1. tính cấp thiết của đề tài - vnam.edu.vn · văn bản lời ca; bên cạnh đó...
TRANSCRIPT
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh Hóa - vùng đất quê hương của nhiều vương triều, là căn cứ địa của
nhiều cuộc khởi nghĩa đánh giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc. Với bề dày
lịch sử của mình, Thanh Hóa được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân
kiệt”; không chỉ vậy, nhân dân xứ Thanh, trải qua lịch sử, đã xây dựng được
một nền văn hoá bản địa đáng ngưỡng mộ và tự hào.
Lễ hội cổ truyền của người Việt xứ Thanh là một phong tục có từ lâu đời,
được duy trì qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Ở đó, không chỉ duy trì
những vấn đề tín ngưỡng mà còn có nhiều những hoạt động văn hóa dân gian
đặc sắc; trong đó có các hình thức vui chơi giải trí liên quan tới tinh thần
thượng võ dân tộc, các hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian, các trò diễn,
diễn xướng,… được trình diễn trong những ngày lễ dâng hương, những ngày
hội làng hay những ngày kỷ niệm tưởng nhớ đến công lao của các anh hùng
dân tộc.
Âm nhạc dân gian xứ Thanh khá phong phú về loại hình và đa dạng về
phong cách: vùng thuộc lưu vực sông Mã có hò sông Mã; vùng Thọ Xuân -
địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn có múa hát Xuân Phả mang nhiều
dấu ấn nghệ thuật cung đình; Hát Ghẹo và trò diễn phổ biến ở khắp nơi (Hậu
Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Thiệu Hoá, Yên Định,…); vùng Tĩnh Gia (là
trung tâm nối liền đồng bằng châu thổ Thanh Hoá với đồng bằng châu thổ
Nghệ An) có hát Khúc, hát Lịch trình, hát Trống vả, hò Hái củi,… mang
những âm điệu miền Trung rõ rệt. Ngoài ra còn có các làn điệu Trống quân,
Cò lả, Sa mạc; các phường Chèo, Tuồng nằm rải rác ở một số nơi.
Nhiều nhà nghiên cứu đã sưu tầm, tìm hiểu âm nhạc dân gian xứ Thanh,
nhưng chủ yếu là trên phương diện văn hoá dân gian. Riêng lĩnh vực âm nhạc,
2
mới chỉ khai thác lẻ tẻ một số làn điệu dân ca, một số trò diễn hoặc diễn
xướng mà chưa đi sâu tìm hiểu - nghiên cứu trên phương diện tổng thể về âm
nhạc trong lễ hội truyền thống để tìm ra cái nhìn tổng quát, toàn diện.
Là người được sinh ra và lớn lên tại quê hương Thanh Hoá, tác giả luận án
luôn tâm huyết với các đề tài nghiên cứu âm nhạc tại quê hương của mình.
“Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh” là đề tài đang
còn bỏ ngỏ, chưa được nhiều người quan tâm tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn
làm công trình nghiên cứu cho luận án này.
Luận án nhằm nêu bật những nét đặc trưng qua việc phân tích, đánh giá các
giá trị nghệ thuật âm nhạc độc đáo, đa dạng của âm nhạc dân gian qua hệ
thống âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh. Khẳng định những giá trị
xã hội và những giá trị nghệ thuật đặc sắc về âm nhạc dân gian người Việt ở
Thanh Hoá.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bản luận án này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Dân tộc học, Văn hóa học, Âm nhạc
học, Thống kê,…).
- Phương pháp khảo sát thực địa (điền dã, sưu tầm, thu thanh, quay phim,
chụp ảnh, ghi chép tài liệu trực tiếp qua nghệ nhân,...)
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, chứng minh, so sánh, để tìm ra
những đặc trưng âm nhạc và giá trị nội dung thể loại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Âm nhạc dân gian của người Việt ở tỉnh Thanh Hoá có trong lễ hội cổ
truyền.
Phạm vi nghiên cứu:
3
Tìm hiểu đặc điểm âm nhạc trong các làn điệu dân ca; trong các trò diễn,
diễn xướng; âm nhạc trong nghi thức tế Thành hoàng của người Việt ở Thanh
Hoá bằng phương pháp phân tích, so sánh với một số làn điệu thuộc các thể
loại dân ca của vùng miền khác để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu để làm nổi bật vai trò, chức năng và đặc trưng âm nhạc dân
gian người Việt ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình được công bố liên quan đến âm nhạc dân gian của
người Việt ở Thanh Hoá như: sưu tầm một số bài bản dân ca; tập hợp một
nhóm trò hay trò diễn dưới góc độ tiếp cận sinh hoạt văn hoá dân gian qua
văn bản lời ca; bên cạnh đó cũng có một số công trình nghiên cứu âm nhạc,
một số bài bản được sưu tầm và ký âm trong giai đoạn trước đây.
4.1. Các công trình dưới góc độ tiếp cận sinh hoạt văn hoá dân gian qua
văn bản lời ca:
Tư liệu đề cập tới trò diễn dân gian Thanh Hóa có thể kể đến đầu tiên là
cuốn “Thanh Hoá quan phong” xuất bản năm 1903 của Vương Duy Trinh.
Trong đó có đưa vào một số văn bản lời ca Múa đèn Đông Anh.
Năm 1965 nhóm Lam Sơn do Giáo sư Vũ Ngọc Khánh chủ biên đã sưu tầm
và xuất bản cuốn “Dân ca Thanh Hoá”; điều đáng ghi nhận ở công trình là sự
trình bày văn bản lời ca; liệt kê và miêu tả các thể loại dân ca bao gồm các trò
diễn, hò sông Mã, hát Cửa đình, hát Ghẹo…; chưa đề cập đến một số thể loại
mà theo chúng tôi là rất quan trọng, là minh chứng cho sự giao thoa vùng
miền giáp danh, giữa đồng bằng châu thổ Thanh Hóa với vùng đồng bằng
châu thổ Nghệ An. Đó là các thể loại hò Hái củi, hát Lịch trình, hát Trống vả
của dân cư ven biển vùng Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa.
Trong hệ thống trò diễn Thanh Hóa, vùng trò Đông Sơn tạo sự thu hút cho
các nhà nghiên cứu nhiều hơn cả. Năm 1988 Hoàng Khôi, Kim Lữ cho đăng
4
“Một số tư liệu điều tra về Múa đèn ở Thanh Hoá” trong cuốn Văn hoá dân
gian; Vũ Ngọc Khánh phụ trách sưu tập “Trò Ngô”, xuất bản năm 1988 (ty
VH - TH cấp giấy phép);... Được sưu tầm và khai thác đầy đủ nhất về phương
diện văn hóa dân gian là cuốn “Trò diễn dân gian vùng Đông Sơn”, xuất bản
năm 1988 của tác giả Trần Thị Liên.
Năm 2001 Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân cho ra mắt cuốn “Lễ tục lễ hội
truyền thống xứ Thanh” (Tập I), năm 2005 tiếp tục xuất bản tập II (Nhà xuất
bản Văn hoá dân tộc). Đây là công trình được sưu tầm và biên soạn một cách
khá đầy đủ những hoạt động diễn ra trong lễ hội, bao gồm cả việc ghi chép
văn bản lời ca trong âm nhạc dân gian.
Lẻ tẻ cũng có một số bài viết có liên quan đăng trên các tạp chí, đáng lưu ý
hơn cả là phát hiện của tác giả Phạm Minh Khang với “Trò hát thờ làng
Mưng, dấu vết còn lại của chiếng chèo Thanh” đăng trên tạp chí Văn hóa dân
gian số 3, năm 2004.
Những công trình trên là cơ sở tư liệu quan trọng giúp chúng tôi kiểm
chứng thực tế trong quá trình điều tra, khảo sát, thực hiện luận án.
4.2. Các công trình sưu tầm và nghiên cứu âm nhạc dân gian Thanh
Hóa:
Trong khoảng 60 năm, kể từ khi cán bộ Ban Âm nhạc (thuộc vụ Văn hóa
dân gian) bắt đầu đi khảo sát thực địa ở Thanh Hóa cho đến nay, đã có những
bài bản dân ca được công bố dưới dạng ký âm bải bản, hoặc một công trình
nghiên cứu.
4.2.1. Tư liệu ký âm:
Một số tư liệu được sưu tầm và ký âm có thể kể đến:
- Lê Quang Nghệ sưu tầm và ký âm trò “Múa đèn Đông Anh”, xuất bản năm
1962.
- Một số làn điệu Hò sông Mã trong cuốn “Hò trong dân ca người Việt”.
5
- Lẻ tẻ một số bài hát Ghẹo, hát Múa quạt, các bài hát trong một số Trò diễn
được in trong các công trình nghiên cứu mang tính tổng hợp về âm nhạc
dân gian Việt Nam.
4.2.1. Công trình nghiên cứu:
Nối tiếp các thế hệ đi trước, bản thân tác giả là người yêu quý những làn
điệu dân ca của quê hương mình, từ năm 1995 tác giả đã trực tiếp đi điều tra,
sưu tầm, ký âm bài bản, tìm hiểu âm nhạc trong Múa đèn Đông Anh; trống tế
Phú Khê - Hoằng Hóa để làm những tiểu luận Đại học, năm 2002 - 2006 tiếp
tục điều tra, khảo sát tìm hiểu âm nhạc trong một số trò diễn để hoàn thành
luận văn Thạc sĩ.
Năm 1997 nhóm tác giả Phạm Minh Khang, Hoàng Hải, Hoàng Anh Nhân
đã cho ra mắt cuốn “Khảo sát trò Xuân Phả”. Đây là công trình có sự đầu tư
nghiên cứu sâu, đã minh chứng được những yếu tố đậm đặc mang phong cách
nghệ thuật cung đình thể hiện qua phương thức trình diễn cũng như những
động tác múa đặc trưng. Công trình cũng đã đề cập tới một số vấn đề âm
nhạc, về thang âm điệu thức, tiết tấu, giai điệu,…
Năm 1999 tác giả Đào Việt Hưng cũng đề cập tới một số chi tiết về thang
âm, điệu thức của trò Tiên Cuội và Múa đèn Đông Anh trong cuốn “Tìm hiểu
điệu thức dân ca của người Việt - Bắc Trung Bộ”.
Năm 2003, Nguyễn Trung Liên nghiên cứu âm nhạc Múa đèn Đông Anh để
làm luận văn Thạc sĩ Văn hoá dân gian.
Những công trình trên được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trên cơ sở
đó, một số nhận định về âm nhạc dân gian Thanh Hóa đã được ghi nhận. Đây
sẽ là những cơ sở lý luận giúp chúng tôi trong quá tình thực hiện luận án.
5. Mục đích của luận án
Tìm hiểu, nghiên cứu để nêu bật những đặc điểm âm nhạc dân gian của
người Việt xứ Thanh.
6
Khẳng định những nét độc đáo của âm nhạc dân gian Thanh Hoá qua hệ
thống âm nhạc trong lễ hội người Việt xứ Thanh. Bao gồm âm nhạc trong lễ
và hội của người Việt ở Thanh Hoá.
Chứng minh nghệ thuật âm nhạc dân gian Thanh Hoá trong tổng thể
nguyên hợp nhiều khía cạnh văn hóa dân gian mang tính liên ngành.
Đóng góp vào việc tìm hiểu và phát huy nền âm nhạc dân gian quý báu của
dân tộc Việt Nam.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
chia làm ba chương:
Chương 1: Môi trường tự nhiên - Văn hóa xã hội tỉnh Thanh Hóa
Chương 2: Lễ hội truyền thống xứ Thanh mang dấu ấn vùng miền
Chương 3: Âm nhạc trong lễ hội
7
CHƯƠNG 1
MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN - VĂN HÓA XÃ HỘI TỈNH THANH HÓA
1.1. Đặc điểm địa lý, văn hoá xã hội:
Theo địa chí Thanh Hóa, Phủ Thanh Hóa có từ thời Lý (năm Thuận Thiên
thứ 1); qua những lần đổi thành trấn Thanh Đô (năm Quang Thái thứ 10 -
1397), Phủ Thiên Xương (1430) hay còn gọi là Tây Đô, Thừa Tuyên Thanh
Hóa (năm Quang Thuận thứ 7 - 1466), Thừa Tuyên Thanh Hoa (năm Quang
Thuận thứ 10 - 1469), Trấn Thanh Hóa (năm Gia Long thứ nhất - 1802), tỉnh
Thanh Hoa (năm Minh Mệnh thứ 12 - 1831); đến năm Thiệu Trị thứ nhất
(1841) chính thức đổi tên thành Tỉnh Thanh Hóa và tồn tại tới thời nay (Quốc
sử quán triều Nguyễn, 1970).
Thanh Hóa nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng
ven biển miền Trung Việt Nam. Theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ
thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22'
Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh
Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn
(nước Lào) với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần
giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích
tự nhiên của Thanh Hóa là 11.109 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển,
trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km². Theo kết quả
điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người; mật độ dân số vào
loại trung bình: 305 người/km². Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống,
nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú.
Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp,
các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn.
8
Thanh Hoá có thể tạm chia thành hai miền: miền núi và miền xuôi. Miền
núi gồm các huyện: Thạch Thành, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lạc,
Thường Xuân, Như Xuân, Quan Hoá, Bá Thước. Diện tích là: 8.118 km2.
Miền xuôi gồm: Thành phố Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn và
các huyện: Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống, Đông Sơn, Thiệu Yên, Vĩnh
Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia với
tổng diện tích: 3.050 km2.
Thanh Hoá có núi bao bọc ba phía: Tây, Tây Bắc (kết thúc bởi dãy Tam
Điệp), Tây Nam (kết thúc bởi dãy núi đá thấp Hoàng Mai) và phía Đông có
bờ biển trải dài từ Bắc vào Nam. Từ Bắc vào Thanh Hoá phải vượt qua dãy
núi đá vôi Tam Điệp và từ Thanh Hoá vào miền Trung phải vượt qua dãy núi
đá thấp và rừng Hoàng Mai.
Mạng lưới sông Thanh Hoá quy tụ thành 3 hệ thống là: sông Mã, sông Chu,
sông Yên. Sông Mã là con sông lớn nhất Thanh Hoá, dài 242 km chảy từ tỉnh
Hoà Bình qua các huyện Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Vĩnh Lộc, Thiệu
Yên, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, Hà Trung; thuộc hệ thống này có sông Bưởi dài
325 km, sông Hoạt dài 55 km, và các sông nhỏ khác như sông Cầu Chày,
sông Tào, sông Trà Giang, sông Báo Văn. Sông Chu là sông lớn thứ hai, dài
325 km, chảy từ huyện Thường Xuân, Thọ Xuân, Đông Sơn hoà vào cùng
sông Mã ở Ngã Ba Đầu; thuộc hệ thống sông này có sông Khao, sông Đặt,
sông Đằng, sông Âm. Sông Yên phát nguồn từ huyện Như Xuân, dài 94 km,
chảy qua huyện Nông Cống, Quảng Xương và đổ ra biển ở Hải Ninh (Ghép);
thuộc hệ thống sông này có sông Nhơm, sông Hoàng, sông Thị Long. Ngoài
ra, ở cực Nam - Thanh Hoá còn có sông Bạng dài 35 km, chảy từ Như Xuân
qua Tĩnh Gia, đổ ra cửa biển Lạch Bạng. Sông đào nhà Lê từ Đồng Cổ (Thiệu
Yên) chảy qua các huyện miền xuôi đến sông Bà Hoà giáp Nghệ An.
9
Bờ biển Thanh Hoá trải dài từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng
Xương vào hết địa phận Tĩnh Gia. Dọc bờ biển có 6 cửa sông chính là cửa
sông Hoạt (chảy ra biển ở địa phận Nga Thái), cửa sông Lèn (chảy ra biển ở
địa phận xã Nga Bạch), cửa Lạch Trường (chảy qua địa phận xã Hải Lộc và
Hoằng Trường), cửa Hới (chảy qua địa phận Hoằng Hoá, Quảng Xương), cửa
Lạch Ghép (chảy ra biển ở địa phận xã Quảng Nham và Hải Châu), cửa Lạch
Bạng (chảy ra biển ở địa phận xã Hải Thanh và Hải Bình).
Do tính chất địa lý bị chia cắt nhiều tiểu vùng bởi các con sông và núi, đồi
chạy từ Tây sang Đông tạo ra các vùng tiểu nhiệt đới, có sự chênh lệch lớn
giữa các khu vực nên Thanh Hoá có khí hậu tương đối phức tạp, thuộc khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông lạnh, có sương giá, sương muối và ít mưa;
mùa hè nóng, có gió Tây khô và nhiều mưa. Đặc điểm đó đã có tác động sâu
sắc tới đời sống sinh hoạt và lao động của người dân Thanh Hoá.
Do đặc điểm Thanh Hoá có bờ biển dài, mạng lưới sông dày,… tạo nên
những môi trường sinh thái đa dạng đã tác động sâu sắc đến điều kiện sinh
sống, đến đời sống lao động, đến tính cách và khí chất con người trong mỗi
vùng Thanh Hoá. Bên cạnh đó, nó cũng có tác động mạnh mẽ tới những cảm
hứng sáng tạo về văn hoá - nghệ thuật, tạo nên mầu sắc chung cho văn hoá
nghệ thuật Việt Nam và bản sắc riêng của văn hoá - nghệ thuật Thanh Hoá,
trong đó có nghệ thuật âm nhạc.
“Thanh Hóa không phải chỉ là một Tỉnh, đó là một Xứ” (Pierre Pasquier -
“Thanh Hóa” - 1931). [69, sđd, tr.270]. “Xứ”, theo Từ điển tiếng Việt thông
dụng: “khu vực địa lý có những đặc điểm chung”, theo Từ điển tiếng Việt:
“một miền của đất nước”. Giáo sư Trần Quốc Vượng (được biết đến “là người
theo chủ thuyết địa - văn hóa, địa - lịch sử), Giáo sư Phan Ngọc trong “Bản
sắc văn hóa Việt Nam”, Giáo sư - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong “Cơ sở văn
hóa Việt Nam” đều nói đến Xứ như là “vùng văn hóa”. Kế tục tư tưởng này,
10
trong khuôn khổ công trình nghiên cứu của luận án, chúng tôi sử dụng danh
từ “Âm nhạc Xứ Thanh” như là một thuật ngữ văn hóa học với ý đối tượng
nghiên cứu là: âm nhạc dân gian trong giới hạn không gian đồng nhất với địa
giới của tỉnh Thanh Hóa; nói cách khác, “Xứ Thanh” ở đây được hiểu như là
Thanh Hóa ngày nay, việc sử dụng “xứ Thanh” hay “Thanh Hóa” tại mỗi câu,
đoạn nhằm mục đích giải quyết vấn đề “cú pháp” trong văn học chứ không
nhằm phân biệt địa giới hành chính hay giới hạn của không gian văn hóa được
nghiên cứu.
1.2. Những cơ sở hình thành lễ hội:
1.2.1. Khái niệm về lễ hội:
Văn hoá dân gian xứ Thanh - nền văn hoá hình thành và phát triển trên nền
văn hoá Đông Sơn thời các Vua Hùng - nằm trong cái nôi chung của văn hoá
dân gian người Việt, cũng bao gồm những lễ hội truyền thống. Lễ hội truyền
thống xứ Thanh thể hiện ý chí tín ngưỡng cũng như đặc điểm nhận thức văn
hoá của người Việt cổ xứ Thanh gắn liền với tín ngưỡng và nhận thức chung
của cộng đồng người Việt và thể hiện phần nào cái riêng của người dân bản
xứ. Nền văn hoá đó, trong quá trình hình thành và phát triển đã hình thành và
phát triển các lễ hội và nội dung lễ hội.
Trong năm, vào những thời điểm ngoài mùa vụ sản xuất, đặc biệt vào mùa
xuân, là dịp mà cộng đồng người Việt thể hiện đời sống văn hoá của mình khá
rõ ràng; đây cũng là dịp lễ hội được tổ chức nhiều nhất, là dịp để mọi người
có thể tề tựu, tập trung lại để cùng nhau sống cuộc sống văn hoá cộng đồng.
Lễ hội dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người Việt
xưa, được hình thành bởi ý thức cũng như đặc điểm nhận thức của nhân dân,
là một loại hình sinh hoạt văn hoá chủ đạo trong cuộc sống dân gian. Hình
thức sinh hoạt cộng đồng này tồn tại trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc
và ngày càng phát huy vai trò của mình trong việc đảm bảo đời sống văn hoá
11
cũng như việc truyền tụng cho các thế hệ trong dân cư về văn hoá và lịch sử
dân tộc.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, TSKH Trần Ngọc Thêm
nhận xét về lễ hội như sau:
- Phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn: Tạ ơn và cầu xin thần linh
bảo trợ cho cuộc sống của mình… [52, tr.303]
- Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú, phần lớn
được xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông
nghiệp. [52, tr.306].
Một ý kiến khác của tác giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn “Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” khẳng định rằng:
… Trong ngày hội không chỉ có tế lễ, rước và tục hèm, mà còn có
nhiều sinh hoạt văn hóa, các trò diễn mang tính nghi lễ và phong tục
[53, tr.24].
Như vậy, các tác giả đều chung quan điểm lễ hội bao gồm: phần lễ và phần
hội; Lễ là để cho người dân bày tỏ lòng thành kính của mình với những thần
thánh, tổ tông… bằng các hình thức cúng tế; hội là phần vui chơi giải trí, mà
ở đó người dân có thể nhảy múa, hát ca,… nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần
của mình.
1.2.2. Tục thờ thần linh (Thành Hoàng và Phúc Thần), yếu tố tâm linh:
Trong các làng xã của cộng đồng người Việt nói chung và Thanh Hoá nói
riêng, mỗi làng đều có Đình, Đền, Miếu thờ thần linh.
Nghiên cứu về các vị thần được tôn thành Thành Hoàng, Ngô Đức Thịnh
trong cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” có nhận định
rằng: Các vị thần linh có nguồn gốc là Nhiên thần, Thiên thần hoặc Nhân
thần. Ông cho rằng, các vị Thiên thần có nguồn gốc từ trời, “Thiên” là trời,
trong đó có cả các vị chưa được “nhân hóa” hay đã được nhân hóa [53,
12
tr.96]; Nhiên thần là các vị có nguồn gốc từ thiên nhiên như Thần nước (Thủy
thần), Thần đất (Thổ thần), Thần núi (Sơn thần), cũng có thể ở dạng các con
vật, đồ vật… [53, tr.98]; Nhân thần là các vị thần có công tích và vị thế xã hội
[53, tr.102].
Khảo sát thực tế cho thấy, thần được thờ ở Thanh Hóa có thể là Nhân thần,
Thiên thần hoặc Nhiên thần, nhưng tập trung nhất vẫn là thờ Nhân thần. Đó là
những nhân vật lịch sử có công đánh giặc giữ nước, cùng xây làng lập ấp
được dân làng tôn thành thần. Nhân thần ở Thanh Hóa là các bậc vua chúa,
tướng lĩnh, khoa bảng,… qua các thời kỳ như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Lê
Lai, Trần Khát Chân,…
Thần linh là niềm tự hào của dân làng, là linh hồn của cả cộng đồng. Dân
làng tin rằng thần linh chi phối mọi hoạt động, sinh hoạt, phong tục tập quán
của làng cho nên việc thờ phụng hết sức tôn nghiêm thành kính.
Lễ hội được tổ chức hàng năm có ý nghĩa rất quan trọng trong cộng đồng
làng. Thứ nhất là để tưởng nhớ đến công lao của các vị Thần, ôn lại những
chiến tích hào hùng của ông cha, đồng thời để mong cầu sự che chở phù hộ độ
trì để dân làng làm ăn được “an khang thịnh vượng”. Thứ hai là để tổ chức
vui chơi giải trí sau một năm lao động vất vả bằng các hình thức biểu diễn, thi
thố tài năng, những hoạt động văn hóa nhằm ôn lại chiến tích của các vị anh
hùng,...
Khi tổ chức lễ hội, tất cả những công việc từ lúc chuẩn bị đến khi thực hiện
đều do người làng đứng ra đảm nhiệm…. Trong dịp tế lễ lớn như vậy, không
kể những người trong làng mà còn thu hút khách thập phương ở nơi khác
cùng về dự hội. Đây là dịp để nhân dân bày tỏ lòng thành kính bằng các hình
thức cúng tế, cầu xin sự phù hộ che chở và những ước vọng của mình với các
Thần linh.
13
1.2.3. Thời điểm mở hội:
Những tục lệ ở mỗi làng quê được phản ánh khá rõ trong lễ hội, đó cũng là
bản sắc riêng của từng lễ hội. Nó gợi ra nhiều vấn đề về những tín ngưỡng xa
xưa dẫn ta tới cội nguồn lễ hội. Theo khảo sát thì lễ hội của người Việt xứ
Thanh thường kéo dài tới vài ngày, có thể từ 1, 2, 3 đến nhiều ngày tùy thuộc
vào tục lệ của mỗi làng.
Nếu căn cứ theo câu ca dao: “…Tháng giêng ăn tết ở nhà, tháng hai cờ bạc
tháng ba hội hè” thì hầu như thời điểm mở hội của các làng xã Việt Nam tập
trung vào tháng ba. Ở xứ Thanh thời điểm mở hội không phải chỉ trong tháng
ba mà ngay từ đầu tháng giêng nhiều làng đã bước vào hội và rải đều cho đến
tháng ba, một số ít lễ hội còn được tổ chức vào tháng 4 (Đền Đồng Cổ, Đền
Đún,…).
Trong một năm có nhiều kỳ lệ (khai hạ, đọc hương ước của làng, tục lệ
cơm mới, mừng mùa thu hoạch, đấu vật, đua thuyền, nghi lễ trong ba ngày tết
Nguyên đán…), mỗi kỳ lệ dân làng đều tổ chức tế lễ nhưng chỉ có một kỳ dân
làng tổ chức tế lễ linh đình đó là kỳ tế cầu phúc (hay kỳ phúc) hàng năm vào
mùa xuân, còn gọi là hội làng, với mục đích cầu mong sự bình an cho dân
làng. Trong những ngày này, ngoài phần tế, dân làng còn tổ chức các hình
thức vui chơi làm cho ngày hội thêm vui vẻ, linh đình; các trò diễn có nội
dung tái diễn lại chiến tích của các vị thần hoặc miêu tả đời sống lao động;
các làn điệu dân ca đặc sắc mang đậm sắc thái vùng miền.
Có thể kể đến các lễ hội được tổ chức trong kỳ tế cầu phúc như lễ hội đền
Độc Cước - Sầm Sơn; lễ hội làng Triềng - Yên Ninh, Yên Định; lễ hội Thành
hoàng làng - Hoằng Bột, Hoằng Lộc, Hoằng Hoá; lễ hội làng Cự Nham -
Quảng Xương,…
Cũng có những làng mở hội vào các dịp làm lễ Đản nhật như lễ hội Đền
Bưng; hoặc vào các ngày Chính kỵ như lễ hội Đền Đún;…
14
Theo lệ làng, trước ngày tổ chức lễ hội tất cả công việc cần thiết phải được
chuẩn bị rất chu đáo từ lễ đến hội. Ngoài các lễ hội được tổ chức hàng năm
còn có những lễ hội 3, 4 năm mới tổ chức một lần hoặc tổ chức lớn hơn vào
những năm được mùa. Đó là các lễ hội có quy mô lớn, có tiếng vang khắp cả
một vùng.
Theo các cụ cao niên ở Đông Anh kể lại thì lễ hội nghè Sâm ở Đông Anh -
Đông Sơn là một lễ hội có quy mô rất lớn cả ba tổng, chín xã đền tham dự, cứ
3 năm mới tổ chức một lần và được kéo dài từ 5 đến 7 ngày. Các năm Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi mở hội vào tháng riêng ở nghè Sâm. Các năm Tí, Ngọ, Mão,
Dậu là tổ chức tập trò, thi trò, lựa chọn những trò hay, đặc sắc để diễn ở nghè
Sâm.
“Ba năm một khoá trò lề
Lấy chồng hàng Tổng thì về mà coi”
Lễ hội Đền Độc Cước được tổ chức vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Cứ 4
năm tổ chức lễ hội lớn cho cả 4 làng là làng Núi, làng Cá Lập, làng Lương
Trung, làng Hới. Vào các năm mở hội, tất cả các làng rước kiệu về làng tổ
chức đã được quy định: năm Tí tổ chức ở làng Núi, năm Ngọ ở làng Lương
Trung, măm Mão ở làng Cá Lập, năm Dậu ở làng Hới. Đây là Lễ hội trong kỳ
tế Cầu phúc, tổ chức vào tháng hai, kéo dài 3 ngày (từ ngày 12 đến hết ngày
14 tháng 2) [60, tr.176].
Lễ hội Đền Đún (Vĩnh Thành, Vĩnh Lộc) được tổ chức vào ngày kỵ Trần
Khát Chân từ ngày 23 đến hết ngày 25 tháng 4 hàng năm. Ngày 23 là ngày
yến tế, ngày 24 Đại tế diễn trò và ngày 25 tế nữ quan và diễn trò [61, tr.113].
Cũng có lễ hội không cố định cụ thể về thời gian. Làng Duy Tinh có lệ
trong vòng 14 ngày, từ ngày 1 đến 14 tháng 2 hàng năm, ngày nào là ngày
Đinh thì mở hội và chỉ tổ chức trong vòng một ngày [60, tr.204].
15
Lễ hội làng Duy Tinh có lệ rước thần Độc Cước, Đức Thánh Bà Hoàng
Cảm Linh Nhân và Đức Thánh Mẫu.
Như vậy, thời điểm mở hội được diễn ra hàng năm hoặc cách nhật 3, 4 năm
mới tổ chức một lần. Phần lớn các lễ hội được tổ chức trong dịp tế cầu phúc;
các lễ hội trong ngày Đản nhật, ngày Chính kỵ,… xuất hiện ít hơn.
1.2.4. Không gian tổ chức lễ hội:
Đình, đền, miếu là dấu tích vật chất của lễ hội, là cảnh quan trong không
gian văn hoá tâm linh có lịch sử lâu đời được gìn giữ từ đời này qua đời khác.
Đây là nơi linh thiêng mà cả làng phải tôn thờ, là nơi thần ngự và tiến hành
của lễ hội.
Thanh Hoá có nhiều đình, đền, miếu thờ các vị thần linh. Tuy nhiên, tổ
chức lễ hội nhiều hơn cả là ở đình và đền. Đền là nơi Thần ngự, còn đình là
nơi thờ vọng Thần. Đình làng thường có vị trí xa làng, là nơi thoáng mát, rộng
rãi để có thể vừa thờ cúng, tế lễ vừa là nơi hội họp và tổ chức lễ hội hàng
năm. Kiến trúc của đình thường được thiết kế theo hình chữ “Đinh”. Gian
trong là hậu cung là nơi linh thiêng nhất của đình, dành để thờ cúng. Trên ban
thờ đặt tượng, ngai có phủ tấm lụa màu đỏ hoặc vàng, có mũ và áo của thần,
có tráp hoặc hộp sơn son thiếp vàng đựng sắc phong Thành hoàng; trước hậu
cung có bày hương án, đồ bát bửu; gian ngoài là tiền tế (đình ngoài), là nơi
tiến hành các nghi lễ tế tự, dâng đồ cúng tế, hai bên tả hữu có bục để các vị
chức sắc trong làng hội họp. Đền cũng có kiến trúc gần như đình nhưng diện
tích nhỏ hơn.
