng rãi. Nếu nguồn của một thông tin nào đó là một tư liệu lưu trữ, thì chú thích cuối sẽ cho các thông số của nguồn lưu trữ một cách quen thuộc.

    Trong các nguồn có các tác phẩm đã được công bố; số liệu tham khảo của chúng có thể thấy ở Danh mục Tài liệu Tham khảo. Nếu từ văn bản chính, bạn đọc có thể xác định rõ ràng tác phẩm nào được nói đến, và quan tâm đến các số liệu tham khảo, thì đơn giản có thể có thể mở các trang cuối, và tìm thấy thông tin liên quan đến công trình đó. Nhưng nếu mối quan hệ giữa dẫn chiếu tài liệu tham khảo trong văn bản chính và Danh mục Tài liệu

  • 23

    Tham khảo không rõ ràng, thì chú thích cuối sẽ giúp định hướng. Từ chú thích cuối có thể biết cả số trang của các lời dẫn nữa.*

    Theo giả thiết của tôi, phần lớn bạn đọc không muốn theo dõi từng tiết mục một xem nguồn của mỗi thông tin là gì. Tôi muốn làm cho công việc của họ được dễ bằng để các chú thích cuối công bố các nguồn ra cuối cuốn sách. Nội dung cuốn sách có thể theo dõi được mà chẳng cần để mắt đến các chú thích cuối.

    Tuy nhiên, đối với các bạn đọc (trong số họ có các nhà nghiên cứu các đề tài được đề cập trong cuốn sách), những người tự mình muốn theo đuổi một vấn đề nào đấy, họ có thể tìm thấy mọi thông tin cần thiết trong các chú thích cuối.

    Tôi biết ơn những người đã giúp tôi viết hồi kí của mình. Szabó Katalin, cộng sự thường xuyên của tôi đã tổ chức công việc và tư liệu liên quan đến cuốn sách một cách vui vẻ và rất chu đáo, đã lo các phiên bản tiếp nhau của bản thảo. Tôi đã may mắn được sự giúp đỡ hiệu quả và nhẫn nại của bốn trợ lí nghiên cứu trẻ của tôi, sử gia Molnár János và kinh tế gia Iván Gábor, Noémi và Tóth László, những người đã hợp tác tận tâm và tháo vát trong sưu tầm dữ liệu và tài liệu, trong làm rõ các nguồn và kiểm tra thông tin, trong biên soạn bản thảo và trong biên soạn mục các từ chuyên môn, trình tự thời gian cũng như chỉ mục tên và chỉ mục nội dung.

    Tôi muốn cám ơn sự giúp đỡ của tất cả những người đã đọc các phiên bản ban đầu hay một số phần và đã bình luận, đã giúp sưu tầm các tư liệu lưu trữ, các bài báo, làm rõ một số vấn đề chuyên môn và đã giúp bằng nhiều cách khác nhau trong chuẩn bị cho cuốn sách này. Tôi liệt kê theo thứ tự abc những người mà tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ nhất: Francis Bator, Bauer Tamás, Csankovszki Kata, Karen Eggleston, Erdős Hédi, Eső Péter, Fazekas Ica, Gábor Luca, Jerry Green, Gyurgyák János, Karinthy Márton, Kende Péter, Kenedi János, Környei Anikó, Kovács Mária, Zdenek Kudrna, Laki Mihály, Lénárt-Cheng Helga, Lőcsel Pál, Lukács Ilona, Majtényi László, Brian McLean, Mihályi Péter, Nagy András, Négyesi Judit, Pajkossy Gábor, Parti Julia, Richard Quandt, Rainer M. János, Révész Sándor, Réz Pál, Gérard Roland, Henry Rosovsky, Sarnyai Éva, Schönner Ágnes, Simonovits András, Robert M. Solow, Susan Suleiman, Sz. Kovács Éva, Szegő János, Vahabi Mehrdad, Varga László và Sofia Weibull. Tôi cảm ơn cả những người không được nêu tên ở đây, và những người đã thúc đẩy việc viết cuốn sách bằng trả lời một số câu hỏi và làm rõ một số thông tin.

    * Các chú thích không thể có chú thích của chúng, vì thế các chú thích cuối trang chứa cả các dẫn chiếu liên quan đến chúng nữa.

  • 24

    Chương trình Nghiên cứu Khoa học Cơ bản Toàn quốc [OTKA] (số đề tài: T 046976) đã góp phần chi phí nghiên cứu. Viện Nghiên cứu Kinh tế học của Viện Hàn lâm Khoa học Hungary đã giúp đỡ bằng cách đảm nhận xử lí hành chính sự hỗ trợ của OTKA.

    Cũng như với tất cả các công trình trước đây trong một thập kỉ rưỡi vừa qua, công trình này cũng có được môi trường truyền cảm hứng và nhiều hỗ trợ thực tiễn từ nơi làm việc của tôi, Collegium Budapest.

