5 kiÓu bé nhí trong dosdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · web viewkhi...

169
Quản lý bộ nhớ trong DOS Bộ nhớ của DOS trở nên quá chật chội với bạn? Làm thế nào để các ứng dụng và trình thường trú có nhiều hơn 640 KB?á Bộ nhớ máy tính giống như tiền bạc - bạn chỉ nghĩ về nó khi cảm thấy thiếu thốn. Đáng tiếc là DOS dường như được thiết kế để tạo ra sự thiếu bộ nhớ. Chỉ có 640 KB được dành cho các ứng dụng, chương trình thường trú, bộ điều khiển thiết bị và chính bản thân DOS. Trong thực tế thường gặp các chương trình lớn ngốn tốn bộ nhớ, khi chạy nó bạn không thể nạp thêm được các trình khác như nhật ký và lịch bàn, trong trường hợp này 1 MB vẫn có thể không đủ. Cũng có thể có nhu cầu chạy 2 chương trình thường trú một lúc để có thể cắt dữ liệu từ một bảng tính và dán vào văn bản khác. Nếu 2 chương trình này quá lớn, không thể đạt được mục đích đó. Những version trước đây của DOS không giải quyết được vấn đề. Chỉ đến DOS 4.01 hãng Microsoft mới tỉnh ngộ và bắt đầu đưa vào các công cụ đặt cấu hình và truy nhập vùng nhớ bổ sung. Trong DOS 5.0 bạn có thể truy nhập vùng nhớ mở rộng (extended memory) theo đặc tả EMS. Bây giờ bạn có thể nạp được nhiều bộ điều khiển thiết bị (device driver), nhiều chương trình thường trú (terminate and stay resident program - TSR) và các đoạn của DOS vào vùng các khối nhớ cao (upper memory blocks - UMB). Toàn bộ vùng nhớ qui ước 640 KB được dành cho chính các chương trình của bạn. XMS và EMS cho phép bạn cài đặt 2 chiến lược lớn để địa chỉ hóa được bộ nhớ ở xa. Trước hết, bạn có thể truy nhập các địa chỉ RAM cao hơn hạn chế quy ước của DOS. Thứ hai là bạn có thể dùng các bộ đổi nhiệm (task swapper) và khả năng đa nhiệm để có thể mở vài chương trình cùng một lúc. Chiến lược thứ 3 cho phép nạp và đẩy ra chỉ các TSR mà bạn muốn. Để hiểu biết rõ thêm về cấu trúc bộ nhớ của máy vi tính, hãy đọc thêm bài của Brian Livingston "Năm kiểu bộ nhớ của DOS" đăng trong số này. Có lúc bạn chỉ theo một trong các chiến lược trên, khi khác có thể bạn cần đến các chương trình dùng tới 2 hoặc cả 3 cách tiếp cận. Quản lý bộ nhớ: cấu trúc lại bộ nhớ DOS Trước khi bỏ tiền ra mua các trình quản lý bộ nhớ (memory manager) bạn cần xem kỹ khả năng sẵn có của DOS có đáp ứng được nhu cầu của bạn hay không (xem thêm bài "Các chương trình quản lý bộ nhớ của MS-DOS 5" cũng đăng trong số này). Kể từ DOS 5 bạn có 2 trình quản lý bộ nhớ là HIMEM.SYS và EMM386.EXE. Một số chương trình lớn của các hãng nổi tiếng có thể tự truy nhập vùng bộ nhớ mở rộng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, nhiều hệ, kể cả DOS và Windows, được cài đặt để dùng bộ nhớ mở rộng thông qua đặc tả XMS. Đặc tả này là quy cách thống nhất và đơn giản dành cho các chương trình khác truy nhập bộ nhớ mở rộng mà tránh được các tranh chấp bộ nhớ không cần thiết. HIMEM.SYS đảm bảo truy nhập qua XMS đối với các hệ với hơn 1MB RAM.

Upload: hacong

Post on 10-Apr-2018

231 views

Category:

Documents


8 download

TRANSCRIPT

Page 1: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Quản lý bộ nhớ trong DOSBộ nhớ của DOS trở nên quá chật chội với bạn? Làm thế nào để các ứng dụng và trình thường trú có nhiều hơn 640 KB?áBộ nhớ máy tính giống như tiền bạc - bạn chỉ nghĩ về nó khi cảm thấy thiếu thốn. Đáng tiếc là DOS dường như được thiết kế để tạo ra sự thiếu bộ nhớ. Chỉ có 640 KB được dành cho các ứng dụng, chương trình thường trú, bộ điều khiển thiết bị và chính bản thân DOS. Trong thực tế thường gặp các chương trình lớn ngốn tốn bộ nhớ, khi chạy nó bạn không thể nạp thêm được các trình khác như nhật ký và lịch bàn, trong trường hợp này 1 MB vẫn có thể không đủ. Cũng có thể có nhu cầu chạy 2 chương trình thường trú một lúc để có thể cắt dữ liệu từ một bảng tính và dán vào văn bản khác. Nếu 2 chương trình này quá lớn, không thể đạt được mục đích đó. Những version trước đây của DOS không giải quyết được vấn đề. Chỉ đến DOS 4.01 hãng Microsoft mới tỉnh ngộ và bắt đầu đưa vào các công cụ đặt cấu hình và truy nhập vùng nhớ bổ sung. Trong DOS 5.0 bạn có thể truy nhập vùng nhớ mở rộng (extended memory) theo đặc tả EMS. Bây giờ bạn có thể nạp được nhiều bộ điều khiển thiết bị (device driver), nhiều chương trình thường trú (terminate and stay resident program - TSR) và các đoạn của DOS vào vùng các khối nhớ cao (upper memory blocks - UMB). Toàn bộ vùng nhớ qui ước 640 KB được dành cho chính các chương trình của bạn. XMS và EMS cho phép bạn cài đặt 2 chiến lược lớn để địa chỉ hóa được bộ nhớ ở xa. Trước hết, bạn có thể truy nhập các địa chỉ RAM cao hơn hạn chế quy ước của DOS. Thứ hai là bạn có thể dùng các bộ đổi nhiệm (task swapper) và khả năng đa nhiệm để có thể mở vài chương trình cùng một lúc. Chiến lược thứ 3 cho phép nạp và đẩy ra chỉ các TSR mà bạn muốn. Để hiểu biết rõ thêm về cấu trúc bộ nhớ của máy vi tính, hãy đọc thêm bài của Brian Livingston "Năm kiểu bộ nhớ của DOS" đăng trong số này. Có lúc bạn chỉ theo một trong các chiến lược trên, khi khác có thể bạn cần đến các chương trình dùng tới 2 hoặc cả 3 cách tiếp cận. Quản lý bộ nhớ: cấu trúc lại bộ nhớ DOSTrước khi bỏ tiền ra mua các trình quản lý bộ nhớ (memory manager) bạn cần xem kỹ khả năng sẵn có của DOS có đáp ứng được nhu cầu của bạn hay không (xem thêm bài "Các chương trình quản lý bộ nhớ của MS-DOS 5" cũng đăng trong số này). Kể từ DOS 5 bạn có 2 trình quản lý bộ nhớ là HIMEM.SYS và EMM386.EXE. Một số chương trình lớn của các hãng nổi tiếng có thể tự truy nhập vùng bộ nhớ mở rộng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, nhiều hệ, kể cả DOS và Windows, được cài đặt để dùng bộ nhớ mở rộng thông qua đặc tả XMS. Đặc tả này là quy cách thống nhất và đơn giản dành cho các chương trình khác truy nhập bộ nhớ mở rộng mà tránh được các tranh chấp bộ nhớ không cần thiết. HIMEM.SYS đảm bảo truy nhập qua XMS đối với các hệ với hơn 1MB RAM. HIMEM.SYS được cài vào tập tin CONFIG.SYS như một phần của các thông số khởi đặt khi bộ nhớ mở rộng được phát hiện. Trình này có thể quản lý bất cứ RAM nào với hơn 1 MB trở lên, kể cả vùng nhớ cao - 64 KB đầu tiên tiếp sau 1 MB đầu (hạt nhân của DOS 5 có thể được đưa vào vùng này). Bộ nhớ mở rộng cao hơn điểm này được cấp phát như XMS. Từ đó, một chương trình được thiết kế để truy cập đến XMS RAM khi bộ nhớ này tồn tại có thể tìm thấy nó. Như vậy, người lập trình có thể tạo ra các chương trình cần tới hơn 640 K của bộ nhớ quy ước (conventional memory). Chương trình EMM386.EXE làm việc hơi khác. Bạn có thể khởi đặt nó (set up) để dùng một phần hoặc tất cả bộ nhớ mở rộng nhằm phỏng bộ nhớ bành trướng (còn gọi là RAM theo quy cách EMS) đối với các chương trình sử dụng đặc tả này. Truy nhập có chậm hơn so với XMS nhưng người dùng có nhiều bộ nhớ hơn và có thể làm việc trên nhiều loại máy. Ngoài ra, EMM386.EXE có thể quản lý các khối UMB (các vùng bộ nhớ trước kia được dự trữ để dùng cho phần cứng hệ thống, chẳng hạn như video card), cho phép bạn nạp các driver và TSR vào vùng không sử dụng giữa 640 K và 1 MB và do đó tiết kiệm được lượng tương đương trong bộ nhớ quy ước.

Page 2: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bản thân tên của trình này cũng cho biết là EMM386.EXE chỉ làm việc trên các máy 386 và 486. HIMEM.SYS còn làm việc được trên máy 286 được ghép thêm bộ nhớ mở rộng. Những máy PC và PC/XT đầu tiên không thể truy nhập vùng nhớ cao hơn 640 KB nếu như bộ nhớ này không được đảm bảo bởi phần cứng EMS thích hợp. Nếu bạn chạy trong Windows, môi trường này tự động quản lý được bộ nhớ cao hơn 640 KB. Windows tự động thiết đặt HIMEM.SYS của riêng nó để quản lý bộ nhớ mở rộng và ngoài ra còn dùng thêm SmartDrive để lưu trữ tạm thời phần dữ liệu của đĩa cứng với mục đích tăng tốc độ truy nhập. Hơn thế nữa, Windows kết hợp các chức năng quản lý bộ nhớ này với khả năng hiển thị song song và đối với máy 386/486, khả năng đa nhiệm thực sự. Ví dụ, trong Windows có thể làm việc với bảng tính trong khi đó một trình liên lạc tập tin từ máy tính khác. Tất nhiên, Windows đòi hỏi đầu tư vào bộ nhớ và phần cứng nhiều hơn, chưa kể đến các chương trình tận dụng mọi tiện ích của môi trường này. Bạn cần ít nhất một máy 386 với 4 MB RAM và vùng đĩa khá lớn. Bạn nên có CPU chạy nhanh và card video nâng cao để đảm bảo được hiệu quả thích hợp, đặc biệt đối với các ứng dụng đồ họa. Nếu không quan tâm đến Windows, bạn có thể có các lựa chọn khác nhanh hơn. Ví dụ DESQview 386 của Quarterdeck cho phép quản lý bộ nhớ, tổ chức cửa sổ và thực hiện đa nhiệm đối với các hệ 386/486 (hoặc là tổ chức cửa sổ và đổi nhiệm đối với các máy XT và AT). Do DESQview là chương trình làm việc trong chế độ ký tự (khác với Windows làm việc với giao diện đồ họa), nó chạy nhanh hơn, đặc biệt trên các máy chậm với bộ nhớ hạn chế. Các trình quản lý thứ baNếu bạn không muốn dùng hệ điều hành mới mà vẫn có được công cụ quản lý bộ nhớ thích hợp, hãy mua các bộ quản lý bộ nhớ của hãngthứ ba (third - party manager). Các chương trình này bổ sung khả năng quản lý bộ nhớ của DOS ít nhất theo 4 cách. Hệ Netroom của Helix mở rộng sự hổ trợ UMB cho máy 386 hoặc ngay cả loại 8088 có bộ nhớ bành trướng (hãng Quarterdeck có sản phẩm tương tự dành cho các máy 386). Đặc điểm của Netroom là cho phép máy 386 nạp các network driver vào một "máy tính ảo" trong thực tế là giao diện mạng đa nhiệm, thay vì nạp chúng như các driver vào vùng bộ nhớ quy ước. Nhiều trình quản lý bộ nhớ cũng xem xét việc sử dụng UMB để có thể đưa được nhiều driver và TSR hơn vào vùng nhớ cao và do đó giải phóng được vùng nhớ quy ước quý giá. Thêm vào đó là khả năng mở rộng vùng bộ nhớ quy ước tới hơn 640 KB. Video Memory Commander của V.Communications đảm bảo được tới 920 KB bộ nhớ quy ước bằng cách tiếp cận này. Các trình quản lý hàng đầu dành cho máy 386/486 cho phép mô phỏng EMS trong quá trình thực hiện, mỗi khi chương trình cần đến nó, thay vì buộc bạn phải sửa CONFIG.SYS và khởi động lại máy hoặc buộc phải dự trữ một lượng lớn RAM mở rộng để mô phỏng bộ nhớ bành trướng. Trong khi DOS sao chép hệ điều hành lên đĩa cứng của bạn và hướng dẫn bạn về cách tối ưu, các trình quản lý bộ nhớ cao cấp còn giúp bạn nhiều hơn. Cài đặt tự động và các trình tối ưu xác định sự sẵn sàng của vùng nhớ cao để nạp các driver và TSR theo thứ tự tốt nhất. Đối với một số chương trình, bạn phải tự điều chỉnh phụ thuộc vào thông số khởi đặt hệ thống. Tuy nhiên, hệ thống của bạn sẽ được tinh chỉnh tốt hơn là dùng EMM386.EXE. Trên các máy 386, QEMM386 và 386 MAX chạy tương đương với nhau. Cả hai hệ đều dùng được tốt. Khả năng Stealth của QEMM-386 có thể tiết kiệm được nhiều vùng nhớ cao hơn một chút, trong khi đó việc cài đặt tối ưu của 386MAX có sức lôi cuốn hơn. Netroom nên được xét đánh giá như một giải pháp mạng. Memory Commander cho phép mở rộng được bộ nhớ quy ước bằng kỹ thuật và phương pháp mới. Memory Management Kit của Biologic gia tố cho DOS thêm dịch vụ UMB bổ sung, một khả năng toàn diện nhất để mô phỏng EMS (ngay cả trên 8088, có sử dụng đĩa cứng, nạp và rút bỏ các TSR). Hệ điều hành DOS 6 của Novell cũng xứng đáng để xem xét. Nó cho phép quản lý bộ nhớ tinh vi hơn MS-DOS, ngoài ra còn kèm theo các trình tiện ích dùng để nén đĩa. Làm chủ các TSR

Page 3: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Một trong những tùy chọn quản lý bộ nhớ đáng nhắc tới là khả năng đưa các trình thường trú (TSR) vào vùng nhớ cao. Bằng cách này có thể tiết kiệm được đáng kể vùng nhớ quy ước quý giá. Hệ QRAM của Quarter deck và 386MAX của Qualitas (chỉ dùng trên các máy 386) đưa ra dịch vụ như vậy. Một cách tiếp cận khác để quản lý các TSR là công cụ Switch của DR DOS cho phép bạn khởi đặt nhiều cấu hình vào CONFIG.SYS và AUTOEXE.BAT, mỗi cấu hình có các TSR của riêng mình và sẽ nạp chúng vào vùng nhớ cao khi khởi động lại máy. Bộ đổi nhiệm: "Đa nhiệm" khi ít bộ nhớSự khác biệt giữa bộ đổi nhiệm (task swapper) và môi trường đa nhiệm (multitasking) như sau: đa nhiệm cho phép nhiều chương trình cùng tồn tại và làm việc một lúc, trong khi đó đổi nhiệm chỉ cho phép một chương trình làm việc nhưng bạn có thể dễ dàng chuyển từ việc này sang việc khác mà không phải đóng chương trình đầu tiên lại. Các bộ đổi nhiệm nhớ các chương trình cần tạm rời bỏ vào bộ nhớ mở rộng hoặc bộ nhớ EMS, thậm chí ghi cả vào đĩa cứng, tại thời điểm đổi nhiệm. Chú ý rằng đa nhiệm chỉ thực hiện được trên 386/486, trong khi đó đổi nhiệm (tức là giải đa nhiệm - ND) có thể được dùng trên bất cứ loại máy nào. MS-DOS 5 có khả năng đổi nhiệm như một tùy chọn trong DOSSHELL. Sau hai lần chọn trong thực đơn có thể đạt được khả năng của hệ và cửa sổ hoạt động bao giờ cũng được nhìn thấy trong Shell để trình bày danh sách các việc đang hoạt động (có thể có tới 13 việc như vậy). Không như các bộ đổi nhiệm thứ ba nào khác, DOS 5 không cho phép bạn dễ dàng quan sát việc cấp phát bộ nhớ hoặc thực hiện cắt/dán giữa những công việc. DR DOS 6 cho phép truy nhập tới 20 việc một lúc qua ViewMax và Shell hoặc qua menu TaskMax riêng biệt - bằng cách này sẽ dễ dàng hơn và nhanh hơn. DR DOS có những chức năng không có trong MS-DOS: bạn có thể tham khảo các tài nguyên bộ nhớ qua menu và làm được các thao tác cắt/dán. Nó cũng cho phép (như phần lớn các bộ đổi nhiệm thứ ba) nạp TSR như một việc. Các bộ đổi nhiệm có thể dùng đĩa cứng để lưu các trình không hoạt động. Nếu bạn có đủ bộ nhớ mở rộng hoặc bộ nhớ bành trướng, chúng sẽ không dùng đĩa cứng nữa, do đó tốc độ truy nhập sẽ được nâng cao. Kết luậnSự lựa chọn khá rõ ràng. Trước hết, để giải quyết vấn đề thiếu bộ nhớ cần mua thêm bộ nhớ bổ sung và môi trường quản lý bộ nhớ kiểu như Windows (tất nhiên như vậy phải mua thêm các sản phẩm dùng cho Windows và phần cứng thích hợp để chạy chúng có hiệu quả). Nếu bạn muốn giữ nguyên phần cứng và phần mềm hiện có, bạn cần dùng các trình quản lý bộ nhớ, bộ đổi nhiệm và bộ nạp TSR. Về tác giả: Patrick Marshall là biên tập viên của InfoWorld. Tom Marshall là tiến sĩ văn học Anh ngữ, làm việc tại Washington University, sử dụng máy tính từ năm 1985. Các chương trình quản lý bộ nhớ trong DOS 5.0áKhi cài đặt DOS 5 lên hệ thống có bộ nhớ mở rộng, HIMEM.SYS sẽ tự động được khởi đặt (set up). EMM386.EXE không được đặt tự động như vậy. Hãy soạn thảo tập tin CONFIG.SYS và nếu không thấy dòng DEVICE = [path] HIMEM.SYS [/machine:n] ở đầu dòng đầu tiên, hãy thêm nó vào. Mệnh đề này nên là dòng đầu tiên, hoặc ít nhất là dòng thứ hai của CONFIG.SYS. Tham số / MACHINE:N đặc tả bộ điều khiển A20 sẽ được sử dụng. Tham số này không được tự động đưa vào bởi thủ tục khởi đặt chuẩn nhưng lại thường xuyên cần đến. Trong trang 611 của tài liệu DOS của Microsoft có bảng các mã chuẩn. Nói chung bạn hay dùng nhất là /MACHINE:1.áEMM386.EXE phức tạp hơn. Sau dòng của HIMEM.SYS là DEVICE =[PATH] EMM386.EXE với các tham số mà bạn muốn. Mệnh đề này có cấu trúc cơ bản như sau:áDEVICE = [path] EMM386.EXE [memory][f=address] [x=mmmm-nnnn] [RAM I NOEMS]áTrong đó: MEMORY là lượng KB mà bạn cần cấp phát cho quá trình mô phỏng EMS; F = ADDRESS mô tả vị trí khung trang của EMS (có tác dụng trong trường hợp tranh chấp UMB) và X = MMMM -NNNN đặc tả vùng bộ nhớ cao phải được loại trừ khỏi sự truy nhập của EMM386.EXE (đừng dùng các tham số F hoặc X nếu bạn không biết về tranh chấp). Tham số RAM báo cho driver để truy nhập cả

Page 4: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

EMS và UMB, trong khi đó NOEMS chỉ cho phép truy nhập các khối UMB. Bạn cần dùng tham số này hay tham số kia nếu muốn nạp các trình thường trú vào UMB.áSau 2 dòng DEVICE kể trên bạn có thể đưa vào dòng thứ 3:áDOS=HIGH,UMB.áDòng này kết hợp 2 lệnh: DOS = HIGH để nạp hạt nhân hệ điều hành vào vùng nhớ cao, giải phóng một phần của 640 KB bộ nhớ qui ước quý giá. Lệnh DOS = UMB báo cho hệ điều hành là phải duy trì mối liên kết giữa bộ nhớ quy ước và UMB, cho phép nạp các bộ điều khiển thiết bị và TSR vào vùng nhớ cao.áSau khi ghi CONFIG.SYS ra đĩa và khởi động lại máy, hãy đánh vào lệnh MEM/C I MORE để xem chi tiết kết quả cấp phát tài nguyên bộ nhớ. Đặc biệt chú ý đến lượng vùng bộ nhớ cao đang sử dụng.áTiếp theo, bạn có thể nạp các driver vào vùng nhớ cao bằng cách soạn thảo lại CONFIG.SYS và thay DEVICEHIGH = DRIVER tại tất cả các mệnh đề DEVICE = DRIVER sao cho còn đủ chổ trong vùng nhớ cao. Chú ý rằng một số driver không làm việc được bình thường khi nạp vào vùng nhớ cao; một số khác chỉ nạp được vào vùng nhớ thấp dù có làm thế nào chăng nữa. Cách tốt nhất là thử. Tương tự, trong AUTOEXE.BAT hãy đặt LOADHIGH vào trước mỗi dòng gọi tới các trình thường trú.áThông thường, các chương trình không nạp được vào vùng nhớ cao sẽ sinh ra thông báo lỗi khi khởi động. Tại dấu nhắc của DOS hãy đánh vào lệnh MEM/C I MORE lần nữa để quan sát sự khác biệt trong cấp phát bộ nhớ. Bạn có thể điều chỉnh lại nếu muốn.áNếu vùng nhớ cao còn chổ mà vẫn nạp được các driver hoặc trình thường trú, hãy trình bày lại thứ tự sắp đặt trong các tập tin cấu hình. Bạn có thể dùng các bộ quản lý bộ nhớ thứ ba để tận dụng các trình tối ưu và bộ nạp cao cấp hơn.

5 kiểu bộ nhớ trong DOSMáy vi tính 286, 386 hoặc 486 có thể có đến 5 kiểu bộ nhớ. Các chương trình phải được viết để sử dụng một kiểu bộ nhớ hoặc hơn nữa. Hãy hình dung các kiểu bộ nhớ như các phần tử xếp chồng lên nhau giống như chiếc bánh gatô ngày cưới. Bộ nhớ quy ước (conventional memory)Là lớp dưới cùng. Nếu máy tính chỉ có các chip nhớ với tổng dung lượng 640 KB, toàn bộ đây là bộ nhớ quy ước. Các chương trình chạy trong DOS đều phải dùng ít nhất kiểu bộ nhớ này. Các khối nhớ cao (The upper memory blocks)Là lớp kế tiếp chiếm tới 384 KB, cao hơn vùng nhớ quy ước. Vùng này (gọi tắt là UMB) bao gồm 6 khối (block), mỗi khối 64 KB. Do DOS đặt vùng này bên ngoài dành cho các chức năng phần cứng, bạn không thể thêm vào các chip nhớ để lấp đầy bộ nhớ này. Thông thường, các UMB chỉ được phần cứng đặt trên bản mạch chủ sử dụng. Các phần cứng đó là: bản mạch video, bản mạch giao diện của máy quét hình (scanner interface) và ROM. Vùng nhớ cao (The high memory area)Gọi tắt là HMA, là vùng 64 KB kế tiếp các khối UMB. Chỉ có một vài trình tiện ích dùng đến vùng nhớ này. Đó là HIMEM.SYS của Windows, QEMM-386 của QUARterdeck và một số phần mềm mạng.

Page 5: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bộ nhớ mở rộng (extended memory)Là lớp trên của bộ nhớ quy ước, UMB và HMA. Máy 286 có thể có tới 15 MB bộ nhớ mở rộng, trong khi đó 386 về lý thuyết cho phép đạt tới 4 GB (4 tỉ bytes). Về mặt kỹ thuật, HMA là 64 KB đầu tiên của bộ nhớ mở rộng, tuy nhiên trong thực tế HMA và phần còn lại của bộ nhớ mở rộng có thể được xem như các lớp riêng biệt. Bộ nhớ bành trướng (expanted memory)Là kiểu bộ nhớ thứ 5. Hãy hình dung nó được đặt bên ngoài các lớp khác. Kiểu bộ nhớ này yêu cầu một khối 64 KB của vùng UMB. Nếu chương trình cần nhiều hơn 64 KB bộ nhớ bành trướng, các phần của bộ nhớ bành trướng được trao đổi qua khối UMB này. Phương pháp này cho phép có được bộ nhớ bành trướng dung lượng lớn mà không cần phải dự trữ một vùng lớn bên trong bộ nhớ phân lớp. Bạn có thể phân biệt sự khác nhau giữa bộ nhớ mở rộng (extended memory) và bộ nhớ bành trướng (expanded memory) như sau. Các chip nhớ trên bản mạch chủ (mother board) hầu như bao giờ cũng được cấp phát cho bộ nhớ quy ước và bộ nhớ mở rộng. Bộ nhớ bành trướng thường được cài đặt (install) trên bản mạch riêng. Các máy với bộ xử lý 8088 hoặc không thể truy nhập được bộ nhớ mở rộng hoặc HMA. Những máy này chỉ được hạn chế bởi bộ nhớ quy ước, các khối UMB và bộ nhớ bành trướng. Các máy 286 hoặc cao hơn có thể có kiểu bộ nhớ bất kỳ hoặc có tất cả 5 kiểu. Bây giờ ta sẽ xem xét một vấn đề quan trọng: cách xác định sơ đồ cấp phát bộ nhớ cho máy tính của bạn.

Với các máy 8088 và 8086 tất cả các chip nhớ phải được dành cho bộ nhớ quy ước hoặc (nếu bạn có hơn 640 KB) bộ nhớ bành trướng. Bạn không có lựa chọn nào khác.

Trên các máy 286, bạn nên cấp phát toàn bộ nhớ ngoài 640 KB cho bộ nhớ mở rộng, nếu như bạn không có chương trình của DOS hổ trợ đặc biệt bộ nhớ bành trướng. Trong trường hợp này, bạn nên cấp phát đủ bộ nhớ bành trướng để đáp ứng nhu cầu của các chương trình DOS và dành phần còn lại như bộ nhớ mở rộng mà Windows và các trình khác có thể sử dụng.

Đối với các máy 386, bạn nên cấu hình toàn bộ bộ nhớ ngoài 640 KB như bộ nhớ mở rộng. Bộ nhớ này sau đó có thể được chuyển đổi theo yêu cầu thành bộ nhớ bành trướng đối với các chương trình hổ trợ nó. Windows và QEMM-86 có thể chuyển đổi một cách tự động.

Bạn sẽ cấp phát bộ nhớ trên máy của mình như thế nào? Các bản mạch bộ nhớ bành trướng bao giờ cũng có bộ chuyển đổi hoặc phần mềm mà bạn thiết đặt để xác định xem tất cả hoặc chỉ một phần của bộ nhớ được xem xét là bành trướng hay mở rộng. Chỉ cần thực hiện cấp phát đúng đắn trong nột lần. Việc cấp phát này sẽ còn tác dụng cho đến khi bạn thay đổi nó. Brian Livingson là chủ tịch của Ban Tư Vấn về Windows, tác giả của nhiều cuốn sách về Windows do IDG xuất bản.

Page 6: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bạn biết gì về PCMCIATrong cuộc tranh đua giữa các máy tính sổ tay loại nhỏ, PCMCIA là một trong những cách để giảm kích thước.Trước đây, với các máy tính sổ tay (notebook) thì điều đáng quan tâm trước tiên là bàn phím và bộ nguồn nuôi. Các máy này thiếu mất khả năng cơ động và các khe cắm mở rộng.Nhưng giờ đây, người dùng sẽ không phải than phiền về những vấn đề trên nữa bởi các nhà thiết kế đã tìm ra cách giải quyết các bản mạch có kích thước thẻ tín dụng có thể cắm vào máy và cho phép bổ sung các cổng giao tiếp, mở rộng bộ nhớ và lưu trữ các phần mềm.

Page 7: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Với trọng lượng chỉ vài gam và từ 3 đến 10,5 mm bề dày, các loại card PCMCIA -như chúng được gọi, hy vọng sẽ trở thành tương đương như ISA (Industry Standard Architecture) trong các máy để bàn.

Đâu là vấn đề?

Personal Computer Memory Card International Association là nhóm bao gồm 300 nhà sản xuất công nghiệp đang thực hiện việc chuẩn hóa các đặc tính của PCMCIA để người dùng có thể dễ dàng trao đổi card giữa các máy tính.Thành quả đầu tiên của việc thiết lập chuẩn PCMCIA đạt được vào cuối năm 1990 cùng với việc đưa ra phiên bản 1.0 nhằm đáp ứng nhu cầu về bộ nhớ cho máy tính di động. Phiên bản 2.0 được giới thiệu vào tháng 9-1991 và thiết lập các chuẩn cho modem. LAN, băng tần radio cầm tay và các thiết bị ngoại vi I/O (Input/Output).Phiên bản 2.0 tương thích với phiên bản trước đó, vì vậy các card dùng cho phiên bản 2.0 cũng sẽ hoạt động với các khe cắm của phiên bản 1.0. Phiên bản 2.0 bao gồm 3 kích thước card tương thích:Type I: Loại card đầu tiên xuất hiện trên thị trường, dày 3 mm và thường được dùng để mở rộng bộ nhớ.Type II: Dày hơn 5 mm. Loại này được sử dụng cho các ứng dụng như Fax-modem, LAN...Type III: Dày 10,5 mm, có chứa bộ phận lưu trữ quay và chủ yếu dùng trong liên lạc viễn thông, kể cả liên lạc không dây.Hiện tại, phiên bản 2.01 đã được đưa ra nhằm điều khiển quá trình đọc dữ liệu trên card. Phiên bản này chứa phần hiệu chỉnh kiểu chữ và không thêm các đặc tính kỹ thuật nào mới.

Lựa chọn cardCho đến nay có khoảng 30 card PCMCIA fax và modem, 10 card lưu trữ và khoảng 300 card nhớ khác nhau trên thế giới. Các nhà nghiên cứu tại Gartner Group dự tính vào năm 1997 gần 60% các máy tính để bàn và máy xách tay trên thế giới sẽ được trang bị ít nhất một khe cắm PCMCIA, số lượng khoảng 40 triệu đơn vị.Tác dụng ưu việt của card PCMCIA thể hiện rõ nhất đối với các máy tính sổ tay. Trên thị trường hiện nay có đủ các loại card với nhiều kích cỡ và chức năng. Các loại card hiện có bao gồm:Mở rộng bộ nhớ (Memory expansion). Còn được biết với tên gọi "Flash Cards" (card tác động nhanh), khả năng lưu được đến 20 MB.Loại card này tiện lợi nhưng còn đắt. Ví dụ card nhớ của AMD dung lượng 2 M có giá 338 USD. Giá này có thể chấp nhận cho loại máy tính nhỏ cầm tay (palmtop) với bộ nhớ trong hạn chế nhưng lại quá cao để chi phí cho máy sổ tay (notebook) cần nhiều bộ nhớ hơn.Các phần mềm ứng dụng. Nhiều card PCMCIA chứa các chương trình ứng dụng thông dụng đã được đơn giản hóa. Ưu điểm của việc sử dụng card loại này là chúng không chiếm dụng đĩa cứng và không tốn thời gian cài đặt. Chuẩn PCMCIA 2.0 cho phép nhanh chóng và dễ dàng sử dụng trực tiếp các phần mềm từ card nhớ, ví dụ như Lotus 1-2-3 cho máy xách tay.Người dùng có thể sao chép các phần mềm của họ lên card nhớ PCMCIA, nhưng còn bị hạn chế do dung lượng của bản thân card. Một ưu điểm chính của PCMCIA là thời gian truy cập rất nhanh và chương trình được tải gần như tức thời.Card LAN adapter (Token Ring hay Ethernet). Công ty Xircom vừa đưa ra tại Hồng Kông card Ethernet và hy vọng sẽ còn nhiều loại khác nữa xuất hiện trong thời gian tới.Viễn thông (Communication). Đây là lĩnh vực thu được nhiều lợi nhất từ công nghệ PCMCIA. Card fax/modem được tung ra tràn ngập. Một trong số sản phẩm đầu tiên loại này là modem MNP-5 của Intel. Hãng US Robotics vừa công bố loại fax/modem làm việc với 14,4 Kbit/s. Còn Motorola đang nghiên cứu card Type II loại modem không dây có sẳn pin và anten, hệ thống báo cho người dùng biết

Page 8: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

trước về tín hiệu thư tín sắp nhận được. Các thông điệp này sau đó được lưu lại trên modem và có thể truy cập lại bằng cách cắm modem vào khe PCMCIA trên máy tính.

Những hạn chếMặc dù thấy rõ được những ưu việt của PCMCIA nhưng vẫn có những tồn tại với công nghệ mới nổi lên này. Một trong những vấn đề chủ yếu là sự khác nhau về kích thước các loại card và tính tương thích giữa các hệ thống.Hiệp hội đang buộc các nhà sản xuất duy trì các loại card nhỏ hơn Type III nhưng vẫn yêu cầu về tính năng công nghệ cao.Tuy vậy, một số nhà sản xuất vẫn đưa ra loại thứ tư. Mới đây Toshiba đã cho ra máy sổ tay T4600 với khe cắm PCMCIA Type IV 16 mm.Trong khi đó, mặc dù có nững yêu cầu từ các nhà sản xuất, kích thước các khe cắm PCMCIA và tính tương thích giữa các hệ thống và máy tính vẫn tiếp tục khác biệt. Người ta dự tính chuẩn chung cho các máy Notebook và Palmtop phải đến giữa năm sau mới được áp dụng.Tính linh hoạt của PCMCIA có vẻ như là một ưu điểm lớn, tuy vậy không phải tất cả các loại card đều có thể rút ra khỏi khe cắm được trong khi máy đang làm việc vì có thể mất dữ liệu.

Trong số các thành phần cấu thành máy tính, nếu CPU là yếu tố quyết định khả năng và tốc độ xử lý của hệ thống thì bo mạch chủ đóng vai trò tạo ra một môi trường hoạt động ổn định cho tất cả các thiết bị khác, kể cả CPU. Bản thân tên gọi motherboard cũng chứng tỏ điều này.Bo mạch chủ, hay còn gọi là bo mẹ (motherboard) có ý nghĩa rất lớn trong cả hệ thống PC của bạn. Bạn có thể là chủ nhân của ổ đĩa cứng SCSI nhanh nhất, đầu DVD/CD-ROM tân kỳ, 64 MB SDRAM

Page 9: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

DIMM, BXL Pentium II 400MHz, card âm thanh Creative Sound Blaster Live, đồ họa Voodoo II và modem V.90 56kbps... nghĩa là những gì tốt nhất có thể.Nhưng tất cả những thứ trên sẽ đều không có nghĩa lý nếu máy tính của bạn thường xuyên bị treo, chạy chập chờn. Đây là cơn ác mộng của nhiều người dùng máy tính mà có lẽ nguyên nhân chính là bạn đang có một bo mạch chủ chất lượng kém.Thật không có gì tồi tệ hơn khi bạn vừa hoàn tất bản luận án 80 trang được trình bày tỷ mỉ với nhiều hình ảnh minh họa, và ghi thực hiện động tác lưu cuối cùng, máy tính đột ngột đưa ra thông báo lỗi "chết người", đại loại như "không thể lưu lên đĩa cứng bởi....", và sau đó hoàn toàn bất động trước mọi thao tác của bạn. Chỉ còn cách cuối cùng là tắt máy rồi bật lại. Kết quả thật thảm hại: tập tin Word của bạn giờ đây chỉ là rỗng tuếch với kích thước 0 byte. Tất cả những nỗ lực của bạn nhằm hồi phục lại tập tin đều vô nghĩa. Cũng từ đây, bạn mới hiểu được tác hại của một bo mạch chủ tồi.

Bài học về tốc độĐối với người tự lắp ráp máy tính, điều quan trọng là phải chọn đúng bo mạch chủ. Bởi nếu có trục trặc sau này, bạn phải tự mình xoay sở lấy mà không có sự hỗ trợ kỹ thuật nào. Bạn có thể đẩy tốc độ bus PCI lên đến 133MHz, nhưng khi đó đừng đòi hỏi nhà cung cấp đổi cho bạn bo khác trong trường hợp sự cố. Tốc độ quan trọng, nhưng tính ổn định có ý nghĩa lớn hơn. Có gì hay ho khi bạn lái xe với tốc độ 200km/h để chỉ đi được nửa quảng đường vì xe chết máy. Tốc độ của bo mạch chủ phải nhanh. Tuy nhiên sự ổn định và những đặc tính khác như khả năng hỗ loại CPU, chế độ tiết kiệm năng lượng, các đầu kết nối I/O và kiểm soát nhiệt độ.. đóng vai trò quan trọng trong việc bảo dưỡng hệ thống và đáng giá với chi phí bỏ ra.Để minh họa, bạn hãy thử xem thử một máy server dùng cho LAN. Server và các phần mềm đi kèm không chỉ mạnh về cấu hình, tính năng mà nó còn báo trước được những sự cố sắp xảy ra, cho dù đó là đĩa cứng hay các vấn đề liên quan đến mạng, và thường là tự khắc phục chúng. Điều này cho thấy tầm quan trọng của sự ổn định và độ tin cậy của một hệ thống. Bạn dể dàng nhận thấy là các máy PC xoàng xĩnh thường có nhiều thiết bị, tính năng phụ trợ bổ sung nhằm hấp dẫn người mua.

Thử nghiệm thực tếChúng ta cùng xem xét một số bo mạch sử dụng chip "Klamath", Pentium II của Intel. Đây không phải là những CPU mạnh nhất, và chúng sử dụng loại SDRAM DIMM 66MHz và thậm chí còn EDO DRAM SIMM/DIMM. Các bo mạnh dựa trên bộ chip 82440LX này không hỗ trợ AGP và có giá thấp trong số các bo mạch Slot 1. Các bo mạch mới loại Super Socket 7 (bus 100MHz) vừa được đưa ra có giá cao hơn. Loại bo mạch tân tiến và nhanh nhất sử dụng bộ chip Intel 82440BX AGP có thể chạy ổn dịnh ở tốc độ 100MHz và hỗ trợ AGP, SDRAM DIMM 100MHz và tính năng tự kiểm soát. Nhưng đối với các bạn, người tự lắp ráp máy tính, thì hay nhất có lẽ là đặc tính tự phát hiện và tự cấu hình được cài sẵn vào nhiều bo mạch loại BX, giúp bạn khỏi phải khó nhọc với các jumper và switch DIP (dual in-line package).Để kiểm tra về mặt kỹ thuật, chúng ta sử dụng chương trình PC WorldBench 98 (chương trình trắc nghiệm tốc độ) và chạy trên mỗi bo mạch chủ.Ngoài ra, các thiết bị ngoại vi được sử dụng cùng với bo mạch bao gồm: đĩa cứng Quantum Fireball SE2 2,1 GB, 64MB SDRAM DIMM cho các bo mạch LX và 64MB SDRAM DIMM 100MHz theo chuẩn PC-100 cho bo mạch BX; Card AGP và 2D/3D; 24x CD-ROM...Vấn đề tồn tại chung cho tất cả các bo mạch, và không chỉ đối với các loại đang xem xét mà còn tất cả bo mạch trước đây là sự không cẩn thận, lẫn lộn, đôi khi sai trong tài liệu và sơ đồ hướng dẫn. Thật khó

Page 10: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

để xác định vị trí cắm đèn LED của đĩa cứng, và thậm chí cả công tắc nguồn. Điều này có thể do phần lớn các bo mạch chủ đều được sản xuất tại Đài Loan, nơi mà tiếng Anh chưa phải thông dụng.Với người dùng PC, không có gì hạnh phúc hơn khi máy tính khởi động chuẩn xác. Nếu tất cả được cấu hình đúng, trò chơi 3D sẽ chạy nhanh và trơn tru, các ứng dụng văn phòng được thực hiện nhịp nhàng, không có sự trì trệ khó chịu. Hơn nữa, bạn có thể tin chắc rằng bo mạch của bạn đang kiểm soát nhiệt độ và mọi hoạt động của nó với sự chính xác và cẩn thận.

Bo mạch sử dụng bộ chip Intel 822440BXAristo AM-608BX

Được giới thiệu như một bo mạch tích hợp cao, gọn và có giá hấp dẫn, Aristo AM-608BX hỗ trợ SDRAM và Registered SDRAM, có đặc tính Super I/O, Ultra-DMA/33, PCI Bus Master IDE, AGP version 1.0, tuân thủ PCI version 2.1, USB, theo chuẩn VRM 8.2, kiểm soát hệ thống LM79/75 và Creative sound (tùy chọn). Khe cắm Slot 1 có thể tiếp nhận bất kỳ loại Pentium II nào từ 233 -

450MHz với tốc độ bus 66MHz hoặc 100MHz. Voltage Regulator Module (VRM) được cài sẵn trên bo cho phép dễ dàng nâng cấp lên các bộ xử lý OverDriver của Intel trong tương lai.

Bo mạch hỗ trợ đến 412MB SDRAM hay 1GB Registered SDRAM với các khe DIMM 168 chân. SDRAM chỉ được hỗ trợ cho bus 66MHz. Có 4 khe DIMM (đủ để nâng cấp bộ nhớ), 3 khe cắm ISA (1 dùng chung với PCI), một khe cắm AGP1 (hỗ trợ version 1.0, 1x/2x), và 4 khe cắm PCI Bus-Master. Bo mạch thuộc loại ATX (ATX form factor). BIOS hệ thống là loại flash có thể nâng và có jumper để thay đổi điện áp 5V hay 12V. BIOS có thể nhận biết đĩa cứng loại LBA với dung lượng trên 8,4GB. Về khả năng quản lý năng lượng, Aristo hỗ trợ SMM, APM và ACPI.

Page 11: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Ngoài ra, còn có công tắc chuyển đổi dùng để tạm ngưng thao tác hệ thống (suspend/resume), Wake-On-LAN (WOL), Wake-On-Ring (WOR) dùng cho modem và tuân theo tiêu chuẩn Energy Star "green PC". Bo Aristo AM608BX là loại PC97/98 và bao gồm cả tính năng kiểm soát hệ thống.Trong thử nghiệm với PC WorldBench 98, Aristo đạt 172 điểm với card video PCI S33ViRGE/GX. Tài liệu hướng dẫn ít và không chỉ ra ký hiệu +/- của dây nối.AZZA PT-6IBĐây là bo mạch nhanh thứ hai trong số các bo BX được xem xét (điểm PC WorldBench 98 là 172), và thuộc loại tốt đối với tùy chọn giá thấp. Tuy nhiên, có vài vấn đề về setup và phải khởi động lại vài lần. Nhưng sau khi thiết lập, bo mạch hoạt động bình thường.Điều gây nhầm lẫn là hàng chân nối đèn tín hiệu của LED/power/HDD không có ký hiệu cho cực dương/âm (+/-), buộc người dùng phải tự mò mẫm để thử.

Với một PCI Local Bus, PT-6IB là bo mạch loại ATX dựa trên cơ sở bộ chip hệ thống 82440BX AGPset và Winbond I/O. Nó bao gồm hai kênh PIO (Programmed Input/Output) và cổng Ultra-DMA/33 Bus Master mode PCI IDE cài trên bo, một cổng điều khiển đĩa mềm, hai cổng serial tốc độ cao (UART) và một cổng parallel nhiều chế độ, hỗ trợ mouse PS/2, cổng hồng ngoại IrDA và USB. AZZA có thể chạy với các chip Pentium II từ 233 đến 450MHz với cấu trúc SEC.Ngoài ra, PT-6IB còn có các đặc tính như mạch chỉnh điện áp, hỗ trợ +1,8V DC đến +3,5V DC của CPU, kích thước từ có thể là 8-, 16-, 32- và 64-bit, đường địa chỉ 32-bit. Trên bo có 3 khe cắm DIMM 168 chân, cho phép tối đa 384MB bộ nhớ loại parity và ECC (error correcting code). AZZA PT-6IB hỗ trợ tính năng Wake-On-LAN và các chức năng Green (tiêu chuẩn môi trường).

Page 12: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

DFI P2XBLBo mạch P2XBL được trang bị đế cắm CPU Slot 1 cho Pentium II các loại từ 266MHz đến 450MHz. PCI Bus có thể thiết lập 66MHz hay 100MHz. Với 3 khe cắm dành cho bộ nhớ loại DIMM 168 chân, kích thước bộ nhớ có thể đạt 384MB. Khe cắm mở rộng bao gồm: một dành riêng cho AGP, ba PCI, hai ISA và một chung cho PCI/ISA. Tất cả khe cắm PCI và ISA có Bus Mastering. P2XBL hỗ trợ bộ nhớ EC và ECC.Hệ thống kèm theo Desktop Management Interface (DMI) 2.0 được cài vào Award BIOS có thể nâng cấp. Tiện ích này tự động ghi lại các thông tin về cấu hình hệ thống và lưu chúng vào "vùng DMI" (một phần trong BIOS Plug-and-Play của hệ thống. DMI được thiết kế nhằm giúp việc bảo dưởng, sửa chữa, khắc phục sự cố trở nên dễ dàng hơn. Kết nối I/O có sẵn trên bo mạch bao gồm: hai cổng serial ND16C550 tương thích DB-9, một cổng parallel SPP/ECP/EPP DB-25, một giao tiếp cho đĩa mềm hỗ trợ đến hai ổ đĩa mềm loại 2,88MB, một cổng mouse PS/2 mini-DIN-6, một cổng bàn phím PS/2 mini-DIN và một đầu nối Wake-On-LAN. Ngoài ra, bo mạch còn có một cổng IrDA và hai USB.

Bộ điều khiển PCI Bus Master IDE cho phép hai giao tiếp PCI IDE hỗ trợ 4 thiết bị IDE. Bo mạch cũng hỗ trợ Ultra-DMA/33 (chế độ Synchronous Ultra DMA/33), Enhanced IDE PIO Mode 3 và Mode 4 với tốc độ truyền 16,6MB/s, ATAPI CD-ROM và LS-120 và Iomega ZIP. DFI P2XBL còn có đầu cắm cho Creative SB-Link để kết nối giữa bo hệ thống và card Creative SB PCI. Bo mạch này có khả năng theo dõi và điều khiển nhiệt độ làm việc và hoạt động của quạt thông gió.P2XBL đạt 172 điểm trong thử nghiệm. Setup bo mạch dễ dàng và nó làm việc ổn định.Elitergroup P6BX-A+Đây là bo mạch nhanh nhất và cũng là một trong số những bo mạch nhiều tính năng nhất (điểm trắc nghiệm 176). P6BX-A+ không chỉ chạy ổn định mà còn rất dễ setup, cả điện áp cho BIOS và xung nhịp đều được tự động thiết lập. Tuy nhiên, tài liệu hướng dẫn còn chưa hoàn hảo.

Page 13: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bo mạch có 3 khe cắm DIMM, có thể tiếp nhận 384MB SDRAM loại 3,3V. Elitegroup chỉ sử dụng SDRAM 100MHz tuân theo chuẩn PC-100 để đạt tốc độ cao nhất. Đặc tính tiết kiệm năng lượng bao gồm nguồn cung cấp loại ATX và ACPI. BIOS hệ thống hỗ trợ tự động Wake-On-LAN và Wake-On-Call. P6BX-A+ còn được trang bi SB-Link của Creative, cho phép tương thích ngược giữa chip PCI audio và chip ISA audio (thuật ngữ thường dùng là "PC to PCI bridge").

Bo mạnh có 7 khe cắm mở rộng: hai ISA 16-bit, năm PCI 32-bit (trong đó 1 dùng chung với ISA) và một khe cắm AGP. Các cổng chuẩn gồm hai kênh Enhanced IDE, mỗi kênh hỗ trợ hai thiết bị; một đầu nối hỗ trợ hai ổ đĩa mềm; một cổng parallel và hai cổng serial; hai cổng USB; hai cổng PS/2 (cho mouse và bàn phím). Sử dụng firmware (phần mềm được cài cứng), bạn có thể cài thêm phím nóng để bật nguồn (power-on hot-key).Gigabyte GA-686BXGigabyte là một trong những nhà sản xuất có tên tuổi trên thị trường hiện nay. Bo mạch mới GA-686BX của Gigabyte (172 điểm PC WorldBench 98) kèm theo một đĩa CD-ROM với 6 tiện ích hữu dụng cho mainboard. Tài liệu trình bày tốt với nhiều sơ đồ và hình ảnh. Bo mạch làm việc tốt và ổn định. Các đầu cắm cho LED, DIP swich được bố trí hợp lý, mạch lạc và tiết kiệm chỗ.Về tính năng, GA-686BX được trang bị một khe cắm AGP, đế Slot 1 tiếp nhận Pentium II 233 - 450MHz. Tốc độ bus có thể thay đổi 66 hay 100MHz và được tự động điều chỉnh. Bo mạch gồm bộ chip Intel 440BX AGPset, Winbond 83977 I/O và chip Winbond 83781 Health (tương đương với LM78). Bộ chip 440BX hỗ trợ đặc tính Quad-Port Acceleration (QPA) của Intel, cho phép mở rộng băng thông giữa CPU, AGP, 100MHz SDRAM và bus hệ thống PCI. Phần bộ nhớ gồm 4 khe cắm 3,3V DIMM với khả năng hỗ trợ tới 1GB DRAM. Khả năng mở rộng gồm 1 khe cắm AGP, bốn khe PCI và ba khe ISA.

Page 14: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

GA-686BX được trang bị 2Mbit Award BIOS loại flash có chức năng chống virus và Green. Nó còn cung cấp những thông tin bổ ích như nhiệt độ CPU và tình trạng quạt gió. Đầu cắm nguồn loại ATX và các chế độ tắt/mở được áp dụng công nghệ mới nhất. Bo mạch còn hỗ trợ Wake-On-LAN, đầu nối Creative SB-Link, cầu chì bảo vệ bàn phím. Các driver bao gồm LDCM, SIV, Intel PIIX4 và Ultra DMA/33 Bus Master IDE.

Microstar (MSI) MS-6116Giống như bo mạch LX, MS-6116 với bộ chip 82440BX có đầy đủ tính năng và là bo mạch rất ổn định. mặc dù chỉ đạt điểm 170 (thấp nhất trong thử nghiệm). Nhưng bạn cần biết rằng khác biệt 10 điểm không đáng kể và khó nhận thấy đối với nhiều người. Bo mạch có nhiều khả năng tự theo dõi và kiểm soát nhiệt độ tăng cường.Một số đặc tính cơ bản của MS-6116 là tuân theo chuẩn PCI/ISA và Green, kết nối Host/AGP, các chức năng ACPI, hỗ trợ Ultra-DMA/33 và SHMC (system hardware monitor control). SHMC có thể nhận biết CPU, nguồn điện, vòng quay của quạt và kiểm soát điện áp và nhiệt độ của CPU, hệ thống. Đế cắm Slot 1 trên bo có thể dùng cho Pentium II 233 - 400MHz. Tỷ lệ tốc độ lõi/bus được thay đổi từ x2 đến x6 hoặc cao hơn. Switching Voltage Regulator cho phép điều chỉnh điện áp DC và tuân theo chuẩn Intel VRM 8.2. Bo MS-6116 hỗ trợ cho bus 66,6MHz và 100MHz, cũng như dành cho 75MHz và 83MHz.

Page 15: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bộ nhớ chính gồm 4 khe cắm DIMM cho phép đạt tối đa 512MB. Bo mạch cũng hỗ trợ chức năng ECC và hỗ trợ 3,3V SDRAM DIMM. Có thể mổ rộng với một khe AGP (hỗ trợ thiết bị AGP bất kỳ với 66MHz/133MHz và 3,3V), 4 khe cắm PCI và 3 khe ISA (một khe cho cả ISA và PCI). MS-6116BX hỗ trợ PCI Bus Interface 3,3/5V.Bộ điều khiển IDE trên cơ sở bộ chip Intel 82371EB PCI cho phép một ổ cứng và/hay một ổ CD-ROM với PIO, Bus Master và Ultra-DMA/33. Các thiết bị cài sẵn trên bo gồm cổng cho 2 ổ đĩa mềm, hai cổng serial, một parallel (SPP/EPP/ECP), hai USB và một IrDA.Tyan S1846S/L/A Tsunami ATXBo mạch chất lượng cao của Tyan giành được sự tin cậy của người dùng trên thế giới (mặc dù giá cũng cao). Bản hướng dẫn sử dụng bo mạch rất rõ ràng, cẩn thận và chi tiết, tốt nhất trong số các tài liệu được xem xét.Về những đặc tính cơ bản, S1846S/L/A Tsunami ATX có thể hỗ trợ Pentium II 233MHz đến 400MHz và cao hơn. Ngoài ra còn có tùy chọn cho chip Celeron. Bo mạch chạy ở tốc độ bus 66MHz hoặc 100MHz và trên bo cài sẵn các thành phần VRM. Tsunami được trang bi bộ chip National "309" Super I/Ovà Intel 82440BX AGPset. Bo mạnh sử dụng công nghệ GTL+ cho phép giảm năng lượng tiêu thụ và EMI (electro-Magnetic Interference). Ngoài ra còn có đặc tính Wake-On-LAN khi sử dụng với bộ nguồn ATX. Một tính năng khác là power-recovery-after-interrupt (hồi phục nguồn sau khi ngắt).