Không gian tế (phần lễ) là ở trong hoặc trên sân đình, đền nhằm bày tỏ lòng
nhớ ơn tới công đức của các vị thần, bày tỏ tấm lòng thành kính và thể hiện
đạo nghĩa “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
16
Không gian hội (phần hội) ở ngoài sân đình, sân đền hoặc ở bãi đất rộng
(nền áng) của làng. Phần hội là để thoả mãn nhu cầu tâm lý giải trí, vui chơi
sau một năm lao động vất vả của cả cộng đồng làng.
1.3. Các dạng lễ hội
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng thờ thần linh, thờ các vị anh hùng có công
đánh đuổi giặc ngoại xâm trong qúa khứ hào hùng của dân tộc là mục đích
đầu tiên thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Sau đó là để
thỏa mãn nhu cầu giải trí, vui chơi sau một chu kỳ lao động vất vả.
Các vị anh hùng được nhân dân tôn thành các bậc Hiển thánh trải qua các
thời kỳ lịch sử được nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức tế lễ thờ cúng,
và đây cũng là không gian tổ chức lễ hội.
Bên cạnh quần thể đền thờ các vị anh hùng dân tộc, Thanh Hoá còn ghi
nhận các vị tướng là người ngoại bang, mà tiêu biểu là thờ cha con Lê Ngọc
(Thánh lưỡng ngũ vị) người Trung Quốc trong giai đoạn cuối thời nhà Tuỳ.
Đặc biệt là thờ Đức vua chàng út (con út của Lê Ngọc).
Mỗi lễ hội mang một đặc trưng riêng thể hiện phong tục, tập quán của mỗi
địa phương, phản ánh văn hoá tín ngưỡng vùng miền, tiêu biểu là ba vùng:
miền núi, miền quê và miền biển.
Đại diện cho lễ hội miền biển là các lễ hội làng Cự Nham, lễ hội làng Hải
Thanh…; thờ thần núi như lễ hội Thần Độc Cước,…; các lễ hội vùng quê có
thể kể dến là lễ hội nghè Sâm, lễ hội Cổ Bôn, lễ hội đền Mưng,… Xét về nội
dung, hình thức các lễ hội, có thể tạm chia thành hai nhóm chính là lễ hội tín
ngưỡng phong tục và lễ hội lịch sử.
1.3.1. Lễ hội tín ngưỡng phong tục:
Các lễ hội tín ngưỡng phong tục đọng lại rất nhiều những đặc điểm phồn
thực, thể hiện rõ nhất trong hội.
17
Tín ngưỡng phồn thực mong cầu sự sinh sôi nảy nở của con người có thể
gặp trong lễ hội làng Thiết Đanh (Yên Định), thể hiện trong nội dung kéo trò
Chụt vào lúc trời còn tối (sáng tinh mơ). Đây là một trò diễn thô phác, đơn
giản, diễn xướng mang tính tự do. Kéo trò Chụt hàng năm để mong cầu “giải
hạn” và thể hiện sự sống phát triển mãi không bao giờ dừng lại.
Tập trung hơn cả là những tư duy về cảm xúc đối với nghề nông ở xứ
Thanh, thể hiện qua tín ngưỡng phồn thực, đó là mong cầu cho sự sinh sôi nảy
nở của cây trồng, mùa màng tươi tốt,… có thể cho rằng đó là văn hóa nông
nghiệp của cư dân người Việt cổ trong thời đại Đông Sơn… Do vậy, tín
ngưỡng nông nghiệp là đặc điểm chung trong các lễ hội của người Việt xứ
Thanh. Tuy nhiên, tín ngưỡng nông nghiệp không đứng riêng lẻ mà kết hợp
với các tín ngưỡng khác tạo nên màu sắc đa dạng cho lễ hội. Tiêu biểu cho sự
kết hợp đó là tín ngưỡng nông nghiệp kết hợp với tín ngưỡng núi; kết hợp với
tín ngưỡng sông, biển; kết hợp với văn hoá nho giáo;… tất cả lại được kết hợp
với tín ngưỡng thần linh tạo nên sự phong phú, đa dạng.
Các lễ hội vùng quê tập trung nhất, tiêu biểu nhất là ở các nơi thờ Thánh
ngưỡng ngũ vị (thờ cha con Lê Ngọc), trải dài từ phía Nam - Đông Sơn đến
phía Bắc - Nông Cống. Nơi thờ chính là Đền Sâm (Đông Anh, Đông Sơn);
các nơi khác như ở Đền Sòng và các miếu nhỏ ở Thọ Xuân; Như Xuân; Tĩnh
Gia. Và Nông Cống là nơi Chàng út Đại vương “hoá” đã được nhân dân lập
nhiều Đền thờ như: Đền Mối, Đền Ối, Đền Mưng (thờ Thánh Lưỡng Tham
Xung Tá quốc), thờ Vua Bà Tam Giang ở Ngã Ba Vua Bà (xã Trung Thành,
huyện Nông Cống);…
Dân Thanh Hoá xưa còn truyền tụng Thánh Lưỡng có “Cửu thập lục từ”,
nghĩa là có 96 đền thờ ông. Đây là hiện tượng thờ Hạt máu rơi khá phổ biến ở
Thanh Hoá [60, tr.379].
18
Các đền thờ Đức Thánh Lưỡng trải dài từ Vĩnh Lộc, Hà Trung, Thiệu
Yên,… đậm đặc nhất là ở Đông Sơn, Triệu Sơn, Nông Cống.
Cha con Lê Ngọc là người Trung Quốc nhưng đã hoà nhập được với đời
sống cộng đồng người Việt, cụ thể là người Thanh Hoá. Do vậy, nhân dân
Thanh Hoá tỏ lòng biết ơn tới công đức của họ. Việc tổ chức thờ cúng họ đã
thể hiện sự kính trọng, ngưỡng mộ của người dân Thanh Hoá.
Các vị Thành hoàng có công âm phù báo mộng giúp vua dẹp giặc cũng là
hiện tượng phổ biến trong các lễ hội vùng quê, tiêu biểu như: Làng Cổ Bôn,
Đông Thanh, Đông Sơn có Thành hoàng làng Ngọc Tích (Đế Thích), hiệu là
Đức Thánh Cả báo mộng giúp vua nhà Trần thắng giặc Nguyên - Mông, dẫn
đường cho Lê Lợi tiến quân tiêu diệt giặc Minh; Thành hoàng làng Phúc
Triền là Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi, là một nho thần thời Lê
Trung Hưng, được phong Phúc thần; Thành Hoàng làng Kim Bôi là Đặng
quận công Nguyễn Khải, con trai của tướng công Nguyễn Văn Nghi - Hặch
Bạch Đại Vương;…
Bên cạnh các lễ hội vùng quê, các lễ hội đại diện cho tín ngưỡng sông,
biển, núi cũng là hiện tượng đặc trưng ở Thanh Hoá.
Các lễ hội vùng sông, biển, cửa lạch có tục thờ Tứ vị Hồng nương và thờ
thần Núi (Độc Cước, Cao Sơn) là hai hiện tượng tiêu biểu cho tín ngưỡng
sông, biển và tín ngưỡng núi thể hiện văn hoá tâm linh của người dân vùng
này.
Thờ Tứ vị Hồng nương tập trung ở cửa biển lớn, dọc các làng ven biển. ở
Quảng Xương có 13 nơi thờ, tiêu biểu là làng Cự Nham - nằm ở cực Đông
Nam huyện Quảng Xương. Phía Bắc của làng có cửa sông Lạch Ghép là đoạn
sông nối từ biển lên đến Phà Ghép. Trong lễ hội có tục múc nước và cát giữa
sông để thờ, tổ chức bơi thuyền trong lễ hội,... Lễ hội làng Cự Nham đại diện
cho lễ hội cửa lạch, nằm trong văn hoá cửa lạch; làng chài ở xã Hải Thanh,
19
huyện Tĩnh gia là một làng chuyên nghề đánh bắt cá biển, có cửa lạch lớn, tàu
thuyền hàng ngày ra vào tấp nập. Đền thờ Tứ vị Hồng nương ở một vị trí trên
gò đất cao nằm sát ven biển, hướng đền quay ra biển lớn, ngày ngày tàu bè
tấp nập ra vào nơi cửa lạch đều cầu mong và tạ ơn Thần đã phù hộ độ trì cho
đoàn thuyền đánh cá được thuận buồm xuôi gió. Đây cũng là mảnh đất sinh ra
thể loại hát Khúc (khúc hát ru), hát Nhật trình, hò Hái củi, hát Trống vả.
Thờ thần sông - thần biển, cửa lạch để công cầu thần phù hộ được thuận
buồm xuôi gió, đời sống yên lành,… tỏ rõ tâm linh người dân vùng sông nước
Thanh Hoá.
Đại diện cho tín ngưỡng núi là Thần Độc Cước được thờ ở Hòn Cổ Giải,
nằm ở mỏm núi Trường Lệ, Sầm Sơn. Là một vị thần trị tà ma quỷ quái bằng
cách xẻ thân mình thành hai nửa, mỗi nửa đứng một chân. Một nửa trên cạn
để trừ tà ma trên đất liền, một nửa ở dưới biển trừ bọn quỷ dữ ở biển Đông,
đem lại cho dân làng cuộc sống ấm no, yên bình. Dấu vết của tín ngưỡng núi
rừng được biểu hiện qua Tục lệ thờ thủ trâu sống trong ngày hội rước kiệu.
Thờ thần núi còn gặp ở nhiều nơi khác như thờ Thành hoàng Cao Sơn Độc
Cước ở Làng Duy Tinh, Văn Lộc, Hậu Lộc; thờ Cao Sơn Đại Vương ở làng
Vạc, Thiệu Đô, Thiệu Hoá;…
Nhìn chung lễ hội tín ngưỡng nông nghiệp thể hiện rất rõ bản sắc địa
phương. Bên cạnh phần lễ rất uy nghi, nghiêm chỉnh là phần hội với những
trò diễn, diễn xướng, những làn điệu dân ca ghi lại nhiều dấu ấn độc đáo của
nền văn hóa, văn minh nông nghiệp xứ Thanh.
1.3.2. Lễ hội lịch sử:
Lễ hội lịch sử được hình thành trên một sự kiện lịch sử diễn ra tại địa
phương, trong các sự kiện đó nổi bật lên một số nhân vật điển hình có ảnh
hưởng lớn đến cả cộng đồng, đó là những người anh hùng có công đánh giặc
ngoại xâm trong quá khứ hào hùng trên đất Thanh Hoá. Các lễ hội lịch sử
20
được tổ chức để tưởng niệm đến những con người có thực, tiêu biểu cho cả
quá trình chiến đấu và xây dựng của cả cộng đồng để hình thành nên cuộc
sống tốt đẹp hơn ngay trên quê hương của mình. Đại diện cho lễ hội lịch sử là
lễ hội làng Xuân Phả, lễ hội Bà Triệu, lễ hội Đền Đún, lễ hội Trần Khát
Chân,…
Lễ hội bà Triệu - làng Phú Điền, Triệu Lộc, Hậu Lộc là lễ hội được hình
thành trên một sự kiện lịch sử thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa
thống trị lần thứ hai, làm sống lại tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất
khuất và tài năng xuất chúng của bà Triệu. Trong lễ hội có trò Ngô Triệu giao
quân diễn tả lại cuộc đánh nhau giữa hai bên, bên nào thắng là quân Bà Triệu,
bên thua sẽ là quân Ngô. Đạo cụ diễn trò là gậy, gộc,… khi có hiệu lệnh cả
hai bên lao vào đánh nhau, thậm chí có người còn bị chảy máu,… nhưng tất
cả đều vui vẻ, hả hê, không trách cứ người đánh vào mình. Diễn tả lại cảnh Bà
Triệu đánh nhau với quân Ngô để ôn lại quá khứ hào hùng của Bà Triệu, tinh
thần yêu nước và ý chí quật cường của bà sống mãi trong lòng nhân dân
Thanh Hoá.
Lễ hội Đền Thánh Tến gắn với sự kiện Lê Phụng Hiểu thời Lý Thái Tổ có
công bảo vệ ngai vàng cho thái tử Phật Mã (sau đó lên ngôi là vua Lý Thái
Tông), dẹp được “Loạn tam vương” tranh giành ngôi vua, có công đánh thắng
quân Chiêm Thành ở phía Nam,… Lễ hội Đền Thánh Tến được tổ chức kéo
dài từ tháng 11 đến hết tháng 2, trong đó ngày 8 tháng 2 mới là ngày Đại tế, là
ngày vui nhất, nô nức nhất của dân làng. Trong Tế Thánh có hát múa Chèo
chải để chầu Thánh. Không gian diễn Chèo chải là sân Đền vừa để cho Thánh
ngự lãm vừa để cho dân làng được xem.
Lễ hội đền Đún thờ Thánh lưỡng Trần Khát Chân gắn với sự kiện chiến
thắng Chế Bồng Nga (vua Chiêm Thành) trên sông Hoàng Giang, ca ngợi sự
anh dũng hy sinh của ông khi bị Hồ Quý Ly giết chết,... Trong ba ngày lễ hội
21
đều hát Ca công để thờ Thánh và diễn xướng Chèo Chải với những chi tiết
múa hát xếp thành hai chữ “cầu phúc”, nội cung chủ yếu ca ngợi công tích
của Trần Khát Chân.
Lễ hội làng Xuân Phả gắn với sự kiện khởi nghĩa Lam Sơn. Hệ thống trò
diễn Xuân phả mang khí thế Đại Việt thế kỷ XV sau thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Trò Xuân Phả là một minh chứng của một chặng đường phát
triển từ dân gian bước vào cung đình và từ cung đình lại trở về dân gian để
tồn tại. Lễ hội Xuân Phả có thể xếp vào lễ hội lịch sử vì đây chính là những
mảnh vụn của điệu múa chư hầu lai triều được sáng tác thời vua Lê Thái
Tông - một tác phẩm nghệ thuật cung đình đầu tiên của nước ta như nhiều nhà
nghiên cứu đã khẳng định.
1.4. Tiến trình Lễ hội
1.4.1. Chuẩn bị cỗ bàn
Chuẩn bị cỗ là một vấn đề rất quan trọng cho lễ hội. Ở các làng xã nói
chung thường chuẩn bị hai loại cỗ là cỗ chính và cỗ chay. Tuy nhiên, một số
nơi còn phải chuẩn bị những vật phẩm riêng theo phong tục của làng. Tất cả
những vật phẩm làm cỗ là đặc sản của quê hương, do chính dân làng tự làm
để dâng Thần.
Cỗ chính là loại cỗ mặn, thường gồm xôi, gà, thủ lợn, trầu, rượu, vàng,
hương,… Cư dân vùng biển còn chuẩn bị cá sống, hoặc cá nướng, có nơi còn
làm thuyền bằng giấy để dâng Thần trong những dịp này.
Cỗ chay là các loại hoa quả, các loại bánh làm bằng bột gạo hoặc bột mỳ -
loại bột ngon nhất do chính dân làng làm nên.
Sau khi tế thần, chủ tế thụ lộc đem chia cho dân làng hoặc sau đó tập trung
ở một nơi rộng rãi để cùng ăn uống, nói chuyện hàn huyên. Họ quan niệm
rằng “một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần” nên ai cũng muốn có mặt
ở đó để được hưởng chút lộc của Thần.
22
1.4.2. Trang phục:
- Trang phục tế
Trang phục của đội tế thường là áo thụng dài màu xanh hoặc đỏ, đầu đội, đi
giày vải. Riêng chủ tế áo có thêu rồng, đi giày mũi cong, đầu đội mũ võ; hai
bồi tế mặc áo không thêu rồng, đội mũ quan văn; chấp sự mặc áo thụng đen,
đầu đồi mũ tế, chân không đi giày. Nếu là tế Nữ quan mặc áo dài trắng hoặc
đỏ, quần trắng quấn khăn vành rây trên đầu.
- Trang phục hội
+ Đồng phục:
Xưa kia, đến với hội ai cũng muốn mình đẹp hơn những ngày bình thường,
người ta thường lựa chọn những bộ quần áo đẹp nhất của mình để tham gia
hát Ghẹo giao lưu với nhau. Tuy nhiên, khi đã có tổ chức, có những hình thức
sinh hoạt văn nghệ mang tính quy mô, có sự lựa chọn về diễn viên thì trang
phục đã trở thành một quy định được chuẩn bị trước nhiều ngày.
Trang phục giống nhau đồng bộ cho tất cả diễn viên bao giờ cũng ở những
tiết mục, những thể loại hát mang tính tập thể, diễn xướng đồng bộ như: múa
đèn; chèo chải;…
Trang phục loại này có xu hướng phát triển theo phong cách ăn mặc của
nhân dân Việt Nam nói chung: từ váy đen (kiểu váy đụp), áo yếm đến áo “mớ
ba mớ bảy”, rồi quần lụa, áo xẻ tà (kiểu áo bà ba). Cho dù thay đổi thế nào thì
khi hát tập thể người ta cũng mặc trang phục đồng đều cho cả đội.
+ Trang phục theo nhân vật:
Nói đến nhân vật là nói đến trò diễn. Nói cách khác là có trò diễn mới có
nhân vật. Mỗi trò diễn có một cốt truyện với những nhân vật khác nhau, do đó
hóa trang không chỉ trên khuôn mặt mà còn phải có trang phục phù hợp với
nhân vật đó.
23
Ta thử hình dung, có bao nhiêu nhât vật trong hệ thống trò diễn ở Thanh
Hóa, sẽ có bấy nhiêu trang phục khác nhau. Tuy nhiên, có thể quy tụ lại thành
các nhóm như sau:
Nhóm trang phục dành cho quần chúng nhân dân:
Nhân dân với nhiều thân phận khác nhau, có thể đoán định họ qua trang
phục và hóa trang như: mẹ Mõ ăn mặc theo kiểu quần áo xưa (váy đụp, áo xẻ
tà hoặc quần áo mớ ba mớ bảy), trang điểm xấu xí, mặt bị rỗ; cu Sứt ăn mặc
luộm thuộm, môi bị sứt; nông dân mặc quần áo màu nâu, buộc dây vải trên
đầu như người nông dân bình thường; thầy địa lý mặc áo dài đen, đội mũ xếp
đen, tay cầm la bàn; anh đánh bạc quần áo xộc xệch, tay xóc đĩa;…
Nhóm trang phục dành cho những nhân vật quyền thế:
Những nhân vật quan võ của Việt Nam thường mặc quần trắng, áo dài đỏ
có thắt dây đai, hông đeo kiếm, đầu đội mũ xếp vàng hoặc mũ thêu rồng, đi
giày mũi cong (nhân vật Lưu Quân Bình); mặc quần áo màu xanh hoặc vàng,
có thêu hoa văn sặc sỡ (nhân vật Nữ quan - trò Nữ Quan).
Nhóm trang phục dành cho những nhân vật hư cấu:
Trong trò Tiên Cuội, nhân vật Tiên là người trên trời, do đó trang phục đã
có sự cách điệu cho khác với người phàm trần. Tiên mặc áo dài năm thân màu
đỏ, quần trắng, đầu đội khăn Hàn ba tầng với ba màu sắc khác nhau (Trắng,
vàng, xanh); đỉnh đầu đội mũ Cánh Tiên hình lưỡng long chầu nguyệt.
Nhóm trang phục dành cho những nhân vật ngoại bang:
Nhân vật là người ngoại bang trong các trò diễn không chỉ mặc quần áo cho
giống người nước đó, mà còn phải chuẩn bị cả những dụng cụ có liên quan.
Nhân vật chú khách, Ngô già (trò Ngô - Đông Anh) được mặc trang phục
giống như những người Tàu, quần rộng, áo thụng lửng dài, đội mũ rộng vành,
hàm răng cũng được “chỉnh sửa” bằng cách lấy cây dứa gai (loại dứa trồng
làm hàng rào) bóc lấy phần cuống lá có màu trắng, bẻ một đoạn dài bằng hàm
24
răng rồi nhét vào hàm răng trên. Ngày xưa người dân Việt Nam nhuộm răng
màu đen nên phải hóa trang cho giống Tàu có răng trắng, khi hóa trang như
vậy, các nhân vật người Tàu vừa có giọng nói lơ lớ giống người Tàu nói tiếng
Việt, vừa có hàm răng trắng và “hô” (những người có hàm răng trên chìa ra
ngoài) rất hài hước.
Nhân vật Chúa (trò Ai Lao, Chiêm Thành, Loa Lang,…) mặc áo thụng màu
đỏ hoặc xanh lam, nẹp màu hoặc không có nẹp, ngực áo có mặt nguyệt và đôi
rồng chầu. Quần dài trắng, thắt lưng bằng lụa màu đỏ hoặc không có thắt
lưng, đội mũ cách chuồn, trước mũ có hoa văn mặt nguyệt, đi giày mũi cong.
1.4.3. Nhạc cụ, đạo cụ
Nhạc cụ và đạo cụ cũng là một trong những khâu chuẩn bị quan trọng,
được trang bị gắn với từng tiết mục từ giai đoạn luyện tập.
Nhạc cụ của người Việt xứ Thanh đề cao vai trò của bộ gõ, đặc biệt là
trống phách, ít sử dụng nhạc cụ dây và hơi.
Dàn nhạc tế tuy có đầy đủ cả 4 nhóm: dây, hơi, màng rung và tự thân vang
(mục 3.1.1.2) nhưng vai trò đi bè dẫn chủ yếu do nhóm màng rung đảm nhiệm
còn nhóm tự thân vang có vai trò giữ nhịp phách và tạo tiết tấu so le với bè
dẫn.
Nhạc cụ đệm cho hát thường sử dụng trống bản và mõ. Trống bản đánh tiết
tấu đệm phụ họa với những tiết tấu đặc trưng phù hợp với tính chất của bài
hát, còn mõ giữ nhịp đều đặn. Trong diễn trò, trống bản và mõ còn đảm
nhiệm việc đánh tiết tấu phần mở đầu, kết thúc, hoặc đánh điểm khi nhân vật
đối thoại. Sau này một số nơi còn dùng đàn nhị đệm hát bằng cách đi cùng
giai điệu với giai điệu của bài hát.
Đạo cụ dùng trong trò diễn, diễn xướng rất đa dạng, từ những đồ vật dùng
trong đời sống đến những đạo cụ chế tác riêng cho từng nhân vật. Có thể quy
tụ thành hai nhóm:
25
Nhóm đạo cụ đồng bộ: Dành cho những tiết mục biểu diễn tập thể bao gồm
mái chèo, quạt giấy (chèo chải); cờ nhỏ (chèo chải, Tiên Cuội); mặt nạ, xênh
(Xuân Phả); đĩa đèn (Múa đèn).
Nhóm đạo cụ cho nhân vật: Đạo cụ dành cho nhân vật nhằm mục đích phản
ánh rõ tính cách, công việc, bản chất của nhân vật đó. Do vậy, nhóm đạo cụ
này rất đa dạng, thậm chí có những nhân vật còn mang nhiều đạo cụ khác
nhau để trình diễn. Đạo cụ dạng này là những vật dụng trong đời sống, bao
gồm: hương, bát nhang (trò Thiếp, Kỳ phúc,…); mõ (Tiên Cuội); ô đen, quạt
giấy (trò Ngô);… và cả những đạo cụ tự chế như trong trò Ngô ở Đông Anh
có một thứ đồ chơi gọi là “cái xiềng cái xò” được làm bằng một ống nứa
khoét ở giữa, bên trong có một “con sâu” nhiều màu sắc có thể bật thành
nhiều vòng rất đẹp mắt. Ngô già dùng đồ chơi này để làm trò, nhằm gây chú
ý, thu hút sự tập trung của dân làng.
1.4.4. Nghi thức tế lễ
Phần lễ của lễ hội quan trọng nhất là nghi thức tế lễ, tế được quy định chặt
chẽ, đòi hỏi sự chuẩn bị công phu và trang nghiêm. Những người thực hiện tế
là Chủ tế, hai Bồi tế, Đông xướng, Tây xướng và các Chấp sự.
Mỗi vị thần linh có một tư chất, một phong thái riêng,… do đó mỗi nghi
thức tế có một đặc điểm riêng phù hợp với từng vị thần linh. Tuy nhiên, trong
một lễ hội bao giờ cũng phải có đầy đủ ba nghi thức: rước kiệu, tế lễ và sinh
hoạt văn hóa theo phong tục.
1.4.4.1. Rước kiệu
Trong lễ hội không thể thiếu phần rước kiệu. Khi rước kiệu là đã phô
trương danh thế của Thần, tạo ra không khí sôi động tưng bừng, thu hút mọi
người hướng về cội nguồn. Nhìn chung, các hình thức rước kiệu tương đối
đồng nhất. Rước Thánh thẻ, bài vị hoặc rước cỗ,.. từ các làng đến trung tâm
của lễ hội ở Đền, Đình, Nghè,… Một số tục lệ có hình thức khác như tục rước
26
Thánh thẻ thánh Tham xung tá quốc xuống thuyền chính ngự, chèo thuyền
đến đền Tam Giang để thăm Vua Bà trong Hội chèo rước tháng ba ở lễ hội
Đền Mưng,...
Hình thức rước kiệu do 4, 6 hoặc 8 thanh niên khỏe mạnh do các giáp
(thôn) cắt cử, khiêng kiệu đặt trên vai. Đi phía trước là dàn nhạc tế, trống
phách cờ quạt linh đình sau đó mới đến đội khiêng kiệu. Một số nơi còn có
người điều khiển bằng cách dùng một cái trống hiệu, còn gọi là trống “thủ cổ”
để điều khiển nhanh, chậm hay hạ kiệu; Đi cuối cùng là dân làng và khách đi
lễ.
1.4.4.2. Tế lễ
Các chức danh vào hành lễ:
Các chức danh cho một cuộc tế Thành Hoàng đã được quy định từ thời xa
xưa, hàng năm trước dịp lễ hội đều lựa chọn lại Ban hành lễ mới. Qua khảo
sát, những lễ hội ở Thanh Hóa còn duy trì được cho đến ngày nay vẫn luôn
tuân thủ theo những quy định đó.
Những người được chọn vào Ban hành lễ phải được lựa chọn kỹ, bản thân
phải là người chỉnh tề mẫu mực, gia đình phải đàng hoàng, không có con cái
hư hỏng, không có tang gia,… nhìn chung là phải “sạch sẽ” từ trong ra ngoài.
Đặc biệt chủ tế phải là người có uy tín nhất làng, được dân làng trọng vọng,
có địa vị trong xã hội. Thực tế có những người đã được chọn vào Ban hành lễ
trong nhiều năm liên tục, đó là một vinh dự lớn đối với họ và cả gia đình.
Đông xướng và tây xướng là những người điều khiển hành lễ, trong đó
đông xướng được điều hành chính từ đầu cho đến khi kết thúc cuộc tế.
Phục vụ tế có số lượng khác nhau tùy theo mỗi làng, được bố trí làm các
việc liên quan đến nghi lễ như: dẫn chủ tế, thắp hương, cắm hương, bê rượu,
chuyển rượu, đốt văn… khi chủ tế hành lễ.
Ngoài ra, còn có người dẫn chúc và đọc chúc thực hiện nghi lễ đọc chúc.
27
Nhìn chung, ban hành lễ tương đối đồng nhất về những chức danh chính:
người đại diện cho dân tế thần là chủ tế, người điều hành cuộc tế là đông
xướng, tây xướng. Các chức danh khác có sự bố trí, sắp xếp khác nhau tùy
thuộc vào phong tục tập quán ở mỗi nơi, sự sắp xếp đó còn mang ý nghĩa phù
hợp với phong thái mỗi vị thần.
Trình tự tiến hành lễ
Trình tự tiến hành lễ tại các đình, đền của người Việt xứ Thanh về nghi
thức, thủ tục tương đối giống nhau, chỉ khác đôi chút trong điều khiển cuộc tế.
Nhiều nhất, đầy đủ nhất là đình Hoằng Quý, gồm 61 nghi thức (tương ứng với
61 lần xướng lễ). Ít nhất là những đình, đền có trên 40 nghi thức như đền Chu
Nguyên Lương có 47 nghi thức (tương ứng với 47 lần xướng lễ) [phụ lục 1,
tr.136]. Cho dù có sự chênh lệnh về số lượng nhưng cuộc tế nào cũng đầy đủ
ba giai đoạn, từ khâu chuẩn bị, đến nghi lễ chính thức và kết thúc cuộc tế.
Trình tự tiến hành lễ do người đông xướng điều khiển chính.
- Giai đoạn thứ nhất: chuẩn bị
Đây là giai đoạn kiểm tra toàn bộ trước khi vào tế chính thức, mang ý nghĩa
thông báo để tất cả phải chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng hành lễ. Giai đoạn này bao
giờ cũng bắt đầu ở nghi thức khởi chinh cổ nhằm mang ý nghĩa thông báo
cuộc tế bắt đầu. Chấm dứt câu xướng là ba hồi trống, hoặc ba hồi chiêng
trống. Nhạc xanh tựu liệt hay nhạc tác luôn được khởi động sau khi chiêng
trống khởi động, nhằm nhắc nhở dàn nhạc nghiêm túc, chuẩn bị. Do vậy, bài
“nhạc tác” hầu như đều có ở các dàn trống tế Thanh Hóa, tuy nhiên ở mỗi nơi
có một cách diễn tấu, phối hợp khác nhau. Giai đoạn này không thể không
nhắc nhở tất cả mọi người nghiêm túc, nghi thức sơ nghiêm, tái nghiêm, tam
nghiêm cũng rất quan trọng, được xếp sau nghi thức nhạc tác. Ở nghi thức
này có thể đánh điểm vào tang trống, điểm vào mặt trống, hoặc đánh một
quận trống nào đó theo truyền thống của từng dàn nhạc. Dàn nhạc tế ở Hoằng
28
Quý phân biệt ba lần nghiêm bằng cách đánh một hồi vào tang trống (sơ
nghiêm); bài tấu trống bong (tái nghiêm); bài trống tán bình thân (tam
nghiêm). Củ soát tế vật là nghi thức kiểm tra lễ vật hương, hoa, đèn, rượu,…
của ban hành lễ. Có những cuộc tế còn có nghi thức rửa tay (quán thủ), lau
tay (phế căn),…
- Giai đoạn thứ hai: hành lễ
Những nghi thức chính ở giai đoạn này gồm: thượng hương (người hành lễ
vào bưng lư hương cho chủ tế); nghinh lễ cúc cung bái (chủ tế bái 4 bái), ti
tôn giả cử mịch (mở nắp rượu); chước tửu (chủ tế rót rượu); Sơ hiến lễ nghệ
tôn thần vị tiền (đưa rượu vào); hiến tước (dâng rượu cho thần); tiến tước (dẫn
rượu vào cung); độc chúc (đọc chúc văn);… Trong các nghi thức thức trên,
nghi thức dâng rượu tế thần được thực hiện 3 lần (chước tửu). Các quận trống
phục vụ cho nghi thức này thường có tốc độ chậm dãi, nhịp nhàng, khoan
thai, khi chấp lễ chủ tế phải nghe tiếng nhạc để bước đi một cách nghiêm
trang, thành kính. Một số quận trống phục vụ cho nghi thức này có thể kể đến
như trống nhịp lỏi (đình Phượng Mao); trống tán (đình Đông Cao); trống
rước (đền Chu Nguyên Lương);… Âm nhạc phục vụ các nghi thức còn lại
thường có tốc độ nhanh, tính chất sôi nổi, náo nhiệt hơn.