    Tôi đã làm việc với nhiều biên tập viên nhà xuất bản, nhưng hiếm khi tôi gặp được người hiểu kĩ, xây dựng và chu đáo đến vậy như Gábor Luca. Környei Anikó đã thiết kế hình dáng cuốn sách rất đẹp mắt. Tôi mang ơn họ và các cộng sự khác của Nhà xuất bản Osiris đã giúp đỡ công việc xuất bản cuốn sách này. Budapest 10-2-2005 Kornai János

  • 25

    Chương 1

    GIA ĐÌNH, TUỔI NIÊN THIẾU 1928-1944

    Tôi không phải là Marcel Proust hay Esterházy Péter. Tôi không biết miêu tả khéo, và vì thế tôi cũng chẳng thử mô tả thế giới thời thơ ấu, không khí gia đình của mình. Tôi nhớ mùi bánh hay giọng của cha mẹ mình, nhưng tôi không có khiếu văn chương để truyền đạt tất cả điều này bằng lời cho các bạn đọc hồi kí của tôi.

    Tốt hơn tôi vẫn dùng thể loại riêng của mình để mô tả và phân tích thế giới quanh tôi. Bây giờ tôi bổ sung việc này bằng thêm một nhiện vụ nữa: với cái đầu 77 tuổi hiện nay tôi cố hiểu và phân tích bản thân mình. Vì sao và thế nào tôi lại trở thành như vậy, như tôi đã là và đang là? Như thế chủ yếu tôi sẽ kể về tuổi thơ ấu, tuổi thiếu niên của tôi và gia đình tôi, nhằm giúp cho việc hoàn thành hai nhiệm vụ này, để hiểu bản thân tôi và thời đại.

    Cha tôi

    Cha tôi tên là dr. Kornhauser Pál. Tôi đã mang họ này, cho đến 1945 khi

    tôi tự quyết định lấy họ Kornai. Ông nội tôi, Kornhauser Károly là thợ nguội cả. Ông sống ở vùng cao

    Trencsén khi đó vẫn thuộc về Hungary. Cha tôi tự hào là cầu Trencsén đã được làm trong xưởng của ông nội. Muộn hơn, khi tôi đã lớn, nếu bàn đến điều này thì nhiều người ngạc nhiên rằng một người Do Thái lại theo nghề thợ nguội trong một thành phố vùng cao thế kỉ XIX, thay cho việc có một quán rượu hay một cửa hàng. Cha tôi vẫn còn nhỏ, khi ông bà nội mất. Bác tôi đã giúp cha tôi học tiếp, nhưng về cơ bản ông tự lực để vào được trường trung học piarist [trường dòng], đại học luật, rồi làm nghề luật sư. Chắc chắn tấm gương của người cha cũng đã cổ vũ, khi bản thân tôi cũng đi con đường “tự lực”. Như nhiều người ở Vùng Cao, bố tôi cũng nói thông thạo ba thứ tiếng như tiếng mẹ đẻ, tiếng Hung, tiếng Đức và tiếng Slovak. Hẳn ông đã phải rất có tài và chăm chỉ, vì ông đã có sự nghiệp đáng nể từ lúc rất trẻ. Hiểu biết tiếng Đức và sự quan tâm đã hướng ông đến công việc pháp lí của các hãng Đức hoạt động tại Hungary. Ông nhận được ngày càng nhiều uỷ nhiệm từ các hãng này, rồi sau đó ông trở thành cố vấn pháp lí của đại sứ quán Đức tại Budapest. Đây thực ra là một chức danh vinh dự, bởi vì ông không là nhân viên của nhà nước Đức. Chức danh cố vấn pháp lí có nghĩa rằng, nếu cần đến luật sư cho việc kí kết hợp đồng liên quan đến công việc

  • 26

    tại Hungary hay cho vụ kiện dân sự trước toà án Hungary, thì sứ quán giới thiệu cha tôi. Bố tôi không bao giờ nhận việc khác, không nhận vụ án li dị, cũng chẳng nhận vụ hình sự, cũng không đại diện cho hãng Hungary. Ông chuyên môn hoá mình nghiêm ngặt cho vụ việc kinh tế ở Hungary của các hãng Đức.

    Nhà ở và văn phòng luật sư ở đường Akadémia, chính trong toà nhà, nơi bây giờ Văn phòng Thủ tướng hoạt động. Mới đây tôi có ghé qua đó. Bước vào phòng làm việc một thời của cha mình gây trong tôi một cảm giác đặc biệt, bây giờ một nhà kinh tế học bạn tôi làm việc ở đó. Văn phòng của bố tôi đầy sách luật Hungary và Đức. Cả ông lẫn mẹ tôi không ai sưu tầm các sách khác. Các sách văn học đầu tiên do chị tôi, sau đó do tôi mang về. Tôi không thể tường thuật cái mà nhiều người thuộc gia đình trí thức có thể nói về mình rằng, ngay từ không khí gia đình đã hít thở tình yêu và sự coi trọng văn học.

    Từ các câu chuyện của mẹ và chị tôi, tôi biết là thời trẻ cha tôi đọc nhiều, hay đi xem opera, và đặc biệt thích Wagner. Đến khi tôi vào tuổi thiếu niên, và tôi đã có thể tự để ý thấy, thì tuyệt nhiên không còn dấu tích nào của ham thích này. Sự chú ý trí tuệ của cha tôi tập trung vào chuyên môn.

