dalat nguoi xua, 1a
DESCRIPTION
Dalat nguoi xua, 1a, Hoi ky,TRANSCRIPT
North Carolina, tháng 6 năm 2011
Nguyễn thái Hai
100 Lodgin Ct.
Morrisville, NC, 27560, USA
(919) 462 9768
Tạp ghi: quê tôi
Dalat và
Người Xưa
Minh Ngộ Nguyễn thái Hai
Kính dâng hương linh tứ thân phụ mẫu.
Chân thành cám ơn quý vị
đã cung cấp nguồn tin
và chi tiết cho tài liệu này.
Lời mở đầu
Dalat có rất nhiều điểm đặc biệt về thiên
nhiên, khí hậu, phong cảnh, địa thế mà
các thi nhân văn sĩ đã mô tả rất nhiều,
nhưng rất ít người viết về sự thành hình
và phát triển, sự quy hoạch thành phố của
người Pháp và các yếu tố chính đã tạo cho
người Dalat xưa có một tác phong đặc
biệt được mọi người cảm mến. Do đó tôi
cố gắng ghi lại những gì tôi hiểu và biết
được.
Bác sĩ Alexandre Yersin khám phá ra vùng đất này và chánh quyền
Pháp muốn xây dựng thành một trung tâm nghĩ dưỡng và thủ đô
của toàn Đông Dương. Nhờ đó mà Dalat nói chung có nhiều công
thự to lớn huy hoàng, nhiều công sở, trường học, dịch vụ, đường sá
phù hợp cho mỗi nhiệm vụ. Dalat có một bản đồ quy hoạch thành
phố với quy mô thật khác lạ, với một viễn kiến thật xa “nhà trong
vườn, vườn trong thành phố, thành phố trong rừng, rừng trong
thành phố ”. Tất cả các điều này sẽ tạo cho Dalat một sắc thái thơ
mộng, một nếp sống an vui khỏe mạnh đầy đủ tiện nghi.
Dalat với khí hậu lạnh buốt đã được khai phá, xây dựng bởi một
nhóm tù nhân miền Trung, người tha phương cầu thực và công
chức Việt dưới sự điều hành của người Pháp tại một miền chỉ có
người bản địa. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu họ trải
qua bao gian truân lao khổ nhưng nhờ thương yêu nhau, nương tựa
nhau trong nếp sống hài hòa tương kính nên đã vượt qua bao khó
khăn trở ngại. Các điều này đã tạo cho người Dalat xưa tác phong
nói trên.
Với bao thăng trầm của một quốc gia mới độc lập, chia cắt rồi thời
cuộc biến đổi với bao khó khăn khiến cho sự quy hoạch trên bị
lãng quên và đã làm giảm khá nhiều vẽ đẹp thiên nhiên đã dành
cho Dalat và thoái hóa phần nào tác phong cao đẹp của người thuở
xưa mà ta cố gắng phục hồi lại.
( i )
MỤC LỤC
Dalat xưa 1
HÌNH THÀNH 1
HỆ THỐNG HÀNH CHÁNH 11
Người Dalat xưa 38
Người bản địa 38
Người Việt Dalat xưa 39
Nếp sống người Dalat xưa 49
Với thành phần không rõ nguồn gốc 49
Với thành phần có nguồn gốc và sinh hoạt 56
Tinh thần người Dalat xưa 62
Sự đóng góp của thế hệ sử liệu 64
Sự đóng góp của thế hệ nhân chứng 56
Sự đóng góp của thế hệ tinh thần 74
Chuyện bên lề 74
Trung tâm nghỉ dưỡng
Trạm nông nghiệp người Pháp
Vài khu dân cư ngoại thành 75
Cảm tưởng 75
Cảm tưởng riêng 78
Cảm tưởng đối với người Pháp 79
Cảm tưởng đối với người Việt 79
Kết luận 82
( ii )
Dalat & Người Xưa Trang 1
DALAT XƯA
HÌNH THÀNH
Việt Nam có hơn 4000 năm, Hànội 1000
năm, Sàigòn 310 năm, Dalat vừa gần 120 năm thì
có gì là xưa, nhưng tôi vẫn muốn ghi lại cho con,
cho các thế hệ sau biết Dalat thời Pháp thuộc:
1893-1954, dài 61 năm, của thành phố nói chung
và của bản thân tôi nói riêng. Khi tìm tài liệu cho
bản tạp ghi này tôi nhận ra là tôi chỉ biết cái bề
ngoài mà các thi sĩ, văn nhân ca tụng mà mù tịt về
cái đẹp, cái quý thâm sâu _ mà thiên nhiên ban cho
Dalat _ cái gian truân, và cái ước mơ đơn sơ của
những người khai sơn phá thạch để xây dựng Da-
lat .
Hiểu những khắc khổ của
tiền nhân và đã nhận được
một số ân tình của bá tánh,
tôi muốn nhân đây làm
chút gì để ghi và trả các ân
tình xưa. Tôi thấy Mỹ, một
nước có nhiều thư viện tân
cổ mà vẫn cần và đánh giá
cao các tư liệu _ thư từ,
bản ghi chép riêng tư kể cả
của người nô lệ xa xưa
v..v.. . Tôi cũng biết rất rõ
với kiến thức hạn hẹp, chỉ
biết phần nào về nhóm dân sinh sống trong khu
nội thị nay ngồi ở Mỹ, và ghi lại theo ký ức của
bản thân và của bạn bè, không tránh khỏi lỗi lầm
và thiếu sót nên thành tâm mong được thông cảm.
Bác sĩ Yerin (1863-1943) thám hiểm Dalat
năm 1881, tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng ông
vẫn vận động để xin tiếp tục. Năm 1883 (Tự Đức
thứ 35) Toàn Quyền De Lanessan chính thức giao
cho ông tái thám hiểm Dalat từ Phan Thiết. Ông
đã lập được sơ đồ khu vực thám sát. Năm 1884 từ
Nha Trang ông lên Dankia và đã bị thu hút bởi
phong cảnh thơ mộng và khí hậu mát mẻ của vùng
này. Nhưng mãi đến năm 1897 (Thành Thái thứ 8)
Toàn Quyền Paul Doumer mới có ý nghĩ tìm một
địa điểm làm trạm nghỉ dưỡng ở Đông Dương.
Năm 1906 (Thành Thái thứ 17) Dalat được xác
định làm trung tâm nghỉ dưỡng, và năm 1921 (
Khải Định thứ 5) Kiến Trúc Sư (KTS) Ernest
Hébrard được giao phó lập bản đồ quy hoạch
thành phố này. Tuy vậy bản đồ này đã được nhiều
KTS khác bổ sung và KTS Lagisquet sửa đổi lần
cuối vào năm 1942 ( Bảo Đại thứ 16) để thành lập
Dalat thành thủ đô cho toàn Đông Dương.
Bối cảnh triều Nguyễn, sau khi vua Tự
Đức băng hà triều chính các vua: Dục Đức (3
ngày) Hiệp Hòa (4 tháng), Kiến Phúc (1883-84),
Hàm Nghi (1884-85), Đồng Khánh (1886-88)
Thành Thái (1889-1907), Duy Tân (1907-1916),
Khải Định (1916-1925), Bảo Đại (1926-1945).
Thất bại với phong trào Cần Vương (1885) vua
Hàm Nghi bị đày qua đảo Réunion, Phi Châu. Vua
Đồng Khánh kế vị được 2 năm thì phải nhường
ngôi cho vua Thành Thái khi mới 10 tuổi. Nhờ giả
điên, ông trị vì được 18 năm rồi bị ép nhường ngôi
cho con là vua Duy Tân lúc 8 tuổi. Khởi nghĩa thất
bại vua Duy Tân bị đày qua đảo Réunion nhường
ngôi cho vua Khải Định. Chín năm sau ông
nhường ngôi cho vua Bảo Đại (1926). Các vua
triều Nguyễn đều do người Pháp sắp đặt và điều
khiển. Đa số giới quan lại Triều Nguyễn lo thỏa
mãn quân Pháp và hà hiếp dân chúng để cũng cố
địa vị. Tuy vậy trong thời gian này một số sĩ phu
hoạt động mạnh mẽ. Ngoài Bắc phong trào Văn
Thân (1874) với các cụ Hoàng hoa Thám, Nguyễn
thiện Thuật; miền Trung phong trào Cần Vương
(1888) của vua Hàm Nghi với các cụ Tôn thất
Thuyết, Phan đình Phùng; phong trào Đông Du
(1905) của cụ Phan bội Châu với chủ trương bạo
lực; phong trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh
với nhiều tư tưởng tiến bộ của Jean Jacques Rous-
seau, Montesquieu chủ trương ôn hòa v…v....
Nhất là năm 1908 rất nhiều sĩ phu, hương chức và
dân chúng bị bắt vào tù trong phong trào cự sưu
kháng thuế 1 của các tỉnh miền Trung. Năm 1915-
16 lợi dụng Pháp đang lâm chiến với Đức và được
các ông Trần cao Vân, Thái Phiên hổ trợ, vua Duy
1 Mỗi nam công dân từ 18 tuổi trở lên phải đóng thuế đinh
và sưu tức làm tạp dịch một số ngày trong mỗi năm. Con các
quan viên, người khoa bảng và con, và những người giàu
mua chức phẩm (cửu phẩm, bát phẩm) đều được miễn sưu.
Dalat & Người Xưa Trang 2
Tân khởi nghĩa và rồi cũng bị đày qua đảo Réu-
nion.
Quy Hoạch
Ta phải khâm phục các nhà thám hiểm
Pháp, ngay từ thuở đó, đã thấy Dalat là một cao
nguyên rừng thông với những đồi tròn cao thấp và
suối nước trong veo lượn quanh bao bọc bởi
những dãy núi cao “ trông giống như một giỏ cam
lớn (un vaste “panier d’oranges”. Từ đó mà họ quy
hoạch một thành phố có dáng mỹ miều đặc biệt
nhất của Việt Nam: sự hài hòa của đô thị và thiên
nhiên.
Dalat có nhiều điểm đặc biệt đáng lưu ý:
- Một thành phố được xây dựng làm khu
tĩnh dưỡng cho người Pháp và thủ đô của Đông
Dương trong lãnh thổ Việt Nam.
-Vì là thủ đô nên các đồ án phải được Phủ
Toàn Quyền duyệt trước khi thực hiện. Do đó
những KTS và KS đều là thành phần ưu tú.
- Môi trường phát triển và sinh hoạt của
người dân Dalat buổi sơ khai không giống một
tỉnh hoặc thành phố nào của Việt Nam.
- Một hệ thống giao thông tốt với hai quốc
lộ từ Saigon và Phan Rang và đặc biệt là đường xe
lửa răng cưa Tháp Chàm-Dalat.
- Một hệ thống giáo dục rất tốt dành cho
con cái lớp trí thức và thượng lưu Pháp Việt.