Page 16: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Khả năng mở rộng của bo mạch gồm 5 khe cắm 32-bit PCI, hai khe 16-bit ISA và một khe chung PCI/ISA. Trên bo có hai cổng USB loại ATX, một IrDA, một cổng parallel tốc độ cao, hai cổng serial UART16550 và hỗ trợ ổ đĩa mềm Mode-3. Hệ thống I/O và điều khiển đĩa gồm hai cổng Ultra-DMA/33 PCI Bus Master cho phép CD-ROM loại EIDE. Bus Mastering hỗ trợ PIO Mode 3 và 4 (tốc độ truyền đạt 22MB/s) và hai ổ đĩa mềm (dung lượng đến 2,88MB).Phải nói rằng bo mạch Tsunami có đầy đủ tính năng và rất đáng tin cậy. Ngoài ra còn được bảo hành 3 năm.

Page 17: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

ENPC EP-KL21Bo mạch được sản xuất bởi ENPC Technologies Corporation tích hợp bộ điều kheỉn IDE với hai giao tiếp IDE tốc độ cao cho 4 thiết bị IDE như đĩa cứng, CD-ROM. Bộ điều khiển Super I/O có những chức năng chính: giao tiếp ổ đĩa mềm, 2 cổng serial 16byte FIFO và một cổng parallel EPP/ECP. Bo mạch hỗ trợ từ 8 đến 512MB SDRAM, 1GB EDO RAM. Nó cũng hỗ trợ Fast Page chuẩn, EDO và SDRAM. Có 3 khe cắm DIMM 169 chân, mỗi khe 32MB. Bộ nhớ đòi hỏi RAM loại 70ns Fast Page hay 60ns EDO. Thiết bị không hỗ trợ RAM parity.Trên bo mạch EP-KL21 có hai đầu nối PCI-IDE, khả năng tự nhận biết loại đĩa cứng nhờ BIOS. Hệ thống cũng hỗ trợ Award Plug-and-Play BIOS cho card ISA và PCI. Các tính năng khác bao gồm hỗ trợ Ultra-DMA/33, Softpower SM-bus của Windows 95, cổng IrDA, kiểm soát phần cứng LM 78/75, chuẩn ATX.Phần mở rộng bao gồm 3 khe cắm ISA, 4 khe PCI và 1 AGP. Bo mạch đạt 137 điểm PC WorldBench 98.Microstar MS-6117 ATX LX6Bo mạch sử dụng bộ chip Intel 82440LX AGPset tích hợp và Quad Port Acceleration (QPA). QPA cho phép xử lý đồng thời 4 đường cho CPU bus, đồ họa, PCI bus và SDRAM. Bộ chip Intel 82371AB tích hợp tất cả các chức năng điều khiển của hệ thống như Advanced Configuration and Power Interface (ACPI). ACPI đặc trưng bởi tính năng tiết kiệm năng lượng cho OS Direct Power Management (OSPM). 82371AB cũng hỗ trợ LM78 System Hardware Monitor Controller như một chức năng tùy chọn. Chức năng LM78 bao gồm nhận biết CPU/Power supply, vòng quay quạt thông gió, kiểm soát điện áp, nhiệt độ của CPU và hệ thống.MS-6117 có một đế cắm CPU Slot 1 loại ATX hỗ trợ CPU 200 - 333MHz. Tỉ lệ tốc độ lõi/bus từ x2 đến x6 và cao hơn. Bộ điều chỉnh điện áp trên bo mạch tuân theo chuẩn Intel VRM ver. 8.1 với khả năng bảo vệ quá điện áp. Bo mạch có năm khe cắm Master PCI bus 32-bit, hai khe ISA 16-bit. và một khe chung PCI/ISA. Thiết bị trên bo bao gồm một cổng đĩa mềm hỗ trợ hai ổ đĩa, hai cổng serial, một cổng parallel (SPP/EPP/ECP), cổng mouse PS/2 và bàn phím, hai cổng USB và một IrDA.Điểm trắc nghiệm của MS-6117 là 137 PC World Bench98.

Page 18: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Để đánh giá tốc độ chung của hệ thống, tạp chí PC World của Mỹ đã đưa ra một hệ chương trình để chạy trên mỗi máy tính cần kiểm tra. Hệ chương trình này được gọi là PC World Bench 98. Để chạy PC World Bench 98, trên máy phải cài sẵn các ứng dụng Microsoft Word 97, Microsoft Excell 97, Lotus 1-2-3 97, Corel Word Pro 97, Corel Paradox 8 và Micrograf Picture Publisher 7. PC WorldBench 98 chạy một kịch bản soạn sẵn (script) cho mỗi ứng dụng trong 3 lần, khởi động lại sau mỗi lần chạy. Trên cơ sở thời gian chạy mỗi kịch bản, PC WorldBench 98 đưa ra đánh giá và so sánh với điểm chuẩn của hệ máy cơ sở (Dell 200MHz MMX, 32MB RAM) rồi cho điểm cuối cùng. Điểm càng cao, tốc độ máy càng nhanh.

Bộ nguồn ATX

Các máy tính sản xuất gần đây, nhất là từ Pentium II trở đi đều sử dụng mainboard và bộ nguồn theo chuẩn ATX.Bộ nguồn ATX hoạt động tiết kiệm, an toàn và linh động hơn bộ nguồn AT vì ta có thể điều khiển một số hoạt động của bộ nguồn thông qua Bios trên mainboard. Thí dụ: Có thể bật/tắt máy từ xa thông qua card mạng, modem, cổng...Tắt máy bằng lịnh Shutdown của Windows 95. Theo dỏi tình trạng hoạt động của máy, kiểm tra nhiệt độ CPU, Mainboard, tự động tắt máy để tiết kiệm nguồn hay để bảo vệ.Điểm khác biệt lớn nhất khi ráp bộ nguồn ATX là đầu cắm cung cấp điện cho mainboard và công tắc Power.

Đầu cắm

Đầu cắm ATX có 20 chânChân Tín hiệu Chân Tín hiệu

1 +3.3v 11 +3.3v2 +3.3v 12 -12v3 Đất (Ground) 13 Đất (Ground)

Page 19: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

4 +5v 14 PW_ON (mở nguồn)5 Đất (Ground) 15 Đất (Ground)6 +5v 16 Đất (Ground)7 Đất (Ground) 17 Đất (Ground)8 PWRGOOD (nguồn tốt) 18 -5v9 +5vSB 19 +5v10 +12v 20 +5v

Công tắc Power

Do có 1 số tính năng điều khiển từ xa nên về nguyên tắc bộ nguồn phải luôn luôn được cấp điện. Bạn sẽ không thấy công tắc Power tự giử theo kiểu AT nữa (Sau khi bấm, công tắc sẽ tự giử trạng thái đó cho đến khi bấm lần nửa để thay đổi trạng thái), thay vào đó là 1 nút bấm kích (tự động trở về vị trí ban đầu sau khi ngưng bấm) tương tự như nút Reset.Khi bạn bấm nút nầy, đường tín hiệu thứ 14 của đầu cắm nguồn (PW_ON) sẽ được nối đất để tạo ra tín hiệu mở máy nếu máy đang trong tình trạng tắt (hay tắt máy nếu máy đang trong tình trạng mở).Chú ý: Khi mở máy bạn chỉ cần kích nút Power (bấm rồi nhả liền) nhưng đặc biệt khi tắt, tùy theo mainboard có thể bạn phải bấm rồi giử sau 4 giây mới được nhả (do xác lập trong Bios).Khi máy trong tình trạng tắt, thực sự bộ nguồn vẫn tiêu thụ 1 lượng điện rất nhỏ để duy trì sự hoạt động cho mạch điều khiển tự động mở máy (theo xác lập trong Bios hay chương trình điều khiển). Chỉ khi nào bạn rút dây cắm nguồn hay tắt điện bằng công tắt phía sau bộ nguồn thì máy bạn mới bị ngắt điện hoàn toàn.

Kiểm tra bộ nguồn rời

Để kiểm tra nhanh bộ nguồn có hoạt động hay không, bạn có thể kích nối tắt đường tín hiệu 14 và 15 (chập rồi nhả liền) hay chắc ăn nhất là cắm đầu nối nguồn vào Mainboard rồi kích nối tắt 2 chấu của Jumper PowerSw trên mainboard (khi thử chỉ cần có bộ nguồn và mainboard ATX là đủ, không cần thêm gì nữa).

Sử dụng ổ đĩa cứng IDE 1- SƠ NéT Về ĐặC TíNH Kỹ THUậT: A/ GIAO TIếP: ổ đĩa cứng đang được dùng đại trà hiện nay trên các máy PC gia đình là loại theo chuẩn giao tiếp IDE do tính dễ lắp ráp và giá thành thấp. Ngoài ra còn có chuẩn SCSI nhưng không thông dụng do giá thành cao, đòi hỏi phải có card SCSI riêng cũng như phần mềm quản lý các thiết bị SCSI riêng.

B/ LắP RáP, KếT HợP Và DI CHUYểN:

Máy PC cho phép bạn sử dụng 2 ổ đĩa cứng (Mainboard đời cũ) hay 4 ổ đĩa cứng (Mainboard đời mới) cùng lúc. Để phân biệt các ổ đĩa trên cùng 1 cáp tín hiệu, chúng ta phải xác lập bằng cách nối tắt các chân cắm được quy định cụ thể trên từng ổ đĩa (set jumper). Nhà sản xuất luôn cung cấp sơ đồ set jumper kèm theo ổ đĩa của mình vì nếu thiếu, chỉ có cách là set "mò" hay dựa trên ổ đĩa khác. Chú ý: Bạn phải hiểu về nguyên lý, máy tính xem ổ đĩa cứng là 1 thiết bị IDE hay nói một cách khác, máy PC cho phép bạn sử dụng tối đa 4 thiết bị IDE nối vào 2 dây cáp. ổ đĩa CDROM theo chuẩn giao tiếp IDE cũng được xem là 1 thiết bị IDE nên sẽ được tính vào tổng số nầy.

Page 20: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Các quy ước khi lắp ráp, kết hợp ổ đĩa: Dây cáp: Cáp tín hiệu của ổ đĩa cứng có 3 đầu nối giống y nhau. 1 đầu để gắn vào đầu nối IDE trên Card I/O hay mainboard, 2 đầu còn lại để gắn vào đầu nối trên 2 ổ đĩa cứng. Khi cắm dây, chú ý cắm sao cho vạch sơn đỏ ở cạnh cáp nối với chân số 1 của đầu nối. Thường chân số 1 được quy ước như sau: Trên mainboard hay trên card I/O: Cạnh có ghi số 1 hay có dấu chấm tròn hay dấu tam giác. Chú ý: Có hãng sản xuất, đã ngừa trường hợp cắm ngược cáp bằng cách bỏ bớt 1 chân ở đầu nối trên mainboard, và bít 1 lổ tương ứng ở đầu nối trên cáp. Trên ổ đĩa: Cạnh có ghi số 1 hay vạch sơn đỏ trên cáp nằm sát dây cắm nguồn. Chú ý: Có hãng sản xuất, đã ngừa trường hợp cắm ngược cáp bằng cách bỏ bớt 1 chân ở đầu nối trên ổ đĩa cứng, và bít 1 lổ tương ứng ở đầu nối trên cáp. Khi nối cáp, cố gắng xoay trở đầu cáp sao cho đoạn dây đi từ mainboard hay Card I/O đến ổ đĩa cứng là ngắn nhất. Thậm chí bạn có thể nối đầu giữa lên Mainboard, 2 đầu bìa lên ổ đĩa cứng. ổ đĩa: Giữa 2 nhóm ổ đĩa 1,2 và 3,4 phân biệt bởi hai dây cáp gắn vào 2 đầu nối Pri (thứ nhất 1,2) hay Sec (thứ nhì 3,4). Giữa ổ đĩa 1,2 hay 3,4 phân biệt bằng cách set Jumper trên mỗi ổ đĩa là Master (1,3) hay Slave (2,4). - Trên ổ đĩa có các set sau:

Master (single): Chỉ sử dụng 1 ổ đĩa duy nhất. Master (dual): ổ nầy là master nhưng có kết hợp với ổ khác. Slave: ổ nầy là slave. Cable Selec: Xác lập master hay slave bằng cáp (giống ổ đĩa mềm)

Thông thường bạn nên set là Master (dual) hay Slave, nhưng khi dùng ổ đĩa Caviar có khi bạn bắt buộc phải set là Master (single) nó mới chịu chạy. ổ đĩa khởi động bắt buộc phải được set là Master và được gắn vào cáp Pri (1). Có trường hợp 2 ổ đĩa không chịu chạy chung với nhau khi gắn cùng 1 cáp. Bạn phải sử dụng 2 cáp cho 2 ổ đĩa nầy, nếu máy bạn không có đường cáp thứ 2 bạn buộc phải đổi ổ đĩa khác (hay xảy ra với ổ Caviar của WD). Chú ý: Trong số những cải tiến trong BIOS của mainboard P5, quan trọng và có ích trong sử dụng là phần BOOT máy. Cải tiến nầy giúp bạn khỏi mất thì giờ đặt lại các jumper cho ổ đĩa cứng khi chuyển đổi. Bạn có thể chọn lựa cho Boot máy bằng ổ đĩa mềm A, ổ đĩa CD ROM, ổ đĩa SCSI, ổ đĩa cứng C hay D, E, F (nếu có). Nghĩa là ngoài các ổ đĩa truyền thống như A, C, bạn có thể cho Boot bằng CD ROM và bất cứ ổ đĩa cứng vật lý nào đang có trên máy mà không cần phân biệt chúng đang là Master hay Slave, là IDE hay SCSI. Thí dụ: Máy bạn có ổ đĩa A, 1 ổ đĩa CDROM (G), 3 ổ đĩa cứng IDE (C, D, E), 1 ổ đĩa cứng SCSI (F). Bạn có quyền chỉ định cho khởi động bằng ổ đĩa nào trong số các ổ đĩa nầy (A, C, D, E, F, G) cũng được. Khi bạn sử dụng Win97 (OSR2 hay Memphis), bạn không cần khai báo ổ đĩa cứng thứ 2 trở đi trong Bios (kể cả ổ mềm). Win97 tự biết các ổ đĩa nầy và đặt tên cho chúng tiếp theo tên ổ đĩa Logic cuối cùng trên ổ đĩa vật lý có khai báo. Dĩ nhiên là khi đó chúng không thể khởi động được do không có khai báo. C/ TUổI THọ: Tuổi thọ của ổ đĩa cứng chính là tuổi thọ của các thành phần di chuyển trong cấu tạo ổ đĩa. ổ đĩa có 2 mô tơ chính là mô tơ quay đĩa và mô tơ dịch chuyển đầu từ. Để đảm bảo tốc độ truy xuất cao của ổ đĩa, ổ đĩa cứng bắt buộc phải quay liên tục từ khi bạn mở máy cho đến khi bạn tắt máy và đầu từ luôn luôn treo lơ lửng phía trên mặt đĩa 1 khoảng cách cực nhỏ bởi 1 lớp đệm khí được tạo ra do tốc độ quay nhanh (khi ổ đĩa ngưng quay, đầu từ sẽ "đáp" lên trên mặt đĩa do mất lớp đệm khí. Để an toàn, hãng sản xuất tạo vị trí đáp tự động cho đầu từ khi tắt máy). Như vậy mô tơ quay đĩa có chế độ làm việc nặng

Page 21: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

nhất và tuổi thọ của nó quyết định tuổi thọ của ổ đĩa. Hay nói 1 cách khác, tuổi thọ của ổ đĩa tuỳ thuộc vào thời gian sử dụng máy chớ không tuỳ thuộc vào thời gian truy xuất ổ đĩa như đĩa mềm. Về nguyên tắc kỹ thuật trong việc sử dụng động cơ, càng ít lần tắt mở động cơ càng thọ. Như vậy khi bạn cho máy chạy liên tục 24/24, ổ đĩa cứng của bạn sẽ đạt thời gian sử dụng tối đa. Đối với máy gia đình, do việc sử dụng không liên tục (mỗi ngày mở máy vài lần) nên tuổi thọ ổ đĩa có giảm nhưng bù lại thời gian sử dụng thực sẽ kéo dài hơn (thí dụ: ổ đĩa nếu chạy liên tục 24h/ngày sẽ thọ thọ 10.000giờ tức là 417 ngày thực tế, nếu chạy không liên tục 8h/ngày, tuổi thọ giảm còn 7.000giờ nhưng sẽ là 875 ngày thực tế). Việc tắt mở máy còn làm tăng nguy cơ va chạm đầu từ với mặt đĩa, tạo hư hỏng không phục hồi được. Do đó bạn càng hạn chế việc tắt mở máy càng tốt. Trong Bios các máy mới thường hay có mục chỉ định ngừng ổ đĩa cứng khi không hoạt động sau 1 thời gian nhất định (Power Manager). Chúng tôi khuyên bạn đừng sử dụng mục nầy vì nó chỉ có tác dụng trên những máy xách tay là loại máy mà người ta chấp nhận giảm thọ tất cả các linh kiện trong máy để đổi lấy thời gian sử dụng pin lâu. Nếu bạn thích sử dụng mục nầy thì cứ thử và chú ý tiếng kêu của ổ đĩa khi chuyển trạng thái hoạt động, có thể bạn sẽ cảm thấy tội nghiệp ổ đĩa của bạn. 2- BIOS SETUP: Sau khi lắp ráp ổ đĩa, bạn phải làm thủ tục khai báo trong Bios để máy chấp nhận cho ổ đĩa là 1 thành phần của máy. Có 2 trường hợp khai báo cho ổ đĩa dưới 528Mb và trên 528Mb. ổ đĩa dưới 528Mb: Khai báo bình thường trên mọi loại mainboard cũ cũng như mới. Bạn cần khai báo C (cylinder) H (head) S (sector) theo số liệu nhà sản xuất ghi trên nhản hay dùng Auto Detect IDE. ổ đĩa trên 528Mb: Đối với các mainboard đời mới, bạn cần khai báo C (cylinder) H (head) S (sector) theo số liệu nhà sản xuất ghi trên nhản sau đó chọn thêm mục LBA hay dùng Auto Detect IDE rồi chọn thông số do Bios đề nghị có kèm LBA. Đối với mainboard đời cũ không có mục LBA, bạn không thể sử dụng được phần dung lượng trên 528Mb của ổ đĩa thông qua Bios, bạn bắt buộc phải dùng chương trình Disk Manager của hãng sản xuất ổ đĩa cứng (Quantum, WD, Ontrack...), chương trình nầy cũng đảm trách luôn việc Fdisk và Format cho ổ đĩa (đặc tính của chương trình nầy chúng tôi sẽ bàn sau).

3- QUảN Lý, Sử DụNG: A/ CáCH QUảN Lý CủA Hệ ĐIềU HàNH: Đặc điểm quan trọng mà người sử dụng cần hiểu rõ là cách cấp phát không gian đĩa để chứa file của hệ điều hành. Mỗi hệ điều hành có 1 cách quản lý khác nhau, chúng tôi chỉ chú trọng bàn về Dos, Win95 và sẽ nói sơ về Win NT. Dos, Win 95: Tùy theo dung lượng của ổ đĩa Logic mà đơn vị cấp phát cho tập tin thay đổi theo. Cụ thể như sau: Dung lượng ổ đĩa Logic Đơn vị cấp phát (cluster) đến 31,5Mb 512Bytetrên 31,5 1Kbtrên 64Mb 2Kbtrên 127Mb 4Kbtrên 254,9Mb 8Kbtrên 504,9Mb 16Kbtrên 1Gb 32Kbtrên 2Gb 64KbCách cấp phát trên có nghĩa là tuỳ theo file của bạn có kích thước bao nhiêu mà hệ điều hành sẽ cấp phát số đơn vị (cluster) tương ứng. Dung lượng đơn vị phải bằng hoặc lớn hơn dung lượng file cần chứa, nếu trong 1 đơn vị cấp phát còn dư cũng sẽ bị bỏ, không dùng chứa file khác được. Thí dụ: Trên ổ đĩa 860Mb. Nếu file 234byte sẽ được cấp 1 cluster 16Kb, Nếu file 50Kb sẽ được cấp 4 cluster 64Kb.

Page 22: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Như vậy trên ổ đĩa logic có dung lượng lớn, bạn chứa file nhỏ càng nhiều, bạn càng bị mất dung lượng đĩa do có những khoảng bị bỏ trống quá nhiều. Điều nầy dẩn đến việc cần phải tính toán chia ổ đĩa Logic sao cho kích thước Cluster là có lợi nhất tuỳ theo thực tế sử dụng. Win NT: Nói tổng quát, Win NT có thể sử dụng cách quản lý đĩa của Dos, Win 95 để bạn có thể sử dụng đồng thời Win NT và Dos, Win 95 trên cùng 1 máy. Nhưng Win NT cũng có 1 cách quản lý riêng của mình là đơn vị cấp phát lớn tối đa chỉ có 4Kb cho ổ đĩa logic trên 254,9Mb và không có bất kì hệ điều hành nào có thể sử dụng được ổ đĩa do Win NT quản lý theo kiểu riêng.

B/ Sử DụNG: Để sử dụng được ổ đĩa cứng với hệ điều hành Dos/Win 95, bạn phải tiến hành các thủ tục sau: Fdisk: chương trình dùng để chỉ định cho hệ điều hành quản lý ổ đĩa như thế nào. Format: Định dạng đĩa theo tiêu chuẩn quy định của hệ điều hành để hệ điều hành có thể sử dụng được ổ đĩa. Trong trường hợp bạn mới ráp máy hay làm lại ổ đĩa master của mình, bạn phải khởi động bằng đĩa mềm rồi mới dùng chương trình được chứa trên đĩa mềm mà tiến hành thao tác với ổ đĩa cứng. Cách làm đĩa mềm khởi động như sau: * Đưa đĩa mềm vào ổ đĩa A, đánh lịnh FORMAT A: /S * Chép tối thiểu các file sau lên đĩa mềm: Fdisk, format, Sys (Chú ý: phải cùng version với Dos bạn đã dùng để format đĩa mềm trước đó). Bạn có thể chép thêm NC, các chương trình chống Virus, các chương trình tiện ích...tuỳ theo nhu cầu và dung lượng đĩa mềm còn trống.

4- CáCH Sử DụNG FDISK: Khi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current fixed disk drive: 1 Choose one of the following: 1. Create DOS partition or Logical DOS Drive 2. Set active partition 3. Delete partition or Logical DOS Drive 4. Display partition information 5. Change current fixed disk drive Enter choice: [1] Giải thích: * Create DOS partition or Logical DOS Drive: Tạo khu vực trên đĩa (có thể là 1 phần, có thể là toàn bộ) và tạo ổ đĩa Logic cho Dos sử dụng. Trong mục nầy còn có các mục con sau: Create DOS Partition or Logical DOS Drive Current fixed disk drive: 1 Choose one of the following: 1. Create Primary DOS Partition 2. Create Extended DOS Partition 3. Create Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition * Đầu tiên bạn phải tiến hành mục 1 tức là tạo Partition Dos thứ nhất. Vùng nầy có đặc điểm là chỉ chứa 1 ổ đĩa duy nhất có dung lượng chiếm toàn bộ không gian vùng và chỉ ổ đĩa nầy được phép khởi động. Nếu bạn không chia nhỏ ổ đĩa cứng vật lý thì bạn cho vùng nầy chiếm toàn bộ ổ đĩa vật lý và quá trình fdisk kể như hoàn tất, Dos sẽ tự động chỉ định cho ổ đĩa nầy là ổ khởi động. Nếu bạn muốn chia nhỏ ổ đĩa, bạn chỉ định kích thước cụ thể cho vùng nầy rồi tiến hành mục 2.

Page 23: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

* Mục 2 tạo vùng đĩa mở rộng dành cho Dos. Dung lượng là không gian còn lại của ổ đĩa vật lý hay chỉ 1 phần nếu bạn muốn dự trữ 1 vùng riêng ngoài tầm kiểm soát của Dos (dành cho hệ điều hành khác) gọi là vùng Non Dos. Vùng Dos mở rộng nầy sẽ chứa tất cả các ổ đĩa Logic mà bạn muốn tạo và bạn tiến hành tạo chúng bằng mục 3. Khi tạo ổ đĩa Logic bạn nên chú ý là đừng nên tạo quá nhiều (tốt nhất là 2) vì dung lượng còn trống sẽ bị phân tán trên từng ổ đĩa Logic khiến cho việc cài đặt các chương trình lớn trở nên khó khăn. Ngoài ra nếu bạn có nhiều ổ đĩa vật lý, bạn cần chú ý cách gán tên ổ đĩa Logic của Dos như sau: Dos đặt tên theo thứ tự ABC và gán cho vùng Pri trên mỗi ổ đĩa vật lý trước (theo thứ tự ổ đĩa vật lý) sau đó mới đến các ổ đĩa Logic trên vùng Ext của từng ổ đĩa theo thứ tự. Thí dụ: Có 2 ổ đĩa vật lý, trên ổ đĩa master (1) chia 1 Pri, 2 Logic, trên ổ đĩa Slave (2) chia như ổ 1. Chúng sẽ được gán tên như sau: ổ 1 có C (Pri), E, F (Logic). ổ 2 có D (Pri), G, H (Logic). Thứ tự gán tên rất quan trọng nếu sơ ý sẽ dẩn đến việc Format sai ổ đĩa. Set active partition: Chỉ định ổ đĩa được phép khởi động. Theo quy định của Dos, chỉ có ổ đĩa nằm trong Pri Partition mới được phép active (ổ đĩa C). Mục nầy chỉ dùng khi bạn không cho vùng Pri chiếm toàn bộ dung lượng ổ đĩa vật lý. Delete partition or Logical DOS Drive: Xoá bỏ những gì bạn tạo trong mục 1. Theo quy định của Dos, quá trình xóa phải ngược lại với quá trình tạo, nghĩa là cái gì tạo đầu tiên phải được xoá sau cùng và ngược lại. Trong mục nầy có các mục con: Delete DOS Partition or Logical DOS Drive Current fixed disk drive: 3 Choose one of the following: 1. Delete Primary DOS Partition 2. Delete Extended DOS Partition 3. Delete Logical DOS Drive(s) in the Extended DOS Partition 4. Delete Non-DOS Partition Trong mục nầy bạn phải tiến hành ngược từ dưới lên trên tức là tiến hành theo thứ tự 4,3,2,1. Display partition information: Hiển thị tình trạng hiện tại của ổ đĩa cứng. Mục nầy bạn nên chọn đầu tiên để tránh tình trạng thao tác lộn ổ đĩa. Change current fixed disk drive: Chọn ổ đĩa vật lý để thao tác. Chú ý: Khi bạn Fdisk trên ổ đĩa cứng nào (logic hay vật lý) toàn bộ dữ liệu trên ổ đĩa đó sẽ bị xoá. Fdisk chỉ dùng cho ổ đĩa cứng, bạn không thể Fdisk ổ đĩa mềm. 5- CáCH Sử DụNG FORMAT: Việc phân vùng, tạo ổ đĩa Logic giống như mới quy hoạch miếng đất trống. Muốn sử dụng bạn còn phải cất nhà và đó là nhiệm vụ của Format. Format được dùng cho đĩa cứng lẩn đĩa mềm và gần như là chương trình thông dụng khi sử dụng máy tính. Nhưng Format có 2 tính năng chưa được đánh giá đúng mức là format triệt để (/u) là quá trình kiểm tra đĩa kỹ lưỡng nhất và format /q (format nhanh) là cách xoá đĩa có nhiều file nhanh nhất. Công dụng chính của Format /u là định dạng ổ đĩa theo đúng tiêu chuẩn của hệ điều hành. Bạn hãy tưởng tượng như việc san bằng mọi thứ hiện có trên miếng đất, chia lô rồi cất nhà, chia phòng, đặt số nhà, lên sơ đồ...để chứa hàng hoá sau này. Có nghĩa là làm mới toàn bộ, xoá bỏ hết cái cũ. Trong quá trình xây dựng nó còn kiểm tra đánh dấu vị trí xấu không sử dụng được. Công dụng của Format /q là không làm gì có ảnh hưởng đến hàng hoá hiện chứa trên miếng đất, mọi xây dựng cũ vẩn giữ nguyên. Nó chỉ làm một việc đơn giản là tuyên bố toàn bộ khu vực nầy hiện đang trống, chưa có gì cả. Khi nào có hàng hoá mới gởi vào nó mới tống cái cũ đi để chứa.

6- LàM CHO ĐĩA CứNG KHởI ĐộNG ĐƯợC:

Page 24: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Sau khi bạn Fdisk xong, bạn có thể dùng lịnh Format c: /s để vừa định dạng vừa làm cho ổ đĩa cứng khởi động được. Trong trường hợp đĩa cứng đã format sẫn, bạn có thể cho khởi động bằng đĩa mềm rồi dùng lịnh SYS để chuyển các file hệ thống từ đĩa mềm xuống đĩa cứng, giúp cho đĩa cứng tự khởi động được. Nếu Sys từ đĩa mềm, hệ điều hành trên đĩa cứng sẽ giống y như đĩa mềm. Do đó cần cẩn thận chọn đĩa mềm đúng hệ điều hành khi muốn dùng lịnh Sys.

7- BOOT BằNG DOS HAY WINDOWS 95: Để cho đĩa cứng khởi động bằng Dos version nào, bạn chỉ cần có đĩa mềm khởi động version đó rồi Sys xuống mà không cần phải cài lại nguyên bộ Dos hay Windows 95 Chú ý: Trên đĩa mềm nên có thêm các file Fdisk, Format, Sys, Himem, Emm386, Smartdrv...cùng hệ điều hành. Khi Sys cho Windows 95, bạn phải tạo lại thông tin trong file MSDOS.SYS thì Windows mới chạy được. Thí dụ: [Paths] WinDir=C:\MEMPHIS WinBootDir=C:\MEMPHIS HostWinBootDrv=C [Options] BootMulti=1 BootGUI=1 BootWin=1 Network=1 Trong nội dung nầy quan trọng nhất là phần [Paths]. Phần nầy thay đổi tuỳ theo thực tế trên từng máy. Giải thích: WinDir=C:\MEMPHIS: Tên và địa chỉ của thư mục chứa Windows 95. WinBootDir=C:\MEMPHIS: Tên và địa chỉ của thư mục chứa file hệ thống cần thiết khi khởi động của Windows 95. HostWinBootDrv=C: Tên ổ đĩa khởi động. BOOT 2 Hệ ĐIềU HàNH: * Nếu đã có Dos: Bạn đổi các file Command.com thành Command.dos . Io.sys thành Io.dos . Msdos.sys thành Msdos.dos . Autoexec.bat thành Autoexec.dos . Config.sys thành Config.dos Rồi Sys Windows 95 từ đĩa mềm xuống. Cuối cùng tạo lại Msdos.sys giống như phần trên. * Nếu đã có Windows 95: Bạn chép (copy) các file đã liệt kê của Dos xuống đĩa cứng và đổi đuôi là Dos. Cụ thể như: Command.dos, Io.dos, Msdos.dos, Autoexec.dos, Config.dos. Thêm dòng BootMilti=1 vào file Msdos.sys của Windows 95. Chú ý: * Nếu dùng Windows 95 bản OSR2 (950B), khi copy bạn đổi Io.sys thành IBMBIO.COM, Msdos.sys thành IBMDOS.COM. Các file khác vẫn như cũ. Cụ thể như: Command.com thành Command.dos . Io.sys thành Ibmbio.com . Msdos.sys thành Ibmdos.com . Autoexec.bat thành Autoexec.dos . Config.sys thành Config.dos Đồng thời bạn phải xóa file MSDOS .DOS nếu có hiện diện trong thư mục gốc. * Bạn phải sửa chữa các đường dẫn trong Autoexec.bat, Autoexec.dos và Config.sys, Config.dos cho đúng với tình trạng của từng hệ điều hành ví có 1 số file hệ thống không thể dùng "lẫn lộn" được.

8- Sử DụNG DISK MANAGER CủA HãNG SảN XUấT ĐĩA CứNG:

Page 25: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Có nhiều chương trình Disk Manager do các hãng sản xuất đĩa cứng đưa ra (Quantium, WD, Ontrack, Conner...), mục đích là giúp cho người dùng có thể sử dụng ổ đĩa lớn hơn 504MB trên máy đời cũ có BIOS không nhận biết được những ổ đĩa dung lượng lớn nầy. Khi sử dụng các chương trình nầy, bạn nên chú ý các vấn đề sau: ổ đĩa có dùng Disk Manager phải là ổ đĩa khởi động, vì nếu nó không là ổ đĩa khởi động, chương trình Disk Manager của ổ đĩa nầy sẽ không được nạp khi khởi động máy, và kết quả là máy của bạn không thể nhận diện cũng như sử dụng được ổ đĩa nầy. Chương trình nầy chỉ nên sử dụng trên các máy đời cũ (386), không nên sử dụng trên các máy đời mới (486, 586...) có BIOS hỗ trợ LBA. Vì nó không tương thích với Windows 95. Để "dụ khị" người sử dụng, các chương trình luôn luôn dùng đơn vị tính: 1MB=1000000Byte, khác với đơn vị tính của Dos là: 1MB=1048576Byte. Như vậy dung lượng ổ đĩa do các chương trình nầy báo cáo lớn hơn khoảng 5% dung lượng do Dos báo cáo. Khi bạn đã cài chương trình nầy, nó sẽ chiếm Master Boot Record làm "của riêng" và bạn không thể nào "tống khứ" nó đi được, dù cho dù bạn có Fdisk hay format lại. Bạn phải dùng Diskedisk xoá sạch Master Boot Record rồi sau đó mới Fdisk và format lại.

Sử dụng ổ đĩa CD ROM1- ĐặC TíNH Kỹ THUậT: ổ đĩa CD ROM có 2 loại giao tiếp là: A/ ISA hay AT Bus: Cho các ổ đĩa cũ, tốc độ 1 hay 2. Khi sử dụng phải nối cáp tín hiệu vào Card âm thanh hay Card I/O riêng. Thường các Card âm thanh hay thiết kế sẵn đầu nối cho 3 loại ổ đĩa thông dụng là Pana, Sony và Mitsu. Các hãng sản xuất không nổi tiếng phải bán kèm Card riêng cho ổ đĩa của mình. B/ IDE: Cho các ổ đĩa đời mới, tốc độ 2 trở đi. Khi sử dụng phải nối cáp tín hiệu vào đầu nối IDE của I/O như ổ đĩa cứng hay nối vào đầu nối IDE của Card Sound. Để nhận diện loại giao tiếp, bạn đừng căn cứ và cáp vì chúng có thể giống nhau. Bạn nên quan sát phía sau ổ đĩa, chúng thường có một bộ Jumper với các vị trí Set như sau: Master, Slave, Cap Selec cho IDE. Không Jumper hay có Jumper Set ID= 0, 1, 2, 3 cho ISA. 2- CàI ĐặT: A/ Loại ISA: Bạn nối cáp tín hiệu vào Card riêng hay Card Âm thanh có đầu nối dành cho ổ đĩa của bạn. Nếu là Card âm thanh nhà sản xuất thường có ghi đầu nào dành cho ổ đĩa nào lên hẳn Card cho dễ, nếu trên Card không ghi, bạn nên xem trong sách hướng dẫn. Bạn phải Set địa chỉ cho ổ đĩa CD ROM bằng các Jumper trên Card đời cũ hay bằng phần mềm trên card đời mới. Thường đối với loại ISA, bạn không cần Set ngắt. Nếu bạn nối vào Card sound, đầu tiên bạn phải cài đặt các chương trình điều khiển card sound. Chỉ khi nào Card sound chạy tốt, ổ đĩa CD ROM mới hoạt động được. Đó là do nó phải mượn đường đi qua card sound. B/ Loại IDE: Bạn nối vào đầu còn lại của cáp ổ đĩa cứng, vào đầu nối IDE trên card âm thanh hay vào đầu nối Sec IDE trên mainboard. Bạn phải Set ổ đĩa CD ROM của bạn là Master hay Slave sao cho không đụng với các ổ đĩa cứng hay ổ đĩa đang có. Nếu nó 1 mình 1 cáp thì Set sau cũng được. Nếu bạn nối vào card sound, bạn phải cho card sound chạy tốt như trên đã nói. Sau đó bạn cho hiệu lực (enable) và set ngắt, địa chỉ cho đường IDE 2 trên card sound. Trong trường hợp trên mainboard có

Page 26: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

đường Sec IDE, bạn phải vào BIOS set Disable đường nầy cho chúng khỏi "đụng". Có khi bạn set ngắt và địa chỉ thông qua dòng lịnh trong Config.sys. * CD ROM IDE Interface cho Card Sound hay I/O: Địa chỉ I/O : 170H 1E8H 168H Ngắt : 15 11 hay 12 10 hay 11 3- QUảN Lý Và Sử DụNG: Dos quản lý ổ đĩa CD ROM không thông qua BIOS như ổ đĩa mềm hay ổ đĩa cứng. Bạn phải cài Driver thiết bị (do hãng sản xuất cung cấp kèm theo, có đuôi file là SYS) vào file Config.sys để Dos có thể chấp nhận và quản lý ổ đĩa CD ROM như 1 thành phần của máy. Ngoài ra bạn còn phải nạp 1 chương trình dùng để sử dụng và gán tên cho ổ đĩa CD ROM là MSCDEX.EXE (do Dos cung cấp) vào file Autoexec.bat.

A/ Loại ISA: Mỗi ổ đĩa CD ROM loại ISA đều phải sử dụng đúng Driver của hãng sản xuất, ổ đĩa sẽ không hoạt động nếu sai Driver. Dòng lịnh cài đặt trong config.sys và autoexec.bat có thể như sau: DEVICEHIGH=C:\CDROM\SBCD.SYS /B:340 /D:CD1 /L:F /V

SBCD.SYS= TRìNH ĐIềU KHIểN ổ ĐĩA CD ROM SONY. /B:340= Địa chỉ của ổ đĩa. /D:CD1= Tên ổ đĩa (tên nầy phải trùng với tên trong Autoexec.bat). /V= Hiển thị thông tin về quá trình cài đặt. LH C:\DOS\MSCDEX.EXE /D:CD1 /L:F /V /D:CD1= Tên ổ đĩa (tên nầy phải trùng với tên trong config.sys). /L:F= Tên logic gán cho ổ đĩa CD ROM.

B/ Loại IDE: Loại ổ đĩa CD ROM nấy bạn sử dụng dễ dàng hơn loại ISA nhưng nếu máy bạn thuộc loại cũ thì có hơi rắc rối hơn các máy loại mới. Các dòng lịnh trong các file hệ thống giống như loại ISA nhưng có thêm set ngắt. Thí dụ: DEVICE=C:\CDROM\CR_ATAPI.SYS /P:170,15 /D:CD1 /L:F /V CR_ATAPI.SYS= TRìNH ĐIềU KHIểN ổ ĐĩA CD ROM PANA. /P:170,15= Địa chỉ của ổ đĩa (170) và ngắt (15). LH C:\DOS\MSCDEX.EXE /D:CD1 /L:F /V Chú ý: Bình thường, bạn không cần ghi thông số /P: trong dòng lịnh. Driver tự dò ra địa chỉ và ngắt nhưng đôi khi bạn phải chỉ định trên các mainboard đời cũ. Bạn có thể dùng Driver của hãng sản xuất khác nếu đó là Driver đa dụng cho ổ đĩa CD ROM IDE. Thí dụ: SBIDE.SYS, ECSCIDE.SYS.v..v...Nhưng tốt nhất vẫn là dùng đúng Driver, bởi vì khi dùng Driver đa dụng có thể chương trình Xing (xem đĩa phim) không chịu chạy. Dòng lịnh cài driver CD ROM luôn luôn phải nằm dưới dòng lịnh xác lập card sound. Thí dụ: DEVICEHIGH=C:\4X4\TROINIT.SYS /A220 /I5 /D1 /H5 /P340 /CS /CA340 /G DEVICEHIGH=C:\CDROM\SBCD.SYS /B:340 /D:CD1 /L:F /V Khi bạn gắn chung ổ đĩa CD ROM với ổ đĩa cứng, bạn không thể chạy 32BITDISKACCESS trong Windows 3.xx. Có vài hãng cung cấp driver tên WDCTRL.386 kèm theo để bạn có thể sử dụng trong trường hợp nầy. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, bạn nên dành đường Sec IDE trên mainboard (PCI) hay Card I/O (Vesa) cho ổ đĩa CD ROM, nó sẽ chạy ổn định hơn. Đối với các máy cũ không có Sec IDE, nên mua Card sound có đầu nối IDE vì đây chính là đường SEC IDE bổ sung cho máy. Các đĩa cài đặt driver kèm theo ổ đĩa CD ROM do người bán cung cấp đôi khi rất lộn xộn. Có đĩa cài rất dễ dàng, có đĩa không cài được phải cài thủ công. Trường hợp nầy là do hãng sản xuất hay do chỗ

Page 27: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

bán sĩ làm ăn không nghiêm túc (chúng tôi đã từng bị khách hàng than phiền do tin tưởng chỗ bỏ sĩ mà không kiểm tra lại đĩa driver). Khi gặp trục trặc khi cài driver bạn nên tham khảo ý kiến nơi bán, xem lại file Read me hay kiểm tra lại dòng lịnh trong 2 file hệ thống. Khi gắn ổ đĩa CD ROM vào Card Sound, bạn phải luôn luôn Set và cài đặt chương trình cho Card Sound trước. Chỉ khi nào Card Sound chạy tốt và cổng CD Rom đã được Set đúng thì bạn mới cài được ổ đĩa CD ROM.

4- Sử DụNG ổ ĐĩA CD ROM VớI WINDOWS 3.XX: Bạn cài driver trong 2 file hệ thống, ổ đĩa CD ROM phải chạy tốt ngoài Dos thì mới chạy tốt trong Windows 3.xx. Nếu bạn muốn nghe CD nhạc trong Windows 3.xx. Bạn vào win, chạy Control Panel/Drivers, chọn ADD rồi chọn [MCI] CD Audio. 5- Sử DụNG ổ ĐĩA CD ROM VớI WINDOWS 95/NT: Để sử dụng ổ đĩa CD ROM loại IDE hay loại ISA của 3 hãng Pana, Sony, Mitsu trong Windows 95/NT, bạn không cần cài lịnh trong Config.sys hay Autoexec.bat (thậm chí bạn chẳng cần có 2 file nầy trên máy). Các dòng lịnh đã nói trên chỉ cần thiết khi bạn muốn sử dụng ổ đĩa CD ROM ngoài dấu nhắc Dos (không vào GUI). A/ LOạI ISA: Nếu bạn cài đặt ổ đĩa CD ROM trước khi cài Windows 95/NT. Windows 95/NT sẽ tự động thay thế driver của Dos (16bit) bằng driver của Windows 95/NT (32bit). Nếu bạn cài đặt ổ đĩa CD ROM sau khi cài Windows 95/NT. Windows 95/NT. Bạn dùng tiện ích Add New Hardware để Windows tự dò tìm hay bạn có thể chỉ định Driver cho nhanh. Sau đó Windows sẽ hỏi địa chỉ của bộ Windows 95/NT gốc để chép các driver điều khiển cần thiết. B/ LOạI IDE:

Windows 95/NT tự nhận biết khi khởi động cho dù chúng do bất cứ hãng nào sản xuất. Khi đó trong Device Manager của Windows sẽ có thêm mục CDROM. Mục Auto insert notification dùng để sử dụng tính năng Autoplay của Windows 95 (khi đưa đĩa nhạc vào là tự động hát). Chú ý: Windows NT chỉ hỗ trợ ổ đĩa CD ROM loại ISA của 3 hãng: Pana, Sony, Mitsu. ổ đĩa của các hãng khác không chạy được trong Windows NT. Windows NT không chấp nhận các driver của Dos. Đối với những ổ đĩa CD ROM ISA không được Windows 95 hỗ trợ, bạn bắt buộc phải cài driver của chúng trong 2 file hệ thống. Bạn cũng sẽ không sử dụng được tính năng AUTOPLAY của Windows 95. Nếu trong 2 file hệ thống có cài Driver của CD ROM. Khi bạn vào Windows 95, bạn có thể thấy máy bạn có tới 2 ổ đĩa CD ROM. Đó là do Dos gán tên logic cho ổ đĩa khác với tên logic của Windows 95. Bạn có thể sửa chữa bằng cách thay đổi tên gán của Dos (/L:) hay thay đổi tên gán của Windows 95 cho chúng trùng nhau. Nếu bạn cài driver CD ROM trong 2 file hệ thống rồi cài Windows 95, Win sẽ bỏ dòng lịnh trong Autoexec.bat và chuyển vào file DOSSTART.BAT. File nầy sẽ được nạp khi bạn chọn MS-DOS mode.

6- LàM CHO ĐĩA CD ROM KHởI ĐộNG ĐƯợC: * Để làm đĩa CD khởi động, bạn phải có 1 chương trình đặc biệt để tạo đĩa CD khởi động trong quá trình ghi đĩa do cấu trúc của đĩa CD khác với ổ đĩa cứng. Bạn có thể tạo đĩa CD khởi động theo hệ điều hành Dos hay Windows 95, 97 đều được. * Sau khi khởi động xong. Track khởi động trên đĩa CD sẽ chiếm đĩa A (Nếu bạn chỉ có 1 ổ mềm A, nó sẽ bị đổi tên thành B. Nếu bạn có 2 ổ mềm, ổ tên B sẽ biến mất). Track dữ liệu sẽ là ổ đĩa CD bình

Page 28: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

thường và có ký tự tiếp theo ổ đĩa cứng. Bạn có thể khởi động và chạy chương trình chỉ trên 1 đĩa CDROM. * Để máy khởi động bằng đĩa CD, bạn phải có ổ đĩa CD theo chuẩn giao tiếp IDE, gắn trực tiếp vào Mainboard (có thể gắn vào bất cứ đường IDE nào trên main, set Master hay Slave đều được) và Bios trên Main phải hổ trợ việc nầy (có thêm mục chọn lựa cho Boot bằng ồ đĩa CDROM). Chú ý: Có 1 số Mainboard tuy cho chọn Boot bằng CD Rom nhưng thực tế lại không Boot được. Có 1 số ổ đĩa không Boot được do khó đọc đĩa ghi, bạn phải tìm loại đĩa thích hợp với ổ đĩa nầy.

Dù bạn nâng cấp PC cũ hay mua máy Pentium II mới, một bo mạch đồ họa tốt có thể tăng tốc độ các ứng dụng công việc hay thỏa mãn nỗi đam mê chơi trò chơi của bạn.Trong những lý do sau, lý do nào là không thích hợp cho việc nâng cấp bo mạch đồ họa?Bạn không biết chắc là chính bạn rung hay ảnh trên màn hình lớn của mình rung.Những đoạn video bạn vừa tải xuống trông giống như màn hình TV những năm 50.Ai đó nói rằng bạn không thể có đồ họa đẹp nếu không có bo mạch AGP (Accelerated Graphics Port).Những cảnh trò chơi 3D dường như được tạo từ đồ chơi lắp ráp Lego.Nếu bạn chọn câu 3 thì xin chúc mừng! Bạn có thể tiết kiệm cho mình chi phí mua cả một hệ thống Pentium II mới có hỗ trợ AGP. Trừ khi bạn muốn có ngay một PC mới, còn không sẽ chẳng có lý do gì phải mua máy mới chỉ để cho đồ họa đẹp hơn. Các bo mạch video PCI có tốc độ nhanh như loại AGP và các chip mà chúng dùng cũng khá cao cấp.Trong bài là kết quả thử nghiệm 10 bo mạch PCI cùng 10 bo mạch AGP và xếp hạng 5 sản phẩm đứng đầu mỗi loại. Dẫn đầu danh sách các bo PCI là StarFighter PCI của Real3D với tính năng 3D xuất sắc, nhiều RAM video, chơi trò chơi tốt hơn, và phần mềm kèm theo có giá trị. Nó dựa trên chip Intel740 mới, mang lại cho máy tính để bàn tốc độ tổng thể cao và đồ họa đẹp mắt.Vậy thì còn cần mua card AGP làm gì? Nếu bạn có Pentium II, chắc bạn đã có sẵn card AGP. Nhưng nếu hệ thống PII của bạn trang bị bo AGP cũ và chậm thì nên nâng cấp. Còn khi dự định mua Pentium II mới, bạn chắc chắn sẽ muốn phải có một bo mạch AGP tốt. Trong số 10 bo AGP được thử nghiệm,

Page 29: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Diamond Stealth II G460 chiếm vị trí hàng đầu. Cũng như bo PCI hạng nhất và 4 card AGP khác, Stealth II dùng chip Intel740.Nhưng nhìn chung, vì sao cần nâng cấp card đồ họa? Những người ham chơi trò chơi là những người đòi hỏi nhiều nhất về khả năng đồ họa, nhưng khả năng này còn hữu dụng trong các công việc khác như xử lý ảnh, chế bản, thường yêu cầu độ phân giải màn hình cao hơn. Dù bạn làm việc với AGP hay PCI, những công nghệ video mới như DVD đều đòi hỏi khả năng đồ họa cao. Tính năng DVD trong Xpert 98 của ATI cho phép bạn không cần có card giải mã riêng để phát phim DVD.Cuối cùng, có thể bạn muốn có chút sức mạnh phụ trội về đồ họa để thao tác các ứng dụng 3D trong công việc (sẽ có tuy chưa phải tương lai gần). Một vài ứng dụng sơ khởi loại này như LiveArt98 của Viewpoint Data Labs cho phép người dùng bổ sung các plug-in 3D vào các ứng dụng tương thích OLE, và Fremont của Portola, một chương trình hình tượng hóa dữ liệu.Nếu chất lượng trò chơi là điều không thể thiếu đối với bạn, thì nhất thiết phải chọn card 3D thuần túy. Card 3D thuần túy nhanh hơn tới 50% so với loại 2D/3D và nói chung, chất lượng ảnh của nó tốt hơn hẳn. Sau khi thử nghiệm 5 card 3D thuần túy (xem mục "Niềm vui của người chơi game"), người ta nhận thấy bo mạch có chip Voodoo2 làm việc tốt nhất.

Kích thước phù hợp với tất cảBạn đang tìm một bo mạch đáp ứng mọi yêu cầu, thể hiện xuất sắc trình diễn PowerPoint và đem lại cho bạn nhiều điều mới lạ? Chẳng có bo mạch nào cho kết quả nổi bật trong cả 2D lẫn 3D, nhưng bo Intel740 mới cũng gần được như vậy. Trình diễn 3D của nó thật xuất sắc, với một yếu điểm: tất cả các bo mạch dựa trên Intel740 đều làm cho hình ảnh trong trò chơi bị quá tối. Chip Intel740 cũng hoạt động rất tốt trong văn phòng.Mặc dù chip Intel740 được thiết kế đặc biệt cho bus AGP, song có một bo PCI cũng sử dụng nó, đó là StarFighter của Real3D. StarFighter tận dụng các ưu thế 3D của Intel740 bằng cách làm cho chip tưởng rằng nó đang chạy trên bus AGP.

Page 30: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Có một số chip mới xuất hiện. Riva 128zx, kế tiếp Riva 128 của NVidia, được thiết kế để cạnh tranh với Intel740; mặc dù không gây ấn tượng mạnh như đối thủ, nhưng nó cũng hoạt động tốt. Với chip này, STB Velocity 128zx chiếm vị trí thứ ba trong biểu đồ AGP. Nó chạy rất nhanh trong các trò chơi và trong kết cấu AGP, nhưng đôi khi có chất lượng hình kém.Sau một thời gian dài vắng bóng, Matrox đã giới thiệu Productiva G100, loại card AGP dựa trên chip MGAG100 mới của công ty. Productiva không nằm trong danh sách card hạng nhất vì chất lượng hình 3D của nó chưa đạt yêu cầu, nhưng nó khá mạnh về mặt tốc độ trong ứng dụng nghiệp vụ .

Đáng ngạc nhiên là các bo mạch ATI lại xuống dốc. Phiên bản PCI của ATI XpertYỵPlay và phiên bản AGP của Xpert 98 đều hơi chậm trong các thử nghiệm. Các driver mới cập nhật của ATI dường như có cải thiện được tốc độ.

Phần mềm AGPNếu AGP không nhanh hơn PCI thì nó có điểm gì tốt? Chủ yếu là nó làm cho các trò chơi trông hiện thực hơn. Phần lớn các trò chơi 3D và các ứng dụng khác tạo ra hình ảnh 3D bằng cách dùng ảnh tượng kết cấu (texture map) để đặt một lớp vỏ giống thật lên đối tượng. Aảnh tượng kết cấu càng lớn hay càng chi tiết thì đối tượng trông càng rõ. Ví dụ trong viện bảo tàng, ảnh tượng kết cấu lớn sẽ tăng cường chi tiết cho bức họa. Tuy nhiên bạn sẽ phải trả giá: Cũng như tất cả các ảnh số, ảnh tượng kết cấu lớn "ngốn" rất nhiều video RAM. Khi tạo hình ảnh, card PCI phụ thuộc rất nhiều vào bộ nhớ trên bo mạch, nó hạn chế kết cấu ở mức cho phép. Ngược lại, bo AGP có thể quản lý ảnh tượng kết cấu lớn nhờ mượn RAM từ bộ nhớ chính của PC.

Page 31: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Điều này thật tuyệt về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, phần mềm sử dụng được ưu thế của AGP còn rất hiếm. Khi nào thì mới có nhiều phần mềm? Dự đoán mới nhất của Intel: những trò chơi có kết cấu phức tạp sẽ xuất hiện vào cuối năm nay.Nếu bạn muốn chuẩn bị cho các ứng dụng AGP nhưng lại không muốn chi phí cho một máy Intel, thì hãy mua máy nhái. Các đối thủ của Intel là AMD và Cyrix đang dùng bộ chip chế tạo theo đặc tính AGP. Một số máy của các công ty như Unicent dựa trên chip AGP không phải của Intel có giá dưới 1000 USD.