    Hãy quay lại sứ quán Đức. Sau cái chết của cha tôi hàng chục năm mẹ tôi có nhắc đến rằng, cha tôi thế chỗ của một luật sư có tên là dr. Káldor Miklós, khi sứ quán phong làm cố vấn pháp lí. Cái tên nghe quen quen. Tôi đã thành công lần ra rằng, Káldor Miklós, nhà kinh tế học lớn, cố vấn của bộ trưởng bộ tài chính Anh, sau gọi là Lord Kaldor, là con trai của ông luật sư Hungary ấy. Một lần chúng tôi nói chuyện với nhau tại căn hộ của Káldor ở Cambridge, và nói đến các ông bố của chúng tôi. Khi đó Káldor đã có tuổi nhưng cơn giận và sự ghen tức gia đình một thời lại nổ ra. Hình như, trước đó nửa thế kỉ ở nhà người ta đã nhiều lần chửi cậu thanh niên Kornhauser, người đã thế chỗ của đồng nghiệp Káldor già.

    Khi anh cả tôi, Bandi, và chị Lilly tôi còn nhỏ, bố tôi quan tâm nhiều đến họ. Lilly nhiều lần nhớ lại những kỉ niệm đẹp một cách cảm động, nhớ lại các cuộc đi chơi với bố, các trò chơi chung, các cuộc trò chuyện. Cho đến đợt trẻ con thứ hai, khi anh Tomi và tôi sinh ra, bố tôi không còn nghị lực, cũng chẳng còn kiên nhẫn để quan tâm đến chúng tôi. Trong tôi không có kỉ niệm về một giờ phút đầm ấm chung, về một cuộc nói chuyện lí thú nào cả. Sự quan sát sẽ nhiều lần trở lại trong hồi kí này là, tôi đã không có các ông thầy. Tôi phải bắt đầu số phận ở đây. Như tất cả trẻ con và thanh niên, tôi cũng coi cha mình là tấm gương về nhiều mặt, và ngày nay tôi cũng coi như vậy. Nhưng trong đời sống trí tuệ của mình tôi đã không có thầy hay sư phụ. Ông là một người thông minh và có hiểu biết rộng, nhưng bằng lời ông đã chẳng chuyển cho tôi tí gì về các quan điểm, những hiểu biết và kinh nghiệm của ông.

  • 27

    Khi tôi sinh ra ngày 21-1-1928, cha tôi đã 47 tuổi. Chắc chắn tuổi cao cũng đã góp phần vào việc ông ít quan tâm đến anh Tomi và tôi. Nhưng hoàn cảnh quan trọng nhất, cái đã làm thay đổi thái độ của ông, là sự rẽ ngoặt xảy ra về tình hình chuyên môn-sinh hoạt xã hội của ông. Tôi vẫn chưa được năm tuổi, khi Hitler lên nắm quyền. Như trong nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống, trong hệ thống quan hệ địa phương của các sứ quán nước ngoài cũng không xảy ra “Gleichschaltung”, sự chuyển toàn bộ sang chế độ Hitler trong một sớm một chiều. Trải qua nhiều năm, thì quyền lực nazi mới ngự trị trong mọi tế bào của hệ thống toàn trị. Tôi không biết, thời điểm nào là lúc từ đó cha tôi không còn được dùng hàm “cố vấn pháp lí của sứ quán Đức” nữa. Mất chức danh này đầu tiên chỉ có nghĩa là, sứ quán không còn đề nghị cho các hãng Đức nữa, tuy một thời gian các hãng đó không bắt buộc phải cắt đứt quan hệ với ông. Tuy vậy, các khách hàng bỏ đi dần dần. Đúng, vẫn có doanh nhân Đức trung thành với cha tôi cho đến khi ông mất.

    Các khách hàng thưa dần, và thu nhập giảm theo. Bố chẳng bao giờ bàn về chuyện vật chất với chúng tôi, về sau, tuy vậy, tôi có thể khẳng định rằng, ông ngày càng dùng đến của cải tích tụ được trước đó, chứ không phải thu nhập thường xuyên để duy trì gia đình. Chúng tôi, những đứa trẻ hơn, không cảm thấy các nỗi lo mấy. Chúng tôi sống giàu sang, trong căn hộ rộng và đắt tiền ở nội thành, từ đó mỗi mùa hè chúng tôi chuyển sang villa đẹp của chúng tôi ở đồi Hoa Hồng. Khi chúng tôi còn nhỏ, có bảo mẫu người Đức bên chúng tôi, nhiều người giúp việc và người làm vườn phục vụ gia đình. Bố tôi đã đổi lại một phần bảo hiểm lớn tiền, đã bán các đồ trang sức và các đồ mĩ nghệ của gia đình, để bù vào sự sụt giảm thu nhập từ văn phòng luật sư.*

    * Mới đây tôi tìm thấy ghi chép của bố tôi, trong đó ông nêu chi tiết các khoản bảo hiểm nhân thọ của mình. Ông cảm thấy đặc biệt quan trọng để lo cho mẹ tôi. Bất luận ông đã cố thận trọng đến mức nào, tất cả các thương vụ của ông đều thất bại. Các khoản bảo hiểm mua trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất chẳng còn gì do lạm phát kinh khủng. Rút ra bài học này, đầu các năm 1930 ông đã mua bảo hiểm mới có giá trị lớn gắn với “giá trị đôla vàng” theo năm lịch xác định nhằm giữ giá trị tại một hãng bảo hiểm Đức loại lớn nhất thế giới. Ông cảm thấy bây giờ mình đã kí hợp đồng bảo hiểm an toàn một trăm phần trăm. Làm sao ông có thể nhìn thấy trước được rằng, trong các năm 1940 hệ thống cộng sản sẽ quốc hữu hoá công ti con ở Hungary của hãng bảo hiểm Berlin, và nhạo báng nguyên lí giữ giá trị, sẽ trả một khoản trợ cấp nhỏ nực cười cho mẹ tôi với giá “một đôla vàng bằng một đồng forint”. Thật cảm động và xót xa đọc thấy sự chăm lo yêu thương, cẩn trọng của cha tôi mà lịch sử đã chà xéo lên.