- Một hệ thống bệnh viện tốt trong địa bàn
có khí hậu mát mẻ trong lành và môi trường
không bị ô nhiễm
- Một trung tâm du lịch miền núi gần biển
và các trung tâm công mỹ nghệ
- Một thành phần cư dân hỗn hợp đa số từ
miền Trung mới đến kể cả tù nhân
- Một khu không có nông nghiệp và tiểu
thủ công nghệ trong buổi sơ khai
- Dalat học, một môn chuyên nghiên cứu
về quá khứ và tương lai Dalat, tương tự như Hà
Nội học.
Hai điểm chính của bản đồ quy hoạch này:
Thành phố có dạng nhà trong vườn, vườn
trong thành phố, thành phố trong rừng, và rừng
trong thành phố. Khi xây cất họ phải theo luật lệ
khắt khe từ vị trí đến nét kiến trúc, hạn chế đốn
ngã các cây thông, thay đổi địa hình v..v.. nên tạo
thành một cảnh quan mới mà vẫn hòa hợp với
thiên nhiên
Dùng con suối Cam Ly để phân chia hai
khu vực:
Người Pháp ở phía Nam cao ráo, tầm nhìn
của họ là một không gian rộng lớn với những đồi
trọc tới tận chân núi Lang Bian;
Người Việt ở phía Bắc với đặc tính để
phục vụ người Pháp với những khu dân cư nằm
dưới chân các đồi trọc thấp nhấp nhô trong một
khu lòng chảo với hai con suối chảy về Cam Ly và
Ankroet, với nhiều hạn chế về xây cất để giữ cảnh
quan thông khoáng và để dành đất cho các sinh
hoạt công cộng và đầu tư ngoại quốc trong tương
lai.Trong khu vực này những lùm thông hay từng
hàng thông sẽ được trồng rải rác tại những địa
điểm chọn lọc. Nhờ đó, với cận cảnh ta vẫn thấy
những khu dân cư, thương mại và sinh hoạt
Dalat & Người Xưa Trang 3
v…v… nằm rải rác
xen kẻ với các khu
nông nghiệp hài hòa
theo nhu cầu. Với
viễn cảnh từ trên
các đồi ta thấy một
số khu nhà cửa
thấp thoáng và
những cao ốc nỗi
bật giữa rừng bao la
bát ngát tới tận dãy
núi Lâm Viên.
Địa hình Dalat là
đồi núi nên chiều
cao các kiến trúc
phải được ấn định
riêng rẻ cho tùng
khu vực nhỏ chứ
không dùng một
chiều cao chuẩn
như tại các thành
phố miền đồng
bằng. Ngọai trừ các
khu với phố liền
nhau, các khu dân
cư trên sườn đồi là nhà riêng biệt trong vườn, lớn
nhỏ tùy khu vực. Các đỉnh đồi được dự trù dành
làm những công viên, những khu sinh hoạt tập thể
với các cơ sở nằm giữa những lùm cây.
Tên Dalat có hai nguồn gốc. Do hàng chữ
La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem
(Dalat) có nghĩa là cho người này niềm vui, cho kẻ
khác sự mát lành, được khắc trên tháp chợ Hòa
Bình. Nguồn khác từ người thổ dân M’lates hoặc
Lạch sống lâu đời tại đây. Lạch có nghĩa là rừng
thưa, rừng thông. Đa là nước. Từ đó có tên Dalat.
Khu vực Pháp kiều gồm nhiều đồi cao
khoảng 1550m. như đồi Robin (đồi Ngọc Hoàng,
nay là trạm cáp treo), nơi dự định xây phủ Toàn
Quyền Đông Dương, các đồi khác với cao độ
khoảng 1300m như đồi các dinh thự Phó Soái,
(nguyên thủy là nhà nghỉ hè của Thống đốc Nam
Kỳ, ông này bán lại cho Công sứ Dalat) nay là
UBNH tỉnh Lâm Đồng v…v… với lưng đồi đầy
thông. Dinh Công Sứ trên đồi cao một vị trí có
tầm nhìn tứ phía đều đẹp, sau lưng chợ Hòa Bình
lúc đầu là đồn lính khố xanh. Phần chính của khu
vực gồm các cơ sở thương mại và công sở nằm
trên các con đường Paul Doumer (Trần hưng Đạo-
Trần Phú 2) đến thác Cam Ly chạy ngang qua hai
khách sạn lớn và nhà thờ con gà. Đường sá thuộc
khu vực này được tráng nhựa sạch sẽ, hai bên vệ
đường là những hàng cây mai, đặc trưng của Dalat
và phía sau những biệt thự, công thự thật đẹp với
kiến trúc Âu châu ẩn hiện qua những cây thông.
Tuy quy hoạch hai vùng Pháp Việt rõ rệt nhưng
vẫn có những trường hợp đặc biệt như Cité St Be-
noit, Cité Decoux, cho các công chức Pháp ít
lương nằm trong khu người Việt và ngược lại hai
ấp Xuân An và Tân Lạc tự phát trong vùng Pháp.
2 Tên đường thay đổi khi có hai tên trong ngoặc, tên đầu
thuộc thời VNCH, tên sau thuộc VNDCCH
1 bãi đất làm lễ 14/7 với các trò chơi, 2 Langbian Palace, 3 nhà kho bạc,,4 hotel du Park,
5 nhà thờ con gà, 6 khách sạn Hồ Lớn, 7 ấp Xuân An, 8 đồi Hầm đá, 9 đường Hà huy Tập
vào Tân Lạc, 10 vườn rau ông Nguyễn thái Hiến, 11 ấp Tân Lạc, 12 đồi Robin (cáp treo),
13 Trường Adran, 14 Dinh Phó Soái ( UBND tinh Lâm Đồng), 15 khán đài sân vận động,
16 Câu lạc bộ thể dục thể thao. Hồ đã bắt đầu bị bồi lấp.Hình chụp khoảng thập niên 1960
Dalat & Người Xưa Trang 4
Khu người Việt rất rộng với hình cánh
quạt, nằm phía Bắc suối Cam Ly phần nhiều là
những đồi trọc thấp dùng làm vùng săn bắn nay là
các ấp trồng rau như Đa Thiện v..v…, toàn cỏ
hoặc tranh _
một loại cỏ cao dùng lợp nhà _ trải dài
tới tận chân núi Langbian (Lâm Viên). Khu này
được quy hoạch là khu bất kiến tạo. Người Việt
tập trung nơi khu Place du Marché (chợ Hòa
Bình), phát triển về hướng Tây Bắc theo đường Lò
Gạch (Hoàng Diệu), Cầu Quẹo (Phan đình Phùng)
Hai Bà Trưng, các ấp Số Bốn, ấp Hà Đông, Nghệ
Tĩnh và về hướng Đông Nam với các khu Trại
Hầm, Trại Mát, Cầu Đất. Nghĩa địa Dalat có thể là
nghĩa địa đẹp nhất Việt Nam từ lịch sử, vị trí, địa
hình và địa chất. Từ thuở sơ khai nó đã được
người Pháp cho thực hiện ngay trên đồi cao.Từ vị
trí đó các mộ phần của những người dân tha
phương cầu thực đầu tiên, giàu nghèo, chung nhau
có hướng nhìn về đồi Domaine de Marie, về các
dãy nhà đường Cầu Quẹo và các ấp Hà Đông,
Nghệ Tĩnh thẳng tới trường Đại Học Dalat. Ngọn
đồi tròn vo với địa chất ít xói mòn vì đến nay sau
bảy tám chục năm những ngôi mộ cũ vẫn còn dấu
tích rõ ràng.
Phát Triển
Trong khoảng 30 năm đầu (1893-1920)
Dalat xem như còn hoang vu, thổ dân gốc người
Lạch, chủ yếu sống ở khu Dankia. Năm 1910
ngoài cư dân bản địa, có một số người Việt gồm
một số nhân viên đo đạc, lái buôn và đa số là tù
nhân. Họ tập trung hai bên suối Cam Ly, con suối
chính của Dalat. Trong khoảng thời gian này Dalat
không phát triển được vì các Toàn Quyền bị thay
đổi luôn và Pháp bị ảnh hưởng của thế chiến thứ
nhất. Sau khi Toàn Quyền Maurice Long giao cho
KTS Ernest Hébrard thiết lập bản đồ quy hoạch
thành phố Dalat (1921-1923) một luồng sinh khí
mới bắt đầu phát triển. Từ đó các đường giao
thông lên Dalat và các công thự được xúc tiến gấp:
hoàn thành đường đầu tiên Phan Thiết-Ma Lâm-Di
Linh-Dalat (1914), xây cất trường mẫu giáo Naza-
reth, bưu điện, kho bạc, nhà máy điện nước và
hoàn thành đường Phan Rang–Dalat (1920), Petit
Lycée (1921), nhà thờ con gà (1931-42), đường
Saigon-Dalat và sân golf (1932), hồ Xuân Hương
(1934), Grand Lycée (1927-42), hoàn thành đường
xe lửa Phan Rang- Dalat (1903-1936), chợ Hòa
Bình (1937), nhà ga xe lửa (1932-38), trường
Adran (1941), chùa Linh Sơn (1942), khởi công
đường đèo Prenn (1943), trường Võ bị quốc gia
(1950), trường Phương Mai/ Bùi thị Xuân và Bảo
Long/ Trần hưng Đạo (1952) v…v…
Dalat xưa chỉ thật sự phát triển trong khoảng 25
năm (1920-1945) từ một khu vực đang còn hoang
vu thành một trung tâm hành chánh, văn hóa, du
lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng của toàn Đông Dương
khi nhìn sự gia tăng biệt thự và dân số: 487 biệt
thự/11500 người (1939); rồi 1000/25000 (1945).
Tuy Pháp đã tái chiếm Việt Nam, nhưng khu vực
của Pháp kiều tại Dalat xem như đã hoàn chỉnh và
được xem là một thành phố tuyệt đẹp của Viễn
Đông, và sau năm 1945 khu vực người Việt phát
triển ồ ạt làm mất cảnh quan thiên nhiên. Năm
1945, Nhật đầu hàng, Việt Minh nắm chính quyền
và tuyên bố Việt Nam độc lập. Toàn dân hân hoan
đón mừng nước nhà đã thoát khỏi sự đô hộ của
Pháp và chấm dứt nền quân chủ khi vua Bảo Đại
thoái vị với câu “Thà làm công dân một nước độc
lập còn hơn làm vua một nước nô lệ". Nhưng chỉ
mấy tháng sau Pháp tái chiếm lại Việt Nam.