Thực hiện thử nghiệmVới các ứng dụng nghiệp vụ 3D đang thấp thoáng phía chân trời, các bo mạch đồ họa hiện nay cần phải làm được nhiều hơn là tài liệu Word. Để xem các bo mạch PCI và AGP thực hiện phần mềm chuyên dụng mới nhất như thế nào, người ta đã tiến hành những thử nghiệm như PC World-Bench 98, đa nhiệm dùng Macromedia Director và Active Movie, trình diễn PowerPoint với bổ sung 3D LiveArt98. Nhóm thử nghiệm thậm chí còn kết hợp một đoạn video và một bảng tính Excel vào phần trình diễn.Vì các trò chơi 3D rất phổ biến nên mỗi bo mạch được chạy thử với 4 trò chơi: Turok Dinosaur Hunter, Redline Racer, Flight Unlimited II, và Quake II. Điểm được tính cả về tốc độ và chất lượng hình ảnh. Đối với các bo mạch AGP, người ta còn bổ sung cả TrueSpace3, một chương trình mô hình hóa dùng kết cấu AGP. Nhóm thử nghiệm phát hiện rằng AGP 2X, đáng lý phải chuyển dữ liệu nhanh gấp đôi so với chuẩn AGP 1X, song lại chỉ nhanh hơn có 29%.Vì các card AGP và PCI xuất hiện trong nhiều loại máy khác nhau, nên thử nghiệm với bo AGP được tiến hành trên hệ thống Pentium II, còn card PCI trên Pentium MMX. Hệ PII là NEC Direction 333MHz với 64MB RAM và 512KB cache thứ cấp. PMMX là Micron Millennia Mme 133MHz với 32MB RAM và 512KB cache. (Muốn biết chi tiết hơn, hãy xem mục "How We Test" tại www.pcworld.com/aug98/graphics.)

Page 32: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Kết quả? Nếu bạn chỉ thực hiện những công việc thông thường thì tất cả các bo mạch được thử nghiệm ở đây đều cho bạn hiệu suất như nhau, trừ các bo ATI, chúng chạy quá chậm.Có tốc độ tổng thể nhanh nhất trong các thử nghiệm là bo mạch Revolution 3D của Number Nine, lại không có trong biểu đồ. Bản PCI của Revolution 3D chạy nhanh hơn các bo mạch PCI khác 22%, còn bản AGP thì cũng trên mức trung bình 12%. Card Revolution 3D và Hercules Dynamite 3D/GL có chip hỗ trợ tăng tốc 3D khi ở chế độ 16 triệu màu (hay màu thực). Các bo mạch này rất xuất sắc trong thử nghiệm PowerPoint. Tuy nhiên, cả ba loại này đạt tốc độ cao với ứng dụng nghiệp vụ nhờ hy sinh khả năng về trò chơi. Chỉ có Hercules Dynamite 3D/GL còn tương đối nhưng cũng không phải là lựa chọn tốt cho trò chơi.

Page 33: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nhóm bo mạch dựa trên Intel740 thực hiện trò chơi tốt nhất: hình ảnh rõ ràng, tốc độ 3D nhanh. Một lựa chọn khác cho trò chơi là Intense 3D Voodoo của Intergraph có chứa chip 3D riêng. Intense 3D chiếm được điểm cao, và nếu bạn chơi trò chơi với các driver được viết trực tiếp cho chip Voodoo Rush, bạn sẽ đạt tốc độ tối đa. Với AGP thì Best Buy là Diamond Stealth II G460. Nó chạy các trò chơi có kết cấu AGP và các ứng dụng nghiệp vụ đều nhanh, đồng thời chất lượng ảnh cũng xuất sắc.Không có card nào hoàn hảo đối với mọi ứng dụng và trò chơi, cũng như các driver bo đồ họa. Chẳng hạn, Diamond Viper V330 và STB Velocity 128zx đều không hoàn thành được thử nghiệm PowerPoint, chúng bị treo khi gặp bổ sung 3D của LiveArt98. Một ví dụ khác: Hercules Dynamite 3D/GL không chạy được trò chơi Turok. Các lỗi này đều được hứa hẹn sẽ sửa đổi trong phiên bản tới.

Những gì sắp cóMột số chip hấp dẫn sắp ra đời, càng làm cho việc quyết định thời gian nâng cấp trở nên khó khăn hơn. NEC, nhà sản xuất quen thuộc trên thị trường 3D, có hai sản phẩm đang hứa hẹn được thực hiện: phiên bản mới của chip PowerVR (xem mục "Niềm vui của người chơi game"), và chip kết hợp 2D/3D đầu tiên của công ty. Tương tự, 3Dfx, nhà sản xuất chip Voodoo2, cũng sắp đưa ra một loại chip kết hợp. Còn S3, chủ nhân của họ Virge cũ, thì đang thiết kế chip mới là Savage 3D, sẽ cạnh tranh với Intel740. Các bo mạch dựa trên Savage 3D sẽ xuất hiện cuối hè này. Matrox cũng hứa hẹn chip G200 cho tốc độ 3D nhanh hơn.Bạn có nên đợi các chip mới này để nâng cấp? Thử nghiệm cho thấy Millennium G200 có thể cạnh tranh được với card dựa trên Intel740. Nếu chờ đợi, bạn sẽ có thêm nhiều bo mạch để lựa chọn, nhưng tính năng đồ họa chắc sẽ không hơn gì nhiều. Kết luận: với 3D chất lượng cao và khả năng xử lý các ứng dụng nghiệp vụ phức tạp, những card đồ họa mới nhất hiện nay mạnh chưa từng có.

Page 34: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nếu bạn là người chơi game sành sỏi, bạn cần bổ sung một card 3D thuần túy, mạnh và tốc độ nhanh cho PC của mình.Không nghi ngờ gì nữa, bo mạch đó phải có chip Voodoo2 - như Diamond Monster 3D II giá 250 USD, hay Creative Labs 3D Blaster Voodoo2 giá 300 USD. Các card Voodoo2 tạo hình ảnh tuyệt đẹp: ánh sáng bao phủ trong Quake II hoàn hảo; nước chảy và tiếng nổ trong Turok rất sống động; và các kết cấu trong Redline Racer rất thật.

Tuy nhiên, Monster 3D II có vấn đề với Redline Racer: khi thao tác di chuyển, bo mạch làm xoay toàn cảnh gây cho người chơi cảm giác như sắp rớt ra khỏi trái đất bất cứ lúc nào. Cũng trò chơi này được thực hiện với driver 3Dfx thì lại bình thường.Mặc dù Monster 3D II và 3D Blaster Voodoo2 có lượng RAM trên bo mạch khác nhau (8MB và 12MB), chúng cho tốc độ như nhau. Nhưng các trò chơi trong tương lai sẽ tận dụng tốt hơn lượng bộ nhớ này nên bạn có thể sẽ muốn đầu tư cho bo 12MB hơn.Chất lượng hình của các bo Voodoo và Voodoo2 cũng như nhau, nhưng tốc độ của Voodoo2 nhanh hơn nhiều. Diamond Monster 3D giá 130 USD và Canopus Pure3D giá 149 USD dùng chip Voodoo cũ.Với giá 129 USD, Apocalypse 3D của NEC/Videologic dùng chip Power VR. Tuy chất lượng hình trong Quake II xuất sắc, nhưng tất cả các trò chơi 3D Direct đều không rõ và tốc độ chậm. Chip Power VR thế hệ thứ hai của NEC sắp ra đời và hứa hẹn sẽ khá hơn nhiều so với thế hệ trước.Canopus, www.canopuscorp.comCreative Labs, www.soundblaster.comDiamond Multimedia Systems, www.diamondmm.comNEC/Videologic, www.powervr.com

Real3D StarFighter PCIƯu: Tốc độ PCI cao nhất, 3D xuất sắc, 24MB RAM trên bo mạchKhuyết: Đắt nhất

Page 35: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Với giá 290 USD, StarFighter PCI của Real3D là bo mạch đắt nhất, nhưng hiệu suất cũng cao nhất. Nó sử dụng chip Intel740. Mặc dù chip này được thiết kế cho bus AGP, song Real3D đã khôn khéo lừa nó chạy trên PCI, khiến bạn có được hiệu suất tuyệt vời của Intel740 mà không cần nâng cấp lên Pentium II PC.

StarFighter hoạt động xuất sắc trong phần lớn các trò chơi 3D. So với các bo PCI được thử nghiệm, nó trội hơn trong các trò Turok và Redline Racer, chất lượng hình đạt điểm gần như tối đa ngoại trừ trò Quake II. Cũng như các bo mạch dùng chip Intel740 khác, StarFighter làm cho hình ảnh của Quake II bị quá tối.Bo mạch này còn có một số tính năng hấp dẫn khác. Phần mềm kèm theo bao gồm phiên bản thu gọn của các tên tuổi như Rage Incoming và Caligari TrueSpace SE. Công ty hỗ trợ kỹ thuật miễn phí 16 giờ mỗi ngày, và bạn có thể tìm đến họ cả trong ngày nghỉ. *Real3D, www.real3d.com.STB Velocity 128Ưu: Giá rất hợp lý, hiệu suất đảm bảoKhuyết: Chất lượng ảnh 3D kémNhiều phần mềm kèm theo và cái giá khiêm tốn 129 USD làm cho STB Velocity 128 trở thành lựa chọn nâng cấp tốt, mặc dù tốc độ của nó chỉ ở mức trung bình.Trong thử nghiệm trò chơi 3D, tốc độ của nó nhanh hơn chút ít so với phần lớn các card PCI, ngoại trừ trong trò Quake II. Vì STB chưa đưa ra driver cho Quake II nên trò này không tận dụng được tăng tốc phần cứng của bo mạch. Trong các trò chơi khác, chất lượng ảnh nói chung là tốt.STB cung cấp chế độ bảo hành theo tuổi thọ cho Velocity và hỗ trợ kỹ thuật miễn phí qua điện thoại 10 giờ mỗi ngày. Công ty còn cho kèm nhiều phần mềm, bao gồm 3 trò chơi và Simply 3D, một chương trình mô hình hóa cơ bản. * STB, www.stb.com.Diamond Viper V330Ưu: Tốc độ 3D trên trung bìnhKhuyết: Không chạy được PowerPoint với bổ sung 3DDựa trên cùng loại chip như STB Velocity 128, Diamond Viper V330 giá 120 USD được xếp ngang hàng hoặc thậm chí vượt bo mạch số 2, chỉ trừ một điểm: chạy trên driver Turbo mới của Diamond, Viper không có khả năng phát plug-in 3D LiveArt trong thử nghiệm PowerPoint. Tuy nhiên, bo mạch không gặp trục trặc nào khi xử lý các bổ sung khác của PowerPoint. Diamond hứa hẹn sẽ nhanh chóng sửa lỗi driver.Vấn đề với plug-in 3D không có nghĩa là Viper đáng bị gạt ra ngoài. Card này cho hiệu suất làm việc đảm bảo và nhanh hơn Velocity chút ít trong 3D. Viper ngoài ra còn cung cấp driver OpenGL Quake II.Diamond cho kèm vài trò chơi và một số công cụ xử lý ảnh. * Diamond Multimedia, www.diamondmm.com.Intergraph Intense 3D VoodooƯu: Hình ảnh rõ nét và tốc độ 3D nhanh, hiệu suất cao nhất trong thử nghiệm DirectorKhuyết: Đắt, các menu xuất hiện trong Turok không đẹp mắtChỉ nhìn qua cấu hình của Intergraph Intense 3D Voodoo giá 200 USD cũng đủ thấy đây là bo mạch dành cho các trò chơi. Thay vì chip kết hợp 2D/3D, Intense 3D chứa hai chip riêng biệt - Alliance Promotion cho 2D và 3Dfx Voodoo Rush cho 3D.

Page 36: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Đáng tiếc là chip Alliance Promotion không cho tốc độ 2D cao, nó chỉ hỗ trợ EDO DRAM - loại chậm nhất, nhưng bạn không thể có chip 3D nào trên bo kết hợp tốt hơn Voodoo Rush.Intense 3D không nổi bật khi thực hiện công việc, mặc dù nó hỗ trợ tốt cho việc phát video AVI. Nhưng bo mạch này cho chất lượng ảnh 3D rất đẹp. Nó được điểm xuất sắc trong Quake II cũng như Redline Racer và điểm tốt trong Flight Unlimited II, song lại không đạt lắm trong Turok vì ảnh bị mờ.

Intense 3D có một phần thưởng đặc biệt thú vị: bạn có thể dùng TV như một màn hình lớn - rất thuận tiện cho các trò chơi. Bạn còn nhận được một số trò chơi miễn phí để tận dụng tính năng trò chơi nổi bật của Intense 3D. * Intergraph, www.ingr.com.Hercules Thriller 3DƯu: Hiệu suất 3D cao, đủ dùng cho các ứng dụng nghiệp vụ cỡ trung, giá rất phải chăngKhuyết: Phát video không chính xác trong thử nghiệm Director, không kèm thêm phần mềm, khó cài đặtHercules Thriller 3D cho tốc độ 3D rất hấp dẫn với giá gốc là 99 USD. Nhưng nó nằm ở vị trí thứ 5 vì thiếu tính năng, ví dụ như không có phần mềm kèm theo.Nếu bạn chỉ định thực hiện những công việc văn phòng thông thường với card đồ họa thì Thriller 3D là phù hợp. Còn nếu bạn muốn phát lại video, nên tìm kiếm cái khác vì bo mạch này đôi khi không phát được đoạn video thử nghiệm. Nó không chạy nổi cả thử nghiệm PC WorldBench 98 với độ phân giải 1024x768.Về tốc độ 3D, Thriller 3D vượt qua nhiều đối thủ. Nhờ tạo hình ảnh sinh động và những hiệu ứng ánh sáng tuyệt diệu, nó đạt điểm xuất sắc trong các thử nghiệm Redline Racer và Quake II.

Page 37: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Hercules có chính sách hỗ trợ tốt. Nhóm kỹ thuật luôn sẵn sàng 12 giờ/ngày, và thời hạn bảo hành là 5 năm. * Hercules, www.hercules.com.

Diamond Stealth II G460Ưu: Chất lượng 3D và tốc độ cao nhất; giá hợp lýKhuyết: Tính năng hạn chếStealth II G460 giá 130 USD của Diamond chiếm vị trí đầu trong biểu đồ AGP nhờ kết hợp hiệu suất 3D cao và giá phải chăng. Nó chạy nhanh nhất trong thử nghiệm PowerPoint, và nhanh thứ nhì trong thử nghiệm Director.Chất lượng ảnh của Stealth II trong các trò chơi 3D vào loại cao nhất. Chỉ có một điều đáng phàn nàn là hình ảnh hơi bị tối, chẳng hạn trong trò chơi Quake II, bạn khó lòng nhìn rõ quạt trên trần nhà và lưới sắt dưới chân; tuy nhiên, chỉ cần tăng độ sáng của màn hình là hầu như sẽ giải quyết được vấn đề. Tốc độ hiện hình của Stealth II nhanh hơn 18% so với card AGP loại trung bình khi chạy trò chơi và 24% trong thử nghiệm mô hình hóa Caligari.Stealth II không có nhiều tính năng bổ sung như màn hình phóng to thu nhỏ, nhưng những gì nó có đều đứng nhất về chất lượng. Phần mềm kèm theo gồm trò chơi 3D (Incoming của Rage), hoạt hình 3D và các công cụ xử lý ảnh. Diamond cung cấp hỗ trợ kỹ thuật 7 ngày/tuần. * Diamond Multimedia, www.diamondmm.com.Real3D StarFighter AGPƯu: Tốc độ 3D cao, nhiều thời gian hỗ trợKhuyết: Tốc độ chạy ứng dụng nghiệp vụ trung bìnhCũng dùng chip Intel740 như bo hạng nhất Stealth II G460, StarFighter AGP chạy khá nhanh.Nhìn chung, StarFighter xử lý các trò chơi 3D chỉ chậm hơn Stealth II chút ít. Hình ảnh nó tạo ra cũng hơi bị tối. (Ngoài cách hiệu chỉnh màn hình, bạn còn có thể tăng độ sáng bằng tiện ích sửa gamma đi kèm với card.)StarFighter AGP thực hiện trôi chảy các công việc văn phòng, nhưng nó không phải là lựa chọn tốt nhất khi bạn sử dụng nhiều đoạn video hay định tạo những bản trình bày hấp dẫn. Card này trội hơn Stealth trong một thử nghiệm, đó là tác vụ mô hình hóa Caligari yêu cầu tạo kết cấu AGP.

Page 38: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Cũng như bo StarFighter PCI, card có kèm theo nhiều phần mềm, gồm cả các trò chơi như Wing Commander và Redline Racer.Real3D tương đối mới trên thị trường tiêu thụ, nhưng công ty đã bắt đầu rất đúng hướng, đặc biệt trong lĩnh vực hỗ trợ. Đây là công ty sản xuất bo đồ họa duy nhất cung cấp hỗ trợ kỹ thuật miễn phí cả những ngày nghỉ, 16 giờ/ngày. * Real3D, www.real3d.com.STB Velocity 128zxƯu: Nhanh trong 3D và tạo kết cấu AGPKhuyết: Chất lượng hình kém trong một số trò chơiVề nhiều mặt, STB Velocity 128zx giá 150 USD chỉ là phiên bản tăng cường của Velocity 128 - đứng hàng thứ hai trong biểu đồ PCI. Thay vì dùng chip Riva 128 của NVidia (tạo sức mạnh cho card PCI), nó lại làm việc với thế hệ kế tiếp Riva 128zx. Velocity 128zx không thật xuất sắc trong một lĩnh vực nào, nhưng nó thực hiện tốt hầu hết các tác vụ.Một ngoại lệ đáng tiếc: cũng như Diamond Viper V330, Velocity 128zx không thể chạy các bổ sung 3D để tạo hoạt hình cho trình diễn PowerPoint. STB hy vọng sẽ nhanh chóng sửa lỗi này.Tốc độ tải hình 3D của Velocity 128zx khá nhanh. Trong thử nghiệm mô hình hóa Caligari và các trò chơi 3D, nó gần như sánh ngang với hai bo hàng đầu dùng Intel740. Chất lượng hình có khi tốt (trong Turok và Redline Racer) có khi xấu (trong Flight Unlimited II và Quake).Velocity 128zx chỉ có ít phần mềm kèm theo. STB hỗ trợ miễn phí 10 giờ/ngày. * STB, www.stb.com.Intel Express 3D

Page 39: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Ưu: Tốc độ 3D nhanhKhuyết: Không hỗ trợ trực tiếpVì Intel thiết kế chip 740, có thể bạn sẽ cho rằng bo mạch của họ đè bẹp được các đối thủ dùng chip Intel 740. Hoàn toàn không phải vậy!. Express 3D giá 119 USD kém hấp dẫn nhất trong 3 bo mạch dùng Intel 740 được thử nghiệm. Nhưng nó vẫn xuất sắc đối với các trò chơi.Mặc dù Express 3D có khả năng AGP 2X, nhưng tốc độ của nó chỉ ngang hàng với loại bo mạch hỗ trợ AGP 1X như Hercules Dynamite 3D/GL và trên trung bình đối với các bo AGP.

Express 3D rất nhanh trong các trò chơi. Chất lượng hình ảnh thì tuyệt vời - xuất sắc trong Turok, tốt trong Redline Racer và Flight Unlimited II. Cũng như các bo Intel740 khác, hình ảnh tạo bởi Express 3D trong Quake II hơi bị tối, nhìn không rõ.

Page 40: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Phần mềm kèm theo khá hấp dẫn, gồm một trò chơi 3D và một số ứng dụng nghiệp vụ 3D, nhưng hỗ trợ không đảm bảo. Vì Intel không trực tiếp hỗ trợ người dùng cuối nên khách hàng phải dựa vào các nhà phân phối hay đại lý của họ. * Intel, www.intel.com/graphics.Hercules Dynamite 3D/GLƯu: Tăng cường màu thực 3D trên bo mạchKhuyết: Chậm trong các trò chơi; hình 3D cần cải thiệnNếu bạn cần một bo mạch chỉ dùng cho văn phòng thì có thể chọn Hercules Dynamite 3D/GL. Nó thực hiện công việc nhanh, là card duy nhất có thể chạy 3D trong chế độ màu thực (true color) với tăng tốc phần cứng. Trong thử nghiệm PowerPoint tăng cường 3D 16,8 triệu màu, bo mạch này vượt trội so với các đối thủ.Thử nghiệm 3D thuần túy cho thấy Dynamite 3D/GL kém đối với các trò chơi. Do lỗi driver, nó không chạy được Turok và đạt điểm kém trong Quake II vì chất lượng hình không đảm bảo (phai màu). Trong Redline Racer, 3D/GL cho hình ảnh khá đẹp, nhưng tốc độ lại chậm, không thích hợp với yêu cầu của trò chơi. Kết quả khá nhất với Flight Unlimited II, cả về chất lượng hình và tốc độ.Các kỹ thuật viên của Hercules sẵn sàng hỗ trợ 12 giờ/ngày. Phần mềm kèm theo gồm có các công cụ xử lý ảnh và chương trình mô hình hóa, nhưng chỉ có một trò chơi. * Hercules, www.hercules.com.

Card đồ họa có thể tạo những hình ảnh tuyệt đẹp, nhưng bạn không thể tận hưởng chúng trên một màn hình tầm thường. Đây là hai yếu tố quan trọng mà bạn cần kiểm tra đối với cả màn hình và card đồ họa của mình:Tốc độ phục hồi đánh giá thời gian mà card đồ họa/màn hình tạo lại cảnh trên màn hình. Tốc độ này ít nhất phải đạt 75 Hz để tránh mỏi mắt và nhức đầu. (Đối với một số người, tốc độ này phải đạt 85 Hz mới được.)

Page 41: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Độ phân giải màn hình là số lượng điểm được hiển thị trên màn hình. Càng nhiều điểm độ phân giải càng cao và bạn càng xem được nhiều chi tiết. Tuy tất cả các card thử nghiệm đều hỗ trợ độ phân giải đến 1600x1200, nhưng một số làm hình ảnh phục hồi bị rung khi hoạt động với độ phân giải cao như vậy. Chẳng hạn với Intense 3D Voodoo, tốc độ phục hồi bị giảm xuống 70 Hz khi độ phân giải là 1600x1200. Khi xem hình độ phân giải cao trên màn hình lớn, phải đảm bảo là card và màn hình hỗ trợ cả tốc độ phục hồi cao lẫn độ phân giải cao.

Cách Setup BIOS Khi khởi động máy lần đầu tiên, máy tính sẽ đọc một tập hợp dữ liệu được lưu trong CMOS (một chip bộ nhớ đặc biệt luôn hoạt động nhờ 1 cục pin nhỏ), không có thông tin nầy máy tính sẽ bị tê liệt. Việc xác lập các thông tin nầy gọi là Setup Bios và bao giờ người bán cũng phải làm thủ tục Setup Bios ngay sau khi ráp máy. Nhưng bạn cũng phải biết cách Setup Bios để đề phòng trường hợp máy tự mất các thông tin lưu trong Bios vì các lý do như: Hết pin, nhiễu điện, virus...Hiện nay, người ta dùng Flash Ram để lưu thông tin Bios nên không cần phải có Pin nuôi trên mainboard. Tùy Mainboard, các mục trong Bios có thể khác nhau theo từng hãng chế tạo (Award, Ami, Pheonix...) nhưng về căn bản chúng vẫn giống nhau và trong phần nầy chủ yếu bàn về căn bản, còn các tính năng riêng bạn phải chịu khó tìm hiểu thêm nhờ vào các kiến thức căn bản nầy. Màn hình Bios Setup đa số là màn hình chạy ở chế độ TEXT. Gần đây đang phát triển loại BiosWin (Ami) có màn hình Setup gồm nhiều cửa sổ giống tương tự Windows và sử dụng được Mouse trong khi Setup nhưng các mục vẫn không thay đổi. Chú ý thao tác để vào Bios Setup là: Bấm phím Del khi mới khởi động máy đối với máy Đài Loan. Đối với các máy Mỹ, thường là bạn phải thông qua chương trình quản lý máy riêng của từng hãng nếu muốn thay đổi các thông số của Bios.

Page 42: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

* Bios thường: Di chuyển vệt sáng để lựa chọn mục bằng các phím mũi tên. Thay đổi giá trị của mục đang Set bằng 2 phím Page Up và Page Dn. Sau đó nhấn phím Esc để thoát khỏi mục (giá trị mới sẽ được lưu trữ). Nhấn F10 để thoát Setup Bios nếu muốn lưu các thay đổi, khi hộp thoại hiện ra, bấm Y để lưu, N để không lưu. Nhấn Esc nếu muốn thoát mà không lưu thay đổi, khi hộp thoại hiện ra, bấm Y để không lưu, N để trở lại màn hình Setup Bios. * Bios Win: Màn hình Setup xuất hiện dưới dạng đồ họa gồm nhiều cửa sổ, sử dụng được mouse nếu bạn có mouse loại: PS/2 mouse, Microsoft mouse, Serial mouse, Logitect C mouse. Dùng mouse bấm kép vào cửa sổ để mở một thành phần, bấm vào mục cần thay đổi, một cửa sổ liệt kê giá trị xuất hiện, bấm vào giá trị muốn chọn rồi thoát bằng cách bấm vào ô nhỏ ở góc trên bên trái. Nếu không có mouse, dùng các phím mũi tên để di chuyển, đến mục cần thay đổi bấm Enter, xuất hiện hộp liệt kê, chọn giá trị mới, bấm Enter, cuối cùng bấm Esc. 1. Setup các thành phần căn bản (Standard CMOS Setup): Đây là các thành phần cơ bản mà Bios trên tất cả các loại máy PC phải biết để quản lý và điều khiển chúng. * Ngày, giờ (Date/Day/Time): Bạn khai báo ngày tháng năm vào mục nầy. Khai báo nầy sẽ được máy tính xem là thông tin gốc và sẽ bắt đầu tính từ đây trở đi. Các thông tin về ngày giờ được sử dụng khi các bạn tạo hay thao tác với các tập tin, thư mục. Có chương trình khi chạy cũng cần thông tin nầy, thí dụ để báo cho bạn cập nhật khi quá hạn, chấm dứt hoạt động khi đến ngày quy định...Bình thường bạn Set sai hay không Set cũng chẳng nh hưởng gì đến hoạt động của máy. Các thông tin nầy có thể sửa chữa trực tiếp ngoài Dos bằng 2 lịnh Date và Time, hay bằng Control Panel của Windows mà không cần vào Bios Setup. Chú ý: Đồng hồ máy tính luôn luôn chạy chậm khong vài giây/ngày, thỉnh thoảng bạn nên chỉnh lại giờ cho đúng. Nhưng nếu quá chậm là có vấn đề cần phải thay mainboard. * ổ đĩa mềm (Drive A/B): Khai báo loại ổ đĩa cho ổ A và ổ B, bạn căn cứ vào việc nối dây cho ổ đĩa để xác định. ổ đĩa nối với đầu nối ngoài cùng của dây nối là ổ A, ổ kia là B. ổ có kích thước lớn là 1.2M 5.25 inch, ổ nhỏ là 1.44M 3.5 inch. Nếu không có thì chọn Not Installed. Nếu bạn khai báo sai, ổ đĩa sẽ không hoạt động chớ không hư hỏng gì, bạn chỉ cần khai báo lại. Trong các mainboard sử dụng Bios đời mới, khai báo sai loại ổ dĩa 1.2Mb thành 1.4Mb hay ngược lại, ổ dĩa vẫn hoạt động bình thường nhưng kêu rất lớn lúc mới bắt đầu đọc đĩa, về lâu dài có thể hư đĩa. Các Bios và các card I/O đời mới cho phép bạn tráo đổi 2 ổ đĩa mềm mà không cần tráo đổi dây (swap floppy drive), tức là ổ A thành ổ B và ngược lại khi sử dụng. Khi tráo đổi bằng cách Set jumper trên card I/O, bạn nhớ khai báo lại trong Bios Setup (Khi tráo bằng lịnh Swap trong Bios thì không cần khai báo lại), nhưng có ứng dụng không chịu cài đặt khi Swap đĩa mềm, nhất là các ứng dụng có bảo vệ chống sao chép. * ổ đĩa cứng (Drive C/D) loại IDE: Phần khai báo ổ đĩa cứng rắc rối hơn, bắt buộc bạn phải khai báo chi tiết các thông số, bạn khai báo sai không những ổ cứng không hoạt động mà đôi khi còn làm hư ổ cứng nếu bạn khai báo quá dung lượng thật sự của ổ cứng và cho tiến hành FDISK, FORMAT theo dung lượng sai nầy. May mắn là các Bios sau nầy đều có phần dò tìm thông số ổ cứng IDE tự động (IDE HDD auto detection) nên các bạn khỏi mắc công nhớ khi sử dụng ổ đĩa cứng loại IDE. Chúng tôi sẽ nói về phần auto detect nầy sau. Ngoài ra, các ổ cứng sau nầy đều có ghi thông số trên nhãn dán trên mặt. Bạn cho chạy Auto detect, Bios sẽ tự động điền các thông số nầy dùm bạn. Việc khai báo ổ cứng C và D đòi hỏi phải đúng với việc Set các jumper trên 2 ổ cứng. Bạn xác lập ổ cứng không phải qua đầu nối dây mà bằng các jumper trên mạch điều khiển ổ cứng. Các ổ cứng đời mới chỉ có một jumper 3 vị trí: ổ duy nhất, ổ Master (ổ C), ổ Slave (ổ D) và có ghi rõ cách Set trên nhãn. Các ổ đĩa cứng đời cũ nhiều jumper hơn nên nếu không có tài liệu hướng dẫn là rắc rối, phải mò mẫm rất lâu. * ổ đĩa cứng (Drive E/F) loại IDE:

Page 43: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Các Bios và các card I/O đời mới cho phép gắn 4 ổ dĩa cứng, vì hiện nay các ổ dĩa CDROM cũng sử dụng đầu nối ổ cứng để hoạt động, gọi là CDROM Interface IDE (giao diện đĩa IDE) để đơn giản việc lắp đặt. Chú ý: Khai báo là NONE trong Bios Setup cho ổ đĩa CD-ROM. * Màn hình (Video) - Primary Display: EGA/VGA: Dành cho loại màn hình sử dụng card màu EGA hay VGA, Super VGA. CGA 40/CGA 80: Dành cho loại màn hình sử dụng card màu CGA 40 cột hay CGA 80 cột. Mono: Dành cho loại màn hình sử dụng card trắng đen, kể c card VGA khi dùng màn hình trắng đen. * Treo máy nếu phát hiện lỗi khi khởi động (Error Halt): Tất cả lỗi (All error): Treo máy khi phát hiện bất cứ lỗi nào trong quá trình kiểm tra máy, bạn không nên chọn mục nầy vì Bios sẽ treo máy khi gặp lỗi đầu tiên nên bạn không thể biết các lỗi khác, nếu có. Bỏ qua lỗi của Keyboard (All, But Keyboard): Tất cả các lỗi ngoại trừ lỗi của bàn phím. Bỏ qua lỗi đĩa (All, But Diskette): Tất cả các lỗi ngoại trừ lỗi của đĩa. Bỏ qua lỗi đĩa và bàn phím (All, But Disk/Key): Tất cả các lỗi ngoại trừ lỗi của ổ đĩa và bàn phím. Không treo máy khi có lỗi (No error): Tiến hành quá trình kiểm tra máy cho đến khi hoàn tất dù phát hiện bất cứ lỗi gì. Bạn nên chọn mục nầy để biết máy bị trục trặc ở bộ phận nào mà có phương hướng giải quyết. * Keyboard: Install: Cho kiểm tra bàn phím trong quá trình khởi động, thông báo trên màn hình nếu bàn phím có lỗi. Not Install: Không kiểm tra bàn phím khi khởi động. Chú ý: chọn mục nầy không có nghĩa là vô hiệu hoá bàn phím vì nếu vậy làm sao điều khiển máy. Nó chỉ có tác dụng cho Bios khỏi mất công kiểm tra bàn phím nhằm rút ngắn thời gian khởi động. 2. Setup các thành phần nâng cao (Advanced Setup): * Virut Warning: Nếu Enabled, Bios sẽ báo động và treo máy khi có hành động viết vào Boot sector hay Partition của đĩa cứng. Nếu bạn cần chạy chương trình có thao tác vào 2 nơi đó như: Fdisk, Format... bạn cần phải Disable mục nầy. * Internal cache: Cho hiệu lực (enable) hay vô hiệu hoá (disable) Cache (L1) nội trong CPU 486 trở lên. * External cache: Cho hiệu lực (enable) hay vô hiệu hoá (disable) cache trên mainboard, còn gọi là Cache mức 2 (L2). * Quick Power On Self Test: Nếu enable Bios sẽ rút ngắn và bỏ qua vài mục không quan trọng trong quá trình khởi động, để giảm thời gian khởi động tối đa. * About 1 MB Memory Test: Nếu Enable Bios sẽ kiểm tra tất cả bộ nhớ. Nếu Disable Bios chỉ kiểm tra 1 Mb bộ nhớ đầu tiên. * Memory Test Tick Sound: Cho phát âm thanh (enable) hay không (disable) trong thời gian test bộ nhớ. * Extended Bios Ram Area: Khai báo mục nầy nếu muốn dùng 1 Kb trên đỉnh của bộ nhớ quy ước, tức Kb bắt đầu từ địa chỉ 639K hay 0:300 của vùng Bios hệ thống trong bộ nhớ quy ước để lưu các thông tin về đĩa cứng. Xác lập có thể là 1K hay 0:300. * Swap Floppy Drive: Tráo đổi tên 2 ổ đĩa mềm, khi chọn mục nầy bạn không cần khai báo lại loại ổ đĩa như khi tráo bằng cách Set jumper trên card I/O. * Boot Sequence: Chọn ổ đĩa cho Bios tìm hệ điều hành khi khởi động. Có thể là C rồi đến A hay A rồi đến C hay chỉ có C. Bạn nên chọn C,A hay chỉ có C, để đề phòng trường hợp vô tình khởi động bằng đĩa mềm có Virus.

Page 44: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Hiện nay trên các Mainboard Pentium. Bios cho phép bạn chỉ định khởi động từ 1 trong 2 ổ mềm hay trong 4 ổ cứng IDE hay bằng ổ cứng SCSI thậm chí bằng ổ CD Rom cũng được. * Boot Up Floppy Seek: Nếu Enable Bios sẽ dò tìm kiểu của đĩa mềm là 80 track hay 40 track. Nếu Disable Bios sẽ bỏ qua. Chọn enable làm chậm thời gian khởi động vì Bios luôn luôn phải đọc đĩa mềm trước khi đọc đĩa cứng, mặc dù bạn đã chọn chỉ khởi động bằng ổ C. * Boot Up Numlock Status: Nếu ON là cho phím Numlock mở (đèn Numlock sáng) sau khi khởi động, nhóm phím bên tay phải bàn phím dùng để đánh số. Nếu OFF là cho phím Numlock tắt (đèn Numlock tối), nhóm phím bên tay phải dùng để di chuyển con trỏ. * Boot Up System Speed: Quy định tốc độ của CPU trong thời gian khởi động là High (cao) hay Low (thấp). * Memory Parity Check: Kiểm tra chẵn lẻ bộ nhớ. Chọn theo mainboard vì có loại cho phép mục nầy enable, có loại bắt bạn phải disable mới chịu chạy. Đầu tiên bạn chọn enable, nếu máy treo bạn chọn lại là disable. Mục nầy không ảnh hưởng đến hệ thống, chỉ có tác dụng kiểm tra Ram. * IDE HDD Block Mode: Nếu ổ đĩa cứng của bạn hỗ trợ kiểu vận chuyển dữ liệu theo từng khối (các ổ đĩa đời mới có dung lượng cao). Bạn cho enable để tăng tốc cho ổ đĩa. Nếu ổ đĩa đời cũ bạn cho disable mục nầy. * Pri. Master/Slave LBA (Logic Block Addressing) Mode: Nếu 2 ổ đĩa cứng được nối vào đầu nối Primary của card I/O có dung lượng lớn hơn 528Mb, bạn cho enable mục nầy. * Sec. IDE Ctrl Drives Install: Mục nầy để khai báo máy bạn có ổ đĩa cứng nối vào đầu nối Secondary của card I/O. Các chỉ định có thể là Master, Mst/Slv và disable. * Sec Master/Slave LBA Mode: Xác lập LBA cho đầu nối thứ 2. Chú ý: Các mục hỗ trợ cho ổ đĩa cứng có dung lượng lớn và các card I/O đời mới giúp bạn sử dụng ổ đĩa có dung lượng trên 528Mb. Trong trường hợp bạn cho enable các mục nầy rồi mới tiến hành Fdisk và Format đĩa, nếu sau đó bạn lại disable các mục nầy hay đem gắn qua máy khác cũng chọn disable, bạn sẽ không thể sử dụng được ổ dĩa cứng. Khi dùng ổ CDROM có đầu nối IDE, bạn nên gắn vào đầu nối Secondary để khỏi ảnh hưởng đến ổ dĩa cứng (gắn vào đầu nối Pri) khi cần chạy 32BitDiskAccess trong Windows. * Typematic Rate Setting: Nếu enable là bạn cho 2 mục dưới đây có hiệu lực. 2 mục nầy thay thế lịnh Mode của DOS, quy định tốc độ và thời gian trể của bàn phím. * Typematic Rate (Chars/Sec): Bạn lựa chọn số ký tự/giây tuỳ theo tốc độ đánh phím nhanh hay chậm của bạn. Nếu bạn Set thấp hơn tốc độ đánh thì máy sẽ phát tiếng Bip khi nó chạy theo không kịp. * Typematic Delay (Msec): Chỉ định thời gian lập lại ký tự khi bạn bấm và giữ luôn phím, tính bằng mili giây. * Security Option: Mục nầy dùng để giới hạn việc sử dụng hệ thống và Bios Setup. Setup: Giới hạn việc thay đổi Bios Setup, mỗi khi muốn vào Bios Setup bạn phải đánh đúng mật khẩu đã quy định trước. System hay Always: Giới hạn việc sử dụng máy. Mỗi khi mở máy, Bios luôn luôn hỏi mật khẩu, nếu không biết mật khẩu Bios sẽ không cho phép sử dụng máy.

Page 45: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Chú ý: Trong trường hợp bạn chưa chỉ định mật khẩu, để Disable (vô hiệu hoá) mục nầy, bạn chọn Password Setting, bạn đừng đánh gì vào các ô nhập mật khẩu mà chỉ cần bấm ENTER. Trong trường hợp bạn đã có chỉ định mật khẩu nay lại muốn bỏ đi. Bạn chọn Password Setting, bạn đánh mật khẩu cũ vào ô nhập mật khẩu cũ (Old Password) còn trong ô nhập mật khẩu mới (New Password) bạn đừng đánh gì cả mà chỉ cần bấm ENTER. Có mainboard thiết kế thêm 1 jumper để xoá riêng mật khẩu ngoài jumper để xoá toàn bộ thông tin trong CMOS. Tốt hơn hết là bạn đừng sử dụng mục nầy vì bản thân chúng tôi chứng kiến rất nhiều trường hợp dở khóc dở cười do mục nầy gây ra. Lợi ít mà hại nhiều. Chỉ những máy tính công cộng mới phải sử dụng tới mục nầy thôi. * System Bios Shadow, Video Bios Shadow: Nếu enable là cho copy các dữ liệu về System và Video trong Bios (có tốc độ chậm) vào Ram (tốc độ nhanh) để rút ngắn thời gian khi cần truy nhập vào các dữ liệu nầy. * Wait for <F1> if Any Error: Cho hiện thông báo chờ ấn phím F1 khi có lỗi. * Numeric Processor: Thông báo có gắn CPU đồng xử lý (Present) trên máy hay không (absent). Mục nầy thường có cho các máy dùng CPU 286, 386, 486SX. Từ 486DX trở về sau đã có con đồng xử lý bên trong CPU nên trên các máy mới có thể không có mục nầy. * Turbo Switch Funtion: Cho nút Turbo có hiệu lực (enable) hay không (disable). Mục nầy thường thấy ở các Bios đời củ, trên các máy đời mới lựa chọn nầy thường bằng cách Set jumper của Mainboard. Từ Mainboard pentium trở đi không có mục nầy. 3. Setup các thành phần có liên quan đến vận hành hệ thống (Chipset Setup): * Auto Configuration: Nếu enable, Bios sẽ tự động xác lập các thành phần về DRAM, Cache...mỗi khi khởi động tùy theo CPU Type (kiểu CPU) và System Clock (tốc độ hệ thống). Nếu Disable là để cho bạn tự chỉ định. * AT Clock Option: Nếu Async (không đồng bộ) là lấy dao động chuẩn của bộ dao động thạch anh chia đôi làm tốc độ hoạt động cho AT Bus (bus 8 - 16Bit). Thường là 14.318MHz/2 tức 7.159MHz. Có Bios còn cho chọn tốc độ của mục nầy là 14.318MHz. Nếu Sync (đồng bộ) là dùng System Clock (do bạn chỉ định bằng cách Set jumper trên mainboard) làm tốc độ chuẩn. * Synchronous AT Clock/AT Bus Clock Selector: Chỉ định tốc độ hoạt động cho AT Bus bằng cách lấy tốc độ chuẩn (system clock) chia nhỏ để còn lại khoảng 8MHz cho phù hợp với card 16Bit. Các lựa chọn như sau: CLKI/3 khi system clock là 20 - 25MHz. CLKI/4 khi system clock là 33MHz. CLKI/5 khi system clock là 40MHz. CLKI/6 khi system clock là 50MHz. Tốc độ nầy càng lớn (số chia càng nhỏ), máy chạy càng nhanh do tăng tốc độ vận chuyển dữ liệu. Tuy nhiên lớn đến đâu là còn tùy thuộc vào mainboard và card cắm trên các Slot (quan trọng nhất là card I/O). Các bạn phải thí nghiệm giảm số chia từng nấc và chú ý máy có khởi động hay đọc đĩa bình thường không, nếu phát sinh trục trặc thì giảm xuống 1 nấc. Thường thì bạn có thể tăng được 2 nấc, thí dụ: System clock là 40MHz, bạn chọn CLKI/3. Card ISA 8 và 16 Bit có thể chạy tốt trong khoảng từ 8MHz đến 14MHz. Nếu nhanh quá, thường card I/O gặp trục trặc trước (không đọc được đĩa cứng). * AT Cycle Wait States/Extra AT Cycle WS: Để enable hay disable việc chèn thêm 1 thời gian chờ vào thời gian chuẩn của AT Bus. Nếu system clock dưới 33MHz chọn disable. Nếu trên 33MHz chọn enable. * Fast AT Cycle: Khi enable sẽ rút ngắn thời gian chuẩn của AT Bus.

Page 46: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

* DRAM Read Wait States/DRAM Brust Cycle: Dưới 33MHz là: 3 - 2 - 2 - 2 hay 2 - 1 - 1 - 1 Từ 33 - 45MHz là: 4 - 3 - 3 - 3 hay 2 - 2 - 2 - 2 50MHz là: 5 - 4 - 4 - 4 hay 3 - 2 - 2 - 2 Chọn mục nầy ảnh hưởng lớn đến tốc độ CPU. * DRAM/Memory Write Wait States: Chọn 1WS khi hệ thống nhanh hay DRAM chậm (tốc độ 40MHz trở lên). Chọn 0WS khi hệ thống và DRAM có thể tương thích (33MHz trở xuống). * Hidden Refresh Option: Khi enable, CPU sẽ làm việc nhanh hơn do không phải chờ mỗi khi DRAM được làm tươi. * Slow Refresh Enable: Mục nầy nhằm bảo đảm an toàn dữ liệu trên DRAM, thời gian làm tươi sẽ kéo dài hơn bình thường. Bạn chỉ được enable mục nầy khi bộ nhớ của máy hỗ trợ việc cho phép làm tươi chậm. * L1 Cache Mode: Lựa chọn giữa Write-Through và Write-Back cho Cache nội trong CPU 486 trở lên. Xác lập Write-Through máy sẽ chạy chậm hơn Write-Back nhưng việc lực chọn còn tuỳ thuộc vào loại CPU. * L2 Cache Mode: Xác lập cho cache trên mainboard. * IDE HDD Auto Detection/IDE SETUP: Khi chọn mục nầy sẽ xuất hiện một cửa sổ cho bạn chỉ định ổ đĩa cần dò tìm thông số (2 hay 4 ổ đĩa tuỳ theo Bios). Sau đó bạn bấm OK hay YES để Bios điền vào phần Standard dùm cho bạn. Trong Bios đời mới, Auto detect có thể đưa ra vài loại ổ đĩa. Tuỳ theo cách sử dụng ổ dĩa (normal, LBA,...) mà bạn chọn loại thích hợp. * Power Management Setup: Đối với CPU 486: Phần nầy là các chỉ định cho chương trình tiết kiệm năng lượng sẵn chứa trong các Bios đời mới. Chương trình nầy dùng được cho cả 2 loại CPU: Loại thường và loại CPU kiểu S. CPU kiểu S hay CPU có 2 ký tự cuối SL là một loại CPU được chế tạo đặc biệt, có thêm bộ phận quản lý năng lượng trong CPU. Do đó trong phần nầy có 2 loại chỉ định dành cho 2 loại CPU. Đối với Pentium: Dùng chung cho mọi loại Pentium hay các chíp của các hảng khác cùng đời với Pentium. * Power Management/Power Saving Mode: Disable: Không sử dụng chương trình nầy. Enable/User Define: Cho chương trình nầy có hiệu lực. Min Saving: Dùng các giá trị thời gian dài nhất cho các lựa chọn (tiết kiệm năng lượng ít nhất). Max Saving: Dùng các giá trị thời gian ngắn nhất cho các lựa chọn (tiết kiệm nhiều nhất). * Pmi/Smi: Nếu chọn SMI là máy đang gắn CPU kiểu S của hãng Intel. Nếu chọn Auto là máy đang gắn CPU thường. * Doze Timer: Mục nầy chỉ dùng cho CPU kiểu S. Khi đúng thời gian máy đã rảnh (không nhận được tín hiệu từ các ngắt) theo quy định, CPU tự động hạ tốc độ xuống còn 8MHz. Bạn chọn thời gian theo ý bạn (có thể từ 10 giây đến 4 giờ) hay disable nếu không muốn sử dụng mục nầy. * Sleep Timer/Standby timer: Mục nầy chỉ dùng cho CPU kiểu S. Chỉ định thời gian máy rảnh trước khi vào chế độ Sleep (ngưng hoạt động). Thời gian có thể từ 10 giây đến 4 giờ. * Sleep Clock:

Page 47: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Mục nầy chỉ dùng cho CPU kiểu S: Stop CPU hạ tốc độ xuống còn 0MHz (ngưng hẳn). Slow CPU hạ tốc độ xuống còn 8MHz. * HDD Standby Timer/HDD Power Down: Chỉ định thời gian ngừng motor của ổ đĩa cứng. * CRT Sleep: Nếu Enable là màn hình sẽ tắt khi máy vào chế độ Sleep. * Chỉ định: Các chỉ định cho chương trình quản lý nguồn biết cần kiểm tra bộ phận nào khi chạy. Chú ý: Do Bios được sản xuất để sử dụng cho nhiều loại máy khác nhau nên các bạn luôn luôn gặp phần nầy trong các Bios. Thực ra chúng chỉ có giá trị cho các máy xách tay (laptop) vì xài pin nên vấn đề tiết kiệm năng lượng được đặt lên hàng đầu. Chúng tôi khuyên các bạn đang sử dụng máy để bàn (desktop) nên vô hiệu hoá tất cả các mục trong phần nầy, để tránh các tình huống bất ngờ như: đang cài chương trình, tự nhiên máy ngưng hoạt động, đang chạy Defrag tự nhiên máy chậm cực kỳ... 4. Phần dành riêng cho Mainboard theo chuẩn giao tiếp PCI có I/O và IDE On Board (peripheral Setup): * PCI On Board IDE: Cho hiệu lực (enabled) hay vô hiệu (disabled) 2 đầu nối ổ đĩa cứng IDE trên mainboard. Khi sử dụng Card PCI IDE rời, ta cần chọn disabled. * PCI On Board Secondary IDE: Cho hiệu lực (enabled) hay vô hiệu (disabled) đầu nối ổ đĩa cứng IDE thứ 2 trên mainboard. Mục nầy bổ sung cho mục trên và chỉ có tác dụng với đầu nối thứ 2. * PCI On Board Speed Mode: Chỉ định kiểu vận chuyển dữ liệu (PIO speed mode). Có thể là Disabled, mode 1, mode 2, mode 3, mode 4, Auto. Trong đó mode 4 là nhanh nhất. * PCI Card Present on: Khai báo có sử dụng Card PCI IDE rời hay không và nếu có thì được cắm vào Slot nào. Các mục chọn là: Disabled, Auto, Slot 1, Slot 2, Slot 3, Slot 4. * PCI IRQ, PCI Primary IDE IRQ, PCI Secondary IDE IRQ: Chỉ định cách xác lập ngắt cho Card PCI IDE rời. Chú ý: Trong mục nầy có phần xác lập thứ tự gán ngắt cho các Card bổ sung. Thí dụ: 1 = 9, 2 = 10, 3 = 11, 4 = 12 có nghĩa là Card đầu tiên cắm vào bất kỳ Slot nào sẽ được gán ngắt 9, nếu có 2 Card thì Card cắm vào Slot có số thứ tự nhỏ sẽ được gán ngắt 9, Slot có số thứ tự lớn sẽ được gán ngắt 10.v..v... * IDE 32Bit Transfers Mode: Xác lập nầy nhằm tăng cường tốc độ cho ổ đĩa cứng trên 528Mb, nhưng cũng có ổ đĩa không khởi động được khi enabled mục nầy dù fdisk và format vẫn bình thường. * Host to PCI Post Write W/S, Host to PCI Burst Write, Host to DRAM Burst Write: Các mục nầy xác lập cho PCU Bus, không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ CPU, có thể để nguyên xác lập mặc nhiên. * PCI Bus Park, Post Write Buffer: Khi enabled các mục nầy có thể tăng cường thêm tốc độ hệ thống. * FDC Control: Cho hiệu lực hay không đầu nối cáp và xác lập địa chỉ cho ổ đĩa mềm. * Primary Seral Port: Cho hiệu lực hay không cổng COM 1 và xác lập địa chỉ cho cổng nầy. * Secondary Serial Port: Cho hiệu lực hay không cổng COM 2 và xác lập địa chỉ cho cổng nầy. Chú ý: Nếu bạn sử dụng Card bổ sung có xác lập điạ chỉ là COM 1 hay COM 2, bạn phải disabled cổng tương ứng trong hai mục trên. * Parallel Port:

Page 48: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Cho hiệu lực hay không cổng LPT 1 và xác lập địa chỉ cho cổng nầy. 5. Hướng dẫn Setup Bios: Trong các tài liệu đi kèm mainboard, đều có hướng dẫn Setup Bios. Khi mua máy hay mua mainboard, các bạn nhớ đòi các tài liệu nầy vì nó rất cần cho việc sử dụng máy. Trong các phần Setup trên, phần Standard, Advanced có ảnh hưởng đến việc cấu hình máy. Phần Chipset ảnh hưởng đến tốc độ máy. Phần PCI ảnh hưởng đến các gán ngắt, địa chỉ cho các Slot PCI, cổng; cách vận chuyển dữ liệu cho IDE On Board. Nếu gặp các thành phần hoàn toàn mới, trước tiên bạn hãy Set các thành phần đã biết, kiểm tra việc thay đổi của máy, cuối cùng mới Set tới các thành phần chưa biết. Chúng tôi xin nhắc lại, việc Setup Bios sai không bao giờ làm hư máy và các bạn sẽ dễ dàng Setup lại nhờ vào chính Bios. Trên mainboard luôn luôn có 1 Jumper dùng để xóa các thông tin lưu trong CMOS để bạn có thể tạo lại các thông tin nầy trong trường hợp không thể vào lại Bios Setup khi khởi động máy. Khi tiến hành tìm hiểu Setup Bios, bạn nên theo một nguyên tắc sau: Chỉ Set từng mục một rồi khởi động máy lại, chạy các chương trình kiểm tra để xem tốc độ CPU, ổ đĩa có thay đổi gì không?. Cách làm nầy gíúp bạn phát hiện được ảnh hưởng của từng mục vào hệ thống và bạn có thể biết chắc trục trặc phát sinh do mục nào để sửa chữa. Khi xẩy ra trục trặc mà bạn không biết đối phó, bạn chỉ cần vào lại Bios Setup chọn Load Bios Default hay bấm F6 trong phần Set mà bạn muốn phục hồi sau đó khởi động máy lại là xong.

CáCH Để UPGRADE BIOS CHO

Page 49: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

MAINBOARD ASUS

Khi nào cần upgrade (flash) BIOS ? Một file upgrade BIOS thường chứa đựng một hoặc nhiều tính chất sau đây:

bổ sung thêm các chức năng BIOS mới khắc phục các lỗi (bug) hoặc các vấn đề tương thích. bổ sung việc nhận diện và hỗ trợ các CPU mới.

File upgrade BIOS mới nhất luôn chứa các chức năng sửa lỗi từ các revision trước đó. Vì thế, bạn không cần phải flash mọi BIOS reversion ở giữa revision hiện có trên mainboard bạn và revision mới nhất. Chẳng hạn, từ BIOS hiện nay của mainboard có revision 1006, bạn vẫn có thể upgrade thẳng lên revision 1010.Tuy nhiên, nếu máy của bạn đang hoạt động ổn định, không có các vấn đề và các xung đột, cũng như chưa có yêu cầu nâng cấp lên các CPU mà BIOS revision hiện hữu chưa hỗ trợ, hãng sản xuất mainboard khuyến cáo bạn không nhất thiết phải flash BIOS mới. Việc cố gắng xử lý một hệ thống đang vận hành tốt có thể dẫn tới hậu quả một hệ thống bị đổ vỡ.Việc update là cần thiết để giúp mainboard tương thích với các thiết bị mới, nhất là mỗi khi có một loại CPU mới ra đời. Nhưng đây cũng là một công việc cực kỳ nguy hiểm, thậm chí có thể làm chết BIOS,

Page 50: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

nhất là khi đang update nửa chừng mà bị cúp điện cái bụp. Nếu không có UPS để tích lưu điện, tốt hơn cả là vừa "ấp", vừa niệm Phật. Hãy cẩn thận làm theo hướng dẫn trong chương trình.Tuyệt đối tuân theo các hướng dẫn trong Manual của mainboard cũng như trong trang hướng dẫn kèm theo từng BIOS. Mỗi hãng và mỗi model mainboard sử dụng một type BIOS riêng biệt, không thể có sự "lắp lẫn".