    Bố tôi đã chỉ dẫn rất chi tiết cho những người thừa kế: sẽ phải tiến hành ra sao trong việc bảo hiểm. Tôi nhận ra chính mình: tôi cũng thường lải nhải các chỉ dẫn như vậy cho các cộng sự hay người thân thích của mình. Một phần những người liên quan chấp nhận với lời cảm ơn, những người khác thì mỉm cười, nhưng có người khước từ một cách bực tức. Từ đâu tôi lại giống bố tôi về khía cạnh này? Có lẽ tôi đã nhìn thấy những biểu hiện

  • 28

    Cảm nhận bị đẩy ra ngoài ngành đã có thể là thử thách nghiêm trọng đối với ông, khi đó ông vẫn tràn đầy năng lực trí tuệ và hiểu biết chuyên môn, và nghề luật sư là rất quan trọng dưới con mắt ông. Xu thế lịch sử tai hại có thể đã gây cho ông những lo nghĩ trầm trọng hơn thế nhiều và làm ông lo lắng, cùng các thứ khác xu thế đó cũng gây ra thay đổi tình hình nghề nghiệp và vật chất của ông. Sự thống trị của Hitler ngày càng lộ bộ mặt tàn nhẫn của nó, đã có tin về xua đuổi người Do Thái, đã xảy ra Anschluss, tức là sự thôn tính nước Áo (một người anh cha tôi sống ở Wien), họ xâm chiếm Czech và Hungary, ở Hungary họ đã đưa ra các luật Do Thái đầu tiên, và chiến tranh đã bắt đầu.

    Một nguyên tắc nghiêm ngặt của cha tôi là, không muốn tham gia tích cực vào bất cứ đảng hay phong trào chính trị nào. Ông đã có những kỉ niệm xấu về thời công xã 1919. Tuy nhiên suy nghĩ của ông là xa cái thời đó người ta gọi là bảo thủ. Tôi không nghe thấy từ ông nhận xét theo hướng chống những người cánh tả. Ông là người đăng kí mua báo buổi sáng, tờ Újság, theo nguyên tắc tự do, và nếu mua báo khác thì đó cũng là ấn phẩm của báo chí tự do. Trong chừng mực, nói chung có thể rút ra kết luận từ những lời nói của ông, tôi nghĩ, ông là người có đầu óc tự do. Nhưng – trong khi ông muốn đứng xa chính trị- lịch sử đã tràn vào cuộc sống của ông và của gia đình lúc đầu chỉ với tiếng sấm xa xôi, rồi với sét đánh ngày càng gần.

    Ông đã chẳng bao giờ từ chối gốc Do Thái của mình, nhưng ông cũng không nhấn mạnh nó. Trong cuộc sống xã hội ông có nhiều bạn Do Thái, nhưng cũng có các bạn không Do Thái. Ông là người tin chúa, nhưng không theo đạo, ông không đi nhà thờ Do Thái, ông không tuân thủ các quy định thành văn của lễ nghi Do Thái giáo. Tuy nhiên ông luôn hiến các khoản từ thiện cho trại trẻ mồ côi của giáo xứ Do Thái. Có lẽ kí ức bị mồ côi của riêng ông khiến ông làm vậy. Ông xa lánh suy nghĩ cải sang đạo cơ đốc [thiên chúa], và như thế cản mất sự đồng hoá của ông.

    Ông tự hào đã lên đến cấp đại uý trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đã nhận được các phần thưởng cao quý. Ông không hề do dự nhận mình là người Hungary. Khi anh Bandi thực sự phục vụ một năm trong quân ngũ và cuối cùng phục viên với tư cách hạ sĩ, bố tôi đã đặt may quân phục cho ông và con trai. Có ảnh chụp về họ, trong đó người cha và đứa con trai mặc quân phục đại uý và hạ sĩ bó chẽn nhìn thẳng tự tin - một hai năm sau bọn quân cảnh Hungary đưa người cha lên tàu chạy về Auschwitz và người con trai mặc thường phục, làm lao dịch dưới sự chỉ huy của quân đội Hungary, chịu giá rét và bệnh tật và chết ở khúc quanh sông Đông.

    như vậy (tôi không nhớ đến chúng), và tôi theo hình mẫu đó? Hay phải chăng cách ứng xử này cũng có sẵn ngay trong chương trình gen di truyền?

  • 29

    Gia đình

    Bố tôi - cả trong thời gian thu nhập teo lại - vẫn luôn hào phóng với chúng tôi. Ở tuổi thiếu niên khi chụp ảnh trở thành niềm say mê của tôi, lập tức ông đã mua cho tôi máy ảnh tốt nhất thời đó, và khi cần đến thiết bị để tráng và phóng ảnh, nguyện vọng này của tôi cũng tức khắc thành sự thật. Khi sưu tầm sách trở thành đam mê của tôi, ông lại giúp bằng tiền. Nhưng trung tâm, nguồn ấm cúng của gia đình đã không phải là ông, mà là mẹ tôi, có tên thời con gái là Schatz Aranka, muộn hơn tất cả chúng tôi đều gọi bà là Munyó.