- Giai đoạn thứ ba: kết thúc cuộc tế
Sau khi xong phần tế, thần linh ban lộc cho chủ tế (ẩm phước), chủ tế phải
lên chiếu giữa thụ phước, hưởng lộc thánh ban. Nghi thức bình thân phần
chúc có nghĩa đỡ văn tế xuống để hóa (đốt). Nghi thức này có thể điểm trống,
hoặc đánh một quận trống. Đền Lạch Bạng điểm trống cái, đình Hoằng
Phượng dùng trống nhịp lỏi, đình Hoằng Quí dùng trống tán bình thân…. Tạ
lễ cúc cung bái được lặp lại ở giai đoạn này. Kết thúc buổi tế là lễ tất, thường
đánh một hồi trống dài.
29
Trong tế lễ, âm nhạc luôn là một phần không thể tách rời. Với vai trò quan
trọng của mình, nó gắn bó chặt chẽ, hòa quện với từng nghi thức tế tạo nên
không khí trang nghiêm, bề thế cho toàn bộ cuộc tế. Thực tế, mỗi nơi có một
cách sử dụng riêng. Có nơi chỉ sử dụng vài quận trống cho nhiều nghi thức,
cũng có nơi mỗi nghi thức có một bài trống riêng. Đây cũng là một trong
những đặc điểm được lưu lại cho đến ngày nay, câu nói truyền miệng dân
gian: “Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ” cũng đã
phản ánh lên điều đó.
1.4.4.3. Sinh hoạt văn hóa phong tục
Hội mang ý nghĩa là nơi tổ chức sinh hoạt văn hóa phong tục, có nhiều trò
chơi dân gian nêu cao tinh thần thượng võ của dân tộc: hội vật; hội đua
thuyền;… Các trò chơi giải trí như: đánh đu; đánh cờ người; đánh bài điếm;
chọi gà;…; các loại hình văn hóa nghệ thuật được trình diễn, giao lưu, thi thố.
Vị trí địa lý, lịch sử Thanh Hóa như một vùng độc lập về mọi mặt, là gạch
nối giữa đàng trong và đàng ngoài nên dễ tiếp nhận các dòng văn hóa khác,
đồng thời có tính sắc tố độc lập cao. Đặc điểm vị trí địa lý Thanh Hóa khá
thuận lợi để tụ hội được nhiều các thể loại dân ca, trong đó có hệ thống dân ca
có nguồn gốc từ vùng châu thổ sông Hồng như: Trống quân, Cò lả, Sa mạc,
Bồng mạc, hát Ru,… Các hình thức hát có ảnh hưởng chất liệu dân ca miền
trung như Hò Ghẹo, Hát Khúc Tĩnh Gia (vùng giáp danh với tỉnh Nghệ An).
Bên cạnh đó, Thanh Hóa cũng có những làn điệu dân ca mang phong cách
riêng của quê hương mình. Đó là hệ thống những làn điệu hát Ghẹo ở mỗi địa
phương, đặc biệt là các trò diễn dân gian có nguồn gốc gắn với các vị Nhân
thần trong lịch sử,… Đây là những hình thức sinh hoạt truyền thống, tồn tại
trong dân gian, là một trong những sinh hoạt văn hoá quan trọng trong những
dịp lễ hội dân gian - tồn tại trong phần hội của lễ hội; là một trong những cách
30
mà dân gian sử dụng để thoả mãn đời sống văn hoá của mình, gắn liền với tín
ngưỡng thần linh.
Trong nhiều trường hợp lễ và hội của người Việt xứ Thanh có sự gắn kết
khăng khít với nhau, nói cách khác giữa phần lễ và phần hội không có sự tách
biệt rõ ràng. Lễ hội Xuân Phả, đền Mưng, làng Triềng, Nghè Sâm,… sau khi
thực hiện nghi thức tế là tổ chức kéo trò ngay. Đó là những trò diễn, diễn
xướng gắn với lễ nghi nông lâm nghiệp hoặc gắn với những sự kiện lịch sử
của người dân Thanh Hóa.
Múa đèn - một hình thức diễn xướng mô tả nông nghiệp, gắn với tín
ngưỡng thờ Thần. Múa đèn phổ biến khắp các làng quê Thanh Hóa.
Chèo chải để thờ Thần có ý nghĩa đặc trưng cho một vùng miền có môi
trường sông biển, kênh rạch. Múa hát Chèo chải với mục đích cầu mong mưa
thuận gió hòa, ca ngợi công đức Thành hoàng, ca ngợi cảnh đẹp quê hương,…
Trò Xuân Phả - một minh chứng về sự kiện lịch sử thời Lê, mang đậm dấu
ấn cung đình. Qua hệ thống trò Xuân Phả có thể thấy một thời kỳ hưng thịnh
của nhà Lê. Trò Hoa Lang (Hà Lan) diễn tả người Hoa Lang sang cống tiến
vua Lê; Trò Tú Huần mô phỏng hình dáng của một tộc người ở tận hải đảo xa
xôi; Trò Ai Lao, trò Ngô cũng mang sắc phục của những nước này sang cống
tiến vua Đại Việt. Dấu vết trò Xuân Phả còn tìm thấy ở một số nơi khác như
trò Tú Huần còn có ở Quảng Xương, Hoằng Hóa, Đông Sơn. Trò Hoa Lang,
Ai Lao, Chiêm Thành, Ngô,… có trong danh mục trò Rủn, trò làng Cổ Bôn ở
Đông Sơn,...
Ngoài những trò diễn trên, còn có những trò diễn phản ánh phong tục Việt
Nam. Trò Thiếp, trò Kỳ Phúc,… miêu tả lại tục đánh đồng, cầu cúng, bắt quẻ,
xin thẻ,… Cách thức tổ chức trò này có tính chất lễ nghi, tôn giáo, liên quan
đến đời sống tâm linh của quần chúng nhân dân.
31
Tiểu kết chương 1
Lễ hội dân gian, tự thân tên gọi, đã chỉ ra rằng bao gồm phần lễ và phần
hội; phần lễ là để cho người dân bày tỏ lòng thành kính của mình với những
thần thánh, tổ tông…; phần hội với đa dạng các loại hình nghệ thuật, các hình
thức vui chơi nhằm ôn lại quá khứ hào hùng của dân tộc, đồng thời để thỏa
mãn nhu giải trí, thưởng thức sau một năm lao động vất vả của người dân
nông thôn. Đây là một trong những cách mà dân gian sử dụng để thoả mãn
đời sống văn hoá của mình, gắn liền với tín ngưỡng thần linh.
Tổ chức lễ hội nhằm ôn lại quá khứ hào hùng của các vị anh hùng được
nhân dân tôn thành các vị thần linh. Do vậy, lễ hội mang đậm màu sắc tín
ngưỡng rõ nét, là dịp dân làng bày tỏ lòng thành kính bằng các hình thức cúng
tế, dâng lễ vật,… Ở xứ Thanh, lễ hội tập trung nhất các vùng miền quê, miền
biển và miền núi. Trong đó, tập trung hơn cả là những lễ hội gắn liền với
truyền thuyết về các vị Nhân thần, các nhân vật lịch sử có công giúp dân bảo
vệ đất đai, đánh đuổi giặc ngoại xâm trong quá khứ hào hùng của dân tộc.
Lê hội xứ Thanh có đặc điểm chung với các lễ hội ở vùng miền khác về
mặt tổ chức, về nghi thức tế lễ và rước kiệu. Từng là kinh đô của nước Đại
Việt, trải qua nhiều triều đại phong kiến, nổi tiếng là vùng đất hào khí anh
hùng, điều đó đã tạo cho xứ Thanh có hệ thống lễ hội lịch sử và hệ thống trò
diễn nổi trội.
Nghiên cứu, tìm hiểu lễ hội xứ Thanh cũng như việc tìm hiểu và phân tích
các thể loại âm nhạc trong lễ hội là một việc làm cần thiết, có giá trị bảo tồn
và phát huy trong đời sống.
32
CHƯƠNG 2
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG XỨ THANH MANG DẤU ẤN VÙNG MIỀN
2.1. Các loại hình nghệ thuật có âm nhạc trong lễ hội
Có thể cho rằng lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh là nơi tụ hội
đầy đủ các loại hình nghệ thuật người Việt xứ Thanh, đặc biệt là các loại hình
nghệ thuật có âm nhạc. Lễ hội là nơi sinh hoạt Văn hoá tín ngưỡng, phản ánh
đậm đặc sắc thái địa phương, do đó, các loại hình nghệ thuật âm nhạc trong
sinh hoạt đời thường đều được dân làng chuẩn bị mang tới để trình diễn, giao
lưu, thi thố,… trong hội của lễ hội.
Do thời gian, do thăng trầm của lịch sử đã làm mai một đi rất nhiều di sản
văn hoá phi vật thể quý giá. Việc xác định nguồn gốc, xuất xứ của các loại
hình âm nhạc trong lễ hội là một điều rất khó bởi thời gian và những yếu tố
tác động khác nhau, hơn nữa lễ hội truyền thống có thời gian bị gián đoạn
không thường xuyên được tổ chức, thậm chí chỉ còn tồn tại trong ký ức của
các bậc cao niên, có những loại hình chỉ còn được nhắc tới trong một số ít tư
liệu mà các nhà nghiên cứu trước đây khảo sát. Ngay như như thời Lê Nhân
Tông, nghe theo lời đài quan Đồng Hanh Phát và và thái úy Khả, nhà vua đã
cấm một số hình thức hát bị cho là không “nghiêm túc”, trong đó có tục hát rí
ren ở Thanh Hoá [90, tr.30].
2.1.1. Dân nhạc
Người Việt xứ Thanh không có những nhạc cụ chơi độc lập như các tộc
người thiểu số khác. Bài bản dân nhạc là những bản hoà tấu phục vụ trong các
lễ hội, các đám tang,…
Trong lễ hội, các bài bản hoà tấu chủ yếu phục vụ cho các nghi thức tế lễ
và rước kiệu. Có ba dạng hoà tấu trong lễ hội là dàn trống tế, dàn bát âm hoặc
chỉ dùng trống - chiêng.
33
Âm nhạc tế đề cao vai trò của trống và chiêng, ít sử dụng các loại nhạc cụ
dây và hơi. Các bậc cao niên cho biết từ bé họ đã được học đánh trống do ông
cha và các cụ cao tuổi truyền lại và cũng không biết là có từ bao giờ. Một số
nguồn tư liệu có nhắc tới nguồn gốc của âm nhạc tế nhưng cũng chỉ là những
giả thuyết và không có cơ sở khoa học chắc chắn. Chẳng hạn như các cụ làng
Phú Khê cho rằng những quy định và cách đánh trống tế của làng có từ thời
Lý Thánh Tông, do nhà vua yêu cầu cử người lên kinh đô để học cách lễ nhạc
tế cung đình sau khi vua phong chức sắc “Thượng Đẳng phúc thần” cho hai vị
thần của địa phương đã âm trợ cho vua đánh thắng giặc Ai Lao năm 1039.
Việc xác định nguồn gốc, xuất xứ của âm nhạc tế lễ là vấn đề đặt ra cho
những công trình khác.
2.1.2. Dân ca
Dân ca là những thể loại được sinh ra từ môi trường lao động. Dân ca ra
đời một mặt là để phản ánh công việc hàng ngày của người dân nông thôn,
mặt khác là để phục vụ nhu cầu giải trí, giao lưu trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày.
Qua khảo sát cho thấy, Thanh Hoá có nền dân ca rất phong phú và đa dạng,
gồm nhiều thể loại như hát Ca công (Ca trù); Xẩm; trống Quân; Hò; Ghẹo; Sa
mạc; Cò lả; Hát khúc Tĩnh Gia;… Với tiêu chí lựa chọn những thể loại tiêu
biểu có trong lễ hội để đưa vào luận án, bao gồm:
Hát Ghẹo
Hát Ghẹo được coi là một thể loại phổ biến ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt
Nam. Tuy nhiên về phương thức tổ chức, làn điệu, nội dung và ý nghĩa ở mỗi
nơi lại có những điểm khác nhau.
Ở Thanh Hóa, hát Ghẹo được đưa vào lễ hội với ý nghĩa giao lưu, phô
trương tài năng ứng tác tại chỗ của người tham gia trình diễn. Trong những
34
cuộc giao lưu đó đã thúc đẩy sự phát triển, học hỏi lẫn nhau dẫn đến sự giao
thoa muôn màu muôn vẻ của đa thể loại.
Trong cuốn “Dân ca Thanh Hóa” có viết về hát Ghẹo như sau:
“Hát Ghẹo đã trở thành một thứ dân ca phổ biến khắp tỉnh Thanh Hóa; và
cũng có thủ tục, có lề lối qui cách nhất định”. [6, tr.19]
Những thông tin đó đã thúc đẩy chúng tôi đi điền dã nhiều nơi trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.
Thực tế hát Ghẹo ở Thanh Hóa rất phong phú, nó gắn với đời sống lao
động hàng ngày của người dân nông và đã hình thành nên một số phong cách
gắn với môi trường diễn xướng khác nhau trước khi được đưa vào lễ hội. Và
tất nhiên, tính chất âm nhạc cũng khác nhau.
Hát Ghẹo miền quê gắn với công việc đồng áng:
Xưa kia Thanh Hóa được coi là nơi nổi tiếng về nghề nông nghiệp. Thực tế
lao động sản xuất “đi cấy thành phường, đi gặt có bạn” (gọi là “phường cấy”
và “phường gặt”). Điều đó cho thấy sự tập trung và tương trợ lẫn nhau trong
công việc, trong lao động sản xuất. Không biết hát Ghẹo ra đời từ bao giờ, có
lẽ đã từ lâu lắm, các bậc cao niên cho biết khi còn ở tuổi thanh thiếu niên
tham gia phường cấy là đã biết hát Ghẹo bằng cách nghe và học cách vận lời
để đối đáp với nhau. Cho đến bây giờ vẫn có những bậc cao niên ngoài 80
tuổi hát được nhiều bài có nội dung rất sâu sắc về tình yêu, cuộc sống, lao
động và cả những bài nói về vua quan ngày xưa.
Trong lễ hội, không phải lao động trên đồng ruộng, người ta thường chia
thành hai nhóm để hát Ghẹo đua tài thử sức với nhau. Cũng trong dịp này,
nhiều đôi nam nữ đã biểu lộ tình cảm của mình, tìm hiểu đối phương qua
những câu đối đáp.
Hát Ghẹo miền Biển gắn với môi trường sông nước:
35
Nếu dân miền quê hát Ghẹo ở đồng ruộng thì dân vùng sông nước lại hát
Ghẹo trên sông, trên biển với tên gọi phổ biến là Hò ghẹo. Với hệ thống sông
ngòi, kênh rạch chằng chịt Hò ghẹo khá phát triển ở Thanh Hóa, gắn bó với
dân làng chài, với dân đi đò chở khách trên sông. Bên cạnh tên gọi là Hò
ghẹo, còn có những tên gọi khác gắn với công việc cụ thể như: Hò than (ở bến
Than); Hò đắp đê (Hoằng Hóa);… Hò Ghẹo là thể loại khá phổ biến dọc bờ
sông Mã.
Hò Ghẹo cũng chia thành hai tốp đối đáp với nhau trong dịp lễ hội, một số
nơi còn diễn tả lại bằng các hình thức diễn xướng gắn bó với công việc hàng
ngày. Chẳng hạn như ở Hoằng Hóa, người ta bố chí một nhóm người đứng
dàn ngang, tay cầm đầm, thuổng, vừa hát vừa làm những động tác như đang
thực hiện công việc đắp đê trên sông Mã.
Một cuộc hát Ghẹo có tổ chức thành phường:
Bên cạnh những dạng hát Ghẹo như trên, ở Thanh Hóa còn tổ chức những
cuộc hát Ghẹo có lề lối, quy cách nhất định. Một số nơi được coi là có tổ
chức chặt chẽ cho một cuộc hát Ghẹo thường phải qua ba chặng với những
luật lệ nhất định. Mỗi chặng lại có quy định về lời, về làn và nội dung khác
nhau.
Chặng thứ nhất (mở đầu): Dành cho hát dạo, hát mừng và hát thăm.
Chặng thứ hai (chặng giữa): Dành cho hát đố, hát đối và hát xe kết.
Chặng thứ ba (kết thúc): Dành cho hát thề, hát dặn và hát xe kết.
Tuy có kết cấu ba chặng nhưng những cuộc hát Ghẹo như vậy không có làn
điệu riêng mà là sự hội tụ một số các thể loại dân ca Bắc bộ. Khi hát Ghẹo,
người hát có thể đổi làn từ Trống quân, Cò lả sang Sa mạc, Bồng mạc,... chỉ
vận dụng thay đổi lời ca cho phù hợp với nội dung.
So sánh với Hát Ghẹo Phú Thọ cho thấy, hát Ghẹo ở Phú Thọ cũng có ba
chặng:
36
Chặng thứ nhất: Hát đón
Chặng thứ hai: Vào nhà
Chặng thứ ba: Chia tay giã bạn
Khác với cuộc hát Ghẹo ở Thanh Hóa, ở chặng thứ nhất khi bên sở tại (làng
mời) đón khách (làng được mời) tại sân đình là lúc bắt đầu chặng hát đón, đây
là chặng hát hoàn toàn những bài Ghẹo cổ của địa phương. Chặng thứ hai và
chặng thứ ba mới là chặng hát các làn điệu khác nhau, được các nghệ nhân
gọi là sang giọng. Theo các cụ thì sang giọng gồm có 36 giọng khác nhau.
Hát hết 36 giọng cũng là lúc trời vừa sáng, dân làng sở tại dọn cơm để khách
ăn và chuẩn bị tiễn khách ra về ở chặng thứ ba, cũng là chặng cuối của cuộc
hát.
Hát nhật trình
Hát nhật trình khá phổ biến ở vùng biển Tĩnh Gia. Nội dung của dạng hát
này như một cuốn nhật ký đi biển, từ khi bắt đầu rời bến đến những địa danh
đi qua, nói về kinh nghiệm đánh bắt cá, về công việc nhọc nhằn của cư dân
chài,... Trong những chuyến đi dài lênh đênh trên biển, ban đêm người ta
thường ngồi quây vòng tròn với nhau, bên cạnh là chai rượu, vừa hát vừa
uống rượu, tay vỗ mạn thuyền. Đến với lễ hội, người ta cũng kể lại bằng âm
điệu của “dân chài” có lẫn với men rượu trắng.
Hát Trống vả
Hát Trống vả ở Tĩnh Gia hiểu theo một cách đơn giản là vừa hát vừa vả
(vỗ) lên mặt trống. Loại hát này dành cho một người hát chính và một nhóm
hát họa theo. Hát hết một trổ (một cặp thơ lục bát) thì tất cả cùng vỗ trống và
họa theo những từ cuối của câu hát.
Hò hái củi
Tĩnh Gia còn phổ biến loại hát dành riêng cho việc đi hái củi. Rất tiếc thời
gian gần đây đã không được duy trì thường xuyên. Hiện chúng tôi sưu tầm
37
được rất ít bài hát này do những người biết hát đều đã cao tuổi không thể hát
được nữa hoặc đã qua đời. Bà Lê Thị Đoái (75 tuổi) cho biết: khi còn trẻ, mỗi
khi đi củi rất hay hát những bài hát này nhưng bây giờ không nhớ được nhiều
vì lâu không hát. Gọi là “hò” nhưng thực chất giai điệu loại hát này khá bình
ổn, ít có những điểm nhấn nổi bật, khác với sự lên bổng xuống trầm của hát
lịch trình.
Dân chài Tĩnh Gia còn có hát Khúc (khúc hát ru) mang bóng dáng phong
cách hát Dặm Nghệ An, thể loại này chỉ hát khi ru con, ru cháu ngủ, không
đưa vào lễ hội.
Ngoài những thể loại trên, nhiều nơi trên địa bàn Thanh Hóa còn có hát Ca
công, Tuồng, Chèo. Đây là những loại hình nghệ thuật bán chuyên nghiệp,
không chỉ có ở Thanh Hóa mà còn phổ biến ở nhiều tỉnh phía Bắc. Luận án
không đi sâu vào vấn đề này.
2.1.3. Hệ thống trò diễn, diễn xướng
2.1.3.1. Khái niệm về trò diễn và diễn xướng dân gian
Diễn xướng và trò diễn dân gian trước hết (đã thể hiện qua tên gọi) là
những loại hình nghệ thuật bắt nguồn và tồn tại trong dân gian; xuất hiện, tồn
tại trong dân gian, phục vụ cho đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
Yếu tố cấu thành nên trò diễn và diễn xướng dân gian bao gồm: văn thơ,
âm nhạc, múa, tạo hình diễn xuất,… Tuy nhiên, trò diễn và diễn xướng là hai
thuật ngữ khác nhau, thể hiện hai loại hình sinh hoạt nghệ thuật khác nhau
trong dân gian.
Bàn về diễn xướng, PGS Lê Trung Vũ đã nhận định: “Diễn xướng ra đời từ
hình thức đơn giản nhất (hát hoặc kể hèm động tác đơn giản hoặc múa sinh
hoạt đơn giản có nhạc cụ gõ đệm)… Những diễn xướng phức tạp thường gắn
với tập tục và tín ngưỡng cổ. [24, sđd, tr.44]
38
GS Bùi Văn Nguyên nhận xét: “Hát xướng, nhảy múa về sau đi vào loại
hình ca vũ, còn pha trò đi vào loại hình tạp kỹ, hý kịch,…” [24, sđd, tr.44]
Theo PGS Vũ Ngọc Khánh thì: “Diễn xướng là có diễn, có xướng và đúng
là một phương thức biểu hiện của quần chúng trong sinh hoạt văn nghệ”. [24,
sđd, tr.47]
Còn tác giả Trần Thị Liên lại cho rằng: “Diễn xướng là một khái niệm
rộng. Trong diễn xướng có thể chưa có trò diễn và có cả những diễn xướng
đã phát triển thành trò diễn. Như vậy, trong trò diễn vẫn có tính chất diễn
xướng giúp cho tính nhân dân của trò diễn được đậm đà hơn”. [24, tr.53]
Mỗi ý kiến đều có một vài quan điểm khác nhau nhưng đều chung một
điểm: diễn xướng bao gồm hai yếu tố - đó là yếu tố “diễn” và yếu tố “xướng”.
“Diễn” là hành động biểu diễn các động tác của tay, chân, đầu, mặt,…;
“xướng” bao gồm các mặt: hát, nói, nói vần, nói thơ,… Hai yếu tố trên gắn bó
mật thiết với nhau tạo thành diễn xướng.
Ví dụ: Thủy phường là một loại hình hát múa diễn tả lại cảnh hoạt động
chèo thuyền của người dân xưa; trong đó có đoạn:
Nói vọng:
“Này chị em ơi!”
Đáp (giống “đế” trong chèo truyền thống):
“Sao?"
Nói vọng:
“Múa mái đã qua chị em ta giở ra múa quạt nào!”
Đáp:
“Phải rồi!”
Các con chèo hát (động múa quạt ):
“Quạt này quạt mát tứ quý bốn mùa
Đâu đâu cũng mua đem về làm quạt
39
Quạt thiếp tôi có mười chín xương…”
Trong “Thủy phường” có những màn múa hát đơn thuần, có “diễn”, có
“xướng”; như vậy, Thủy phường có đầy đủ các yếu tố của loại hình diễn
xướng.
Trò diễn bao gồm hai yếu tố là “diễn” và “trò”. Yếu tố “diễn” là hành động
chân, tay, đầu, mặt,… nhằm mục đích diễn tả, diễn cảm; còn yếu tố “trò” là
nghệ thuật diễn đạt cốt truyện. “Có tích mới dịch nên trò” là câu nói truyền
miệng trong dân gian còn truyền lại cho đến ngày nay. “Tích” là cốt truyện,
còn “trò” là nghệ thuật diễn tả cốt truyện đó.
Trò Trống Mõ có bốn nhân vật: Trống, Mõ, mẹ Mõ, cu Nhớn là những
nhân vật đã được định hình về tính cách. Trống và Mõ là hai nhân vật có
trong dân gian “có trống có Mõ mới đắc tài đắc lộc”; mẹ Mõ là một phụ nữ
xấu xí nhất trần gian, đã nhiều tuổi mà không lấy được chồng; cu Nhớn mồ
côi cha, mẹ đi lấy chồng khác phải nuôi đàn em côi cút, bản thân cu Nhớn thì
bị tật nguyền, vừa bị sứt môi vừa đi lặc liểng nên điệu bộ trông rất thương
tâm,…
Trò diễn có đặc điểm kể truyện dân gian, có cốt truyện chứa đựng hình
tượng về số phận các nhân vật. Có thể gặp các nhân vật trong trò diễn xứ
Thanh như mẹ Mõ buồn bã, đau khổ “…hình dung nhan sắc nết na tôi chẳng
kịp người… phận tôi xấu số sinh ra lỡ thì…” (Trống Mõ); hoặc Cu Nhớn tật
nguyền, chân đi lặc liểng, môi bị sứt,… (Trống Mõ), hay như chú Cuội hóm
hỉnh, hài hước “…Cuội ở cung trăng. Tính khí lăng nhăng. Cuội hay nói
dối…” (Tiên Cuội),… Trò diễn gắn liền với tính chân thực của cốt truyện, trò
phải dựa trên cơ sở truyện và truyện được thể hiện bằng trò. Nhiều nhân vật
trong trò diễn thường “xưng danh” ngay từ đầu bằng cách nói vần hay nói
thơ. Đây là một đặc điểm tương đồng với chèo truyền thống, khi diễn dân
làng và diễn viên có thể cùng giao lưu, đối đáp với nhau.
40
Chẳng hạn trò Trống Mõ có đoạn đối thoại:
Mõ:
“Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ?”
Dân làng:
“Không xưng danh thì ai biết là ai?”
Mõ (xưng danh):
“Nay tôi là mõ
Cái đùi sơn đỏ
Cái mõ tôi sơn đen
Tôi đánh đã quen
Nó kêu lóc cóc…”
Có thể chủ quan đánh giá rằng trò diễn là một khái niệm bao hàm trong nó
cả khái niệm về diễn xướng. Trong diễn xướng có thể coi yếu tố “diễn” là yếu
tố chủ đạo, hàm chứa nhiều tính nghệ thuật (diễn tả) hơn, còn yếu tố “xướng”
có thể coi là mang vai trò bổ xung cho yếu tố “diễn” trong việc hoàn chỉnh
nghệ thuật (diễn tả) đó. Trong khi đó thì trò diễn bao hàm yếu tố “diễn” được
sử dụng như là công cụ nghệ thuật để diễn tả, truyền đạt nội dung cho một
tích trò cụ thể. Mặc dù vậy diễn xướng dân gian vẫn là một khái niệm độc lập
tồn tại trong dân gian, đại diện cho một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian
đã và đang tồn tại với những giá trị văn hoá, giá trị nghệ thuật độc lập cùng
với sự tồn tại của trò diễn dân gian. Đây hoàn toàn là hai khái niệm riêng biệt
về hai hình thức nghệ thuật thể hiện khác nhau trong sinh hoạt văn hoá truyền
thống.
Như vậy, trong khi bàn về khái niệm “Diễn xướng dân gian” và “Trò diễn
dân gian”, mỗi người có những nhận định khác nhau nhưng có cùng quan
điểm rằng: Diễn xướng có yếu tố “diễn” và yếu tố “xướng”; còn Trò diễn bao
gồm yếu tố “trò” và yếu tố “diễn”. Có thể nhận định sơ bộ rằng từ diễn xướng
41
đến trò diễn là một quá trình phát triển từ thấp đến cao của một loại hình văn
hoá dân gian. Nếu chỉ đơn thuần diễn có hát, múa,… mà không có nhân vật,
không có cốt truyện thì là diễn xướng. Còn lối diễn có hát, múa và có cốt
truyện, có nhân vật thì trở thành trò diễn.
2.1.3.2. Nguồn gốc
Theo truyền thuyết, thần tích, thần phả,... thì trò diễn và diễn xướng dân
gian xứ Thanh đã có từ rất lâu, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (gắn liền
với truyền thuyết về các nhân vật lịch sử có công giúp dân chúng trong cuộc
sống như khai hoang - lập ấp, bảo vệ đất đai - đánh giặc ngoại xâm,...; từ thời
kỳ Bà Triệu khởi nghĩa đến các thời kỳ Nhà Lý, Nhà Trần, đặc biệt phát triển
mạnh nhất vào thời Lê, nhiều trò diễn được sáng tác trong thời kỳ khởi nghĩa
Lam Sơn tại những làng có quan hệ mật thiết với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn;
làng có công thần lớn hoặc có lưu quan là công thần nhà Lê;... Xin được lược
trích sau đây một số thần tích, thần phả cũng như truyền thuyết có liên quan
đến xuất xứ trò diễn và diễn xướng xứ Thanh:
Trò Ngô Triệu giao tranh có nguồn gốc xuất phát từ sự kiện Bà Triệu phất
cờ khởi nghĩa thời Đông Ngô (năm 248), và đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu
Lộc, Thanh Hóa). Gọi là trò diễn nhưng thực ra cách thức tổ chức rất đơn
giản, số lượng người tham gia không cố định. Người ta chia thành hai bên gọi
là phe, khi nghe khẩu hiệu hai bên cầm những vũ khí đơn giản (gậy gộc) lao
vào đánh nhau, bên nào thắng là phe Bà Triệu, bên nào thua là phe giặc Ngô.
Kết thúc cả hai phe cùng vui vẻ thụ lộc ăn uống linh đình.
Cuối đời Tuỳ, quận (huyện) Cửu Chân do Lê Ngọc làm Thái thú. Nhà
Đường cướp ngôi Tuỳ, Lê Ngọc vận động nhân dân chống lại nhà Đường, cho
xây kinh đô Trường Xuân. Con trai cả được cai trị một vùng có ba tổng:
Tuyên Hoá, Quảng Lưu, Thạch Khê. Tương truyền đây là người đã sáng tạo
ra nhiều các trò chơi, điệu hát. Sau khi ông mất, dân làng lập đền thờ tại Nghè
42
Sâm. Hàng năm, ba tổng, chín xã vẫn giữ lệ cũ mở hội tại nghè Sâm và kéo
“Ngũ trò” để tế Thần. Gọi là Ngũ trò Viên Khê nhưng không phải là 5 trò mà
thực tế ghi lại được, gồm có 11 trò. Trò không có hát là: Xiêm Thành; Tô Vũ;
Hùm (còn gọi là trò Vằn Vương). Trò có hát là: Múa đèn; Trống Mõ; Hà Lan;
Thiếp; Thuỷ; Ngô và Tú Huần.