Cách xác định revision của BIOS hiện hữu :Hãy boot máy. Trong lúc BIOS đang kiểm tra bộ nhớ, hãy xem nơi dòng : #401A0-XXXX. Đây là dòng nằm ở hàng thứ ba, tính từ đỉng màn hình xuống. Bốn chữ số cuối cùng chính là BIOS revision. Chẳng hạn, #401A0-0202 có nghĩa là máy bạn có BISO revision 0202. Các mainboard thế hệ mới nhất thường ghi rõ revision của BIOS ở dòng thứ ba này. Thí dụ mainboard P2B ghi "ASUS P2B ACPI BIOS Revision 1010".

Tiến trình flash BIOS :Đầu tiên, bạn:

Page 51: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

1. HìNH THàNH ĐĩA FLASH Có KHả NĂNG BOOT : Hình thành một đĩa mềm có khả năng boot. Bằng cách từ dấu nhắc MS-DOS đánh dòng lệnh

FORMAT A: /Q/S. Chú ý là trên đĩa khởi động này chỉ có các file hệ thống chứ không được có hai file "AUTOEXEC.BAT" và "CONFIG.SYS"

Copy file công cụ flash (thí dụ AFLASH21.EXE, hay PFLASH2.EXE,.... tùy theo type BIOS và mainboard) vào đĩa này.

Copy file upgrade BIOS revision mới nhất mà bạn muốn flash vào đĩa này. File này có mang tên type mainboard và có đuôi là .AWD.

2. LOAD BIOS DEFAULT : Boot máy. Khi BIOS đang kiểm tra bộ nhớ và các thiết bị phần cứng, nhấn phim DEL (Delete) để vào

CMOS. Chọn LOAD BIOS DEFAULT và LOAD SETUP DEFAULT SAVE và thoát khỏi CMOS.

3. SAVE BIOS HIệN HữU :Nếu không có sẵn file AWD của BISO revision hiện hữu, bạn cần phải Save nó vào đĩa mềm ngay từ BIOS của mình để đề phòng trong trường hợp mainboatrd của bạn không tương thích với revision mới thì có cái cũ mà nạp lại.

Nạp đĩa boot tạo lúc nãy vào ổ. Boot lại máy. ở dấu nhắc MS-DOS, đánh tên file công cụ flash (thí dụ A:\AFLASH21) để kích hoạt công cụ

flash.

Page 52: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nhấn phím số 1 để chọn lệnh : 1. Save Current BIOS To File. Gõ Enter.CHú ý : Nếu sau dòng chữ Flash Memory: xuất hiện chữá "unknown" (không biết) thay vì tên rõ rành rành của bộ nhớ flash, thì chip bộ nhớ của máy bạn hoặc không phải thuộc loại có thể lập trình được, hoặc không được ACPI BIOS hỗ trợ. Và như vậy nó không thể được lập trình bằng công cụ ghi the Flash Memory Write utility.

Màn hình Save Current BIOS To File xuất hiện. Bạn điền tên file của BIOS muốn save vào. Nhớ đánh

cả dường dẫn tới đĩa lưu và đuôi AWD của file. Thí dụ : A:\BX2I009.AWD. Gõ Enter.

Page 53: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

4. UPGRADE BIOS : Đánh phím số 2 trên màn hình menu chính để chọn 2. Update BIOS In-cluding Boot Block and ESCD

Gõ Enter. Màn hình Update BIOS In-cluding Boot Block and ESCD xuất hiện. Đánh chính xác đường dẫn và tên file BIOS mới vào. Thí dụ A:\BX2I1010.AWD Gõ Enter

Khi xuất hiện màn hình yêu cầu bạn khẳng định việc upgrade Are you sure (Y/N) ?, bạn hãy gõ chữ Y để bắt đầu quá trình flash.Công cụ flash sẽ xóa các dữ liệu hiện có trong chip ROM BIOS và bắt đầu nạp các thông số của revision mới vào thay thế. Sau khi xong, trên màn hình sẽ xuất hiện dòng chữ báo đã thành công (Flashed Successfully). Khi xuất hiện dòng chữ thông báo hỏi bạn có tiến hành flash trở lại lần nữa không, hãy đánh chữ N (No) để kết thúc quá trình flash. Chỉ đánh chữ Y (Yes) nếu như việc upgrade gặp sự cố, trình flash không hoàn thành nhiệm vụ được, cần cố gắng flash lại lần nữa.

Page 54: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Sau khi hoàn tất, nhấn phím ESC để trở về màn hình chính. Chú ý đọc kỹ những hướng dẫn trên màn hình.Nhấn ESC để thoát về MS-DOS. Lấy đĩa mềm ra khỏi ổ Restart máy. Nhấn Del để mở CMOS. Chọn lệnh LOAD BIOS DEFAULT và LOAD SETUP DEFAULT để cho CMOS upgrade các thông số BIOS mới SAVE và thoát khỏi CMOS. Restart lại máy và lần này bạn có thể vào CMOS để hiệu chỉnh lại các thông số theo ý mình. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, tốt nhất là bạn cứ để mặc CMOS load Setup Default và vào chạy Windows để kiểm tra xem có tương thích không. Sau đó mới restart lại máy và vào CMOS hiệu chỉnh lại BIOS.

Page 55: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

CHú ý : Nếu gặp sự cố trong quá trình upgrade BIOS, bạn ĐừNG TắT MáY, vì điều này có thể khiến cho máy bạn không còn có thể boot lại được nữa. Chỉ nên lặp lại quá trình flash. Nếu các vấn đề vẫn không khắc phục được, bạn chỉ còn có nước upgrade lại file BIOS revision cũ mà bạn save lại lúc đầu.áá Trong trường hợp số con rận ốm đói, nếu công cụá Flash Memory Writer không thể upgrade thành công 1 file BIOS hoàn chỉnh, máy bạn có thể "ò e Rôbe đánh đu" nghìn thu vĩnh biệt, không còn khởi động lại được nữa. Giải pháp : Xách mainboadr đi ... bảo hành, hay tới một dịch nụp nào có máy nạp ROM BIOS để làm một con BIOS mới. Dĩ nhiên là bạn phải cung cấp file BIOS tương thích với mainboard của mình cho họ.

GHI CHú : Các hình ảnh trên đây có thể không giống với trình flash BIOS mà bạn đang sử dụng. Chúng chỉ có tính chất minh họa giúp bạn có một số ý niệm về quá trình flash. Bởi lẽ mỗi trình flash BIOS có giao diện khác nhau.

Page 56: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Cách vào Bios Setup

Đối với vài Bios thông dụng, ta có những cách để vào Bios Setup như sau:

Bios Chuỗi phímAmi Phím DelAward Ctrl+Alt+EscDtk EscIbm Ps/2 Ctrl+Alt+Ins sau Ctrl+Alt+DelPhoenix Ctrl+Alt+Esc hay Ctrl+Alt+SSony F3Compaq F10

Đối với những Bios lạ hay khi bạn không nhớ chuổi phím quy định, bạn có thể ép buộc máy phải vàp Bios Setup bằng cách thay đổi cấu hình máy như: tháo bớt ram, tháo rời dây cáp tín hiệu ổ mềm, ổ cứng...Điều nầy gây ra lổi cấu hình Bios và máy sẽ đề nghị bạn vào Bios Setup để xác lập lại.

Cách xóa Password trong BIOSPassword được chứa trong CMOS RAM, có nhiều cách xóa thông tin trên bộ nhớ CMOS RAM : * Bằng jumper "clear CMOS" trên mainboard. Bạn phải tham khảo tài liệu về mainboard của máy bạn (đi kèm khi mua máy) để biết cụ thể vị trí jumper nầy. Có một số mainboard có 1 jumper dành riêng để chỉ xóa mật khẩu mà không xóa các thông số khác.* Bằng cách gỡ chip RAM CMOS ra khỏi mainboard 1 thời gian (để các tụ lọc phóng hết điện) rồi gắn lại nếu chip này được gắn trên một đế.* Bằng cách chập mạch các transistor và RAM CMOS trên mainboard (cách nầy không nên làm nếu không biết về điện tử).* Bằng cách gỡ pin nuôi CMOS ra khỏi mainboard rồi gắn lại. Tuy nhiên tùy theo loại pin mà có thể sẽ phải dùng mỏ hàn và đòi hỏi phải biết về kỷ thuật hàn mạch điện tử.Sau khi đã xóa được RAM CMOS, bạn khởi động máy lại, vào trình Setup để cấu hình lại các thông số đúng cho BIOS. Nếu bạn quên các thông số này, bạn có thể dùng chức năng "Load BIOS default".

Cần biết về CPU 1- CPU 486 CPU 486 có rất nhiều họ như: 486SX, DX, DX2, DX4, SLX...do nhiều hãng sản xuất như: Intel, AMD, Cirux...Trong mỗi họ lại có nhiều tần số hoạt động khác nhau như: 25, 33, 40, 50, 66, 80, 100MHz...và chạy điện thế khác nhau như: 5v, 3v, 3.5v...(chính vì lý do nầy mà mainboard có rất nhiều Jumper). Chúng tôi không đi sâu vào chi tiết kỹ thuật mà chỉ xin giải thích ngắn, gọn như sau: - 486SX không có bộ đồng xử lý toán học như các họ 486 khác. - 486SL là loại được thiết kế dùng cho máy xách tay, nó có thêm bộ quản lý để tiết kiệm nguồn điện khi máy không hoạt động (nhưng hiện nay nó cũng được dùng cho máy để bàn). - 486SX, 486DX có tốc độ hoạt động nội bộ bằng tốc độ mainboard. - 486DX2 có tốc độ nội bộ gấp đôi tốc độ mainboard (riêng DX2 80MHz của AMD có thêm loại dùng điện thế 3v).

Page 57: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

- 486DX4 có tốc độ nội bộ gấp tư tốc độ mainboard (họ nầy có 2 loại điện thế 5v và 3v được ghi rỏ trên CPU). Chú ý: Loại CPU chạy điện thế 3v đầu tiên được chế tạo dùng cho máy Laptop để đở nóng và ít hao pin. Nhưng sau nầy cũng được dùng luôn cho máy Desktop, do đó khi sử dụng loại CPU nầy mà Set Jumper lộn điện thế 5v rất nguy hiểm cho CPU vì tăng nhiệt. Trên các Mainboard 486, bạn có thể chọn tần số mainboard và tỷ lệ x sao cho đúng với tốc độ CPU, không nhất thiết phải là x2 hay x3 hay x4 theo tên gọi. Thí dụ: 486 DX4-100MHz có thể Set là 50x2 hay 33x3 hay 24x4. Trong họ 486, nhanh nhất là CPU do AMD sản xuất, các hảng khác không có tương đương. Đó là loại AMD486-120Mhz và AMD486-133Mhz. Giải thích: Tốc độ Mainboard (System Clock): Tức là tốc độ xung nhịp làm việc của mainboard, tính bằng Mhz và được duy trì do một bộ dao động thạch anh gắn trên mainboard. Xác lập bằng jumper. Tốc độ CPU: Tức là tốc độ xung nhịp làm việc của CPU, tính bằng Mhz. Xác lập bằng jumper. Tại sao có DX, DX2, DX4: Mainboard thường chỉ cho phép chạy với tốc độ tối đa là 60 Mhz, khi tốc độ cao hơn sẽ phát sinh nhiểu mạnh làm rối loạn hoạt động của hệ thống, nhiểu nầy chủ yếu do kỷ thuật và vật liệu chế tạo mainboard trong thương mại nên khó khắc phục (nếu cố tăng thì giá thành lại quá cao). Vì vậy chúng ta chỉ thấy có DX 50Mhz là hết, để tăng tốc độ cho máy tính, người ta chỉ còn cách là tăng tốc độ nội bộ của CPU vì CPU không gặp vấn đề nhiểu như mainboard. Vì vậy mới có DX2 và đến DX2 80Mhz là hết, tiếp đó đến DX4 và theo tính toán thì đến DX4 160Mhz là hết. 2- CPU 586 Tương tự 486, CPU 586 cũng có rất nhiều loại và do nhiều hảng sản xuất . Thấp nhất là 586-75MHz và cao nhất hiện nay là 586-233MHz. Có tần số hoạt động gấp nhiều lẩn tần số hoạt động của Mainboard và tỷ lệ nhân tuỳ theo tần số của Mainboard nên không cần phân biệt theo tên gọi. Thông dụng nhất là Pentium của hảng Intel. Chú ý: * CPU của Intel hoạt động ở tần số đúng với tên gọi. Thí dụ Pentium 166 chạy ở 166MHz. * CPU của các hảng khác có thể hoạt động ở tần số thấp hơn tên gọi. Thí dụ AMD K-133MHz chạy ở 100MHz. Vì tên gọi chỉ phản ánh so sánh với CPU của Intel chớ không chỉ tần số hoạt động đìch thực. * Tất cả các chương trình hiện nay đều viết cho CPU của Intel. Tất cả các CPU của hảng khác bắt buộc phải tương thích với CPU Intel thì mới có chương trình để hoạt động. Tuy nhiên do họ không thể làm giống CPU Intel 100% nên khi sử dụng CPU của các hảng khác cần coi chừng vấn đề tương thích phần mềm. Vấn đề tương thích với Mainboard cũng xẩy ra tương tự như vậy. 3- CPU 686 Thông dụng nhất là Pentium Pro của Intel. Đặc biệt trong CPU nầy có chứa luôn Cache Level 2 (Cache nằm trên Mainboard) nên tốc độ rất nhanh. Do gía cao nên CPU nầy chủ yếu dành cho máy Server. 4- CPU 586/686 MMX Loại CPU mới nhất, được tăng cường mã lịnh đặc biệt để tăng tốc các ứng dụng Multi Media. Đối với các chương trình thường, CPU nầy nhanh hơn khoảng 10%. Đối với các chương trình viết riêng để tận dụng mã lịnh nầy, CPU sẽ nhanh hơn khoảng 50% so với loại thường. 5- Tăng tốc độ CPU : Tất cả CPU bán ra đều được quy định một chế độ hoạt động tối ưu khi lắp ráp trên mọi loại mainboard và do mọi người sử dụng. Chế độ nầy chính là nhãn của CPU. Đối với người hiểu biết về phần cứng có một cách đơn giản để tăng tốc độ CPU là tăng tốc độ đồng hồ cho mainboard, thí dụ 486 DX2 66MHz được quy định chạy với tốc độ Mainboard là 33MHz, bạn có thể tăng lên 40MHz nó sẽ chạy như 486DX2 80MHz mà không hề hấn gì (khi đó Bios sẽ báo khi khởi động máy là bạn đang sử dụng CPU

Page 58: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

486DX2 80 do nó lấy thông tin từ các Jumper CPU Type và Clock selector). Tương tự như vậy 486DX4 75MHz bạn có thể tăng lên thành 486DX4 100MHz. Lợi dụng đặc điểm nầy của CPU mà người ta đã làm ra CPU Remark tức là CPU cấp thấp đổi nhãn lại thành CPU cấp cao hơn. Khi ráp vào máy, bảo đảm không có chương trình test máy nào hiện nay có thể phác giác được, kể cả Bios máy cũng sai lầm luôn và người dùng máy có kinh nghiệm cũng không biết vì CPU chạy đúng tốc độ chứ đâu có chậm hơn (việc nầy thực ra người ta đã làm từ lúc mới xuất hiện máy PC, lúc đó IBM sản xuất mainboard gắn CPU 8086 chạy với tốc độ 8MHz, sau đó các nhà sản xuất máy nhái mới nâng tốc độ lên trên các máy của mình, kết qủa là máy nhái chạy nhanh hơn máy chính gốc). CPU còn một đặc điểm nữa là bạn chỉ được nâng tốc độ đồng hồ mainboard lên 1 bậc so với tốc độ ghi trên nhãn, cao hơn nữa nó sẽ ngưng hoạt động. Thí dụ: 80 cho 66, 100 cho 75...Dựa vào đặc điểm này bạn có thể Test CPU có bị Remark hay không? vì không thể tăng tốc độ cho CPU Remark (nó đã được tăng rồi).

Các điều kiện cần thiết cho việc tăng tốc độ CPU: Để tăng tốc hay Test cho CPU, đòi hỏi bạn phải có mainboard đa năng và sách hướng dẫn Set Jumper của hãng sản xuất cung cấp (bạn cần đọc kỹ lưỡng sách hướng dẫn trước khi thao tác). Bạn cần phải có quạt giải nhiệt cho CPU vì khi tăng tần số hoạt động thì CPU tăng nhiệt độ. Bạn cần nắm vững Setup Bios để điều chỉnh nếu cần. Cách tiến hành: Đối chiếu sách hướng dẫn và mainboard, ghi nhớ vị trí các jumper cần điều chỉnh để tránh trường hợp Set lộn jumper. Bước 1: Đầu tiên bạn ghi lại vị trí nguyên thủy của các bộ jumper sẽ sửa chữa để có thể phục hồi máy lại tình trạng cũ. Sau đó bạn Set lại 3 bộ Jumper Clock selector, CPU Type và Vesa Bus (choMainboard Vesa Local Bus) theo tốc độ mới đúng như chỉ dẫn của sách. Chú ý: Nếu bạn đang sử dụng CPU 3v thì cần quan tâm tới bộ jumper Voltage. nhưng tuyệt đối không được Set lại thành 5v. CPU dưới 5v gồm các loại sau: Itel 486DX4 (3.3v), AMD Am486DX2-80/DX4-100 (3.45v), Cyrix Cx486DX2-66/DX2-80 (3.3v/4v). CPU 586, 656 có điện thế dưới 5 V, thường là khoảng 3v-3.5v tuỳ hảng sx CPU MMX sử dụng tới 2 điện thế khác nhau nên cần phân biệt với CPU thường. Bước 2: Khởi động máy, vào Windows chạy chương trình nào tốn nhiều bộ nhớ và hay truy xuất đĩa cứng để xem mọi hoạt động có bình thường không? Nếu thỉnh thoảng máy bị treo thì bạn vào Bios Setup để tăng thời gian chờ (wait state), giảm tốc độ đồng hồ cho AT Bus (phần Bios Setup chúng tôi sẽ trình bày sau). Nếu máy treo ngay từ lần khởi động đầu tiên thì có 2 trường hợp sau: * Set Jumper sai: đọc lại sách hướng dẫn và Set lại đầy đủ các bộ jumper liên quan. Nếu Set đúng và tốc độ chỉ tăng 1 nấc, bảo đảm máy phải khởi động được. * CPU đã bị remark: không thể tăng được nữa.

Page 59: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Cần biết về card màn hình và monitor Trên các máy 386, tốc độ card màn hình không quan trọng lắm nên người dùng không chú ý mà chỉ quan tâm đến độ phân giải. Khi bạn sử dụng máy từ 486 trở đi thì monitor và card màn hình có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất toàn hệ thống, vì nếu chúng chạy chậm sẽ gây ra hiện tượng thắt cổ chai làm giảm tốc độ toàn bộ hệ thống. 1/ Card màn hình: a) Dành cho máy 386: Card màn hình của 386 cũng có các đặc điểm gíống như 486, nó chỉ khác là chạy 16Bit nên tốc độ chậm hơn và cũng có card tăng tốc 16Bit. b) Dành cho máy 486: Nếu đã mua máy 486 để tận dụng tốc độ cao thì không có lý do gì để giữ lại card màn hình 16Bit chậm chạp, Do tốc độ chậm nó sẽ kềm hãm tốc độ xử lý của CPU và khi bị thúc ép quá nó sẽ cập nhật màn hình lung tung hay gây ra nhiều hiện tượng kỳ quái khác mà bạn không thể ngờ là do card màn hình chậm chạp gây ra. Tối thiểu bạn nên trang bị card màn hình 32Bit (VL Bus) thường với 1Mb ram, tối ưu là card màn hình tăng tốc 32Bit (VL Bus Accelerator) với 1Mb ram. Khi chạy các chương trình đồ hoạ bạn mới thấy hiệu quả của nó thật xứng đáng với đồng tiền bạn bỏ ra. Card tăng tốc khác card thường ở chỗ nó có thêm 1 con CPU chuyên dùng để tính toán việc cập nhật màn hình (tốc độ tính toán của nó còn nhanh hơn tốc độ tính của CPU trên máy do nó được thiết kế chỉ để làm việc nầy. Khi làm việc, CPU trên máy chỉ cần ra những lịnh tổng quát, còn việc tính toán cập nhật từng điểm trên màn hình do con CPU nầy đảm nhiệm), tốc độ cập nhật vừa nhanh lại vừa giải phóng thời gian cho CPU chính làm chuyện khác. Độ phân giải cuả card 32Bit thường với 1Mb ram như sau: - 640x480 tối đa 16 triệu màu (24 bit màu). - 800x600 tối đa 65.536 màu (16 bit màu). - 1024x768 tối đa 256 màu (8 bit màu). Độ phân giải cuả card 32Bit tăng tốc với 1Mb ram như sau: - 640x480 tối đa 16,7 triệu màu (24 bit màu). - 800x600 tối đa 256 màu (8 bit màu). - 1024x768 tối đa 256 màu (8 bit màu). - 1280x1024 tối đa 16 màu (4 bit màu). b) Dành cho máy 586 trở đi: Card màn hình hiện nay có giao tiếp PCI, Ram trên card thường từ 1 Mb đến 4Mb. Tăng tốc đồ hoạ và hổ trợ MPEG. Chú ý: Số lượng Ram trên card ảnh hưởng chủ yếu đến độ phân giải và độ sâu màu, ít ảnh hưởng đến tốc độ. Muốn tăng tốc độ card màn hình, phải dùng loại Ram nhanh hơn chớ không phải đơn giản là tăng dung lượng Ram. 2/ Monitor: Đa số monitor đang được bán là loại Super VGA, các monitor VGA không còn thấy bán nữa, do đó chúng tôi chỉ đề cập đến loại Super VGA 14 inches thông dụng. - Độ phân giải tối đa: 1024x768. - Chế độ hoạt động: có 2 loại Interlaced và Non Interlaced. - Tần số quét ngang/dọc: có 2 loại chất lượng thấp và chất lượng cao, cả 2 loại đều là quét tự động (Multi Scan). a) Độ phân giải:

Page 60: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Độ phân giải tức là số điểm trên màn hình theo chiều ngang và chiều cao. Thí dụ: 640x480 tức là ngang có 640 điểm và cao có 480 điểm. Độ phân giải càng cao hình có thể hiển thị càng nhiều và càng nhỏ vì số điểm tăng trong khi diện tích không thay đổi, thời gian cập nhật màn hình càng lâu. Bạn cần phân biệt giữa độ phân giải và Dot pitch (Khoảng cách giữa 2 điểm kề nhau trên màn hình tính bằng mm, Dot pitch càng nhỏ màn hình càng sắc nét). Thí dụ: 800x600 0.28mm có nghĩa là 800 điểm ngang, 600 điểm dọc và khoảng cách giửa 2 điểm kề nhau 0,28mm. Bạn cần phân biệt giữa độ phân giải và số điểm phát sáng thật sự trên màn hình màu. Mỗi điểm của độ phân giải do 3 điểm phát sáng của 3 màu cơ bản hợp lại tương tự như màn hình tivi. Như vậy bạn cứ lấy độ phân giải x 3 thì được số lượng điểm phát sáng thực sự trên màn hình. b) Interlaced: Quét xen kẻ (interlacted) là kỹ thuật cập nhật màn hình đặc biệt để giảm giá thành monitor. Bạn hãy tưởng tượng đơn giản là màn hình của bạn có 480 vạch liên tiếp nhau từ trên xuống, theo nguyên tắc nó phải được cập nhật (tối/sáng) tối thiểu 50 lần trong 1 giây thì mắt bạn sẽ không phát hiện được do mắt có độ lưu ảnh. Nhưng để làm được chuyện nầy đòi hỏi tần số quét ngang (horizontal frequency) phải cao kéo theo tăng giá thành. Do đó người ta cho cập nhật xen kẻ, tức là trong mỗi lần chỉ cập nhật 240 vạch có số thứ tự chẵn hay lẻ (như vậy phải 2 lần cập nhật liên tiếp mới đủ 480 vạch) và tăng tốc độ cập nhật lên 70 lần. Mặc dù đã tăng tốc độ cập nhật, nhưng mắt chúng ta vẫn thấy chớp vì thực tế mỗi vạch chỉ được cập nhật có 35 lần trong 1 giây dù cho việc xen kẻ có làm giảm bớt hiện tượng nầy. Do đó rất ít người chấp nhận sử dụng màn hình nầy. c) Non Interlacted: Màn hình nầy có chất lượng cao và giá thành cũng cao hơn loại interlaced. d) Tần số quét: Quét dọc (vertical): Là tần số cập nhật màn hình/giây. Thí dụ: 70Hz có nghĩa trong một giây cập nhật màn hình 70 lần. Tần số nầy tối thiểu phải là 50Hz cho độ phân giải thấp và 60-70Hz cho độ phân giải cao. Quét ngang (horizontal): Tần số nầy khó nói cho các bạn hình dung nhưng các bạn có thể hiểu đơn giản là nó lệ thuộc vào tốc độ cập nhật màn hình x độ phân giải, có nghĩa nếu tốc độ cập nhật càng cao hay độ phân giải càng cao thì tần số quét ngang càng cao. (chính vì để giảm tần số nầy mớt xuất hiện monitor interlaced). Về mặt kỹ thuật tần số càng cao, thiết kế và sản xuất càng khó khăn nên tiêu chuẩn quét ngang là quan trọng nhất đối với monitor của máy tính và cho cả tivi dân dụng. - Đối với màn hình interlaced, tần số nầy tối đa là: 31KHz cho loại chất lượng thấp và 36KHz cho loại chất lượng cao. - Đối với màn hình non interlaced, tần số nầy tối thiểu là: 48KHz và tối đa có thể lên tới 100KHz trên các màn hình lớn. Chú ý: Màn hình Super VGA Interlaced chất lượng thấp chỉ thực hiện việc quét xen kẽ khi vào chế độ 800x600 trở lên, còn ở các chế độ khác nó là non interlaced. Màn hình Super VGA Interlaced chất lượng cao chỉ thực hiện việc quét xen kẽ khi vào chế độ 1024x768 trở lên, còn ở các chế độ khác nó là non interlaced. e)Điều chỉnh: Các Monitor đời cũ chỉnh theo kiểu Analog và có các nút điều chỉnh sau: Độ sáng. Độ tương phản. Kích thước ngang. Kích thước dọc. Di chuyển ngang. Di chuyển dọc. Chỉnh méo gối. Các Monitor đời mới chỉnh theo kiểu Digital tức là dùng nút bấm thay cho nút vặn. Ngoài các chức năng điều chỉnh như Analog, chúng có thề có thêm nút điều chỉnh độ nghiêng của màn hình. f)Phương pháp kiểm tra màn hình:

Page 61: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Khi mua: Để kiểm tra màn hình là loại interlaced hay non interlaced khi mua monitor là bạn đọc trên nhãn thùng máy, nhãn dán sau đít máy và đọc trong sách hướng dẫn kèm theo monitor các chỉ tiêu sau: * Horizontal: - Nếu tối đa 31KHz, là interlaced chất lượng thấp. - Nếu tối đa 35KHz, là interlaced chất lượng cao. - Nếu tối đa 48KHz, là non interlaced chất lượng thấp (đạt yêu cầu cho loại 14 inches). - Nếu tối đa 57KHz, là non interlaced chất lượng trung bình (dùng cho màn hình trên 14 inches). - Nếu tối đa 64KHz, là non interlaced chất lượng cao (dùng cho màn hình trên 14 inches). * Vertical: Phải từ 50-90Hz (quét tự động) * Resolusion max (độ phân giải tối đa): 1024x768 cho 14 inches. Cao hơn cho các màn hình trên 15 inches. Khi sử dụng: Đòi hỏi bạn phải có card màn hình 1Mb, chạy được chế độ 1024x768 non interlaced. Dùng chương trình test màn hình trong dĩa của hãng sản xuất để kiểm tra màn hình của bạn. Nếu bạn không có chương trình nầy thì có thể dùng Windows để kiểm tra. Các hướng dẫn dưới đây vừa để Test màn hình vừa để chạy Windows ở các chế độ trên 800x600 non interlaced. - Bước 1: ở ngoài Dos, vào thư mục Windows, đánh Setup. Chọn driver màn hình là Supper VGA 1024x768 của Windows hay driver 1024x768 trong đĩa kèm theo card màn hình của hãng sn xuất (khuyên bạn nên dùng driver nầy). Cuối cùng trở về lại Dos. - Bước 2: Dùng trình tiện ích chứa trong đĩa kèm theo card màn hình cài chế độ Graphic 1024x768 non interlaced ngoài Dos (chương trình nầy luôn luôn có trong đĩa của tất cả các loại card màn hình). Mục đích là ép Windows phải chạy chế độ non interlaced khi khởi động, vì mặc nhiên của Windows là chọn interlaced cho các chế độ trên 800x600 khi chạy. Chú ý: Không được chạy NC sau khi chạy trình tiện ích vì khi NC chạy sẽ áp đặt lại chế độ TEXT cho màn hình. - Bước 3: Khởi động Windows, chạy Excel hay bất cứ chương trình gì mà khi hiển thị có nhiều đường ngang (càng nhiều càng tốt và càng khít thì càng dể xác định). Nếu các đường ngang nầy chớp liên tục là màn hình đang chạy interlaced. Nếu các đường nầy bình thường là đang chạy non interlaced.

MultimediaTrong vòng vài năm trở lại đây chúng ta nghe nói rất nhiều đến từ multimedia. Vậy, một cách chính xác, multimedia là gì? Từ lâu thuật ngữ media dùng để chỉ các thực thể như là chiếc máy truyền thanh, máy truyền hình, nghĩa là không phải nói đến một vật mang thông tin đơn thuần,

Page 62: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

mà là một hệ thống tương đối phức tạp, có cơ cấu, có đối tượng nhắm tới. Loại truyền thống trực tiếp, từ miệng người này đến tai người kia, không sử dụng thành phần (media) trung gian. Không khí truyền các chấn động âm thanh không phải là một media, mà chỉ là một vật mang vật lý làm công việc tải thông tin. Nếu dùng một máy cassette audio để ghi lời của người nói, nội dung trong cassette không thể đến người nghe bằng cách truy xuất trực tiếp, phải nhờ đến một hệ thống vật lý khác: máy đọc cassette. Nếu để rời, cassette này chỉ được xem là một vật mang. Nếu gộp cùng máy đọc cassette, thì đấy là một hệ thống truyền thông, một media. Media có mục đích là phát, truyền thông tin, không đòi hỏi chỉ bằng cách nghe và nhìn. Một tờ giấy in chữ nổi cho người mù, đòi hỏi sự sờ mó. Một tấm carte postale có nhạc và mùi hương, đòi hỏi cùng lúc sự nhìn, nghe và ngửi. Bằng chừng ấy, chúng ta có thể nói đến một sự truyền thông đa phương tiện. Và như vậy, từ multimedia xuất hiện kèm với nhiều danh từ chung khác: centre de ressource multimedia (trung tâm tài nguyên đa phương tiện), post de formation multimedia (trạm đào tạo đa phương tiện), multimedia training (huấn luyện bằng đa phương tiện), multimedia personal computer MDC (máy tính cá nhân với đa phương tiện), digital multimedia system (hệ thống đa phương tiện dạng số...). Trong nội dung chủ đề bài viết này chúng ta sẽ quan tâm đến khái niệm digital multimedia system (người Pháp gọi là Systeme multimedia numérique). Nguyên nhân sự bùng nổ các hệ thống multimdeia dạng số. Thông tin multimdeia Thông tin được truyền đạt bằng các hệ thống truyền đa phương tiện, gọi tắt là thông tin multimedia có thể thể hiện ở những dạng sau đây: Text (văn bản) Graphics (hình họa) Animation (hoạt ảnh) Image (ảnh chụp) Video AudioLưu trữ các thông tin multimediaVới qui ước mã hóa dựa trên hệ nhị phân, người ta có thể tìm thấy một phương cách biểu diễn loại thông tin trên như sau: Một chữ cái được biểu diễn bằng một tổ hợp số 0,1 (bit). Phổ biến hiện nay là qui ước mã hóa ASCII 8 bit cho bộ chữ cái. Một graphics hay một image được biểu diễn bằng một ma trận điểm (raster/bitmap), hoặc một mảng 2 chiều ghi các tọa độ các phần tử trên graphics, hay image. Video, thực chất là một chuổi các image có biểu diễn theo trên. Audio được lấy mẫu theo một chu kỳ chọn và độ sóng âm cũng được biểu diễn bằng một tổ hợp bit. Vấn đề lưu trữChúng ta sẽ xem một vài ví dụ để dễ hình dung được khối lượng bit hay bộ nhớ đòi hỏi của từng loại thông tin. Hệ thống đo lường thông tin được qui ước như sau: Byte = 8 bit Kbyte = 1024 byte Mbyte = 1024 kbyte Gbyte = 1024 Mbyte Với các bộ chữ cái la tinh, mỗi ký tự cần 1 byte để biểu diễn. Mỗi phần tử trong ma trận điểm biểu diễn graphics hay image (gọi là pixel) cần 6 bit để diễn tả màu hoặc sắc độ nếu như tập màu hoặc sắc độ này có 64 giá trị phân biệt. Và như vậy với 1 byte (8 bit) có thể biểu diễn được một khả năng trong 4 palete 64 màu, 2 byte (16 bit) cho 256 màu, 2,5 byte (24 bit) cho gần 16 triệu màu. 16 bit có thể biểu diễn được âm thanh stereo ở tần số 44,1KHz. Do đó chúng ta có thể được thuyết phục rằng sự ra đời và gắn bó của các hệ multimdeia số hóa với các hệ thống máy tính là tất yếu. Các thành tựu Để có những lý lẽ dẫn chứng sự bùng nổ trong tương lai của các hệ

Page 63: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

multimedia số, chúng ta sẽ xác định những chỉ tiêu kỹ thuật mà các hệ thống này đòi hỏi, sau đó lượt qua những thành tựu đã đạt được về mặt phần cứng, giải thuật và định chuẩn. Text, graphics, image, video, và audio sau khi được số hóa sẽ cần được lưu trữ và xử lý. Vấn đề đầu tiên là chổ lưu trữ, sau đó là thời gian cần thiết để đưa dữ liệu từ các đơn vị nhập đến đơn vị xử lý và đơn vị xuất. Về việc xử lý, đối với loại thông tin graphics, có những phép mô hình, tiến hành, tạo hình (rendering), tạo hoạt ảnh; đối với image và audio, có những phép làm nét (enhance),... Tuy đây là những phép toán phức tạp nhưng đã được giải quyết khá hoàn chỉnh về mặt giải thuật và lập trình. Vấn đề hiệu năng chủ yếu quay về hai điểm trên. Giải quyết bài toán về lưu trữ là giải quyết vấn đề nén (compression) và giải nén dữ liệu (decompression). Việc lưu chuyển dữ liệu từ một đơn vị ký tin (đĩa từ, băng từ, đĩa quay...) phụ thuộc và tốc độ định vị, tốc độ truy cập và lượng chuyển tải. Chất lượng ảnh hiển thị trên màn hình phụ thuộc vào khả năng biểu diễn màu, bộ nhớ RAM dành cho màn hình, khoảng cách giữa các pixel (dot pitch), tốc độ quét và số dòng quét trong quá trình tạo lưu ảnh. Về phần cứng, lấy IBM làm chuẩn, đến nay đã có những hệ thống với bộ xử lý hoạt động ở tốc độ 25-33MHz (rất phổ biến) và lên đến 50-60MHz; bộ nhớ RAM từ 1Mb đến 1Gb; tốc độ chuyển tải trên tuyến dữ liệu từ 10-80Mb/s; đĩa trong dung lượng từ 80Mb (phổ biến) đến 2,4Gb, tốc độ định vị 20-9,8ms, tốc độ truy xuất 9-5,6ms, tốc độ truyền dữ liệu 1,5-10Mb/s. Màn hình máy tính với số pixel có thể đến 1280 x 1024 với khả năng thể hiện 256 màu trong 16,7 triệu màu có thể. Hai thiết bị khác được chuẩn bị cho multimedia, nghĩa là đưa khả năng video và audio vào các hệ thống máy tính là videodisc và CD-ROM cũng có những thành quả đáng kể. Hiện nay mỗi mặt đĩa video có thể chứa khoảng 30 phút hiển thị ảnh với tốc độ 30 ảnh (frame/s) đồng thời với 30 phút âm thanh stereo; thời gian định vị, truy xuất cũng chấp nhận được cho các hệ thống áp dụng kiểu tương tác. Kỹ nghệ videodisc phát triển song song với một kỹ thuật gọi là DVI (Digital Video Interactive) nhằm thực hiện compression/decompresion theo thời gian thực đối với các ảnh video. Một thuật giải mang tên RTV (Real Time Video) đã đạt được mức nén tỉ lệ 160:1 - một ảnh 720Kb được nén còn 5Kb. Một card DVI của Intel mang tên ACTION Media 11, điều khiển bởi phần mềm AVSS.2.2 trong môi trường DOS và AVK trong môi trường Windows đã được bán cùng với hàng loạt công cụ phần mềm triển khai áp dụng khác. CD-ROM (Compact Disk Read Only Memory) phát triển từ CD-DA (Compact Disk Digital Audio) có dung lượng khoảng 650Mb, với một nguyên tắc tổ chức dữ liệu như đĩa và có khả năng mang các thông tin text, âm thanh, tiếng nói, ảnh tĩnh và ảnh động. Tốc độ truyền tải dữ liệu của CD-ROM hiện nay vào khoảng 150Kb/s. Về các phương pháp nén dữ liệu, có hai hướng chính được phát triển, hướng bảo toàn dữ liệu (Lossless, tiếng Pháp gọi là Compactage), và hướng chấp nhận một sự mất mát thông tin có mức độ (Lossy, tiếng Pháp gọi là compression). Đối với bài toán lưu trữ thông tin loại image, video, audio, hướng tiếp cận thứ hai được tập trung đeo đuổi hơn. Nhiều thuật toán đã được đề nghị và có những thuật toán đã đạt được một kết quả không ngờ, như thuật toán có áp dụng cho các ảnh loại fractal (ảnh có thể được mô tả, bằng một tập hợp những qui luật) có tỉ lệ nén đến 1000:1. Tuy nhiên hiệu năng của thuật toán ngược, decompression, vẫn phải được xem xét song song. Mã hóa JPEG của Joint Photographise Experts Group áp dụng cho loại ảnh tĩnh, và MPEG của moving Picture Experts Group áp dụng cho ảnh động và âm thanh đi kèm được xem là chuẩn.

Page 64: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Mạng và Mạng Viễn thôngTrong lĩnh vực viễn thông và mạng, có hai tiến bộ liên quan trực tiếp đến sự phát triển của các hệ multimedia số. Đó là khả năng truyền dữ liệu của cáp quang 100Bmps với giá thành hạ hơn nhiều lần vào những năm trước đây. Điều này sẽ tiến đến nhiều mạng cục bộ (LAN) và mạng tầm rộng (WAN) sẽ sử dụng cáp quang; và sự mở rộng các đường truyền dữ liệu dạng số trên mạng viễn thông. Một ví dụ điển hình, FRANCE Télécom đã mở những dịch vụ RNIS (Réseau Numerique à Integration de Services) như TRANSDYN - cho phép các xí nghiệp có thể trao đổi trực tiếp khi cần, các thông tin dưới dạng dữ liệu, graphics, ảnh số hóa, text, hoặc tiếng nói; TRANSFIX cho thuê dài hạn các đường truyền dữ liệu dạng số nối hai điểm, theo hai chiều với tốc độ truyền trên đường dây từ 2400 bit/s đến 48Kbit/s... Thị trườngNgười ta đã ước lượng rằng từ 1994 đến 2000, số bán các chất bán dẫn dùng cho việc sản xuất các thiết bị multimedia sẽ tăng 42%. Và Intel đã tiên đoán về chiếc "micro 2000" như sau: Với 100 triệu transistor trên một diện tích 6,45 cm2 có khả năng thực hiện 2 tỉ chỉ thị trong mỗi giây bởi một bộ vi xử lý tần số 250 MHz và đảm bảo tương thích với CD4386 đang được dùng nhiều hôm nay. Các hệ máy Next, Rise 6000 hiện nay đã đạt được những tiêu chuẩn làm các server multimedia. Giá thành phần cứng ngày càng hạ, kỹ thuật ngày càng cao, cùng với những cải tiến đáng kể trong các vấn đề về nén truyền dữ liệu, đã thúc đẩy sự phát triển các phần mềm và các áp dụng multimedia ngày càng nhiều và càng nhanh. Nói rằng sẽ có sự bùng nổ của các hệ thống multimedia số thực là không quá đáng.

Tệp rác ở đâu ra?

Trong quá trình sử dụng máy tính chúng ta rất khó chịu bởi hiện tượng xuất hiện những tệp (file) rác chiếm khoảng trống trên ổ cứng máy tính. Các tệp rác thường là các dạng tệp khác nhau sinh ra nhằm đáp ứng cho một mục đích tức thời nào đó. Theo thời gian, chúng trở thành những tệp không cần thiết và vì thế được gọi là những tệp rác. Nhìn chung, các tệp rác được tạo ra trong các trường hợp sau: Các tệp nháp được tạo ra bởi hệ điều hành hoặc ứng dụng. Trong một phiên làm việc, nhằm mục đích trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng và giảm lượng dữ liệu lưu trữ trong bộ nhớ, hệ điều hành hoặc các ứng dụng phải nháp dữ liệu xuống đĩa cứng dưới dạng các tệp. Thông thường, hệ điều hành và các ứng dụng sẽ tự động dọn dẹp các tệp nháp do chúng sinh ra sau khi kết thúc mọi công việc cần đến những tệp nháp đó, hoặc khi hệ điều hành và các ứng dụng kết thúc phiên làm việc theo đúng trình tự. Tuy nhiên khi gặp sự cố (ứng dụng bị lỗi, mất điện...) khiến hệ điều hành hoặc ứng dụng bị ngắt đột ngột khi chưa kết thúc mọi tiến trình. Khi đó, mọi tệp nháp trên đĩa cứng sinh ra bởi hệ điều hành hoặc ứng dụng sẽ không được dọn và sẽ trở thành những tệp rác. Các tệp rác còn được tạo ra khi người sử dụng loại bỏ một ứng dụng trên máy tính. Khi cài đặt một ứng dụng, chương trình cài đặt sẽ sao chép rất nhiều tệp khác nhau vào những chỗ khác nhau trên ổ cứng máy tính. Vì một lý do nào đó, bạn cần loại bỏ ứng dụng đó khỏi hệ thống bằng cách sử dụng một chương trình loại bỏ ứng dụng (uninstaller) hoặc xoá các chương trình ứng dụng bằng tay, những tệp còn lại trên đĩa cứng ở các nơi sẽ trở thành những tệp rác. Ngoài những trường hợp trên, các tệp rác còn có thể là một số các tệp như: Các tệp backup được lưu dưới dạng *.bak, các tệp ghi chép quá trình hoạt động được lưu dưới dạng *.log, các tệp của hệ thống cũ như *.old, *.dos... Như vậy, các tệp rác bao gồm nhiều loại tệp khác nhau và được tạo ra bởi các ứng dụng khác nhau. Vì vậy, định dạng, tên tệp, phần mở rộng, vị trí trên đĩa... của tệp rác phụ thuộc vào ứng dụng sinh ra nó.

Page 65: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Thông thường ta hay gặp các tệp rác như *.tmp (các tệp nháp của hệ thống), *.bak (các tệp backup), *.old, *.dos... .các tệp của hệ thống cũ, các tệp ghi chép *.log.... Có một số các ứng dụng có thể giúp chúng ta tìm và loại bỏ các tệp rác như Norton Commander (NC), Norton Ultilities (NU) hoặc sử dụng Disk CleanUp của Windows. Khi sử dụng các ứng dụng tìm và xoá tệp rác, cần chú ý đóng các ứng dụng để loại bỏ các tệp nháp đang được sử dụng.

Thủ thuật với Windows 98Nén dĩa mềm bằng Compression Agent trong Windows 98Trong các phiên bản Windows trước, chỉ có thể nén file trên dĩa mềm thông qua các chương trình nén như winzip, NC, Arj...Riêng Windows 98 cho phép nén dĩa mềm trực tiếp bằng công cụ DriveSpace3 và Compression Agent có sẵn, vốn chỉ cho phép nén dĩa cứng trong Windows 95. Để nén dĩa mềm, bạn vào Start/ Programs/Accessories/ System Tools rồi chọn Compression Agent. Windows 98 sẽ yêu cầu bạn chạy DriveSpace3 trước Compression Agent. Với cách nén này, một dĩa mềm 1,4 MB có thể tăng dung lượng gấp đôi, chứa được đến 3 MB dữ liệu. Trang trí E-mail trong Outlook ExpressChương trình gởi và nhận E-mail Outlook Express đi kèm trong chương trình Internet Explorer (phiên bản từ 4.0 trở lên) cho phép trang trí E-mail gởi đi với nhiều hình nền khác nhau. Có tổng cộng 14 kiểu trang trí E-mail, từ rất nghiêm chỉnh đến vui nhộn dành cho các E-mail gởi cho bạn bè, người thân. Để trang trí E-mail trong Outlook Express, bạn nhấp vào hình tam giác màu đen bên phải nút Compose Message ở góc trái Toolbar. Một danh sách gồm 8 kiểu trang trí sẽ xuất hiện, bạn chọn kiểu nào, E-mail sắp soạn thảo sẽ có hình trang trí kiểu đó. Muốn chọn thêm nhiều kiểu khác, nhấp chuột vào dòng More Stationery, sẽ có thêm 6 kiểu trang trí nữa cho bạn chọn. Trong ảnh bên dưới là một kiểu trang trí cho E-mail gởi nhân dịp năm mới, Giáng sinh.Giữ lại các địa chỉ e-mail và websiteOutlook Express là chương trình đi kèm trong chương trình Internet Explorer 4.0. Đôi khi do máy tính bị trục trặc nhiều, bạn cần cài đặt lại toàn bộ hệ điều hành Windows 95 hay 98. Trong trường hợp này, toàn bộ các địa chỉ e-mail đã lưu trong phonebook và địa chỉ website trong menu Favorites mà bạn đã tốn công sức lưu lại sau trong một thời gian dài sẽ bị mất hết. Để tránh bị mất các địa chỉ này, cùng với việc sao lưu để "cứu" dữ liệu trước khi cài đặt lại toàn bộ chương trình, bạn hãy sao lưu ra thêm phonebook và thư mục (folder) Favorites. Địa chỉ của phonebook như sau: C:\Windows\ Applicationdata\Microsoft\Adressbook\... Trong thư mục Adressbook sẽ có các tập tin mang tên máy tính (thường trùng với tên người sử dụng) với đuôi WAB. Ví dụ, tên máy tính là ABC thì tập tin này có tên là ABC.WAB. Tập tin WAB này còn có thể tìm thấy ở địa chỉ C:\Program Files\Outlook Express\Wab. Toàn bộ địa chỉ website bạn cần lưu giữ đều được nằm trong thư mục Favorites. Địa chỉ thư mục này như sau C:\Windows\Favorites. Sau khi cài đặt xong chương trình, bạn chỉ cần chép đè các tập tin. Wab và thư mục Favorites đã sao lưu vào chỗ cũ là khi chạy chương trình Internet Explorer và Outlook Express, các địa chỉ đã lưu trữ trước đây sẽ hiện ra như cũ.Đề phòng "bom e-mail"Một số e-mail được gởi với mục đích phá hoại, có kèm virus tin học bên trong. Nếu mở các e-mail này ra, virus có thể tấn công xóa sạch dữ liệu của bạn. Trước hết, bạn cần cảnh giác với hai "bom e-mail" có sức phá hoại dữ dội có tiêu đề (subject) là Pelpal Greetings và Join the Crew. Ngoài ra, nên áp dụng các nguyên tắc sau để đề phòng "bom e-mail":- Hết sức cẩn thận khi mở các file gởi kèm (attachement) có đuôi . EXE, đặc biệt là đối với các e-mail mà bạn không biết rõ xuất xứ. Tốt nhất là lưu các file gởi kèm vào một thư mục riêng rồi quét virur trước khi mở ra.- Xem trước nội dung e-mail trong nửa cửa sổ phía bên dưới trong hộp thư đến (inbox). Nếu thấy nội dung không quan trọng, có thể xóa luôn mà không cần mở ra. Xóa trực tiếp bằng cách đánh dấu e-mail rồi bấm phím Delete.

Page 66: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Tiết kiệm thời gian cài đặt chương trình99,9% phần mềm sử dụng trên máy cá nhân tại TP được cung cấp từ các đĩa CDRom Trung Quốc và dĩ nhiên là toàn bộ các phần mềm nầy đều được người Trung Quốc cung cấp các phương tiện bẻ khóa (serial number, chương trình Crack...) kèm theo.Do việc bảo vệ bản quyền chưa được chặt chẻ nên người sử dụng VN có khả năng tiếp cận với các phần mềm mới nhất, hay nhất trên thị trường thông qua các đĩa CD nầy. Đây là cơ hội để chúng ta mở mang kiến thức trước khi việc bảo vệ bản quyền trở nên gắt gao.Để tận dụng cơ hội nầy chúng ta phải thường xuyên bỏ thì giờ ra cài đặt chương trình, tìm Serial number, học cách chạy file bẻ khóa.v..v...thậm chí chuyện làm lại ổ đĩa vì windows trục trặc cũng là chuyện "cơm bửa". Chuyện phải cài lập đi lập lại các phần mềm thường dùng khi làm lại ổ cứng là 1 công việc tốn thì giờ và nhàm chán nhưng không làm sao khác được (dù cho là người có kinh nghiệm "đầy mình").Đối với những người mới "nhập môn" máy tính, nếu phát huy triệt để khả năng "tò mò" thì cũng thường hay làm hư chương trình trên đĩa cứng, trong khi vì mới học nên không "rành" cài đặt phần mềm. Thế là phải đem máy ra dịch vụ, thật nhiêạu khê và mất thì giờ.Chúng tôi xin hiến cho các bạn 1 cách để làm lại ổ đĩa thật nhanh chóng, tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức nhờ vào phần mềm Ghost.Chú ý: Trong các hướng đẫn dưới đây, phần nào các bạn biết thì tự làm, phần nào không biết thì có thể nhờ dịch vụ làm hộ.1/ Bạn học cách sử dụng phần mềm Ghost để biết các thao tác tạo file hình ảnh cho ổ đĩa cứng và cách phục hồi ổ đĩa cứng từ file hình ảnh nầy.2/ Bạn chia ổ cứng làm 2 partition: Partition khởi động (ổ C) dùng để cài đặt tất cả hệ điều hành và các ứng dụng cần thiết, dung lượng nên chọn sao cho sau khi cài đặt toàn bộ xong còn dư tối thiểu khoảng 100 Mb trống . Partition 2 (ổ D) dùng chứa dữ liệu do bạn tạo ra và chứa file tình ảnh của ổ C, dung lượng tương đương ổ C hay nhỏ hơn khoảng 30% (nếu bạn có 2 ổ cứng thì có thể không cần phải chia đĩa).3/ Bạn cài đặt toàn bộ chương trình cần dùng lên ổ C, cấu hình các phần mềm thật tốt và chạy 1 thời gian để đảm bảo tính ổn định của các chương trình nầy.4/ Dùng Ghost tạo file hình ảnh cho ổ C rồi chứa file nầy trong ổ D. Nếu có điều kiện các bạn nên nhờ dịch vụ ghi file nầy lên CDRom cho "chắc ăn" (bảo đảm không hư hỏng).5/ Bạn tha hồ cài đặt, thay đổi, thí nghiệm phần mềm trên ổ C thoải mái. Nếu có trục trặc bạn chỉ cần dùng Ghost phục hồi lại ổ C từ file hình ảnh. Sau khi khởi động lại là ổ cứng của bạn trở về trạng thái ban đầu thật nhanh chóng, thời gia phục hồi 1 ổ đĩa 600Mb (với hệ điều hành Windows 98) khoảng 10 phút (trên máy Pentium 166) so với thời gian cài đặt ban đầu là 6 giờ.Chú ý: Bạn có thể làm file hình ảnh chỉ 1 lần nếu bạn không thay đổi phần mềm trên máy, trong trường hợp bạn có thay đổi thì nên dùng Ghost để làm lại file hình ảnh mới. Tốt nhất là bạn nên tạo file hình ảnh ngay trước khi muốn "dọc" hay "quậy phá" rồi sau đó trả máy về tình trạng cũ.Nếu bạn muốn phục hồi từng file riêng lẽ trong file hình ảnh, bạn hãy dùng thêm chương trình Ghost Explorer.