    Các cô bảo mẫu đáng yêu đã trông coi chúng tôi khi nhỏ. Tôi nhớ lại tất cả họ với nhiều yêu mến, tôi đã thực sự quý mến cô cuối cùng, cô Liesl mảnh dẻ, tuyệt vời. Ngay cả nếu công việc hàng ngày là của cô giúp việc, mẹ tôi tìm ra hàng trăm dịp để bày tỏ sự yêu mến dịu dàng của bà. Bà không được học, không có học vấn, nhưng trí óc tự nhiên của bà sắc sảo. Sắc đẹp tinh tế và thú vị của bà đi cùng với sự thanh lịch tự nhiên, vốn có của bà. Có lẽ Freud là người đã xác định rằng: sự tự tin và hoài bão của người lớn phụ thuộc phần nhiều vào việc khi trẻ nhận được bao nhiêu yêu thương từ mẹ đẻ ở đoạn đầu cuộc sống. Giữa các chuyện mà Munyó vui vẻ kể đi kể lại có chuyện rằng, trong bốn đứa con bà đau đớn nhất với tôi khi mang thai. Khi liên tục cảm thấy khó chịu, bác sĩ của bà làm yên lòng bằng cách nói: “Bà sẽ thấy trong đứa trẻ này nhiều niềm vui nhất”. Câu này ngay từ thời tôi còn nhỏ bà đã nói đi nói lại cho tôi nhiều lần. Bà không chối rằng, trong bốn đứa trẻ tôi là con cưng của bà. Bà nhiệt thành mừng vui với mọi thành công nhỏ của tôi, bà khen và động viên. Tôi không hề nhớ một lần duy nhất nào, khi bà chửi. Bà không bao giờ kiểm tra việc học hành của tôi. Khi còn nhỏ nếu tôi phàn nàn về thất bại hay khó khăn về học tập, bà không cho lời khuyên, mà chỉ động viên: “Rồi con sẽ giải quyết. Mẹ không sợ, rồi con sẽ làm xong”. Tôi không thể tưởng tượng ra sự khích lệ mạnh hơn loại lời khen này và lòng tin vô điều kiện của mẹ.

    Trong gia đình chúng tôi hoàn toàn không biết đến trừng phạt thân thể. Một lần anh trẻ của tôi như một thanh niên hừng hực đã bắt đầu vật nhau với một thiếu nữ làm nội trợ trong nhà. Đây không phải- dùng từ ngữ ngày nay- là quấy rối tình dục, nhưng đã vượt quá giới hạn, mà cha mẹ tôi cho là có thể chấp nhận được. Buổi tối bố tôi vào phòng của chúng tôi và đạp mạnh - ồ không phải vào anh Tomi của tôi – mà vào sườn giường. Bằng cách này và vài lời quở trách ông thể hiện sự tức giận của mình. Đây là “sự trừng phạt” lớn nhất suốt thời trẻ con của tôi. Cho đến 1944 tôi chưa tận mắt bắt gặp sự tàn nhẫn của con người, tôi đã không trải nghiệm và cũng không thấy bằng con mắt của chính mình sự đau đớn thân thể do cố ý gây ra, tôi đã không nghe thấy sự la ó tức giận, “sự nhạo báng”. Sự ghê tởm lời

  • 30

    to tiếng, lời la ó, và còn hơn nữa sự làm nhục thân thể những người khác, việc đánh người, sự ghê tởm việc hành hạ người đã hằn sâu trong tôi.

    Cuộc sống của anh cả tôi, anh Bandi sinh 1914, đã bắt đầu vui vẻ và hứa hẹn. Khi gần học xong đại học, một bạn anh chuẩn bị di cư sang Anh. Anh cũng muốn đi cùng bạn, nhưng cha tôi không đồng ý. Tôi không biết chính xác lí lẽ của cha mình, nhưng muộn hơn, tôi biết từ lời của chị tôi, bố tôi viện vào chúng tôi là người Hungary, chỗ chúng tôi là ở đây. Và ông cũng viện dẫn rằng, anh cả phải ở với gia đình. Anh tôi không có tính nổi loạn, và chấp nhận sự cấm đoán của cha. Như tôi đã nhắc đến, anh chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi của mình trên mặt trận Nga. Vì chênh lệch tuổi tác lớn tôi có ít quan hệ với anh, nhưng với niềm thương yêu và với trái tim đau nhói vì cái chết sớm của anh tôi nhớ lại cá tính đáng mến và hài hước của anh.

    Trong các anh chị em tôi sợi dây tình cảm và trí tuệ gắn tôi nhiều nhất với chị Lilly hơn tôi chín tuổi, sinh năm 1919. Chúng tôi đã cùng đọc thơ, chị đưa cho tôi các tiểu thuyết của Karinthy, chị chơi lần đầu cho tôi nghe Debussy và Schumann trên dương cầm. Chắc hẳn chị đã đổ lòng tự tin vào tôi, vào một thiếu niên lóng ngóng, gầy còm, rụt rè, rằng được bà chị xinh đẹp và thông minh của mình “coi trọng”, được chị nói chuyện về các vấn đề lớn của cuộc đời, được chị đưa vào hội bạn bè.