Chánh quyền cách mạng Dalat đương thời khuyến
cáo dân chúng tản cư và phát động chiến dịch
vườn không nhà trống để Pháp thiếu lương thực và
quân ta dễ chiếm lại. Năm 1946, dân số Dalat từ
25000 xuống chỉ còn 5200 người, và oái oăm thay,
khi hồi cư người dân tản cư đã lâm vào cảnh vườn
Dalat & Người Xưa Trang 5
không nhà trống vì tất cả tài sản, để trong nhà hay
đã chôn dấu đó đây, đã không cánh mà bay. Từ
năm 1948 trở đi là giai đoạn chuyển tiếp quyền
hành từ ông Công Sứ Pháp Movillon qua ông Thị
Trưởng Việt Trần đình Quế. Từ đó ra đời lá Quốc
kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và bản Quốc ca “Này công
dân ơi…”. Năm 1950 Quốc trưởng Bảo Đại lập
vùng Cao nguyên Trung phần thành Hoàng Triều
Cương Thổ và hạn chế dân nhập cư mới. Năm
1955 vùng này được Tổng Thống Ngô đình Diệm
sát nhập vào Trung Phần. Năm 1952 theo đề nghị
của ông Nguyễn Vỹ, nghị viên thành phố Dalat,
các tên đường và địa danh Dalat được Việt hóa,
nhưng bộ máy hành chánh vẫn giữ như cũ. Năm
1954 Việt Nam bị chia đôi theo hiệp định Genève.
Miền Nam trở thành Đệ Nhất
Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô
đình Diệm lãnh đạo.
Xây Cất Thành phố
Người Pháp đã xây dựng
tại Dalat nhiều công thự và biệt
thự độc đáo đã hơn trăm năm mà
vẫn không lỗi thời. Vì sống xa
quê hương và đến Dalat từ nhiều
miền khác nhau người Pháp đã
xây cất các biệt thự thật đẹp với
nét kiến trúc đủ mọi miền từ
Nam chí Bắc, Đông sang Tây, từ
miền núi đồi hay bãi biển của
quê nhà. Gần như không có căn
nào giống nhau, nên đã tạo thành một tập hợp biệt
thự thật đặc biệt không nơi nào có. Dalat đẹp và
thơ mộng nhờ các biệt thự nằm rải rác dưới những
lùm thông, hay ẩn hiện qua tấm màn thông mà các
thi nhân, nghệ sĩ ví như các thiếu nữ đài trang
khoác chiếc áo dài Việt Nam vừa kín vừa hở làm
du khách phải tò mò suy ngẫm và phỏng đoán
những gì sau lớp hàng mỏng. Họ cũng mang
những giống hoa từ cố quốc sang trồng ngoài
vườn, trên bục cửa sổ và cả trong nhà. Trang bị
nội thất cũng như bên Pháp với lò sưởi, bếp sắt,
ghế fauteuil, bồn tắm, bồn tiêu và đặc biệt là bidet
dành riêng cho phụ nữ mà tôi không thấy bên Mỹ
v..v.. Trong khu vực Việt Nam, ngọai trừ các khu
với phố liền nhau, các khu dân cư trên sườn đồi là
nhà riêng biệt trong vườn, lớn nhỏ tùy khu vực.
Các đỉnh đồi được dự trù dành làm những công
viên, những khu sinh hoạt tập thể với các cơ sở
nằm giữa những lùm cây. Luật lệ về kiến trúc rất
khắt khe, không cho vi phạm thông khoáng cảnh
quan. Vì người Việt không được cư ngụ phía Nam
suối Cam Ly, nên trong buổi sơ khai để cho gần
nơi có việc làm, một số công nhân nghèo tụ tập tại
hai ấp Xuân An và Tân Lạc. Vì địa thế khắt khe
hai ấp này đã thành hình một cách bất hợp pháp và
không phát triển được nên hiện nay là nơi duy
nhất trong nội thị vẫn còn giữ nét nghèo nàn xơ
xác bên cạnh những khách sạn và dinh thự huy
hoàng. Hai ấp Hà Đông và Nghệ Tĩnh là những ấp
trồng rau đầu tiên có giấy phép
thành lập đều nằm sâu dưới
thung lũng. Tại ấp Nghệ Tĩnh,
ngôi đình và con đường vòng
quanh ấp (đường Trần khánh Dư
là ranh giới nguyên thủy của ấp),
là những dấu tích phản ảnh rõ
ràng quy chế xây dựng gắt gao
của bản đồ quy hoạch. Theo
phong tục tập quán người Việt,
đình được xây cất tại một địa
điểm trang nghiêm khoảng khoát
để dân làng làm ăn được phát
đạt, nhưng chánh quyền Pháp đã
buộc là nóc đình phải thấp hơn
đỉnh đồi để không vi phạm
thông khoáng cảnh quan.
Dalat & Người Xưa Trang 6
Các chợ Dalat đều có liên quan mật thiết
với hồ Xuân Hương. Grand Lac (Hồ Lớn tiền thân
của tên hồ Xuân Hương), được đắp lần đầu tiên
vào năm 1919. Chợ đầu tiên tại khu ấp Ánh Sáng.
Năm 1923 một hồ khác được đắp phía dưới hồ
trên, nên có hai hồ nối tiếp nhau nên chợ phải dời
lên khu Hòa Bình dưới hình thức chợ cây như
hình trên. Năm 1930 khu chợ cây bị cháy. Năm
1932 một trận bão lớn làm vỡ cả hai hồ. Năm
1934 mới xây lại hồ hiện hữu với La Grenouillère
(nhà Thủy tạ) để chơi những môn thể thao dưới
nước và Cercle Sportif, dân chúng gọi là Xẹc, với
môn thể thao chính là quần vợt. Chợ Hòa Bình
được khởi công xây dựng năm 1935 và khánh
thành năm 1937.
Xe ngựa là phương tiện chính để chuyên chở hàng hóa, ngựa
cho một số cá nhân phải di chuyển nhiều và đi đường xa. Đi
bộ bằng ”chân không” là phương tiện di chuyển của người
dân thường.
Chợ Hòa Bình do KTS L. Pineau lập đồ án
và công ty SIDEC xây cất. Chợ có tháp cao với
hàng chữ La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Tem-
periem (Dalat), và huy hiệu của thành phố với
hình đôi nam nữ người thổ dân Lạch.Trong thời
gian Nhật chiếm đóng khi có tin máy bay Đồng
Minh tới thi còi gắn trên tháp ụ lớn báo động để
dân chúng tìm nơi trú ẩn. Họ gọi nhau a lẹc a lẹc (
alerte alerte)
Ông Võ đình Dung là chủ và là nhà thầu
xây cất ba dãy phố chính xung quanh chợ. Phía
Đông là những gian nhà gỗ rộng cở 2,5m, một
phòng thông tin gần cầu thang qua chợ mới bây
giờ. Những bản tin của phòng thông tin được in
bằng ronéo và gắn vào một bảng lớn có lưới mắt
cáo bảo vệ. Dãy phố bên này được phá bỏ, và để
trống từ khi có chợ mới.
Bãi trống dưới tháp chợ là nơi bán hàng
tạp nhạp đủ thứ rẻ tiền mạnh ai dành lấy chỗ như
bánh kẹo nước uống, mãi võ Sơn Đông, thợ nhổ
răng v…v… Các nữ sinh thường ra đây ăn hàng
vặt với những loại trái cây mà bây giờ có cho con
nít cũng quăng thùng rác như trái xây, keo, sim,
me, nước uống thì xu xoa, xương xáo, hột é. Có
hai loại kẹo khá đặc biệt. Trên một cái bàn nhỏ
dưới miếng vải là một cục bột trắng dẻo đã được
thắng với đường trong ruột là đậu phụng. Người
bán hàng vừa kéo vừa vuốt cục kẹo thành một sợi
nhỏ bằng ngón tay trong ruột là đậu phụng. Ông ta
dùng gáy bàn tay khẻ nhẹ là nó gãy ra từng khúc
dài ngắn tùy theo đứa trẻ mua nhiều ít. Có ngày
ông ta làm một cái bảng quay số, người mua quay
trúng số nào thì cắt bấy nhiêu khúc, đó là kẹo kéo.
Còn món yến thoòng, lúc đầu là cục bột màu hơi
vàng, người bán hàng cứ kéo tới kéo lui thỉnh
thoảng lại nhúng vào mớ bột để sẵn trên bàn một
lát trở thành một mớ sợi nhỏ như sợi mì.Trong
lồng chợ bắt đầu với vài ba dãy sạp vải, áo quần
may sẵn rồi phần chính là đồ khô rau cải. Các sạp
trong này được cung cấp với kích thước đồng bộ
được sắp ngay hàng thẳng lối. Cuối cùng là
những dãy hàng thịt, được xây cất và phân chia
thành từng ô nhỏ. Vách dưới là gạch men trắng,
phía trên là lưới kẽm chắc chắn. Mỗi ô có một của
sổ nhỏ là nơi trao đổi mua bán giữa khách và chủ.
Khách hàng không được dùng tay mà dùng một
thanh gỗ có sẵn để lựa chọn thịt. Phía ngoài hàng
hiên hai bên chợ là những hàng linh tinh nhưng có
sạp ngồi, tự đóng với kích thước chiếm được.
Hàng cá được xếp ngoài hàng hiên phía bên chợ
mới và gần hàng thịt. Cá hấp, đựng trong những rổ
tre nhỏ từ Phan Rang lên theo xe lửa mỗi đêm,
Sau 1945 mới có hàng cá tươi với sạp bằng gạch
men có vòi nước. Hằng năm sau Tết chợ bắt đầu
họp mặt vào ngày mồng bốn âm lịch.
Dalat & Người Xưa Trang 7
Những khi có gánh hát cải lương lên trình
diễn chợ được dẹp sớm hơn . Gánh hát sắp các sạp
cùng kích thước trong chợ lại làm sân khấu gần
hàng thịt. Các sạp khác được sắp hai bên hông và
các tấm vải bạt nhà binh dày được giăng ngang
trên làm vách. Đoàn trẻ con leo lên các sạp dành
nhau các chỗ rách coi hát cọp. Pô lít cũng chịu
thua đoàn con nít này. Tôi còn nhớ mãi trong
tuồng hát đó có bài Buồn Tàn Thu của Văn Cao
với “Ai lướt đi ngoài sương gió không dừng chân
đến em bẽ bàng ……..Em ngồi đan áo lòng buồn
vương vấn em thương nhớ chàng…”Nhớ bài này
vì bài hát hợp với khung cảnh con gái Dalat ai
cũng biết đan áo cho người yêu.
Các tiệm xung quanh
chợ bán đủ loại hàng Á Âu,
Nam Bắc Việt Nam, như
thực phẩm (Vĩnh Chấn,Vĩnh
Hòa), đồ phụ tùng, đồ sắt
nhỏ ( Lưu Hội Ký), tiệm
thuốc Tây (Homard, Le
Barb, Võ đình Dần), thuốc
Bắc (Thế An Đường với tên
mà ai cũng biết “Con Cua”,
Đức Xương Long) tạp hóa
(Nouveautés Hanoi, tiệm của thân sinh tôi, Phúc
thái Lai chuyên bán sản phẩm Bắc, xuất thân buôn
bán gương lược, cho mướn truyện như Tề Thiên
Đại Thánh, Phạm Công Cúc Hoa), nhà hàng ăn
bình dân (Dân Sinh sau là Mékong) cao cấp (Chic
Shanghai), tiệm vàng (Alfana Bijoux), chụp hình
(Nam Ký, Lý Photo), may Âu phục nam nữ (Paris
Mode, Lê thành Đôn, Mừng), đồ mớp ( Mỹ Nga
Ameublement, Thiện Nghĩa), v..v.. xin kể vài tiệm
chính. Thời đó nấu củi nên diện tích xây cất của
các tiệm xung quanh chợ Hòa Bình chỉ hơn một
nửa diện tích lô đất. Các tiệm thường mua nguyên
xe củi rồi bửa nhỏ để dùng suốt năm, cũng vì vậy
mà phía sau có cổng lớn để xe củi vào trút hàng
xuống rồi chất thành hàng ngay ngắn.