Thời Nhà Lý có ông Trịnh Quốc Bảo (Trịnh Bạn), sinh năm 998 tại Bản
Đình Xã (làng Triềng ngày nay). Trịnh Quốc Bảo làm quan thời Lý Thánh
Tông, giúp vua Lý đánh đuổi giặc Tống phương Bắc, được vua Lý phong
chức Thái Bảo. Khi quân Chiêm Thành sang xâm chiếm nước ta, ông đã mưu
trí dùng đội tượng binh, gồm: voi nan; long binh (chọi rồng), kỵ binh (ngựa
sọt, ngựa bay), bộ binh (thiên vương). Chiến thắng, ông được vua phong
“Vinh quốc trượng đại phu” và hạ chiếu hàng năm phải diễn lại các trò này tại
kinh thành. Sau đó nhiều năm dân làng Triềng mới được phép mở hội và diễn
trò tại quê nhà. [67, tr.179 - 181]
Theo “Sứ giao tập” thì thời Trần, sứ giả Trần Cương Trung đã lược thuật
về điệu múa được xem:
“Một người đàn bà đi chân trần, mười ngón tay dịu dàng đứng múa, hơn
mười người con trai mình đều cởi trần, kề vai dậm chân, quây quần chung
quanh người đàn bà và hát theo… Hát thì có khúc hát Trang Chu nằm
mộng hoá ra con bướm, Bạch lạc thiên, Mẹ ly biệt con… giọng than vãn
thời thế rất là ai oán nhưng câu hát tản mạn”. [60, sđd, tr.382]
Như vậy, rất có thể điệu múa hát Tú Huần đã có từ rất lâu, đến đời Trần đời
Lê đã được cải biên nâng cao và được Nguyễn Mộng Tuân truyền lại cho dân
làng Viên Khê trong hệ thống trò Rủn.
Thời Trần, Trần Khát Chân đánh thắng vua Chiêm Thành (năm 1390),
được vua Trần Nghệ Tông phong “Lương Vệ Kim Ngô Long Hổ Thượng
Tướng Quân”. Khi Hồ Quý Ly có âm mưu đoạt ngôi vua nhà Trần, ông dùng
43
mưu định giết nhà Hồ nhưng việc bại lộ, bị đưa ra hành hình chặt đầu tại núi
Đún, được dân làng Cao Mật lập đền thờ trên đỉnh núi Đún, gọi là Đền Đún.
Thanh Hoá có nhiều nơi dựng đền, mở lễ hội thờ Thánh Lưỡng Trần Khát
Chân nhưng lễ hội Đền Đún là lễ hội gốc về hiện tượng Trần Khát Chân.
Thế kỷ XV, Lê Lợi chọn vùng sông Chu (Thọ Xuân) làm địa bàn hoạt động
cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; cư dân vùng sông Chu trở nên phồn thịnh như:
“Mười hai xứ Láng, mười tám xứ Neo”. Lam Sơn thời kỳ này trở thành nơi
hội tụ anh tài của cả nước. Trong “Khảo sát trò Xuân Phả”, nhóm tác giả
Phạm Minh Khang; Hoàng Anh Nhân; Hoàng Hải đã nhận định rằng:
Vùng sông Chu dần dần hình thành những diễn xướng nghi lễ trên cơ sở đã
được nghệ thuật hoá từ những diễn xướng dân gian còn đơn giản như trò
Chụt; trò Triềng [44, tr.303].
Thời Lê Sơ có ông Nguyễn Mộng Tuân, sinh ra tại làng Viên Khê là công
thần khai quốc của nhà Lê, ông là người làm thơ - phú rất giỏi. Khi về trí sĩ tại
quê nhà ông đã truyền dạy lại cho dân làng các điệu múa Xiêm Thành, Hoa
Lang, Tú Huần, Ngô Quốc. Khi ông mất, dân làng xây đền thờ ông làm Thành
Hoàng và khi có lễ hội dân làng lại trình diễn bốn trò này trên nền áng của
làng.
Thời Hậu Lê, Lê Thái Tổ cho xây Lam Kinh với quy mô các cung điện, sân
rồng, ngọc hồ, lăng miếu,… Hàng năm, các vua cùng tôn thất, hoàng thân
quốc thích, các đại thần… về Lam Kinh giỗ tổ, kỵ tế các tiên vương. Có lần,
trên điện Lam Kinh, các vua Lê cho diễn các điệu “Bình Ngô phá trận” và
“Chư hầu lai triều”. Đó là hai trò diễn được Nguyễn Trãi biên soạn để phục
vụ cung đình nhà Lê. Hai trò diễn này không được bảo lưu, tuy nhiên nó đã có
những ảnh hưởng rất rộng. Theo GS Đào Duy Anh thì “tàn tích của khúc múa
Chư hầu lai triều là điệu múa Xuân Phả ở Thọ Xuân, Thanh Hoá…” [44,
tr.32].
44
Làng Tứ Bôn (xã Đông Thanh huyện Đông Sơn) thờ bốn vị Thần Hoàng
trong đó có hai vị nhân thần Nguyễn Văn Nghi, hiệu là Phúc Khê tướng công
và Nguyễn Khải, hiệu là Đức Thánh Hẹ là công thần của nhà Hậu Lê. Trong
bản khoán văn trò Tứ Bôn có ghi: “...khoá trò năm Tân Tỵ, làng Ngọc Tích
phải diễn Trò Ngô, trò Hoa Lang; làng Kim Bôi phải diễn trò Tiên, trò Ngô,
trò Hoa Lang...” [44, tr.26].
Làng Cổ Bôn có nhiều tục lệ về tế lễ, hội hè những tập trung lớn nhất là lễ
hội vào ngày 20 tháng giêng. Các trò được trình diễn trong ngày hội là Trò
đánh cờ, Tiên Cuội, Thuỷ phường, Ngô phường, Lan phường, Lăng Ba
Khúc,…
Trò diễn xứ Thanh rất phong phú về thể loại và đa dạng về cách trình diễn.
Có nhiều trò mang những nghi lễ phồn thực xa xưa như trò “ Ông Đúc, Bà
Đúc”, trò “Tú Huần”; có trò diễn tả những nội dung về việc chống giặc ngoại
xâm như “Mài dao bắt cọp”, “Chọi voi”, “Vật cù” hay có trò nói lên những
hình ảnh của nghi lễ nông nghiệp như trò “Chèo chải”, “Múa đèn”, cũng có
trò chống lại ách áp bức bóc lột của chế độ Phong kiến như trò “Tiên cuội”,
“Cóc kiện trời”,…
Tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích về Lễ hội truyền thống xứ Thanh cũng như
việc tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích về loại hình nghệ thuật Diễn xướng và
Trò diễn xứ Thanh là một việc làm cần thiết và có giá trị bảo tồn về mặt văn
hoá dân gian.
2.1.3.3. Quá trình phát triển
Qua khảo sát, trong các lễ hội hầu như đều có trò diễn, đậm đặc hơn cả là ở
các làng nằm dọc triền sông Mã, sông Cầu Chầy, sông Chu, sông Hoàng sau
đó mới lan toả sang các làng lân cận tạo thành một vệt chạy giữa vùng đồng
bằng theo hướng Tây Bắc, Đông Nam. Xét về nội dung và hình thức diễn
45
xướng, chúng tôi nhận thấy trò diễn dân gian xứ Thanh có sự phát triển liên
tục theo quá trình lịch sử. Có thể chia thành các cấp độ sau:
Cấp độ 1: Lớp trò diễn sơ khai mang tín ngưỡng phồn thực
Có thể cho rằng đây là lớp trò diễn được ra đời sớm nhất trong lịch sử hình
thành nên hệ thống trò diễn của người Việt ở xứ Thanh. Đây là là lớp trò diễn
nằm trong các lễ tục (là những lễ hội nhỏ, chưa phát triển thành lễ hội có quy
mô lớn). Có nguồn gốc xuất phát từ tín ngưỡng phồn thực.
Trò diễn mang tín ngưỡng phồn thực nhằm mục đích cầu cho sự sinh sôi
nảy nở của con người, của nông nghiệp, thường được tổ chức theo tục lệ. Đặc
điểm của các trò diễn này là diễn xướng tự do, tùy tiện, có thể tự ứng tác tại
chỗ. Khi diễn, diễn viên và công chúng cùng giao lưu với nhau chưa có sự
tách biệt rõ ràng. Là những trò diễn thô phác nhưng các nhân vật đã bắt đầu
được hóa trang ở dạng đơn giản. Đạo cụ để diễn là những vật dụng thô sơ
trong đời sống (có gì dùng nấy).
Hiện còn lưu lại một số trò diễn ở mang tín ngưỡng phồn thực như trò
Chụt; Rối; Cơm đắp, Cơm thi; Vật Bộc;…
Cấp độ 2: Lớp trò diễn được hình thành do tác động của yếu tố lịch sử,
hình thành nghệ thuật diễn xướng cung đình
Đây là lớp trò diễn được hình thành khi có xuất hiện các sự kiện lịch sử, có
nguồn gốc gắn với các vị anh hùng.
Mục đích là thờ thần linh với những nội dung diễn tả lại sự kiện lịch sử; ca
ngợi công tích thành hoàng; về các công việc liên qua tới nghề nông;… được
tổ chức theo kỳ lệ.
Lớp trò diễn ở cấp độ 2 có những nội dung và bài bản cố định đòi hỏi phải
có sự gia công tập luyện của diễn viên. Khi diễn, diễn viên tách biệt với công
chúng để diễn cho công chúng xem, khác với trò diễn ở cấp độ 1 là cùng giao
lưu hoà nhập với công chúng. Nhân vật trong lớp trò diễn này được hóa trang
46
cầu kỳ hơn, cụ thể cho từng nhân vật. Đạo cụ để diễn không phải là những đồ
dùng trong sinh hoạt hàng ngày mà phải tự làm, tự chế tác những đạo cụ riêng
để diễn, một số đạo cụ đã mang tính tượng trưng, cách điệu.
Sự hình thành lớp trò diễn này có thể trên những cơ sở như sau:
- Phát triển từ loại hình dân ca có sẵn
Đơn cử cho bộ phận này là hình thức múa hát chèo thuyền để thờ Thánh.
Có nhiều tên gọi cho hình thức diễn xướng chèo thuyền như: Chèo cạn, Chèo
chải, Chèo thờ,… Về nguồn gốc của loại hình này chưa có ai có thể khẳng
định là có từ bao giờ. Nhưng xét về nội dung lời ca, về hình thức hát thờ trong
nghi lễ có thể đưa ra giả thuyết rằng, trước khi có hình thức hát chèo thuyền
để thờ Thánh đã có các hình thức hát chèo thuyền trên sông nước, phản ánh
môi trường lao động sông nước (điều đó là hiển nhiên bởi Thanh Hoá là địa
phương có nhiều sông ngòi, kênh rạch, có biển bao bọc ở nhiều nơi…), sau đó
dần phát triển thành hình thức hát múa chèo thuyền trên cạn phục vụ cho nhu
cầu sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Hát Chèo chải (tạm gọi theo đa số các nhà nghiên cứu về hiện tượng này)
để cung nghinh Thánh trong các giai đoạn lịch sử như chúc mừng Cao Hoàng
Lê Ngọc (cuối thời Tuỳ); Lê Phụng Hiểu (thời Lý); Trần Khát Chân (thời
Trần); Lê Lợi, Nguyễn Trãi,… (thời Lê);… Có thể gặp các giai điệu Hò sông
Mã trong múa hát Chèo chải ở một số địa phương.
- Hình thành hệ thống trò trong sự kiện lịch sử cụ thể
Đây là hệ thống các trò diễn được hình thành trong một sự kiện lịch sử,
được lưu giữ lại trở thành đặc sản của địa phương.
Sự kiện chiến đấu giữa giặc Chiêm với quân của Trịnh Quốc Bảo (thời vua
Lý Thánh Tông) đã hình thành nên hệ thống trò Triềng rất đặc sắc. Các trò
như chọi voi, chọi rồng, đánh tẩu mã, múa thiên vương,… là những đội tượng
47
binh do ông Trịnh Quốc Bảo lập mưu và luyện tập. Sau khi chiến thắng giặc
Chiêm, các trò này được lưu giữ lại, trở thành đặc sản của địa phương.
Hệ thống trò Xuân Phả (được hình thành trên sự kiện Lê Lợi khởi nghĩa
trên đất Lam Sơn) đã thể hiện khá rõ những yếu tố cung đình. Đó là sự tổng
hợp nhiều loại hình nghệ thuật múa, hát, âm nhạc, trang phục, biểu diễn,…
tạo nên hệ thống trò diễn vô cùng đặc sắc. Đây là đặc điểm đáng chú ý trong
nghệ thuật diễn xướng cung đình thời Lê.
Cấp độ 3: Sự giao thoa giữa yếu tố cung đình và dân gian dẫn đến hình
thành lớp trò diễn có sự tổng hợp cao về nghệ thuật:
Thanh hoá là mảnh đất trải qua nhiều triều đại phong kiến nên các yếu tố
cung đình có ảnh hưởng đến lễ hội dân gian. Sự giao thoa ảnh hưởng đó đậm
đặc dần qua từng thời kỳ lịch sử hình thành hệ thống trò diễn.
Sau khi kết thúc một sự kiện lịch sử là thời điểm nhân dân vui mừng, phấn
khởi khi cuộc chiến đấu dành thắng lợi, hoặc buồn thương, đau xót khi một
nhân vật anh hùng bị hi sinh,… Tất cả những yếu tố đó đều tác động vào tâm
lý nhân dân, thúc đẩy họ phải ghi nhớ lại sự kiện đó, mà thể hiện rõ nhất là
vào mỗi dịp lễ hội. Khi mở hội, tổ chức diễn trò để tưởng nhớ tới công đức
của các vị Thần.
Hệ thống trò diễn ở mỗi làng quê Thanh Hóa có những điểm giống và khác
nhau do có sự giao thoa, du nhập qua từng thời kỳ. Du nhập ở đây có thể bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong đó yếu tố cung đình tràn ra dân gian là do
được các công thần triều đình khi về nghỉ tại quê hương đã truyền dạy lại cho
dân làng, từ đó hình thành nên hệ thống trò diễn có kết hợp giữa yếu tố cung
đình và dân gian như ngày nay chúng ta được biết. Đơn cử như bốn trò trong
hệ thống trò Rủn (Viên Khê) được ghi lại như sau:
Thời Lê Sơ còn có ông Nguyễn Mộng Tuân, sinh ra tại làng Viên Khê là
công thần khai quốc của nhà Lê, ông là người làm thơ - phú rất giỏi. Khi
48
về trí sĩ tại quê nhà ông đã truyền dạy lại cho dân làng các điệu múa Xiêm
Thành, Hoa Lang, Tú Huần, Ngô Quốc. Khi ông mất, dân làng xây đền thờ
ông làm Thành Hoàng và khi có lễ hội dân làng lại trình diễn bốn trò này
trên nền áng của làng. [44, tr.28]
Trích dẫn trên đây là một minh chứng cho sự du nhập một số trò diễn từ hệ
thống trò Xuân Phả (thời Lê), sang hệ thống trò Viên Khê. Những ảnh hưởng
từ yếu tố cung đình được thể hiện qua ngôn từ nho giáo trong lời ca, động tác
diễn có phong cách,... Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân gian và cung đình
được nâng cao rõ rệt với đa dạng các nhân vật: mẹ Mõ, cu Nhớn,… (trò
Trống Mõ); cô đĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, Ngô già (người Tàu), chú Khách
(người Tàu), người nông dân (trò Ngô); Tiên, Cuội (trò Tiên Cuội);… Âm
nhạc dân gian cũng từ đó mà phát triển phong phú, đa dạng hơn.
Như vậy, trò diễn dân gian Thanh Hoá vận động phát triển theo quy luật tự
nhiên, từ đơn giản đến phức tạp, từ thô phác đến phong phú, sinh động,…
Nếu lấy hệ thống Xuân phả làm mốc về sự ảnh hưởng yếu tố nghệ thuật cung
đình, sẽ thấy từ đó nó tiếp tục được vận động, nâng cao khi du nhập sang các
làng trò khác (đặc biệt là các làng lân cận và các làng có công thần triều Lê).
Như vậy, qúa trình vận động của trò diễn dân gian xứ Thanh theo chiều
hướng xoay vòng, từ dân gian du nhập vào cung đình, rồi từ cung đình lại
quay trở lại dân gian. (Dân gian (thô phác, đơn giản) => cung đình => dân
gian (nâng cao))
2.2. Nội dung lễ hội qua ngôn ngữ thơ ca
Âm nhạc dân gian xứ Thanh, đặc biệt là âm nhạc trong các trò diễn, diễn
xướng gắn với tín ngưỡng thờ Thần. Do vậy, nội dung ca ngợi công đức của
Thần, chúc mừng văn võ bá quan chiếm phần rất lớn.
49
Câu hát chúc sau đây xuất hiện ở một số trò diễn như bài hát trong điệu
múa Ngô Quốc - trò Xuân Phả; hát chúc trong diễn xướng múa đèn Thiệu
Quang;… Câu hát chúc này được hình thành trên vần thơ 7 từ.
Nhất bái cầu quốc gia trường trị
Kính chúc dâng thánh thọ vô cương…
Phần lớn được hình thành ở thể thơ lục bát:
Chúc mừng văn võ hai hàng
Văn chiếm bảng vàng, võ chiếm quận công
(Trò Hà Lan)
Hoặc:
Chúc mừng quý xã ta nay
Văn võ hiền tài, chiếm bảng khôi khoa
(Trò Thủy - Đông Anh)
Các trò diễn phản ánh xứ thần sang cống tiến vua Đại Việt cũng được thể
hiện qua lời ca.
Thuyền tôi ở nước Hoa Lang
Tôi nghe đức chính tôi sang chèo chầu
(Trò Hoa Lang)
Trong Chèo chải thường có câu thơ phản ánh môi trường sông nước gắn
với nội dung lễ hội của làng mình.
Ta chèo một mái sang sông
Rước lấy đô đốc, quận công về đình
Hoặc:
Ta chèo một mái sang sông
Áo diều áo đỏ xuống sông ta chèo
Thời gian tế Thần cũng được thể hiện qua lời ca trong nhiều bài hát.
Hôm nay ngày kỵ đền ta
50
Đức Thánh đền Đún cả ba tổng thờ
Nối liền đền Đún Thành Hồ
Cái Hoa đường cũ, không mờ dấu xưa
(Trích Chèo chải - Vĩnh Lộc)
Hoặc:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai tế tổ, ba (thời) dân biết dân
Tháng tư cầu phúc tế thần
Mở cho tất cả muôn dân vào chầu…
(Trích Hát lịch trình)
Bên cạnh nội dung chúc tụng, tế thần, đời sống lao động của người dân
nông thôn cũng hiện lên khá rõ. Múa đèn Đông Anh miêu tả lại công việc
phải làm trong một năm của dân làng. Tháng giêng, tháng hai đi luống bông,
luống đậu; tháng ba, tháng tư đi vãi mạ, chẻ lạt đan lừ; tháng năm, tháng sáu
đi nhổ mạ; tháng bảy, tháng tám trong khi đợi lúa chín thì đi kéo sợi; tháng
chín, tháng mười đi gặt; cuối cùng là múa Đánh lá lật, cúng cơm mới và dâng
oản.
Nhiều bài ca còn nói lên công việc buôn bán làm ăn, thậm chí đã miêu tả
công việc phù hợp với từng giai đoạn.
Tháng tám quẩy gánh buôn hồng
Tháng chín buôn quýt, tháng mười buôn cau
Tháng một chợ Phủ buôn dầu
Tháng chạp buôn bấc, buôn trầu buôn hương
Tháng giêng xuôi tỉnh cân đường
Tháng hai tiện mía, tháng ba nạo dừa…
(Trích trò Trống Mõ)
51
Chế độ phong kiến xưa cũng đã thịnh hành nghề đánh đồng thiếp (Trò
Thiếp, Kỳ Phúc - trò Triềng,…). Đây là trò diễn phản ánh tập tục cầu cúng,
xin thẻ, lên đồng, làm phép,… trong đó những thói hư tật xấu của “thầy” đã bị
nhân dân phản đối kịch liệt.
Thầy cả:
Thượng ngàn: một trâu, một dê, một lợn
Hạ đàn: chuối ba buồng, oản mười tám phẩm. Cứ thế mà dâng tiến.
Tín chủ:
Ới thầy! Thầy nghỉ tôi về.
(Trích Trò Thiếp)
Các trò diễn thường có phần giáo với ý nghĩa bắt đầu câu truyện. Giáo
được hình thành ở thể thơ 4 chữ, tiết tấu mang tính chu kỳ. Cũng có thể xen
kẽ giữa thơ 4 chữ và 5 chữ. Trò Tiên Cuội là một trò diễn được hư cấu giữa
người phàm trần với Tiên giới, trò diễn nói lên khát vọng vươn tới những điều
tốt đẹp trong đời sống của người dân nông thôn. Trò diễn được bắt đầu với
bài giáo Tiên ở thể thơ 4 chữ.
Kính trình làng xã
Thượng hạ các ngôi
Nhẫn lặng nghe tôi
Giáo Tiên một cách…
Trong cuộc sống đời thường, không gắn với môi trường diễn xướng mang
tính lễ nghi. Người dân lao động thỏa sức sáng tạo, đối đáp với nhau trên
những ruộng lúa, nương dâu; trong làng ngoài ngõ; người trên bờ, người dưới
sông;… bất cứ môi trường lao động nào cũng không ngăn cản được sự sáng
tạo của họ. Và chủ đề về tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng chủ yếu, dẫn đến sự
ra đời nhiều bài hát Ghẹo có nội dung sâu sắc được mang tới lễ hội để trình
diễn, giao lưu.
52
Hôm qua tát mước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Có được thời cho anh xin
Hay là em dấu làm thinh trong nhà
Áo anh rách1 chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già không2 khâu…
Nội dung về tình yêu còn được gắn với khung cảnh vua quan, là nội
dung cốt lõi dẫn đến lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh.
Em như cây bá cây tùng
Dầm dà3 đứng giữa sân rồng nhà vua
Em như cây quế nhà quan
Người thời ngắt ngọn người toan bẻ cành…
Nhìn chung, nội dung bao trùm là sự ca ngợi công đức của các vị anh hùng,
thể hiện sự tôn sùng, kính trọng. Bên cạnh đó, các bài hát nói về đời sống lao
động, sinh hoạt, về phong tục cũng như những ước vọng của người dân nông
thôn cũng được phản ánh khá nhiều. Một bức tranh toàn cảnh về xã hội phong
kiến xưa được khắc họa sâu sắc trong âm nhạc dân gian của người Việt xứ
Thanh, trong đó có vua quan và có cả những người dân nông thôn trong đời
sống lao động.
2.3. Ý nghĩa, mục đích, vai trò của lễ hội
Lễ hội - một sinh hoạt văn hóa dân gian tồn tại theo truyền thống lâu đời
của dân tộc Việt Nam, là nơi tụ hội được nhiều tục lệ cổ liên quan đến Văn
hóa nghi lễ của dân tộc. Nói đến lễ hội là nói đến “hội hè đình đám”, nói đến
sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Lễ hội có sức hấp dẫn lôi cuốn mọi
1 Có dị bản hát là “đứt”
2 Có dị bản hát là “chưa”
3 Tiếng địa phương “dầm dà” có nghĩa là “xum xuê”
53
tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa đối với tất cả mọi
người.
Tổ chức lễ hội là nguyện vọng của cả cộng đồng làng trong giai đoạn lịch
sử. Điều đó trở thành ý niệm sâu sắc tồn tại qua nhiều thời kỳ, tạo nên tập
quán riêng của từng vùng miền, từng lễ hội.
Mục đích đầu tiên của lễ hội là thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” -
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Điều đó thể hiện qua những
thủ tục nghi lễ như rước kiệu, rước thánh thẻ, thắp hương, cung tiến,... nhằm
phô trương danh thế của Đức Thánh. Việc lập đền thờ hàng năm mở hội tế
Thần thể hiện sự kính trọng, mến phục, là niềm tự hào của cả cộng đồng làng.
Lễ hội tạo ra hiện tượng văn hóa làm sống lại tinh thần yêu nước dân tộc, ôn
lại quá khứ hào hùng của dân tộc, ca ngợi công đức của Thần, đồng thời cầu
mong mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh.
Lễ hội là nơi linh thiêng mà tất cả mọi người trong làng đều phải tôn thờ.
Mỗi làng, mỗi hội lễ đều có sắc thái riêng, nhưng đều có cùng chung một ý
nghĩa là dẫn ta tới cội nguồn, nhớ lại những chiến công của các vị anh hùng
trong lịch sử hoặc trong truyền thuyết xa xưa đã được tâm thức của nhân dân
tôn vinh thành các bậc hiển thánh. Bên cạnh đó lễ hội còn giúp ta gợi lên sức
mạnh tâm linh, khiến cho bất cứ ai khi tới với lễ hội đều cảm thấy rằng các
Thần luôn ngự trị và chi phối công việc làm ăn của họ, vì vậy từ trong sâu
thẳm tâm hồn mỗi người đều cảm thấy rằng đến với lễ hội là được tiếp cận
với sự thiêng liêng, cao cả.
Lễ hội ở Thanh Hóa nhìn chung cũng mang những đặc điểm chung như lễ
hội ở những nơi khác nhưng mật độ lễ hội dày đặc hơn nhiều. Thanh Hóa là
nơi phát tích nhiều vương triều phong kiến trước đây, nhiều vua chúa qua các
thời kỳ mang tầm cỡ quốc gia dân tộc nên đã hình thành một hệ thống trò
diễn, diễn xướng với mục đích phục vụ cho các triều đại cũng như tiếp các xứ
54
thần, khách nước ngoài. Thanh Hóa cũng là vùng đất có nhiều đình chùa, đền
miếu, lăng tẩm thờ cúng các vị Tiên vương, Hoàng tộc, Thánh thần nên hệ
thống lễ hội rất phát triển - nơi có nhiều trò diễn và âm nhạc mang sắc thái
vùng miền. Điều đó được minh chứng trong hệ thống trò diễn ở mỗi làng quê.
Riêng làng Viên Khê đã có tới 13 trò; làng Triềng có 12 trò;… [Hệ thống trò
diễn, PL1, tr.128].
GS. TS Phạm Minh Khang cho rằng: “So với cả nước thì vùng đất này có
nhiều trò diễn và hệ thống lễ hội vào bậc nhất từ những thời kỳ xa xưa”.4
Những nơi có hệ thống trò diễn đậm đặc hơn thường có sự kết hợp chặt chẽ
giữa lễ và hội. Trong hội những trò diễn, diễn xướng vẫn mang những nội
dung tế Thần với cách thức tổ chức chặt chẽ từ khâu tuyển lựa con trò đến
phương thức trình diễn.
Khi tổ chức lễ hội, tất cả mọi người trong cộng đồng làng đều háo hức
chuẩn bị. Từ Ban hành lễ đến những người phục vụ đều cảm thấy vinh dự và
tự hào khi được tham gia vào công tác tổ chức lễ hội. Là mảnh đất có nhiều
trò diễn, trước khi vào ngày hội chính thức việc lựa chọn con trò luyện tập
được coi như một khâu quan trọng. Kinh nghiệm chọn con trò theo tiêu chí:
“chọn con trò phải từ trên xuống, chọn người nấu cơm phải chọn từ dưới
lên”. Qua đó cho thấy, việc chọn con trò phải rất kỹ lưỡng, đề cao những bậc
cao niên. Thực tế qua điều tra, phỏng vấn cho thấy xưa kia khi mới ở tầm tuổi
thanh thiếu niên, chỉ được tham gia đóng những vai dễ, ít xuất hiện, khi lớn
tuổi hơn mới được đảm nhiệm những vai chính. Những người được chọn làm
con trò phải có gia đình êm ấm, hòa thuận, không có việc tang gia, đặc biệt là
ưu tiên cho nam giới còn nữ giới phải là gái thanh tân chưa lập gia đình. Điều
4 Trao đổi với GS. TS Phạm Minh Khang ngày 25 tháng 10 năm 2010 tại học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
55
kiện đó đã hình thành nên nhiều gia đình có truyền thống “cha truyền con
nối” nhiều đời làm con trò.
Đến với lễ hội, dân làng phải chuẩn bị tất cả những gì đặc biệt nhất của
làng mình, cả về những sản phẩm vật chất và văn hóa tinh thần,…. Tục lệ xưa
có nhiều loại, nhiều vẻ khác nhau, có nơi khá nặng nề, nhưng cũng có nơi
phong tục, tập quán, tục lệ đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực,
phản ánh khá rõ nét đời sống văn hóa địa phương.
Lễ hội ở đây là nơi hội tụ tinh hoa của cả làng, vì vậy, nó tạo ra một không
gian thiêng rộng lớn. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều đắm mình trong
lễ hội để có được những phút thăng hoa, giải tỏa tâm lý, tinh thần sau một chu
kỳ lao động vất vả.
Ngày nay, những hình thức tưởng niệm, hành hương được thực hiện với
nhiều phương diện khác nhau, đã có những đổi mới nhất định nhưng cơ bản
vẫn không xa rời truyền thống, với những người có công dựng nước và giữ
nước. Tổ chức lễ hội trên nền tảng lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc
nhằm tôn vinh, thờ phụng Thần, hướng tới cuộc sống bình yên của cả cộng
đồng. Lễ hội tan, dân làng được giải tỏa tâm lý, yên tâm bước vào một năm
sản xuất mới với niềm tin rằng Thần luôn bên cạnh, bảo hộ cho cộng đồng
làng một cách bền vững.
56
Tiểu kết chương 2
Là vùng đất có vị trí địa lý phức tạp - nơi tiếp giáp giữa “đàng trong” và
“đàng ngoài” đã tạo cho Thanh Hóa tiếp nhận nhiều luồng văn hóa khác nhau,
điều đó được phản ánh khá rõ trong âm nhạc dân gian. Bên cạnh đó, Thanh
Hóa còn có bộ phận âm nhạc mang đậm sắc thái vùng miền của quê hương
mình. Âm nhạc dân gian với đa dạng nhiều thể loại hầu như đều được đưa vào
diễn xướng trong lễ hội. Sự muôn màu muôn vẻ của dân ca đã phản ánh khá
rõ nét về truyền thống sinh hoạt văn hóa văn nghệ.
Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh có vai trò đặc
biệt quan trọng và không thể thiếu trong ý thức cộng đồng làng xã từ những
thời kỳ xa xưa. Cho đến nay, nét đẹp đó vẫn còn được duy trì ở nhiều nơi trên
địa bàn của tỉnh.
Nếu dân ca mang ý nghĩa trình diễn, giao lưu, giải trí, đua tài trong hội thì
nhạc lễ lại gắn bó chặt chẽ với những nghi thức tế lễ Thần linh qua các hình
thức cúng bái, thắp hương, cúng tiến, dâng lễ vật,… Trong không gian linh
thiêng mang màu sắc huyền bí, những âm thanh đa dạng với những màu sắc
đặc trưng đó đã giúp cho con người cảm nhận được sự giao hòa với thần linh.
Mặc dù những cảm nhận đó chỉ là mơ hồ, hư hư thực thực, nhưng ai cũng tin
rằng thần linh đang ngự tại đây và có thể chi phối những công việc của họ.
Bên cạnh mục đích chính là tổ chức lễ hội để cúng tế thần linh. Đến với lễ
hội, người dân còn được trình diễn và thưởng thức nghệ thuật sáng tạo của họ,
trong đó có các trò diễn, diễn xướng, các làn điệu dân ca mà hàng ngày họ
vẫn say xưa sáng tạo trong qúa trình lao động. Đó chính là thành quả được
đúc kết trong quá khứ, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
57
CHƯƠNG 3
ÂM NHẠC TRONG LỄ HỘI
Quy mô tổ chức lễ hội của người Việt xứ Thanh cũng giống như lễ hội ở
những nơi khác, bao gồm hai phần cơ bản là lễ và hội. Tuy nhiên, lễ hội ở đây
có những đặc điểm khá nổi bật, và âm nhạc dân gian là một trong những nét
tạo nên sự nổi bật đó. Trong hành lễ, nhạc tế mang tính uy nghi, phục vụ cho
những nghi thức nghiêm trang, thành kính. Còn âm nhạc trong hội lại muôn
màu muôn vẻ với nhiều thể loại mang tính đặc trưng cho vùng miền xứ
Thanh.