    Quan hệ của tôi với anh trẻ, anh Tomi, khác xa đến thế nào! Anh sinh năm 1925, chỉ hơn tôi ba tuổi, chúng tôi cùng học một trường khá lâu, chúng tôi có chung cô gia sư. Chúng tôi chơi với nhau nhiều, và – như thường thấy giữa các anh em trai - một cách thân thiện hay ít thân thiện đôi khi chúng tôi cũng đánh nhau nữa. Nhưng ngay khi con gái bắt đầu quan tâm đến anh Tomi, anh hoàn toàn xa rời tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ cùng đi với hội bạn bè, chúng tôi không có bạn chung, cũng không xảy ra một cuộc nói chuyện có ý nghĩa nào giữa chúng tôi. Việc này thực ra vẫn thế trong cuộc sống người lớn của chúng tôi nữa. Tình chị em thân thiết, gần gũi kết nối chúng tôi cho đến ngày chị Lilly mất. Mối quan hệ ấy không chỉ dựa trên tình cảm mà cả trên các giá trị trí thức chung nữa. Tôi đã có thể dễ dàng trao đổi ý kiến chính trị sinh động và nói về các xúc cảm văn học chung của chúng tôi với chị ngay cả khi chị nằm bệt giường suốt nhiều năm.* Ngược lại, các cuộc gặp gỡ với anh Tomi luôn luôn chỉ hời hợt, ở

    * Lilly, tên khi lấy chồng là bà Gárdonyi Andor, làm trong lĩnh vực kế toán doanh nghiệp, chị về hưu với tư cách kiểm soát viên chính. Chị sống theo các nguyên tắc nghiêm ngặt như một người có phong thái vững vàng. Chị ít nói về mình, nhưng luôn luôn cởi mở trước những lo âu của người khác. Thật cảm động để thấy mối quan hệ thân thiết, chân thật mà bà chị già nằm nhiều năm trên giường đã tạo ra với con gái Judit của chúng tôi và các cháu Thuỵ Điển, Zsófia và Anna, của chúng tôi, bọn chúng thực sự say mê bà. Lilly mất năm 2002.

    Anh Tomi tôi, Kornai Tamás, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mĩ thuật Công nghiệp, và định làm hoạ sĩ đồ hoạ. Nhưng vào năm 1945 khi anh trở về từ trại tập trung lao động, anh

  • 31

    mức các cuộc tán gẫu “vui”. Trong việc này tôi thấy bằng chứng rằng, tính di truyền chung được cấy vào các tế bào não của chúng ta và môi trường gia đình và trường học rất giống nhau, gần như nhau là không đủ để hai anh em ruột gắn bó lại với nhau. Cái cá nhân trong tôi và trong anh Tomi, và cái mà chúng tôi khác biệt nhau, đã tác động mạnh cụ thể không chỉ đến mối quan hệ của hai chúng tôi, mà cả đến diễn biến rất khác nhau của tính cách và số phận của hai chúng tôi nữa.

    Trong gia đình Kornhauser hai bố mẹ và bốn đứa con thực sự thương yêu lẫn nhau- nhưng, về khía cạnh các hoạt động hàng ngày và các cuộc gặp gỡ, chúng tôi đã không sống cuộc sống gia đình quen thuộc. Bố mẹ tôi gắn bó với nhau vô cùng chặt chẽ, nhưng trẻ con thì sống cuộc sống của riêng mình, độc lập với bố mẹ và với nhau.

    Khi văn phòng được chuyển về nhà ở, không phải một lần vào buổi chiều mẹ tôi ăn mặc thường phục, và ngồi vào phòng đợi giữa các khách hàng. Như thế bà muốn báo hiệu: đã đến lúc chấm dứt ngày làm việc kéo dài. Bố tôi buộc phải bỏ công việc lại, và đi cùng mẹ tôi. Hầu như mọi buổi tối ông bà đi ăn hiệu, không có chúng tôi. Ăn chung cả nhà hầu như không được biết đến ở gia đình chúng tôi. Mỗi người ăn trưa và ăn tối riêng; khi đói và khi có thời gian. Gia đình hiếm khi tụ tập ăn chung, nếu có, thường là ở ngoài trời vào mùa hè, tại nhà nghỉ mát của chúng tôi.

    Quay lại với tôi, bố mẹ và anh chị tôi không can thiệp vào việc tôi chia thời gian ra sao, tôi học lúc nào và bao nhiêu, tôi giải trí với cái gì và với ai, tôi đọc gì, tôi đi xem các vở nào. Năm thì mười hoạ – đặc biệt vào mùa hè – chúng tôi cùng đi xem biểu diễn ngoài trời, hay cùng nhau xem pháo hoa ngày 20 tháng Tám từ bãi cỏ trên đồi Hoa hồng. Tuy vậy những trải nghiệm chung này đúng ra có thể coi là ngoại lệ.