Page 67: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Tổng quan về dữ liệu ảnhViệc tạo ra hình ảnh trong lịch sử loài người khởi đầu bằng việc khắc các hình trên đá, sau đó là vẽ trên giấy, lụa, sơn mài, sử dụng máy chụp hình.... Khi máy tính và kỹ thuật số ra đời cùng với những thiết bị đồ họa chuyên dụng khác, con người có thêm một công cụ mới để tạo lập, lưu trữ và xử lý dữ liệu ảnh. ảnh thực chất là một tập hợp các điểm màu liên tiếp xếp liền nhau, hoặc một tập hợp các đường hình học nhằm miêu tả một phogn cảnh, sự vật hay một chủ đề nào đó. Trên máy tính, ảnh được lưu trên các file nhị phân, theo các định dạng do nhà sản xuất quy định. Hiện tại có hơn 50 định dạng ảnh khác nhau, được chia làm hai loại cơ bản là ảnh bitmap và ảnh vector. ảnh bitmap là loại ảnh được lưu trữ theo dạng từng điểm màu được xếp liền nhau theo một thứ tự nhất định do người định dạng ảnh quy định và có thể được nén bằng một vài thuật toán nén dữ liệu do người định dạnh ảnh chọn. Đây là loại ảnh có chất lượng lưu trữ tốt, hình ảnh và màu sắc trung thực, nhưng lại tốn không gian lưu trữ, tốc độ hiển thị chậm và tương đối phức tạp trong việc xử lý. Một vài ví dụ về các loại ảnh bitmap phổ biến là GIF, PCX, BMP, TIF, RLE, ICO, GEM Image... ảnh vector là loại ảnh được lưu trữ theo cách mô tả đường biên của các đối tượng trong ảnh như là các hình và các đường hình học, ví dụ như elíp (ellipse), đa giác (polygon), hình cung (arc), đường thẳng (line), chữ nhật (rectangle)... Việc lưu trữ ảnh vector thực chất là lưu trữ lại các lệnh dùng để vẽ lại ảnh đó. Aảnh vector được lưu trữ dưới dạng hình học nên chất lượng lưu trữ không tốt lắm, nhưng bù vào đó, kích thước file ảnh tương đối nhỏ và việc xử lý ảnh rất đơn giản, thông qua các hàm toán học. Các file ảnh vector phổ biến hiện nay là WMF, CGM, CDR, GEM Metafile... Đi sâu vào chi tiết lưu trữ, một file ảnh bao giờ cũng có ba phần cơ bản là phần đầu (header), bảng màu (palette) và dữ liệu (data). Một vài ảnh được sử dụng trong Windows hay XWindows để tạo giao diện như Icon, Cursor... thì có thêm phần nhận dạng resource (resource id). Phần header cho biết các thông tin về bản thân ảnh như chiều dài, chiều rộng, vị trí bắt đầu hiện trên thiết bị (màn hình, máy in, máy vẽ...), số màu..., và cho biết về cấu trúc file ảnh như kiểu nén dữ liệu, vùng bắt đầu dữ liệu, vị trí bảng màu... Phần bảng màu dùng để lưu trữ mô tả theo dạng Red - Green - Blue cho tập hợp các màu dùng trong ảnh. Sở dĩ cần có bảng màu cho mỗi ảnh vì số màu thể hiện được trên thiết bị hiện nay còn hạn chế, cụ thể là trên màn hình VGA và Super VGA chỉ có 256 màu (màn hình 16 triệu màu còn chưa phổ biến). Trong khi đó các ảnh tự nhiên màu sắc lại rất phong phú và khi được đưa vào máy tính dưới dạng ảnh màu thì mỗi ảnh lại sử dụng một tập hợp màu khác nhau. Vì vậy, để có thể lưu trữ, hiển thị và xử lý trên các ảnh, người ta quyết định việc lưu trữ và hiển thị mỗi màu dưới dạng một chỉ số X nào đó, mà cách thể hiện của màu mang chỉ số X này được quyết định bởi giá trị của thành phần thứ X trong palette màu. Ví dụ một điểm màu được lưu trữ với mã số là 5, đối với ảnh có palette màu P mà thành phần P[5] = (R:0, G:0, B:0) thì sẽ được hiện ra màu đen, đối với ảng có palette màu thành phần P[5] = R:0, G:0, B:255) sẽ hiện ra màu xanh dương rất sáng, còn nếu palette màu của ảnh có P[5] = R:255, G:255, B:255) thì sẽ hiện ra màu trắng. Bằng cách này tại mỗi thời điểm người ta có thể hiện trên thiết bị từng ảnh khác nhau có các tập hợp màu hoàn toàn khác nhau, hoặc đối với các ảnh mà palette màu không khác nhau nhiều lắm, người ta có thể thực hiện việc ghép hai palette theo thuật toán nào đó để cùng hiện một lúc mà không làm thay đổi nhiều về độ trung thực của ảnh. Phần dữ liệu ảnh, đối với ảnh bitmap là dãy các điểm màu xếp theo thứ tự, có nén hoặc không nén, còn đối với ảnh vector thì là các lệnh vẽ metafile hoặc GDI (Graphics Device Interface) nhằm vẽ ra các đối tượng trong ảnh. Đối với ảnh bitmap, nếu lưu trữ mỗi điểm màu như là một byte chỉ mã số màu thì kích thước ảnh sẽ rất lớn, tốn không gian lưu trữ trên thiết bị. Do đó các ảnh khi lưu trữ phải được nén lại theo một thuật nào đó.

Page 68: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Dưới đây tôi xin trình bày về một số giải thuật nén ảnh thường dùng. Đơn giản nhất là cơ chế đóng gói theo bit. Đối với các ảnh có số màu nhỏ hơn 256, nhiều điểm ảnh được chứa vào trong một byte (8 bit). Cụ thể là ảnh 16 màu có các giá trị màu từ 0 đến 15, biểu diễn bằng 4 bit nên một byte chứa 2 điểm, ảnh 2 màu chỉ có 2 giá trị 0 và 1, một byte chứa được 8 điểm. Đây thực ra không hẳn là giải thuật nén dữ liệu. Đa số các ảnh BMP nói chung sử dụng lối lưu trữ này. Cách nén thứ hai là nén theo đường chạy (run-length). Cách nén này dựa trên việc đếm số các byte liên tiếp có cùng giá trị sau đó lưu trữ trong hai byte, byte thứ nhất chỉ ra số lượng các byte có cùng giá trị, byte thứ hai là giá trị trùng đó. Ví dụ dãy các byte:

1 1 1 8 8 8 8 5 5 7 7 7 7 7 7 7 được nén thành:

3 1 4 8 2 5 9 6 7 Tất nhiên thực tế không hẳn đơn giản như thế bởi vì trong một dãy các byte xếp liền nhau thì biết đâu là byte lặp, đâu là byte giá trị. Mỗi người sử dụng giải thuật run-length phải tự đề ra cách giải quyết khác nhau để khắc phục tình trạng này. Ví dụ như giải thuật SunRaster run-length sử dụng một byte mang một giá trị đặc biệt là 128 để báo hiệu sự hiện diện của đường chạy. ZSoft Corporation lại đưa ra cách nhận dạng byte lặp bằng cách kiểm tra 2 bit cao của mỗi byte trong phần dữ liệu. Nếu 2 bit cao bằng 1 thì đó là byte lặp. Với quy định như vậy, chiều dài của một đường chạy không thể dài hơn 63, và đối với các byte giá trị có 2 bit cao bằng 1 thì luôn luôn phải có byte lặp đi trước, mặc dù có thể chỉ có 1 byte giá trị đó trong đường chạy. Các ảnh PCX, SunRaster, RLE, một vài loại ảnh BMP... sử dụng giải thuật nén này và mỗi loại ảnh có cách nhận dạng byte lặp khác nhau. Phát triển tư tưởng nói trên, người ta nhận thấy có các chuổi dữ liệu không bằng nhau được lặp đi lặp lại nhiều lần trong dòng dữ liệu thì có thể được sử dụng một cách rất tốt để nén dữ liệu. Một mã duy nhất có thể được gán cho một chuổi tuần tự và được lưu trữ vào trong file dữ liệu. Ví dụ dãy các byte:

5 23 7 12 5 23 7 6 12 5 23 7 6 12 được nén thành

C1 12 C1 C2 C1 C từ 14 byte nén thành 6 byte, C1 và C2 biểu diễn cho mã được gán cho chuổi dữ liệu. Như vậy, bảng đối chiếu các mã và chuổi tương ứng với nó phải được lưu trữ lại và được gọi là "Code Book". Nếu "Code Book" khá lớn thì cũng tốn không gian lưu trữ và làm giảm đáng kể hiệu quả của thuật toán nén dữ liệu. Thuật toán nén được phát triển bởi Lempel -Ziv và Welch, thường được biết tới với tên gọi là thuật toán LZW, đã có một cách xử lý rất thông minh để khỏi phải lưu trữ "Code Book". Thuật toán LZW dựa trên một ý tưởng rất đơn giản là người mã hóa và người giải mã cùng xây dựng "Code Book" khi mà dòng dữ liệu được xử lý tuần tự. Người mã hóa đưa ra một mẫu code khi nó được tìm thấy nhiều hơn một lần. Lần đầu tiên chuổi dữ liệu được xử lý, nó được đưa vào trong "Code Book" và chuổi được đưa thẳng ra file không bị mã hóa. Người giải mã có thể nhận ra chuổi này và đưa nó vào "Code Book" khi xây dựng "Code Book" cũ. Người mã hóa khi gặp lại mẫu này sẽ đưa ra file mã của chuổi trong "Code Book". Người giải mã có thể nhận ra chuổi đã mã hóa bởi vì nó đã có trong "Code Book" được xây dựng từ chuổi trước đó. Thuật toán này làm việc rất tốt trên nhiều loại dữ liệu. Unix Compress Utility của hệ điều hành UNIX và chương trình nén ARC trên PC cũng dựa trên cơ sở LZW. Bạn đọc quan tâm tới chi tiết thuật toán này có thể liên hệ trực tiếp với Welch Licensing Department, Law Department, M/SC2SW1, Pensylvania, 19424-0001. Trong việc lưu trữ dữ liệu ảnh, ảnh GIF do CompuServe Incorporated đưa ra sử dụng nén LZW theo độ dài bit biến động từ 2 đến 12 bit, ảnh PostScript do Adobe Systems Incoporated đưa ra sử dụng nén LZW theo độ dài 8 bit, ảnh TIFF của Aldus Corporation đưa ra sử dụng nén LZW theo độ dài 8 bit. Nhân tiện xin nói thêm là ảnh GIF là định dạng ảnh được nén nhỏ nhất hiện nay trên thế giới.

Page 69: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Ngoài ra còn một số thuật toán khác không phổ biến lắm như Fractals, DCT, Huffman... Còn đối với ảnh vector, phần dữ liệu thực chất chỉ là dãy các lệnh vẽ, không có gì đáng nói. Trên mỗi hệ thống như PC, Mac, Unix, Windows, OS/2... tập các lệnh vẽ có thể khác nhau tùy theo định dạng ảnh đó được xây dựng trên hệ thống nào. Tuy nhiên, đây chỉ là các lệnh Graphics nên việc hiện ảnh vector của một hệ thống này trên một hệ thống khác đơn thuần chỉ là việc chuyển đổi lệnh vẽ. Trên máy tính, dữ liệu ảnh giữ một vai trò quan trọng và phạm vi ứng dụng của nó rất phong phú. Trong việc quản lý cơ sở dữ liệu, dữ liệu ảnh giúp cho cơ sở dữ liệu thêm phần trực quan. Ví dụ như quản lý nhân sự có sử dụng dữ liệu ảnh giúp người lãnh đạo nhận biết tốt hơn về nhân viên của mình. Trong công tác thiết kế máy móc và xây dựng, dữ liệu ảnh cho phép cán bộ chuyên môn có thể thiết kế các mẫu chế tạo trên máy tính, giảm thời gian và giá thành thực hiện công trình. Trong công tác khoa học, việc mô phỏng ảnh của các hiện tượng trên máy tính có thể hổ trợ đắc lực cho công tác nghiên cứu. Trong lĩnh vực trò chơi, việc sử dụng dữ liệu ảnh là điều tất nhiên. Sử dụng ảnh trong các phần mềm giáo dục và hướng dẫn du lịch làm cho các phần mềm này thêm sinh động và gây hứng thú cho người sử dụng. Dữ liệu ảnh còn được sử dụng trong công tác quản lý bản đồ và tài nguyên môi trường. Trong lĩnh vực thiết kế giao diện và phát triển phần mềm, tất cả các phần mềm GUIs (Graphical User Interface) đều sử dụng dữ liệu ảnh. Trong quá trình xử lý ảnh và làm phim video trên máy tính, dữ liệu được sử dụng chủ yếu là dữ liệu ảnh. Ngoài ra, dữ liệu ảnh trên máy tính còn phục vụ cho nhiều ngành khoa học khác như khoa học hình sự, trang trí mỹ thuật, thiên văn học, khảo cổ học, y học... Hy vọng rằng qua bài viết, bạn đọc sẽ có được một ý niệm tổng quát về việc tổ chức và sử dụng dữ liệu ảnh trên máy tính, và sẽ tìm được một vài thông tin nào đó cho quá trình làm việc của mình.

Tạo ShortCut trong System Traymà không cần lập trình

Trong môi trường Windows 9.x, các nhà viết phần mềm cứ thi nhau mà "bỏ" chương trình của họ vào System Tray (khay hệ thống), cái mà bà con dân dã thường hay gọi là khay đồng hồ, thật cũng có lý. Ai mà chẳng biết đó là nơi "hạ cánh" của những chương trình 32bit (16bit thì hỏng thèm) mà ông chủ ở đó không ai xa lạ, lại là cái đồng hồ. Trở lại vấn đề, thấy các biểu tượng chương trình cứ xuất hiện hiên ngang trong đó mà phát nôn, sao hay quá ! Bạn cũng muốn làm vài cái shortcut cho riêng mình bỏ vào đó chơi, nhưng ôi, lập trình nửa chữ cũng không biết.

Page 70: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nếu bạn có tâm trạng giống như vậy, xin hãy tiếp tục đọc bài viết này.Chả cần biết tí gì về lập trình cả, tuy nhiên bạn vẫn có thể đưa shortcut chương trình vào SystemTray một cách dễ dàng. Rất đơn giản, bạn chỉ việc kết hợp các tiện ích có sẵn một cách hợp lý. Trong bài viết này tôi đã dùng 2 chương trình: Tray ShortCut (9.478 byte) & Installer Vise (3.103.906 byte). Cả 2 chương trình này đều có trong Kho Phần Mềm của WebLH, bạn có thể tải về làm thử.

Page 71: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Để tạo các Shortcut trong System Tray bạn có thể dùng chương trình Tray Shortcut. Chép file chương trình này vào 1 thư mục riêng rồi tạo shorcut cho chương trình nào cần được hiển thị trong SystemTray đặt trong cùng thư mục. Khi chương trình chạy sẽ nạp toàn bộ Shortcut nó tìm thấy (Đương nhiên các Shortcut này phải trỏ đúng đến các chương trình cần chạy).Nhưng cách này rất thủ công, ở đây tôi xin hiến một cách làm tự động nhờ vào một chương trình tạo bộ đĩa Setup cho các phần mềm. Tôi đã chọn chương trình Installer Vise 3.1, vì chương trình này có đủ các khả năng để minh họa ví dụ này.

Đặt Shortcut chương trình vào System tray khi cài đặt phần mềm- Đầu tiên bạn cần xác định xem muốn đưa chương trình nào vào System Tray, hãy chép tất cả các file cần thiết cho chương trình này sang một thư mục riêng.- Chép luôn chương trình Tray ShortCut vào cùng thư mục.- Khởi động chương trình tạo bộ đĩa Setup nào đó (Thí dụ: Installer Vise 3.01)Khi Tray ShortCut khởi động, nó sẽ tìm tất cả các shortcut trong cùng thư mục và nạp vào System Tray, hãy lợi dùng điều này bằng cách sau: tạo cho chương trình các shortcut, đặt cùng thư mục với chương trình Tray ShortCut, sau đó cho Tray ShortCut chạy lúc Windows khởi động (StartUp), nó sẽ nạp shortcut đó và đưa vào System Tray. Nhưng việc tạo shortcut phải luôn chính xác và tự động thế mới khoái. Bạn hãy sử dụng đến bửu bối thứ hai Installer Vise.Cụ thể: (Tôi sẽ minh họa cách tạo Shortcut cho chương trình Agenda 2000)Khởi động Installer Vise, add tất cảc các file cần thiết vào.Tạo shortcut cho chương trình Agenda 2000, đặt cùng thư mục với chương trình lúc cài đặt

Right click vào file chương trình chính Agenda2K.exe, chọn Create Shortcut

Chương trình sẽ hỏi bạn có muốn tạo shortcut trên Desktop hay không, bạn nhấn No, chương trình sẽ tạo ngay một shortcut mới

Page 72: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Right click vào tên shortcut mới này để đặt lại tên cho thích hợp trong khung name, trong thẻ Genneral

Page 73: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Chọn thư mục chép đến là Install Directory (thư mục cài đặt phần mềm) trong thẻ Advanced vì ta muốn đặt shortcut cùng thư mục với chương trình chính.

Tiếp đến, bạn cần làm cho chương trình Tray Shortcut chạy mỗi lúc Windows khởi động

Hãy right click lên file Tscuts.exe chọn Create Shortcut, cũng chọn No khi được hỏi.

Sau đó hãy right click lên shortcut vừa tạo chọn Properties, đặt lại tên, vào chọn StartUp Folder để cho chương trình Setup chép shortcut này vào nhóm StartUp của Windows.

Page 74: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Cuối cùng hãy vào menu File chọn Build Installer để tạo bộ Setup, sau khi cài đặt phần mềm xong, cho khởi động lại máy, chờ chút sẽ thấy ngay tác phẩm của mình trong System Tray.

Page 75: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Quá đã phải không ? Do phải nhờ cậy chương trình Tray Shortcut nên muốn khởi động bạn phải double click lên shortcut, đây cũng là điểm yếu & hơi bị mất tự nhiên của cách làm này. Muốn loại bỏ shortcut trong System Tray, hãy right click chọn Tray Shortcuts / Exit.

Page 76: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Open để mở chương trình, Properties tương tự như khi nhấn phải mouse trong Explorer.

THOáT WINDOWS 98 BằNG1 CáI CLICK CHUộT

Muốn thoát khỏi Windows 98 và tắt máy, theo đúng bài bản, bạn phải làm một loạt động tác : Click vào nút Start. Chọn lệnh Shut Down... Trả lời trong hộp thoại Shut Down Windows Click OK.

Page 77: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Trong khi đó, Windows 98 lại cung cấp cho bạn một chức năng tiện lợi là ra lệnh bằng các phím tắt (shortcut). Cớ sao ta không sử dụng shortcut để thoát Windows và tắt cho nó tiện lợi, chỉ bằng 1 cái click chuột ?Để tạo shortcut này, bạn làm như sau :Click chuột phải lên màn hình desktop và chọn lệnh New -> Shortcut.

Điền vào text box của hộp thoại Create Shortcut dòng lệnh Command line :c:\windows\rundll32.exe user.exe,exitwindows

Page 78: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Click nút Next.Điền vào text box của hộp thoại Select a Title for the Program một cái tên nào ủó cho cái shortcut này. Thí dụ ở đây là tên Exit Windows

Click nút Finish để kết thúc.Bây giờ, trên màn hình desktop của bạn đã xuất hiện icon cho lệnh Exit Windows. Mỗi lầná muốn tắt máy, bạn chỉ cần click chuột lên icon này là xong.

Page 79: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Tối ưu hóa Windows 98Với một số thủ thuật này, bạn có thể làm cho Windows 98 chạy ngon hơn, ngọt hơn một chút. Trước tiên, bạn vào Control Panel, mở icon System ra. Mở tab Performance trong bộ hộp thoại System Properties :

Page 80: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Có ba nút ở mục Advanced settings (các thiết đặt tiên tiến) cho bạn hiệu chỉnh.

1. File System (Hệ thống file ) :

Page 81: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Click chuột lên nút File System. Bộ hộp thoại File System Properties xuất hiện với 5 tab. Hard Disk : Mặc định, Windows sẽ được cấu hình với chuẩn của một máy... Desktop computer.

Hãy kích nó phát huy nội lực ở mức cao nhất, khỏe như lực sĩ, bằng cách giả định máy vi tính của bạn là một máy chủ Network server.

Floppy Disk : Do ổ đĩa mềm bây giờ không còn được sử dụng thường xuyên như ..."Ngày xưa Hoàng Thị", bạn chẳng cần phải cho Windows tối ưu hóa chi hoạt động của ổ đĩa mềm. Bỏ dấu chọn trước hàng option "Search for new floppy disk drives each time your computer starts" để Windows không mất công sức và thời gian tìm kiếm các ổ đĩa mềm mới mỗi lần máy vi tính khởi động.

CD-ROM : Hãy giữ nguyên các setting mặc định để Windows có thể tối ưu hóa hoạt động của ổ CD-ROM. Đó là :

- Supplemental cache size (kích thước cache bổ sung) :áá Large- Optimize access pattern for (tối ưu hóa khuôn mẫu truy cập cho ổ CD-ROM có tốc độ) : Quad-speedá or higher (4x hoặc cao hơn)

Page 82: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Windows sẽ sử dụng 1.238 kilobytes bộ nhớ vật lý để tối ưu hóa hoạt động của ổ CD-ROM trong khi nó truy cập dữ liệu.

2. Graphics (Đồ họa) :Click chuột lên nút Graphics để mở hộp thoại Advanced Graphics Settings ra.Các thiết đặt này kiềm soát cách thức Windows sử dụng phần cứng đồ họa (card màn hình) của máy. Bằng cách hiệu chỉnh thiết đặt tăng tốc phần cứng đồ họa, bạn có thể giải quyết được một số vấn đề có liên quan tới phần display.Có 4 nấc :

Nấc 4 (full) : Nấc mặc định được khuyến cáo. Windows sẽ huy động tất cả các chức năng tăng tốc đồ họa. Hãy giữ nguyên, nếu như máy của bạn hoạt động bình thường về phần display. Nấc này sẽ bảo đảm chất lượng cao nhất cho multimedia và các game.

Nấc 3 : Windows sử dụng phần lớn chức năng tăng tốc đồ họa. Hãy dùng thiết đặt này nếu như xảy ra vấn đề với con trỏ chuột. Ơở nấc này, bạn cũng có thể khắc phục được tình trạng chữ tiếng Việt bị đứt khúc, nhất là với các nguyên âm có hai dấu thanh (như ộ, ệ,...).

Page 83: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nấc 2 : Các chức năng tăng tốc đồ họa cơ bản. Dùng setting này nếu như bạn hay gặp các sự cố (error) không mong đợi trong các chương trình ứng dụng.

Nấc 1 (None) : Không sử dụng các chức năng tăng tốc đồ họa. Chỉ dùng nếu như máy bạn thường bị treo hay gặp những vấn đề nghiêm trọng.

Page 84: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

3. Virtual Memory (Bộ nhớ ảo) :Click chuột vào nút Virtual Memory. Hộp thoại Virtual Memory xuất hiện.

Page 85: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Hãy giữ thiết đặt mặc định là "Let Windows manage my virtual memory settings", cho phép Windows quản lý các thiết đặt bộ nhớ ảo.

Ngăn chặn hệ thống sụp đổMẹo: Luôn tắt máy theo đúng cách thức (được Windows 95 khuyến cáo) Windows tạo ra rất nhiều tệp tạm thời và cần thiết phải được đóng lại trước khi hệ thống ngừng hoạt động. Nếu bạn không tuân thủ nguyên tắc này, các tệp tạm thời sẽ giữ mãi trong hệ thống. Điều đó không chỉ gây ra "rác" cho hệ thống mà chúng còn gây nên tình trạng hoạt động không ổn định của một số phần mềm. Dial-Up Networking treo khi cố gắng tái kết nối với ISP của bạn Lỗi này xảy ra khi bạn sử dụng Windows 95 OSR2 với IE4. Lý do sự xung đột giữa tuỳ chọn View Detail của Dial-Up Networking với IE4 khi chạy như một chương trình của Windows. Song bạn chớ lo đây là giải pháp cho vấn đề: Chỉ có hai cách để sửa lỗi này, hoặc là bạn làm mất hiệu lực tuỳ chọn View Detail của DUN hoặc dỡ bỏ cấu thành của Windows Desktop Update. Thứ nhất, tạo một biểu tượng tắt cho kết nối sử dụng

Page 86: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

DUN và thêm một biểu tượng ra ngoài desktop. Bạn sẽ tìm thấy kết nối trong thư mục DUN nằm ở My Computer. Cuối cùng hãy "dạo chơi" trên Internet với kết nối mới được tạo ra này. Di chuyển tới Start | Programs | Accessories | Dial-Up Networking, vào thực đơn View, tắt chức năng này bằng việc lựa chọn một kiểu hiển thị khác (Large Icon chẳng hạn). Bạn còn có một phương pháp khác để khắc phục lỗi này. Hãy sử dụng trình cài đặt của IE4 và bỏ lựa chọn Active Desktop Update nhưng đừng bỏ cả Web browser. Phòng chống sự cố và sức phá huỷ của sự cố Cho dù khả năng gặp sự cố là không thể tránh khỏi, một vài thủ thuật hữu ích sẽ giúp bạn tránh được hầu hết các trường hợp sự cố xảy ra với hệ thống của bạn. Một sự cố hay gặp nhất đối với hệ thống đó chính là máy tính nhận được những kết quả mà nó không hề mong đợi. Chẳng hạn chương trình cố đọc dữ liệu từ máy tính hay ổ đĩa mềm khi bạn đã rút đĩa ra khỏi ổ...Sau đây là một số mẹo giúp bạn khai thác và phòng chống sự cố máy tính hữu hiệu hơn: 1. Luôn tắt máy tính theo đúng cách. Windows tạo ra rất nhiều tệp tạm thời trên hệ thống. Khi bạn tắt máy không đúng cách, các tệp này sẽ tồn tại trên máy tính. Điều đó không chỉ đem lại "rác" cho hệ thống mà còn gây ra tình trạng hoạt động bất thường của các phần mềm được cài đặt trên máy tính. 2. Khi sử dụng Dial-Up Networking (DUN), chớ nên rút đường dây điện thoại ra khỏi máy tính trước khi bạn chấm dứt kết nối Internet. Điều này đôi khi sẽ dẫn đến tình trạng "treo" máy tính. 3. Hãy để cho ScanDisk "hoàn thành" công việc của nó nếu hệ thống phát hiện có sự bất ổn đối với hệ thống tệp. 4. Hãy lưu trữ dữ liệu cá nhân trên một phân hoạch độc lập với hệ điều hành (tốt nhất là trên một ổ đĩa khác). Nếu có sự cố với Windows đòi hỏi phải cài đặt lại toàn bộ hệ điều hành thì cũng không ảnh hưởng gì tới dữ liệu của bạn. Giải quyết xung đột giữa các ứng dụng Mẹo: Làm gì đối với các chương trình không có phần dỡ bỏ (Uninstall) Nếu bạn muốn dỡ bỏ một chương trình không có trình dỡ bỏ (vì một lý do không thể lý giải nổi) đừng vội vàng xoá bỏ toàn bộ thư mục chứa chương trình. Bạn hãy cân nhắc sử dụng các phần mềm chuyên dỡ bỏ của các hãng thứ ba như CleanSweep của Symantec chẳng hạn... Cố gắng dỡ bỏ chương trình theo đúng cách 1. Rất nhiều chương trình được bán kèm với trình dỡ bỏ của riêng nó. Thông thường bạn tìm thấy trình này trong Add/Remove Programs của Control Panel. Hãy sử dụng các trình dỡ bỏ này nếu bạn không muốn "đau đầu" thêm mỗi khi không cần một phần mềm nào đó nữa. 2. Khi dỡ bỏ thông thường Windows không xoá bỏ các tệp cấu hình do người dùng tạo ra và thường thông báo bằng một câu chung chung đại loại: "Some elements could not be removed."Lúc này tự bạn sẽ là người quyết định có để cho chúng tồn tại trên hệ thống hay không? 3. Sau khi việc dỡ bỏ hoàn tất, hãy mở Explorer, xem xét thư mục chương trình được cài đặt lên hệ thống, sao lưu các tệp bạn cần lưu trữ và xoá toàn bộ thư mục. Nếu muốn biết thư mục chứa chương trình bạn hãy bấm phím phải chuột vào biểu tượng chương trình và mở Properties của nó. 4. Một lỗi khá phổ biến đối với Windows, cho dù bạn đã dỡ bỏ toàn bộ chương trình nhưng tên của nó vẫn tồn tại trong danh sách của Add/Remove Program. Muốn xoá bỏ chúng bạn phải vào đăng ký (Registry) của Windows. Bấm vào núm Start, mở Run và gõ Regedit. Vào khoá Hkey_local_machine\Software\Microsoft\ Windows\CurrentVersion\ Uninstall, bạn sẽ thấy một loạt các giá trị, đó chính là những mục sẽ được Add/Remove Programs liệt kê. Hãy xoá bỏ các mục tham chiếu tới ứng dụng bạn dỡ bỏ hoàn toàn khỏi hệ thống. Thay đổi trình duyệt mặc định Đặt trình duyệt mặc định cho hệ thống đôi khi gây ra sự khó chịu cho bạn, đặc biệt khi bạn chuyển sang sử dụng các trình duyệt khác nhau trong bối cảnh cuộc chiến trình duyệt vẫn chưa có "người thắng, kẻ bại". Nháy chuột vào tệp HTML mà lại mở một trình duyệt bạn không hề mong đợi. Vâng chúng tôi hiểu sự khó chịu của bạn. Cả IE và Netscape đều có khả năng phát hiện và yêu cầu bạn chọn

Page 87: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

chúng làm trình duyệt mặc định của hệ thống. Song cả hai cũng kèm theo chức năng tắt thông báo này khi khởi động. Vậy sau một thời gian sử dụng một loại trình duyệt nay bạn muốn đặt một trình duyệt khác làm mặc định. Bạn phải làm gì? Netscape Hãy tắt Netscape Communicator 4.x và tất cả các ứng dụng thành phần của nó. Mở thư mục cá nhân của bạn (Ví dụ: C:\Program files\Netscape \Users\Profilename - với Profilename chính là tên bạn dùng đăng nhập hệ thống). Mở tệp Prefs.js và thay đổi dòng lệnh kiểm tra user_pref ("browser.wfe.ignore_def_check", true) từ "true" sang "false". Ghi lại tất cả những thay đổi này và thoát khỏi Notepad. Lần tiếp theo bạn khởi động Communicator hay một trong các ứng dụng thành phần của nó, bạn sẽ được hỏi có muốn thiết lập Netscape trở thành trình duyệt mặc định hay không? Internet Explorer Mọi việc còn dễ dàng hơn nhiều đối với IE. Mở Internet Options hoặc Options (tuỳ thuộc vào phiên bản IE bạn đang sử dụng) trong menu View (đối với IE 5 bạn phải vào Tools/Internet Options). Vào bảng Programs, nhấn vào hộp kiểm tra "Internet Explorer should check to see if it is the default browser." Kể từ giờ trở đi IE sẽ hỏi bạn thiết lập nó trở thành trình duyệt mặc định hay không nếu nó nhận thấy mình không phải là trình duyệt mặc định? Ngăn chặn xung đột phần cứng Mẹo: Khởi động trong chế độ Safe Mode Đôi khi vì lý do sửa chữa, bạn cần thiết phải khởi động máy tính ở một chế độ đặc biệt. Với Windows 95 bạn chỉ cần bấm phím F8 mỗi khi nhận được dòng thông báo "Starting Windows 95..." trên màn hình khởi động. Với Windows 98 điều này có khác biệt đôi chút, bạn phải nhấn phím Ctrl từ khi máy tính kêu tiếng "beep" sau khi POST (Power-On Self Test) xong cho tới khi thực đơn xuất hiện trên màn hình. Phát hiện xung đột phần cứng Yêu cầu ngắt giống hệt như các đường điện thoại vào gia đình bạn, chúng được kích hoạt mỗi khi có yêu cầu từ các thiết bị phần cứng nối với hệ thống. Có 16 ngắt (từ 0-15) chính được đánh địa chỉ. Bạn có thể theo dõi việc gán ngắt cho hệ thống trong Windows theo một vài cách. Cách phổ biến nhất đối với cả Windows 95, 98 đó là mở Control Panel/System và vào bảng Device Manager. Nháy kép vào biểu tượng Computer trong danh sách liệt kê. Với Windows 98 bạn có một cách nữa để xem được danh sách các ngắt hệ thống bằng tiện ích System Information. Sau đây là một vài điểm cần lưu ý khi xem xét tài nguyên ngắt hệ thống:

1. Một vài ngắt được thiết kế sẵn cho các thiết bị hệ thống (như đồng hồ hệ thống, ổ đĩa, và bàn phím) và không thể sử dụng vào mục đích khác.

2. Một số ngắt đặc biệt thường được sử dụng cho cổng vào/ra như cổng nối tiếp, cổng sau lưng, ngắt 4, 3 và 7 lần lượt được thiết kế cho COM1, COM2, và cổng song song LPT1. Tất cả các ngắt còn lại được dành cho các thiết bị mới thêm vào hệ thống.

3. Các bus hệ thống theo chuẩn PCI được thiết kế thêm chức năng đánh địa chỉ khi khởi động hệ thống. Thay thế card ISA không có tính năng cắm-và-chạy (plug-and-play) bằng một card PCI là lựa chọn đúng đắn.

4. Cài đặt các thiết bị theo tiêu chuẩn cắm-và-chạy có thể làm giảm khả năng xung đột ngắt giữa các thiết bị. Trong quá trình khởi động, Windows sẽ tự động kiểm tra những ngắt chưa sử dụng và gán cho các ngắt "rỗi" cho các thiết bị phần cứng này. Cuối cùng giải pháp hay hơn cả là bạn hãy mua các thiết bị hỗ trợ chuẩn USB. Chuẩn này cho phép bạn giải quyết vấn đề khan hiếm cổng nối tiếp, cổng song song và các vấn đề liên quan tới địa chỉ ngắt...

Khi một thiết bị không hoạt động đúng đắn Đôi khi một thiết bị nào đó như máy quét hay card mạng chẳng hạn không chịu hoạt động dưới Windows. Sau một hồi kiểm tra tất cả các trường hợp như quên cắm dây nguồn, phích cắm lỏng...Bạn hãy ghi lại tất cả các thông số liên quan tới thiết bị (ví dụ: điạ chỉ IP, tên vùng đối với card mạng), đảm

Page 88: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

bảo bạn có trong tay trình điều khiển thiết bị đúng đắn và mới được cập nhật (nếu không bạn có thể dễ dàng tìm thấy chúng tại Web site của nhà sản xuất). Sau đó bạn hãy theo chỉ dẫn để xoá thiết bị khỏi Windows và cài lại chúng theo đúng cách hướng dẫn trong tài liệu. 1. Mở mục System trong Control Panel và lựa Device Manager. Bạn sẽ thấy một danh sách các thiết bị được cài đặt vào hệ thống. 2. Định vị thiết bị hoạt động không bình thường, nháy chuột vào nó và nháy chuột vào núm Remove để xoá thiết bị đó khỏi hệ thống. Bạn hãy đảm bảo dỡ bỏ tất cả mục khác liên quan tới thiết bị vừa mới được xoá ra khỏi danh sách thiết bị của hệ thống. 3. Sau đó bạn hãy khởi động lại Windows (tốt nhất là bạn hãy tắt hẳn nguồn và khởi động cứng toàn bộ hệ thống). Nếu mọi việc suôn sẻ Windows sẽ tự động phát hiện thiết bị như một thiết bị mới được cài đặt và cài trình điều khiển cho thiết bị. Do Windows sẽ kiểm tra tài nguyên hệ thống tại thời điểm phát hiện thiết bị mới nên Windows sẽ gán cho thiết bị mới tài nguyên khác với lần cài đặt trước đó. Vì vậy trong hầu hết các trường hợp lỗi sẽ được Windows tự khắc phục. Nếu Windows không hề phát hiện ra thiết bị mới, một hộp thoại sẽ xuất hiện yêu cầu bạn chỉ định đĩa cài đặt dành riêng cho thiết bị đó. Nếu nó không tìm thấy trình điều khiển thiết bị, bạn hãy chạy lại chương trình cài đặt thiết bị một lần nữa.

Quản lý font chữ trong WindowsCài đặt và quản lý font chữ trong Windows đòi hỏi nhiều tính kiên nhẫn của bạn, nhưng không phải là không chế ngự được. Nếu bạn là một người hâm mộ Windows bổng nhiên phải đối đầu với một số lượng lớn font chữ thì có lẽ sẽ gặp không ít rắc rối trong việc cài đặt và quản lý chúng. Những việc này vẫn còn gây khó chịu cho chủ nhân các máy PC và làm cho những kẻ sùng bái máy Mac càng thêm tự mãn. Trong khi đối với máy Mac chỉ có một cách dễ dàng quản lý font và một font duy nhất (PostScript Type 1) thì với PC có đến vài kiểu duy trì font và hai dạng font thông dụng (Type 1 và TrueType). Để có một hiểu biết tốt nhất về việc quản lý font trong các máy PC, trước tiên phải xác định rõ ba lĩnh vực khác nhau: cài đặt, quản lý và in. Mỗi lĩnh vực đều có vấn đề của nó. Tuy nhiên chỉ cần chịu khó một chút và với vài trình tiện ích, bạn có thể làm chủ được công việc của mình và dễ dàng truy cập đến các kiểu chữ bạn cần.

Cài đặt và lưu trữ fontCũng may mắn là font TrueType và Type 1 được đưa vào PC cũng như người ta thực hiện điều đó với Mac - địch thủ nặng ký của PC trong lĩnh vực chế bản điện tử. Tuy nhiên, không như máy Mac tự động lưu các font khi bạn đưa font System Folder, cài đặt font trên PC chưa được chuẩn hóa và font có thể nằm ở các thư mục khác nhau, không chỉ làm nhầm lẫn khi tìm font mà còn gây trở ngại trong việc quản lý chúng. Từ khi hãng Adobe đưa ra việc cài đặt font Type 1 và ATM (Adobe Type Manager - trình quản lý font) để lưu các font PostScript Type 1 trong thư mục PSFONTS thì hầu như tất cả đều lựa chọn cách giải quyết như vậy. Nhưng do font Type 1 có vài thành phần, và không phải tất cả đều được lưu trong thư mục chính PSFONTS nên cách giải quyết này vẫn chưa trọn vẹn. Ví dụ, thành phần PFB (PostScript Font Binary) là font đường viền được lưu trong thư mục PSFONTS; PFM (Printer Font Metric) được lưu trong PSFONTS\PFM; AFM (Adobe Font Metric) được dùng để tạo HPPCL (Hewlett - Packard Printer font), được lưu trong PSFONTS\PFM; và INF (infomation) được dùng với AFM thì trong PSFONTS\INF.

Page 89: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

TrueType thậm chí còn ít được chuẩn hóa hơn. Chương trình cài đặt của Windows tự động đưa các font vào thư mục Windows\System. Thư mục con này cũng chứa các file cần thiết cho Windows làm việc chuẩn xác và nếu số lượng font cài vào nhiều thì chúng có thể gây xáo trộn bừa bãi thư mục. Tuy nhiên, thư mục chứa nhiều file không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động, nó chỉ gây trở ngại khi bạn cần vào thư mục SYSTEM để tìm một file nào đó. Theo lý thuyết, các tệp TrueType font (TTF) có thể được lưu trữ ở bất kỳ đâu, vì vậy để có được sự quản lý tốt nhất nhiều người dùng thường cài TTF trong thự mục con WINDOWS\TTF. Tuy nhiên, sau đó Windows lại tạo ra tệp FOT (tệp này thông báo cho Windows biết tên của font và tệp TTF được lưu ở đâu) cho mỗi font được cài. Các tệp FOT được lưu trong thư mục con Windows\SYSTEM và cũng chiếm dụng nhiều nếu nhiều font được cài. Một số chương trình cài đặt khác nhau như CorelDraw 4 cho phép bạn chọn nơi lưu trữ TTF. Nhưng dù sao, các loại font cùng kiểu nên được lưu tại một nơi chung.

Quản lý font3 trình tiện ích cần thiết để quản lý font trong Windows là ATM cho font Type 1, chương trình font trong Windows Control Pannel cho TrueType font và FontMinder cho cả hai TTF và Type 1 (FontMinder của QualiType). Để có một công cụ quản lý font hoàn chỉnh, các trình ứng dụng phải đạt được hai yếu tố: truy cập và xóa font. Nếu bạn có hàng trăm font được cài đặt, có lẽ bạn không muốn tất cả đều luôn luôn hiện hữu. Tại sao? Bởi càng nhiều font được tải vào thì chương trình khởi động càng chậm và nói chung, Windows chạy càng chậm. Vì vậy, bạn cần có cách để dễ dàng tải và loại bỏ font cho từng công việc cụ thể. Yếu tố thứ hai trong quản lý font là xóa bỏ luôn font khỏi đĩa cứng. Với tên file và các phần mở rộng PFB, INF và FOT ở nhiều chổ, làm sao bạn có thể dễ dàng xóa đúng file cần thiết? Chỉ có FontMinder thực hiện được điều này. Với FontMinder bạn có thể tạo một vùng gọi là FontPacks cho TTF và Type 1 chỉ chứa các font bạn cần. Bạn dễ dàng tạo một FontPacks bổ sung của một nhóm font mới. Khi bạn yêu cầu FontMinder xóa các font cụ thể khỏi đĩa cứng, chương trình sẽ tìm kiếm và loại bỏ các thành phần font mà bạn muốn xóa chỉ trong một bước thực hiện.

Tối ưu hóa ATMMặc dù trong Windows đã có sẵn một số loại font Type 1, việc sử dụng ATM cũng khá hữu ích. Phần mềm ATM được bạn kèm với nhiều hệ phần mềm khác nên nhiều nhà thiết kế không quan tâm đến việc đăng ký dùng phần mềm này. Đó là một sai lầm vì không đăng ký sẽ không được cập nhật ưu đãi khi có phiên bản mới. Phiên bản mới nhất của ATM (2.5) nhanh khoảng hai lần so với phiên bản trước. Tốc độ tăng của ATM thể hiện rõ khi in ra các máy in không thuộc loại PostScript, nhanh hơn nhiều so với loại font Type 1. Một ưu điểm khác nữa của ATM 2.5 là không cần phải khởi động lại Windows khi bổ sung font mới. Cả 2 loại font ATM và TrueType đều tạo chữ trực tiếp trên màn hình ở dạng bitmap. Để tăng tốc độ hiển thị khi cuộn màn hình, ATM dùng font cache - một kiểu bộ nhớ tiềm ẩn trên RAM. Dung lượng cache được gán mặc định là 96 KB, tuy nhiên hãng Adobe khuyên nên đặt là 256 KB. Nếu số lượng font dùng trong một tài liệu nhiều hoặc dùng chương trình Adobe Photoshop thì nên đặt tối thiểu là 256 KB. Bộ nhớ cache sẽ giảm thời gian vẽ lại màn hình bằng cách lưu các bitmap của font vào RAM để khỏi phải tạo lại.

TrueType và PostScriptHiện tại loại font PostScript Type 1 vẫn giữ vị trí thống soái trong lĩnh vực chế bản điện tử. Đa số các văn phòng chế bản (nước ngoài - ND) đều dùng máy Macintosh để tạo mẫu. Khi chế bản trên PC, nếu muốn có kết quả chất lượng cao thì có thể chuyển tệp in ra đĩa hoặc chuyển đổi tệp PC sang cho phiên

Page 90: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

bản phần mềm tương ứng chạy trên Macintosh (chẳng hạn như PageMaker hoặc QuarkXPress). Tình trạng hiện nay là Windows được dùng khắp nơi, do đó số lượng các tệp cần chuyển từ PC sang Macintosh sẽ được quan tâm đến nhiều. Bộ font TrueType Master Set của hãng Microsoft dành cho Macintosh có 102 font - tương ứng với số font hiện có đi theo Windows (với Microsoft FontPack 1 là FontPack 2). Font trên cả 2 môi trường PC và Macintosh có cùng một tên gọi, rất tiện lợi cho việc chuyển đổi tệp từ môi trường này sang môi trường khác. Mặc dù loại font TrueType đã được cài đặt cho Macintosh, việc in chất lượng cao hiện nay vẫn có vấn đề. Đa số các loại máy in PostScript không in được loại font này. Để giải quyết vấn đề trên, có thể chuyển đổi các font TrueType sang font PostScript. Trong hộp đối thoại của Windows PostScript driver TrueType Fonts có chức năng tùy chọn cho phép tổng hợp TrueType font thành loại Type 1 (outline) hoặc Type 3 (resolution - dependent bitmap). Driver PostScript Level 2 còn có khả năng chuyển TrueType thành Type 42. Các chuyên viên của Adobe, Microsoft và các phòng chế bản đều thấy rằng với các cố gắng đảm bảo tính tương thích trong font chữ giữa 2 môi trường, khi in thử từ Windows có thể chỉ cần máy in vừa phải. Nếu chọn driver độ phân gải thấp (trên dưới 300 dpi) và chuyển tệp cho phòng chế bản để in ở độ phân giải cao thì việc chuyển sang loại font Type 3 chỉ cho kết quả ở độ phân giải thấp, còn nếu dùng Type 1 (outline) thì việc xuất kết quả độc lập với độ phân giải của thiết bị in ấn. Để kết quả in ra có chất lượng cao, các chuyên gia khuyên nên đặt các chức năng Windows ở chế độ sau: đặt Send TrueType là Type 1, mở Conform to Adobe Document Structuring Convention và tắt Substitution Table. Do còn nhiều vấn đề với các font trên PC nên sự xuất hiện các công cụ quản lý font như FontMinder là điều đáng khích lệ. Các văn phòng chế bản cũng như các chuyên viên thiết kế đang tích lũy kinh nghiệm với dạng font do hãng Microsoft và Apple sản xuất trên quan điểm "phổ cập font co dãn được (scalable)". Và nếu cơ quan bạn đang dùng PostScript thì đầu tư cho thư viện Type 1 là một việc làm hữu ích.

Tham số khởi động Windows 9xTheo tôi được biết thì có nhiều cách để khởi động Windows 95 hay nói cách khác có thể khởi động Windows với các tham số khác nhau. Tôi đã dùng lệnh Win /? để xem nhưng không hiểu, mong quý báo giải thích dùm tác dụng của mỗi lệnh, xin cám ơn. Các tham số khi khởi động Windows 95 có thể được dùng khi có trục trặc trong lúc khởỉ động. Vậy nếu bạn gặp phải lỗi khi khởi động, theo các thông báo lỗi hiện ra bạn dự đoán bệnh và khởi động cùng các tham số thích hợp. Dòng lệnh có dạng: Win [/D:[F] [M] [S] [N] [U] [X] ] /D: là tuỳ chọn đầu của các tham số sau . F: Bỏ chế độ truy cập đĩa fomat dạng 32 bit. M: Khởi động Windows ở chế độ đơn giản nhất, loại bỏ không kiểm tra các thiết bị. N: Khởi động Windows bỏ qua chế độ kiểm tra và kết nối mạng. S: Khởi động Windows chỉ sử dụng bộ nhớ tối thiểu 640 hoặc 1 MB U: Loại bỏ tất cả tranh chấp về địa chỉ ngắt của các thiết bị. X: Loại bỏ tất cả tranh chấp về địa chỉ bộ nhớ của các thiết bị, các chương trình ứng dụng. Với cách này bạn có thể thu hẹp phạm vi nguyên nhân lỗi, nhưng khi không còn cách nào khác bạn sẽ phải cài lại Windows 95.

Thủ thuật trong Windows

Page 91: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Có một cách thuận tiện để khởi động lại Windows mà không Reboot lại toàn bộ. Đó là ngay sau khi chọn ShutDown từ Start Menu và chọn Restart the Computer, giữ phím Shiff trong khi nháy chuột vào OK hoặc nhấn Enter. Nó sẽ khởi động lại máy tính nhưng không phải là toàn bộ. Nhả phím Shiff ngay sau khi Click, nếu không Windows đôi khi sẽ nhắc nhở sự sao nhãng này của bạn bằng thông báo "wish with fingertip". Giữ phím Shifff trong khi nháy trogn Windows 95 thường đưa ra nhiều kết quả thú vị. Ví dụ Shiff-right-Click lên một file trong Explorer đưa ra cho bạn một chọn lựa thêm vào của việc mở file đó với bất kỳ một chương trình nào bạn đã đăng ký. Giữ Shiff trong khi nháy vào nút Delete của Explorer hay vào lệnh Delete của Menu lúc nháy chuột phải sẽ bỏ qua Recycle Bin và gửi thẳng file của bạn vào "niết bàn". Nói chung khi bạn giữ phím Shiff để khởi động Windows 95 (ngược lại với Reboot) bạn nên giữ nó tận khi dòng chữ "Windows is now restarting" xuất hiện trên màn hình. Bằng cách đó bạn sẽ chắc chắn được kết quả mong muốn. Khi bạn Shiff-Right-Click một file trong Explorer, các item của menu không chỉ bao gồm những item được định nghĩa cho những kiểu file thông thường mà còn thêm những gì menu cho các file lạ là Open With xuất hiện. Nhưng nếu bạn đã thêm những mục menu khác cho những kiểu file lạ bằng Windows 95 Registry những mục này sẽ xuất hiện khi bạn Shiff-Right-Click. Và sau đây là một vài mách nước khác với Shiff-Click: Nếu bạn mở một loạt folder để tới một file riêng biệt, bạn có thể muốn kết thúc một vài cửa sổ folder trên desktop. Tất nhiên bạn có thể đóng từng cái một nhưng nếu bạn giữ phím Shiff trong khi đóng một folder sâu nhất, tất cả những cái còn lại cũng sẽ đóng ngay. Phím Shiff cũng có thể thay đổi cách đối xử trong một vài ứng dụng Windows 95. Ví dụ, trong Microsoft Word 7.0, nếu bạn nháy chuột vào Menu File, lựa chọn thứ 3 của menu sẽ là Close, nhưng nếu bạn Shiff Click thì lựa chọn này lại là Close All, để đóng tất cả các văn bản đang mở. Tất nhiên bạn có thể tìm nhiều ví dụ khác nữa!

Thủ thuật trong Windows (2)

Cá biệt hoá Desktop của bạn Mẹo: Hãy sử dụng tối đa khả năng kéo - nhả của Windows Bạn hãy giữ phím phải chuột thay vì bấm vào phím trái chuột. Khi bạn nhả chuột, hành động mặc định sẽ được nhấn mạnh bằng chữ đậm, nhưng bạn sẽ có khả năng di chuyển, sao lưu, hay tạo một tham chiếu tắt tới biểu tượng. Tuỳ biến thực đơn Start Để tinh chỉnh thực đơn Start, bạn hãy bấm phím phải chuột lên thanh tác vụ và chọn Properties | Start Menu Programs | Advanced. Windows quản lý các biểu tượng tắt trên hệ thống giống hệt như cách thức quản lý tệp hệ thống nên bạn hoàn toàn tuỳ biến những biểu tượng, tham chiếu tới các chương trình giống như cấu trúc phân cấp thư mục quen thuộc. Bạn hãy chú ý chỉ có một thư mục duy nhất được phép đặt trên thực đơn Start đó là thư mục Programs. Hãy đặt tất cả những biểu tượng tắt tới các chương trình hay sử dụng vào thư mục này, chúng sẽ hiển thị phía trên thư mục Programs, cho phép bạn khả năng truy cập dễ dàng vào các chương trình. Nếu bạn sử dụng IE4 hay Windows 98, bạn có thể tái cấu trúc lại các biểu tượng tham chiếu tới chương trình nhờ khả năng phân nhóm, kéo-và-thả các biểu tượng này. Một điều bạn luôn luôn ghi nhớ đó là không đưa bất cứ chương trình nào vào thư mục Start trừ các biểu tượng tắt tham chiếu tới chúng vào thư mục này. Tuỳ biến thực đơn Send To (Gửi tới) Microsoft cung cấp cho bạn khá nhiều tiện ích bên trong Windows Explorer. Phần này chúng ta sẽ cùng khám phá thế giới của thư mục Send. Bạn hãy nhấn phím phải chuột, thực đơn ngữ cảnh chứa tuỳ chọn Send sẽ hiện ra. Dưới tuỳ chọn này là một loạt các kết nối tới các chương trình và thao tác được định nghĩa sẵn. Mặc định bạn có thể gửi tài liệu tới ổ đĩa mềm, chương trình gửi thư của Microsoft và có thể cả tiện ích Briefcase của bạn nữa. Song không chỉ có vậy bạn nên thêm các chương trình bạn hay

Page 92: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

sử dụng để tạo cảm giác thoải mái trên hệ thống của bạn. Đây là những kỹ thuật đơn giản để thực hiện điều đó: Mở thư mục C:\Windows\SendTo. Bạn sẽ nhìn thấy những kết nối của thực đơn Send To được liệt kê trong thư mục này. Hãy xoá bỏ những thứ không cần thiết và thêm vào những chương trình của bạn. Đưa biểu tượng Control Panel vào thực đơn Start Mở Explorer ngay trong thực đơn Start bằng cách bấm phím phải khi trỏ chuột vào núm Start và chọn Explorer. Nháy chuột vào khoảng trống của cửa sổ bên phải và chọn New | Folder. Tại trường tên thay vì gõ tên thông thường bạn hãy gõ chính xác tổ hợp ký tự sau: Control Panel.{21EC2020-3AEA-1069-A2DD-08002B30309D} Bây giờ trở lại thực đơn Start bạn sẽ nhìn thấy toàn bộ những biểu tượng của Control Panel được nạp vào thư mục Control Panel ngay trong thực đơn Start. Bạn có thể áp dụng kỹ thuật này cho thư mục Printer hay Dial Up với thứ tự tên các thư mục như sau: Printer: Printers.{2227A280-3AEA-1069-A2DE-08002B30309D} Dial Up Networking: Dial Up Net.{992CFFA0-F557-101A-88EC-00DD010CCC48} Khởi động nhanh các chương trình Thực đơn Start là một nơi lý tưởng để đặt các chương trình bạn thường sử dụng trên hệ thống. Song với một số phần mềm bạn hay "động" tới hơn cả thì Thanh công cụ Khởi động nhanh sẽ đem lại nhiều tiện lợi hơn hẳn (Quick Launch bar). Một điều không may cho bạn nếu bạn không cài đặt IE4, hay Windows 98. ở chế độ mặc định, IE4 đặt biểu tượng IE, Outlook Express, kênh thu thập thông tin của bạn, và một núm có tên Show Desktop sẽ thu nhỏ tất cả các cửa sổ đang được mở trên màn hình. Tuy nhiên bạn hoàn toàn tuỳ biến hoá thanh công cụ này, hãy bấm phím phải vào thanh công cụ, chọn Delete từ thực đơn ngữ cảnh để xóa các biểu tượng không cần thiết ra khỏi thanh công cụ. Nhưng nếu bạn muốn thêm một biểu tượng vào thanh công cụ, bạn hãy kéo shortcut của chương trình lên trên thanh công cụ, hệ thống tự động thêm biểu tượng chương trình vào thanh khởi động nhanh. Mặc dù vậy bạn hãy ghi nhớ một điều, chớ nên thêm quá nhiều biểu tượng vào thanh khởi động nhanh vì điều đó sẽ làm chậm tốc độ khởi động của hệ thống. Tweak UI Một lần nữa Tweak UI đem lại cho bạn rất nhiều tiện ích cá biệt desktop, hệ thống của bạn. Bạn tìm thấy nó trong thư mục \Tools\Reskit\Powertoy\Tweakui.inf trên đĩa CD-ROM Windows 98, hoặc tải xuống từ địa chỉ: www.microsoft.com/ windows/downloads/contents/ wutoys/nttweakui/default.asp Sử dụng tiện ích này bạn có thể điều chỉnh chức năng hình ảnh, âm thanh, và rất nhiều thứ khác từ bảng General. Trong bảng IE4 bạn có thể tắt chức năng Active Desktop, xoá bỏ địa chỉ URL, cũng như xoá bỏ thư mục Favorites, Documents ra khỏi thực đơn Start. Trong bảng Desktop kiểm soát các biểu tượng đặc biệt MSN hay Internet Explorer xuất hiện trên desktop. Thay đổi sự kết hợp với tệp Bạn có cảm thấy khó chịu không khi thay vì mở tệp hình ảnh bạn yêu thích trong Photoshop, hệ thống lại kích hoạt Microsoft Paint hay Lview Pro. Chỉ bằng vài kỹ thuật đơn giản hệ thống lại "dễ bảo" như thường: Mở Explorer, chọn một tệp thuộc loại tệp bạn muốn thay đổi sự kết hợp. Giữ phím Shift trong khi kích phải chuột vào tệp, chọn Open With. Bây giờ tại hộp thoại hiện ra, bạn hãy chọn chương trình bạn muốn sử dụng để mở loại tệp này. Đánh dấu vào tuỳ chọn "Always use this program to open this file, " bấm OK và mọi việc đã hoàn tất.