3.1. Âm nhạc trong hành lễ
Trong hành lễ, nhạc tế đóng vai trò quan trọng cho việc phục vụ các nghi
thức cúng tế Thành Hoàng, gắn bó chặt chẽ với từng nghi thức tế. Trải qua
bao biến cố thăng trầm của xã hội, nhiều nơi bây giờ không còn duy trì được
dàn nhạc tế. Những tư liệu thu thập được tuy không đầy đủ nhưng cũng đã
giúp chúng tôi nhận ra diện mạo về nhạc tế Thành Hoàng ở xứ Thanh.
3.1.1. Xướng lễ
Xướng lễ là những câu hô ngắn của đông xướng với mục đích điều khiển
hành lễ cho người chấp lễ thực hiện. Khi xướng lễ, người xướng phải đứng
nghiêm trang, cất giọng cao và khỏe. Âm điệu xướng lễ đơn giản, tiết tấu
chậm dãi kéo dài.
Qua khảo sát và tìm hiểu, mỗi nơi có một kiểu đọc khác nhau nhưng tập
trung nhất có hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: Không tuân thủ theo thanh điệu tiếng nói phổ
thông
Đây là kiểu đọc trên nguyên tắc các thanh có âm điệu ngang nhau, tương
đương với cao độ của thanh không dấu (-). Những âm điệu luyến cũng được
58
thực hiện bắt đầu từ cao độ này. Nói cách khác, hiệu lệnh đọc xướng này chủ
yếu có cao độ trên cùng một đường thẳng, tiết tấu đơn giản, cuối câu ngân dài
tự do.
Trong 6 thanh điệu chỉ có thanh hỏi (?) và thanh sắc (/) được luyến đi lên
quãng 3 thứ, hoặc luyến đi lên rồi đi xuống quãng 3 thứ. Do vậy, cách phát
âm của thanh hỏi giống cách phát âm của thanh sắc.
Ví dụ 1:
Thanh điệu: (/) (?)
Các thanh còn lại có quan hệ quãng đồng âm. Duy nhất giữa thanh huyền
(\) và thanh không có quan hệ một quãng 2 trưởng (không phổ biến).
Ví dụ 2:
Thanh điệu: (\) (-) (.) (.) (-) (-) (?) (?) (.)
Khuynh hướng thứ hai: Mang âm điệu gần giống tiếng nói phổ thông
Với cách đọc này, người đọc đã dùng nhiều âm điệu luyến, láy. Giai điệu
thường có chiều hướng đi xuống khi kết thúc. Thanh nặng, thanh huyền bao
giờ cũng luyến xuống quãng 3 thứ, khác với khuynh hướng thứ nhất là cùng
nằm trên một đường thẳng. Thanh sắc và thanh hỏi luyến có âm điệu giống
nhau, đều luyến đi lên quãng 2 trưởng.
Ví dụ 3:
59
Thanh điệu: (\) (/) (-) (.) (.) (.) (-) (/) (\)
Như vậy, âm điệu trong xướng lễ rất đơn giản, mỗi câu chỉ có 2 đến 3 âm,
rộng nhất là quãng 5 đúng (giữa thanh sắc và thanh huyền). Lối đọc này kết
hợp với tốc độ chậm dãi, thong thả, kết thúc từ cuối bao giờ cũng kéo dài tự
do. Người hành lễ chỉ được thực hiện sau khi người đông xướng hô cùng với
tiếng trống điểm, hoặc thực hiện cùng lúc với sự vang lên của quận trống tế.
Khi nghe hiệu lệnh cả người chấp lễ và dàn nhạc mới được thực hiện phần
việc của mình. Đây là đặc điểm tương đồng với một số lễ hội ở miền Bắc.
3.1.2. Tổ chức dàn nhạc trong quá trình cử hành lễ
3.1.2.1. Thành phần nhạc cụ
Dàn nhạc phục vụ trong nghi lễ có những tên gọi khác nhau như: Dàn nhạc
tế; dàn trống tế. Theo tên gọi, dàn trống tế hay dàn nhạc tế đều có thể hiểu
được đây là dàn nhạc dùng trong nghi lễ. Ngoài ra dàn bát âm cũng được
dùng ở một số đình, đền ở xứ Thanh và trong tang ma của người Việt nói
chung. Gọi là bát âm nhưng thực ra không đủ 8 màu âm phát ra từ 8 chất liệu
khác nhau theo hệ thống phân loại của Trung Hoa: Bào (bầu); Thổ (đất); Cách
(da); Mộc (gỗ); Thạch (đá); Kim (kim loại); Ty (tơ); Trúc (tre nứa). Những
nhạc cụ có chất liệu từ Bào; Thổ; Thạch; hoàn toàn không có trong dàn nhạc
tế Thành Hoàng ở xứ Thanh.
Dựa vào tiêu chí đồng dạng, cách diễn tấu của nhạc cụ; căn cứ vào tình
hình thực tế khảo sát, phỏng vấn; đối chiếu với những tư liệu đã có;… Với số
lượng 17 dàn trống tế được sưu tầm, chúng tôi đã tiến hành lập bảng thống kê
để có một cách nhìn khách quan. Bảng thống kê này chưa phải là đầy đủ để có
thể đi đến nhận định chính xác về âm nhạc trong tế lễ Thành Hoàng xứ
60
Thanh. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự thiếu sót này, nhưng tập
trung nhất vẫn là do những cấu trúc đình đền đã bị phá hủy khá nhiều trong
thời kỳ chiến tranh, nhiều lễ hội không còn duy trì tổ chức trong nhiều năm
qua. Không còn nơi thờ tự Thành Hoàng, dàn nhạc tế không còn không gian
diễn xướng dẫn đến thất thoát một phần đáng kể. Do vậy, đây là những tư liệu
vô cùng quý giá, cần được quan tâm, bảo lưu và phát huy trong đời sống.
Qua bản thống kê chúng tôi nhận thấy, dàn nhạc tế ở mỗi địa phương có sự
sắp xếp khác nhau, bao gồm các nhóm:
Nhóm dây: Đàn tứ, đàn nguyệt, nhị, hồ.
Nhóm hơi: Kèn bầu, sáo trúc.
Nhóm màng rung: Trống cái, trống bản, trống bong, trống bộc.
Nhóm tự thân vang: Mõ, chiêng, sanh tiền, nạo bạt.
Các nhóm trên đây không cố định cho tất cả các dàn nhạc tế ở xứ Thanh và
không phải ở mỗi nhóm đều có đủ tất cả các loại nhạc cụ. Mỗi dàn nhạc có sự
kết hợp nhóm và số lượng nhạc cụ một cách khác nhau. Chẳng hạn, dàn nhạc
tế ở đình Hoằng Quý, đình Phú Khê là những dàn nhạc có quy mô lớn nhất,
có đủ bốn nhóm dây, hơi, màng rung và tự thân vang. Số lượng nhạc cụ ở mỗi
nhóm cũng được bố trí dày nhất. Có dàn nhạc chỉ có 3 nhóm: hơi, màng rung,
tự thân vang (đình Đông Sơn, đình Nam Ngạn,…); có hai nhóm: màng rung
và tự thân vang (Đình Đông Cao, đình Xuân Đài,…). (Bảng thống kê, PL1,
tr.7).
Bảng thống kê cũng cho thấy nhạc tế ở xứ Thanh đề cao vai trò nhóm màng
rung, đặc biệt là trống cái và trống bản. Trống cái là hiệu lệnh còn trống bản
dẫn dắt bè chính. Các loại trống khác phối hợp so hoặc đi cùng tiết tấu với
trống bản để tạo màu sắc âm thanh khác nhau phù hợp với từng nghi thức tế.
3.1.2.2. Chức năng nhạc cụ và kỹ thuật diễn tấu
61
Theo quan niệm của dân làng, tiếng trống là tín hiệu giao hoà với thần linh,
nó tác động vào tâm trí con người làm cho bất cứ ai khi bước chân vào
ngưỡng cửa của thế giới siêu nhiên cũng đều có ý thức hướng về những gì
thiêng liêng nhất. Tiếng trống khi thúc dục, khi lại trầm bổng như đi vào lòng
người, giúp cho mỗi người dân cảm nhận được sự huyền điệu trước tâm thức
văn hoá tâm linh.
- Trống cái:
Trong dàn nhạc tế, trống cái có kích thước to nhất, đường kính khoảng 50 -
70 cm. Theo quan niệm dân gian mặt trống có ngũ âm. Đánh vào giữa mặt
trống âm thanh kêu to, trầm; đánh vào rìa mặt trống âm thanh chắc nịch; đánh
vào tang trống âm thanh đanh, gọn; khi đánh hồi chỉ chạm dìu vào mặt trống
tạo nên những tiếng khô, không vang… Âm thanh cơ bản là “tùng” khi đánh
vào mặt trống và “cắc” khi đánh vào tang trống. Trống cái giữ vai trò làm
hiệu lệnh, báo hiệu bắt đầu cuộc tế, lên tiếng trước bắt nhịp cho toàn dàn
nhạc, kết thúc quận trống cũng là tiếng dứt điểm của trống cái. Khi sử dụng,
trống được treo bằng dây hoặc đặt trên một giá đỡ.
Trống cái thuộc họ màng rung, chi gõ, âm thanh của trống cái trầm; vang,
được xếp ở vị trí bè trầm.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống cái gồm: Đánh vào mặt trống; chạm dùi
vào mặt trống; đánh vào tang trống.
- Trống bản:
Trống bản có đường kính khoảng 35 cm, thường giữ vai trò dẫn dắt đường
nét chính cho quận trống. Trống bản được khai thác bằng cách đánh vào giữa
mặt trống; vào rìa mặt trống;… để tạo nên những âm thanh khác nhau. Gõ vào
giữa mặt trống và nhấc dùi ngay âm thanh vang ròn; gõ vào mặt trống nhưng
giữ nguyên dùi âm thanh sẽ khô, xỉn; khi dùng hai dùi đánh luân phiên âm
thanh sẽ vang rền. Khi đánh kỹ thuật này nghệ nhân còn kết hợp giữa lối đánh
62
vào mặt trống và đánh vào tang trống để khai thác các âm sắc khác nhau của
trống một cách hài hoà.
Trống bản thuộc họ màng rung, chi gõ, thuộc âm vực trung.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bản gồm: Đánh vào mặt trống; vê (đánh
luân phiên vào mặt trống; đánh vào tang trống; đánh rụp hai dùi vào mặt
trống.
Theo GS.TS Phạm Minh Khang: Trong các cuộc rước long trọng như rước
kiệu Thánh trong ngày hội,… thường dùng 4 trống bản với 1 trống khẩu và
một thanh la thành bộ trống “cà rùng”5. Thực tế ở Thanh Hóa, chúng tôi chỉ
gặp trống bản với vai trò bè dẫn, phối hợp với tiết tấu của các loại trống khác,
ít kết hợp với trống khẩu. Trống khẩu ở Thanh Hóa còn được gọi là trống
hiệu, trống dẫn, trống thủ cổ, đảm nhiệm việc dẫn đầu đoàn rước, ra hiệu đi
nhanh, chậm hoặc dừng kiệu.
- Trống bong:
Trống bong là loại trống nhỏ, còn có tên gọi là trống Lót, trống Giẳng,
trống Chiên, đường kính của trống khoảng 20 cm, cao 5cm. Trống bong chỉ
có một mặt, được bịt bằng da bò. Khi diễn tấu nghệ nhân cầm trống bằng tay
trái giơ cao ngang ngực và đánh bằng dùi trống nhỏ. Âm thanh cơ bản của
trống là tiếng “bong bong’’ (vào mặt trống) và “cắc” (vào tang trống). Trong
dàn nhạc trống bong được xếp ở vị trí bè cao, được sử dụng nhiều trong các
đoạn lưu không xuyên tâm để thay đổi cho màu sắc âm thanh sáng dần lên.
Trống bong thuộc họ màng rung, chi gõ, có âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bong gồm: Đánh vào mặt trống; đánh
vào tang trống.
- Trống bộc:
5 Trao đổi với GS. TS Phạm Minh Khang ngày 25 tháng 10 năm 2010 tại học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
63
Trống bộc còn gọi là trống bọc, trống bục rắc. Là loại trống được bịt một
mặt bằng da bò, đường kính khoảng 13 cm, cao 8 cm. Khi chơi cầm bằng tay
trái vào tang trống, tay phải cầm dùi. Qua thực tiễn, chúng tôi không thấy
trống bộc diễn tấu có diện phổ cập mà chỉ dùng trong dàn bát âm mà thôi.
Trống bộc thuộc họ màng rung, chi gõ, âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bộc gồm: Đánh vào mặt trống; đánh vào
tang trống.
- Nạo bạt:
Nạo bạt là nhạc cụ được đúc bằng đồng, hình thức như chiếc vung nồi có
núm ở giữa. Nạo bạt bao giờ cũng dùng một cặp hai chiếc, diễn tấu bằng cách
hai tay cầm hai chiếc ở núm để dập hoặc cọ xát vào nhau tạo ra tiếng “xùng,
xèng…” thường diễn tấu cùng với tiết tấu của trống bản.
Nạo bạt thuộc họ tự thân vang, chi dập. Âm thanh sắc nhọn, chói.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của nạo bạt gồm: Dập vào nhau rồi nhấc ra ngay;
dập vào nhau rồi giữ nguyên.
- Chiêng:
Chiêng còn gọi là chinh, là nhạc cụ được đúc bằng đồng, đường kính từ 40
- 55 cm. Thường dùng gốc cây dứa dại làm dùi chiêng, có thể thay thế bằng
bẹ dừa hoặc dùi gỗ quấn vải. Chiêng được treo trên giá gỗ để chơi cùng dàn
nhạc.
Chiêng thuộc họ tự thân vang, chi gõ, âm thanh vang rền.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của chiêng là gõ vào núm chiêng.
- Mõ:
Mõ là miếng tre già cong, khi diễn tấu nghệ nhân cầm mõ bằng tay trái, tay
phải cầm que mõ gõ vào phát ra tiếng “cốc, cốc,…” nghe đanh và chắc. Mõ
và sênh tiền có tiết tấu đơn giản, chủ yếu là giữ nhịp hoặc phách một cách đều
đặn, nhưng lại rất quan trọng trong việc tạo nên sự so le giữa các bè.
64
Mõ thuộc họ tự thân vang, chi gõ, âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của mõ là gõ vào thân mõ.
- Thanh la:
Thanh la cũng là một loại nhạc cụ được đúc bằng đồng rất mỏng, đường
kính khoảng 25 cm, cũng có hình thức giống như chiếc vung nồi nhưng không
có núm ở giữa. Diễn tấu bằng cách dùng dây để treo lên và dùng dùi bằng tre
hoặc gỗ để gõ vào. Thanh la ít xuất hiện trong dàn nhạc tế Thành Hoàng
Thanh Hóa.
Thanh la thuộc họ tự thân vang, chi gõ. Âm thanh rè, không vang.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản là dùng dùi gõ vào thanh la.
Ngoài ra, ở một số dàn nhạc còn có các nhạc cụ thuộc nhóm hơi (kèn, sáo),
nhóm dây (nhị, hồ, đàn tứ, đàn nguyệt). Những nhạc cụ này đảm nhiệm vai
trò đi giai điệu ở một vài bài (lưu thủy hành khúc, huê tình, dạo cảnh, tẩu
mã,…), đệm cho giai điệu đó là trống, mõ, nạo bạt và một số các nhạc cụ
khác.
3.1.2.3. Nguyên tắc phối hợp
Bài bản trong dàn nhạc tế được nghệ nhân gọi là “quận trống”, cũng có thể
gọi là “bài trống”. Ví dụ: bài trống “dình dình” hoặc quận trống “dình dình”;
bài trống “cà rùng” hoặc quận trống “cà rùng”;… Mỗi một quận trống nhằm
phục vụ cho một nghi thức nào đó trong lễ dâng hương, sự lặp đi lặp lại một
quận trống nhằm mục đích lấp đầy từ khi bắt đầu đến khi kết thúc nghi thức
đó, một lần lặp lại được gọi là một quận. Theo chúng tôi, tên gọi “quận trống”
(“quận” có nghĩa là “quận lại”) được xuất phát từ lối diễn xướng lặp lại đó.
Về nguyên tắc phối hợp, các nghệ nhân kể lại, lúc còn nhỏ được các bậc
cha ông truyền lại trên phương thức truyền ngón, truyền nghề chứ không có
sách vở ghi chép gì về ký hiệu, thuật ngữ hay bài bản. Một số địa phương lưu
giữ lại bằng cách dùng những từ gần giống với tiếng trống thực tế đã được
65
phối hợp. Đơn cử như dàn nhạc tế ở đình Hoằng Quí được “soạn thảo” theo tư
duy cổ xưa là đọc thật giống âm thanh thực của mỗi quận trống, cả về tiết tấu
và nhịp phách, phương pháp này đã giúp cho những người theo học rất dễ
phối hợp với nhau.
Những từ tương ứng với tiếng trống phát ra khi phối hợp có thể kể đến như:
dập, dinh, dành, bong, chát, xình… khi đọc phải đúng nhịp nội, nhịp ngoại,
đúng những phần đánh lót, lưu không xuyên tâm,…
Trống tán bình thân là quận trống gồm có 100 nhịp, còn gọi là bách tán
bình thân, gồm có 4 câu (theo cách gọi và phân chia của các cụ).
Câu 1 (10 nhịp):
Xình tà là lình chát í xình chát xình chát í xình chát xình chát xình chát
chình chát chát í xình chát xình
Câu 2 (12 nhịp):
Ta long bong chát bong bong chát bong
Ta long bong chát bong bong chát bong
Ta long bong chát bong bong chát xình
Câu 3 (36 nhịp):
Ta long bong chát bong bong chát bong
Ta long bong chát bong bong chát xình
Chát xình chát xình chát xình chát í xình chát xình chát xình chát xình chát
Xùng xình xùng tà lình chát xùng xình xùng xình
Xùng tà là lình xình xùng tà là lình xình
Câu 4 (42 nhịp):
Tà là lình tà là lình tà là lình tà là lình
Xùng tà là lình xình tà là lình xình chát chát í xình chát xình chát xình
chát chát í xình chát xình
66
Đây là bài trống có sự phối hợp của 5 nhạc cụ: xênh tiền, mõ, trống bong,
trống con và trống cái. Để tạo nên tiếng “xình” nghệ nhân phải cầm lòng dùi
trống đánh vào giữa mặt trống, âm thanh phát ra kết hợp với tiếng sênh tiền
và các nhạc cụ còn lại, “chát” là đánh vào tang trống; tiếng “bong” là sự kết
hợp đánh vào mặt trống của trống bong và trống con; “xình tà là lình” là đánh
luân phiên liên tục vào mặt trống; những từ “ta”, “í”, “tà là”,… là những từ
lấy đà để vào phách mạnh.
Như vậy, để phối hợp được với nhau, mỗi nhạc công phải thành thạo kỹ
thuật của nhạc cụ đồng thời phải thuộc nhuần nhuyễn phần diễn tấu của mình,
phải biết tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhất, biết dùng những kỹ thuật khác
nhau cho từng quận trống, tạo nên sự hài hòa, hợp lý. Do vậy, những người
được chọn vào đội nhạc tế phải là những người có năng khiếu, có sự say mê;
những người trong gia đình có truyền thống “cha truyền con nối”.
Tong một quận trống thường có một bè giữ vai trò chủ chốt có ý nghĩa
dẫn dắt, tương tự như giai điệu chính của một tác phẩm. Bè dẫn có đường
nét tiết tấu, âm thanh nổi trội hơn cả cho dù âm thanh đó là của một nhạc cụ
hay là sự kết hợp của nhiều nhạc cụ. Để làm nổi bật lên bè dẫn, các nhạc cụ
khác hòa tấu bằng cách tạo sự so le về tiết tấu với bè dẫn đó. Khi phối với
nhau phải biết đánh lót vào những khoảng trống một cách hợp lý. Cũng có
những quận trống là sự kết hợp cùng lúc tất cả các nhạc cụ đi cùng tiết tấu, có
bao nhiêu loại nhạc cụ trong dàn nhạc là có bấy nhiêu âm sắc khác nhau, tất
cả cùng phối hợp đã tạo nên âm thanh có âm lượng lớn, phù hợp với vẻ uy
nghi, trang trọng của buổi tế.
Các quận trống có bè dẫn ở âm khu trung:
Trong các loại trống được sử dụng, trống bản đảm nhiệm vai trò đi bè dẫn
nhiều nhất. Trống bản có âm thanh sáng, trong, âm thanh thực của trống nổi
67
rõ khi được dàn nhạc phối hợp. Các quận trống có bè dẫn ở âm khu trung chủ
yếu được phục vụ khi dâng rượu (nghệ hương án tiền, chước tửu,…).
Quận trống “dâng rượu” (đền Chu Nguyên Lương) có trống bản đi bè dẫn,
mõ và nạo bạt điểm phách, trống cái điểm nhịp tạo sự so le về tiết tấu. Âm
thanh cơ bản “tung” và “cắc” của bè dẫn là âm thanh thực của trống bản. Các
nhạc cụ khác đệm so le về tiết tấu làm nổi bật lên âm thanh của bè dẫn đó.
Đây là một quận trống có tính chất khoan thai, nhịp nhàng, phù hợp với nghi
lễ dâng rượu thờ cúng. (Xem bài 100, PL4, tr.147)
Một số quận trống có sự phối hợp rất đơn giản nhưng lại cho hiệu quả âm
thanh khá hay. Chẳng hạn quận trống tán trong nghi thức thượng hương, lễ tất
ở đình Đông Cao có trống bản đi bè dẫn chính, các nhạc cụ khác đảm nhiệm
phần tiết tấu độc lập của mình. Nạo bạt bắt đầu cùng tiết tấu với trống bản,
sau đó vẫn tiến hành đều đặn trong khi trống bản thay đổi âm hình thiết tấu
nhanh hơn. Trống cái và chiêng vào đầu nhịp theo kiểu luân phiên. Sự phối
hợp đó cùng với sự tương phản về cường độ đã tạo nên sự dồn dập, hào hứng.
Đây là mô hình được đánh đi đánh lại nhiều lần cho đến lúc kết thúc mới có
một chút thay đổi về tiết tấu của các bè. (Xem bài 97, PL4, tr.140)
Phổ biến hơn cả là bè dẫn có sự kết hợp cùng tiết tấu giữa trống bản và nạo
bạt. Lối kết hợp này làm cho âm thanh dầy và ấm hơn trên nền đệm của các
nhạc cụ khác. Dưới đây là quận trống dùng trong nghi thức bái ở đình Đông
Cao. Bè dẫn của trống bản và nạo bạt được phối hợp với chiêng và trống cái
đánh điểm so le vào đầu nhịp. (Xem bài 96, PL4, tr.138)
Cũng có những bài bản do các nhạc cụ hơi hoặc nhạc cụ dây đảm nhiệm
vai trò giai điệu. Chẳng hạn như trong nghi thức chước tửu, giai quỵ, độc
chúc, hiến tước, tiến tước ở Bảng môn đình có bài đi giai điệu bằng đàn hồ,
được diễn tấu trên nền đệm của trống ban, mõ và trống cái. Nổi bật ở bài này
68
là sự đối chọi rõ nét về tiết tấu giữa bè đệm với giai điệu. (Xem bài 103, PL4,
tr.153)
Quận trống nghệ hương án tiền ở Bảng môn đình cũng là một trong những
quận đáng lưu ý. Sự kết hợp âm thanh giữa trống bản và nạo bạt tạo nên bè
dẫn có âm thanh khá hay. Khi diễn tấu, trống bản chỉ dùng kỹ thuật đánh vào
giữa mặt trống còn nạo bạt dùng kỹ thuật vỗ hai mảnh vào nhau rồi nhấc ra
ngay hoặc vỗ hai mảnh vào nhau rồi giữ nguyên, kỹ thuật này làm cho nạo bạt
có độ nẩy nhẹ. Âm thanh cơ bản của trống bản và nạo bạt khi cùng vang lên
gần giống tiếng “dinh…dinh…”. Âm thanh này nổi bật trên nền đệm “cốc
cốc” đều đặn của mõ, còn trống cái chỉ thỉnh thoảng điểm vào mặt trống và
tang trống. (Xem bài 101, PL4, tr.149)
- Các quận trống có bè dẫn ở âm khu trầm:
Với đặc tính trầm, vang, ngoài chức năng làm hiệu lệnh và phối hợp đệm
với dàn nhạc, trống cái còn xuất hiện trong những bài bản có tính chất trầm
hùng. Để tạo nên tính chất đó trống cái thường được kết hợp cùng đi tiết tấu
với một số nhạc cụ khác. Chẳng hạn, trong nghi thức nghinh lễ cúc cung bái
và bình thân phục vị ở đền Chu Nguyên Lương có sự kết hợp giữa trống cái
và trống bản. Sự kết hợp này đã làm giảm bớt âm thanh trầm đục của trống
cái khi đánh vào mặt trống. Với tính năng của mình, khi phối hợp với dàn
nhạc phù hợp nhất là điểm nhịp, điểm phách, đánh hồi,… trong trường hợp đi
bè dẫn nếu không khéo léo trong sử lý kỹ thuật và phối hợp với nhạc cụ khác
âm thanh sẽ dễ bị “thô”. Có thể nhận thấy quận trống này được sử dụng hai
kỹ thuật cơ bản là đánh mạnh vào tang trống và vào giữa mặt trống, đồng thời
kết hợp với âm sắc của trống ban để tạo nên tính chất sôi nổi. (Xem bài 99,
PL4, tr.144)
69
Kết hợp các nhạc cụ với nhau để tạo nên âm thanh của bè dẫn là một trong
những đặc điểm trong âm nhạc tế lễ Thành Hoàng xứ Thanh. Tập trung nhất
là các lối kết hợp sau:
Nhạc cụ Âm thanh
(tương đối) Âm vực
Trống bong + trống con Bong bong Cao (ít dùng)
Trống bản + nạo bạt Dinh dinh Trung
Trống cái + trống bản Thùng thùng Trầm
3.1.2.4. Các mô hình nhạc tế
Mô hình hồi trống: Do trống cái hoặc trống cái và chiêng thực hiện
Hồi trống được vang lên khi thông xướng hô: “ba hồi 9 tiếng trống” hoặc
“ba hồi 9 tiếng trống, 3 hồi 9 tiếng chiêng”. Khi đánh hồi, sử dụng dùi trống
đánh vào giữa mặt trống theo hướng chuyển động từ chậm đến nhanh dần, âm
lượng cũng tăng dần lên theo tốc độ của trống. Hồi trống này như là hiệu lệnh,
tiếng trống vang lên có nghĩa là buổi lễ bắt đầu được thực hiện. Nếu dùng cả
trống cái và chiêng thì trống cái lên tiếng trước rồi đến chiêng, sau đó hai
nhạc cụ chơi đan xen với tốc độ và âm lượng tăng dần. Kết thúc hồi trống
bằng ba tiếng trống cái to, dõng dạc.
Mô hình điểm trống: Do trống cái hoặc trống bong và trống cái đảm nhiệm
Đây là mô hình đánh điểm vào mặt trống hoặc tang trống, được thực hiện
khi người đông xướng hô dứt điểm một hiệu lệnh trong cuộc tế. Trống điểm
có mô hình ngắn gọn, dứt khoát.
- Mô hình điểm trống cái:
Trống cái:
70
- Mô hình điểm kết hợp giữa trống bong và trống cái:
Mô hình cấu trúc các quận trống: Do dàn nhạc thực hiện
- Cấu trúc một phần:
Quận trống ở dạng này là một đoạn nhạc ngắn gồm 2, 3 nhịp (nhịp 2/4)
được lặp đi lặp lại nhiều lần, mỗi lần nhắc lại có thể giữ nguyên dạng, nếu có
thay đổi cũng không đáng kể. Các quận trống có cấu trúc một phần thường
được mở đầu bằng và kết thúc bằng âm thanh của trống cái. Có thể tham khảo
quận trống trong nghi thức Nghinh lễ cúc cung bái ở đền Chu Nguyên Lương
(Xem bài 99, PL4, tr.144)
Sơ đồ cấu trúc một phần:
(Mở đầu) Phần diễn tấu chính (Kết thúc)
- Cấu trúc hai phần:
Đây là những quận trống gồm có hai phần với hai tính chất âm nhạc khác
nhau. Phần thứ nhất được diễn tấu tự do, không có nhịp điệu rõ ràng, không
có bè dẫn chính, thường có tốc độ từ chậm đến nhanh dần, cường độ cũng
theo đó mà tăng dần lên. Kết thúc điểm vài tiếng trống cái tạo danh giới với
phần hai. Phần hai có nhịp điệu, có bè dẫn nổi lên trên nền bè đệm, tính chất
âm nhạc tương phản với phần thứ nhất. Có thể tham khảo quận trống phục vụ
nghi lễ hành sơ hiến lễ ở đền Chu Nguyên Lương. (Xem bài 98, PL4, 142)
71
Sơ đồ cấu trúc hai phần dạng 1:
Phần diễn tấu chính (Kết thúc)
Tự do (a) Có nhịp điệu (b)
- Cấu trúc ba phần:
Dạng cấu trúc có ba phần có hai chất liệu âm nhạc khác nhau, trong đó
phần thứ nhất diễn tấu chất liệu 1, phần thứ hai diễn tấu chất liệu 2; phần thứ
ba quay lại chất liệu của phần thứ nhất và kết thúc ở đó (aba’). Sơ đồ cấu trúc
ba phần như sau:
(Mở đầu) Phần diễn tấu chính (Kết thúc)
Chất liệu 1(a) Chất liệu 2 (b) Chất liệu 1(a’)
Quay lại với bài trống tán bình thân của làng Phú Khê. Ta thấy, quận trống
có hai chất liệu âm nhạc như đã phân tích. Với lối diễn tấu như vậy, quận
trống này sẽ có cấu trúc gồm 3 phần: phần thứ nhất (câu 1), phần thứ hai (câu
2 + đầu câu 3); phần thứ ba (cuối câu 3 + câu 4).
Xét một cách tổng quát về nhạc tế Thành Hoàng xứ Thanh chúng tôi nhận
thấy có sự tương đồng với nhiều nơi khác về mặt tổ chức dàn nhạc, phương
thức kết hợp so le tiết tấu giữa các bè, cách phục vụ âm nhạc trong tế lễ,…
Tuy nhiên, nhạc tế xứ Thanh đề cao nhóm màng rung hơn với vai trò dẫn dắt
bè chính của trống bản trong khi nhạc lễ của người Việt miền Bắc nói chung
lại sử dụng dàn bát âm với vai trò đi giai điệu của nhóm dây hoặc hơi.