    Tôi tự quyết định rằng, khi tôi khoảng mười ba-mười bốn tuổi, từ nay tôi sẽ đi nghe hoà nhạc đều đặn. Muộn hơn tôi đề xuất học chơi dương cầm. Bố tôi giúp kiếm thầy dạy dương cầm. Cũng chẳng phải bất cứ thầy nào, mà là nhạc trưởng Sándor Frigyes, khi đó đang không có việc làm, sau là nhà dạy nhạc lớn và người sáng lập dàn nhạc, ông đã dạy cho đến khi cuộc xâm chiếm của Đức chấm dứt chuyện li kì này. Tự tôi quyết định vào giữa các năm học cấp ba rằng, tôi muốn học tiếng Anh ở ngoài trường. Trong mọi trường hợp bố mẹ tôi chu cấp kinh phí, nhưng, cái tôi đã làm, tôi không làm theo đề xuất hay lời khuyên của họ, mà làm theo dự định của riêng tôi, từ quyết định của riêng tôi.

    mau chóng chuyển nghề và từ đó đến cuối đời anh làm trong nghề quảng cáo. Anh đã là một trong những lãnh đạo của hãng quảng cáo nhà nước, rồi làm ở ngân hàng OTP. Anh tự hào rằng, theo sáng kiến của anh người ta tạo ra các quảng cáo đầu tiên đã trở thành ngạn ngữ cho xổ số [lottó] và xổ số cá bóng đá [totó]ở Hungary. Tomi mất năm 1996.

  • 32

    Không dễ đánh giá và định giá tác động của kiểu nuôi dạy này. Một mặt, cảm giác cô đơn hay bị bỏ cô đơn hình thành trong tôi. Nhưng, mặt khác, một lần cho mãi mãi đã hằn sâu trong tôi ý thức, hay đúng hơn cảm giác rằng, tôi phải tổ chức cuộc sống của mình theo suy nghĩ của tôi một cách độc lập, trong cả việc lớn lẫn việc nhỏ. Không phải là tập cho quen thói ích kỉ, bởi vì mọi thành viên gia đình chúng tôi đều cố gắng nhã nhặn với các thành viên khác, chúng tôi khoan dung, chứ không quấy rầy hay chọc tức nhau. Nơi có thể và cần, thì chúng tôi giúp đỡ nhau. Nhưng chúng tôi không tạo thành một “cộng đồng” gia đình nào đấy. Ngày nay tôi cho mình là người theo chủ nghĩa cá nhân có ý thức, tôi thừa nhận rằng, sự tôn trọng chủ quyền của con người là một trong những điều răn đạo đức quan trọng nhất. Tôi cũng tin rằng, đầu tiên và trên hết tôi chịu trách nhiệm về cuộc sống của riêng tôi, về các thành công và thất bại của tôi. Tôi cảm thấy là nghĩa vụ của mình rằng, tôi hãy giúp những người khác, nhưng tôi không là “sinh vật” cộng đồng, thậm chí tôi khiếp đảm nếu người ta định lùa vào bãi rào tập thể nào đó. Chắc chắn là cái ngày nay- sau nhiều khúc quanh và đường rẽ - tôi tuyên bố một cách có ý thức, và việc đọc các tác phẩm triết học và một kinh nghiệm sống dài cũng giúp để hiểu cái đó, đã được những kinh nghiệm của thời niên thiếu và của lối sống gia đình làm hằn sâu trong các tầng sâu hơn của tâm hồn tôi.

    Trường Đế chế Đức Tôi bắt đầu học ở Trường Đế chế Đức (Reichsdeutsche Schule). Nhờ bố

    mẹ tôi đều nói thành thạo tiếng Đức, và nhờ các cô giúp việc [Fräuleine] người Đức, tôi đã lớn lên với hai thứ tiếng. Trường dạy tất cả các môn bằng tiếng Đức, trừ các môn tiếng Hung, văn học Hung và lịch sử Hung, và việc này không gây cho tôi bất kì khó khăn nào.

    Tôi được nhận vào học năm 1933, trước hạn tuổi. Việc bắt đầu cuộc sống nhà trường Đức của tôi trùng với khởi đầu của sự thống trị nazi. Người ta thường hỏi tôi, làm sao lại có thể rằng, bố mẹ tôi là người Do Thái lại đi ghi danh tôi vào đây.

    Từ những điều được nói đến đây cũng rõ ràng là, cha tôi có quan hệ mật thiết với Đức. Ông được nuôi dưỡng phần lớn trong văn hoá Đức, bên cạnh luật Hung ông học luật Đức. Các khách hàng của ông là những người Đức, trong phần lớn công việc ông sử dụng tiếng Đức như ngôn ngữ làm việc.

    Đúng là đã có thể biết rằng Hitler và những người theo ông ta là những kẻ căm thù Do Thái, có mồm miệng đẫm máu. Tuy vậy, cha tôi, cũng như nhiều người ở Đức và khắp thế giới, chắc đã tin rằng, ách thống trị này sẽ chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Tinh thần Đức có nghĩa là đỉnh cao của nền văn minh làm sao có thể chịu được bầy lợn này? Ông đã không đoán trước

  • 33

    được rằng, khi nước Đức bước vào con đường này, vào con đường thù hận, thì ở cuối con đường rỗi sẽ là phòng hơi ngạt.