Scandisk

Page 93: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Nếu bạn tắt máy "ngang xương" khi đang chạy Menphis (giống như cúp điện) hay khi khởi động lại do Windows bị treo. ScanDisk sẽ tự động chạy ngay sau khi Boot máy, đây là mặc nhiên sau khi cài đặt. Bạn có thể xác lập các thông số chỉ định cho AutoScan qua mục [options] trong file MSDOS.SYS. AutoScan=0 sẽ vô hiệu hoá chức năng Autoscan. AutoScan=1 là mặc nhiên, máy sẽ ngừng để hỏi bạn có cho chạy ScanDisk không. Sau khi chờ 1 phút, ScanDisk sẽ tự động chạy nếu bạn không đáp ứng. AutoScan=2 là cho phép tự động chạy Scandisk mà không cần hỏi han "lôi thôi". Bạn có thể xác lập các thông số cho Scandisk khi chạy với dầu nhắc Dos bằng cách sửa chữa file SCANDISK.INI trong thư mục \windows\command.

System file Checker Tiện ích nầy dùng để kiểm tra xem các file hệ thống quan trọng của Windows có bị thay đổi hay hư hỏng không. Nếu phát hiện lỗi, nó sẽ bung các file gốc từ bộ cài đặt để phục hồi chúng.

Page 94: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bạn có thể chỉ định thư mục và các nhóm file cần kiểm tra bầng cách bấm nút Settings. System File Checker sẽ tạo ra file tên SFCLog.txt để lưu thông tin sau khi chạy.

Khi tìm thấy file bị thay đổi, tiện ích sẽ báo cáo và cho phép bạn chọn lựa: * Update verification: Cho sử dụng file hiện hành và cập nhật thông tin để lần sau đừng hỏi nữa. * Ignore: Bỏ qua lần nầy nhưng phải nhắc nhở trong các lần sau. * Update for all changed files: Cho sử dụng tất cả các file đã thay đổi và cập nhật thông tin cho toàn bộ. * Restore: Phục hồi lại file nguyên thuỷ bằng bộ đĩa cài đặt gốc.

Page 95: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Chú ý: Khi chọn mục nầy, bạn cần đưa bộ gốc vào ổ đĩa và khai báo địa chỉ chính xác để tiện ích có thể truy cập.

System Troubleshooter System Troubleshooter (Tshoot.exe) là tiện ích dùng để sửa chữa các file cấu hình hệ thống khi có sự cố xẩy ra. Đây là 1 trình sửa Text tương tự Notepad hay System Configuration Editor (SysEdit.exe). Tuy nhiên giao diện của Tshoot dể sử dụng hơn qua những mục liệt kê sẳn có hộp chọn (checkboxes, disabling/enabling), giúp người dùng đở sai chính tả khi đánh lịnh. Để chạy System Troubleshooter, bấm nút Start, chọn Run, nhập dòng chử tshoot vào ô Open, bấm OK.

Page 96: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Để an toàn, bạn nên backup các file định sửa chữa bằng cách bấm nút Create Backup của bảng General. 1- Bảng General:

Bỏ chọn mục nầy tương tự như chọn Safe Mode khi khửi động máy. Windows sẽ tạo ra một môi trường làm việc "trắng" cho các phần mềm (không nạp các file hệ thống). Sau khi bỏ chọn mục Load all device drivers and software, bấm OK để khởi động lại máy tính.. Nút Advanced dùng để sửa chữa những va chạm về bộ nhớ, màn hình, ổ đĩa cứng...Tương tự bảng Troubleshooter của Device Manager. Bạn cũng có thể chọn không cho nạp từng file hệ thống bằnh cách đánh dấu chọn (cho nạp) hay bỏ dấu chọn (không nạp) trong phần Selective Startup. Chú ý: Muốn sử dụng phần Selective Startup thì phần Normat Startup phải được chọn. 2- Các bảng Config.sys, Autoexec.bat:

Page 97: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Move Up, Move Down: Di chuyển dòng lịnh đang chọn. New: Soạn và chèn dòng lịnh mới ngay dưới dòng lịnh đang chọn. Edit: Sửa dòng lịnh đang chọn. Chú ý: Bạn nhập lịnh trực tiếp vào cửa sổ nầy. Sau khi nhập xong, bạn bấm Mouse vào phần trống để chấp nhận. Nút OK: Lưu trử tất cả các bảng và thoát chương trình nầy. Nút Cancel: Thoát chương trình mà không lưu các sửa đổi đã thực hiện.

3- Các bảng System.ini, Win.ini:

Page 98: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bảng nầy liệt kê lịnh theo từng phần trong file nên dể xác định dòng lịnh. Bạn xem chi tiết lịnh bằng cách bấm vào dấu cộng, rút gọn lại bằng cách bấm vào dấu trừ. 4- Startup:

Bảng nầy liệt kê dòng lịnh nạp các chương trình khi khởi động. Bạn chỉ có thể bỏ dấu chọn để không nạp chương trình chớ không sửa dòng lịnh được. Chú ý: Bảng theo dỏi các chương trình nầy đầy đủ hơn trong nhóm Startup và Win.ini vì bao gồm luôn các trình quản lý nội bộ của Windows.

Page 99: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Dr. Watson Dr. Watson bgoài việc nắm được các thông tin hệ thống, còn có khả năng theo dỏi và ghi lại tức thời tình trạng máy nếu một ứng dụng gây ra lỗi khi đang chạy. Tiện ích sẽ tạo ra các file thông tin tên *.wlg. Các nhà lập trình có thể nhờ tiện ích nầy để tìm lổi do ứng dụng của mình gây ra.

Đây là 1 tiện ích đặc biệt sử dụng hạn chế, do đó mặc nhiên Windows không tạo biểu tượng cho tiện ích nầy. Để chạy chương trình, bạn đánh tên file DrWatson.exe trong lịnh Run. Bạn có thể tạo biểu tượng riêng cho file nầy (nằm trong thư mục Windows) để truy cập nhanh.

Page 100: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

RAM nhanh và thông minhCác chip nhớ ngày càng trở nên nhanh hơn, mạnh hơn và rẻ hơn, đây là những kiểu RAM mới mà bạn cần biết ứng dụng thích hợp của mỗi loại, và bạn sẽ chọn thứ nào cho máy PC sắp tới của mình.Một điều đơn giản là trước đây, bạn luôn mong muốn có nhiều bộ nhớ hơn nữa cho máy tính, và bạn chỉ phải quan tâm đến một loại: DRAM (Dynamic RAM). Sự khác biệt quan trọng là dung lượng của mỗi chip. Trong khi những máy PC đầu tiên của IBM xuất hiện vào năm 1981 chỉ sử dụng những chip 16Kb thì hiện nay là 16Mb. Dung lượng đến 1Gb đã được công bố, tuy nhiên phải vài năm nữa, chip loại này mới được đưa ra. Hiện nay, có nhiều công nghệ bộ nhớ khác nhau đến nổi bạn không thể nói về chúng nếu không được cập nhật thông tin đầy đủ. Bài viết này giới thiệu 17 loại chip nhớ mới, kể cả những sự khác biệt không lớn lắm như: có sẵn cache, đồng bộ hóa, xử lý đồ họa chuyên dụng, ALU trên chip (Arithmetic-logic Unit - bộ số học logic) và nhiều đặc tính khác. Bổ sung vào đó là những hình thức đóng vỏ mới, và bạn khó mà nhận biết được cái nào là loại gì. Từ trước đến nay, người dùng PC vẫn tự đắc với khẩu hiệu: "Có RAM, bạn sẽ là kẻ thắng cuộc". Họ hiểu rất rõ vai trò của bộ nhớ trong hệ thống máy của mình. Tuy nhiên hiện nay, lĩnh vực bộ nhớ máy tính đã bị phân chia khi các nhà sản xuất RAM đưa ra hàng loạt các phương pháp nhằm tăng nhanh tốc độ của chip nhớ. Một số thử nghiệm bao gồm cả bộ nhớ cache trên bo mạch, hay giao tiếp CPU-to-RAM đặc biệt, và thậm chí cả việc tự xử lý trực tiếp ngay trên các chip nhớ. Sắp tới, một hệ máy để bàn không chỉ đánh giá về dung lượng bộ nhớ trong máy mà còn cả về những tăng cường cấu trúc trong bộ nhớ. áp lực ở phía sau những thay đổi trên ngày càng tăng mạnh trong thập kỷ cuối này: tốc độ của các chip RAM không theo kịp tốc độ của CPU. Một khi nhà sản xuất chip tìm ra cách bổ sung nhiều hơn nữa số lượng transistor trên mỗi chip thì nhà kiến trúc CPU có thể dễ dàng tăng tốc độ bằng cách bổ sung thêm những đơn vị số học (ALU) trên mỗi chip. Tăng số lượng các đơn vị số học trên mỗi chip lên gấp đôi sẽ cho phép chip chạy nhanh lên gần như gấp hai lần. Tuy nhiên, với các chip RAM, số lượng transistor nhiều hơn trên mỗi chip chỉ đơn giản có nghĩa là chip có khả năng chứa được nhiều dữ liệu hơn, mà không thể tăng nhanh hơn được tốc độ truy xuất. Mặc dù đã có những loại chip nhanh nhất (SRAM - RAM tĩnh), nhưng chúng còn quá đắt và dung lượng thấp bởi cần phải có nhiều transistor hơn để lưu mỗi bít dữ liệu. Làm việc với tốc độ chậm của RAM, nhà thiết kế CPU phải bổ sung một lượng nhỏ RAM loại nhanh nhất và tạo ra những vùng nhớ riêng biệt có thể luân phiên nhau đảm trách dịch vụ cung cấp dữ liệu cho CPU. Những kỹ thuật này đang được hoàn thiện. Chip P6 của Intel bao gồm bộ nhớ cache thứ nhất và thứ hai ngay trên chip chính. Nhiều hệ thống cũng tăng cường kỹ thuật này bằng cách đặt thêm cache thứ ba giữa CPU và bộ nhớ chính. Tuy nhiên, ưu thế mà mỗi mức cache mới tạo ra là kích thước nhỏ hơn hẳn, cũng như ưu thế về tốc độ truy xuất phải bù lại bằng một điện tích bồ sung (Xem phần "Cache sẽ mất vai trò?"). Vấn đề trên buộc các nhà thiết kế RAM phải lưu chuyển thông tin nhanh hơn nữa. Những thiết kế mới nhất kết hợp thêm một lượng nhỏ các mạch logic để tổ chức dòng dữ liệu ra khỏi chip. Những chip này - được biết với những tên gọi như FPM (Fast Page Mode), EDORAM (Extended Data Out RAM), hay RAM ở chế độ "burst mode" - (Burst Mode - chế độ truyền với tốc độ cao trong truyền thông và máy tính. Với những điều kiện nhất định, hệ thống truyền đi một lượng lớn dữ liệu với tốc độ cao - ND) cho phép dòng dữ liệu nhanh hơn khi dữ liệu được yêu cầu với thứ tự liên tục. Nhiều sự kiện hơn nữa nổi lên trong lĩnh vực đồ họa, nơi mà luôn có những phát kiến mới mẻ bởi đơn vị chuẩn ở đây là card (giao tiếp), chứ không phải SIMM (bộ nhớ SIMM). Điều này cho phép các nhà sản xuất card thử nghiệm, thực hiện nhiều công nghệ khác nhau và đưa ra những bo mạch làm việc với tất cả phần mềm. Những card này được thiết kế nhằm khai thác sử dụng FPM, EDORAM hay RAM

Page 101: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Burst Mode. Hơn nữa, họ cũng nghiên cứu những công nghệ như RAM 3D của Mitsubishi Electronics và Samsung WRAM (Windows RAM), cả hai loại này đều bao gồm nhiều mạch điện tử trên RAM được thiết kế để tăng tốc độ các tác vụ video thông dụng. Các nhà thiết kế hệ thống đang bắt đầu khai thác nhiều loại bộ nhớ bất định (ROM, PROM, EPROM...). Flash memory là loại bộ nhớ có khả năng thay đổi, nó giữ nguyên được hiện trạng của mình cho tới lúc bị xóa đi bởi điện áp tương đối lớn. Được phát triển trước tiên bởi Intel, Flash RAM được sử dụng rộng rãi trong các card nhớ PC PCMCIA dùng cho máy tính xách tay. FRAM (Ferroelectric RAM - RAM sắt điện) là đối thủ mới nhất trong các loại bộ nhớ bất định, sử dụng sắt trong quá trình sản xuất, giống như bộ nhớ có lõi ferrite dùng trong các máy tính lớn trước đây. FRAM cũng giữ lại nội dung bộ nhớ sau khi ngắt nguồn nuôi. Cả hai loại bộ nhớ trên sẽ được sử dụng nhiều trong các máy có tính cơ động cao như PDA (Personal Digital Assisatants - Máy tính trợ giúp cá nhân). ở những lĩnh vực xa hơn thuộc khái niệm trí tuệ, các nhà thiết kế bộ nhớ đang thử nghiệm với loại bộ nhớ có thể thực hiện nhiều tính toán ngay trên chip (Xem phần "Bộ nhớ thông minh"). Điều này hứa hẹn một sự tăng nhanh tốc độ xử lý mà chỉ có thể thực hiện được trong hệ máy song song. Khả năng cài đặt trí tuệ ngay trên chip nhớ sẽ tiết kiệm được thời gian lưu chuyển dữ liệu đến và đi khỏi chip. Thay đổi RAMNgành công nghiệp bộ nhớ máy tính không thể nhanh chóng chuyển sang những phát kiến mới bởi số lượng chip được sản xuất ra rất lớn. Không một nhà sản xuất bộ nhớ nào có thể đưa ra những loại sản phẩm mới hay cải tiến nếu nhu cầu thực tế không rõ ràng, và nhu cầu cũng sẽ không đảm bảo nếu những cải tiến hệ thống chưa được thể hiện. Cho đến thời điểm này, công nghiệp máy tính đã bắt đầu chấp nhận EDORAM dùng cho bộ nhớ chính với quy mô lớn. Thực tế năm nay cho thấy đây là thời điểm mà EDORAM bắt đầu ngự trị trên thị trường. Công nghệ đằng sau EDORAM là sự mở rộng xu hướng đưa FPM RAM thành hình thức chuẩn của DRAM hiện có. Khi đọc một phần tử trong vùng DRAM (array), bạn đã nạp những dòng điện để chọn trước tiên một hàng và sau đó là một cột. Tuy nhiên, dòng điện không thể được ổn định ngay, và sự chậm trễ này chính là nguyên nhân làm cho RAM không được đọc ngay tức thời. FPM RAM chuyển dữ liệu nhanh hơn bởi nó đưa dữ liệu được yêu cầu tiếp theo vào cột bên cạnh dùng trên một hàng. Trong nhiều trường hợp xảy ra, không cần phải đợi do sự chậm trễ của hàng. Tuy nhiên, quá trình này làm cho hoạt động trở nên không ổn định nếu CPU đòi hỏi dữ liệu quá nhanh. Dòng điện không ổn định đủ lâu để CPU có thể đọc và trả lời. Điều này thường xảy ra với những CPU chạy nhanh hơn 33MHz. Để khắc phục vấn đề trên, EDORAM bổ sung những phần tử nhớ thứ hai tại đầu ra. Bộ nhớ bổ sung này lưu dữ liệu tại đầu ra, giữ cho chúng đủ lâu để tín hiệu có thể tới được CPU một cách đảm bảo. Loại chip này làm việc ổn định với bus hệ thống chạy tới 50MHz. Bạn có thể bổ sung thêm nhiều chip hơn nữa và cho phép EDORAM truyền dữ liệu ở những tốc độ cao hơn. Một phương pháp - được biết với tên gọi "burst" EDORAM - dự đoán rằng CPU sẽ cần đến 4 (ví dụ) địa chỉ tiếp theo và tự động nạp sẵn chúng. Kỹ thuật này có thể dễ dàng hổ trợ hệ thống chạy với tốc độ 66MHz một cách tin cậy. Tăng tốcTuy nhiên, CPU ngày càng chạy nhanh hơn, và nó cũng đòi hỏi bộ nhớ nhanh hơn. Nhiều nhà sản xuất bộ nhớ đang nghiên cứu hai giải pháp: RAM đồng bộ, có nghĩa là CPU và RAM cùng hoạt động với một xung nhịp; và RAM cache, loại DRAM được bổ sung một lượng nhỏ SRAM tốc độ nhanh hoạt động như một cache đối với DRAM. Cả hai phương án đều tốt cho hệ thống chạy nhanh hơn 66MHz. Giải pháp đồng bộ là sự thay thế rõ ràng nhất cho những giao tiếp cũ giữa các chip. Thông thường, chip phải đáp ứng đúng yêu cầu. SDRAM (DRAM đồng bộ) hoạt động cùng xung nhịp như CPU, xét đoán trước yêu cầu của CPU và thực hiện theo từng bước. Một số thiết bị thậm chí còn có cấu trúc kiểu pipeline, cho phép thực hiện nhiều tác vụ cùng lúc, chẳng hạn vừa tìm địa chỉ, vừa chuẩn bị dữ liệu cho

Page 102: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

đầu ra. Nhiều người dự đoán rằng 1996 sẽ là năm của SDRAM bởi những CPU 66MHz và cao hơn khi đó sẽ trở nên thông dụng và cần đến SDRAM. Tuy vậy, vào thời điểm đó, SDRAM sẽ chỉ chiếm khoảng 20% so với 50% của DRAM. Hơn nữa, giá của các hệ thống này sẽ bao gồm luôn giá bổ sung của các loại chip logic khác cần thiết cho việc điều khiển SDRAM. Một cách khác để tăng tốc độ truy cập bộ nhớ là bổ sung cache ngay trên chip. Cách tiếp cận này, thường được gọi là CDRAM (Cached DRAM) hay EDRAM (Enhanced DRAM), mang lại hiệu quả cao bởi nó cho phép đặt cache SRAM trên cùng một chip như DRAM. CDRAM được sản xuất bởi Mitsubishi và Samsung, và EDRAM bởi Ramtron International. Trong cả hai trường hợp, chip có thể đáp ứng yêu cầu của CPU nhanh hơn nếu trong cache lưu trữ đúng thông tin cần thiết. Chip nhớ cũng đạt được tốc độ nhờ cache có khả năng lấy dữ liệu từ DRAM đến các khối nhớ lớn sử dụng bus nội. Ví dụ, CDRAM của Mitsubishi có đặc tính 16-Kb cache và đường truyền 128-bit cho cả hai loại chip 4 và 16Mb. Khi dữ liệu được yêu cầu, DRAM gửi khối dữ liệu 128-bit dến SRAM. Nếu địa chỉ kế tiếp đã có sẵn trong khối như thường xảy ra, chip đã sẵn sàng. Chọn đúng kích cỡ cho cache và bus vẫn còn là một kỹ xảo. Ramtron, chẳng hạn, sử dụng bus với độ rộng 2048-bit để nạp cho cache 8-Kb SRAM trong chip 4-Mb DRAM. Một số nhà thiết kế hệ thống tỏ ra hài lòng với bộ nhớ có cache. Nhà sản xuất các bo mạch 486 và Pentium Ocean Information System đã sử dụng EDRAM của Ramtron như bộ nhớ hệ thống chính. Cache trên các chip nhớ cho phép tất cả bộ nhớ hoạt động với tốc độ của cache. Điều này tạo ra sự khác biệt lớn khi CPU yêu cầu những thông tin không có sẵn trong cache L2 (Level 2). Có những nhận xét rằng "Pentium 100MHz sẽ chỉ chạy ở 8MHz nếu bỏ qua cache L2", hoặc "Đó là tại sao một hệ 486 33MHz sử dụng EDRAM có thể chuyển đổi giữa các tác vụ nhanh hơn Petium 100MHz sử dụng DRAM chuẩn". Sắp xếp RAMMột khi EDORAM và các sản phẩm nhanh hơn khác bắt đầu tràn ra thị trường, chúng sẽ có hình thức của SIMM 72 chân - cấu hình chuẩn thông dụng cho các máy PC hiện nay - mặc dù đây có thể chưa phải là giải pháp tốt nhất về lâu dài. Các nhà sản xuất RAM đang đầu tư vào những cách sắp xếp (packaging) nhanh và nhiều hơn, bao gồm cả việc cắm trực tiếp, cán mỏng,... và tiếp tục thử nghiệm với nhiều kiểu đóng vỏ cho phép nâng cao tính ổn định tăng tốc độ bus. Chẳng hạn như SDRAM đòi hỏi CPU và RAM phải hoạt động cùng xung nhịp, vì vậy việc sắp xếp chip chính xác có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu này. Một trong những dạng RAM được biết nhiều là RDRAM (Rambus DRAM) đã kết hợp một cách tốt nhất cách sắp xếp gọn với các mạch ổn định hơn. Chip bố trí rất sát nhau, và các đường dẫn được thiết kế ngắn, chính xác và mảnh hơn các mạch in chuẩn, góp phần làm giảm điện dung không cần thiết ảnh hưởng đến tốc độ của tín hiệu. Hệ thống cũng được thiết kế đồng bộ với xung nhịp, cho phép điều chỉnh chính xác thời điểm có mặt của thông tin trên bus. Quá trình truyền xảy ra sau mỗi 2ns trên cả hai đầu xung nhịp chẵn và lẻ. Sự đồng bộ này tương tự như quá trình xảy ra trong SDRAM. Kết hợp tất cả những yếu tố trên cho phép tốc độ truyền đạt tới 500MBps (500MB trong 1 giây). VRAMThị trường bộ nhớ thông dụng bị ràng buộc và phát triển chậm bởi tất cả các loại chip nhớ bổ sung đều được đưa ra ở dạng chuẩn. Tuy nhiên, các nhà thiết kế bo mạch video lại thoải mái trong việc lựa chọn loại chip nhớ theo sở thích. Như kết quả cho thấy, thị trường tràn đầy các loại sản phẩm khác nhau. Một số nhà sản xuất sử dụng DRAM thông thường, một số yêu cầu VRAM chuyên dụng hơn, và số khác thì thử nghiệm với loại kết hợp như WRAM, 3D RAM. Sử dụng DRAM hay VRAM đắt giá hơn để duy trì hình ảnh trên màn hình là vấn đề tranh luận lâu nay. DRAM vừa thực hiện điều khiển sự thay đổi hình ảnh trên màn hình, vừa thu thập thông tin để gửi đến video monitor. Trong card video sử dụng VRAM, các chip thực hiện hai tác vụ, một duy trì và thay đổi

Page 103: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

hình ảnh, trong khi tác vụ khác là thu thập hình ảnh cho video monitor. VRAM liên tục tiến hành cả hai tác vụ, mỗi tác vụ ở riêng một cổng. VRAM có thể có hai cổng, nhưng không có nghĩa là nó có thể xử lý thông tin nhiều gấp hai lần. Các phần tử nhớ riêng biệt trên thực tế đều như nhau trong cả VRAM và DRAM. Lượng thông tin có thể truyền tải đi và đến các phần tử nhớ DRAM là có hạn chế, bởi tín hiệu điện nạp cho hàng và cột phải có thời gian để nạp và xả. Tốc độ chung này được gọi là bandwidth (bộ rộng dải). Hai cổng của VRAM không làm tăng đôi độ rộng dải. Cổng bổ sung này tăng lượng thông tin có thể đến và đi khỏi chip, mà không nhân đôi chúng lên. Sự phân tách này có hai tác dụng. Các mạch VRAM luôn cho độ phân giải cao và nhiều màu hơn. Độ rộng dải có tác dụng tốt trong những trường hợp độ phân giải cao. Ví dụ màn hình 24-bit với độ phân giải 1280x960 cần tới lượng thông tin 3MB mỗi lần hồi phục màn hình. Với độ phân giải thấp hơn, không cần đến độ rộng dải như vậy. Mặt khác, các mạch DRAM không đòi hỏi đến độ rộng dải. Bởi vậy, các nhà sản xuất bo mạch video cấp thấp thường chọn loại chip nhớ này. Bất kỳ phần nhớ nào không được sử dụng để phục hồi màn hình đều dành cho bộ điều khiển video. Nếu màn hình chạy ở độ phân giải thấp, bộ điều khiển video có thể sử dụng phần còn lại của độ rộng dải để tạo những hình ảnh phức tạp trên màn hình. Các bo mạch DRAM này có thể tái hiện những hình ảnh độ phân giải cao, nhưng với tốc độ chậm hơn. Các nhà sản xuất RAM đang sử dụng những chip RAM cho bo mạch video bằng nhiều cách. RAM có cache, RAM đồng bộ..., tất cả đều có thể được sử dụng để tăng tốc độ của RAM trên bo mạch video. EDORAM, CDRAM, SDRAM và các loại RAM cải tiến khác đều có thể được thay thế nhanh chóng và hiệu quả. Hơn nữa, với kỹ thuật tương tự, có thể cải tiến VRAM thành CVRAM (cached VRAM), SVRAM (VRAM đồng bộ), và EDOVRAM. Bổ sung trí tuệ cho videoQuá trình cải tiến VRAM với cache mới chỉ bắt đầu. Hiện tại, nhiều chuẩn cho video card có thể tăng tốc độ bằng cách bổ sung trí tuệ cho chip RAM (bổ sung khả năng tự xử lý). Công nghệ WRAM là một ví dụ điển hình về bộ nhớ có những đặc tính hổ trợ cho đồ họa. Thực tế, WRAM có khả năng trợ giúp cho video chuyển động thật (full-motion video) hơn là tăng tốc cho môi trường Windows. Khả năng tự xử lý của WRAM cho phép chip thực hiện những tác vụ đồ họa tốt hơn, chẳng hạn như tô nền và BitBlts (BitBlts là một hiệu ứng rất hữu ích cho video chuyển động nhanh). Các nhà kỹ thuật đã cho thấy rằng WRAM có trí tuệ chạy nhanh hơn VRAM và có giá thấp hơn. Một giải pháp hấp dẫn khác là 3D RAM (RAM ba chiều) do Mitsubishi và Sun Microsystem phát triển để tăng tốc độ các tác vụ 3 chiều. Bản chất của cách tiếp cận này là gắn bộ đệm z (trục z) và ALU trên chip. Thông thường, card đồ họa 3D (ba chiều) sẽ vẽ một điểm trong hệ 3 chiều bằng cách tìm điểm đó trong bộ đệm z, nơi lưu trữ tọa độ z của điểm cuối cùng được vẽ tại vị trí này. Nếu tọa độ mới nhỏ hơn, có nghĩa điểm đang được xem xét gần với mắt người dùng hơn và nhìn thấy được. Cả đồ họa sẽ ghi điểm này ngược vào bộ nhớ để hiển thị kết quả. Nếu tọa độ z lớn hơn, có nghĩa là nằm xa hơn, bị che khuất bởi điểm được vẽ trước đó. RAM 3D chuyển toàn bộ công đoạn trên vào chip nhớ, nơi có sẵn bộ ALU để xử lý. Thay vì video card phải đọc, tính toán và ghi để vẽ các điểm trong hệ 3 chiều, nó chỉ việc ghi vào RAM 3D và tự RAM sẽ quyết định phần việc còn lại. Bộ ALU trên RAM 3D cũng có thể thực hiện một số thao tác khác trợ giúp cho card. Mitsubishi ước tính rằng video card với RAM 3D có khả năng thể hiện 1,8 triệu hình đa giác 100 điểm trong một giây - có nghĩa là 9 lần nhanh hơn card sử dụng VRAM. RAM 3D cũng sử dụng công nghệ cache. RAM 3D chuẩn là một chip 10MB với 4 vùng 2,5MB và một ALU trung ương có nhiệm vụ thực hiện các công đoạn vẽ. Có 2 cache L1 trong ALU và 4 cache L2 ở 4 bank. Bộ nhớ không thay đổi

Page 104: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Thị trường máy tính di động đang phát triển mạnh, trong đó kết quả của các nhà thiết kế RAM có tầm quan trọng đặc biệt. Các loại Flash RAM và RAM sắt điện (ferroelectric-FRAM) đang được nghiên cứu để làm bộ nhớ chính cho các máy xách tay. Intel, nhà sản xuất vi mạch lớn nhất, luôn ủng hộ cho loại Flash RAM, công nghệ tương tự như EEPROM. Các chip nhớ này lưu dữ liệu của chúng cho tới khi bị xóa bởi một điện áp khá lớn. Intel đã công bố Flash RAM loại 2MB vào cuối năm 1994 với hy vọng là chip sẽ được chấp nhận bởi các nhà sản xuất máy in để lưu trữ cục bộ thông tin về font chữ cũng như mã hiển thị khác. Chip Flash RAM cũng tìm được chổ trong máy camera cầm tay và các sản phẩm khác cần đến lượng dữ liệu tương đối nhỏ. Một số nhà sản xuất máy tính đang sử dụng loại chip này để lưu trữ thông tin BIOS mà bạn có thể nâng cấp khi cần thiết. Tuy nhiên việc sử dụng Flash RAM còn hạn chế do giá thành còn cao. Một số nhà sản xuất khác lại đang vội vã tập trung vào việc phát triển chip FRAM, loại được coi là "bộ nhớ cơ bản". Hitachi và Ramtron cùng hợp tác với nhau trong một dự án, Matsushita và Symetrix lại liên kết thành nhóm khác. Tất cả cùng đang nghiên cứu các thiết bị có dung lượng 256KB, 1 và 4MB nhằm vào sử dụng rộng rãi. Một số nhà quan sát công nghiệp cho rằng FRAM có thể chứng tỏ để thay thế DRAM chuẩn bởi nó không bị suy thoái sau nhiều tác vụ ghi xóa. RAM Drives ForwardCông nghiệp chế tạo RAM sẽ tiếp tục phát triển và hưng thịnh trong thập kỷ tới. RAM vẫn là phần chạy chậm nhất của các hệ máy tính hiện nay, bởi vậy các nhà thiết kế sẽ tập trung nghiên cứu nhằm tạo ra những sản phẩm nhanh hơn. Thị trường đang phát triển cũng góp phần tạo ra các sản phẩm RAM đa dạng với những đặc tính tốc độ khác nhau. Những chip nhớ sẽ không chỉ thực hiện chức năng lưu dữ liệu mà còn có khả năng tính toán. Những dự án nhiều tham vọng nhất sẽ được đưa ra từ lĩnh vực đồ họa. Bạn có thể tìm thấy trên các hệ máy để bàn nhiều cải tiến mà Cray Computer đã giới thiệu từ những năm 1980. Bộ nhớ thông minh mà Cray đang sử dụng cho các hệ máy lớn mới nhất có thể cho thấy một cách tiếp cận khác hữu hiệu hơn trong vài năm tới. Nhưng cho đến thời điểm đó, sự tiến bộ của các loại DRAM nhanh hơn và nhanh hơn nữa sẽ cho các nhà thiết kế hệ thống nhiều phương án kết hợp bộ nhớ. Flash memoryNhững chỉ trích về bộ nhớ flash đã cường điệu quá mức (Flash memory - loại RAM có thể lưu lại dữ liệu ngay cả khi không có điện. Chỉ có thể xóa nội dung bằng một điện áp khá lớn). Nếu thật sự dung lượng lưu trữ cho máy cầm tay là vấn đề đáng quan tâm của bạn thì những ổ đĩa cứng PCMCIA Type III PC Card 260 MB với giá 600 USD quả là sự lựa chọn hấp dẫn so với card nhớ flash 40MB giá 1.200 USD. Thậm chí một số người ủng hộ bộ nhớ flash vẫn cho rằng loại bộ nhớ này không dễ gì là đối thủ của công nghệ đĩa cứng cả về giá và dung lượng trong thời gian tới. Tuy nhiên, dung lượng lưu trữ chưa phải là tất cả.áCard nhớ flash, một thể rắn thuần túy điện tử và không có thành phần chuyển động, đòi hỏi ít năng lượng hơn nhiều so với đĩa cứng, và điều này rất có ý nghĩa đối với các máy tính cầm tay. Hơn nữa, nhiều máy cũ không có khe cắm cho PC Card Type III (loại card đĩa cứng, dày hơn Type I và Type II), nhưng lại có khe cắm Type I và II thông dụng hơn có thể tiếp nhận card nhớ flash. Điều này có thể là vấn đề cân nhắc quan trọng nếu bạn đang cần trang bị máy cầm tay. Thời gian truy cập của card nhớ flash (khoảng 30 nanosecond) nhanh hơn từ 100 đến 1000 lần so với đĩa cứng, cho phép chạy với tốc độ chỉ trong khoảng nháy kép mouse.áBộ nhớ flash với thể rắn có thể chịu được va đập mạnh (đến 2000 Gs) hơn bất kỳ loại đĩa cứng nào (200 Gs). Điều này quan trọng trong nhiều trường hợp. Với loại "nồi đồng cối đá" thì chẳng phải bận tâm gì nhiều. Bởi card nhớ flash lưu giữ thông tin ngay cả khi không có năng lượng nên dữ liệu có thể được bảo quản tốt trong thời gian dài. Cuối cùng, card nhớ flash rất đáng tin cậy với MTBF (mean time between failures - khoảng thời gian có thể xảy ra sự cố) là hàng triệu giờ. Vì tất cả những lý do nêu trên, card nhớ flash vẫn có tầm quan trọng trong sử dụng máy tính cầm tay.á

Page 105: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Card nhớ flash còn thâm nhập vào nhiều sản phẩm khác ngoài máy cầm tay. Trong nhiều máy in và server in, card flash lưu trữ font chữ, biểu tượng, hình thức trình bày. PDA (Personal Digital Assistant - máy tính trợ giúp cá nhân), bao gồm cả Apple Newton và các thiết bị cầm tay khác, sử dụng card flash như phương tiện chính phân phối phần mềm. Đối với PDA, card flash có giá trị hệ thống hơn đĩa cứng. Bạn có thể không cần đến 100MB, nhưng bạn cần sự tiện lợi và tin cậy.áở mức độ chip, bộ nhớ flash còn thông dụng hơn trong các ứng dụng liên quan đến máy tính. Flash BIOS, trước đây chỉ có trong các máy xách tay, nay thật sự đang thay thế ROM BIOS trong các hệ để bàn, cho phép các nhà sản xuất hay người dùng viết lại chương trình BIOS mà không phải thay chip.áBản chất kiên định của bộ nhớ flash cũng rất quan trọng. Các đặc tính Plug-and-Play sẽ đòi hỏi bộ nhớ BIOS mà dữ liệu cấu hình có thể cập nhật được. Các Hub và Router cũng sử dụng chip flash thay thế cho ROM, đảm bảo khả năng cập nhật đơn giản. Nhiều loại modem cũng sử dụng bộ nhớ flash để lưu cấu hình và phần mềm. Giải pháp này cho phép bạn nâng cấp modem đơn giản và không tốn tiền bằng cách nạp lại thông tin, hơn là phải đổi chip. Tương tự, card mạng cũng có chip flash ghi lại chi tiết cấu hình. Trên các ổ đĩa SCSL, chip flash thường lưu các mã điều khiển có thể thay đổi theo nhu cầu người dùng. Độ tin cậy của bộ nhớ flash cũng được ứng dụng trong bảo toàn dữ liệu và hệ RAID (RAID - xem PC World VN số 6/1995).áVới nhiều sản phẩm không thuộc máy tính, chip nhớ flash (thường là loại dung lượng thấp) cũng có mặt trong máy điện thoại cầm tay, máy nhắn tin, máy trả lời (thay thế DRAM) và video camera. Dễ dàng thiết kế và sản xuất các máy điện thoại cầm tay và đặt cấu hình bộ nhớ flash của chúng với các mã đặc biệt, tương ứng với mục đích sử dụng cuối cùng.áBộ nhớ flash đóng vai trò tương tự trong các máy Set-top boxes cho TV (thiết bị bổ sung vào TV để có thể xem và mua hàng thông qua TV): máy cần được chỉnh lại sau khi sản xuất và nạp những thông tin cần thiết. Thậm chí xe hơi cũng sử dụng bộ nhớ flash như một phần của hệ điều khiển động cơ.áTrong khi việc kinh doanh bộ nhớ flash PC card tăng ít nhất 10% mỗi năm, một số dự đoán cho thấy toàn bộ thị trường bộ nhớ - flash hiện tại là 1 tỷ USD - sẽ tăng 50% mỗi năm và đạt từ 4 đến 10 tỷ USD vào năm 2000. Một vài yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng này. Ron Bohn, nhà phân tích của Dataquest, nhìn nhận bộ nhớ flash như một "khả năng kỹ thuật". Hiện tại, mức tiêu thụ các sản phẩm sử dụng bộ nhớ flash tăng nhanh, giá lại hạ và dần trở thành đối thủ với DRAM. Người dùng card flash 10MB sau một - hai năm có thể mua card 20MB với cùng giá.áĐiều chắc chắn sẽ xảy ra với công nghệ điện tử - bộ nhớ flash cũng trở nên thông dụng cho các nhà sản xuất cạnh tranh, bao gồm AMD, Fujitsu, IBM, Inter, Matsushita, Mitsubishi, National Semiconductor, Panasonic, SGS-Thomson và Toshiba... Phần lớn các bộ nhớ flash được thiết kế theo chuẩn và có thể trao đổi với nhau.áCông nghệ flash đang tự phát triển. Giao tiếp serial và kích thước nhỏ của bộ nhớ làm tăng tính linh động. Dữ liệu được lưu trữ với độ tin cậy và an toàn cao. Dung lượng của chip flash hiện tại là 16Mb và sẽ được tăng gấp đôi vào năm tới. Hiện đã có card flash 40MB với tính năng hơn hẳn các ổ đĩa cứng loại PC Card.Bộ nhớ thông minhPhương thức tinh vi nhất để lấy thông tin ra từ chip đang được thực hiện bởi Cray Computer. Các kỹ sư đang thiết kế một siêu máy tính mới - Cray 3, sử dụng loại bộ nhớ đặc biệt có chứa bộ xử lý. Mỗi chip nhớ có 128KB lưu trữ và 64 bộ LU một bit có thể thực hiện mọi phép tính cơ bản 1-bit. Các BXL 1-bit được cài sẵn trong các chip nhớ. Mỗi bộ chứa 3 thanh ghi 1-bit. Dữ liệu trong bất kỳ các bit cục bộ nào của mỗi BXL có thể được tải vào và lấy ra từ các thanh ghi này. Mỗi cái trong 3 thanh ghi có thể có hai trạng thái khác nhau, có nghĩa là có 8 cấu hình cho mỗi bộ thanh ghi. Các chip này do Supercomputer Research Center thiết kế như một phần của chương trình nghiên cứu được tài trợ bởi NSA (National Security Agency). Công nghệ được chuyển nhượng cho Cray Computer và National Semiconductor, những công ty sẽ sản xuất chip.

Page 106: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Chip được thiết kế để hoạt động như một bộ nhớ thông thường trong phần lớn thời gian. Tuy nhiên, nếu BXL chính cần sử dụng bất kỳ trong 64 BXL nằm trong bộ nhớ, nó sẽ thiết lập một đường tín hiệu và ghi chỉ thị vào chip. Chỉ thị được phân cho các BXL, và mỗi BXL thực hiện lệnh trong 2048 bit dữ liệu cục bộ.Máy tính đầu tiên sử dụng bộ nhớ loại mới này mang tên Cray 3/SSS, và khách hàng đầu tiên sẽ là NSA, Robert Cox, giám đốc dự án Cray 3/SS, hy vọng rằng máy tính sẽ có nhiều ứng dụng trong việc giải quyết các vấn đề cao cấp song song (chẳng hạn xử lý ảnh, tính toán địa chất).Cache sẽ mất vai trò?Bổ sung cache là phương pháp hợp lý được người dùng máy tính biết rất rõ nhằm tăng tốc độ hệ thống. Tuy nhiên hiện tại, nhu cầu về cache riêng đang hạ thấp bởi những bộ xử lý mới nhất được bổ sung nhiều cache hơn ngay trên CPU và các HĐH đa nhiệm phân chia yêu cầu về bộ nhớ, làm giảm ưu thế tốc độ do cache tạo ra.Những thế hệ CPU mới hiện nay bao gồm một lượng cache nhỏ ngay trên chip. Lượng cache này thông thường giới hạn trong khoảng 8 - 32 KB, quá ít để đáp ứng cho nhiều ứng dụng. Bởi vậy, nhiều hệ máy tính được thiết kế với một lượng cache lớn L2 (Level 2) bên ngoài để hổ trợ cho cache trên chip (cache L1).Tuy vậy, cache trên chip trở nên ngày càng lớn, Intel đã công bố BXL P6, chứa đến 256 KB cache L2 trên mạch, còn Alpha chip 21164 của Digital cũng có 96KB cache L2. Với lượng cache ngay trên chip nhiều như vậy, việc bổ sung cache L2 cho máy tính trở nên không còn ý nghĩa. Bởi vậy chúng ta hy vọng sẽ chứng kiến những loại máy như vậy trong vài năm tới.Những bộ phần mềm lớn và HĐH đa nhiệm như OS/2 Warp có thể làm mất giá trị của cache nếu chúng không đủ lớn để giữ tất cả mã chương trình đang được thực hiện. Khi CPU chuyển đổi giữa các tác vụ, nó không thể tìm thấy thông tin cần thiết trong cache và buộc phải yêu cầu từ bộ nhớ chính, vốn dĩ hoạt động không đủ nhanh. Ví dụ, người dùng Windows có thể đã nhận thấy hiệu ứng này khi yêu cầu hệ thống in ở chế độ nền. Nhiều máy không thể lưu cả mã in và mã của Windows trong cache cùng một lúc, bởi vậy việc chuyển đổi thường xuyên làm cho hệ thống thực hiện ở tốc độ thấp.Cải tiến trong thiết kế cache đang là việc cần thiết bởi sự hiện diện của đa bộ xử lý. Đa bộ xử lý mới chỉ bắt đầu được đưa ra thị trường do nảy sinh nhu cầu hội đàm qua máy tính để bàn (desktop conferencing) và các ứng dụng multimedia cao cấp. Đa bộ xử lý dường như sẽ trở nên phương án lựa chọn đối với người dùng mức cao.Thiết kế cache cho đa bộ xứ lý là công việc tương đối phức tạp. Nếu BXL A chuyển sang cập nhật vùng nhớ đã được thực hiện cache bởi BXL B, bản sao của B hoặc sẽ bị mất hiệu lực hoặc được cập nhật bởi A. Còn xấu hơn nếu B đã sửa đổi bản sao của nó, sau đó trước khi A có thể thực hiện, dữ liệu của B hoặc phải được đưa về bộ nhớ chính hoặc được chuyển trực tiếp tới BXL A. Bởi vậy, có hai cách giải quyết vấn đề này. Hoặc tất cả các BXL đều theo dõi sự chuyển đổi trong bộ nhớ, tìm kiếm những khả năng xung đột với dữ liệu cục bộ đã được thực hiện cache (snoopy cache), hoặc bộ nhớ chính phải điều khiển theo dõi BXL nào đã thực hiện cache với các vùng nhớ (directory-based cache).Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu và khuyết riêng.Các hệ đa bộ xử lý đã là đối tượng được nghiên cứu trong vòng 30 năm nay. Nhưng chỉ mới khoảng 5 -10 năm trở lại đây, nó mới chiếm được một phần đáng kể trên thị trường các máy siêu tính cao cấp. Hiện tại, đa bộ xử lý đang thực hiện bước tiến vào lĩnh vực các máy PC và trạm làm việc mức cao, và thật sự công nghệ mới này phải đối đầu với thực tế.Một máy, nhiều RAMTrong vòng vài năm tới, máy tính để bàn của chúng ta có thể sử dụng tới 3 hoặc nhiều hơn các loại RAM, mỗi loại được chọn cho chức năng chuyên biệt. Ví dụ, máy có thể dùng SRAM đồng bộ, nhanh cho cache, Advance DRAM không đồng bộ (EDRAM, EDORAM) cho bộ nhớ chính, và Rambus DRAM hay Windows RAM cho card video. Bạn cũng có thể dùng PC Card với flash RAM.

Page 107: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Đây là kết quả logic của nổ lực nhằm đưa máy tính đạt tốc độ tối đa. Trước đây, nếu muốn một máy tính chạy nhanh, bạn sử dụng BXL làm việc ở tốc độ xung nhịp cao. Tuy nhiên đến nay, nhà thiết kế cần phải thận trọng cân nhắc từng chi tiết trong hệ thống để ngăn ngừa vấn đề tắc nghẽn. Do mỗi loại RAM có từng ưu thế khác nhau, chúng trở nên có ý nghĩa về khía cạnh kỹ thuật và kinh tế trong việc kết hợp vài kiểu bộ nhớ trong một máy đơn.Khi thị trường DRAM được phân thành những công nghệ mới như đã nêu trên, các cơ quan thiết lập chuẩn gặp khó khăn trong việc bao quát tất cả. Một trong những chuẩn đầu tiên là RamLink được đưa ra, nhưng dường như nó không có mặt trong nhiều năm. Và DRAM đồng bộ dù được công nhân nhưng lại không hoàn thiện. Các sản phẩm đồng bộ từ các nhà sản xuất khác nhau không phải lúc nào cũng làm việc với nhau. Tuy nhiên, cùng thời gian đó, công nghệ RDRAM lại trở thành chuẩn phổ biến hơn cả, bởi nhà sản xuất là Rambus.Bởi vậy, chúng ta xem xét một vài chuẩn thông dụng, mỗi loại được tối ưu cho từng ứng dụng riêng.VRAM cho đến nay có giá gấp đôi so với DRAM tương đương. Nhiều nhà phân tích dự đoán nhu cầu về VRAM sẽ giảm trong vài năm tới, khi những công nghệ RAM nhanh và ít tốn kém xuất hiện. Và giá của chúng sẽ hạ tới mức của DRAM hiện nay.Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới phân cấp bộ nhớ là xu hướng đưa ra bộ nhớ với giải thông (bandwidth) lớn hơn. Trên thị trường trạm làm việc, các nhà thiết kế RAM và máy tính phải đáp ứng được đòi hỏi của những hệ thống máy tính tốc độ cao - 300 MHz. Công nghệ DRAM thích hợp với video lại có thể không thích ứng cho bộ nhớ chính. Chẳng hạn Rambus DRAM thực hiện các ứng dụng video rất tốt bởi nó duy trì được dữ liệu lớn trong bộ nhớ vài MB. Tuy nhiên, những đặc tính này lại không phải là tiêu chuẩn để lựa chọn cho bộ nhớ chính của máy tính thông thường.Kết quả dẫn tới bài toán con gà và quả trứng. Tất cả đều đồng ý rằng họ đang cần tốc độ, nhưng các công ty lại chẳng muốn giao phó cho một công nghệ đến khi đã rõ người thắng cuộc, và điều này sẽ không xảy ra nếu một công nghệ bắt đầu được nhiều người quan tâm. Cuối cùng, thay vì đến trực tiếp với một cấu trúc mới cho bộ nhớ chính, các nhà sản xuất hệ thống có lẽ lại tiếp tục thận trọng.Trong những năm tới, chúng ta phải rất cẩn thận khi mua bộ nhớ cho máy của mình. Những máy tính khác nhau có thể sử dụng công nghệ RAM khác nhau, và chắc chắn là một số máy đòi hỏi phải có những loại RAM đặc biệt từ các nhà sản xuất cụ thể. Quả là vấn đề không mấy dễ chịu. Nhưng đó là cái giá phải trả để đổi lấy dung lượng và tốc độ.

Sử dụng máy in hiệu quả hơn

Mẹo: Hãy giữ máy in càng gần càng tốt Không phải "càng xa, càng tốt" bao giờ cũng hay đặc biệt trong lĩnh vực in ấn. Cáp nối máy in đôi khi gây ra rất nhiều nguyên nhân không ổn định đối với máy in. Đối với máy in cá nhân, các nhà sản xuất sử dụng chuẩn cáp theo chuẩn IEEE-1284, do đó bạn hãy giữ cho máy in của bạn càng gần với máy tính của bạn càng tốt. Thông thường giới hạn này không quá 1,9 mét. Trợ giúp sử dụng máy in Microsoft Windows kèm theo khá nhiều tài liệu giúp ích cho người sử dụng máy tính khi gặp phải sự cố đối với các vấn đề in ấn. Tệp Printers.txt trong thư mục Windows chứa rất nhiều thông tin hữu ích cho những ai muốn sử dụng máy in hiệu quả nhất và khắc phục các vấn đề in ấn thường ngày.

Page 108: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Tiện ích Print Troubleshooter sẽ giúp bạn nhanh chóng tìm ra căn nguyên của vấn đề in ấn và phương pháp giải quyết trục trặc. Mở Start | Help, bấm vào mục Contents, nháy kép vào mục Troubleshooting, cuối cùng nháy kép vào chủ đề If You Have Trouble Printing. Người dùng trung thành với Windows 95 sẽ tìm thấy tiện ích liên quan tới in ấn tại thư mục Other\Misc\Epts\Epts.exe trong đĩa CD nâng cấp bản Windows 95. Đối với người sử dụng Windows 98, tiện ích này đã được tích hợp sẵn vào phần trợ giúp trực tuyến của Windows. Bạn sẽ tìm thấy mục Print Troubleshooter dưới chủ đề Troubleshooting của phần trợ giúp trực tuyến. Tăng tốc độ in ấn Windows sử dụng cơ chế đệm dữ liệu cho tất cả các dịch vụ in ấn. Tiện ích PrintSpooler được chạy ở chế độ nền và viết dữ liệu vào bộ đệm tạm thời trong thư mục: C:\Windows\Temp. Mặc dù điều này cho phép bạn thực hiện nhiều tác vụ khác nhau trong khi in ấn nhưng chúng sẽ làm chậm tốc độ chung của hệ thống. Bạn hãy theo các chỉ dẫn dưới đây để cải thiện tốc độ in ấn của bạn: 1 Bạn có thể xoá bỏ tác dụng của tiện ích này bằng cách nháy phải chuột vào biểu tượng máy in trong thư mục Printers. 2 Chọn Properties và nháy vào bảng Detail. Nháy chuột vào núm Spool Settings tại phía cuối hộp thoại. 3 Lựa chức năng Print Directly to Printer (in trực tiếp ra máy in). Điều này sẽ buộc ứng dụng của bạn phải hoàn thành tác vụ in trước khi chuyển quyền điều khiển hệ thống cho các ứng dụng khác, nhưng bù lại tốc độ in ấn dữ liệu trên máy in của bạn sẽ được cải thiện đáng kể. Thủ thuật in trực tiếp ra máy in cũng còn có tác dụng khi tiện ích đệm dữ liệu in ấn hoạt động không bình thường mà bạn lại không muốn tái khởi động toàn bộ hệ thống để khắc phục trục trặc. Khi lỗi in ấn chỉ xảy ra với một ứng dụng duy nhất Hãy thử in từ Notepad hay Word Pad để chắc chắn vấn đề chỉ xảy ra đối với mỗi một ứng dụng duy nhất và khẳng định đó không phải là lỗi do Windows gây ra. Nếu trục trặc xảy ra với một duy nhất một tài liệu, bạn hãy thử in một trang trắng tinh cùng với ứng dụng gây lỗi. Nếu máy in hoạt động bình thường thì rõ ràng bộ nhớ và bộ font của hệ thống có vấn đề. Nếu bạn đang sử dụng một ứng dụng 16 bit chắc chắn có một tệp cấu hình nào đó đã được thiết lập các tham số chưa chuẩn xác cho ứng dụng. Bạn hãy cài đặt lại chương trình và liên hệ với nhà sản xuất để khắc phục lỗi in ấn.