3.2. Âm nhạc trong hội:
3.2.1. Mối quan hệ giữa lời ca và âm nhạc
72
Cũng như nhiều thể loại dân ca của các vùng miền khác, âm nhạc dân
gian xứ Thanh được hình thành trên cơ sở những vần thơ cổ truyền, bao gồm:
lục bát, 7 chữ, 4 chữ,… Tuy nhiên, âm nhạc dân gian xứ Thanh có những đặc
điểm khá riêng biệt, điều đó được thể hiện qua các phương tiện diễn tả âm
nhạc.
3.2.1.1. Mối quan hệ về cấu trúc giữa thơ và nhạc
Để tạo nên sự cân đối trong cấu trúc nhạc và sự hài hòa trong âm điệu, các
bài ca thường áp dụng những thủ pháp phổ thơ như: Đảo trật tự từ; nhắc lại
vần thơ; thêm từ đệm, từ láy,… Điều đó đã tạo nên cốt cách âm nhạc của làn
điệu, mang đậm sắc thái địa phương.
Thủ pháp đảo trật tự từ
Dân ca Việt Nam nói chung thường gặp hiện tượng đảo trật tự từ để hoàn
thiện câu nhạc, đoạn nhạc. Đối với thể thơ lục bát, thủ pháp đảo trật tự từ
được thể hiện bằng cách hát hai hoặc bốn từ sau của câu sáu trước rồi mới
theo trình tự hát lại từ đầu cho đến hết câu. Thủ pháp này có thể gặp nhiều
trong các bài dân ca xứ Thanh.
Bài “chén muỗi đĩa gừng” do bà Lê Thị Ngơi ở Đông Anh hát có câu thơ:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau…”
Khi hát câu lục đảo 4 từ cuối lên trước sau đó mới theo trật từ hát từ đầu
đến hết câu. Câu hát còn sử dụng các từ đệm phụ để tạo thêm sự mềm mại
cho giai điệu.
“Thời chén muối đĩa gừng mà tay nâng, tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay mà muối mặn thời ta đừng nhau quên nhau…”
Đảo trật tự từ đã làm mở rộng khuôn khổ của thơ, câu sáu của thể thơ lục
bát có thể trở thành mười từ, mười hai từ,... Do được nhắc lại hai lần nên nội
73
dung của bài ca được nhấn mạnh hơn, đồng thời cấu trúc âm nhạc cũng được
mở rộng, tạo nên sự hài hòa cho bài ca.
Thủ pháp lặp lại một từ hay cụm từ
Lặp lại một từ hay một cụm từ cũng là một trong những thủ pháp được sử
dụng nhiều. Thủ pháp này không chỉ lặp lại cụm từ mà còn nhắc lại cả nét
nhạc chính.
Trò Tiên Cuội có lời thơ như sau:
“Xăm xăm tới cội mai già
Hỏi thăm nguyệt lão có nhà hay không…”
Khi hát, lời thơ được lặp lại 2 từ đầu và cụm 4 từ sau của câu 8:
“Xăm xăm tới cội ơ mai già; hỏi thăm, hỏi thăm, hỏi thăm nguyệt lão
có nhà, có nhà hay không; tờ rang tích tịch có nhà hay không”.
Thủ pháp nhắc lại cả câu thơ
Nhắc lại cả câu thơ cũng được thể hiện rất rõ qua nhiều bài dân ca xứ
Thanh.
Bài hát của Trống và Mõ có khổ thơ lục bát.
“Vòng vai chữ vị là vì
Chữ dục là muốn, chữ tuỳ là theo...”
Khi hát mỗi câu đều được nhắc lại hai lần trở thành:
“Vòng vai chữ vị là vì. Vòng vai chữ vị là vì. Chữ dục a là muốn, ối a, chữ
tuỳ là theo. Chữ dục a là muốn, ối a, chữ tuỳ là theo...”
Nhóm các từ phụ mang chức năng bổ nghĩa
Gồm các từ thêm vào thành phần chính của câu thơ nhằm mục đích cụ thể
hoá, nhấn mạnh ý thơ, làm nổi bật nội dung, chủ đề và phần nào đó trợ tải ý
nhạc. Đối với loại từ phụ 1 tiếng gồm: “a”, “i”, “ơ”, “ư”, “mà”, “thời”,…
được sử dụng nhiều nhất là nguyên âm “a”. Các từ phụ có 2 tiếng gồm các
74
cụm từ: “ôi a”, “ơi a”, “ấy mấy”, “song bên”, “nhưng mà”,… được sử dụng
nhiều hơn cả là cụm từ “ôi a”.
Bài Đi gặt (Múa đèn Đông Anh) có những cụm từ đệm trong giai điệu:
“Bao giờ cho lúa bông vàng. Để anh à đi gặt ối a cho nàng mang cơm”
Những làng nằm dọc ven bờ sông Mã còn hình thành nên làn điệu dân ca
phản ánh lên đời sống sông nước của họ. Cụm từ “hò… ơ…”, hay “ơ…hò…”
thường được cất lên ở đầu câu hát mỗi khi đối đáp với nhau, người trên bờ,
người xuôi ngược dưới dòng nước.
“Ớ… hò…! Tiếng ai văng vẳng mà bên ớ tai. Hay là trúc lại nhớ mai ớ đi
tìm”.
Môi trường sông nước cũng phản ánh rõ nét trong các trò diễn, diễn xướng
xứ Thanh. Bài Chèo thuyền trong Chèo chải Thiệu Quang được hát là:
“Thuyền ơ ta đã mắc a ở đây a đã mắc a ở đây. A xin làng a buông ơ lái
cầm ơ dây a kéo thuyền”.
Các cụm từ không có nghĩa rõ ràng gồm 3, 4 tiếng ít phổ biến hơn nhưng
lại sinh động hơn trong việc trợ tải ý nhạc. Trong Tiên Cuội có cụm từ đệm
mô phỏng tiếng của một loại đàn dây gẩy:
Xăm xăm tới cội mai già. Hỏi thăm, hỏi thăm, hỏi thăm nguyệt lão có nhà
hay không? Tơ rang tích tịch có nhà hay không?
Các ví dụ trên cho thấy sử dụng thủ pháp dùng từ phụ, nhắc lại từ, cụm
từ,… làm cho giai điệu thêm sinh động, đồng thời tạo cho cấu trúc bài ca cân
đối hài hoà và được kéo dài hơn so với cấu trúc của thơ.
3.2.1.2. Vai trò của tiết nhịp, tiết tấu
Về tiết nhịp, tiết tấu, nhà nghiên cứu Tú Ngọc đưa ra ý kiến như sau:
Nhịp điệu (với ý nghĩa là tiết tấu) trong âm nhạc thường được hiểu là sự
nối tiếp có quy luật và mối tương quan về độ dài của các âm thanh. Khái
niệm về nhịp điệu bao giờ cũng gắn liền với khái niệm về nhịp phách (tiết
75
phách), do đó những điểm nhấn (trọng âm) cũng là một thuộc tính của nhịp
điệu. [41, tr.277]
Qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy tiết tấu trong âm nhạc dân gian xứ Thanh
khá mạch lạc, rõ ràng, được thể hiện chủ yếu ở loại nhịp 2/4, luật nhịp tuân
thủ theo lối phân ngắt của thơ, với thơ lục bát trọng âm thuộc về những từ
chẵn (2, 4, 6, 8), và tất nhiên những từ lẻ thường có trường độ ngắn hơn để
hướng tới những từ được nhấn ở trọng âm.
Ví dụ: (Trích bài 52, PL4, tr. 82)
Bên cạnh đó, một số bài hát còn có lối phân chia ở dạng từ lẻ được đóng ở
thời mạnh của tiết nhịp. Có thể gặp hiện tượng này trong bài hát của Trống và
Mõ (trò Trống Mõ), làn điệu Sai của thầy Hai (trò Thiếp),…
Ví dụ 17: (Trích bài 18, PL4, tr.46)
Với thơ 7 từ trọng âm thuộc về những từ lẻ như trong bài Hát chúc - Múa
đèn Thiệu Quang.
Ví dụ 18: (Trích bài 90, PL4, tr.127)
76
Những trường hợp hát tự do không có trong các thể loại dân ca riêng lẻ mà
xuất hiện lẻ tẻ trong một số trò diễn, được các nhân vật thể hiện theo cảm xúc,
tâm trạng của mình.
Lối phân ngắt như trên đã tạo thành các nhóm 2 từ ở thể thơ lục bát, và
nhóm 4 + 3 hoặc 3 + 4 ở thể thơ 7 từ. Đặc điểm đó tương đồng với thể loại Ví,
Đúm, Cò lả, Trống Quân,… của người Việt miền Bắc nói chung.
Vậy âm nhạc dân gian xứ Thanh có điểm gì mang tính nổi trội? Theo
chúng tôi, yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa xứ Thanh đã thể hiện rất rõ trong lễ
hội, đặc biệt là ở lĩnh vực âm nhạc. Và yếu tố tiết tấu đã góp phần tạo nên
diện mạo sắc thái vùng miền.
Mô hình đệm hát:
Đệm cho hát là vai trò của nhạc cụ gõ đi tiết tấu so le với tiết tấu của giai
điệu. Mõ đảm nhiệm vai trò giữ nhịp (gõ vào đầu nhịp hoặc phách) còn trống
thể hiện các mô hình tiết tấu khác nhau phù hợp với tính chất bài bản. Có nơi
dùng trống to để đệm hát (trò Xuân phả - Thọ Xuân), cũng có nơi dùng trống
ban hoặc trống con (trò diễn Đông Anh, chèo thờ đền Mưng)…
Có thể tham khảo một số mô hình đệm hát được sử dụng trong hệ thống
trò diễn Đông Anh. Mô hình a có tính chất vui, nhộn nhịp; mô hình b và c
khoan thai, thong thả.
Ví dụ 9:
77
a.
b.
c.
Đôi khi chũm chọe cũng được dùng để đệm hát bằng cách đi cùng tiết tấu
với trống như ví dụ sau.
Ví dụ: (Trích bài 77, PL4, tr.112)
Trong tế lễ, vai trò của tiết tấu với những mô hình tạo sự so le giữa các bè
đã tạo nên tính chất nghiêm trang, uy nghi hay đĩnh đạc, thong thả phù hợp
với từng nghi thức.
Khi thực hiện trò diễn, tiết tấu cũng đã thể hiện vai trò quan trọng của mình
qua từng giai đoạn diễn xướng, hình thành lên những mô hình tiết tấu đặc
trưng, bao gồm:
78
Mô hình đệm múa dùng cho phần mở đầu và kết thúc trò diễn, hoặc chuyển
màn, chuyển cảnh. Mô hình tiết tấu này dành cho những tiết mục múa tập thể
với những động tác đơn giản như tay múa guộn ngón, chân di chuyển chậm
hoặc đi xuyến. Tiết tấu ở đây tuy đơn giản nhưng được diễn tấu ở tốc độ
nhanh đã tạo nên tính chất vui vẻ, nhộn nhịp.
Ví dụ 7:
Mô hình đánh điểm là những mô hình được dùng ở những chỗ kết một câu
hát hay một câu đối thoại. Đây là mô hình do trống bản thực hiện. Đánh điểm
thường chỉ có 2 hoặc 3 tiếng trống, cũng có thể có tới 5 hoặc 6 tiếng nhưng
phải dùng kết hợp so le giữa lối đánh vào mặt trống và tang trống. Thường
gặp nhất những mô hình sau:
Ví dụ 8:
a.
b.
c.
79
d.
Có thể nhận thấy sự có mặt của tiết tấu ở hầu hết các hoạt động văn hóa có
trong lễ hội: hòa tấu trong tế lễ (mục 3.1.2); đánh điểm trong trò diễn; đệm
hát, múa; và cả các hoạt động vui chơi trong lễ hội;... Điều đó dẫn đến sự đa
dạng về tính chất âm nhạc trong lễ hội nói chung.
Bên cạnh yếu tố tiết tấu, không thể không nói tới phương thức diễn xướng
thể hiện đời sống gắn bó với lao động (trên sông nước, ruộng đồng,…). Khi
diễn xướng, diễn viên đã thổi vào đó sự mệt nhọc, nặng nề hay phấn khởi, sôi
động. Có thể nhận thấy tính chất nặng nề trong Hò chèo khoan, Hò chèo đấu
(chèo thuyền đền Mưng), hát Trống vả (Tĩnh Gia); vui vẻ, hoạt bát trong
Chèo chải Thiệu Quang; hài hước, dí dỏm trong trò Ngô, Tiên Cuội,… (Đông
Anh);… Sự kết hợp giữa yếu tố tiết tấu cùng với phương thức diễn xướng đã
tạo nên một sắc thái vùng miền khá rõ nét.
3.2.1.3. Mối quan hệ giữa thanh điệu và âm điệu
Thanh Hóa có một địa thế khá độc lập về mọi mặt và là gạch nối giữa đàng
trong và đàng ngoài nên dễ tiếp nhận các dòng văn hóa khác, đồng thời có sắc
tố độc lập cao. Xem xét mối quan hệ giữa thanh điệu và âm điệu sẽ nhận thấy
rõ sự tiếp biến đó.
Phát triển giai điệu theo ngữ điệu tiếng nói phổ thông
Để hiểu được những đặc điểm trong dân ca xứ Thanh phải xem xét ở nhiều
khía cạnh khác nhau, mà trước hết cần phải so sánh với âm điệu tiếng nói phổ
thông chuẩn nhất.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngữ âm tiếng Việt và giai điệu dân ca, Tú
Ngọc đã khẳng định:
80
Tiếng Việt là loại ngôn ngữ đơn âm và đa thanh. Mỗi vần chữ được phát
lên bằng những âm điệu khác nhau, ý nghĩa cũng từ đó mà thay đổi [41,
tr.186].
Mỗi âm điệu (mỗi vần chữ) đều vang lên ở bước một, âm điệu trung bình
(thanh bằng), và âm điệu này tương đương với một quãng 4 đúng; sang
bước hai, đường âm từ âm điệu trung bình tiến về vị trí âm điệu của mình
[41, tr.187].
Ý kiến của PGS. TS Nguyễn Thị Nhung cho rằng:
Mối quan hệ giữa thanh bằng (không dấu) và thanh huyền ( \ ) tạo thành
quãng 4 đúng. Nếu lấy thanh bằng làm trung tâm thì những thanh còn lại
có thể chia thành hai hướng: vận động đi lên cao hơn thanh bằng, gồm
thanh sắc và ngã; vận động đi xuống dưới thanh bằng, gồm thanh hỏi và
nặng. [46, tr.43].
Như vậy, các ý kiến đều có sự thống nhất:
- Sự vận động giai điệu thường xoay quanh trục quãng 4 đúng, giữa thanh
huyền và thanh không dấu.
- Sự vận động phong phú và đa dạng 6 thanh điệu: Bằng, sắc, huyền, nặng,
hỏi, ngã ( - / \ . ? ~ ) đã quy định chữ nghĩa của từng vần rất chặt chẽ.
+ Vị trí âm thanh cao: Thanh sắc (/), thanh ngã (~ ).
+ Vị trí âm thanh giữa: Thanh bằng (-).
+ Vị trí âm thanh thấp: Thanh huyền (\), thanh nặng (.), thanh hỏi (?).
Quy luật vận động âm điệu giữa các thanh như trên rõ ràng giàu nhạc điệu,
một mặt là do dựa trên cơ sở của ngôn ngữ đa thanh, mặt khác còn được hình
thành và phát triển một cách phong phú, đa dạng. Đặc diểm này được thể hiện
khá rõ qua cơ cấu âm nhạc dân gian Việt Nam, trong đó có âm nhạc dân gian
xứ Thanh.
81
Chẳng hạn như trong bài Cò lả (Dân ca đồng bằng Bắc Bộ) có giai điệu
theo hướng chuyển động đi lên rồi đi xuống trên trục quãng 4 (Đô - Pha).
Ví dụ 10: (Trích bài 95, PL4, tr.137)
Hay như trong bài Buông áo em ra (Dân ca Nghệ An) cũng có giai điệu
chuyển động trên trục quãng 4 (Rê - Son), là những âm ổn định trong bài hát.
Ví dụ 11: (Trích bài 94, PL4, tr.136)
Dân ca xứ Thanh cũng theo nguyên tắc chuyển động như vậy. Trong bài
hát của Trống (trò trống Mõ), khi hát hai chữ “mình” và “đây” đã tuân thủ
nguyên tắc giữa thanh huyền và thanh không dấu là một quãng 4 đúng.
Ví dụ 12: (Trích bài 23, PL4, tr.50)
Làn điệu Vãn đường cù, khi hát những từ đệm bằng nguyên âm “a” giai
điệu chuyển động đi lên, đi xuống trên trục quãng 4 (Rê - Son).
Ví dụ 13: (Trích bài 33, PL4, tr.63)
82
Ngoài ra, xứ Thanh còn tiếp nhận ở “đàng ngoài” hệ thống dân ca Châu
Thổ sông Hồng, bao gồm: Cò lả, Trống Quân, Sa mạc,… được biểu diễn
trong một cuộc hát Ghẹo có tổ chức thành phường. Đây là những thể loại tiểu
biểu cho sự phát triển giai điệu theo ngữ điệu tiếng nói phổ thông.
Giao thoa thổ âm địa phương nơi tiếp giáp
Là vùng đất có tính trung gian cả trên bình diện môi trường địa lý tự nhiên
và cả về phương diện lịch sử văn hóa, xứ Thanh đã có những ảnh hưởng qua
lại nhất định về văn hóa của hai vùng này.
GS. TS Phạm Minh Khang nhận định:
Thanh Hoá được coi như một gạch nối giữa đàng trong (từ Nghệ An, Hà
Tĩnh trở vào) và đàng ngoài (từ Tam Điệp trở ra). Do đó, đặc tính giọng
nói người Thanh Hóa bị chi phối mạnh giữa hai miền là miền Trung và
miền Bắc, tạo nên sự “tranh chấp” thổ âm rõ rệt.6
So sánh tương quan độ cao giữa các thanh điệu cho thấy, cách phát âm của
người miền Bắc nghe rạch ròi, khúc triết còn người miền Trung nghe ngang
ngang, nằng nặng. Đối với người miền Trung, thanh hỏi và thanh ngã (? và ~ )
được phát âm ở cùng một âm khu thấp, thanh sắc ( /) thấp hơn thanh bằng.
Các dấu sắc và dấu ngã không kéo dài và vuốt lên như người miền Bắc mà
luôn bị co ngắn và ngắt. Hiện tượng đó phá vỡ quy luật dấu giọng giữa các
thanh theo tiếng phổ thông người Việt.
Địa thế Thanh Hóa giáp danh với Nghệ An nên hiện tượng giao thoa thổ
ngữ địa phương đã đi vào âm nhạc dân gian từ những ngày xa xưa.
Trong Làn điệu than của Tống Chân có câu “chàng mang đến sao chàng
nỏ biết”. Từ “nỏ” ở đây là thổ ngữ miền Trung (Nghệ An) lại xuất hiện trong
6 Trao đổi với GS. TS Phạm Minh Khang ngày 25 tháng 10 năm 2010 tại học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
83
âm nhạc dân gian xứ Thanh là một hiện tượng khá thú vị. (Xem Bài 37, PL4,
tr,67)
Hiện tượng hò Ghẹo mang âm hưởng miền Trung cũng khá phổ biến dọc
bờ sông Mã. Những từ có thanh hỏi không được hất từ dưới lên mà đi nhẹ từ
trên xuống giống thanh nặng; thanh huyền được hát ở vị trí thanh không, đó là
cách phát âm của vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. (Xem bài 1, PL4, tr.32)
Âm điệu mang dấu ấn thổ ngữ địa phương
Theo quy luật thì giọng nói ở nơi nào thì mang theo dấu giọng ở vùng ấy,
vì vậy, dân ca vùng nào thì cũng mang dấu ấn ngữ điệu của vùng ấy. Đặc tính
giọng nói của người xứ Thanh đã chi phối mạnh mẽ âm điệu dân ca Thanh
Hoá. Những âm điệu đặc trưng không lẫn lộn với các vùng khác, đặc biệt là
phát âm ở thanh hỏi và thanh ngã (? và ~) thường bị lẫn lộn. Khi nói "bản
nhạc" người Thanh Hoá sẽ nói thành" “bãn nhạc" , "ở đâu" thành “ỡ đâu”...
Đối với dấu ngã (~) lại phát âm như dấu hỏi. Khi nói "chiến sĩ" sẽ thành
"chiến sỉ", "vẻ đẹp" thành "vẽ đẹp",... Qua tìm hiểu và nghiên cứu chúng tôi
nhận thấy, ngôn ngữ Thanh Hóa không chỉ giao tiếp trong đời sống thường
ngày, mà còn len lỏi vào các làn điệu dân ca.
Ví dụ 14: (Trích bài 66, PL4, tr.96)
Bài hát có từ “mở” thành “mỡ”, “cửa” thành “cữa”, “thủy” thành “thũy”.
Ví dụ 15: (Trích bài 22, PL4, tr.49)
Bài hát có từ “chỗ” khi hát thành “chổ”, từ “cũng” thành “củng”.
84
“Cưỡng âm” làm đảo lộn dấu giọng
Cũng như những thể loại dân ca của các vùng miền khác, ta còn gặp hiện
tượng "cưỡng âm" làm đảo lộn dấu giọng. Hiện tượng đó là do trong dân gian
có thói quen chú trọng tới giai điệu hơn nên đôi khi lời hát không phù hợp với
nét nhạc, thậm chí còn làm sai lạc cả ngữ nghĩa của từ.
Ví dụ 16: (Trích bài 12, PL4, tr.43)
Như vậy, trong quá trình phổ nhạc nhìn chung có các khuynh hướng: phổ
thơ trên các thể thơ cổ truyền, có sử dụng các thủ pháp khác nhau để hoàn
thiện cấu trúc nhạc; tiết nhịp - tiết tấu khá mạch lạc, rõ ràng, một số ít được
phát triển theo hướng tự do; quan hệ giữa thanh điệu và âm điệu có sự tương
ứng với sự vận động giai điệu tiếng nói phổ thông, bên cạnh đó là hiện tuợng
mang nặng dấu ấn thổ ngữ địa phương và sự giao thoa thổ âm nơi tiếp giáp
vùng miền.
3.2.2. Thang âm
Âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh có vận dụng một cách nhuần
nhuyễn hệ thống ngũ cung lâu đời của dân tộc Việt Nam. Để tiện cho quá
trình phân tích và tìm hiểu, chúng tôi xin được thống nhất một số thuật ngữ,
ký hiệu như sau:
85
Nhóm các dạng thang 5 âm:
Thang 5 âm loại 1 (điệu Bắc):
c - d - f - g - a - (c2) (trong nhạc cổ gọi là cung Bắc giọng đô)
Tên gọi dân gian: Hò - xự - sang - xê - cống - (líu)
Thang 5 âm loại 2 (điệu Nam):
c - eb - f - g - h
b - (c2) (trong nhạc cổ gọi là cung Nam giọng đô)
Tên gọi dân gian: Hò - xừ - xang - xê - phan - (líu)
Thang 5 âm loại 3 (điệu Xuân):
c - d - f - g - hb - (c2) (trong nhạc cổ gọi là cung Nao giọng đô)
Tên gọi dân gian: Hò - xừ - xang - xê - phan - (liu)
Thang 5 âm loại 4 (điệu Oán):
c - eb - f - g - a - (c2)
Tên gọi dân gian: Hò - xự - xang - xê - cống - (líu)
Thang 5 âm loại 5 (điệu Cung):
c - d - e - g - a - (c2) (trong nhạc cổ gọi là cung Huỳnh giọng đô)
Tên gọi dân gian: Hò - xự - xư - xê - cống - (líu)
Nhóm các dạng thang âm dưới 5 âm:
Thang 4 âm:
Thang 4 âm loại 1: c - d - f - g
Thang 4 âm loại 2: c - eb - f - g
Thang 4 âm loại 3: c - eb - f - a
b
Thang 3 âm:
Thang 3 âm loại 1: c - d - f
Thang 3 âm loại 2: c - d - g
Thang 3 âm loại 3: c - f - g
Thang 3 âm loại 4: c - f - a
Thang 3 âm loại 5: c - e - gb
86
3.2.2.1. Các bài ca ở dạng một thang âm
Các bài ca ở dạng một thang âm được hình thành chủ yếu trên cơ sở các
thang 5 âm, một số ít bài ở thang 4 âm và 3 âm.
Các dạng thang 5 âm
Thang 5 âm loại 1 (điệu Bắc)
Thang 5 âm loại 1 có cấu tạo: (1c - 1,5c) 1c (1c - 1,5c), hình thành hai
nhóm 3 âm trên và dưới, mỗi nhóm âm chứa một quãng 1c và một quãng
1,5c. Màu sắc của thang âm tươi vui, sáng sủa.
Bài hò Hái củi được hình thành trên cơ sở thang 5 âm loại 1. Cấu trúc thang
âm của bài hát là đô - rê - pha - son - la, có sự hút dẫn mạnh về trục quãng đô
- son (bậc I - V) và được kết thúc ở bậc I. (Xem bài 10, PL4, tr.41)
Ví dụ 17:
Thang 5 âm loại 2 (điệu Nam)
Thang 5 âm loại 2 có cấu tạo: (1,5c - 1c) 1c (1,5c - 1c), hình thành nên hai
nhóm 3 âm trên và dưới giống nhau (1,5c - 1c), giữa 2 nhóm được liên kết
bằng quãng 1c. Thang 5 âm loại 2 phù hợp với những bài ca có sắc thái dịu
dàng, trầm lắng.
Trong làn điệu Sai của thầy Hai (B) (trò Thiếp) được hình thành bởi thang
5 âm loại 2. Âm pha và âm đô là những âm không ổn định thường bị hút về 3
âm trụ cột là âm la, rê, mi. Âm điệu của bài hát khoan thai, thong thả nhưng
cũng ẩn chứa trong đó một nỗi niềm man mác, xa xăm rất đặc trưng. (Xem
bài 72, PL4, tr.104)
87
Ví dụ 18:
Thang 5 âm loại 3 (điệu Xuân)
Thang 5 âm loại 3 có cấu tạo: (1c - 1,5c) 2T (1,5c - 1c), tạo nên sự đối
xứng giữa hai nhóm: Nhóm 3 âm dưới là 1c - 1,5c; nhóm 3 âm trên là 1,5c -
1c; giữa hai nhóm được nối liền với nhau bằng quãng 1c. Thang 5 âm loại 3
vừa thể hiện được trạng thái tươi sáng, vừa mang tính chất man mác buồn.
Bài Tiên hát mừng - trò Tiên Cuội là một trong những bài có thang 5 âm
loại 3. Bài hát có âm chủ là âm rê, giai điệu chủ yếu xoay quanh các âm
chính: rê, son, la, các âm mi và đô thường có trường độ ngắn hơn và bị hút
dẫn về các âm chính. (Xem bài 64, PL4, tr.95)
Ví dụ 19:
Thang 5 âm loại 4 (điệu Oán)
Thang 5 âm loại 4 có cấu tạo: (1,5c - 1c) 1c (1c - 1,5c). Thang 5 âm loại IV
vừa có sắc thái dịu dàng, man mác (nhóm 3 âm dưới) vừa có sắc thái vui tươi,
sáng sủa (nhóm 3 âm trên). Hai nhóm được nối với nhau bằng quãng 1c.
Về loại thang âm này có ý kiến cho rằng: “Loại thang âm tưởng chừng như
đơn giản nhưng không phải dân tộc nào cũng có và khó tìm gặp trong kho
88
tàng âm nhạc truyền thống của nhiều nước. Nó không thuộc hệ thống ngũ
cung của Hán tộc và ít thấy xuất hiện trong các làn điệu của dân ca Bắc
bộ….” [69, tr.144].
Trong số 92 bài dân ca của người Việt xứ Thanh, chúng tôi chỉ gặp có một
bài ca ở dạng thang âm này, đó là Bài hát của Trống và Mõ (E). Thực ra bài
hát được hình thành chủ yếu ở thang 4 âm (rê- sol- la- xi) đến cuối bài mới
xuất hiện âm pha tạo nên thang 5 âm loại 4 (rê - fa - sol - la - xi). (Xem bài
18, PL4, tr.46)
Thang 5 âm loại 5 (điệu Cung)
Thang 5 âm loại 5 có cấu tạo 1c - 1c - 1,5c - 1c - 1,5c. Cấu tạo như vậy đã
hình thành nên âm điệu quãng 2c (giữa bậc I với bậc III) và quãng 3,5c (giữa
bậc I với bậc IV) tạo nên màu sắc khoẻ khoắn, sáng sủa. Do màu sắc gần
giống với điệu thức Bắc nên có nhiều người gọi là “Bắc biến”. Trong quá
trình phân tích chúng tôi nhận thấy, thang 5 âm loại 5 ít khi đứng độc lập
trong một bài hát mà thường kết hợp với các dạng thang âm khác.
Ví dụ 20:
Bài Dệt cửi là một trong số ít bài có thang 5 âm loại 5. Giai điệu bài hát
chủ yếu xoay quanh các âm chính (đô, mi, son), các âm phụ (rê, la) thường
xuất hiện ở phách nhẹ hoặc phần nhẹ của phách (Xem bài 49, PL4, tr.79).
Thang âm 4 âm
Trong các bài ca của trò diễn và diễn xướng có một số bài được hình thành
bởi thang 4 âm.
Thang 4 âm loại 1:
89
Thang 4 âm loại 1 có cấu tạo: 1c - 1,5c - 1c. Do cấu tạo như vậy, những bài
hát ở dạng thang âm này đã có những âm điệu quãng quãng 1c (giữa bậc I và
II); quãng 2,5c (giữa bậc I và III); quãng 3,5c (giữa bậc I và IV).
Bài hát của mẹ mõ (A) được hình thành trên cơ sở thang 4 âm loại 1. Trong
quá trình vận động, giai điệu bài hát được mở rộng thêm một âm có quan hệ
với âm bậc VI một quãng 8 đúng ở phía dưới và được kết ở nốt sol là âm ổn
định nhất của bài (xem bài 12, PL4, tr.43).
Ví dụ 21:
Thang 4 âm loại 2:
Thang 4 âm loại 2 có cấu tạo: 1,5c - 1c - 1c. Âm điệu cơ bản của những bài
hát ở dạng thang âm này là quãng 1,5c (giữa âm bậc I và II); quãng 2,5c (giữa
âm bậc I và III); quãng 3,5c (giữa âm bậc I và bậc IV). Bài “Chúc mừng”
trong trò Nữ quan có cấu tạo thang âm loại này (xem bài 28, PL4, tr.55).
Ví dụ 22:
Thang 4 âm loại 3:
Thang 4 âm loại 3 được hình thành bởi hai quãng 1,5c đối xứng ở trên và
dưới (giữa bậc I và II, giữa bậc III và V), ở giữa là quãng 1c. Cấu tạo của
thang 4 âm loại 3 là: 1,5c - 1c - 1,5c.
Làn điệu than trong trò Tống Chân được hình thành bởi bốn âm mi - son -
la - đô, có thêm âm la ở quãng 8 nhỏ, cách âm la (bậc III) một quãng 8 ở phía
duới. Làn điệu được có phong cách theo kiểu hát nói (gần giống với nói lối
90
trong tuồng cổ) nên âm vực tương đối rộng (quãng 10), từ âm la ở quãng 8
nhỏ tới âm đô ở quãng 8 thứ nhất (xem bài 37, PL4, tr.67).