    Bố mẹ tôi đã ghi tên tôi vào Reichsdeutsche Schule để hiểu biết ngôn ngữ của tôi tiếp tục phát triển, ngoài ra bởi vì nó là trường có tiếng rất tốt. Không chỉ các nhà ngoại giao và các doanh nhân Đức sẵn sàng gửi con họ đến học, mà cả những người nước ngoài khác nữa. Giữa các bạn học của tôi bên cạnh học sinh Hung có cả học sinh Áo, Đức, Mĩ và Thổ Nhĩ Kì. Nhiều người nổi tiếng đã học ở trường chúng tôi: Gimes Miklós, nhà báo chính trị gia, liệt sĩ 1956, Darvas István, nghệ sĩ diễn viên, Székely Éva, nữ vô địch bơi Olympic, Karinthy Ference, nhà văn, Halász Előd, bác học giáo sư Đức học.

    Các thầy giáo có hiểu biết tuyệt vời, có kinh nghiệm và kiên nhẫn đã dạy chúng tôi. Trong tám năm mà tôi ở đó, trên giờ học tôi không hề nghe thấy một lời bài Do Thái nào dù chỉ một lần duy nhất. Tôi không nhớ lại lời tuyên bố nào ca ngợi Hitler và sự thống trị của ông ta cả. Khi dưới lệnh của Berlin chúng tôi phải rời trường, họ tế nhị giửi lời nhắn qua thầy dạy thần học người Do Thái đến bố mẹ tôi rằng, năm học tiếp vào mùa thu 1944 phải chuyển con sang trường khác. Ngay cả khia ấy họ cũng cho phép những học sinh lớp 12 chỉ còn một năm để hoàn tất việc học của mình với tư cách học sinh tự học, và có thể thi tốt nghiệp. Có lẽ là, các thầy giáo theo nguyên lí tự do nhất đã cố chuồn ra nước ngoài, thí dụ đến trường ở Hungary, trốn khỏi cuộc sống trong nước đang trở nên không thể chịu đựng được nữa. Trường chúng tôi đã là một ốc đảo thân thiện không chỉ trong biển cả của thế giới nazi Đức, mà cả trong đời sống nhà trường Hungary tạo thành môi trường trực tiếp nữa, nơi đã có thể cảm nhận thấy sự dịch chuyển theo hướng thân Hitler.

    Tôi nhớ lại các thầy của trường Đức với lòng biết ơn và kính trọng. Họ đã tập cho tôi quen học có cơ sở, suy nghĩ đúng đắn, và đã cung cấp cho tôi lượng hiểu biết lớn. Tất cả việc này ngày nay vẫn có lợi cho tôi. Nhưng tôi đã không gặp nhân cách giáo viên thật sự lớn. Đã không có thầy nào toả sáng, mà nhân cách và việc dạy tạo ra ấn tượng trí tuệ hay đạo đức thật sự đối với tôi.

    Quà tặng lớn của Trường Đế chế Đức là sự hình thành tình bạn suốt cả đời. Kende Péter là bạn cùng lớp với tôi từ lớp một, muộn hơn anh trở thành nhà báo, một trong những lãnh tụ tinh thần của đợt di cư 1956, một nhà bác học chính trị học. Chúng tôi đã cùng học với nhau qua tám lớp, muộn hơn các nơi làm việc chung của chúng tôi trong phong trào thanh niên, trong làng báo. Chúng tôi cùng tham gia nhiều loại đấu tranh. Ngay cả nếu sự di cư sang Paris của Péter có làm xa cách chúng tôi về mặt địa lí hơn ba thập kỉ, tình bạn vẫn còn đến tận ngày nay và còn mạnh lên. Ít người có thể khoe được như tôi: tình bạn kéo dài bảy mươi năm gắn kết tôi với người bạn thân nhất của tôi.

  • 34

    Tìm con đường tinh thần

    Tôi chuyển từ trường Đức tụ hợp các học sinh có xuất xứ dân tộc đa

    dạng và vì thế có tính thế giới nào đó, dạy chung nam và nữ học sinh như một ngoại lệ hiếm hoi khi đó, sang một môi trường mới, bảo thủ, là trường trung học nam Werbőczy ở đường Attila. Nền, hậu trường xã hội của đa số bạn cùng lớp và cùng trường của tôi là giới trung thượng lưu khu đô thị Krisztina và thành Vár. Khi đó chiến tranh đã nổ ra. Trong trường học trước, các thầy giáo đã tự kiềm chế không bày tỏ ý kiến về các vấn đề chính trị và chiến tranh. Ở trường này thầy chủ nhiệm của tôi lớn tiếng ca ngợi sự cầm quân của Đức, và trong thời gian cuộc chiến Stalingrad ông ta đã hết lần này đến lần khác dự đoán chiến thắng của quân Đức. Ông dạy ba môn chính: latin, văn học và lịch sử Hung. Ông tuyên bố trước nhiều bạn học của tôi, học sinh Do Thái không thể nhận được điểm xuất sắc từ cả ba môn của ông. Ông ta đã giữ lời. Hai chúng tôi là học sinh Do Thái, thực ra cả hai đều ở mức toàn điểm xuất sắc, nhưng thầy chủ nhiệm Hegedűs lúc ở môn này khi thì ở môn khác chỉ cho điểm “tốt”. Đấy là sự gặp gỡ cá nhân đầu tiên của tôi với sự phân biệt không che dấu.

    Sự phân biệt thứ hai không còn gắn với sự thiên vị của giáo viên, mà gắn với quy chế nhà nước có hiệu lực đối với mọi người. Một trong những dấu hiệu của sự tham gia chiến tranh là học sinh trung học tham gia bồi