ai được th y h i long hoa? · Đò chiều chuyến chót hỡi trần gian, kíp kíp mau...

2
Năm Kỷ Mão 1939, Đức Thy Huỳnh Giáo Chủ thuyết sm ging báo động thi kHNguơn thế gii lâm vào cnh nguy biến trin miên chết chóc kinh hoàng; ngày 21-9-1946, Ngài tuyên bố lập đảng chính trị {Dân Xã Đảng} và đồng thời thành lập lực lượng vũ trang quân đội chng giặc Tây Mgiành độc lập cho nước nhà, khuyên tín đồ và toàn dân Việt hãy giữ vn tân, quan trọng là ân đất nước đánh đuổi Tây Mra khi bcõi, bảo vThánh Địa Di Lạc an toàn chun bcho ngày đại Hi Long Hoa. Trong quyển Khuyên Người Đời Tu Nim viết năm 1939, Đức Thầy lưu lại bao lời tiên tri quý báu cho hậu thế như sau: Tiên tri Thế Chiến Hai: Mèo kêu bá tánh lao-xao, Đến chng rng rn máu đào chỉn ghê. Con nga lại đá con dê, Khp trong trn-hnhiu bgian-lao. Khkia cũng bị xáo-xào, Canh khuya Gà Gáy máu đào mới ngưng. Nói ra nước mt rưng-rưng, Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung. Việc đời nói chẳng có cùng, Đến sau mi biết Đây dùng kế hay. Bây giờ mc việc tà-tây, Nên mới làm vầy cho khi ngi-nghi. Thiên cơ số mng biết tri, Mà sao chẳng chu chạy đi cho rồi? Đức Thầy tiên tri sau Thế Chiến Hai, nước Việt còn phải tri qua cuc kháng chiến chng giặc Tây Mỹ vô cùng khốc lit: Lời lành khuyên hãy gắn-ghi. Dương-trn phải rán tu-trì sớm khuya. Đừng ham làm chức nc-nia, Ngày sau như khoá không chìa dân ôi! Tu hành như thể thtrôi, Nay lmai bi chẳng có thiềng tâm. Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê. Hùm beo tây tượng bn b, Lại thêm ác thú mãng-xà, rít to. -gia ai biết thì lo, Gác tai gièm siểm đôi co ích gì! Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, (1) Sưu cao thuế nng vậy thì thiết-tha. Dân nay như thể không cha, Chng ai dy dthiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939 tại Hòa Hảo) (1) Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê K, bchánh quyền Bảo Đại thời Pháp kim duyt, bt buc phi sa lại là: Hết Đây rồi đến DK. Sau khi sa chTây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành DK, giáo hội mới được phép ấn hành để phbiến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngc. Sau cuộc kháng chiến chống Tây Mỹ, Đức Thy còn tiên tri toàn dân Việt đoàn kết chng giặc Tàu: MChâu ơi hỡi MChâu, Mê chi thằng Chệt để su cho cha! (Sm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chthuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây vSài Gòn tháng 6 năm Ất Du 1945) Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất Dậu 1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thy quyển thơ Lông Ngỗng Gieo Tình do ông viết ni tiếng thi by gi, ni dung klại câu chuyện tình duyên Trng Thy MChâu, Đức Thy ng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của ông thi sĩ Việt Châu, để gởi đi một Thông Điệp rt quan trọng cho các chính khách Vit Minh thế htương lai đừng vi vã tin vào lời đường mt