Ví dụ 23:
Thang âm 3 âm
Trong quá trình phân tích và tổng hợp chúng tôi nhận thấy có một số ít bài
ca chỉ có 3 âm.
Thang 3 âm loại 1:
Thang 3 âm loại 2 có cấu tạo giữa bậc I và II là quãng 1c; giữa bậc II và III
là quãng 1,5c; giữa bậc I và III là quãng 2,5c. Đơn cử như làn điệu của thầy
phù thuỷ trong trò Lưu Quân Bình có 3 âm đô - rê - pha, âm vực là một quãng
8 đúng do giai điệu của làn điệu có âm bậc III (âm pha) được mở rộng thêm
một quãng 8 ở phía dưới (xem bài 40, PL4, tr.69).
Ví dụ 24:
Thang 3 âm loại 2:
Thang 3 âm loại 2 có cấu tạo giữa bậc I và II là quãng 1c; giữa bậc II và III
là quãng 2,5c; giữa bậc I và III là quãng 3,5c.
Bài “Hát chúc” trong Múa đèn Thiệu Quang có thang 3 âm loại II (son - la
- rê), có thêm âm pha là âm được luyến lên hay luyến xuống từ những âm
chính trong bài, không phải là âm chính nằm trong thang âm. Âm bậc III (âm
91
rê) thường được hát ở vị trí cách một quãng 8 ở phía dưới (quãng 8 thứ nhất),
mở rộng âm vực cho bài hát (xem bài 90, PL4, tr.127).
Ví dụ 25:
Các dạng thang 3 âm loại 4 (c - f - a) và thang 3 âm loại 5 (c - e - gb) ít xuất
hiện hơn và thường được kết hợp với các dạng thang âm khác.
3.2.2.2. Kết hợp dạng thức
Kết hợp các dạng thang âm là một trong những phương tiện biểu hiện ngôn
ngữ âm nhạc, làm phong phú và đa dạng thêm những sắc thái tình cảm của
giai điệu, đồng thời tạo ra mầu sắc mới làm thay đổi tính chất âm nhạc trong
bài ca.
Khi kết hợp dạng thức số lượng âm xuất hiện sẽ nhiều hơn, có những bài có
tới 7, 8 thậm chí 9, 10 âm, âm vực của bài hát cũng từ đó mà được mở rộng
hơn.
Có 3 phương thức kết hợp dạng thức:
Dạng thứ nhất: Cùng loại thang âm nhưng khác âm gốc (có người gọi là
chuyển hệ).
Đây là trường hợp một bài ca, một đoạn nhạc hoặc một câu nhạc có sử
dụng chung một dạng thang âm nhưng lại có sự chuyển điệu từ âm chủ này
sang âm chủ khác.
Bài Đan lừ (Múa đèn Đông Anh) được bắt đầu bằng thang 5 âm dạng 5, có
khung cấu tạo là đô - rê - mi - son - la - (đô2), khung tựa âm điệu dựa trên các
bậc I và IV đến giữa nhịp thứ 5 giai điệu chuyển sang âm chủ son - la - si -
rê2 - mi2 - (son2), khung tựa âm điệu dựa trên các bậc I - IV, âm phụ trợ là
92
bậc III làm chỗ dựa vững chắc cho giai điệu và tăng tính ổn định cho âm chủ
(xem bài 45, PL4, tr.74).
Ví dụ 26:
Dạng thứ hai: Cùng âm gốc khác thang âm
Đây là sự kết hợp một cách tự nhiên vì từ câu nhạc này tới câu nhạc tiếp
theo vẫn giữ nguyên âm chủ, chỉ thay đổi thang âm thích hợp.
Bài hát của mẹ Mõ có thang 5 âm loại 3, sau đó chuyển sang thang 5 âm
loại 2. Bài hát được hình thành trên hai thang âm khác nhau nhưng có cùng
âm gốc là âm rê. Sự kết hợp này tạo ra hàng âm rê - mi - pha - son - la - đô
(xem bài 26, PL4, tr.52).
Ví dụ 27:
Dạng thứ ba: Khác thang âm khác âm gốc
Đây là dạng mà trong một câu nhạc, đoạn nhạc hay một bài ca có sự biến
động về dạng thức và chủ âm, chúng tạo ra mầu sắc khác nhau của hai thang
âm. Nhờ có sự kết hợp khác dạng thức và khác chủ âm nên bài ca thường
phong phú về âm điệu, giữa hai âm chủ của mỗi điệu thức thường có mối
quan hệ quãng 4, quãng 5.
Làn điệu Thầy phù thủy có giai điệu chuyển từ nhịp một đến nhịp 5 ở thang
5 âm loại 2, âm bậc III (nốt la) cùng với âm gốc - bậc I (nốt mi) tạo thành
93
khung tựa âm điệu mi - la, khi chuyển sang thang thang 5 âm loại 5, nốt la
chuyển hoá thành âm bán gốc (âm bậc V), (xem bài 34, PL4, tr.64).
Ví dụ 28:
Tiến hành phân tích, tổng hợp các bài dân ca xứ Thanh (phụ lục 1, tr.2) cho
thấy các dạng thang 5 âm loại 1 chiếm 28,2%; thang 5 âm loại 2 chiếm
19,5%; thang 5 âm loại 3 chiếm 6,5%; thang 5 âm loại 4 và 5 chỉ chiếm số
lượng rất ít. Các bài hát ở thang 4 âm, thang 3 âm thường xuất hiện ở các bài
ca có phong cách hát nói. Bên cạnh đó còn phải kể tới số lượng tương đối lớn
các bài ca có dạng kết hợp thang âm (29,3%). Về cơ bản khi kết hợp các
thang âm đã tạo thêm mầu sắc mới, thậm chí còn tạo sự tương phản trong
cùng một bài hát.
3.2.3. Giai điệu
Giai điệu dân ca xứ Thanh được hình thành gắn bó chặt chẽ với thanh điệu
tiếng nói (mục 3.2.1.4). Mỗi phong cách có lối chuyển động giai điệu khác
nhau, tạo nên tính chất đặc thù riêng. Có ba phong cách cơ bản được trình
diễn trong những dịp lễ hội.
3.2.3.1. Hát nói
Xứ Thanh là nơi tập trung nhiều các trò diễn, do vậy hát nói được sử dụng
khá nhiều. Đây là dạng nói có cách điệu, gần với hát vì vậy nó có quan hệ
chặt chẽ với thanh điệu tiếng nói hàng ngày. Trong trò diễn, hát nói là phương
tiện để truyền tải nội dung nhân vật, được sử dụng trong nhiều trường hợp
như: nói sử, xưng danh, đối thoại nhân vật… Xét về hình thức cũng như
94
phương tiện diễn tả, chúng tôi nhận thấy có hai phương thức thể hiện theo
phong cách này:
- Thứ nhất: Hát nói trong đối thoại của trò diễn
Trong các trò diễn, khi đối thoại với nhau các nhân vật không chỉ sử dụng
ngữ điệu tiếng nói hàng ngày, mà đã có sự ngân nga, trầm bổng theo kiểu “lơi
nhịp”, điều đó phù hợp với dân ca là diễn xướng theo tình cảm. Hát nói trong
đối thoại với mục đích là để thể hiện tính cách nhân vật hoặc dẫn dắt người
hát có thể vào phần hát chính được dễ dàng hơn. Giai điệu ở những câu nói
đối thoại đơn giản, ít âm điệu, tiết tấu chậm dãi, có thể có chu kỳ hoặc đồng
độ. Hát nói ở dạng này có hoặc không có nhịp điệu, nếu có thì ở dạng nhịp
chẵn. Trong trò Ngô Đông Anh có đoạn hát đối giữa cô đĩ và ba ông xứ chỉ sử
dụng có 3 âm với tiết tấu rất đơn giản.
Ví dụ 29:
- Thứ hai: Những bài ca mang phong cách hát nói
Đây là những bài hát được nhân vật trong các trò diễn có tâm trạng phức
tạp thể hiện. Đặc điểm của phong cách này là nhịp điệu tự do, trọng âm không
cố định; sử dụng nhiều quãng xa (q6, q7, q8, q11) đối với những thanh huyền
- không, nặng - hỏi, thậm chí còn sử dụng quãng xa giữa hai thanh huyền để
phát triển giai điệu. Có thể kể những bài ca có phong cách này như làn điệu
than (Tống Chân); làn điệu thầy phù thủy (Lưu quân bình); bài hát của Công
tử (Nữ quan),… (Xem các bài 4, 37, 39, 40,… PL4).
3.2.3.2. Hát ngâm
Hát ngâm cũng là dạng hát tự do tùy theo tâm trạng của nhân vật. Hát ngâm
khác với hát nói về tính chất âm nhạc cũng như phương thức thể hiện.
95
Nếu hát nói dùng quãng rộng để hình thành nên tính chất đặc trưng cho
phong cách của mình thì hát ngâm lại thường sử dụng những âm điệu luyến
láy cho mỗi ca từ, ít sử dụng quãng xa (trên 1 quãng 8) và không có nhịp điệu
rõ ràng. Tính chất của hát ngâm buồn rầu, ảm đạm, thể hiện rõ tâm trạng của
những nhân vật có tâm trạng đau khổ (mẹ Duộp, Quyên Duyên, Cuội…) hoặc
những nhân vật có thân phận thấp hèn trong xã hội phong kiến xưa (mẹ
Mõ,…), (xem các bài 22, 36, 61,… PL4).
3.2.3.3. Ca xướng
Những bài mang phong cách ca xướng thường có nhịp điệu rõ ràng, có
nhiều nét tinh tế trong tiến hành giai điệu, có sự phát triển tương đối cao về
nghệ thuật diễn tả. Phong cách ca xướng chiếm tỷ lệ nhiều hơn cả, xuất hiện
trong các trò diễn, diễn xướng; những bài hát Ghẹo thấm đượm tình quê;…
Đặc điểm của những bài ca này là sử dụng một số đơn âm cho mỗi ca từ kết
hợp với những âm điệu luyến láy để tạo nên tính chất mềm mại, trữ tình.
Chính nhờ những âm điệu luyến, láy này mà đường nét giai điệu trở nên uyển
chuyển, mượt mà và sống động, làm giảm bớt đi ngữ điệu thô và cứng của thổ
ngữ địa phương. Nhiệm vụ chính của những mô hình âm điệu luyến, láy,
thêu… là nhằm để truyền tải phần lời ca có nhóm các từ phụ, bên cạnh đó còn
thể hiện rõ ngữ âm, ngữ điệu đặc trưng.
Mô hình âm điệu luyến
Biểu hiện cụ thể của những âm điệu luyến là những mô hình gồm nhiều âm
liên kết với nhau để chuyển tải cho một hoặc hai từ của phần lời, hoặc là sự
ngân vang của những từ phụ, từ đệm lót: “i”, “a”, “ối a”, “í a”...
Điển hình nhất là kiểu luyến 4 âm ( ) rồi nhẩy quãng 4 đúng đi
xuống. Đặc điểm của nó là thường bao quanh những âm ổn định, có thể xuất
hiện rải rác trong bài hoặc khi giai điệu kết thúc.
96
Ví dụ 30: (Trích bài 36, PL4, tr.66)
Hiện tượng này còn tỏ ra rất hiệu quả ở những lời ca có thanh huyền và
thanh nặng, nó làm cho âm điệu của hai thanh này thêm phần mềm mại,
duyên dáng.
Ví dụ 31: (Trích bài 59, PL4, tr.90)
Ngoài ra, còn có những trường hợp như nhóm 4 âm được hát với thanh
ngang.
Ví dụ 32: (Trích bài 44, PL4, tr.73)
Bên cạnh kiểu luyến trên, kiểu luyến xuống quãng 3 thứ để kết ở phần yếu
cũng là một kiểu kết rất đặc trưng của dân ca xứ Thanh. Kết ở phần yếu rồi
kết xuống một quãng 3 thứ tạo cho bài ca trở nên mềm mại, nhẹ nhàng hơn.
Ví dụ 33: (Trích bài 11, PL4, tr.42)
Ngoài ra, còn rất nhiều những kiểu luyến khác:
- Luyến 5 âm, bắt đầu từ âm bậc V hướng tới âm gốc.
97
Ví dụ 34: (Trích bài 17, PL4, tr.45)
- Luyến 4 âm rồi đi lên quãng 2 có âm tô điểm.
Ví dụ 35: (Trích bài 77, PL4, tr.112)
- Luyến 4 âm rồi đi xuống quãng 3.
Ví dụ 36: (Trích bài 42, PL4, tr.71)
Các kiểu luyến 2 âm cũng được sử dụng theo kiểu đi lên hoặc đi xuống liền
bậc hoặc nhẩy quãng 3, quãng 4 kết hợp với tiết tấu đơn, kép hay nốt có chấm
dôi.
- Luyến quãng 3 từ trên xuống hoặc luyến quãng, quãng 3 từ dưới lên.
Ví dụ 37: (Trích bài 82, PL4, tr.118)
- Luyến 2 âm quãng 4 đi xuống kết hợp với âm hình tiết tấu đảo phách
( ) làm cho giai điệu có màu sắc vừa vui vẻ, nhộn nhịp vừa hài hước,
dí dỏm.
Ví dụ 38: (Trích bài 51, PL4, tr.81)
98
- Luyến 2 âm đi lên quãng 3 rồi đột ngột nhẩy xuống quãng 6 để về kết.
Ví dụ 39: (Trích bài 14, PL4, tr.44)
- Luyến 2 âm quãng xa.
Ví dụ 40: (Trích bài 92, PL4, tr.132)
Mô hình âm điệu thêu quãng 2 trưởng
Láy nhanh tạo nên mô hình âm điệu thêu xuất hiện rải rác ở một số bài, đó
là các mô hình:
- Thêu đi xuống rồi đi lên quãng 2 trưởng
Ví dụ 41: (Trích bài 69, PL4, tr.99)
- Thêu đi lên rồi đi xuống quãng 2 trưởng
Ví dụ 42: (Trích bài 86, PL4, tr.122)
- Mô hình thêu tạo nên hình thái lượn đi xuống
Ví dụ 43: (Trích bài 75, PL4, tr.109)
99
- Mô hình thêu tạo nên hình thái lượn đi lên
Ví dụ 44: (Trích bài 88, PL4, tr.124)
- Mô hình thêu lên quãng 3 thứ rồi xuống quãng 2T
Ví dụ 45: (Trích bài 21, PL4, tr.48)
Mô hình âm điệu nhấn vuốt (láy)
Mô hình âm điệu nhấn vuốt có đặc điểm hướng tới âm chính được chuẩn
xác hơn. Điển hình là láy đơn đi lên hoặc đi xuống quãng 2, quãng 3.
- Láy quãng 2 đi lên rồi luyến xuống quãng 5
Ví dụ 46: (Trích bài 85, PL4, tr.121)
- Láy đơn quãng 3 đi xuống
Ví dụ 47: (Trích bài 92, PL4, tr.132)
- Láy đơn quãng 4, quãng 5, quãng 6 đi xuống hoặc đi lên.
Ví dụ 48: (Trích bài 58, PL4, tr.89)
Bên cạnh các dạng láy đơn còn có các dạng láy, các dạng láy kép.
100
Ví dụ 49: (Trích bài 80, PL4, tr.116)
Ngoài ra còn có kiểu hát láy vuốt lên rất nhanh từ nốt chính tới nốt dựa
ngắn hoặc hát đi xuống có tốc độ chậm hơn (glissan do).
Kiểu hát vuốt xuống có tốc độ chậm thường để diễn đạt tâm trạng của
những nhân vật có thân phận đau khổ, sầu não như trong bài “Cuội than”
được thể hiện với tâm trạng buồn chán khi các nàng Tiên bay về trời.
Ví dụ 50: (Trích bài 61, PL4, tr.92)
Còn kiểu láy vuốt lên rất nhanh từ nốt chính tới nốt dựa ngắn lại phù hợp
với những bài ca có tính chất vui vẻ, nhộn nhịp.
Ví dụ 51: (Trích bài 42, PL4, tr.71)
Các kiểu âm láy, thêu, nhấn vuốt trên đây tuy không mang ý nghĩa bao
trùm nhưng lại là những chi tiết giai điệu rất quan trọng. Mỗi mô hình đều có
kết cấu riêng nhưng đặc điểm chung vẫn là tạo nên các đường giai điệu sinh
động, làm giảm bớt đi ngữ điệu “thô” và “cứng” của địa phương Thanh Hóa.
3.2.4. Âm vực
Qua tổng hợp 92 bài dân ca xứ Thanh chúng tôi nhận thấy khoảng cách của
các bài dân ca giao động từ quãng 5 đến quãng 12. Trong đó, âm vực hẹp hơn
quãng 8 chiếm phần chủ yếu, gồm 67/92 bài, chiếm tỉ lệ 73% (Bảng tổng hợp
âm vực, PL1, tr.2).
101
Với kết quả điều tra như vậy, nếu so với các vùng dân ca khác như dân ca
Quan họ Bắc Ninh, dân ca vùng đồng bằng Bắc Bộ, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca
Nam Bộ,… thì âm vực ở đây hẹp hơn rất nhiều. Đơn cử như so sánh với dân
ca Quan họ Bắc Ninh do Nguyễn Trọng Ánh đã tổng hợp trên 60 bài dân ca
Quan họ, trong đó âm vực hẹp hơn quãng 8 chỉ chiếm tỉ lệ 3,33% [8, tr.101].
Những bài dân ca xứ Thanh có âm vực hẹp (trong phạm vi 1 quãng 8) đa số
được diễn xướng theo hình thức tập thể, vì vậy âm vực không rộng là điều dễ
hiểu. Các bài ca có âm vực rộng hơn 1 quãng 8 thường là những bài hát có
đặc điểm co dãn và dàn trải về nhịp điệu, được cá nhân diễn xướng miêu tả
cảm xúc mạnh mẽ. Qua đó cho thấy, dân ca xứ Thanh chú trọng tới phương
thức diễn xướng mang tính tập thể, cộng đồng nhiều hơn phương thức diễn
xướng mang tính đơn lẻ.
3.3. Cấu trúc bài bản
Cấu trúc được hiểu là mối tương quan giữa các phần với nhau. Cấu trúc ở
đây là sự tổ chức, phân chia các cơ cấu bộ phận, chức năng và sự tiếp nối các
bộ phận với nhau ở một bài ca.
Để tiện cho việc phân tích, chúng tôi thống nhất với tên gọi đã trở thành
phổ biến cho các phần: mở bài, thân bài và kết bài.
Xét về phương diện âm nhạc học, mở bài và kết bài là phần phụ, còn thân
bài là phần chính của một hình thức âm nhạc cụ thể. Nếu đem lý thuyết này
áp dụng vào phân tích âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh sẽ có
những điểm tương đồng nhưng cũng có những điều rất khó thuyết phục bởi
dân ca xứ Thanh không chỉ có những bài bản đơn lẻ đặc trưng cho từng thể
loại mà còn có rất nhiều những bài ca nằm trong hệ thống các trò diễn, diễn
xướng. Sự đa dạng các hình thức nghệ thuật dân gian đã tạo nên cấu trúc bài
bản trở nên phức tạp hơn.
102
3.3.1. Cấu trúc bộ phận:
Mở bài
- Mở bài “lấy hơi”
Đây là một nét nhạc ngắn xuất hiện trong những làn điệu Hò ghẹo, là
những hư từ gồm một hoặc hai âm, chưa rõ nội dung diễn tả, đó là: ơ, hờ ơ,
hò ơ, ơ hò,… Do đặc điểm diễn xướng của thể loại phải đối đáp ở khoảng
cách khá xa nên phải lấy hơi cất cao giọng để câu hát được vang hơn. Bộ
phận “lấy hơi” này tuy ngắn nhưng lại rất quan trọng trong việc hình thành
nên tính chất của thể loại. Chúng tôi tạm xếp là bộ phận mở bài.
Ví dụ 52: (Trích bài 1, PL4, tr.32)
- Mở bài “đối thoại”
Là mảnh đất sản sinh ra nhiều trò diễn, diễn xướng. Do vậy, cấu trúc làn
điệu cũng có những đặc điểm khá riêng biệt. Trong trò diễn, phần đối thoại
với phần hát lời ca chính luôn có nội dung liên quan đến nhau, nếu tách rời
hai bộ phận này nhiều bài ca sẽ trở thành khó hiểu về nội dung và ý nghĩa của
chúng. Sẽ hợp lý hơn nếu xếp bộ phận này là phần mở bài.
Đối thoại không chỉ nhằm truyền tải nội dung chính của cốt truyện mà còn
đảm nhiệm thêm trách nhiệm dẫn dắt cho người hát tiếp theo. Nếu nói với âm
điệu cao thì người hát sẽ hát cao, nếu dẫn với âm điệu thấp thì người hát sẽ
hát thấp. Mặc dù xếp vào bộ phận mở bài nhưng thực chất khi đối thoại với
nhau chúng còn có chức năng cầu nối (hay “câu chuyển”) từ bài ca này tới bài
ca tiếp theo.
Đơn cử như trong trò Trống Mõ có phần đối thoại đố chữ, được xếp thành
hai bộ phận “mở bài” và “thân bài” như sau:
103
Mở bài:
Mõ (hỏi):
Ngày thời tầng hấng tờ hơ
Tối ngày chập choạng vội vơ ních vào
Là cái gì?
Trống (đáp):
Nó là cái then cửa.
Thân bài:
Trống và Mõ (cùng hát):
Khăng khăng cửa đóng then gài (cài)
Cửa trong mắc khóa, cửa ngoài mắc then
Đôi ta còn lạ chưa quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không gài.
Thân bài
Phần thân bài có nhiều cấu trúc khác nhau nhưng đều là những bài ca có
cấu trúc hoàn chỉnh. Trong quá trình xem xét và tìm hiểu, dựa vào tiêu chí
đồng dạng về các loại cấu trúc, chúng tôi tạm phân chia thành 3 nhóm. Ở đây
chúng tôi quan niệm câu nhạc có cấu trúc gắn liền với câu thơ, vì vậy điểm
phân ngắt của các câu thơ cũng chính là điểm phân ngắt của các câu nhạc.
Nhóm 1: Kiểu cấu trúc phân câu, phân đoạn
Các dạng cấu trúc đơn giản nhất, ngắn gọn nhất là các dạng đoạn nhạc phân
thành hai câu hoặc ba câu tương ứng với các thể thơ lục bát. Cũng có những
bài hát được phân theo trổ nhằm truyền tải phần nội dung lời ca tương đối dài.
Cụ thể:
- Cấu trúc đoạn nhạc hai câu tương ứng với hai câu thơ lục bát:
Cấu trúc đoạn nhạc hai câu tương ứng với hai câu thơ lục bát là một trong
những cấu trúc được sử dụng khá nhiều trong trò diễn dân gian của người
104
Việt xứ Thanh. Bài hát của Trống và Mõ (C) cấu trúc được chia thành hai
câu:
Câu nhạc 1 tương ứng với câu 6:
“Vòng vai chữ vị là vì”
Câu nhạc 2 tương ứng với câu 8:
“Chữ dục là muốn chữ tuỳ là theo”
Sơ đồ cấu trúc của bài hát là:
Chức năng cấu trúc Bộ phận chính
Câu thơ Câu 6 Câu 8
Câu nhạc 1 2
Số nhịp 4 8
Chất liệu âm nhạc a b
(Xem bài 16, PL4, tr.45)
Các bài ca có cấu trúc tương tự có thể kể đến: “Nhổ mạ”, “Dệt cửi”, “Đi
gặt” (Diễn xướng Múa đèn Đông Anh); “Vào chùa”, “Rồng bay ngựa lượn”,
“Dâng hương” (Trò Triềng); “Hát xếp chữ” (Diễn xướng chèo chải Vĩnh
Lộc);…
- Cấu trúc đoạn nhạc hai câu ứng với thể thơ 4 chữ:
Đơn cử cho dạng đoạn nhạc này là bài Dệt cửa (a) - Múa đèn Đông Anh
được hình thành ở thể thơ 4 chữ, trong đó:
Câu 1 tương ứng với hai câu thơ đầu:
“ Ta cuốn cuồn cuộn
Ớ rằng tay quay”
Câu 2 tương ứng với ba câu thơ còn lại:
“Tay quay tay kéo
Ớ rằng tình nó
Nó ra rì rì”
105
Sơ đồ cấu trúc của bài hát là:
Chức năng cấu trúc Bộ phận chính
Câu thơ Câu 4 + 4 Câu 4 + 4 + 4
Câu nhạc 1 2
Số nhịp 6 7
Chất liệu âm nhạc a b
(Xem bài 48a, PL4, tr.77)
Trong quá trình sưu tầm và nghiên cứu, chúng tôi tìm được ba dị bản của
bài hát này. Dị bản thứ nhất (Kéo sợi a) là do chúng tôi sưu tầm, dị bản thứ
hai (Kéo sợi b) do Lê Quang Nghệ sưu tầm và ký âm năm 1962, dị bản thứ ba
(Kéo sợi c) do Nguyễn Liên sưu tầm và ký âm năm 2003. So sánh với dị bản
b và c chúng tôi nhận thấy:
Dị bản b có khác đôi chút về lời ca nhưng tương đồng về cấu trúc (đoạn
nhạc 2 câu), trong đó:
Câu 1 tương ứng với hai câu thơ đầu (4 + 4):
“Tay quay cùi cúi
Tay quay tay kéo”
Câu 2 tương ứng với hai câu thơ sau (4 + 4):
“Á rằng tình nó
Nó ra rì rì”
(Xem bài 48b, PL4, tr.78)
Dị bản c khác với dị bản a và b ở chỗ có thêm câu thứ 3 ứng với câu lục.
Do đó, cấu trúc của dị bản c sẽ là:
Câu 1 ứng với hai câu thơ đầu (4 + 4):
“Ta cuốn cuồn cuộn
Ớ rằng tay quay”
Câu 2 ứng với ba câu thơ tiếp theo (4 + 4 + 4):
“Tay quay tay kéo
106
Ớ rằng tình nó
Nó ra rì rì”
Câu 3 ứng với câu thơ cuối (6)
“Yêu nhau (mà) lấy quách nhau đi”
(Xem bài 48c, PL4, tr.78)
- Cấu trúc đoạn nhạc hai câu tương ứng với hai câu thơ 7 từ:
Bài hát của Trống và Mõ (D) có cấu trúc một đoạn hai câu tương ứng với
hai câu thơ 7 từ.
Câu 1 tương với câu đầu:
“Đa tử, đa tôn, đa phú quý”
Câu nhạc 2 tương ứng với câu thơ thứ hai:
“Đắc tài, đắc lộc, đắc trường sinh”
Sơ đồ cấu trúc của bài hát là:
Chức năng cấu trúc Bộ phận chính
Câu thơ Câu 7 Câu 7
Câu nhạc 1 2
Số nhịp 7 6
Chất liệu âm nhạc a b
(Xem bài 17, PL4, tr.45)
- Cấu trúc đoạn nhạc ba câu tương ứng với ba câu thơ:
Dạng cấu trúc này có 3 câu nhạc tương ứng với ba câu thơ. Bài Luống bông
luống đậu có ba câu thơ (6 + 8 + 6 hoặc 6 + 8 + 8) tương ứng với ba câu nhạc.
Câu nhạc 1 tương ứng với câu 6:
“Luống bông, luống đậu, luống khoai”
Câu nhạc 2 tương ứng với câu 8:
“Ở trên Thu Láng có hai luống hành”
Câu nhạc 3 tương ứng với câu 6:
107
“Ai làm cho luống công anh”.
Sơ đồ cấu trúc của bài hát là:
Chức năng cấu trúc Bộ phận chính
Câu thơ Câu 6 Câu 8 Câu 6
Câu nhạc 1 2 3
Số nhịp 6 6 5
Chất liệu âm nhạc a b c
(Xem bài 43, PL4, tr.72)
- Cấu trúc phân theo trổ:
Những bài ca có cấu trúc phân theo trổ có tính chất âm nhạc tương đối ổn
định, hạn chế sự phát triển giai điệu nhưng lại có ưu điểm là có thể truyền tải
được nội dung khá dài của lời thơ.
Bài hát “Chúc mừng” gồm có 10 trổ, mỗi trổ là một cặp lục bát.
Trổ 1: (nhịp 1 -> nhịp 7)
Trổ 2: (nhịp 8 -> nhịp 15)
Trổ 3: (nhịp 16 -> nhịp 23)
Trổ 4: (nhịp 24 -> nhịp 31)
Trổ 5: (nhịp 32 -> nhịp 38)
Trổ 6: (nhịp 39 -> nhịp 45)
Trổ 7: (nhịp 46 -> nhịp 52)
Trổ 8: (nhịp 53 -> nhịp 59)
Trổ 9: (nhịp 60 -> nhịp 68)
Trổ 10: (nhịp 69 -> nhịp 76)
(Xem bài 27, PL4, tr.53)
Cấu trúc phân theo trổ còn có dạng có thêm phần “đế” ở cuối mỗi trổ như
trong hát Trống vả. Loại hát này có một người hát chính, gọi là người
“xướng”, sau mỗi phần xướng là phần “đế” theo của cả tập thể.
108
Ví dụ 53: (Trích bài 8, PL4, tr.39)
Nhóm hai: Kiểu cấu trúc được hình thành trên cơ sở hai chất liệu âm
nhạc luân phiên
Đây là dạng cấu trúc khá phổ biến. Đặc điểm của các bài hát ở dạng này là
có hai chất liệu âm nhạc. Chất liệu thứ nhất do một người cầm cái hát (kể, bắt
cái) và chất liệu thứ hai do tập thể người đáp lại.
Ví dụ 54: (Trích bài 31, PL4, tr.59)
Hay như trong hát bơi thờ - chèo Chải Vĩnh Lộc có hai chất liệu rất rõ nét.
Chất liệu 1 do một người cầm cái hát, giai điệu theo hướng chuyển động đi
lên. Chất liệu 2 do tập thể người đáp lại, giai điệu theo hướng chuyển động đi
xuống. Hiện tượng này có thể bắt gặp trong các làn điệu hò Đường trường, hò
Xuôi dòng, hò Xuôi nhịp đôi hai,… trong hệ thống hò sông Mã.
Ví dụ 55:
Nhóm ba: Kiểu cấu trúc có hai p
(Trích bài 80 - chèo chải Vĩnh Lộc, PL4) (Trích bài 93 - hò Sông Mã, PL4)
109
Kiểu cấu trúc có hai phần: phần tự do và phần có quy luật cũng là một hiện
tượng khá phổ biến.
Phần hát tự do có 2 dạng
Dạng thứ nhất: Phần hát tự do mang tính ngâm ngợi, không có nhịp điệu rõ
ràng, thường được các nhân vật có số phận đau khổ, thương tâm thể hiện. Âm
điệu của hát tự do mang tính tự sự như lời than thân, trách phận, hay kể lể,
giãi bày.
Bài hát của mẹ Mõ (B) có phần hát tự do, giai điệu du dương, uyển chuyển
kiểu ngâm ngợi (trích bài 22, PL4, tr.49).
Dạng thứ hai: Bên cạnh các bài ca có phần hát tự do mang tính ngâm ngợi
là dạng bài ca có phần hát tự do theo kiểu hát nói. Đây là một hiện tượng nói
ngân nga, cách điệu, thường được các nhân vật diễn xướng theo tâm trạng của
nhân vật.