Sau dãy tiệm phía Bắc là bến xe đò liên
tỉnh (xe Minh Trung) và một cây xăng nhỏ, phía
tay trái đường Annam (Hàm Nghi, Nguyễn văn
Trỗi) là bến xe ngựa, và một phông ten (fontaine)
nước công cộng. Các bạn hàng bán rau, đi chân
đất quần xăn cao, tà áo dài dắt lưng quần, gánh sản
phẩm từ các ấp ra dừng lại đây lấy nước phun vào
rau cho tươi thêm và để rửa bùn nơi chân trước
khi mang guốc vào chợ. Đó là ngôi chợ Hòa Bình
thân yêu mà người Dalat thưở xưa biết. Trên
đường Annam có 2 tiệm khá đặc biệt bán sĩ nước
mắm và rượu chát. Nước mắm đa số đựng trong
tỉn bằng đất nung, trong thùng thiếc hay thùng gỗ
20 lít. Tỉn có dung tích khoảng 4 lít, giống như hai
cái tô sành úp lại với nhau có giây gai buộc xung
quanh làm quai xách. Phía trên có nắp được trát hồ
kín, dễ chồng chất, chuyên chở, và tiêu thụ. Các
Những dãy nhà mái nâu như dãy có taxi, dãy gần
chợ Hòa Bình và đường Minh Mạng là của ông Võ đình
Dung xây đầu tiên, tiệm góc đường có mái nhà hình tam
giác là Đức Xương Long (đầu đường Minh Mạng).Tiệm
Nouveau és Hanoi của ba tôi là căn thứ hai đầu kia Dãy nhà
lầu 3 tầng với hàng cửa sổ, trước đây là ga ra Ballansard.
quán nhỏ tại các ấp thường mua loại thùng thiếc
về bán lẻ vì nhẹ nhàng, gọn gàng, nhưng một khi
đã khui thùng nếu không bán hết sớm thì thùng bị
rỉ sét. Thùng gỗ nặng nhưng không bị sét và được
hoàn lại tiền thùng khi mua thùng mới. Ông bà Võ
quang Tiềm người Huế xuất thân là thợ may và
bán thuốc Cẩm Lệ, luôn luôn mặc áo dài ngồi
trước của tiệm chính. Đúng là ngồi mát ăn bát
vàng vì trang phục là của người bảo thủ mà lại có
sáng kiến mua môn bài bán sĩ rượu chát đựng
trong thùng gỗ tô nô (toneau) 200 lít. Cô thứ nữ
(bạn học với nhà tôi và là KTS Ngô viết Thụ phu
nhân tương lai) với một xâu chìa khóa to tướng
của các nhà kho trên đường An Nam phụ trách
việc xuất nhập kho. Các thùng rượu được chở đến
Tiệm Con Cua
Dalat & Người Xưa Trang 8
bằng xe cam nhông 5-6 tấn. Họ để một bánh xe
hơi cũ trên sàn nhà rồi lăn thùng rượu xuống trước
khi được xếp gọn vào kho. Các quán phải đem các
hũ sành tới mua về bán lẻ, còn rượu trắng phải ra
tiệm Đức xương Long mua. Năm 1950 hai bên
đường Annam từ chợ đến khách sạn Võ quang
Tiềm, gần nhà thờ Tin Lành đều là phố bán buôn.
Thương gia người Hoa khoảng 30%, người
Việt 60% đa số là người miền Trung.Tiệm người
Pháp 10% nằm rải rác trên nhiều nơi bên khu vực
Pháp Kiều và tại chợ Hòa Bình. Trên đường
Maréchal Foch (Duy Tân, 3 tháng 2) tiệm ông Võ
quang Hàm, gần ngã ba đường vào trường tiểu học
Đoàn thị Điểm, bán đồ cho người Thượng là tiệm
cuối cùng của dãy phố cũ, phải gần năm 1945 mới
phát triển thêm cả hai bên xuống phiá dưới. Theo
đà các tiệm lớn nhỏ phát triển theo các đường
Minh Mạng, Cầu Quẹo (Phan đình Phùng), An-
nam v..v.. Ngã ba Cầu Quẹo Minh Mạng rất rộng
có vài đặc điểm đáng nhớ. Không ai hiểu nguyên
nhân tại sao nhưng tất cả những đám ma đều
ngừng tại đây để cúng vong linh người quá cố rồi
mới tiếp tục hành trình đến nghĩa trang. Cái phông
ten nước tại đây luôn đông người. Tại đây có một
đường dốc nhỏ đi lên bãi đậu xe trên đường An
Nam, vì dân chúng đi bộ quen họ chọn đường
ngắn nhất. Không ngại đường dốc nên nếu không
có gánh gồng gì họ leo dốc này để ra chợ. Chỉ có
đường từ cầu ông Đạo lên chợ, đường Maréchal
Foch và xung quanh chợ là được tráng nhựa.
Đường Cầu Quẹo, một trục lưu thông chính vẫn
còn là đường đá và chưa có hệ thống cống rãnh
nên nắng bụi mưa sình, nhất là đoạn từ ngã ba
chùa lên nghĩa địa vì nơi đó có mấy hãng cưa máy
xe chở gỗ ra vào thường xuyên. Đường lên dốc
chùa vẫn còn là đường đá. Trên đường Annam
phía bên kia nhà thờ Tin Lành có một dốc nhỏ
bằng đất khá trơn khi trời mưa là đường tắt cho
người bộ hành, xuống đường Cầu Quẹo để về Số
Bốn. Tại đầu dốc nhỏ này là tiệm chè nổi tiếng của
hai cô Hiền Thảo mà các nam thanh nữ tú Đà
thành và du khách trẻ thường viếng thăm. Từ quán
chè Hiền Thảo đến dốc chùa có một dãy biệt thự
nằm dưới thấp hình như là cư xá cho công chức.
Cuối dãy cư xá là đoạn đường dốc, nơi trường Bồ
Đề sau này, lên trại lính thủy Courbet và đài vô
tuyến điện (mà dân chúng gọi là nhà giây thép
gió) và một bin đèn (cabine) còn là đường đất rất
vắng vẻ và nguy hiểm vì chỉ có người ấp Nghệ
Tĩnh sử dụng để ra chợ. Bọn lính thủy thường nấp
sau bin đèn chạy ra kéo các phụ nữ đi lẻ loi vào
hãm hiếp. Đoạn từ trường Bùi thị Xuân sau này
đến trại Thiếu Sinh Quân (Đại Học Dalat) còn là
đường mòn. Các đường Tour de Chasse ( đường
Vòng Lâm Viên, Phù Đổng Thiên Vương), đường
Nguyễn công Trứ từ trường Thiếu sinh Quân qua
nghĩa địa là đường xe hơi cũng là đường đất, với
đoạn gần cầu đầu ấp Hà Đông thường bị ngập mỗi
khi có mưa lớn.
Hình chụp từ nhà thờ Tin Lành, ngay bên phải nơi cua
có đường dốc xuống đường Cầu Quẹo,
Chợ Mới được KTS Nguyễn duy Đức thiết
kế và nhà thầu Nguyễn linh Chiểu (1958) xây cất
thành ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam.Trước đó
vùng Chợ Mới là một thung lũng bao quanh bởi
chợ Hòa Bình và một đồi thấp phía Đông gồm có
Dalat & Người Xưa Trang 9
văn phòng ông Quản Đạo, nhà lao và đồn lính.
Thung lũng được trồng xà lách xoong nhờ nước
rửa chợ và nước phế thải từ nhà lao và đồn lính.
Vách đất khá cao giữa Chợ Mới và chợ Hòa Bình
toàn là bông quỳ vàng vốn đẹp nhưng vì lẫn lộn
với rác rưới của chợ nên giảm giá trị. Sau đó KTS
Ngô viết Thụ, được giao phó chỉnh trang toàn bộ
vùng từ cầu ông Đạo lên chợ cũ. Ông cho bổ sung
cầu vào chợ mới, các dãy phố và đường xung
quanh chợ mới, chỉnh trang đường từ cầu ông Đạo
lên chợ cũ với hai lề đường lát xi-măng và một
dãy ki ốt có quán bán kem Việt Hương nổi tiếng
và các sản phẩm khác trên triền đồi đi đến rạp
Ngọc Lan, và dời nhà lao và trại lính khố xanh đi
nơi khác. Lính khố xanh và lính khố đỏ là những
lính Việt trong quân đội Pháp. Quân phục của họ
là nón lá, quần áo vải với giải lưng quần rộng màu
xanh hay đỏ, đầu giải buông thỏng ở trước giống
như cái khố nên gọi là "lính khố xanh hay khố
đỏ.” Khố đỏ là lính chính quy, khố xanh là địa
phương quân. Cùng khoảng thời gian đó hai KTS
Huỳnh kim Mãng và Lâm Du Tốt hoán cải chợ cũ
thành rạp hát Hòa Bình với các cửa hàng dịch vụ
xung quanh.
Hình này chỉ rõ sự sáng tạo của KTS khôi nguyên La
Mã Ngô viết Thụ trong việc tận dụng đất và cải thiện
sự lưu thông của bộ hành với cái cầu nối liền hai chợ
Các khu nông nghiệp gần thành phố đều
nằm dưới thung lũng. Phần nhiều nhà bằng gỗ, ba
gian hai chái với vách ván. Mái bằng thiếc mỏng
của thùng dầu hôi, tôn thùng dầu hắc hoặc tôn
thiếc dợn sóng, và đa số là tranh hoặc hèo. Tranh
là một loại cỏ cao cả thước, cọng tròn nhỏ và rất
cứng, lá rộng và mỏng. Khi có gió và nắng, bãi cỏ
tranh, nằm trên sườn đồi hay dưới thung lũng, đều
uốn lượn lấp lánh như sóng nhờ lá mỏng và dài
trông thật đẹp. Hèo là một loại dương xỉ, có cọng
lớn và lá cứng nên bền hơn tranh nhiều.Vách ván
cũng có nhiều loại. Mặt tiền nhà thường bằng ván
bào để trơn hay sơn, vách xung quanh bằng ván
bìa. Ván bìa là 4 miếng ván đầu tiên được xẻ xung
quanh thân cây, để nguyên vỏ nên rẻ hơn nhiều.
Những nhà có mái tôn thì hứng nước mưa vào các
thùng phuy tôn dầu hắc, phuy rượu chát bằng gỗ
hay các lu sành Phan Rang. Nhà tranh gánh nước
giếng. Đa số nấu nướng bằng củi thông, mà lúc đó
thường gọi là ngo, rẻ nhưng nhiều khói làm đen cả
trần nhà. Củi dẻ hay tùng ít khói nhưng đắt hơn.