ca Trung Quốc mà gây cảnh nước mất nhà tan. Bằng hai câu sấm thi ngn gọn, Ngài cảnh báo toàn dân Vit phi triệt để chống âm mưu giặc Tàu xâm lược! Ngài đã ra lịnh Phi triệt để tuân lịnh!” Sydney, 8-12-2017, KVân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/ Lun gii: Thế Chiến Hai bt đầu bùng ntnăm Mèo Kỷ Mão 1939, khói lửa chiến tranh khc lit trải qua các năm Thìn TNgMùi Thân và chấm dt vào năm Ất Du 1945 khi Mth2 qubom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki Hiroshima buc Nhựt đầu ng. Trc phát xít tàn rụi Thế Chiến Hai kết thúc. Lun gii: Cm tkhóa không chìa”, ám chỉ ai theo Tây Mbvào tù {tri ci to}, không biết ngày nào ra tù. * Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê K” ám chỉ khi Tây thua trận Điện Biên Phủ, thì Mỹ âm mưu đổ quân vào Việt Nam, bùng nổ cuc chiến tranh tàn khốc hơn. {The VN War}. * Cm tSưu cao thuế nng”, là ban ngày VNCH thâu thuế, ban đêm chiến binh du kích VC li thu thuế, dân chịu 2 ln thuế: gọi là “thuế nng”, mt cchịu 2 tròng. * Qua đoạn sm ngn gọn, Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri quân Mỹ thua trn chiến VN, và rút chạy; nhng ai theo Msphải vào tù {tri ci to}. Ngài khuyên con dân nước Vit phi giân đất nước. Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!” Tăng Sĩ quyết chùa am bế ca, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền xong nnước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô. Chng y mi tịnh vô nhứt vt, Bi hng trn rt sch cửa không. Chuông linh ngân tiếng đại đồng, Ta Bà thế gii sắc không một màu. (Đức Huỳnh Giáo Chủ ng khu thuyết trên đường khuyến nông tmin Tây trvSài Gòn năm 1945) Khi sơn hà nguy biến, Tăng sĩ cũng phải lên đường thi hành nghĩa vụ công dân như Đức Thy tng tri qua. Năm Đinh Hợi 1947, Đức Thầy vào Đốc Vàng ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến chng ngoại xâm: Tây Mỹ Tàu. Trong cõi vô vi, Đức Thy cm kthi họa bàn cBát Môn Môn Đồ Trận cho toàn dân Việt đánh thắng c3 cuc chiến chng gic ngoại xâm. Trước khi vng bóng ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến, Đức Thầy ân cn dặn dò bổn đạo bng nhng li lnghiêm minh trong lá thơ Đốc Vàng như sau: “…Hãy đóng quân y tại ch. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bu Vinh điều tra klưỡng ri vsau. Phi triệt để tuân lịnh! 16 4 -47 - 9gi15 đêm Ký tên - Sổ” Đức Thy dặn không được lùi bước trước kthù Tây Mỹ Tàu {Hãy đóng quân y tại ch}, và Ngài nghiêm túc ra lnh: Phi triệt để tuân lịnh!” Cm tSáng ngày” ám chỉ đầu thế k21, {khi Thy viết lá thơ ký thác này vào gia thế k20}; cm t“Bửu Vinh” ám chỉ lực lượng Vit Minh {lực lượng đoàn kết toàn dân Việt trên chiến tuyến chng 3 trn gic ngoại xâm}. Ai mun xứng đáng nhìn thấy Hi Long Hoa din kiến Đức Thy, phi thi hành trn vn tân, nhứt là ân đất nước chng 3 trn gic ngoại xâm. Tu nhứt kiếp, ngnht thời. Còn kịp, mau lên kẻo tr! Ai được thy Hi Long Hoa?