Tận dụng bộ nhớ của PCBộ nhớ không đủ có thể làm chậm tốc độ toàn hệ thống, các ứng dụng chạy thiếu chính xác, hoặc xấu nhất có thể làm cho hệ thống bị treo, xóa sạch mọi dữ liệu và mất công việc chưa kịp lưu.Dĩ nhiên, để tránh các trục trặc về bộ nhớ phải tăng thêm RAM ( nhất là trường hợp đang chạy Windows 9x mà có chưa tới 16 MB ). Nhưng trước khi thực hiện điều này, bạn nên khai thác tối đa bộ nhớ hiện có trong máy tính của mình. Đừng lo, không quá khó khăn như người ta tưởng: Windows 9x có một số công cụ giúp cho việc xác định và khắc phục những trục trặc liên quan dến bộ nhớ, đồng thời tối ưu hóa việc thiết lập bộ nhớ hiện có để đạt hiệu năng cao nhất.Cho chạy đồng hồ đoNếu nghi ngờ các tác vụ máy tính làm quá tải dung lượng nhớ của PC, an toàn nhất là luôn theo dõi mức tài nguyên còn lại của Windows bằng tiện ích System Resource Meter. Bạn có thể thấy tiện ích này trong Start. Programs. Accessories. System Tools. Resource Meter. Nếu không thấy ở đây, hãy cài đặt nó từ đĩa CD - ROM Windows thông qua Add/ Remove Programs trong Control Panel. Điểm sáng System Resource Meter.Bạn có thể biết được phần trăm nguồn tài nguyên chưa sử dụng trong hệ thống bằng cách đặt con trỏ lên biểu tượng Resource Meter trong System Tray, hoặc bằng cách bấm đúp chuột lên biểu tượng đó để làm xuất hiện hộp thoại Resource Meter. Nếu biết User resources hay ' GDI Resources' dưới mức 25%

Page 109: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

thì phải xem xét đóng bớt các ứng dụng và cửa sổ không cần thiết. Trường hợp tái nguyên còn lại dưới 10%. bạn sẽ thấy một cảnh báo xuất hiện trên màn hình. Đây là lúc bạn đang đối mặt vớ tử thần; lưu ngay tức khắc các kết quả công việc, và đóng hết các chương trình đang chạy để giải phóng bộ nhớ.Luôn chú ý đến trình giám sátSystem Monitor là tiện ích chẩn đoán mạnh có trong Windows cho phép bạn theo dõi thường xuyên nhiều số liệu thống kê về tốc độ hoạt động của hệ thống. Giống công cụ Resource Meter, nó có sẵn trong trình đơn System Tools hoặc phải cài đặt tứ đĩa CD - ROM Windows.Hãy chọn các số liệu thống kê mà bạn muốn hiển thị từ menu Edit. Add Item của System Monitor . Khi mở thêm ứng dụng và tài liệu, những thống kê này sẽ giúp bạn thấy rõ lượng RAM vật lý trên máy bị chiếm dụng ra sao, khi nào thì tập tin trao đổi đạt tới dung lượng tối đa, và những chương trình nào ngốn nhiều bộ nhớ nhất.Để biết chính xác lượng RAM cần cho một chương trình ,bạn cộng các số "other memory" lại với nhau rồi trừ đi số lượng dùng cho " Dick cache". Bạn tiến hành phép tính này trong khi chương trình đang chạy, và thực hiện lại lần nữa khi nó không chạy; Chênh lệch giữa hai kết quả chính là lượng RAM đã dùng cho chương trình đó.Trục trặc khác mà người dùng thỉnh thoảng gặp là bộ nhớ bị " rò rỉ". Một số trình ứng dụng không chịu giải phóng lượng bộ nhớ mà chúng đã chiếm cho những tác vụ đặc biệt ( hay gọi là "thread" ), thậm chí sau khi các ứng dụng đó đã kết thúc. Chương trình bị hỏng có thể tiếp tục tạo ra các thread mới, ngốn hết phần bộ nhớ còn lại trên máy. Để biết rõ máy tính của bạn có bị rò rỉ bộ nhớ hay không, hãy chú ý theo dõi biểu đồ " Kernel: Thread" trong System Monitor. Việc tăng liên tục số lượng thread- đặc biệt khi máy tính hoạt động ở mức tối thiểu - là biểu hiện của sự rò rỉ. Trong mọi trường hợp, đóng và khởi động lại ứng dụng đó bạn sẽ lấy lại được lượng bộ nhớ bị thất thoát. Nếu thao tác này không có tác dụng, bạn phải đóng tất cả các chương trình và khởi động lại máy.Tăng tốc cho tập tin trao đổiKhi PC cần truy cập lượng dữ liệu lớn hơn khả năng có thể lưu trữ trong RAM, Windows sẽ đặt lượng dữ liệu vượt trội đó vào tập tin lớn trên đĩa cứng gọi là tập tin trao đổi (thường gọi là bộ nhớ ảo ). Vì tốc độ truy cập dữ liệu trên đĩa chậm hơn rất nhiều so với tốc độ truy cập RAM nên bạn phải tối ưu hóa các thiết lập của tập tin trao đổi. Để có các thông số này, vào Start. Control Panel, nhấn kép vào biểu tượng System, chọn mục Performance và nhấn vào Virtual Memory. Thực hiện như sau:Kiểm tra kích thước tập tin trao đổi. Theo mặc định, Windows tăng hoặc giảm kích thước tập tin này theo yêu cầu thực tế. Nếu không gian đĩa cứng bị hạn chế , tập tin trao đổi sẽ không thể mở rộng đúng theo yêu cầu của nó, nên bạn phải giải phóng thêm không gian trên đĩa cứng.Bạn có thể cài đặt thủ công kích thước cực đại và cực tiểu cho tập tin này bằng cách chọn nút Let me Specify my own virtual memory settings trong hộp thoại Virtual Memory. Nhập cùng một giá trị cho Maximum và minimum bạn sẽ cố định kích thước của tập tin trao đổi. Điều này có thể cải thiện tốc độ của hệ thống vì Windows không phải điều chỉnh kích thước tập tin đó nữa. Tuy nhiên, bạn có thể bị thiếu bộ nhớ nếu kích thước tập tin trao đổi không đủ lớn.Dùng đĩa cứng nhanh nhất.Nếu có nhiều đĩa cứng, bạn đặt tập tin trao đổi vào đĩa nào có tốc độ truy cập nhanh nhất. Để thực hiện việc này, bạn chỉ cần thay đổi thiết lập của trường "Hard disk" tron g hộp thoại Virtual Memory và khởi động lại.Tiến hành defrag đĩa cứng.Không như Windowns 3.x, Windowns 9x cho phép tập tin trao đổi sắp xếp trên nhiều vùng của đĩa, có nghĩa là không được lưu trữ thành một khối đơn nhất và liên tục. Trong những hệ thống sử dụng nhiều bộ nhớ ảo, việc dồn tập tin trao đổi lại có thể tăng tốc độ lên đáng kể.Cách dễ nhất đối với việc derafg tập tin trao đổi là dùng tiện ích Speed Disk của Norton Utilities. Bạn cũng có thể dùng tiện ích Disk Defragmenter của Windowns 98 ( từ menu System Tools ). Nhưng do Disk Defragmenter coi tập tin trao đổi là không thể di chuyển, nên trước hết bạn phải chuyển tập tin

Page 110: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

trao đổi này vào một đĩa hoặc một phần vùng đĩa thứ hai- dùng thiết lập " Hard disk" của tập tin trao đổi - rồi tiến hành defrag đĩa đó. Cuối cùng chuyển tập tin về lại chổ cũ. Nếu chỉ có một đĩa, bạn đánh dấu vào ô Disable virtual memory, khởi động lại máy, tiến hành defrag đĩa, sau đó kích hoạt bộ nhớ ảo và khởi động lại lần nữa. Nhưng hãy nhớ là nếu hệ thống không đủ RAM để chạy theo chế độ không cần bộ nhớ ảo, có thể máy PC sẽ không khởi động được.Các ký tự ổ đĩa không logic của WindownsTôi vừa bổ sung thêm một ổ đĩa cứng mới 12 GB loại EIDE với hai phân vùng, C: dùng cho WINDOWNS và E : dùng cho các ứng dụng. ổ đĩa cũ 1GB EIDE bây giờ là D. Còn ổ CD-ROM bây giờ được chỉ định là ổ đĩa F: Có cách nào để ổ CD-ROM quay về với tên D: cũ của nó hay không?Rất tiếc là không có cách nào. Windowns gán tên cho các ổ đĩa theo thứ tự như sau: các ổ đĩa được điều khiển ở mức BIOS, gồm hầu hết các ổ cứng EIDE, được xếp trước, C: được gán cho phân vùng chính ( primary) trên ổ đĩa EIDE master- thường là ổ đĩa phân vùng dùng cho Windowns. Sau đó, ký tự tiếp theo được gán cho phân vùng chính của các ổ đĩa (được điều khiển bởi BIOS) khác có trong hệ thống.Trong trường hợp này là ổ đĩa cũ của bạn. Khi tất cả các phân vùng chính đều đã có tên gán, các phân vùng còn lại sẽ nhận tên ổ đĩa của mình. Và cuối cùng, Windowns gán tên cho các thiết bị được điều khiển bởi phần mềm, như ổ CD-ROM hay ổ Zip.

Thay thế cổng giao tiếpCác cổng nối tiếp và song song trên máy tính của bạn là những thứ cuối cùng mà bạn có thể nghĩ đến chuyện thay thế. Vậy mà Intel và những nhà sản xuất khác cho rằng đã đến lúc loại bỏ các cổng này. Chúng ta thử khảo sát xem nguyên nhân vì sao.Khi nào là lúc bạn quan sát chăm chú phía sau máy tính để bàn của bạn lần chót? Chắc là khi bạn cài đặt một thiết bị ngoại vi mới - modem, máy in hay chuột. Thật đáng sợ, đúng không? Tất cả những sợi cáp và dây nhợ đó như một mớ bòng bong. Giá như có thể loại bỏ chúng đi thì tốt biết bao. Hãy ráng đợi, đó chính là điều sắp xảy ra.Một máy tính điển hình có 2 cổng nối tiếp, 1 cổng song song, 1 cổng VGA, 1 cổng trò chơi, 2 cổng kết nối cho chuột và bàn phím. Nếu bạn thường dùng tới thiết bị ngoại vi, như nhiều người khác hiện nay, bạn sẽ phải nghĩ đến bộ sao (ghép) cổng hay cái gì đó tương tự cho phép bạn nối được nhiều thiết bị ngoại vi hơn vào hệ thống.Bạn sắp có được lựa chọn tốt hơn. Universal Serial Bus (USB - Kênh nối tiếp đa dụng) là công nghệ mới sẽ thay thế cổng song song, nối tiếp và các cổng thiết bị I/O (vào/ra) khác, hứa hẹn thay đổi cách thức kết nối thiết bị ngoại vi vào máy tính.Nhận địnhDo số lượng thiết bị ngoại vi của máy tính tăng dẫn đến nhu cầu về cổng tăng, một nhóm các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp máy tính và viễn thông đã phát triển Universal Serial Bus. USB hứa hẹn giải quyết được một số vấn đề cho người dùng máy tính.Trước tiên, công nghệ USB sẽ loại bỏ được mối quan tâm về tính tương thích của thiết bị I/O. Nó cung cấp khả năng kết nối cho tất cả các cổng nối tiếp, song song, bàn phím, chuột, trò chơi v.v... Có nghĩa là kết thúc những lo lắng về tốc độ truyền dữ liệu của cổng và thiết bị ngoại vi, về kiểm tra sự tương đương (parity) và thiết lập ngắt. USB được thiết kế để chuẩn hoá các kết nối ngoại vi, nhờ vậy cải thiện được việc kết nối tổng thể các thiết bị ngoại vi.Thứ hai, bạn có khả năng kết nối tới 127 thiết bị ngoại vi cùng với nhau qua một cổng duy nhất. Đó là vì các thiết bị ngoại vi USB có thể nối theo kiểu móc xích cái nọ với cái kia, hai cái cạnh nhau trong phạm vi 5 mét. Do đó việc kết nối dây sẽ ít phiền phức và dễ dàng hơn nhiều. Chẳng hạn, bàn phím có thể cắm vào khe USB trên màn hình và chuột thì cắm vào bàn phím là nơi thích hợp nhất cho nó.

Page 111: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Thứ ba, công nghệ USB có khả năng giảm chi phí sản xuất đáng kể, và như vậy giảm giá của các máy hiện tại đòi hỏi card giao diện bổ sung cho các chức năng chủ yếu như âm thanh. Giá các thiết bị ngoại vi cũng có thể giảm nhưng không phải đối với tất cả các loại. Ví dụ các modem USB có thể phân phối với các chip điều khiển riêng và chỉ kết hợp khối dữ liệu.Như vậy chúng có thể tận dụng khả năng xử lý của CPU để thực hiện các chức năng điều khiển. Giá cả lại tuỳ thuộc nhiều vào sự chênh lệch giữa chi phí thực hiện công nghệ USB trên thiết bị và giá bộ chip mà nó không cần đến nữa.Ưu thếVậy thì những đặc điểm chính của công nghệ USB là gì? Khe cắm USB là một cổng 4 chân với tốc độ 12 megabit/giây. Nó chỉ sử dụng 4 dây loại rẻ tiền cho nên chi phí thực hiện tương đối rẻ. Các nhà sản xuất thiết bị ngoại vi có thể tạo các hub USB mở rộng trong thiết bị hoặc trong một hộp USB riêng biệt. Các hub mở rộng này cung cấp các khe cắm bổ sung và có thể kết nối theo dạng cây (tree), cho phép tới 127 thiết bị kết nối vào một cổng nằm ở phía sau hay một bên khung máy.Sẽ phải có hai bộ chip khác nhau điều khiển bus. Về phía PC đòi hỏi một bộ chip thực hiện giao diện USB, như chip PCI 430HX mới của Intel. Về phía thiết bị ngoại vi cần có chip điều khiển thiết bị ngoại vi USB như 82930A của Intel.Thực tế mỗi nhà sản xuất chip có kế hoạch đưa ra tính tương thích USB trong thế hệ chip tiếp theo của họ. Chip 82930A là chip điều khiển thiết bị ngoại vi đầu tiên tương thích USB.Các thiết bị USB có loại chip này sẽ bao gồm modem, máy in, điện thoại, loa digital, bút điện tử, bàn phím, chuột, joystick (cần điều khiển con trỏ), scanner và camera số.Một ưu thế nữa của USB: bus USB có nguồn 5V, có nghĩa là có thể cấp nguồn nuôi cho các thiết bị chỉ qua kết nối USB, cho phép các nhà sản xuất và người dùng cuối loại bỏ được adapter nguồn cồng kềnh.Kết nối móc xíchCác nhà sản xuất USB chính là Intel, Compaq, IBM, Microsoft, NEC và Northern Telecom. Các công ty này hy vọng và đang cố gắng thúc đẩy để công nghệ USB trở thành chuẩn công nghiệp. Tại một hội nghị mới đây của các nhà phát triển USB, các sản phẩm USB được trình diễn bao gồm màn hình Philips và thật khó tin, có cả Microsoft joystick. Compaq và Intel cho rằng các PC tiêu dùng sẽ cần đến cổng USB trước tiên, tiếp theo là máy để bàn cộng tác rồi đến máy notebook. Có lẽ notebook là được lợi nhất từ công nghệ tạo kết nối thiết bị ngoại vi dễ dàng.Tuy nhiên vì công nghệ USB có khả năng tăng giá thành làm cho nhiều nhà sản xuất hiện nay còn chưa ủng hộ nó. Các nhà sản xuất sản phẩm số lượng lớn như bàn phím và màn hình nhận thấy rõ ràng chi phí sẽ tăng nếu họ dùng các thành phần USB, nhưng không có nghĩa là họ không thấy rằng những sản phẩm này sẽ chiếm lĩnh thị trường. Compaq sẽ bắt đầu đưa ra sản phẩm USB trước cuối năm 1996. Trước tiên, khe cắm USB sẽ được bổ sung vào các cổng hiện hữu cho phép người dùng tận dụng các thiết bị USB mới trong khi vẫn sử dụng được cổng song song và nối tiếp. Dần dần hy vọng là sẽ chỉ còn 2 cổng USB ở phía sau máy của bạn.Cuộc tranh đấuThực tế không đơn giản như vậy. Đúng là công nghệ USB vượt xa cổng song song và nối tiếp truyền thống. Nó nhanh hơn gấp vài lần, đa dụng và có đủ băng thông để hỗ trợ những công nghệ như ISDN. Nhưng không phải là không có cạnh tranh. Tốc độ dữ liệu 12 megabit/giây của USB là đủ cho hầu hết các thiết bị ngoại vi, lại không đáp ứng nhu cầu tốc độ cao của màn hình video, mạng cục bộ, ổ đĩa ngoài hay CD-ROM. Công nghệ USB thực sự chỉ phù hợp với các thiết bị ngoại vi có tốc độ truyền dữ liệu thấp hay trung bình như digital audio (âm thanh số), ảnh, điện thoại, các thiết bị vào/ra như joystick, gamepad (bảng trò chơi), bàn phím và chuột. Đối thủ chính là 1394 FireWire của Viện Kỹ Thuật Điện và Điện Tử của Mỹ (Institute of Electrical and Electronics Engineers).Chuẩn 1394 FireWire 6 dây và nhanh hơn gấp bội USB - 400 megabit/giây - và nó có thể đáp ứng các thiết bị như CD-ROM, ổ cứng và video camcorder. Bỏ qua cổng nối tiếp là dĩ nhiên, nếu FireWire phổ

Page 112: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

biến, ngay cả SCSI (Small Computer Systems Interface, dùng để kết nối các thiết bị tốc độ cao) cũng bị loại. Tháng 5 vừa qua, Apple đã công bố kế hoạch tích hợp FireWire vào toàn bộ sản phẩm của họ, bắt đầu từ 1997. Năm 1998, công ty sẽ đưa FireWire vào tất cả các bo mạch chủ trong máy để bàn và notebook của họ. Tuy nhiên, công nghệ USB đã đi trước FireWire, và các sản phẩm tích hợp FireWire (chủ yếu là loại sản phẩm điện tử tiêu dùng) chưa thể ra đời sớm hơn giữa năm 1997.Chuyển chế độMặc dù không nhanh được như FireWire, USB vẫn có những ưu thế riêng của nó. Một số công ty đã phát triển USB là các công ty viễn thông như Northern Telecom. Nguyên nhân: công nghệ USB hứa hẹn đưa điện thoại-máy tính (computer telephony) lên những đỉnh cao mới. USB sẽ cho phép điện thoại thông minh thế hệ tiếp theo có khả năng cắm trực tiếp vào máy tính, tạo điều kiện cho bạn sắp xếp thứ tự các cuộc gọi và gửi thông điệp tiếng nói dễ dàng hơn.Ví dụ, khi điện thoại reo, biểu tượng gọi với thông tin định danh người gọi xuất hiện ở cuối màn hình. Nếu bạn quyết định không nghe, bạn có thể chuyển sang chế độ hộp thư tiếng nói hay máy trả lời. PC sẽ tiếp tục thực hiện các công việc khác trong khi cuộc gọi đang tiến hành, và khác với các ứng dụng điện thoại hiện nay, điện thoại máy tính sẽ vẫn làm việc khi tắt PC.Bạn sẽ có thể dùng PC để thực hiện các chức năng điện thoại thực sự mà không buộc phải sử dụng card âm thanh kép, cặp loa và microphone riêng gắn vào máy tính. Tóm lại, công nghệ USB sẽ chuyển máy tính của bạn thành thiết bị điện thoại vừa gọi vừa có thể trả lời.ứng dụng phổ biếnMột ưu thế khác của chuẩn USB so với cổng nối tiếp và song song là USB có thể khuyến khích phát triển các thiết bị ngoại vi phức tạp như camera số. Chuẩn USB sẽ cho phép PC khai thác sức mạnh của các ngành công nghiệp khác, tạo bước đầu tiên cho các nhà phát triển muốn tích hợp PC với ngành điện tử tiêu dùng. Bổ sung công nghệ USB vào màn hình sẽ cho nó khả năng điều khiển dễ dàng mọi thứ từ VCR đến modem.Đây là thiết bị plug-and-play cơ bản, nghĩa là bạn sẽ không phải mở máy ra khi mua một thiết bị ngoại vi mới. Thực tế, thậm chí bạn không cần cả tắt máy tính trước khi cài đặt vật lý và sau đó không phải khởi động lại máy. Chỉ cần cắm đầu nối USB của thiết bị ngoại vi và bus này sẽ phát hiện được việc bổ sung (hay tháo bỏ) thiết bị. USB sẽ tự động xác định tài nguyên hiện có, như phần mềm điều khiển và băng thông của bus, rồi làm cho chúng có tác dụng mà không cần sự can thiệp của bạn. Điều này rõ ràng thuận tiện hơn nhiều việc thiết lập jumper và thay đổi IRQ.Những phát triển mới cho thấy các khe cắm USB có thể sát cánh cùng với chuẩn 1394 FireWire. USB sẽ đảm nhiệm phần tốc độ thấp, còn FireWire dành cho dữ liệu tốc độ cao. Chuẩn PC Simply Interactive mới đây của Microsoft bao gồm cả FireWire và USB là những công nghệ chủ chốt. Các nhà phân tích công nghiệp máy tính mặc dù rất mong đợi cuộc chiến về chuẩn cũng không đặt hai công nghệ này đối chọi nhau, vì thực tế USB bổ sung cho FireWire. Hãy tin tưởng là máy tính và thiết bị ngoại vi USB khi ra đời sẽ làm thay đổi hẳn cuộc sống của bạn.

Thiết bị lưu trữ tháo lắp

Việc sử dụng các thiết bị lưu trữ có thể tháo lắp được đang làm thay đổi môi trường làm việc tập thể. Nhiều công ty đang tiến hành nối mạng nơi làm việc của họ đều rất chú ý đến nhu cầu về bộ nhớ. Các thiết bị lưu trữ có dung lượng lớn tháo lắp được là giải pháp tốt nhất cho phép người sử dụng tập thể lưu trữ được những thông tin mật trong môi trường làm việc chung. Trong số những thiết bị lưu trữ đó có: ổ đĩa Zip 250MB và đĩa Jaz 1GB của công ty Iomega Hong Kong Ltd mới được tung ra thị trường. Cả Zip và Jaz đều được gọi là siêu đĩa mềm (SuperFloppy). Đĩa Zip 250MB có dung lượng lớn gấp 175 lần so với đĩa mềm 1,44 MB. Ngoài dung lượng lớn, các đĩa Zip và Jaz có thể lưu trữ các thông tin mật và với khả năng tháo lắp được, chúng có thể bảo vệ những thông tin đó khỏi một số vi

Page 113: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

rút. Nếu thông tin mật được lưu trữ trong các thiết bị ngoài, nó có thể được bảo vệ khỏi tình trạng rò rỉ thông tin khi vi rút tấn công. Ngoài ra, các đĩa Zip và Jaz còn có chế độ đặt mật khẩu không chỉ bảo vệ ở mức tệp tin. ở các đĩa mềm hay bộ nhớ thông thường, dữ liệu mật được lưu trong các tệp có đặt mật khẩu và việc bảo vệ dữ liệu chỉ dừng ở mức tệp, giống như ngôi nhà chỉ có một lần cửa. Do đó, một khi mật khẩu bị phá thì thông tin sẽ bị lấy cắp ngay. Nhưng nếu bạn dùng phần mềm IomegaWare (phần mềm miễn phí đi kèm khi bạn mua các ổ đĩa Zip và Jaz), thông tin của bạn sẽ được bảo vệ ở mức đĩa. Khi người sử dụng nhập mật khẩu cho các đĩa Zip và Jaz, kết hợp với khả năng di chuyển được của chúng, thì không ai có thể mở được chiếc đĩa đó trừ người sử dụng. Ngoài Zip và Jaz, Iomega cũng còn chào bán ổ đĩa di động Clik! Mobile Drive và đĩa Clik! 40MB. ổ Clik! Mobile Drive được thiết kế cho các sản phẩm số di động bao gồm camera số, máy tính cá nhân xách tay và máy tính notebook. Kích thước của đĩa Clik! 40MB là 2x2 inch- gần bằng một nửa chiếc thẻ tín dụng. ổ Clik! Mobile Drive có hai cấu hình: nhóm camera số và nhóm Clik! Mobile Plus. Các ổ Clik! Drive cho camera số được bán kèm với thanh đọc vỉ mạch bộ nhớ cực nhanh (Clik! Flash Memory Reader), một pin tích hợp và một bệ nối máy tính để bàn cổng song song (parallel port desktop docking station). Hiện nay, dung lượng của những vỉ mạch đi đồng bộ với các camera số giới hạn ở 8MB, những vỉ mạch có dung lượng lớn hơn rất đắt. Thanh đọc vỉ mạch cho phép người sử dụng máy camera số download những bức ảnh từ vỉ mạch sang các đĩa Clik!. Do vậy ngay cả trong trường hợp vỉ mạch đã đầy kín dữ liệu và người sử dụng có việc phải rời máy tính, những chiếc đĩa Clik! 40MB có thể được dùng làm bộ nhớ trung gian tạm thời. ổ Clik! Mobile Drive nặng chưa đầy 198 g và có thể kết nối với hầu hết các sản phẩm kỹ thuật số và máy tính để bàn. Hiện loại ổ đĩa này được bán với giá 257 USD.u

Tìm hiểu về bộ nhớ CacheNếu như máy của bạn phải làm việc quá sức với Windows và các chương trình ứng dụng khác thì đây là các kiểu cache* phần cứng và cache phần mềm có thể giúp ít cho bạnáVới các ứng dụng manh mẽ và đòi hỏi nhiều bộ nhớ như hiện nay thì chắc chắn bạn phải lo tìm cách nào đó có thể giúp bạn làm việc nhanh hơn. Cơ hội thì có, nhưng để mua một chiếc PC mới thì có lẽ không phải là cách lựa chọn duy nhất. Làm thế nào để tăng tốc độ mà không phải chi thêm hàng nghìn đôla.Bộ nhớ cache có thể giúp bạn điều này mà không phải quan tâm nhiều đến đĩa cứng. Bất kể một máy PC nào đều tỏ ra rất hữu hiệu khi dùng cache. Bằng cách đọc nhiều dữ liệu hơn là trình ứng dụng đòi hỏi, dữ liệu cần thiết cho ứng dụng đó đã nằm sẵn sàng trong bộ nhớ cache. Do đọc dữ liệu từ cache nhanh hơn đọc từ đĩa cứng nên tốc độ của cả hệ thống cũng như của ứng dụng tăng đáng kể.Nhưng loại cache nào tốt hơn cả cho máy vi tính: cache phần cứng hay phần mềm. Bộ điều khiển đĩa cứng IDE dùng cache có thể cắm vào khe cắm mở rộng của PC có đáng được lưu tâm hay không? Hay cache phần mềm, rẻ tiền và dễ dàng cài đặt hơn như SuperPC-Kwik cũng làm tốt như vậy? Và cả tiện ích cache kèm theo Windows 3.1 và DOS 6.0 nữa. Sự tranh đua giữa cache phần cứng và cache phần mềm sẽ ngả về đâu?

Giá trị của cacheĐể đáp ứng được nhu cầu của mình, bạn phải biết rõ ba vấn đề quan trọng: giá cả, tốc độ và khả năng sử dụng. Giá cả tự nói lên tất cả. Mục đích của việc sử dụng các sản phẩm cache là để có được hiệu quả lớn nhất với số tiền đầu tư càng ít thì càng tốt.Những sản phẩm thấp giá nhất là Cache86 của Aldridge Company và Hyperdisk của Hyperware chỉ với 50 USD. Microsoft có SmartDrive 4.0 kèm theo trong Windows 3.1.

Page 114: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Bạn có thể có SmartDrive 4.1 từ DOS 6.0. Các sản phẩm cache phần mềm đắt hơn cả PCCache của CentralPoint (kèm với PC Tools) và NCache của Symantec. Cả hai đều có giá 179 USD, nhưng chúng cũng kèm theo với các tiện ích khác. Bạn có thể cân nhắc với giá cao hơn cho các sản phẩm cache phần cứng. Truớc nhất là 595 USD cho bộ điều khiển WinStore của Solution với khả năng cho phép 1 MB cache dữ liệu. Thấp hơn là 220 USD cho Ultra 15C của UltraStor với 512 KB cache.

Tìm cache nhanh hơn tất cảTrong khi giá cả chênh lệch nhau đáng kể như vậy thì Trung tâm thẩm định của PC WORLD lại cho thấy sự khác nhau về tốc độ giữa cache phần cứng và cache phần mềm là tối thiểu. Tốc độ giữa cache phần mềm và cache phần cứng chỉ khác biệt 4%. Tại sao vậy? Cache phần mềm sử dụng RAM của hệ thống, trong khi đó cache phần cứng dùng RAM cắm vào khe cắm mở rộng, do đó thông tin phải đi qua hệ thống bus I/O, chậm hơn là truy cập trực tiếp vào RAM hệ thống.Sự khác nhau về tốc dộ giữa các sản phẩm cứng cũng không đáng kể, từ 5 đến 10%. Có nghĩa là không nhận thấy với công việc hàng ngày.Một điểm quan trọng đáng lưu ý là nếu bạn sử dụng các ứng dụng không phải của DOS vào Windows, ví dụ như: Novell Netware thì các cache phần mềm có thể sẽ không làm việc. Chẳng hạn trong tất cả các cache phần mềm đều làm việc trên các trạm khách hàng của Novell thì không có phần mềm nào sử dụng cho Novell Server. Nhưng nhiều cache phần cứng thực hiện điều này.

Những quyết địnhCần nhớ rằng tất cả cache đều sử dụng một số loại RAM. Cache phần cứng đưa ra các bộ nhớ RAM trên card cắm vào khe mở rộng, cache phần mềm chiếm dụng RAM của hệ thống. Nói chung bộ điều khiển IDE cache có giá từ 150 đến 300 USD cho mỗi card. Trừ khi máy của bạn là loại cũ hay yêu cầu RAM riêng còn thì các bộ điều khiển đĩa cache và máy đều sử dụng RAM loại SIMM (Single in-line Memory Modules). Vì vậy, bạn phải trả thêm từ 30-40 USD cho mỗi MB RAM.Điều quan trọng là phải quyết định bổ sung RAM vào đâu để được lợi nhất. Nếu hệ thống máy của bạn có 4 MB RAM và bạn là người dùng Windows chạy nhiều ứng dụng, thực hiện thường xuyên việc chuyển đổi tác vụ và xử lý nền thì nâng RAM của hệ thống lên 8 MB sẽ tăng tốc độ nhiều hơn là bổ sung 4 MB cho bộ điều khiển cache. Và bạn không phải chi thêm 200 USD cho card điều khiển. Tuy nhiên cần lưu ý rằng với các máy PC cũ, chạy chậm thì việc sử dụng cache phần cứng sẽ có hiệu quả hơn bởi hai lý do: thứ nhất do CPU chạy chậm, thứ hai là tổng số RAM hệ thống quá bị hạn chế cho việc dành chổ cho cache.

Khả năng sử dụngKhả năng sử dụng là tính cốt yếu của mỗi sản phẩm. Trước tiên là bắt đầu từ việc cài đặt và thiết lập. Các đặt tính sử dụng hàng ngày càng quan trọng hơn. Nhiều phần mềm cache cho phép đưa ra các phím "nóng" kích hoạt và loại bỏ cache chỉ bằng một cú gõ, chuyển đổi chế độ ghi chậm mở-tắt hoặc ngưng cache để chắc chắn rằng dữ liệu đã được ghi lên đĩa trước khi tắt máy, đều này rất quan trọng nếu bạn sử dụng cache để làm chậm trể việc ghi.Việc cài đặt bộ điều khiển cache đòi hỏi một số thao tác. Trước hết, cần mở máy và cắm card vào khe cắm mở rộng trên bảng mạch chủ. Thông thường, bạn phải chạy chương trình Setup để loại bỏ liên kết IDE cài sẵn trong máy. Sau đó phải chọn đúng kiểu ổ đĩa tương ứng bộ điều khiển mới gắn. Nối cáp ổ đĩa, chỉnh lại một vài giác cắm (jumper) là xong mọi công việc. Điều này thực hiện không khó, nhưng là một trở ngại cho những người ít biết về kỹ thuật.Cài đặt phần mềm cache thì dễ dàng hơn, chỉ việc chạy chương trình cài đặt từ đĩa mềm. Thông thường, chương trình cho phép bạn chỉnh lại các file hệ thống CONFIG.SYS và AUTOEXEC.BAT. Tất cả các chương trình cache đều khuyến cáo nên giảm số buffer DOS trong file CONFIG.SYS- đến 10 hoặc nhỏ hơn.Nếu đã cài Windows , bạn đã có SmartDrive sẵn sàng.

Page 115: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Những điều cân nhắcNhư bạn đã thấy, mỗi loại cache đều có ưu và khuyết. Cache phần mềm nhanh, rẻ tiền và có thể sử dụng với nhiều loại ổ đĩa. Cache phần cứng nói chung là tốt hơn và hổ trợ cho nhiều ứng dụng cũng như các hệ điều hành. Hơn nữa, cache phần cứng lại không tiêu tốn bộ nhớ RAM qui ước.Phần lớn các loại cache phần mềm có thể áp dụng cho nhiều ổ đĩa, kể cả ESDI, IDE, MFM, RLL... và các ổ đĩa mềm cùng một số ổ đĩa đặc biệt như ổ đĩa quang-từ, CD-ROM. Cache phần mềm lưu trữ các chỉ thị và dữ liệu ở phần RAM mở rộng trên 1 MB nhưng thường yêu cầu RAM qui ước ở cấu hình mặc nhiên. Bạn cũng thể tải các phần điều khiển vào bộ nhớ trên (upper memory). Nhưng nếu bạn có các phần điều khiển network hay CD-ROM cùng làm việc thì có thể không đủ chổ trong bộ nhớ trên. Khi đó buộc phải sử dụng đến bộ nhớ qui ước. Điều này lại dẫn đến việc thiếu bộ nhớ cho các ứng dụng.Một điểm cần lưu ý là cache phần mềm không phải luôn luôn hòa hợp với các trình ứng dụng. Ngược lại điều này thì cache phần cứng ít có mâu thuẫn với các chương trình.

Lựa chọn cuối cùngĐối với phần lớn người sử dụng máy PC thì cache phần mềm là cách lựa chọn tốt nhất, trước hết cho giá rẻ và dễ cài đặt. SmartDrive kèm theo với DOS và Windows có lẽ là quá đủ cho bạn. Tuy nhiên có một thiếu sót là các chương trình trên đều tự động cài đặt và không cho bạn các phương án lựa chọn.Bất kỳ cache phần cứng nào cũng thực hiện tốt không kém, đặt biệt khi bạn chạy các ứng dụng nhiều RAM và máy của bạn có quá nhiều các driver thiết bị. Trong trường hợp này cache phần mềm khó có thể đảm đương và cách lựa chọn duy nhất là cache phần cứng.* Cache: một hình thức nhớ đặc biệt có tốc độ truy xuất cực nhanh, một số người hay gọi là bộ nhớ tiềm ẩn.

Tìm hiểu về hệ thống ParallelCổng parallel của máy tính là con đường cao tốc cho thế giới các thiết bị ngoại vi mớiáMột trong những điều thú vị nhất (và cũng làm nản lòng nhất) của các máy tính cá nhân hiện nay là khả năng nâng cấp của chúng. Mặc dù máy tính cá nhân của nhiều người trông bề ngoài cũng giống như lúc mới mua, song toàn cảnh bên trong có thể đã thay đổi rất nhiều. Nhiều người đã nâng cấp bo mạch chính (mother board) và đĩa cứng, có thể họ đã gắn thêm 1 ổ đĩa CD-ROM, fax modem và thêm RAM, thậm chí có thể đã thay cả bộ nguồn mới. Dĩ nhiên không phải tất cả đều thích làm những việc sửa chữa vụng vặt này. Các thiết bị cũ vẫn mỉm cười song hành với các bộ phận mới, cùng hòa tấu dưới lớp vỏ máy trung thành.Một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy cần nâng cấp máy của mình. Có thể bạn sẽ cần một đĩa cứng có dung lượng lớn hơn, hoặc hệ thống dự phòng băng từ (tape backup system), hoặc muốn bổ sung ổ đĩa CD-ROM cho các trình ứng dụng multimedia gặp phải trong thực tế.Nhưng việc bổ sung các thiết bị ngoại vi mà đòi hỏi phải gắn card vào trong máy không phải là công việc thích thú, bạn cần phải tìm hiểu về các ngắt (interrupt), cổng I/O, và các địa chỉ RAM cơ bản, và tất nhiên phải đặt lại các switch và jumpers (bộ chuyển mạch) trên các card để chắc rằng các thiết bị bổ sung mới không xung đột với các thiết bị có sẵn. Đôi khi điều đó không khó, nhưng thường là không phải như vậy. Tuy nhiên có một cách dễ dàng bổ sung vào máy vi tính của bạn: gắn vào cổng song song (parallel port), là hốc cắm bên ngoài máy, thường dùng để nối với máy in parallel.Năm ngoái đã có sự bùng nổ trong việc tung ra thị trường các thiết bị ngoại vi parallel. Việc cài đặt hầu hết là quá thuận tiện: gắn thiết bị vào cổng parallel, nạp một số phần mềm và thế là xong. Các cổng này ở bên ngoài máy, vì thế bạn không cần phải tháo máy ra từng phần, và cũng không phải đối phó với

Page 116: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

những vấn đề kỹ thuật hóc búa. Hơn nữa, vì cổng parallel có thể gửi và nhận dữ liệu, xử lý nhiều dòng dữ liệu một lúc, nên bạn không phải lo lắng về hiệu suất hoạt động của máy.Các thiết bị ngoại vi parallel, với một số ngoại lệ, làm việc một cách hoàn thiện, và chúng không buộc bạn phải ngắt khỏi máy in. Hầu hết các thiết bị đều có một cổng cho máy in ở mặt sau (một cổng parallel đơn có thể quản lý cả máy in lẫn thiết bị ngoại vi). Với các thiết bị ngoại vi không có chổ gắn cho máy in, bạn có thể sử dụng một phụ kiện, chẳng hạn như Parallel Port Multiplexor của Xircom (giá 95 USD) cho ra 2 cổng parallel từ 1 cổng.Các giải pháp nhỏCác thiết bị băng từ (tape backup), chứa được cỡ 250 MB dữ liệu trên các băng từ đặc biệt giống như băng cassette, được sử dụng trong các lưu trữ quan trọng, là 1 trong những cổng parallel bổ sung phổ biến nhất. So với các ổ đĩa cứng lớn hơn, việc dự phòng dữ liệu của bạn ra các đĩa mềm trở nên công việc lặt vặt tốn thời gian và nên bỏ qua. Các thiết bị dự phòng băng từ thực hiện công việc này dễ dàng hơn nhằm đảm bảo an toàn cho dữ liệu của bạn.Bernonlli Tape 250 Parallel Port Drive của Iomega (giá 548 USD) là một loại điển hình mới nhất (Iomega chế tạo nhiều loại thiết bị ngoại vi lưu trữ dữ liệu rất tuyệt vời, nhưng hiện nay loại ổ băng từ này là loại duy nhất nối qua cổng parallel).Một sự chọn lựa tốt khác là Backup Tape Drive (giá 539 USD) của Micro Solutions Computer Products - công ty chuyên về các sản phẩm cổng parallel. Công ty này đã phát triển một số mánh lới kỹ thuật nhằm nâng cao tốc độ truyền dữ liệu tối đa từ 1 cổng parallel ở mức 10 MB trong 1 phút. Công ty cũng bán các ổ đĩa cứng parallel loại 40 MB, 100 MB và 200 MB (giá từ 519 đến 799 USD), là loại gắn thêm vào cổng parallel phổ biến khác.ánh sáng, Camera và MultimediaDo sự phổ biến của các trình ứng dụng Multimedia mang lại âm thanh và hình ảnh cho máy vi tính nên đã xuất hiện cả một họ các thiết bị ngoại vi parallel mới. Các ổ đĩa CD-ROM sử dụng đĩa compact chứa dữ liệu, là một trong những sản phẩm được nâng cấp bán chạy nhất. Mặc dù các máy CD-ROM đã có trong nhiều năm nay, nhưng các máy có khả năng xử lý ở tốc độ truyền dữ liệu cao cần cho các ứng dụng Multimedia thì lại đắt và thường là khó cài đặt. Cứ so sánh xem, giá cả hợp lý của Backpack CD-ROM Drive (giá $499) của Micro Solutions sẽ làm bạn trong phút chốc sẵn sàng gắn nó vào cổng parallel của máy mình và cài đặt ngay các phần mềm của nó.Lúc đầu, người ta ngờ vực, có chăng loại máy CD-ROM parallel có thể thoả mãn các đòi hỏi nặng nề của multimedia, nhưng các sản phẩm của Micro Solutions qua thực tế được công nhận là nhanh hơn ổ CD-ROM gắn liền trong máy cách đây 2 năm. Điều tương tự có thể nói đối với SyDOS Personal CD (giá 499 USD), một thiết bị nhỏ, tinh xảo trông giống như là máy ghi âm xách tay hơn là thiết bị ngoại vi của máy tính.Về các bo mạch âm thanh, phần cốt yếu khác của multimedia, cũng có nhiều thiết bị ngoại vi parallel mà bạn phải chọn. Giống như một máy cạo râu điện, Andioman của Logitech (giá 79 USD) là 1 board tổ hợp của micro, loa được gắn vào cổng parallel. Nó làm việc với các chương trình của Microsoft Windows, cho bạn kết hợp các thông báo bằng giọng nói với hình ảnh và văn bản. Mặc dù khái niệm này có thể đi hơi xa, nhưng đó là một nhánh của multimedia, được gọi là Business Audio, đã đạt tới tính phổ biến trong các trụ sở thương mại.Nếu bạn không sử dụng Windows, thì Computer Aided Technology là một cách hay nhất để dùng cổng parallel của máy mình trong việc thử nghiệm với âm thanh. Công ty này cũng bán Hand ScanAdapter LPT (giá 149 USD), một loại máy quét hình (Scanner) cầm tay mà bạn có thể gắn vào cổng parallel.Liên kết ParallelCác cổng parallel cũng có thể tỏ ra tiện lợi khi chúng được gắn nhằm nối các máy vi tính vào mạng cục bộ. Thay cho việc phải vật lộn với các khó khăn trong việc cài đặt các card giao tiếp mạng, bạn có thể gắn Pocket LAN Adapter III (giá 349 USD) vào cổng parallel của bạn và thực hiện được ngay sự liên

Page 117: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

kết vào mạng. Nhiều người đã dùng một trong các thiết bị như vậy để kết hợp máy tính xách tay với mạng văn phòng của họ.Cuối cùng, 1 thiết bị xử lý cổng parallel ít thông dụng nhất là MiniSCSI Plus của Trantor (giá 299 USD), một cáp cho phép bạn kết nối các thiết bị ngoại vi SCSI (Small Computer System Interface) trực tiếp vào cổng parallel của máy mình. Đĩa cứng, các ổ CD-ROM và các thiết bị ngoại vi khác thường đi với các version của SCSI, mà ít nhất về mặt lý tuyết - bạn có thể liên kết trong một chuổi.Các vấn đề của parallelTất cả các thiết bị ngoại vi qua cổng Parallel đều sử dụng các driver thiết bị và các chương trình mà bạn cài đặt trong tập tin CONFIG.SYS của máy để báo cho máy biết tìm ở đâu và giao tiếp thế nào với thiết bị ngoại vi. Mặc dù các sản phẩm đã cài đặt các driver một cách tự động, nhưng một yêu cần cần đến 70K bộ nhớ, làm giảm nhiều lượng RAM cần cho các trình ứng dụng. Tuy vậy, người ta đã dùng EMM386.EXE của DOS để cài đặt các phiền nhiễu không đáng !Nếu có một máy tính cũ, bạn có thể gặp nhiều khó khăn khác. Mặc dù hầu hết các cổng parallel của máy vi tính đều có thể giao tiếp một cách dễ dàng với các thiết bị ngoại vi, song một số máy loại đã quá cũ - trước các máy Tandy - có các cổng không chuẩn, có thể sinh ra nhiều vấn đề. Kế đó là một số máy vi tính mới có các cổng Parallel kiểu "autosensing" (tự hiểu) tự ngắt khi ta gắn thêm các board có chứa các cổng Parallel khác.Bỏ các vấn đề trên qua một bên, các sản phẩm được kể đến ở đây đã chỉ ra một hướng nâng cấp cho hệ thống của bạn. Các thiết bị ngoại vi parallel đã từng có giá cao hơn các thiết bị ngoại vi chuẩn khác, song hiện nay không còn như vậy nữa. Lúc này, cùng giá mà bạn phải trả cho các thiết bị chuẩn, bạn có thể thay vào đó các thiết bị mà theo nghĩa thực của nó, chỉ việc gắn vào và chạy.Về tác giả: Stan Miastkowski đã dịch các bài về công nghệ máy tính sang tiếng Anh hơn 15 năm qua. Ông xuất hiện thường xuyên trong mục "PCTV Live" trên TV, là đồng tác giả với Anne Fischer Lent trong cuốn "Windows for Workgroups Bible"

Tương lai của SCSISCSI đã gây phiền toái cho những người sử dụng máy tính mười năm nay. Liệu chuẩn mới SCSI-3 sẽ khắc phục được các nhược điểm?Với chủ đề "Superfast Storage" (bộ nhớ siêu nhanh), Macworld Lab đã kiểm nghiệm các hệ thống bộ nhớ cao cấp nhất hiện nay. Dự đoán rằng, năm tới sẽ có những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực này. Ôổ đĩa chất lượng cao đòi hỏi phải có mạch giao tiếp SCSI (Small Computer System Interface - Giao tiếp hệ thống máy tính: phần cứng trong máy tính đóng vai trò kết nối máy tính với các thiết bị ngoại vi, như đĩa cứng, ổ CD-ROM, scanner...) nhanh hơn thì mới đáp ứng được những đòi hỏi của ứng dụng multimedia, mạng client/server và xử lý ảnh màu.Giao tiếp SCSI mới sẽ có dưới dạng card dùng cho khe cắm mở rộng kiểu Peripheral Component Interconnect (PCI), dự kiến thay thế NuBus trong thế hệ kế tiếp của Power Macs (khe NuBus mà máy Macintosh sử dụng từ 1987 quá chậm để có thể phù hợp với SCSI có độ chuyển tại cao và mới hơn). Hiện nay có một vài ứng dụng mới của SCSI, nhưng chung quanh quy về một mối: SCSI-3. Đây là chuẩn SCSI mới nhất hổ trợ được tất cả các giao thức SCSI hiện có và cả những giao tiếp cũng như mạch truyền số liệu khác. Công việc của bạn sẽ dễ chịu hơn vì 3 trong số 4 thể nghiệm SCSI-3 không đòi hỏi phải đặt lại khóa chuyển địa chỉ và chỉnh các terminator - các thiết bị sẽ tự định hình khi cắm vào máy SCSI-3 không còn hạn chế 7 thiết bị nữa trong một vài trường hợp, hổ trợ tới 127 thiết bị trên 1 Bus. Bản thân các thiết bị có tính năng hot - plugable (cắm nóng), nghĩa là bạn không phải thoát ra khỏi Mac để cài đặt chúng.Mỗi giao thức có vị trí của nó. Tuy tất cả đều cho phép truyền nhanh số liệu, nhưng chắc chỉ có một số tìm được chổ đứng trong thế giới Mac. Có giao thức kiêm luôn tính năng mạng, trong khi các giao thức

Page 118: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

khác đảm bảo dễ dàng nối với máy quay video và những thiết bị multimedia khác. Như vậy, nếu bạn muốn có hiệu quả tối đa truyền số liệu, điều quan trọng là phải chọn được Bus thích hợp cho ứng dụng của mình.Tuần tự vẫn hơnSCSI thường là một bus song song (parallel bus) các bit của byte số liệu song hành trên các đường dây riêng của mình (bạn thấy được điều đó nếu nhìn vào đầu cắm SCSI). Trong khi đó, modem, máy in và cổng ADB của máy Mac lại thuộc loại tuần tự (serial bus) các bit nối tiếp nhau trên 1 đường dây. Trước kia, bus song song bao giờ cũng nhanh hơn bus nối tiếp, cũng dễ hiểu vì đường cao tốc nhiều làn vẫn cho phép nhiều xe chạy qua hơn là đượng một làn. Thế nhưng, bit không là ô tô và cáp không là đường cao tốc. Trong một số trường hợp, giao tiếp song song lại ở thế bất lợi. Để tăng tốc, bạn có thể thêm dây vào cáp hoặc nâng tốc độ xung nhịp điều chỉnh công việc của bus. Khi đó sẽ xảy ra giao toha tuần radio giữa các dây dẫn đòi hỏi phải hạn chế độ dài cáp và bao bọc tốt hơn. Mặt khác, nhiều dây thì đầu cắm cũng to hơn. Như vậy, giá thành của bus song song tốc độ cao bị nâng lên.Bus nối tiếp ít dây hơn và tránh được hiện tượng giao thoa (interference ngay cả khi truyền dữ liệu trên cáp dài với tốc độ cao. Vì lí do đó, 3 trong số 4 giao thức (protocol) của SCSI-3 dựa vào kỹ thuật truyền nối tiếp.Ultra SCSIChuyển sang SCSI nối tiếp đòi hỏi các nhà sản xuất đĩa cứng và mạch giao tiếp phải có nổ lực cao hơn về kỹ thuật. Các bên cạnh tranh đang quan tâm đến SCSI-3, trong khi một số hãng quay về với SCSI song song, gọi là Ultra SCSI.Bằng cách nâng tốc độ xung nhịp từ 10MHz lên 20MHz, Ultra SCSI có khả năng tăng tốc độ truyền gấp đôi. Trong khi SCSI-2 Fast và Wide đảm bảo tối đa 20 MBps (20 MB trong 1 giây), Ultra SCSI đạt tới 40 MBps.Một lý do khác làm Ultra SCSI được chú ý là Quantum và Seagate, 2 đối thủ lớn nhất trên thị trường bộ nhớ lưu trữ dùng cho máy Mac, đều chưa ra ổ đĩa loại này (Hewlett Packard cũng ủng hộ Ultra SCSI, nhưng chưa xúc tiến sản xuất). Quantum có Grand Prix XP34301 dung lượng 2,1 GB và Grand Prix XP32151 dung lượng 4,3 GB. Seagate đưa ra Barracuda 4 với sức chứa 4,3 GB.Nhược điểm của Ultra SCSI, như một bus song song, ở chổ là không đáp ứng được yêu cầu khắt khe về đường cáp. cáp Ultra SCSI phổ dụng hiện nay (còn gọi là cáp một đầu - single - ended) chỉ có 1 đường nối đất cho tất cả các tuyến dữ liệu, dùng đầu cắm 68 chân và 80 chân và có độ dài tối đa là 1,5m. Loại đặc biệt (differential signaling) đảm bảo mỗi tuyến số liệu có đường tiếp đất riêng và do đó có thể cho phép nối cáp dài hơn. Tuy nhiên, giá thành cao và nảy sinh một số vấn đề liên quan đến cài đặt và tương hợp. Ví dụ, bạn không thể nối cả 2 loại thiết bị kể trên vào cùng một bus SCSI.Fiber ChannelGiao thức SCSI-3 làm sôi động thị trường bộ nhớ của Mac cao cấp là Fiber Channel. Trong khi Ultra SCSI có hiệu năng chắc chắn, nhưng lại khá kén chọn, Fiber Channel có nhiều triển vọng về tốc độ vì tận dụng được thế mạnh của bus nối tiếp. Fiber Channel hổ trợ cáp quang, cáp bọc đồng, trong đó có cáp đồng trục và cáp cặp xoắn. Với cáp bọc đồng, độ dài có thể tới 100m, trong khi cáp quang tối đa là 10 km. Không cần phải chuyển lại địa chỉ hoặc chỉnh terminator. Thiết bị có tính năng hot - pluggable, số lượng tới 127 cho mỗi bus. Tốc độ truyền: 100 MBps.Fiber Channel hổ trợ vài kiểu cấu hình (topolody), đáng kể nhất là Fiber Channel - Arbitrated Lopp (FC-AL). Trong FC-AL, các thiết bị của bus nối theo vòng tròn và trao đổi với nhau để xác định đối tượng được phép truyền số liệu trong khoảng thời gian cho trước.Các đối thủ chính trong lĩnh vực này là Quantum, Segate và Hewlett - Packard Quantum dự kiến đưa ra loại ổ Fiber Channel vào cuối năm. Seagate đã có phiên bản mới của Barracuda 4, trong khi Hewlett - Packard chỉ có thể hoàn tất vào đầu năm tới.