Củi được cưa thành từng khúc dài 50cm rồi được
bửa ra từng mảnh cở chừng 10cm. Người bán củi
có cái khung gồm một tấm ván đáy hai đầu có hai
lỗ cách nhau 1m, nơi đó được để hai cây tròn nhỏ
dài chừng 1.2m. Trên đầu hai cây này có một sợi
giây cột với chiều cao 1m. Củi được chất đầy
khung đó là nửa thước khối. Do đó có tên là củi
thước hay củi bửa. Người mua tự bửa hay mướn
người bửa nhỏ vừa đun. Bếp là một cái kiềng ba
chân bằng sắt, hoặc bằng 3 hòn đá.
Chợ Mới chưa được KTS Ngô viết Thụ chỉnh trang.
Con đường lên chợ Hòa Bình có những cây bông mai
đặc biệt mà ba tôi đã cho trồng khoảng thập niên
1930. Nay dân chúng gọi là bông Anh Đào qua bài hát
của Hoàng Nguyên. Đồi lùm cây thông là đồi Công Sứ,
đồi trọclớn và xa xa là Nghĩa địa.
Nồi niêu phần nhiều là đồ gốm từ Phan
Rang, chỉ có một số rất nhỏ có nồi và mâm đồng.
Dalat & Người Xưa Trang 10
Khi nồi cơm rặc nước, người ta cào ra một ít than
và tro nóng, chuyển nồi cơm xuống đó và thỉnh
thoảng “vần”(xoay) cho nóng đều. Trong bếp nhà
nào cũng có cái gác măng rê (garde à manger)
dùng để cất các thức ăn thừa. Vì sợ kiến và chuột
mỗi chân tủ được đặt trong một cái tô sành lớn
đầy nước. Một số rất ít người dùng than vì phải
chở từ Phan Rang lên.
Cuối năm 1944 người Pháp về nước bán rẻ
lại dụng cụ trong bếp, dân Dalat mới có soong
nhôm. Rất nhiều nhà có bếp sắt mua lại của Pháp.
Bếp có kích thước rộng 1,6m x sâu 0,6m x cao
0.8m. Trên mặt bếp có hai mặt lò, một lớn một
nhỏ, với nhiều khoanh tròn bằng gang để thay đổi
kích thước tùy theo nồi lớn nhỏ; hai bên có hai
nắp hình chữ nhật của hai thùng nước bên dưới.
Nước nóng tự động khi ta nấu nướng vì bếp nằm
chính giữa với vĩ sắt phía trên và lỗ thông gió phía
dưới. Khi nấu sức nóng tỏa ra hai bếp và thùng
nước. Mặt tiền bếp có cửa đóng mở lò phía trên,
và lỗ trống để thông gió phía dưới. Nhờ đó mà tiết
kiệm củi, luôn sạch sẽ, nhược điểm là không còn
cảnh ngồi sưởi bếp tán dốc. Bếp dầu hôi chỉ xuất
hiện vào sau năm 1950 nhờ đó mà bớt nạn phá
rừng làm củi. Một cái may cho Dalat giống như
Âu Châu vào đầu thế kỷ mười sáu nhờ bắt đầu
khai thác các mỏ than.
Khu tĩnh dưỡng và thủ đô Đông Dương
Ngay từ khi khám phá ra Dalat với khí hậu
mát mẻ không khí trong lành, bác sĩ Yersin đã có
ý định đệ trình xin lập một khu tĩnh dưỡng cho
người Pháp tại Đông Dương. Nhưng mãi đến năm
1897 Toàn Quyền Paul Doumer mới có ý nghĩ tìm
một địa điểm làm trạm nghỉ dưỡng ở Đông
Dương. Năm 1906 Dalat được xác định làm trung
tâm nghỉ dưỡng, và sau đó Toàn Quyền Decoux
quyết định lập thủ đô cho Đông Dương. Nhờ
quyết định này nên Dalat mới có những ưu tiên
trong xây dựng và phát triển và ngoài những công
thự to lớn, các tư nhân Pháp cũng cất nhiều biệt
thự sang trọng mà vua Bảo đại đã mua lại làm tư
dinh. Dalat có 3 dinh lớn mà dân chúng gọi là dinh
Bảo Đại, và du khách thường đến chiêm ngưỡng.
Dinh I, nằm trên một ngọn đồi thơ mộng
với những rừng thông bao quanh, là một công
trình kiến trúc độc đáo với vẻ cổ kính, uy nghi mà
tao nhã. Biệt thự này là của một công chức Pháp
tên Robert Clément Bourgery. Năm 1949 Quốc
Trưởng Bảo Đại, đã mua lại cho sửa sang toàn bộ
dinh cơ này và dùng làm tổng hành dinh và nơi
làm việc cho các quan chức Hoàng Triều Cương
Thổ.
Dinh II, được xây dựng từ năm 1933 trên
một ngọn đồi thông rợp bóng là một tòa lâu đài
tráng lệ gồm 25 phòng được bài trí cực kỳ sang
trọng là nơi ở và làm việc của Toàn Quyền De-
coux,. Ông đã cho làm những đường hầm bí mật
bằng bê tông chắc chắn, với nhiều ngóc ngách nối
vào hầm chứa rượu rất kiên cố nhằm bảo đảm an
toàn tuyệt đối cho ông và gia đình. Dưới thời TT
Ngô Đình Diệm, dinh này trở thành nơi nghỉ mát
của gia đình ông Ngô Đình Nhu. Đứng ở nơi đây,
du khách có thể nhìn thấy hồ Xuân Hương thấp
thoáng qua những tán lá thông.
Dinh III hoặc Biệt điện Quốc Trưởng là
biệt thự nghỉ hè của vua Bảo Đại. Được xây dựng
từ năm 1933 là một dinh thự vô cùng trang nhã,
trên một đồi thông thơ mộng nhìn sang Bois
d’Amour (Rừng Ái Ân) tuyệt đẹp nay là ấp Sòng
Sơn. Do một may mắn của lịch sử, Biệt điện Quốc
Trưởng còn được bảo tồn gần như nguyên trạng
với những ấn tín quân sự, ngọc tỷ của Hoàng Đế,
quốc thư, quốc kỳ các nước có quan hệ ngoại giao,
tượng bán thân của vua Bảo Đại và vua cha Khải
Định, phòng của hoàng hậu Nam Phương, hoàng
tử Bửu Long, công chúa Phương Mai, hình ảnh
gia đình và những vật dụng thường ngày…
Dalat là một khu vực có nhiều ưu điểm mà
nếu ta biết khai thác không phải chỉ là một trung
tâm nghĩ dưỡng quốc gia mà là cho cả vùng Đông
Nam Á nhờ gần biển, gần khu du lịch dã ngoại và
sinh thái, gần khu công nghiệp lớn với nhiều
phương tiện giải trí,. Nhờ ở trên cao và là đầu
nguồn các sông nên không sợ ô nhiễm về không
khí và nước uống trong tương lai.
Dalat & Người Xưa Trang 11
HỆ THỐNG HÀNH CHÁNH.
Năm 1926 Dalat được đặt dưới quyền ông
Công sứ Pháp với một người thơ ký làm phụ tá và
văn phòng nằm trên đồi nay là đài truyền hình. Đa
số các công sở đều nằm trên đường Yersin (Trần
Phú). Từ năm 1930 hệ thống Việt có một Quản
đạo với văn phòng ngay mỏm đồi cầu ông Đạo, và
hệ thống Mọi có ông Huyện với văn phòng cuối
đường Lò Gạch gần thác Cam Ly. Hai hệ thống
này chỉ là bộ phận thừa hành chỉ thị của người
Pháp. Mọi liên lạc đều dùng Pháp văn, mãi đến
khoảng 1949 với ông Trần đình Quế, thị trưởng
đầu tiên, rồi năm 1950 ông Cao minh Hiệu lên
thay mới bắt đầu dùng Việt ngữ. Do đó trong thư
khố Dalat ta chỉ thấy toàn là tài liệu Pháp ngữ với
vài văn kiện về Việt ngữ .
Ngành giao thông vận tải
Dalat là một bình nguyên nhỏ hoang vu
của cao nguyên miền Nam Trung Phần, nhưng
nhờ được dự trù làm thủ đô Đông Dương nên mới
có một hệ thống giao thông vận tải đặc biệt. Nhờ
đó nên chỉ trong 25 năm đã xây dựng xong một
thành phố mới toanh. Đường Phan Thiết-Ma Lâm-
Djring-Dalat hoàn thành năm 1914, đường Phan
Rang Dalat năm 1920. Đường Saigon Dalat
(1932) đi qua ấp Trại Hầm, mãi đến 1943 mới đi
qua đèo Prenn hiện hữu. Đường xe lửa Tháp
Chàm-Dalat dài 84km được khởi công năm 1903.
Đoạn đường bằng phẳng Tháp Chàm – K’rông
Pha dài 41km được hoàn tất năm 1919, nhưng
đoạn đường dốc cheo leo K’rông Pha-Dalat dài
43km mãi đến năm 1932 phải 23 năm mới hoàn
thành, vì có 3 đoạn có răng cưa với độ dốc đến
120% và 5 cái hầm. Đa số chúng ta không biết
đường xe lửa Dalat có nhiều đoạn có răng cưa.
Tôi được may mắn là năm 1945 trên
đường từ Phan Thiết về Dalat trong một đêm trăng
khi xe ngừng tại ga Kabeu giữa đèo Ngoạn Mục
để lấy thêm nước, ba tôi đã đưa tôi đến goong cuối
cùng và chỉ cho xem đường răng cưa và cho biết
chỉ có đường lên Dalat mới có loại này. Nhờ đó,
bây giờ tôi mới tìm kiếm và ghi lại các điều dưới
đây. Hệ thống đường rầy xe lửa loại này có thêm
một đường rầy ở chính giữa có răng cưa móc ăn
khớp với răng bánh xe của đầu tầu và các goong.
Hệ thống răng cưa được chế tạo đặc biệt để kéo
đoàn tàu lên dốc và để giữ cho đoàn tàu không bị
tuột nhanh khi xuống dốc. Tàu lên chở tối đa 65
tấn và xuống chỉ chở được 55 tấn thôi. Các đầu
máy xe lửa có 4 cầu liên kết từng đôi một, chạy
bằng hơi nước được đốt bằng củi, khói và hơi
nước phụt ra từng cột khói đen ngòm. Loại HG
Dalat & Người Xưa Trang 12
4/4(040T, được chế tạo bởi các công ty Thụy Sĩ
SLM (Schweizetiche Locomotiv und Machinenfa-
brik) và công ty Đức MFE Maschinen Fabrik Es-
slingen) sản xuất theo bản quyền của SLM. Từ
năm 1924 đến 1930, các hãng SLM và MFE đã
bán 9 đầu máy loại ghi trên cho công ty Hỏa xa
Đông Dương. Con đường đã đưa dụng cụ cơ giới
nặng, vật liệu xây cất, lương thực và học sinh các
tỉnh lên Dalat học đi về 4 lần hàng năm. Đường xe
lửa này ngưng hoạt động năm 1968.