Upload: others

Post on 14-Sep-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Năm Kỷ Mão 1939, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ thuyết sấm giảng báo động thời kỳ Hạ Nguơn thế giới lâm vào cảnh nguy biến triền miên chết chóc kinh hoàng; ngày 21-9-1946, Ngài tuyên bố lập đảng chính trị {Dân Xã Đảng} và đồng thời thành lập lực lượng vũ trang quân đội chống giặc Tây Mỹ giành độc lập cho nước nhà, khuyên tín đồ và toàn dân Việt hãy giữ vẹn tứ ân, quan trọng là ân đất nước đánh đuổi Tây Mỹ ra khỏi bờ cõi, bảo vệ Thánh Địa Di Lạc an toàn chuẩn bị cho ngày đại Hội Long Hoa. Trong quyển Khuyên Người Đời Tu Niệm viết năm 1939, Đức Thầy lưu lại bao lời tiên tri quý báu cho hậu thế như sau:

Tiên tri Thế Chiến Hai: Mèo kêu bá tánh lao-xao,

Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê. Con ngựa lại đá con dê,

Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao. Khỉ kia cũng bị xáo-xào,

Canh khuya Gà Gáy máu đào mới ngưng. Nói ra nước mắt rưng-rưng,

Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung. Việc đời nói chẳng có cùng,

Đến sau mới biết Đây dùng kế hay. Bây giờ mắc việc tà-tây,

Nên mới làm vầy cho khỏi ngại-nghi. Thiên cơ số mạng biết tri,

Mà sao chẳng chịu chạy đi cho rồi?

Đức Thầy tiên tri sau Thế Chiến Hai, nước Việt còn phải trải qua cuộc kháng chiến chống giặc Tây Mỹ vô cùng khốc liệt:

Lời lành khuyên hãy gắn-ghi. Dương-trần phải rán tu-trì sớm khuya.

Đừng ham làm chức nắc-nia, Ngày sau như khoá không chìa dân ôi!

Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.

Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng-xà, rít to.

Bá-gia ai biết thì lo, Gác tai gièm siểm đôi co ích gì!

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, (1)

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết-tha. Dân nay như thể không cha,

Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939 tại Hòa Hảo)

(1) Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Sau cuộc kháng chiến chống Tây Mỹ, Đức Thầy còn tiên tri toàn dân Việt đoàn kết chống giặc Tàu:

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!

(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)

Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất Dậu 1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thầy quyển thơ Lông Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của ông thi sĩ Việt Châu, để gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng cho các chính khách Việt Minh thế hệ tương lai đừng vội vã tin vào lời đường mật của Trung Quốc mà gây cảnh nước mất nhà tan. Bằng hai câu sấm thi ngắn gọn, Ngài cảnh báo toàn dân Việt phải triệt để chống âm mưu giặc Tàu xâm lược! Ngài đã ra lịnh “Phải triệt để tuân lịnh!”

Sydney, 8-12-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Luận giải: Thế Chiến Hai bắt đầu bùng nổ từ năm Mèo Kỷ Mão 1939, khói lửa chiến tranh khốc liệt trải qua các năm Thìn Tị Ngọ Mùi Thân và chấm dứt vào năm Ất Dậu 1945 khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki và Hiroshima buộc Nhựt đầu hàng. Trục phát xít tàn rụi Thế Chiến Hai kết thúc.

Luận giải: Cụm từ “khóa không chìa”, ám chỉ ai theo Tây Mỹ bị vào tù {trại cải tạo}, không biết ngày nào ra tù. * Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ” ám chỉ khi Tây thua trận Điện Biên Phủ, thì Mỹ âm mưu đổ quân vào Việt Nam, bùng nổ cuộc chiến tranh tàn khốc hơn. {The VN War}. * Cụm từ “Sưu cao thuế nặng”, là ban ngày VNCH thâu thuế, ban đêm chiến binh du kích VC lại thu thuế, dân chịu 2 lần thuế: gọi là “thuế nặng”, một cổ chịu 2 tròng. * Qua đoạn sấm ngắn gọn, Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri quân Mỹ thua trận chiến VN, và rút chạy; những ai theo Mỹ sẽ phải vào tù {trại cải tạo}. Ngài khuyên con dân nước Việt phải giữ ân đất nước. “Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!”