Page 119: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Đáng chú ý rằng, không như các giao thức khác (ngoại trừ SSA), Fiber Channel còn được dùng làm thiết bị nhanh cho mạng ngoài ra bao cả các giao thức riêng như AppleTalk. Hiện nay, có thể dùng Fiber Channel để truy cập ổ cứng nhanh và nối mạng cho văn phòng hoặc cơ quan bạn.Giải pháp IBMĐối thủ chính của Fiber Channel là Serial Storage Architecture *SSA) của IBM. SSA cũng có những ưu điểm như của Fiber Channel 127 thiết bị/bus, tự động định hình và hot-pluggable. Tuy nhiên, tốc độ truyền tối đa có 80 MBps (loại 160 MBps đang được thiết kế). Thiết bị của SSA dùng đầu cắm 9 chân và cáp 6 dây rẻ tiền, thường sử dụng 2 cổng, do đó phải có một cặp cáp.SSA có thể hữu ích cho Windows, máy mini và máy lớn, nhưng còn được coi là quá lớn đối với Macintosh. Vẫn chưa có hãng nào công bố kế hoạch triển khai phiên bản Mac của SSA. IBM, Micropolis và Conner Peripherals không có dự định lớn như của Seagate và Quantum.FireWire của AppleFireWire của Apple cho phép truyền số liệu với tốc độ 12,5 MBps, dùng cáp 9 chân, hổ trợ 63 thiết bị /bus, cáp có thể dài tới 4,5m. Đầu tiên được quảng cáo là sản phẩm SCSI của đĩa, sau FireWire phát triển thành mạch giao tiếp cho các thiết bị multimedi. FireWire nhắm vào loại dữ liệu đẳng thời (isochnonous), thời gian thực (real time) như video và audio (Sony công bố kế hoạch đưa FireWire vào máy quay video số tương lai của mình). IBM Maxtor, Western Digital và Adaptec đã giới thiệu các sản phẩm FireWire của mình, nhưng chưa đưa vào sản xuất đại trà. FireWire không cho phép tăng tốc truyền và nâng độ dài cáp lên mức ki-lô-mét, nhưng với bộ điều khiển tương đối rẻ và việc sử dụng rộng rãi trong điện tử dân dụng, chắc chắn sẽ đơn giản và rẻ hơn so với các sản phẩm SCSI-3. Nếu Apple đưa ra card giao tiếp FireWire cho máy Mac và Windows dùng PCI, các nhà sản xuất sẽ tập trung vào loại ổ đĩa tương ứng. Bằng không, khó có thể hi vọng FireWire sẽ phát huy được tác dụng của mình.Kết luậnTrong tương lai gần, loại bộ nhớ duy nhất có thể tận dụng được đầy đủ thế mạnh của bus mới là Disk Array, tuy còn chưa đủ nhanh. Nhưng các ổ 20- MB ps sẽ có mặt ở khắp nơi. Vì lẽ đó, chắc Ultra sẽ là giao tiếp tốc độ cao thích hợp, cùng với Fiber Channel chào hàng cuối năm hoặc đầu năm sau (FWB đã công bố rằng sẽ có các phiên bản Ultra SCSI và Fiber Channel của giao diện JackHammer và ổ SledgeHammer).Có cần đến Ultra SCSI khi Fiber Channel vào cuộc? không hề ảnh hưởng gì, nếu bạn đang xử lý dữ liệu lớn và cần hiệu quả tối đa ngay bây giờ, chứ không phải là cuối năm hoặc sang đến năm sau. Ngoài ra, SCSI-2 fast và Wide đã có rồi và đang làm việc tốt. Giao thức SCSI-3 gây ấn tượng, nhưng mới chỉ bước từ khâu thiết kế vào desktop, chưa tiên đoán được tương lai sẽ ra sao, đường còn dài, quanh co và lắm chông gia.Về tác giả: Biên tập viên cộng tác Jim Heid làm quen với công nghệ Macintosh từ tháng 11/1983. Cuốn sách mới nhất của ông, cuốn Macword Complete Mac Handbook Plus Interactive CD (IDG Books Worldwide, 1994, tái bản lần thứ 3) vừa được trao giải BMMG choice (sách phổ cập về Macintosh hay nhất).Tô Tuấn Macworld 7/1995TạI SAO SCSI-3 LạI NHANH HƠN?Sự khác biệt cơ bản giữa các chuẩn SCSI cũ và đa số các loại mới SCSI-3 là chuyển từ cấu trúc song song (nhiều cắp dây cùng truyền dữ liệu) sang cấu trúc tuần tự (chỉ một cặp dây mang dữ liệu). Các mạch điện tử điều khiển và xử lý dòng dữ liệu trở nên nhanh đến mức nhiễu điện. được tạo bởi nhiều đường dây trở thành yếu tố hạn chế tốc độ của đường truyền. Một cặp dây có thể hoạt động ở tốc độ rất cao mà không gây nhiễu, cho phép truyền dữ liệu nhanh hơn 8 hay thậm chí 16 cặp dây.PARALLEL KHáC VớI SERIAL

Page 120: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Mạch giao tiếp song song (parallel) có nhiều loại. SCSI một đầu (single - ended) dùng 8 tuyến dữ liệu và 8 tuyến tiếp đất (ground wires), tuy hoạt động như tuyến đơn, làm cho hệ thống dễ bị nhiễu. Loại đắt tiền hơn, differential Signaling, tránh được hiện tượng giao thoa giữa các dây truyền bằng cách sử dụng terminator có độ trở kháng lớn cho CPU và thiết bị SCSI. Mỗi phương pháp sử dụng đường dây bổ sung cho nguồn (power) và điều khiển tín hiệu riêng.Mạch nối tiếp (serial interface) thường dùng 6 tuyến (dữ liệu, tín hiệu điều khiển, nguồn) mỗi đường gồm 2 chiều đi/về.CáC ĐầU CắM SONG SONG Và NốI TIếPStandard SCSI dùng đầu cắm 50 chân, nhưng tổng cộng chỉ có 25 tuyến, trong đó 8 tuyến dữ liệu, 8 tuyến nối đất. Giải thông tối đa : 5 MBpsUltra SCSI (còn gọi là fast 20 hay fast 40) có sơ đồ nối dây như của SCSI-2 fast/wide, nhưng tốc độ gấp đôi (tới 40 MBps). SCSI-2 Fast/Wid hổ trợ 32 tuyến dữ liệu, tuy phần lớn mẫu chỉ dùng chó 16 với tốc độ 20 MBbps.áááFiber Channel có thể vận hành trên các tuyến bọc đồng (copper), cặp xoắn (twisted -pair) hoặc quang dẫn (fiber - optic), và đảm bảo thông suốt tới 100 MBps.áááFireWire: Có các mẫu đầu tiên với giải thông 12,5 MBps, đủ nhanh để dùng làm giao tiếp cho các thiết bị multimedia. Đầu cắm dễ sử dụng, được thiết kế để cắm/rút hàng nghìn lần.áááSerial Storage Architecture (SSA) có các loại 20-8 MBps, tuy có thể đạt được tốc độ chỉ với hệ thống được định hình đặc biệt. Nhiều thiết bị có thể gửi các gói dữ liệu cùng một lúc mà không cần đến sự phân xử (arbitration).

Thay thế cổng giao tiếpCác cổng nối tiếp và song song trên máy tính của bạn là những thứ cuối cùng mà bạn có thể nghĩ đến chuyện thay thế. Vậy mà Intel và những nhà sản xuất khác cho rằng đã đến lúc loại bỏ các cổng này. Chúng ta thử khảo sát xem nguyên nhân vì sao.Khi nào là lúc bạn quan sát chăm chú phía sau máy tính để bàn của bạn lần chót? Chắc là khi bạn cài đặt một thiết bị ngoại vi mới - modem, máy in hay chuột. Thật đáng sợ, đúng không? Tất cả những sợi cáp và dây nhợ đó như một mớ bòng bong. Giá như có thể loại bỏ chúng đi thì tốt biết bao. Hãy ráng đợi, đó chính là điều sắp xảy ra. Một máy tính điển hình có 2 cổng nối tiếp, 1 cổng song song, 1 cổng VGA, 1 cổng trò chơi, 2 cổng kết nối cho chuột và bàn phím. Nếu bạn thường dùng tới thiết bị ngoại vi, như nhiều người khác hiện nay, bạn sẽ phải nghĩ đến bộ sao (ghép) cổng hay cái gì đó tương tự cho phép bạn nối được nhiều thiết bị ngoại vi hơn vào hệ thống. Bạn sắp có được lựa chọn tốt hơn. Universal Serial Bus (USB - Kênh nối tiếp đa dụng) là công nghệ mới sẽ thay thế cổng song song, nối tiếp và các cổng thiết bị I/O (vào/ra) khác, hứa hẹn thay đổi cách thức kết nối thiết bị ngoại vi vào máy tính. Nhận địnhDo số lượng thiết bị ngoại vi của máy tính tăng dẫn đến nhu cầu về cổng tăng, một nhóm các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp máy tính và viễn thông đã phát triển Universal Serial Bus. USB hứa hẹn giải quyết được một số vấn đề cho người dùng máy tính. Trước tiên, công nghệ USB sẽ loại bỏ được mối quan tâm về tính tương thích của thiết bị I/O. Nó cung cấp khả năng kết nối cho tất cả các cổng nối tiếp, song song, bàn phím, chuột, trò chơi v.v... Có nghĩa là kết thúc những lo lắng về tốc độ truyền dữ liệu của cổng và thiết bị ngoại vi, về kiểm tra sự tương đương (parity) và thiết lập ngắt. USB được thiết kế để chuẩn hoá các kết nối ngoại vi, nhờ vậy cải thiện được việc kết nối tổng thể các thiết bị ngoại vi.

Page 121: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Thứ hai, bạn có khả năng kết nối tới 127 thiết bị ngoại vi cùng với nhau qua một cổng duy nhất. Đó là vì các thiết bị ngoại vi USB có thể nối theo kiểu móc xích cái nọ với cái kia, hai cái cạnh nhau trong phạm vi 5 mét. Do đó việc kết nối dây sẽ ít phiền phức và dễ dàng hơn nhiều. Chẳng hạn, bàn phím có thể cắm vào khe USB trên màn hình và chuột thì cắm vào bàn phím là nơi thích hợp nhất cho nó. Thứ ba, công nghệ USB có khả năng giảm chi phí sản xuất đáng kể, và như vậy giảm giá của các máy hiện tại đòi hỏi card giao diện bổ sung cho các chức năng chủ yếu như âm thanh. Giá các thiết bị ngoại vi cũng có thể giảm nhưng không phải đối với tất cả các loại. Ví dụ các modem USB có thể phân phối với các chip điều khiển riêng và chỉ kết hợp khối dữ liệu. Như vậy chúng có thể tận dụng khả năng xử lý của CPU để thực hiện các chức năng điều khiển. Giá cả lại tuỳ thuộc nhiều vào sự chênh lệch giữa chi phí thực hiện công nghệ USB trên thiết bị và giá bộ chip mà nó không cần đến nữa. Ưu thếVậy thì những đặc điểm chính của công nghệ USB là gì? Khe cắm USB là một cổng 4 chân với tốc độ 12 megabit/giây. Nó chỉ sử dụng 4 dây loại rẻ tiền cho nên chi phí thực hiện tương đối rẻ. Các nhà sản xuất thiết bị ngoại vi có thể tạo các hub USB mở rộng trong thiết bị hoặc trong một hộp USB riêng biệt. Các hub mở rộng này cung cấp các khe cắm bổ sung và có thể kết nối theo dạng cây (tree), cho phép tới 127 thiết bị kết nối vào một cổng nằm ở phía sau hay một bên khung máy. Sẽ phải có hai bộ chip khác nhau điều khiển bus. Về phía PC đòi hỏi một bộ chip thực hiện giao diện USB, như chip PCI 430HX mới của Intel. Về phía thiết bị ngoại vi cần có chip điều khiển thiết bị ngoại vi USB như 82930A của Intel. Thực tế mỗi nhà sản xuất chip có kế hoạch đưa ra tính tương thích USB trong thế hệ chip tiếp theo của họ. Chip 82930A là chip điều khiển thiết bị ngoại vi đầu tiên tương thích USB. Các thiết bị USB có loại chip này sẽ bao gồm modem, máy in, điện thoại, loa digital, bút điện tử, bàn phím, chuột, joystick (cần điều khiển con trỏ), scanner và camera số. Một ưu thế nữa của USB: bus USB có nguồn 5V, có nghĩa là có thể cấp nguồn nuôi cho các thiết bị chỉ qua kết nối USB, cho phép các nhà sản xuất và người dùng cuối loại bỏ được adapter nguồn cồng kềnh. Kết nối móc xíchCác nhà sản xuất USB chính là Intel, Compaq, IBM, Microsoft, NEC và Northern Telecom. Các công ty này hy vọng và đang cố gắng thúc đẩy để công nghệ USB trở thành chuẩn công nghiệp. Tại một hội nghị mới đây của các nhà phát triển USB, các sản phẩm USB được trình diễn bao gồm màn hình Philips và thật khó tin, có cả Microsoft joystick. Compaq và Intel cho rằng các PC tiêu dùng sẽ cần đến cổng USB trước tiên, tiếp theo là máy để bàn cộng tác rồi đến máy notebook. Có lẽ notebook là được lợi nhất từ công nghệ tạo kết nối thiết bị ngoại vi dễ dàng. Tuy nhiên vì công nghệ USB có khả năng tăng giá thành làm cho nhiều nhà sản xuất hiện nay còn chưa ủng hộ nó. Các nhà sản xuất sản phẩm số lượng lớn như bàn phím và màn hình nhận thấy rõ ràng chi phí sẽ tăng nếu họ dùng các thành phần USB, nhưng không có nghĩa là họ không thấy rằng những sản phẩm này sẽ chiếm lĩnh thị trường. Compaq sẽ bắt đầu đưa ra sản phẩm USB trước cuối năm 1996. Trước tiên, khe cắm USB sẽ được bổ sung vào các cổng hiện hữu cho phép người dùng tận dụng các thiết bị USB mới trong khi vẫn sử dụng được cổng song song và nối tiếp. Dần dần hy vọng là sẽ chỉ còn 2 cổng USB ở phía sau máy của bạn. Cuộc tranh đấuThực tế không đơn giản như vậy. Đúng là công nghệ USB vượt xa cổng song song và nối tiếp truyền thống. Nó nhanh hơn gấp vài lần, đa dụng và có đủ băng thông để hỗ trợ những công nghệ như ISDN. Nhưng không phải là không có cạnh tranh. Tốc độ dữ liệu 12 megabit/giây của USB là đủ cho hầu hết các thiết bị ngoại vi, lại không đáp ứng nhu cầu tốc độ cao của màn hình video, mạng cục bộ, ổ đĩa ngoài hay CD-ROM. Công nghệ USB thực sự chỉ phù hợp với các thiết bị ngoại vi có tốc độ truyền dữ liệu thấp hay trung bình như digital audio (âm thanh số), ảnh, điện thoại, các thiết bị vào/ra như

Page 122: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

joystick, gamepad (bảng trò chơi), bàn phím và chuột. Đối thủ chính là 1394 FireWire của Viện Kỹ Thuật Điện và Điện Tử của Mỹ (Institute of Electrical and Electronics Engineers). Chuẩn 1394 FireWire 6 dây và nhanh hơn gấp bội USB - 400 megabit/giây - và nó có thể đáp ứng các thiết bị như CD-ROM, ổ cứng và video camcorder. Bỏ qua cổng nối tiếp là dĩ nhiên, nếu FireWire phổ biến, ngay cả SCSI (Small Computer Systems Interface, dùng để kết nối các thiết bị tốc độ cao) cũng bị loại. Tháng 5 vừa qua, Apple đã công bố kế hoạch tích hợp FireWire vào toàn bộ sản phẩm của họ, bắt đầu từ 1997. Năm 1998, công ty sẽ đưa FireWire vào tất cả các bo mạch chủ trong máy để bàn và notebook của họ. Tuy nhiên, công nghệ USB đã đi trước FireWire, và các sản phẩm tích hợp FireWire (chủ yếu là loại sản phẩm điện tử tiêu dùng) chưa thể ra đời sớm hơn giữa năm 1997. Chuyển chế độMặc dù không nhanh được như FireWire, USB vẫn có những ưu thế riêng của nó. Một số công ty đã phát triển USB là các công ty viễn thông như Northern Telecom. Nguyên nhân: công nghệ USB hứa hẹn đưa điện thoại-máy tính (computer telephony) lên những đỉnh cao mới. USB sẽ cho phép điện thoại thông minh thế hệ tiếp theo có khả năng cắm trực tiếp vào máy tính, tạo điều kiện cho bạn sắp xếp thứ tự các cuộc gọi và gửi thông điệp tiếng nói dễ dàng hơn. Ví dụ, khi điện thoại reo, biểu tượng gọi với thông tin định danh người gọi xuất hiện ở cuối màn hình. Nếu bạn quyết định không nghe, bạn có thể chuyển sang chế độ hộp thư tiếng nói hay máy trả lời. PC sẽ tiếp tục thực hiện các công việc khác trong khi cuộc gọi đang tiến hành, và khác với các ứng dụng điện thoại hiện nay, điện thoại máy tính sẽ vẫn làm việc khi tắt PC. Bạn sẽ có thể dùng PC để thực hiện các chức năng điện thoại thực sự mà không buộc phải sử dụng card âm thanh kép, cặp loa và microphone riêng gắn vào máy tính. Tóm lại, công nghệ USB sẽ chuyển máy tính của bạn thành thiết bị điện thoại vừa gọi vừa có thể trả lời. ứng dụng phổ biếnMột ưu thế khác của chuẩn USB so với cổng nối tiếp và song song là USB có thể khuyến khích phát triển các thiết bị ngoại vi phức tạp như camera số. Chuẩn USB sẽ cho phép PC khai thác sức mạnh của các ngành công nghiệp khác, tạo bước đầu tiên cho các nhà phát triển muốn tích hợp PC với ngành điện tử tiêu dùng. Bổ sung công nghệ USB vào màn hình sẽ cho nó khả năng điều khiển dễ dàng mọi thứ từ VCR đến modem. Đây là thiết bị plug-and-play cơ bản, nghĩa là bạn sẽ không phải mở máy ra khi mua một thiết bị ngoại vi mới. Thực tế, thậm chí bạn không cần cả tắt máy tính trước khi cài đặt vật lý và sau đó không phải khởi động lại máy. Chỉ cần cắm đầu nối USB của thiết bị ngoại vi và bus này sẽ phát hiện được việc bổ sung (hay tháo bỏ) thiết bị. USB sẽ tự động xác định tài nguyên hiện có, như phần mềm điều khiển và băng thông của bus, rồi làm cho chúng có tác dụng mà không cần sự can thiệp của bạn. Điều này rõ ràng thuận tiện hơn nhiều việc thiết lập jumper và thay đổi IRQ. Những phát triển mới cho thấy các khe cắm USB có thể sát cánh cùng với chuẩn 1394 FireWire. USB sẽ đảm nhiệm phần tốc độ thấp, còn FireWire dành cho dữ liệu tốc độ cao. Chuẩn PC Simply Interactive mới đây của Microsoft bao gồm cả FireWire và USB là những công nghệ chủ chốt. Các nhà phân tích công nghiệp máy tính mặc dù rất mong đợi cuộc chiến về chuẩn cũng không đặt hai công nghệ này đối chọi nhau, vì thực tế USB bổ sung cho FireWire. Hãy tin tưởng là máy tính và thiết bị ngoại vi USB khi ra đời sẽ làm thay đổi hẳn cuộc sống của bạn. Phương thức tốt nhất cho Plug and PlayCông nghệ mới Universal Serial Bus (USB - bus tuần tự đa năng) hứa hẹn việc cài đặt các thiết bị ngoại vi thông dụng sẽ trở nên dễ dàng và cho phép thông lượng nhanh hơn các cổng song song và tuần tự.ááĐã mấy tháng nay, nhiều nhà sản xuất đang khẩn trương xúc tiến với kế hoạch sản phẩm USB (Universal Serial Bus). Được thiết kế để thay thế cho các cổng tuần tự (serial), song song (parallel), bàn phím, chuột bằng một kết nối đơn cho phép nhiều thiết bị với khả năng Plug and Play (cắm và chạy) dễ dàng, USB được hỗ trợ bởi nhiều nhà sản xuất lớn như Compaq, IBM. Những công ty sản xuất khác:

Page 123: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Gateway, Digital, US Robotics, Logitech, Philips, Altec Lansing cũng đang kết thúc giai đoạn cuối cho các thiết bị USB.ááMột cổng, nhiều thiết bị ngoại viThiết bị USB sử dụng loại đầu nối rẻ tiền, có kích cỡ như đầu cắm dây điện thoại và có thể truyền tới 12 Megabit/giây - nhanh hơn bất cứ cổng tuần tự hay song song thông dụng nào. Dải thông này làm cho USB trở nên lý tưởng cho nhiều thiết bị có tốc độ thấp và trung bình, từ máy in cá nhân cho đến scanner độ phân giải thấp, loa. Những thiết bị cần dải thông lớn hơn, như video camcorder, máy in độ phân giải cao và băng từ dung lượng lớn, sẽ làm việc tốt hơn với công nghệ SCSI hay chuẩn 1394 - FireWire.ááMột cổng đơn bố trí ở mặt sau của PC có thể hỗ trợ cho nhiều thiết bị được nối móc xích với nhau. Khả năng này cho phép bạn không phải quan tâm đến việc còn khe cắm trong PC hay không khi muốn bổ sung thêm thiết bị.ááCuối năm nay, Microsoft sẽ có kế hoạch bổ sung khả năng hỗ trợ USB vào Windows 95 và mở rộng công nghệ Plug and Play. Nếu cắm một thiết bị USB vào PC được trang bị USB, bạn không cần phải thiết lập lại IRQ hay jamper và khởi động lại, hệ thống sẽ tự nhận biết kết nối và tải driver cần thiết.ááBước đầu tiênCó 3 yếu tố cần thiết để USB có thể làm việc: một máy PC được trang bị USB (là một mạch điện tử chuyên dụng); các thiết bị ngoại vi cũng có mạch USB này; driver (phần mềm điều khiển) cho phép thiết bị giao tiếp với HĐH của PC.ááMột số nhà sản xuất PC hàng đầu như IBM và Compaq đã tung ra máy PC để bàn với cổng USB vài tháng nay. Dell, Sony và Toshiba đang có kế hoạch xuất xưởng loại PC này. Theo IBM, bạn sẽ không phải trả thêm tiền cho công nghệ mới này. Các PC notebook với USB cũng sẽ được đưa ra vào giữa năm 1997. Những PC 486 và mạnh hơn với bus PCI cũng có thể nâng cấp lên USB bằng cách sử dụng card bổ sung của CMD Technology với giá 59 USD (tại Mỹ). Card loại này có 2 cổng USB.ááCuối năm nay, Microsoft sẽ đưa ra thị trường phiên bản Windows 95 hỗ trợ cho các thiết bị USB. Nếu có kế hoạch mua máy trong thời gian đó, bạn nên lưu ý rằng máy phải kèm theo phiên bản Windows 95 đó.ááThiết bị USBHiện tại, trên thị trường đã xuất hiện những thiết bị USB đầu tiên. Phần lớn, giá của chúng tương đương hoặc hơn không đáng kể so với các thiết bị cũ. Có trước tiên là những thiết bị truyền thông, thiết bị nhập, màn hình và loa. Trong tháng 11, Mitel đưa ra điện thoại giá 349 USD với modem 33,6 Kbps, nối vào PC thông qua cổng USB hay cổng serial. Philips trong tháng 12 sẽ tung ra màn hình với 3 đầu nối USB. Ngoài ra, bạn có thể có được loa USB từ Altec Lansing.ááCác thiết bị như bàn phím, modem, scanner và các thiết bị nhập khác sẽ được bán ra trong đầu năm tới.

VL chống lại PCIHai loại bus tốc độ cao đang ganh đua chiếm ưu thế trên trường máy tính để bàn. Cái nào thích hợp hơn cả với bạn để thực hiện các ứng dụng đồ họa đầy màu sắc hay đói dữ liệuáMột Chín Chín Ba là năm của Local Bus. Trong năm này, local bus VESA trở nên một thành phần kết hợp trong hầu hết các máy PC 486. Bằng cách kết nối trực tiếp CPU và các thiết bị ngoại vi trên cùng một tuyến dữ liệu liệu rộng, tốc độ cao, các hệ thống bus VL và các phần hợp thành đã chứng tỏ rằng chúng có thể tạo ra hiệu suất vô cùng lớn, vượt xa loại ISA tương ứng với chi phí không đáng kể. Vậy tại sao nhiều nhà sản xuất hệ thống lớn lại cho rằng thời gian tồn tại của VL có thể được tính bằng ngày? Lý do chính có thể được diễn giải bằng ba từ: Peripheral Component Interconnect (liên kết thành phần ngoại vi) (PCI).

Page 124: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Có lẽ ngoài tên đặt hấp dẫn, các nhà sản xuất PC hy vọng rằng chuẩn bus PCI mới sẽ trở nên phổ biến rộng rãi. Là một sản phẩm của hãng vi mạch khổng lồ Intel, với thiết kế phức tạp, linh hoạt và giàu đặc trưng hơn bus VL, PCI được xem như thích hợp đối với các thách thức ngày càng cao cho các máy tính để bàn tốc độ cao. Và với hậu thuẫn chặt chẽ của các hãng lớn như IBM, Compaq, NEC, Dell..., PCI trở thành đối thủ cạnh tranh đáng kể - ngay cả việc chống lại bus VL. Câu hỏi phát sinh bây giờ không phải là có nên mua hệ thống có local bus, mà là nên chọn mua loại bus nào. Bạn không biết rằng liệu có còn sự lựa chọn phong phú các thiết bị ngoại vi VL trong thời gian tới nữa không, khi bạn chọn làm việc với hệ thống VL vào lúc này. Hoặc bạn có sẵn sàng tiêu thêm hàng trăm dollar để có hệ thống PCI với hy vọng rằng các thiết bị ngoại vi chủ yếu như bo mạch đồ họa, bộ điều khiển đĩa sẽ có trên thị trường trước khi hệ thống của bạn lỗi thời. Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào cả nhu cầu của bạn và các quyết định của các nhà sản xuất hệ thống và thiết bị ngoại vi. Mặc dù bus VL cung cấp thêm nhiều sức mạnh cho hầu hết máy 486, PCI đáng chiếm ưu thế. Điều này do kiến trúc bus cũng giống như thị trường chứng khoán. Nó chỉ mạnh khi người ta tin tưởng vào nó. Lúc đó, rất nhiều các nhà sản xuất hệ thống và chế tạo thiết bị ngoại vi sẽ gắn chặt với PCI. Ngôn ngữ của Local BusVấn đề trên đã được nhắc tới khi Windows đưa các hình ảnh đồ họa màu trung thực vào PC. Bên trong CPU, bộ vi xử lý 486 chuyển dữ liệu với tốc độ 33MHz, sử dụng local bus 32-bit nội. Nhưng luồng dữ liệu đồ hoạ lại đụng phải một đường dẫn hẹp một khi đi qua bus ISA. Được thiết kế cách đây 10 năm, ISA hoạt động với 8MHz và là bus 16-bit. Khi các ứng dụng yêu cầu khả năng đồ họa màu thực, video chuyển động và hình ảnh 3 chiều, lúc đó ISA trở nên bị quá tải. Để loại trừ sự tắc nghẽn, các nhà sản xuất hệ thống và thiết bị ngoại vi đã phải tạo ra đường dữ liệu tắt cho các thành phần có nhu cầu tốc độ nhiều nhất. Bằng cách nối trực tiếp mạch điều khiển đồ họa (graphic adapter) và có thể các thiết bị khác vào bộ xử lý, các nhà sản xuất có thể tạo ra tuyến dữ liệu rộng nhanh cho các thành phần cần tốc độ. Và đó là điểm chung cho sự ra đời của các chuẩn local bus giống với VL. Bằng cách tạo ra một đường chung gắn vào bus tốc độ cao của bộ xử lý, local bus chuẩn đã loại bỏ hiện tượng tắc nghẽn dữ liệu trong các máy PC. Các bus VL và PCI đều thực hiện một công việc như nhau. Cả hai đóng vai trò là tuyến dữ liệu 32-bit giữa CPU và thiết bị ngoại vi, hoạt động với tốc độ cao (PCI: 33MHz và VL: 40MHz), tốc độ truyền dữ liệu gần tương đương (PCI 120MB/sec và VL: 132MB/sec). Hơn nữa, cả PCI lẫn VL đều có các đặc tính nhằm tương thích với các thiết bị ISA sẵn có. VL và PCI cung cấp hiệu năng tương đương, ít nhất cũng trên các hệ thống hiện có. Khi chạy các ứng dụng Windows trên các hệ thống có cấu hình Pentium tương đương được trang bị bus VL hoặc PCI, không thấy sự khác biệt hiệu năng rõ ràng. Trong khi hệ thống PCI cho thấy các hệ số tốt trong cuộc thử nghiệm, hệ thống VL cũng cho thấy chỉ kém 2% điểm. Đối với nhiều người dùng, đó không phải là khía cạnh hiệu năng bắt buộc. Nhưng hai chuẩn đã sinh ra từ đó - và sự khác biệt có thể xác định cái nào tồn tại lâu hơn. Bus VL được xem như không đắt lắm, là giải pháp tiếp cận nhanh thị trường. Được xây dựng trên local bus sẵn có trên tất cả CPU 486 Intel, VL hoạt động với tốc độ của bộ xử lý, hoặc đối với các CPU DX2 gấp đôi xung, nó hoạt động bằng nửa tốc độ của bộ xử lý. Bus VL điều khiển tối đa 2 hoặc 3 thành phần, tăng cường hiệu suất các bo mạch đồ họa và cả đĩa cứng. Điều quan trọng tuơng tự là các hệ thống bus VL và thiết bị ngoại vi giá rẻ, chỉ hơn chút ít các phần hợp thành ISA của chúng. Thành công của bus VL nói lên tất cả. Từ lần giới thiệu vào 28/8/1992, hàng triệu hệ thống VL đã được bán ra, nhiều nhà sản xuất nâng cấp tất cả các hệ thống để bàn theo thiết kế bus VL. Nhiều nhà chế tạo thiết bị cũng phấn khởi trước công nghiệp bùng nổ này, bởi vì người dùng ưa thích các hệ thống có các bộ phận tăng tốc độ đồ họa và các bộ điều khiển đĩa cứng trên bus VL. Martin Reynolds, phân tích viên của hãng InfoCorp - công ty nghiên cứu tiếp thị ở Santa Clara CA. nói: "Đánh giá của chúng tôi là bus VL sẽ chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường 486 vào cuối năm 1993",

Page 125: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

"486 - VESA là sự kết hợp không thể tách rời. Các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực này là AST, NCR và Compaq". Vậy tại sao nhiều nhà sản xuất hệ thống và thiết bị lại ủng hộ PCI. Để trả lời, bạn hãy nhìn vào tương lai từ 3 đến 5 năm tới. PCI được thiết kế để làm việc với các chip cao hơn 486, như Pentium và các CPU non-486 khác. Bus VL thiếu hẳn sự tương thích này. Không giống với bus VL nối trực tiếp vào bộ xử lý, PCI đặt một lớp giữa CPU và thiết bị ngoại vi. Intel gọi kết quả này là bus độc lập với bộ xử lý, có thể dễ dàng nối với nhiều loại CPU, bao gồm cả Pentium của Intel; Alpha của DEC, MIPS R4400; PowerPC của Motorola, Apple và IBM. Đối với nhiều nhà sản xuất hệ thống, kết quả này làm cho giá thành phát triển thấp hơn vì họ có thể dùng lại các thiết kế hệ thống trên các CPU. PCI cung cấp thêm nhiều đặc trưng khác. Đặc biệt bao gồm cấu hình thiết bị tự động, nhờ vậy người sử dụng có thể lắp thêm các bo mạch không cần quan tâm đến cấp IRQ, kênh DMA và địa chỉ bộ nhớ. Đối với nhiều nhà chế tạo hệ thống, khả năng điện áp thấp và giao tiếp 64-bit tạo cho PCI thích hợp cho các loại sản phẩm đa dạng. Thiết kế theo lớp của PCI làm giảm ứng suất điện trong CPU, cho phép đến sáu thiết bị hoạt động. Giá trị của công nghệ này sẽ bao nhiêu? Các nhà sản xuất nghĩ rằng sẽ đắt thêm hàng trăm dollar trên các hệ thống PCI, nhưng giá có thể thay đổi khi Intel, công ty duy nhất sản xuất chip PCI, cố gắng thu hút bớt thị trường của chuẩn bus VL. Kimball Brown, phó giám đốc InfoCorp, tin rằng Intel sẽ bỏ qua lợi nhuận ngắn hạn để đưa PCI vào thị trường. "Intel có thể định giá nằm khuyến khích nhiều người đến với PCI. Họ cũng sẽ áp đặt một chuẩn mới, bởi vì giá của bộ chip chỉ là 15 USD". Đối với người sử dụng, điều đó có nghĩa là các hệ thống và thiết bị PCI sẽ có giá cạnh tranh với hệ thống VL cấu hình tương tự. Điều đó có thể ảnh hưởng xấu đến sự thành công của PCI, vì hầu hết người dùng không nhận biết sự khác biệt về hiệu năng và đặc trưng của PCI để sẵn sàng trả thêm so với VL. Do đó, những ai chỉ quan tâm đến hệ thống VL giờ đây sẽ nhìn nhận PCI nghiêm túc hơn. Glenn Schuter, quản lý sản phẩm chất lượng cao của S3 Incorporated - công ty chế tạo mạch tăng tốc đồ họa hàng đầu nói rằng "PCI giá trị 1000 USD? Không thể được. Trị giá 100 USD? Có thể. Nhưng trị giá 20 USD là chắc chắn". Đi tới mục tiêuNhiều người cho rằng 20 USD cũng quá cao để trả cho PCI, vì bus VL cũng thỏa mãn rất nhiều nhu cầu ngoại trừ những người sử dụng khó tính nhất. Jon Peddie, Tổng biên tập của PC Graphics Report ở Tiburon, California nói: "Intel đã phóng đại PCI quá mức thực tế, theo ý tôi. Khả năng đồ họa là thuận lợi trước tiên và là duy nhất của sự kết nối local bus. Điều khó chịu là sự phóng đại - họ nghĩ rằng nó sẽ không được chấp nhận ngoại trừ khi họ làm cho nó được chú ý nhiều hơn so với sự thực". Ngoài sự phóng đại, PCI được dự định để trở thành chuẩn bus kế tiếp cho PC, mặc dù còn phải mất nhiều năm nữa. Ted Julian, phân tích viên của IDC - công ty nghiên cứu tiếp thị ở Framingham, Masachusetts nói: "Tôi chưa từng tiếp xúc với những ai cho rằng PCI không là kiến trúc của Pentium. Điều cần làm là giảm bớt cơ hội của VL trong thời gian dài". Đó là điều Intel và những người đề xuất PCI hy vọng. Ngay cả khi bus VL tràn ngập thị trường 486, những người ủng hộ PCI tiên đoán bus VL là chuẩn bế tắc, nó sẽ chết cùng với sự lỗi thời của CPU 486 vào giữa thập kỷ 1990. Nhưng nói gì đi nữa, Intel đang làm suy yếu sức mạnh của VL bằng cách cố gắng áp đặt chuẩn PCI vào thị trường 486. Mike Bailey, giám đốc tiếp thị sản phẩm PCI của hãng nói: "Intel không nói xấu VL và nói mọi người đừng mua VL. Intel giữ cho thị trường PC mạnh mẽ và điều đó giúp Intel bán nhiều CPU hơn". "PCI trở thành chuẩn càng sớm, sẽ có lợi cho ngành công nghiệp. Và chúng tôi sẽ thâm nhập vào thị trường 486 nhằm bảo đảm cho chuẩn được hình thành". Trong lúc PCI có thể thâm nhập vào thị trường 486, điều đó có thể quá trễ để vượt qua sự thành công so với bus VL đã từng đạt được. Hơn nữa, chuẩn PCI có thể bỏ qua các lĩnh vực mà bus VL đã có ảnh

Page 126: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

hưởng mạnh mẽ, như server LAN. Thật vậy, nhiều người nghĩ rằng nạn nhân đầu tiên của PCI sẽ không phải là VL, mà là EISA hoặc Micro Channel. Jesse Parker, giám đốc quản lý sản phẩm của PC Business Unit của DEC nói: "Điều chúng tôi chú ý là PCI chống lại các hệ thống EISA, thay vì PCI chống lại hệ thống VL. Chiến lược của chúng tôi là làm cho PCI có cùng giá với hệ thống EISA". Trong khi ấy, hàng nửa tá các bus cùng tồn tại, như PCI, VL, ISA, EISA và Micro Channel, nhưng chúng sẽ tiếp tục chống lại nhau trong dòng chảy của PC. Khi thị trường hệ thống và thiết bị phát triển nhiều hướng, cả người sản xuất lẫn người dùng phải quan niệm gần nhau về chuẩn nào thích hợp trong hai hay ba năm nữa. Góp phần vào việc làm mọi cái phức tạp thêm là cả công nghệ PCI lẫn VL không đứng yên. Âấn bản 2.0 của kiến trúc bus VL đã được giới thiệu, bổ sung vào các đặc điểm như multiplexed, đường dữ liệu 64-bit, bộ đệm đơn cho hoạt động với các bo mạch chính tốc độ cao, và tốc độ xung tối đa cao hơn - 50MHz. Mặc dù chưa có hệ thống VL 2.0 thực sự nào, sự khác biệt lớn nhất giữa VL và PCI sẽ bắt đầu giảm dần khi bus VL phát triển đa dạng hơn. Reynolds nói: "Đó là cơ hội cho Pentium - VL trở nên rất mạnh. Nhưng tôi không tin rằng chuẩn VESA-64 bit sẽ có ảnh hưởng như chuẩn VESA-32 bit đã có. Tôi nghi ngờ ích lợi của sản phẩm VESA-64 bit". Nhưng VESA sẽ tiếp tục nâng cao chuẩn bus thành công của nó. Để tăng giá trị của thị trường VL, một ủy ban đã xây dựng chương trình thẩm định nhằm định ra các nghi ngờ về sự tương thích giữa hệ thống VL và thiết bị. Các vấn đề phải đạt tớiBus nào thật sự tốt hơn? Đối với nhiều người dùng, bus nào cũng sẽ tiến tới vấn đề chung nhất - tăng tốc độ xử lý đồ họa. Và các nhà phân phối hệ thống cung cấp rất nhiều hệ PCI, tuy vậy họ cũng sẽ tiếp tục đưa ra các hệ thống dựa trên bus VL. Joe Curley, giám đốc tiếp thị của TSeng Labs, nhà chế tạo chính các chip đồ họa, nói: "Hiện tại VL đang được bán rất nhiều, và trong tương lai PCI sẽ được bán rất nhiều. Ngoài ra VL đã được đưa ra một số lượng rất lớn và nhờ vậy nó sẽ không bị biến mất khỏi thị trường ngay. Khi hàng triệu hệ thống VL vẫn còn được dùng, sẽ tiếp tục có các thiết kế cho chúng. Và đó là thực chất của vấn đề. PCI là bus của nhà chế tạo máy tính - một giải pháp tinh vi, ưu việt và linh hoạt cho phép các nhà sản xuất hệ thống xây dựng nhiều hệ PC đa dạng nhanh chóng và tin cậy. Đó cũng là bus cho các hệ thống vận hành nhiều mảng đĩa như server, hệ thống đa nhiệm sử dụng NT hoặc OS/2, và các trạm làm việc hoạt động nhiều với đồ họa, video và các kiểu dữ liệu khác. Nhưng đối với phần lớn chúng ta, PCI là bus còn hơn cái chúng ta cần. Tương lai có thể thuộc về PCI, nhưng phải một vài năm nữa, các hệ thống VL được thiết kế hợp lý, sẽ cung cấp tất cả sức mạnh mà chúng ta có thể sử dụng được. Chuyển dữ liệu trên bus Tốc độ chuyển dữ liệu 16-bit của ISA - 8MHz quá chậm so với các CPU nhanh ngày nay, các tập tin lớn và các ứng dụng đồ họa. Các bus PCI và local bus VESA (VL) tăng tốc độ chuyển dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu liên tục, chế độ làm việc của đĩa cứng và các bo mạch đồ họa. Tuy vậy mỗi loại sử dụng phương thức khác nhau để chuyển dữ liệu giữa bộ nhớ hệ thống và thiết bị.áVL Bus: giải pháp trực tiếpáBus VL là phần mở rộng của local bus của CPU 486. Dữ liệu đi trực tiếp thông qua bus CPU đến bus VL. Một vài loại bo mạch giao tiếp VL có trang bị vùng đệm nhằm giữ cho dữ liệu không bị mất trước khi thiết bị có thể nhận được. Bởi vì bus VL chuyển dữ liệu với tốc độ từ 25 đến 40 MHz, các bo mạch VL phải điều khiển được các tốc độ xung khác nhau. Mỗi bo mạch VL thêm vào một đường tải cho bus CPU, làm giảm số tín hiệu của bus và hạn chế VL dùng chỉ cho hai hoặc ba thiết bị.áPCI Bus: hơn cả local busá

Page 127: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

PCI thêm vào bộ điều khiển và mạch tăng tốc nhằm tạo ra bus tách biệt với bus của CPU, và các thiết bị phụ nhằm tăng cường đường dữ liệu. Một phương pháp PCI dùng để tăng tốc độ chuyển là tăng tốc dữ liệu liên tục. Đối với dữ liệu không liên tục, CPU phải mất thời gian xác định địa chỉ của đoạn dữ liệu cần đọc, sau đó tốn thêm thời gian để đọc đoạn dữ liệu đó. Đối với dữ liệu liên tục, như vùng nhớ hình ảnh, tăng cường xác định địa chỉ kế tiếp trong lúc đang đọc dữ liệu ở địa chỉ hiện hành. Một cách khác để chuyển dữ liệu liên tục, gọi là multiplexing, là gấp đôi đường truyền bằng cách gửi dữ liệu xuống các đường địa chỉ. Sau cùng, mạch tăng tốc PCI có thể lưu dữ liệu trong vùng đệm của nó, cho phép bộ tăng tốc đọc dữ liệu từ bộ nhớ đồng thời chuyển dữ liệu cho thiết bị. Và bởi vì bus PCI tách biệt với CPU, tín hiệu của nó có thể cung cấp cho nhiều thiết bị hơn so với bus VL.PCI là một giải pháp mềm dẻo và tinh vi trên thị trường bus máy tính. PCI cho phép các nhà sản xuất nhanh chóng thiết kế các loại PC khác nhau một cách đảm bảo.

Xây dựng một mạng ... Máy Tính

Các trờ chơi hiện đại phải chơi nhiều tay thì mới cảm nhận hết sự phối hợp chiến thuận, mới hiểu thế nào là tinh thần đồng đội Một trong những cách chơi hai người hiện nay tại TP.HCM là kết nối bằng modem qua đường dây điện thoại. Đấu với tay cao thủ số một của thành pố ở cách đó 10km thì cũng hay đấy. Nhưng chơi mãi như vậy cũng mất vui vì đấu với đấu thủ vô hình chỉ hơn đấu với máy một chút. Thêm nữa đâu phải ai cũng dám sài sang mắc hẳn một đường dây điện thoại riêng để chơi game. Nếu không, e rằng các anh chị em trong nhà sẽ "tấn công" bạn vì đã cản trở họ giao lưu với thế giới bên ngoài. Giải pháp là hãy xây dựng một mạng máy tính cục bộ. Bạn sẽ thoải mái tận hưởng niềm vui của cuộc đối đầu trực tiếp mà không phải lo trả cước phí điện thoại quá cao. Nếu bạn có hẵn một nhóm thì thật tuyệt. Mạng máy tính cho phép bạn chơi những trò tập thể phức tạp nhất. Thành lập mạng không phải là một công việc quá khó khăn và tốn tiền. Bạn có thể dùng một modem giả (null modem) để nối hai máy tính lại với nhau. Bạn cũng có thể làm giống như các tay chuyên nghiệp - nghĩa là đi ra cửa hàng mua tất cả các linh kiện cần thiết và tự lắp một mạng của mình từ con số không. Nếu như may mắn có cửa hàng nào đó đang bán các bộ trọn gói lập mạng thì bạn sẽ đỡ công phải tự thiết kế và tìm mua từng

Page 128: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

món một. Tất cả các phương pháp trên đều cần có một không gian thích hợp. Vậy trước hết bạn hãy bắt tay vào việc dọn dẹp bàn ghế rồi mời các bạn bè tri kỷ của mình đến, đừng quên dặn họ mang theo PC. Phương pháp 1: Hai lon sữa bò và một sợi dây đồng Thực ra thì phương pháp này không đến nỗi thô sơ như cách chúng ta chơi trò điện thoại hồi bè.Cho đến giờ, đó là cácha thức đơn giản nhất nối 2 máy tính lại với nhau chơi game. Phương pháp này dùng dây cáp đặc biệt (null modem cable) để nối 2 máy tính lại với nhau thông qua các cổng tuần tự (serial port) của máy. Cáp này có bán ở các cửa hàng dịch vụ máy tính với giá dưới 90.000 đồng. Chiều dài của cáp có thể từ 2 cho đến 8m. Trước tiên, bạn hãy chịu khó kiểm tra các cổng tuần tự ở phía sau máy tính của bạn. Hầu hết các máy tính đều có hai cổng tuần tự. Cổng tuần tự có thể có 9 hoặc 25 chân và một trong 2 cổng đó thường nối với chuột của máy tính. Hãy xác định cổng nào còn trống từ đó mua cáp có đầu nối tương ứng (9 hay 25 chân). Các cổng này thường được máy tính đặt tên là COM1, COM2,... Bạn phải biết cổng nối vào được máy tính đặt tên là COM thứ mấy. Hãy dựa trên chuột mà đoán. Nếu chuột nối vào COM1 thì cổng còn lại sẽ là COM2. Nếu tài liệu của máy bạn đầy đủ thì xem tài liệu là tốt hơn cả. Thông thường thì COM1 có 9 chân và COM2 có 25 chân nhưng không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Tắt máy, nối dây cáp vào cổng được chọn rồi bật điện lên lại. Về mặt lý thuất, bạn đã làm xong tất cả công việc cần thiết. Bạn có thể kiểm tra bằng cách chơi trò chơi mình thích. Phần lớn các trò chơi nhiều người đều có tùy chọn để chơi qua cáp null modem hay cáp trực tuyến (direct cable). Hãy theo đúng chỉ dẫn của trò chơi. Nếu hai máy tính chịu làm việc với nhau và trò chơi bắt đầu thì xin chúc mừng bạn. "Mạng máy tính" của bạn đã hoàn thành và bạn sẽ được thưởng thức sự thú vị của các trò chơi nhiều người với hai máy. Nếu không thì bạn cần phải kiểm tra lại một số việc.

Trước tiên bãn hãy kiểm tra xem cáp đã được nối với máy tính chưa. Đừng để phái cả một buổi chiều để rồi mới phát hiện là cáp chưa nối vào máy. Điều này nghe có vẻ đơn giản nhưng nó đã và sẽ còn xảy ra.

Mặc dù các cổng COM thường được bật (enable) sẵn, bạn cũng phải kiểm tra lại. Điều này được thực hiện nhờ chương trình trong CMOS. Khởi động lại máy, khi máy hiện dòng chữ "Press Del to enter CMOS setup" thì hãy nhấn ngay phím Del (hay phím mà máy yêu cầu). Máy sẽ hiện ra một thực đơn, bạn vào phần chipset features và chính cổng COM tương ứng thành bật (enable) nếu nó đang là tắt (Disable).

Nếu bạn chắc rằng đã bật các cổng COM và báo đúng tên cổng trên cả hai máy, điều tiếp theo cần phải kiểm tra là các thông số của cổng. Thông thường các trò chơi cũng như các chương trình truyền thông dùng cổng COM đều đòi hỏi cổng được cài đặt như sau:

- Tốc độ: 9600 baud hay nhanh hơn - Data bit: 8 - Parity check: no (không) - Stop bit: 1 Trong Win 95 bạn có thể kiểm tra và thiết lập lại các chế độ hoạt động của cổng thông qua Control Panel/System/Device Manager. Chọn Port, chọn cổng COM rồi nhấn vào nút Properties. Tiếp theo, chọn trang Port Settings rồi kiểm tra hay sửa đổi các thông số theo ý bạn. Bạn cũng có thể chọn Restore Default để khôi phục giá trị mặc định. Phần lớn các trò chơi hoạt động ổn định với chế độ mặc nhiên này. Với DOS, phải dùng lệnh để xác lập chế độ hoạt động các cổng. Bạn đánh lệnh Mode COM2 9600, N, 8, 1 để gán cổng COM2 hoạt động ở tốc độ 9600 baud, không parity, 8 data bit, 1 stop bit.

Nếu vẫn không giải quyết được rắc rối, hãy thử kiểm tra bằng game khác. Đôi khi, lỗi là do chính trò chơi của bạn. Nếu bạn còn một sợi cáp khác, hãy thử thay cáp và kiểm tra lại một lần nữa. Nếu tất cả các biện pháp trên đều thất bại thì vấn đề chắc đẫ vượt khỏi tay bạn.

Phương pháp 2: Tự lực cánh sinh

Page 129: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Đây là cách dành cho các bạn muốn được thử thách thực sự. Bởi vì chắc có bạn sẽ phàn nàn: "Cái mà chúng tôi cần là một mạng máy tính thực sự chứ không phải là ba cái cáp nối hai máy tầm thường này". Tuy nhiên chúng tôi cũng xin nói trước bài này không giúp bạn trở thành một kỹ sư mạng đâu nhé. Bạn cần phải có một kiến thức đáng kể về mạng trước khi bắt tay vào việc tự xây dựng cho mình một mạng máy tính. Bây giờ chúng ta nói về một mạng cục bộ (LAN) đơn giản nhất: hệ thống mạng ngang hàng (peer-to-peer) 10Base2. Đây là một hệ mạng Ethernet cho phép bạn kết nối với tốc độ 10Mbps (triệu bit/giây). Chúng ta sẽ nối các máy tính lại với nhau bằng một loại cáp đồng trục đặc biệt. Cáp có tên là 10Base2 hay RG58 (hai loại cáp này hơi khác nhau nhưng vẫn có thể dùng thay thế cho nhau). Một số nơi gọi cáp này là BNC nhưng tên này không đúng đâu. Trong một đoạn mạng 10Base2, bạn có thể nối đến 30 card mạng (tức là 30 máy) với nhau và tổng chiều dài tối đa của cáp nối là 185 mét. Thiết bị đầu tiên cần để xây dựng mạng là card mạng (Network Interface Card NIC). Mỗi máy tính trong mạng cần một NIC. Trên NIC phải có một đầu nối đặc biệt gọi là đầu nối BNC (viết tắt của bayoner connector - đầu nối lưỡ lê - vì nó trông giống như đầu nối lưỡi lê vào nòng súng). Bạn sẽ thấy có những card mạng có nhiều loại đầu nối nhưng chúng ta phải và chỉ cần BNC là đủ. Kèm theo card có một đầu nối hình chữ T (T-connector) để gắn với BNC. Card mạng 16 bit ISA (250.000 đông card có kèm T-connector) là quá đủ cho hệ thống mạng mà chúng ta đang xây dựng, không nên mua card PCI làm gì cho lãng phí. Bạn cần các cáp 10Base2 hay RG58 (5.000 đồng/mét) để nối máy tính với nhau. Chiều dài của cáp tùy theo khoảng cách giữa các máy nên vào khoảng từ 2 đến 10m. Bạn nên nhờ người bán lắp sẵn các đầu nối vào hai đầu của cáp. Cuối cùng, bạn cần phải có hai thiết bị Terminator nữa (25.000 đồng/cái). Các NIC thường đi kèm với tờ hướng dẫn và phần mềm cài đặt. Bạn hãy làm thật đúng theo hướng dẫn. Thông thường các NIC đòi hỏi sử dụng các tài nguyên của máy tính như DMA, IRQ, địa chỉ I/O. Hãy kiểm tra trong sách hướng dẫn để biết cách cài đặt các thông số này cho NIC của bạn. Với một số NIC, các thông số này được cài đặt các thông số này cho NIC của bạn. Với một số NIC, các thông số này được cài đặt bằng phần mềm, một số khác được cài đặt bằng các jumper và loại mới nhất là Plug and Play. Sau đó, hãy kiểm tra các tài nguyên mà máy tính của bạn còn có thể cung cấp cho NIC. Nếu được thì dùng các thông số này để cài đặt cho NIC, còn không thì bạn bắt buộc phải thiết lập lại cấu hình máy tính để phù hợp với các yêu cầu của NIC. Bạn phải xem các tài liệu của các thiết bị mà bạn đã gắn trên máy tính để biết cách thay đổi cấu hình của chúng. Sau khi đã thiết lập được cấu hình máy tính phù hợp với yêu cầu của NIC, tắt nguồn, mở vỏ máy và cắm NIC vào một khe ISA còn trống trên bo chủ. Gắn T-connector vào đầu nối BNC của NIC, hai đầu còn lại của T-connector được nối với các đầu nối của cáp đi sang hai máy bên. Dùng cáp nối các máy tính lại với nhau. Sau khi làm xong, sẽ còn hai máy tính ở tận cùng có một đầu nối của T-connector còn trống. Đừng nối vòng hai đầu đó lại với nhau; đó là chỗ dành cho các Terminator. Bây giờ, bạn có thể bật công tắc ngùoon và bắt đầu cài đặt phần mềm mạng. Nếu bạn sử dụng DOS, bạn phải tìm các phần mềm mạng ngang hàng cho DOS như LANtastic hay Netware Light. Việc cài đặt các phần mềm này rất đơn giản. Thường thì các phần mềm kiểu này có sẵn các trình thiết bị cho NIC của bạn. Nếu không, bạn sẽ được nhắc đưa đĩa chứa trình thiết bị (kèm theo NIC) vào. Các phần mềm này sẽ cài một vài chương trình nhỏ lên đĩa cứng của bạn, sửa lại các tập tin khởi động của DOS. Trong quá trình cài đặt, bạn sẽ phải chuẩn bị cung cấp cho chương trình cài đặt một vài thông tin như tên máy (phải là duy nhất trong mạng), số sêri của chương trình... Nếu bạn được yêu cầu chọn giao thức (protocol), hãy chọn IPX. Nếu dùng với Windows 95 thì bạn không phải tìm phần mềm mạng riêng vì bản thân Win 95 đã hỗ trợ mạng ngang hàng. Trong Control Panel, chọn Network. Nhấn vào phím Add rồi chọn Adapter rồi chọn Next. Đưa đĩa mềm đi kèm theo NIC vào ổ. Sau đó chọn Have Disk rồi chỉ cho Windows thư mục có chứa trình điều khiển NIC của bạn dành cho Windows 95. Rất có thể bạn cần phải có bộ đĩa gốc của

Page 130: 5 kiÓu bé nhí trong DOSdulieu.tailieuhoctap.vn/books/cong-nghe-thong-tin/the... · Web viewKhi bạn đánh lịnh Fdisk, màn hình đầu tiên như sau: FDISK Options Current

Win95 trong khi cài đặt. Nếu bạn được hỏi có tái khởi động lại máy tính không thì hãy trả lời không và thực hiện các bước kế tiếp sau đây. Nhấn OK đến khi quany lại hộp thoại Network. Đôi khi Win95 tự động kiểm tra và cài đặt trình thiết bị cho NIC của bạn. Nhưng chúng ta chỉ cần có ba mục trong hộp "The following network components are installed". Đó là Client for Microsoft Network ở hàng thứ nhất; hàng thứ hai là tên của card mạng; thứ ba là dòng chữ IPX/SPX-compatibel protocol. Nếu thiếu phần nào ở trên thì bạn phải thêm. Nhấn Add sẽ mở ra một cửa sổ có dòng chữ Client, Protocol,... Nếu thiếu Client for Microsoft network thì chọn Client và nhấn Add nữa. ở cửa sổ mới mở ra, trong khung bên trái có dòng chữ Microsoft,... Chọn Microsoft và chọn Client for Microsoft network ở khung bên phải. Nhấn OK là xong. Nếu thiếu IPX/SPX-compatible protocol thì chọn Protocol ở hộp thoại Network và nhấn Add. ở khung bên trái, chọn Microsoft và khung bên phải chọn IPX/SPX-compatible protocol. Nhấn OK. Khi có cả ba mục trên thì bạn cần chỉnh sửa chúng chút ít. Bây giờ bạn đang ở trong hộp thoại Network. Chọn IPX/SPX-compatible protocol và nhấn vào nút Properties ở phía dưới. ở trang NetBIOS, đánh dấu hộp "I want to enable NetBIOS over IPX/SPX" và OK. Cuối cùng, trong phần Indentification, nhập tên máy tính và tên mạng. Tên của máy tính trong mạng là duy nhất nhưng tên của mạng ở tất cả các máy phải giống nhau. Cuối cùng khởi động máy lại và tiếp tục cài đặt cho tất cả các máy khác. Sau khi hoàn thành xong công việc, bạn bật tất cả các máy để xem chúng có hoạt động tốt không. Hãy vào phần Network Neighborhood và nếu bạn thấy được danh sách tên mọi máy trong mạng là mọi việc đã ổn thỏa. Bây giờ bạn có thể bắt đầu cài đặt một vài trò và thành lập nhóm chơi game của riêng bạn.