Con đường xe lửa này có ba cái độc đáo:
nhà ga xe lửa nay đã được công nhận là di tích
lich sử và văn hóa Việt Nam; chỉ có hai nơi __
núi
Furka, Thụy Sĩ và Dalat __
là có loại đường xe lửa
răng cưa loại cog railroad này; và cảnh đẹp nên
thơ khi leo đèo Ngoạn Mục. Nhưng các điểm này
nay đã không còn nữa, ngoài nhà ga vì năm 1990
Việt Nam đã bán lại cho Công ty hỏa xa Thụy Sĩ
DFB SA ( công ty xe lửa hơi nước của tuyến
đường núi Furka SA) những đầu máy loại trên để
phục hồi tuyến đường sắt của họ.
Đường hầm đá cũng phải đào bằng tay
Vào năm 1997, khung sườn và các bộ phận
truyền động cho hệ thống răng cưa của các đầu
máy này cũng được thu gom và chuyển về Thụy
Sĩ. Sau khi được phục hồi những đầu máy trên là
những đầu máy hơi nước mạnh nhất châu Âu hiện
nay. Cái quý của đường Krong pha Dalat là đường
xe lửa được phát minh tại Châu Âu, nơi có nhiều
núi cao với hầm dài nhưng chỉ có vài nơi có loại
đường này.
Cũng nên biết đường rầy răng cưa đầu tiên
trên thế giới do ông John Blenkinsop sáng chế là
đường Middleton Rail-
way ở Leeds với đầu
máy Salamanca (1812).
Ở Mỹ là đường xe lửa
lên núi Washington
(1917m cao) ở tiểu bang
New Hampshire (1869),
và ở Châu Âu là đường
Vitznau-Rigi-Bahn leo
núi Rigi ở Thụy Sĩ,
(1871). Cả hai đường
nầy hiện vẫn đang hoạt động. Hệ thống đường rầy
răng cưa có 4 loại: Riggenbach, Strub, Abt và
Locher. Loại ở Dalat là loại Abt do ông Roman
Abt người Thụy Sĩ sáng chế. Loại này, thông dụng
nhất hiện nay, dùng những thanh thép dày được
gắn thẳng đứng và song song với đường rầy.
Những răng cưa này đều được đúc và tiện với kích
thước thật chính xác và ăn khớp với răng cưa trên
nhông máy và goong dễ dàng và sít sao hơn loại
Riggenbach. Hai hay ba bộ răng cưa được dùng
tùy theo số nhông của đầu máy để luôn luôn có
một hệ thống ăn khớp với nhau một cách an toàn.
Ga Kabeu, giữa đèo Bellevue nơi có đường tránh để
lấy thêm nước tại vòi như hình ghi trên
Năm 1932, theo lệnh của chánh quyền bên
Pháp hai KTS Moncet và Révéron phải thiết lập
đồ án nhà ga này có nét kiến trúc tươi mát của một
nhà ga mùa hè. Họ đã thiết kế các phòng hành
khách rộng lớn với những cửa kính mầu và trần
hình vòm cung cao tạo sự mát mẽ và thêm ý riêng
để diễn tả đặc thù của Dalat: 3 đỉnh Núi Bà bằng
ba nóc có mái cao và dốc. Đường Xe lửa K’rông
Pha – ĐaLat nổi tiếng đẹp khi đoàn tàu leo lên đèo
Dalat & Người Xưa Trang 13
Ngoạn Mục (Bellevue col), những toa tàu ngoằn
ngèo chạy ven theo vách núi đầy thông hoặc cỏ
voi cao cả thước lả lướt theo từng cơn gió. Hành
khách sẽ có cảm giác kỳ diệu với cảnh trí một bên
là núi thông xanh thoáng, một bên là khoảng
không gian mênh mông bất tận, trải dài đến bờ
biển Phan Rang. Những phong cảnh tuyệt vời thay
đổi luôn luôn theo từng địa thế, từng khúc quanh.
Một cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời khó quên đã bị
chôn vùi trong quá khứ bởi vì sau 1975 chánh
quyền đương thời đã cho tháo gỡ đường rầy để
dùng trong con đường xe lửa xuyên Việt nhưng
không dùng được và đã thành vật phế thải. Sự kiện
xảy ra vì họ không biết đường rầy xe lửa có răng
cưa này được chế tạo riêng cho địa thế dốc, có thể
chịu sức kéo lớn khi lên hay xuống dốc.
Đèo Ngoạn Mục trên QL 20 Phan Rang Dalat
Bị bỏ hoang phế lâu ngày các răng cưa,
con ốc và bù-loong sau này đã bị dân chúng tháo
gỡ và bán làm sắt vụn., và nếu khúc đường răng
cưa ngắn Trại Mát –Trạm Bò đừng bị tháo gỡ thì
nay những du khách trong và ngoài nước đã lên
Dalat đều đến tham quan cái di tích có một không
hai này và thành phố ngồi mà hốt bạc. Tiếc thay.
Phương tiện giao thông công cộng trong
thành phố là xe kéo và xe ngựa, không có xe xích
lô vì dốc. Xe kéo giống như xe xích lô với hai
càng xe dài phía trước để người phu, đi chân đất,
hạ càng xe xuống để khách lên và nâng càng xe
lên rồi kéo chạy kể cả trên những đoạn đường đá
gồ ghề lởm chởm mồ hôi nhễ nhãi trông thật tội
nghiệp. Loại xe này dành cho người Pháp, các phụ
nữ, trẻ con nhà giàu, và các người đau yếu. Đôi
khi có những đoạn đường ngắn nhưng dốc quá
người phu xe phải kéo đi vòng đường xa ít dốc
hơn làm khách hàng tưởng họ bị lừa.
Chân người kéo xác thân người,
Kiếp người thay ngựa mảnh đời bất công
Vòng tay tháo xích cùm gông
Tự do! Độc lập! Quê hương Nhân quyền
Xe ngựa là phương tiện chuyên chở hàng
hóa và hành khách công cộng và ngựa là cho cá
nhân phải di chuyển nhiều hoặc lớn tuổi không
phù hợp với xe đạp. Để không làm hư mặt đường
xe ngựa bắt buộc phải dùng bánh xe hơi. Xe có hai
hàng ghế nhỏ hai bên để khách ngồi, quang gánh
treo hai bên hông hoặc để trên mui. Xe có một giỏ
nhỏ treo sau đít ngựa để hứng phân. Thời 1930
phu công chánh quét đường bằng cái chổi tre kế
bên.
Tôi không biết nhiều về tiệm sửa xe hơi.
Ngoài ga ra Martinecth, trên đường Trần hưng
Đạo, dành cho công xưởng Pháp, ga ra Balansard
tại chợ Dalat sửa xe hơi cho tư nhân Pháp, có
những xưởng sửa xe nhỏ của ông Lê Khánh và
Trần Danh, gần lò sát sinh. Năm 1948 khi nhà làm
Dalat & Người Xưa Trang 14
vườn bắt đầu dùng máy
bơm nước tưới rau và xe
Lam (Lambretta) thay
thế phần nào xe ngựa,
hãng Balansard mới đặt
cái máy bơm xăng Japy
với bộ phận chính là hai
bình thủy tinh trên cao,
mỗi bình 5 lít trước cửa
hãng để bán xăng đựng trong một thùng phuy 200
lít . Người bán hàng cầm cái cần lớn lắc qua lắc lại
là xăng cuồn cuộn tuôn lên. Khi đầy bình thủy
tinh, người ấy chuyển cái cần nhỏ phía dưới bình
thủy tinh qua bên kia, xăng chảy xuống vào cái
can của khách hàng và lớp xăng khác lại cuồn
cuộn trào lên bình kia. Dân chúng xúm lại vòng
trong vòng ngoài xem.Người làm vườn thường
đựng xăng trong can sắt 20 lít của nhà binh.
Cuối thập niên 40, về giao thông công
cộng hành khách liên tỉnh có hãng xe Minh Trung,
một loại Peugeot Wagon nhỏ của Pháp. Tất cả
hành lý xách tay đều được chất trên mui với bạt
che mưa kỹ càng, tám hành khách, tài xế và lơ xe
đuợc nhét chặt cứng vào xe. Không có sự lựa chọn
nào khác vì rẻ và mau hơn đi xe lửa. Xe khách nội
thành đường xa như Trại Mát, Cầu Đất có xe cam
nhông nét Renault chở được vài chục người.
Các xe vận tải hàng hóa từ 8-10 tấn chở
rau xuống Saigon và chở nhu yếu phẩm, vật liệu
xây cất lên. Sự giao thông thường bị kháng chiến
quân phá hoại đào đường, đắp ụ, đốt xe, cướp xe,
nên hàng tuần có hai chuyến công voa (convoi)
vào ngày thứ tư/năm và thứ bảy/thứ hai có quân
đội yểm trợ. Hàng tuần sáng thứ ba và thứ sáu các
nhà vườn lớn hay lái buôn rau và các chủ xe vận
tải thường tụ tập trước hãng sửa xe Ballansard để
mua bán rau. Đường đèo B’lao, cũng như đèo Bel-
levue (đèo Ngoạn Mục) còn rất hẹp nên xe phải đi
một chiều theo thời khóa biểu. Chiều thứ ba và thứ
sáu rau được chất lên xe. Các xe rau phải xuống
sắp hàng tại đầu đèo B’lao để sáng hôm sau, thứ
tư/thứ bảy, theo đoàn công voa đi xuống Saigon
để đến chợ Cầu Muối, trung tâm vựa rau, vào buổi
trưa. Xuống rau xong các xe này phải đi lấy hàng
để lên Dalat vào ngày thứ năm. Sáng thứ sáu ra
chợ trả tiền rau chuyến trước và mua hàng chuyến
đi vào thứ bảy. Ngày chủ nhật tại Saigon tài xế
kiểm tra, sửa chữa xe, lấy đầy đủ hàng để cho kịp
chuyến công voa lên Dalat ngày thứ hai.
Những xe hàng lên phần nhiều chở những
nhu yếu phẩm, nếu bị đốt hay bị cướp, phải xin
giấy chứng nhận của cơ quan hành chánh địa
phương để về trình với chánh quyền Dalat vì sợ bị
kết tội cung cấp nhu yếu phẩm cho kháng chiến
quân. Các xe bị cướp thường bị chận và buộc tài
xế chạy vào rừng, nơi đó kháng chiến quân đã chờ
sẵn. Chỉ cần khoảng một giờ họ có thể tẩu tán hết
một xe gạo 10 tấn.