Trong bài hát của Công tử - trò Nữ Quan (do cụ Lê Thị Ngoạt ở Đông Anh,
Đông Sơn hát) có phần đầu là phần hát có nhịp điệu sau đó mới đến phần hát
nói mang tính tự do. Về âm điệu phần hát nói thường dùng những quãng rộng
(quãng 6, 7, 8) là những quãng căng thẳng thường xuất hiện ở những chỗ diễn
tả nội tâm kịch tính, cao trào,… Đặc điểm hát nói ở đây là có những âm nhấn
rất rõ ràng, khi diễn xướng phải lấy hơi và ngắt hơi cho phù hợp với âm điệu
của những chữ cần nhấn mạnh. Chẳng hạn chữ “xơi” ngân dài rồi luyến
xuống để về chữ “rượu” được nhấn mạnh và ngắt ở chữ “rượu”, chữ “lạnh”
được luyến lên và ngắt ở chữ “huyết” được nhấn mạnh,… Đây cũng là một
trong những đặc điểm thường gặp trong nghệ thuật Tuồng cổ (xem bài 30,
PL4, tr.57).
110
Phần hát có quy luật thường xuất hiện sau phần hát tự do, tạo nên sự tương
phản với phần hát tự do. Sự tương phản đó làm cho những làn điệu có lối cấu
trúc này thêm phần phong phú, sinh động (xem bài 22, PL4, tr.49).
Kết bài
Phần kết bài tuy là bộ phận có chức năng riêng biệt nhưng nó vẫn là một
phần phụ của hình thức. Trong các bài ca của trò diễn có hai dạng kết bài:
- Kết bài do mở rộng thân bài.
- Kết bài có chức năng tương đối độc lập.
Kết bài do mở rộng thân bài là phương thức nhắc lại tiết cuối của bài hát,
theo PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung thì những bài hát có kết bài dạng này được
gọi là đoạn nhạc có điệp khúc. Kết bài do mở rộng thân bài chiếm phần đa số
trong dân ca người Việt xứ Thanh (xem bài 20, PL4, tr.47).
Kết bài có chức năng tương đối độc lập không chiếm tỉ lệ nhiều. Đặc điểm
của nó là làm cho cấu trúc hình thức hoàn chỉnh hơn đồng thời tạo nên tính ổn
định cho bài hát. Phần kết này là giai đoạn tiếp tục mạch đập âm nhạc của
phần thân, có tiết nhịp rõ ràng (xem bài 29, PL4, tr.56)
Bên cạnh đó, cũng có bài ca có phần kết là một mô típ ngắn, độc lập, tách
biệt với phần thân. Trong bài Cuội trách ông Tạo (trò Tiên Cuội) sau lời hát
than, Cuội “Hú!...” lên rồi chết. Tiếng “Hú!...” ở đây vừa là sự nối tiếp về
nội dung bài ca, đồng thời cũng có ý nghĩa biệt lập về cơ cấu giữa các phần
(xem bài 60, PL4, tr.91).
3.3.2. Cấu trúc tổng thể
Trên cơ sở phân tích cấu trúc các phần như trên, nếu xét về phương diện
âm nhạc học, dân ca xứ Thanh đa số không đầy đủ cả 3 phần. Cụ thể:
Một phần: Thân bài
Hai phần: Mở bài - thân bài
Thân bài - kết bài
111
Tuy nhiên, nếu xét về phương diện của một loại hình nghệ thuật (một trò
diễn hoặc một diễn xướng) thì cấu trúc tổng thể của nó lại chia thành các nội
dung khác nhau, trong mỗi nội dung lại chứa đựng các dạng cấu trúc âm nhạc.
Trò diễn và diễn xướng dân gian của người Việt xứ Thanh thường có trình
tự: Phần giới thiệu - phần cốt truyện - phần kết thúc hoặc chỉ có phần cốt
truyện - phần kết thúc. Đầy đủ cả ba phần có thể kể đến Múa đèn, Chèo chải,
Tiên Cuội… các trò diễn chỉ có hai phần như: trò Ngô Đông Anh, trò
Thiếp,…
+ Phần giới thiệu: Mục đích là để di chuyển đội hình ra giữa sân đình hoặc
giới thiệu trò diễn bằng lời giáo đầu.
Di chuyển đội hình ra giữa sân đình theo nhịp trống là các diễn xướng, trò
diễn có hình thức múa hát tập thể như Múa đèn, Chèo chải,…
Các trò diễn có lời giáo đầu để giới thiệu có thể kể đến: Trống Mõ, Tiên
Cuội,…
+ Phần cốt truyện: Là phần múa hát, đối thoại, chứa đựng nội dung chính.
Qua khảo sát cho thấy, nhiều trò diễn đã đạt tới trình độ nghệ thuật khá cao,
trong đó các bài ca có mối quan hệ với nhau như một tổ khúc. Múa đèn có 10
khúc nhạc, Tiên Cuội có 13 khúc,… được diễn xướng theo trật tự trước sau
phù hợp với nội dung cốt truyện, tuy nhiên mỗi khúc nhạc đó còn có thể tách
ra thành một bài hát độc lập.
+ Phần kết thúc: Ở phần giới thiệu, các con trò di chuyển đội hình theo
nhịp trống ra đến giữa cửa đình thì đến phần kết thúc lại di chuyển đi vào hai
bên sân đình, nếu trình diễn trong lòng đình thì di chuyển ra ngoài sân đình.
Đối với những trò diễn không trình diễn múa hát tập thể thì con trò dàn thành
hàng ngang hát chúc dân làng với nội dung mong cầu an khang thịnh vượng.
Riêng Múa đèn Đông Anh, xưa kia phần kết khúc còn đánh gà luộc và dâng
oản; Múa Đèn Thiệu Quang xếp chữ “Thiên hạ thái bình”;…
112
Đơn cử cho dạng trò diễn có đầy đủ 3 phần là trò Tiên Cuội, có thứ tự trình
diễn như sau:
+ Phần giới thiệu: Có 12 Tiên nữ ăn mặc lộng lẫy, xiêm áo đầy màu sắc,
đầu đội mũ kết hoa trên đầu đi ra theo nhịp trống chia thành hai hàng ngang
với những động tác uyển chuyển, cùng đọc thơ “giáo Tiên” để kính trình dân
xã;
+ Phần cốt truyện: Là phần múa hát các bài ca có nội dung nói lên câu
chuyện tình của Tiên và Cuội. 12 nàng Tiên xuống trần gian vui chơi múa hát,
gặp chú Cuội tinh nghịch, hóm hỉnh. Cuội trêu ghẹo các nàng Tiên và đem
lòng yêu nàng Tiên út. Khi đang vui vẻ thì Ngọc hoàng gọi Tiên về trời, Cuội
đau lòng than thở rồi chết. Các nàng Tiên thương cảm đã làm phép cho Cuội
sống lại. Trò Tiên Cuội không dùng đối thoại mà thể hiện nội dung bằng các
bài ca.
+ Phần kết thúc: Cả đội theo nhịp trống xếp thành hai hàng tay múa guộn
ngón chân đi xuyến, xê dịch ra ngoài cửa đình.
Có thể sơ đồ hóa cấu trúc tổng thể như sau:
Trình tự Giới thiệu Cốt truyện Kết thúc
Nghệ thuật
diễn xướng
- Di chuyển, xắp
xếp đội hình, giới
thiệu trò diễn
- Trình diễn múa
hát, đối thoại, giao
lưu với khán giả,...
- Di chuyển đội
hình đi vào hai bên
Âm nhạc - Tiết tấu đệm múa
(mục 3.2.1.3)
- Giáo đầu (cấu
trúc một phần)
- Dáng dấp cấu trúc
Tổ khúc.
- Tiết tấu đệm múa
(mục 2.3.1.3)
113
Tiểu kết chương 3
Trải qua bao thăm trầm, với những mất mát - mai một đáng kể, cho đến
ngày nay âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh đã dần hồi sinh, điều đó
được minh chứng trong các dịp hội hè đình đám được đã được phục hồi, tổ
chức hàng năm tại các địa phương trong tỉnh. Trong lễ hội, âm nhạc được chia
thành hai mảng, phục vụ cho lễ và hội với ý nghĩa vui chơi giải trí. Tuy nhiên,
một số lễ hội, các loại hình nghệ thuật không rạch ròi giữa hai phần lễ và hội,
đây là đặc điểm nổi bật trong lễ hội vùng đất này.
Phục vụ cho các nghi thức tế lễ là vai trò của dàn nhạc tế. Với tính chất uy
nghi, đĩnh đạc hay thong thả, chậm dãi, dàn nhạc tế đã làm nổi rõ hơn diện
mạo của tế lễ người Việt xứ Thanh.
Phần hội với mục đích giải trí, giao lưu, thi thố tài năng,… do đó, hầu hết
những thể loại dân ca, trò diễn đều được dân làng mang tới. Đây cũng là dịp
để cộng đồng làng ôn lại, luyện tập lại và cũng là dịp để lưu truyền cho lớp
con cháu sau này.
Với đa thể loại được đưa vào lễ hội nên cấu trúc bài bản có nhiều điều đáng
lưu ý. Trong đó, các dạng cấu trúc bộ phận được chia thành các phần: mở bài,
thân bài và kết bài; cấu trúc tổng thể đi vào trình tự từ đầu tới cuối một trò
diễn hoặc một diễn xướng, bao gồm: phần giới thiệu - phần cốt truyện - phần
kết thúc.
Những đặc trưng về âm nhạc trong lễ hội đã khẳng định được giá trị quý
giá, là minh chứng phát qua nhiều giai đoạn lịch sử tồn tại. Đó chính là thành
quả được đúc kết qua nhiều giai đoạn, nhiều thế hệ nối tiếp, tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay.
114
KẾT LUẬN
Trải qua các giai đoạn lịch sử, với bao biến cố thăng trầm của thời gian,
cho đến ngày nay, lễ hội truyền thống xứ Thanh đã khẳng định được vai trò
quan trọng của mình trong đời sống văn hóa cộng đồng (làng).
Lễ hội không chỉ mang đến cho người dân sự vui vẻ của mỗi cá nhân mà
còn có ý nghĩa cố kết cộng đồng, giải tỏa tâm lý sau một chu kỳ lao động vất
vả. Đến với lễ hội, từ trong sâu thẳm dân làng đều hướng tới sự thiêng liêng,
cao cả. Ngoài việc tế thần, lễ hội còn giúp ta tiếp cận với những yếu tố văn
hóa, đạo đức, đạo lý của con người, góp phần kế thừa với truyền thống qúa
khứ, nêu cao tinh thần tự hào về nền văn hóa dân tộc. Đó là cái nền vững chắc
nhất của mối quan hệ cộng đồng, là dịp để niềm tin thiêng liêng ấy luôn được
củng cố. Đây cũng là dịp để dân làng cùng nhau sinh hoạt văn hóa cộng đồng,
một nét đẹp truyền thống có từ lâu đời được tồn tại cho đến ngày nay…
Lễ hội của người Việt xứ Thanh - nơi hội tụ khá đầy đủ các loại hình âm
nhạc của người Việt xứ Thanh.Trong tế lễ, nhạc tế là thành phần không thể
thiếu trong những nghi thức tế thần. Trong hội, các thể loại dân ca với nhiều
dạng, nhiều phong cách khác nhau, đặc biệt là hệ thống các trò diễn, diễn
xướng dân gian đã có những đóng góp lớn trong việc tạo nên sự phong phú
cho lễ hội.
Về âm nhạc trong hành lễ
Vai trò quan trọng nhất của âm nhạc trong hành lễ là nhạc tế. Nhạc tế gắn
bó chặt chẽ với từng nghi thức tế, tạo ra một không gian thiêng, có tác động
sâu sắc đến văn hóa tầm linh của cộng đồng làng. Do đó, khi tế không thể
không có thành phần của dàn nhạc.
Dàn nhạc tế đề cao vai trò nhóm màng rung, trong đó trống cái làm hiệu
lệnh còn trống bản làm bè dẫn dắt. Nhóm màng rung và tự thân vang chủ yếu
115
làm nhiệm vụ phối hợp với nhóm màng rung để tạo màu sắc khác nhau cho
mỗi quận trống.
Điều cần phải ghi nhận là sự phối hợp một cách khéo léo để tạo nên tính
chất bài bản. Mỗi quận trống có một bè dẫn chính: âm vực cao (trống bong và
trống con); âm vực trung (trống bản và nạo bạt); âm vực trầm (trống cái và
trống bản). Nguyên tắc phối hợp của dàn nhạc tế là tạo tiết tấu so le giữa các
bè, làm nổi bật bè dẫn chính.
Âm nhạc trong hội
Về mối quan hệ giữa lời ca và âm nhạc, lời ca được xây dựng trên cơ sở
của nhiều thể thơ khác nhau, trong đó phần lớn là thể thơ lục bát và lục bát
biến thể. Các biến thể của thể thơ lục bát thường mở rộng bằng cách thêm từ
ở câu sáu hay câu tám… các thể thơ 7 từ và 4 từ cũng xuất hiện trong một vài
trường hợp, các thể thơ này chủ yếu được kết hợp với thể thơ lục bát và một
số thể thơ khác. Sự kết hợp đó vừa làm cho lời ca thêm giàu sức biểu cảm vừa
có mục đích chuyển tải ý nhạc, mang đậm phong cách riêng của dân ca xứ
Thanh. Với thể thơ 6 + 8 và thơ 4 từ dạng phân ngắt điển hình là theo nhóm 2
từ và ở thể thơ 7 từ là 3 + 4; 4 + 3. Với lối phân chia như vậy, chủ yếu trọng
âm hướng vào các từ cuối của mỗi nhóm. Sự trùng hợp về trọng âm giữa thơ
và nhạc là do thủ pháp dùng điệp từ, dùng từ đệm, từ phụ để điều tiết làm rõ
thêm tiết nhịp của thơ.
Thủ pháp phổ thơ khá tương đồng với nhiều thể loại dân ca của các vùng
miền khác. Trong đó, các thủ pháp phổ thơ được sử dụng là: Thủ pháp đảo
trật tự từ; thủ pháp lặp lại một từ hay cụm từ; nhóm các từ phụ mang chức
năng bổ nghĩa,...
Về mối tương quan và tiết nhịp, chủ yếu được thể hiện ở nhịp 2/4. Nhịp 2/4
là loại nhịp cơ bản và tự nhiên nhất, trong quá trình hình thành và phát triển
giai điệu, các nghệ sĩ dân gian đã đưa vào các bài ca những tiết tấu khác nhau
116
để tạo nên tính chất âm nhạc phong phú, khi thì mềm mại, trữ tình lúc lại
khoẻ khoắn, mạnh mẽ,… Bên cạnh đó cũng có một số ít bài ở loại nhịp ba
(kiểu lơi nhịp). Đây là một hiện tượng ít gặp trong dân ca Việt Nam nói chung
và dân ca xứ Thanh nói riêng.
Về mối quan hệ giữa thanh điệu và âm điệu, nhìn chung chịu ảnh hưởng
những quy luật chung về âm khu của các thanh, nhưng cũng còn có nhiều
trường hợp nằm ngoài quy luật ấy.
Là một tỉnh nằm giáp danh với miền Trung, nên ngữ điệu tiếng nói của
người Thanh Hoá cũng ít nhiều có sự ảnh hưởng. Hiện tượng “giao thoa”
hoặc "cưỡng âm" làm đảo lộn dấu giọng đã đi vào âm nhạc dân gian trong đó
có mảng âm nhạc trong các trò diễn và diễn xướng.
Hiện tượng thanh hỏi phát âm ở âm vực trung luyến lên âm vực cao và
thanh ngã ở âm vực thấp đã có ảnh hưởng đến âm nhạc. Đây có thể coi là đặc
điểm riêng của vùng dân ca xứ Thanh.
Về thang âm - điệu thức, có sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn hệ thống
ngũ cung lâu đời của dân tộc Việt Nam. Trong đó dạng điệu thức 5 âm loại 1
là phổ biến nhất, sau đó là điệu thức 5 âm loại 2 và loại 3. Các bài ca được
hình thành trên cơ sở của các dạng thang 5 âm là chủ yếu nhưng cũng có một
số ít bài thuộc dạng thang 4 âm, 3 âm. Nhiều trường hợp có sự kết hợp các
dạng điệu thức: kết hợp cùng điệu thức khác âm gốc, cùng âm gốc khác điệu
thức hoặc khác điệu thức khác âm gốc.
Về giai điệu, khá phong phú và sinh động do tụ hội được nhiều phong cách
khác nhau: Hát nói, hát ngâm, ca xướng. Mỗi phong cách có phương thức
biểu hiện riêng với những phương tiện diễn tả âm nhạc đặc trưng.
Hát nói có hai dạng: Hát nói trong đối thoại của trò diễn với những âm điệu
đơn giản; tiết tấu chậm, có thể có hoặc không có nhịp điệu; Những bài xướng
ca mang phong cách hát nói có đặc điểm nhịp điệu tiết tấu tự do, sử dụng
117
nhiều quãng rộng (có thể tới quãng 11), được các nhân vật trong trò diễn có
tâm trạng phức tạp thể hiện;
Hát ngâm cũng là dạng hát tự do, không có nhịp điệu rõ ràng, diễn xướng
theo tâm trạng nhân vật. Điểm nhấn của hát ngâm là sử dụng nhiều âm luyến
láy cho mỗi ca từ;
Ca xướng là phong cách chiếm tỷ lệ chủ yếu trong dân ca xứ Thanh. Đó là
những bài ca có nhịp điệu rõ ràng, có sự phát triển cao trong tiến hành giai
điệu. Thể hiện qua phương thức kết hợp giữa các đơn âm kết hợp với những
mô hình âm điệu luyến láy khác nhau (luyến, thêu, nhấn vuốt,…), tạo nên tính
chất đặc trưng của thể loại.
Về cấu trúc bài bản
Là nơi tụ hội tương đối đầy đủ các loại hình nghệ thuật, do đó cấu trúc bài
bản khá phong phú.
Cấu trúc bộ phận được chia thành các phần: mở bài, thân bài và kết bài.
Trong đó, mở bài “lấy hơi” là một nét nhạc ngắn được hình thành bởi tính
chất của thể loại; mở bài “đối thoại” được sinh ra từ các trò diễn, diễn xướng,
nhiệm vụ chính là đối đáp giữa các nhân vật hoặc giao lưu với khán giả nhưng
xét về nội dung và âm nhạc chúng có mối quan hệ gắn bó với bài hát tiếp
theo. Phần thân bài có nhiều cấu trúc khác nhau, bao gồm: Kiểu cấu trúc phân
câu, phân đoạn; Kiểu cấu trúc được hình thành trên cơ sở hai chất liệu âm
nhạc luân phiên; Kiểu cấu trúc có hai phần: phần tự do và phần có quy luật
(có cấu trúc, nhịp điệu). Phần kết bài tuy là bộ phận có chức năng riêng biệt
nhưng nó vẫn là một phần phụ của hình thức. Có hai dạng kết bài: Kết bài do
mở rộng thân bài; kết bài có chức năng tương đối độc lập.
Cấu trúc tổng thể được xem xét một cách hoàn chỉnh toàn bộ một loại hình
nghệ thuật, cụ thể là một trò diễn hoặc một diễn xướng. Phần mở đầu - phần
cốt truyện - phần kết thúc có mối liên hệ với nhau theo một trình tự nhất định,
118
và ở mỗi phần, âm nhạc với vai trò quan trọng của mình đã làm nổi bật lên
nội dung, ý nghĩa của một trò diễn, diễn xướng.
Trong lịch sử phát triển của mình, những giá trị văn hóa tín ngưỡng nói
chung, của âm nhạc tế nói riêng đã bị thất thoát một phần đáng kể. Việc
nghiên cứu tìm hiểu những giá trị đó sẽ giúp cho thế hệ sau này biết nâng niu,
quý trọng những sản phẩm của ông cha để lại.
Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, cùng với các loại hình nghệ thuật
dân gian của dân tộc Việt; âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh đã tồn
tại và phát triển cùng với đời sống vật chất qua các thế hệ dân cư của người
Việt xứ Thanh. Tuy có lúc hưng thịnh, có lúc suy vong trong quá trình tồn tại
của mình nhưng chúng đã khẳng định được vị thế của mình trong đời sống
văn hoá tinh thần của cộng đồng dân cư địa phương.
Tìm hiểu, nghiên cứu về âm nhạc dân gian của người Việt xứ Thanh trên
góc độ nghệ thuật âm nhạc; chúng tôi mong muốn góp phần cùng với các nhà
nghiên cứu khác, khẳng định giá trị văn hoá (phi vật thể) loại hình nghệ thuật
dân gian; qua đó góp phần vào việc khôi phục và bảo tồn giá trị đó cho các
thế hệ sau này.
119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (1990), Lịch sử Thanh
Hóa, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1994), Lịch sử Thanh
Hoá, Tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (1999), Tư liệu Địa
chất, thuỷ văn, lịch sử, văn hóa, tiểu vùng văn hoá sông Mã xứ Thanh, Viện
âm nhạc, Hà Nội.
4. Tỉnh ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa(2000),
Địa chí Thanh Hóa, NXB Văn hóa Thông tin.
5. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2000), Góp phần nâng cao chất
lượng sưu tầm nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian, NXB Văn hoá dân tộc.
6. Nhóm Lam Sơn (Vũ Ngọc Khánh chủ biên) (1965), Dân ca Thanh
Hoá, NXB Văn học, Hà nội.
7. Dương Viết Á (2009), Mấy vấn đề về văn hóa Việt Nam, NXB Văn
hóa dân tộc
8. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan Họ, Viện Âm Nhạc Hà Nội.
9. Hồ Đắc Bích (chủ biên) (1995) Dương Long Căn, Lưu Hạnh, Nguyễn
Hồng Tĩnh, Giáo trình đào tạo diễn viên bậc trung cấp nghệ thuật hát Tuồng,
Trường TH VHNT Bình Định.
10. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt nam,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Mai Thị Hồng Hải (1999), Đặc điểm của dân ca Thanh Hoá, Tạp chí
Văn nghệ hoá nghệ thuật số 4.
12. Lê Hàm (chủ biên) (2000).Âm nhạc dân gian xứ Nghệ, Hội văn nghệ
dân gian Nghệ An.
120
13. Đào Việt Hưng (1999), Tìm hiểu dân ca người Việt Bắc Trung Bộ,
Viện Âm nhạc, NXB Âm nhạc, Hà Nội.
14. Phạm Minh Khang (2004), Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền
thống Việt Nam, Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật số 2, tr.45 - 48.
15. Phạm Minh Khang (2004), Trò hát thờ làng Mưng, dấu vết còn lại của
chiếng chèo Thanh, Tạp trí Văn hóa dân gian số 3, tr.55 - 61.
16. Phạm Minh Khang (2004), Nét đặc trưng trong nghệ thuật hát Đúm -
Thủy Nguyên Hải Phòng, Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 1, tr.32 - 35.
17. Phạm Minh Khang (1987), Vai trò cuả quãng 4 trong âm nhạc (Tạp
chí nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật số 2.
18. Vũ Ngọc Khánh (1978), Từ một danh mục các trò diễn dân gian dân
tộc Kinh ở Thanh Hoá, Kỷ yếu Hội nghị chuyên đề Viện Nghệ thuật, Hà nội,
Bản in Rô-nê-ô.
19. Vũ Ngọc Khánh (1978), Điều tra và tìm hiểu điệu múa Tú huần ở
Thanh hoá, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 2.
20. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1965), Dân ca Thanh Hóa. NXB Văn học
Hà Nội.
21. Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh (1989), Văn hoá
dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Hoàng Khôi, Kim Lữ (1982), Một số tư liệu điều tra về Múa đèn ở
Thanh Hoá, Văn hoá dân gian, Uỷ ban khoa học xã hội Việt nam, Ban văn
hoá dân gian.
23. Trần Thị Liên (1992), Văn hoá làng qua diễn xướng dân gian, Hội
thảo văn hoá làng Thanh hoá lần thứ 2, Sở văn hoá thông tin Thanh Hoá.
24. Trần Thị Liên (1997), Trò diễn dân gian vùng Đông Sơn, NXB Văn
hóa thông tin Hà Nội.
121
25. Trần Thị Liên (1996), Vài tín hiệu về giao lưu văn hoá khu vực trong
một số trò diễn dân gian cổ truyền xứ Thanh, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam
Á số 1.
26. Trần Thị Liên (Thanh Hà) (1996), Tư duy nông nghiệp qua những trò
diễn dân gian, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 3.
27. Trần Thị Liên (1996), Tìm hiểu vài dị bản của một trò diễn dân gian,
Tạp chí văn hoá nghệ thuật số 6.
28. Trần Thị Liên, Phạm Văn Đầu, Phạm Minh Trị (1988), Khảo sát văn
hoá truyền thống Đông Sơn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Ngô Sĩ Liên: Đại việt sử ký toàn thư (1972), NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
30. Nguyễn Thụy Loan (1991), Dân ca người Việt và vấn đề tác động của
thanh điệu đối với sự hình thành, phát triển của ca nhạc ngũ cung, Tạp chí
Văn hoá nghệ thuật Hà Nội số 4.
31. Nguyễn Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc viện Hà
Nội, XNB âm nhạc.
32. Nguyễn Thụy Loan (1993), Về một lý thuyết điệu thức của người Việt
Tìm về bản sắc dân tộc của văn hoá, Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật
Hà Nội.
33. Nguyễn Thuỵ Loan (2001), Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc cổ truyền,
Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
34. Đặng Văn Lung (1977), Trò diễn, Tạp chí văn nghệ dân gian số 6.
35. Đặng Văn Lung (1978), Diễn xướng và sân khấu, Kỷ yếu Hội nghị
chuyên đề Viện Nghệ Thuật Hà Nội, bản in Rônêo.
36. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ - nguồn
gốc và quá trình phát triển, NXB Khoa học xã hội Hà Nội.
122
37. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, NXB Âm nhạc,
Hà Nội.
38. Lê Quang Nghệ (1962), Dân ca Thanh Nghệ Tĩnh, NXB âm nhạc, Hà
Nội.
39. Tú Ngọc (1974), Những bài hát lễ nghi - phong tục Việt Nam, Tạp chí
nghiên cứu nghệ thuật, Hà Nội.
40. Tú Ngọc (1979), Tìm hiểu giai điệu dân ca Việt Nam, Tạp chí âm nhạc
số 3.
41. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, NXB Âm nhạc.
42. Trần Việt Ngữ - Hoàng Kiều (1964), Bước đầu tìm hiểu sân khấu
Chèo, Văn hoá nghệ thuật Hà Nội.
43. Hoàng Anh Nhân, Lê Huy Châm (1993), Khảo sát Văn hoá làng xứ
Thanh, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.
44. Hoàng Anh Nhân, Phạm Minh Khang, Hoàng Hải (1997), Khảo sát trò
Xuân phả, NXB âm nhạc, Hà nội.
45. Nguyễn Thị Nhung (1998), Nhạc khí gõ và trống đế trong chèo truyền
thống, Viện Âm Nhạc, NXB Âm Nhạc.
46. Nguyễn Thị Nhung (1982), Các dạng đoạn nhạc trong dân ca người
Việt, Tạp chí văn hoá dân gian số 4.
47. Nguyễn Thị Nhung (1996), Thể loại âm nhạc, NXB âm nhạc, Nhạc
viện Hà nội.
48. Nguyễn Thị Nhung (1997), Hình thức âm nhạc, NXB Giáo dục.
49. Hà Văn Tấn (chủ biên) (1994), Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà nội.
50. Hà Hùng Tiến (1997), Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam, Viện Văn
hóa - Bộ văn hóa thông tin. NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
123
51. Hồng Thao (1992), Bàn về thang âm điệu thức người Việt, Tạp chí âm
nhạc số 2.
52. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, NXB TP.
Hồ Chí Minh.
53. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá
ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.
54. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và Văn hóa tín ngưỡng
ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Hà Nội.
55. Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính (tổ chức bản thảo) (1990), Văn
hoá dân gian những phương pháp nghiên cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà nội.
56. Phạm Hùng Thoan, Nguyễn Thanh, Phạm Thị Nết (1999), Múa dân
gian ở Thái Bình, Sở văn hoá thông tin tỉnh Thái Bình, Viện âm nhạc và múa
Việt Nam.
57. Đỗ Thị Thanh Nhàn (2007), Vài nét về cấu trúc âm nhạc trong lễ hội
dân gian của người Việt xứ Thanh, tạp trí Văn hóa dân gian, số 2.
58. Đỗ Thị Thanh Nhàn (2010), Trò Trống Mõ, tạp trí Văn hóa nghệ thuật,
số 317.
59. Đỗ Thị Thanh Nhàn (2011), Trò diễn trong lễ hội cổ truyền của người
Việt xứ Thanh, Tạp trí Văn hóa nghệ thuật số 326.
60. Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân (2001), Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ
Thanh, Tập I , NXB Văn hoá dân tộc.
61. Lê Huy Trâm, Hoàng Anh Nhân (2006), Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ
Thanh, Tập II, NXB Văn hoá dân tộc.
62. Lê Huy Trâm (2002), Khảo sát Hát ca công ở Thanh Hóa, NXB Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
124
63. Hoàng Tiến Tựu (1978), Góp phần xác định khái niệm diễn xướng dân
gian và tìm hiểu những yếu tố có tính chất kịch trong dân gian. Kỷ yếu hội
nghị chuyên đề Viện nghệ thuật, Hà Nội.
64. Vương Duy Trinh (1973), Thanh Hoá quan phong, Bộ văn hoá giáo
dục và thanh niên, Sài Gòn.
65. Lư Nhất Vũ, Lê Anh Trung (2004), Hò trong dân ca người Việt, Viện
Âm nhạc, Hà Nội.
66. Tô Vũ (1995), Ngôn ngữ âm nhạc trong thang âm điệu thức, Tạp chí
văn hoá nghệ thuật số 11.
67. Trần Quốc Vượng (1977), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
68. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, NXB Văn hóa Thông tin
Hà Nội.
69. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn Địa Văn hóa, NXB Văn
hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
70. Nguyễn Khắc Xương (1978), Thử tìm yếu tố sân khấu trong diễn
xướng nông nghiệp dân gian (Kỷ yếu hội nghị chuyên đề Viện nghệ thuật, Hà
Nội.
71. Nhiều tác giả (1999), Dân ca Thanh Hoá, Tập 1, Nhà văn hoá trung
tâm tỉnh Thanh Hoá, Nxb Thanh Hóa.
72. Nhiều tác giả (1993), Tục ngữ, ca dao, dân ca, vè Thanh Hoá, NXB
Thanh Hoá.
73. Nhiều tác giả (1993), thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống
một số dân tộc miền Nam Việt Nam, Viện Văn hóa nghệ thuật tại thành phố
Hồ Chí Minh.
125
Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số luận văn Thạc sĩ sau đây:
74. Trần Hoàng Tiến (2001), Những đặc trưng hò sông Mã, Luận văn thạc
sĩ văn hoá dân gian.
75. Nguyễn Liên (2003), Âm nhạc Múa đèn Đông Anh - Thanh Hoá, luận
văn Thạc sĩ văn hoá dân gian.
126
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Đỗ Thị Thanh Nhàn (2010), Trò Trống Mõ, tạp trí Văn hóa nghệ thuật,
số 317.
2. Đỗ Thị Thanh Nhàn (2011), Trò diễn trong lễ hội cổ truyền của người
Việt xứ Thanh, tạp trí Văn hóa nghệ thuật, số 326.