Tăng Sĩ quyết chùa am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha. Đền xong nợ nước thù nhà, Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô. Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật, Bụi hồng trần rứt sạch cửa không. Chuông linh ngân tiếng đại đồng, Ta Bà thế giới sắc không một màu. (Đức Huỳnh Giáo Chủ ứng khẩu thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây trở về Sài Gòn năm 1945)

Khi sơn hà nguy biến, Tăng sĩ cũng phải lên đường thi hành nghĩa vụ công dân như Đức Thầy từng trải qua. Năm Đinh Hợi 1947, Đức Thầy vào Đốc Vàng ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến chống ngoại xâm: Tây Mỹ Tàu. Trong cõi vô vi, Đức Thầy cầm kỳ thi họa bàn cờ Bát Môn Môn Đồ Trận cho toàn dân Việt đánh thắng cả 3 cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Trước khi vắng bóng ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến, Đức Thầy ân cần dặn dò bổn đạo bằng những lời lẽ nghiêm minh trong lá thơ Đốc Vàng như sau: “…Hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau. Phải triệt để tuân lịnh! 16 – 4 -47 - 9giờ 15 đêm Ký tên - Sổ”

Đức Thầy dặn không được lùi bước trước kẻ thù Tây Mỹ Tàu {Hãy đóng quân y tại chỗ}, và Ngài nghiêm túc ra lệnh: “Phải triệt để tuân lịnh!” Cụm từ “Sáng ngày” ám chỉ đầu thế kỷ 21, {khi Thầy viết lá thơ ký thác này vào giữa thế kỷ 20}; cụm từ “Bửu Vinh” ám chỉ lực lượng Việt Minh {lực lượng đoàn kết toàn dân Việt trên chiến tuyến chống 3 trận giặc ngoại xâm}. Ai muốn xứng đáng nhìn thấy Hội Long Hoa và diện kiến Đức Thầy, phải thi hành trọn vẹn tứ ân, nhứt là ân đất nước chống 3 trận giặc ngoại xâm. Tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời. Còn kịp, mau lên kẻo trễ!

Ai được thấy Hội Long Hoa?

Đò chiều chuyến chót hỡi trần gian, Kíp kíp mau chơn đến Phật đàng. Thân này ví gặp nhiều cay đắng, Kịp chuyến Đò chiều rán bước sang. Bước sang bờ giác khỏi sông mê, Lạc nẻo trần gian nhớ trở về. Chư Phật Tây phương đang chờ đợi, Tầm đường đạo hạnh thoát trần mê. Trần mê danh lợi thấy ê chề, Ngắm cảnh tương tàn dạ tái tê. Tham mồi cá mắc câu khó gỡ, Xả phú cầu bần mới thoát mê! Năm Canh Dần 2010, tôi được cơ duyên diện kiến Ông Cậu Chín Hồng pháp danh Thiện Đạo Nhân ở núi Cấm, và được Ngài trao cho 2 quyển sấm giảng do Ngài thuyết từ thập niên 60-70 như quyển: Mê Ngộ, Bạch Tự Tâm Kinh {tôi đã trích giải nội dung thiên cơ trên mạng}. Ngài còn một quyển nữa, đó là quyển Càn Khôn Dĩ Định, quyển thứ 3 này sau khi Ngài tịch, đệ tử Diệu Năm tìm thấy trong hộc tủ của Ngài còn nguyên trạng thủ bút do Ngài viết từ năm 1967 dày 123 trang, kể cả hình bìa trước và bìa sau cũng do chính nét bút của Ngài lưu lại. Sau khi đọc xong nội dung quyển Càn Khôn Dĩ Định, tôi quyết định không đánh máy lại, mà đem phôtô nguyên trạng thủ bút do chính tay Ngài viết. Mục đích phôtô nguyên trạng thủ bút của Tiền Bối để hậu thế thấy rằng chư vị Bồ Tát giáng trần viết sấm giảng một mạch không bôi xóa, dù đó là văn xuôi hay văn vần. Và dù chư vị ứng khẩu thuyết hay viết đều tuôn ra văn thơ như suối nguồn mạch lạc vô cùng vi diệu. Nam Mô A Di Đà Phật.

Sydney, 4-12-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Càn Khôn Dĩ Định

Chân dung Ngài Thiện Đạo Nhân Trích thủ bút trang 6 Càn Khôn Dĩ Định