Garage Martinetch chỉ sửa xe cho chánh quyên Pháp
Ngành vận tải tuy phát triển mạnh nhưng
đa số phẩm chất xe không được tốt. Khi lên đèo xe
vừa ì ạch vừa rú vừa lăn bánh chậm hơn người đi
bộ. Người phụ phải dùng khúc gỗ ba cạnh canh
bánh để xe khỏi tuột dốc, khi xe leo dốc cao hoặc
phải ngừng để lấy thêm nước làm nguội máy. Xe
không được tốt vì nhiều nguyên nhân. Xe mới rất
đắt và hiếm nên xe cũ phải sửa chữa nhiều lần với
các thợ máy trưởng thành qua tập sự trong các ga
ra sửa xe. Dụng cụ sửa xe và phụ tùng thiếu thốn
đôi khi người thợ máy phải chế biến dùng tạm gây
hư hại giây chuyền. Thường thường các lơ xe lâu
năm lên tài xế nên lăn lóc trong nghề lâu năm đều
biết sửa những hư hỏng nho nhỏ. Thí dụ sửa xe
sau đây sẽ nói lên những điều này. Có lần tôi quá
giang một xe chở rau quen đi Saigon. Trên đường
đi anh tài xế, gốc làm vườn, kể chuyện đời ba
chìm bảy nổi của anh. Tôi xin tóm tắt một đoạn
anh đem xe đi sửa như sau:
Dalat & Người Xưa Trang 15
- Cái xe của anh có 2 máy com rét xông
(compression) yếu lắm, phải rã máy ra mới biết
nguyên nhân, người thợ máy cho biết.
- Trời ơi! mới sửa cách đây một năm tại
Saigon mà, chủ xe đáp lại.
Buồn rầu lo ngại trong mấy phút rồi cũng
phải đồng ý rã máy tìm nguyên nhân. Ba hôm sau
đến tiệm anh được biết là phải xoáy xi lanh (cylin-
dre) mà Dalat không nơi nào có máy này, ngay cả
Ballansard cũng không có, phải đem đi Saigon
sửa.
- Lần trước họ có cho anh biết là dên rơ
quá rồi không, tôi đoán là hai cái dên (bielle) này
đã phá hư xy lanh.
- Họ có cho biết, nhưng sửa nhiều tiền lắm
và gần Tết làm sao mà giam xe để sửa lúc đó
được. Họ bảo thôi sửa tạm đi đỡ vài năm rồi hãy
hay, sao mà hư sớm quá vậy.
Xe này cũ quá rồi sửa cái này nó phá cái
khác. Ngoài vụ xy lanh phải thay dên, thay bạt
(bague), xoáy xú páp (soupape), thay joint cuy lát
(culasse) v..v.. có sửa cũng không chạy đường Da-
lat được.
Trời ơi! vợ chồng tôi thu góp vay mượn
tùm lum mới mua được nó, chiếc xe đầu tiên, biết
là cũ nhưng cứ hy vọng trời thương, nay anh bảo
không chạy được thì chết tôi rồi.
Thiệt tình, thông cảm hoàn cảnh anh mà
nói để anh liệu. Về tìm cách vay mượn thêm để
sửa rồi đem xuống vùng Lục Tỉnh bán tống nó đi,
rồi mua xe khác. Đường Dalat dốc anh chạy nhông
(pignon) số 1 phá máy lắm nhất là xe cũ quá.
Đường Lục Tỉnh bằng họ dùng nhông số 3 số 4 có
sao đâu. Tốn mấy cũng phải sửa rồi mới bán được.
Không phải dụ anh đâu. Anh chở lốc (bloc) máy
xuống Saigon xoáy xy lanh rôi nhờ tiệm xoáy xy
lanh mua cho mấy cái bạt đúng với kích thước
mới của xy lanh rồi chở về đây. Trong khi đó tôi
sửa các bộ phận khác khi lốc máy về là ráp ngay
đỡ tốn thì giờ. Nếu không tin tôi anh chở hết tất cả
đem xuống Saigon giao cho họ làm, nhưng báo
anh biết trước là họ sẽ bắt chẹt anh đó. Tụi tui đây
ở tỉnh nhỏ làm ăn cần uy tín cứ tin tôi đi. Từ đó
chúng tôi tin tưởng nhau giúp đỡ nhau và tôi được
như bây giờ .
Vấn đề phức tạp sai một ly đi một dặm.
Nghe cho vui vậy thôi, nay ghi lại điều này tôi thật
sự ngưỡng mộ người thợ máy: một người quân tử
đáng kính. Anh ta hiểu những khó khăn trong
nghề, không chê bai người thợ máy đã sửa xe lần
trước, khuyên bán xe cho người Lục tỉnh là tuyệt
hảo, lợi cho cả người bán lẫn người mua và anh ta
vừa giúp mọi người, vừa tự tạo uy tín cho mình,
đúng là mẫu người Dalat xưa.
Ngay dưới chân đồi trường Adran có một
bin đèn (cabin biến thế) có đường xe hơi (nay là
Hà huy Tập) trải nhựa sơ sài, đường dốc lâu ngày
bị xói lở thành rãnh sâu. Hôm đó tôi vừa giao sú
xong, trời mưa không lớn nhưng xe bị tuôn bánh
và lọt vào rãnh không lên được. Chủ xe phải mướn
một xe có trục cáp kéo phía trước tới kéo lên. Giây
cáp trước của xe này được cột chắc vào một cây
ngo. Một khúc cáp ngắn khác cột đầu và đít hai xe
lại. Xe trục cho vận hành trục cuốn cáp. Giây cáp
ngắn dần và kéo cả hai xe lên. Đường hẹp, vị trí
hai xe và cây ngo cột cáp không thẳng hàng, trong
khi kéo xe rau vừa tiến lên trước vừa tạt ngang
đụng vào một cây ngo nhỏ phải chặt sát gốc. Công
việc khá nguy hiểm nhưng hữu hiệu.
Trường Thiếu Sinh Quân, tiền thân của Đại Học Dalat
Sau 1945 ngoài Hàng Không Việt Nam
còn có hãng Cosara dùng loại máy bay nhỏ chở
bông hoa và các loại xà lách dễ hư đi Saigon. Ông
Nguyễn tăng Diên, thầu khoán trang trí nội thất,
đại diện hãng Cosara đặt một máy rang bắp cốm
(pop corn) trước cửa tiệm. Dân chúng kẻ chen
nhau trố mắt đứng nhìn bắp tung tóe văng lên
trong thùng kính, người sắp hàng dài dài suốt ngày
để chờ mua về cho con.
Dalat & Người Xưa Trang 16
Trường trung học Grand
Lycée, di tích lịch sử quốc gia ,
đẹp nhất Đông Nam Á do KTS
Moncet thiết kế với nét kiến
trúc của thành phố Morges ở
Thụy Sĩ, quê của BS Yersin
Về chuyên viên Công Chánh ông Trương
Công Thiện, tốt nghiệp trường Cao Đẳng Công
Chánh Hà Nội năm 1933, là Trưởng Ty Đường Sá
Dalat (Voirie) người Việt đầu tiên vào năm 1952.
Nhưng các lão thành trường Công Chánh phục vụ
tại Dalat xưa __
theo dân gọi là quan Tham __
đầu
tiên phục vụ tại Dalat gồm có : các cụ Đỗ ngọc
Thiệp, Ngô quý Toàn, Đinh võ Toàn (1927) Trần
xuân Biền và Phan đức Huy. Hai cụ Trần xuân
Biền và Phan đức Huy, người Hà Tĩnh, vào sau
cư ngụ tại cư xá Công Chánh cùng tản cư xuống
Phan rang với nhạc phụ tôi. Ông Ưng Quyền vào
Dalat khoảng 1934-35 làm họa
viên Công chánh được đề cử lên
trưởng phòng có nhà ở cư xá Công
Chánh đường Pasteur. Cô con gái
lớn có sạp bán rau trong chợ Hòa
Bình cung cấp rau cho các đơn vị
quân đội theo đơn đặt hàng.
Ngành giáo dục.
Dalat có hai hệ thống: Pháp
và Việt.
Hệ thống Pháp.
Từ năm 1936 đã có nhiều
trường công và tư rất tốt từ mẫu
giáo đến tú tài, với chế độ nội trú
nên rất nhiều học sinh con nhà giàu
từ Saigon, các tỉnh miền Trung,
Cao Miên và Lào đến học. Các
trường công nam nữ học chung như
Nazareth, Petit Lycée, Grand Lycée, dành cho trẻ
con Pháp, con các công chức và quân nhân người
Việt, và những Thiếu sinh quân có khả năng. Các
tư thục công giáo rất nổi tiếng với nội trú như
Adran cho nam sinh __
Hoàng tử Bảo Long cũng là
học sinh tại đây __
Couvent des Oiseaux và Do-
maine de Marie cho nữ sinh nhà giàu. Domaine de
Marie nguyên thủy là một cô nhi viện do các bà
Soeurs de St Vincent de Paul sáng lập năm 1940-
42. Nam Phương Hoàng Hậu và phu nhân Toàn
Quyền Decoux đã giúp đỡ rất nhiều trong việc xây
dụng cơ sở này. Các trường công giáo (Adran,
Couvent des Oiseaux) chú tâm vào giữ phẩm hạnh
học sinh nhất là nữ sinh nên dùng cách học thuộc
lòng để học sinh không có dư thì giờ, trong khi
Yersin chủ trương học tự do miễn là hiểu được bài
học. Đó cũng là điều phụ huynh học sinh tin tưởng
vào lề lối giáo dục của các trường tư công giáo
này.
Muốn vào 6 ème Grand Lycée phải thi
tuyển cả viết và vấn đáp. Trong năm không đủ
điểm trung bình thì học lại lớp cũ. Cuối năm 4
ème thi Brevet d’Étude du Premier Cycle ( BEPC)
như Trung học đệ nhất cấp. Thi Baccalauréat I (tú
tài I) nếu điểm Littérature (môn
văn) không đủ 3.5/10 coi như rớt
dù rằng điểm các môn khác rất cao.
Thi rớt khóa đầu, cuối hè thi lại. Có
đậu Bacc I mới được lên học thi
Bacc II. Chỉ có Grand Lycée và
Couvent des Oiseaux mới có
chương trình đến tú tài nhưng
trường thi là Grand Lycée. Thường
thường kết quả thi được đọc tại văn
phòng Proviseur (hiệu trưởng) vào
buổi trưa, chiều mới niêm yết sau.
Khoảng hai giờ chiều là vào vấn
đáp. Đầu thập niên 50 các nam sinh
Việt Nam từ Seconde trở lên phải
học Préliminaire Military Service
(PMS) tức huấn luyện quân sự.
Nữ sinh mặc đầm, đi giày
hay dép da, nam sinh mặc âu phục
mang xăn đan, giày da hay giày vải
Bata đánh phấn trắng. Mùa đông thêm áo len
choàng phía ngoài. Những hôm nhiều sương mù
chạy xe đạp ngang bờ hồ đầu tóc, áo len được phủ
trắng.
Hệ thống Việt Nam.
Hệ thống giáo dục này do Toàn Quyền
Merlin (ông này bị chí sĩ Phạm hồng Thái ám sát
hụt) thành lập từ năm 1923 gồm có 4 bậc với 13
niên khóa vì có hai lớp nhì nhất và nhị niên:
Bậc sơ học 3 năm ( thi bằng sơ học Yếu lược =
Certificat d’études primaires élémentaires))
Dalat & Người Xưa Trang 17
Bậc tiểu học 3 năm ( thi bằng Tiểu học tốt
nghiệp hay primaire = Certificat d’étude primaire)
Bậc cao đẳng tiểu học 4 năm (thi bằng Cao
đẳng tiểu học hay diplome).
Bậc Trung học 3 năm (thi Tú Tài I và II bản
xứ)
Muốn vào lớp Enfantin (Đồng Ấu=lớp
Năm= lớp Một) phải biết viết đọc trơn tru. Bắt đầu
học Pháp văn từ lớp Préparatoire (Dự Bị= lớp
Tư=lớp Hai), học Hán văn từ lớp Élémentaire (Sơ
đẳng = lớp Ba). Cuối năm Sơ đẳng học sinh đi thi
Sơ đẳng Yếu lược, có đậu bằng này mới được lên
lớp Moyen 1er année (Lớp nhì nhất niên) rồi
Moyen 2ème (nhì nhị niên). Cuối năm lớp
Supérieur (lớp Nhất) thi Primaire.Ghi lại tên các
lớp bằng Pháp văn và một số dụng cụ học sinh xưa
để các cụ cùng nhớ lại cho vui tuổi già. Phải chăng
vì các cuộc thi này mà con cái các nhà giàu, các
chủ tiệm ở chợ Hòa Bình không cho con học
trường nhà nước mà vẫn cho con học trường Hồng
Lam, một tư thục ở đường Cầu Quẹo, vừa tốn tiền
vừa xa. Con gái ông Quản Đạo Phạm khắc Hòe
cũng đi học tại đây bằng xe kéo. Ông Trần đình
Ôn, người Nghệ An, hiệu trưởng, có bằng pri-
maire, có năng khiếu giảng bài, nhiều học sinh đã
thuộc bài khi thầy vừa giảng xong nên sĩ số thi đậu
rất cao. Năm 1942 trường này cũng đã gởi 3 học
sinh, trong đó có tôi, đi dự lễ sinh nhật Hoàng Tử
Bảo Long tại dinh Bảo Đại.
Chương trình học chú tâm vào tiên học lễ,
hậu học văn, công dung ngôn hạnh và phải trọng
Thánh Hiền nên học sinh trường Đoàn thị Điểm
làm lễ cúng Đức Khổng Tử hàng năm. Người tổ
chức lễ nghĩ rằng để ruồi bu vào thức ăn trước khi
hành lễ xong là ruồi ăn trước Đức Thánh Khổng
Tử. Muốn vậy chỉ có cách là phải hoàn tất lễ trước
khi ruồi hoạt động nên cha mẹ học sinh nhỏ ở các
ấp phải trùm mền và cõng chúng đến trường từ lúc
4:30 sáng cho kịp giờ hành lễ vào lúc 5 giờ sáng.
Đầu tuần học sinh chào cờ. Ba hồi trống
báo hiệu giờ vào lớp. Học sinh sắp hàng ngay
ngắn theo từng lớp trong sân hướng về cột cờ. Các
học sinh đứng nhất nhì trong tháng được sắp hàng
ngang trước cột cờ để nhận bảng danh dự và hai
học sinh đầu lớp được danh dự luân phiên kéo cờ
lên. Ai được kéo cờ hay đánh trống là cả một niềm
vinh dự sướng run cả người.
Học ngày hai buổi, đến 11:30 nghỉ trưa,
học sinh đi bộ về nhà ăn trưa xong rồi lại đi ra
trường vào học lúc 2:30. Mỗi buổi sáng điểm danh
học sinh vào giờ đầu. Nam sinh đi chân đất nhưng
phải mặc áo dài đen quần dài trắng, nữ sinh lúc
đầu mặc tự do, nhưng về sau phải mặc áo dài và
thường mặc áo len nên nhiều cháu lấy tà áo dài cũ
của mẹ/chị sửa lại rồi dùng kim băng ghim vào áo
trong cho hợp với trường quy. Đa số đi chân đất
một số nhỏ đi guốc gỗ, bảo vậy nhưng thật sự chỉ
đến gần trường rồi mới mang vào, vậy mà có
những cháu mang mòn hết cả gót nên có tên guốc
dao cạo _ mỏng như dao cạo của thợ hớt tóc.
Mỗi thứ năm nữ sinh trường nhà nước lên
trường Domaine de Marie học nữ công: may, thêu,
rút rua, đan len, móc v…v... Tuy là chương trình
Việt nhưng từ tên trường, tên lớp thậm chí đến cả
tên môn học cũng bằng Pháp ngữ: écriture (tập
viết) travail manuel (thủ công) v…v... Hồi đó
chương trình học không nặng như bây giờ. Tập
viết _ chữ đứng, chữ nghiêng, chữ rông
_ khởi đầu
bằng những sổ đứng, các móc câu, móc ngược,
chữ o tròn rồi mới ráp chữ. Học sinh viết bằng
mực, thường là màu tím với ngòi viết nhiều loại
bằng thép, tốt nhất là loại sergent major, gắn vào
cán bút bằng gỗ. Các học trò lớn còn có ngòi viêt
rông (ronde) với đầu ngòi bằng để viết những loại
chữ trang trí trên sách vở hay bài thủ công. Vì
mực ướt nên phải dùng giấy thấm cho khô mực
sau khi viết được ba bốn chữ. Để học trò không
làm dơ áo quần nhà trường cho mực vào gô đê
(godet) tại mỗi bàn học. Học sinh trung học dùng
bút máy, loại bút có một ống cao su mỏng trong
ruột để chứa mực. Gần hết mực thì bóp ống cao su
để hút mực vào. Mực này phải mua loại tinh khiết
nếu không sẽ bị nghẹt mực. Khoảng năm 1952-53
Dalat & Người Xưa Trang 18
chúng tôi mới nghe quảng cáo là ở Saigon có một
loại viết (viết nguyên tử tức là bút bi) không cần
bơm mực, viết đến hết mực thì liệng. Phải đến
khoảng thập niên 60, với sự ra đời của đồ gia dụng
bằng nhựa, mới có bình mực không đổ bằng nhựa
thật là tiện lợi. Giấy tập vẽ không có hàng gạch
sẵn, học sinh phải dùng cây thước với cạnh 1cm
để gạch hàng. Cô cậu nào mua phải loại rẻ tiền
tháng sau thước cong thì vô phương gạch hàng
được. Vở học trò rất đắt nên học sinh phải tập viết,
làm toán trên tấm bảng đá (ardoise), một loại đá
đen thật mỏng dùng lợp nhà, nhập cảng từ Pháp,
như mái tháp trường Grand Lycée. Sách giáo khoa
bằng tiếng Pháp rất đắt nên anh chị giữ gìn rất cẩn
thận để chuyển lại cho các em.
Phụ huynh thường cho con nửa xu chỉ vừa
mua loại kẹo rẻ tiền nên trẻ con phải tự chế lầy đồ
chơi. Các nữ sinh tiểu học ưa làm dáng đã dùng
cọng rau khoai lang để làm thành những vòng
xuyến mang nơi cổ tay, hoặc đeo trên cổ v…v..,
đánh búng với các hột me hoặc hột keo, đánh thẻ
với đũa, nhảy dây, nhảy cò cò v…v…Các nam
sinh thì đánh tổng, đánh bi bằng đất sét nung hoặc
bằng thủy tinh, đánh đáo lỗ hay bật tường với các
đồng xu. Lấy cọng lá chuối cắt dọc sóng cọng dài
độ 5cm, cách khoảng nhau 2cm. Dựng các mối cắt
lên, lấy tay vuốt dọc theo sóng cọng gây ra tiếng
lộp bộp làm súng chơi đánh trận. Tự làm ná bắn
chim. Lấy lông gà gắn vào đồng xu làm cầu lông,
lấy lá mít gắn với nhau làm nhiều kiểu nón khác
nhau v… v… Chúng ta không thể ngờ được rằng
những trò chơi đơn giản và rất phổ biến như đánh
bi, nhảy cò cò, nhảy cừu (saute à mouton) cũng
đều từ Pháp cả.
Các trường ốc phát triển rất chậm. Năm
1928 đã có trường công lập École primaire
complémentaire de Dalat (trường tiểu học bổ túc
Dalat), dạy đến lớp Sơ Đẳng, nhưng đến năm
1935 mới có lớp nhất. Trường này là tiền thân của
trường Đoàn thị Điểm mà dân chúng gọi là trường
nhà nước miễn phí. Học sinh các vùng phụ cận
phải lên Dalat học để lấy bằng Tiểu học. Mãi đến
năm 1942 mới có thêm 2 trường Đa Nghĩa và Trại
Hầm. Đầu thập niên 1950 mới có các trường trung
học công lập: các trường Bảo Long, Phương Mai,
tiền thân của trường Trần Hưng Đạo và Bùi thị
Xuân. Trước đó muốn lên trung học nam sinh
phải ra Qui Nhơn hoặc Huế, nữ là phải ra Huế để
tiếp tục học.
Tôi không hiểu tại các trường dó ra sao
chứ chúng tôi vì “ nos ancêtres sont Gaulois “(tổ
tiên chúng ta là người Gaulois) nên học sinh chào
cờ tam tài, hát quốc ca “ Maréchal, nous voilà!
Devant toi, le Sauveur de la France… “(Thưa
Thống chế (Pétain), chúng con đây, trước mặt
Ngài, người cứu nguy nước Pháp...). Ông đã hợp
tác với Đức và bị kết tội phản quốc khi Thế Chiến
I kết thúc. Ghi mấy chữ của bài quốc ca này làm
tôi bật cười, vì vua Quang Trung lúc đó cũng là
giặc Tây Sơn.
Dalat & Người Xưa Trang 19
Ngành y tế
Trước khi nói về y tế, ta cần biết bối cảnh
các vùng phụ cận Dalat. Lúc đó B’lao (Bảo Lộc)
Djiring (Di Linh) D’ran (Đơn Dương) còn là vùng
sơn lam chướng khí, dân chúng bị bệnh sốt rét, bị
bụng trướng, mặt bủng da chì. Đức Trọng còn là
vùng hoang vu đầy thú dữ của vùng săn bắn. May
là Dalat không có muỗi anophen sốt rét nên cũng
đỡ. Dalat đã có một trạm cứu thương lưu động
(1921), bệnh viện được xây dựng (1922-1938)
gồm có nhà thương dành riêng cho người Pháp,
nhà thương trả tiền và nhà thương thí (miễn phí)
cho người nghèo và nhà xác.
Tuy có nhà thương nhưng đầu thập niên
1930 các sản phụ thường sanh tại nhà. Sản phụ
ngồi chồm hổm trên cái ghế gỗ thấp được đóng để
dùng trong việc này, hai tay níu vào một cái giây
lớn cột chắc vào cột nhà hay vào thành giường và
rặn cho đến khi hài nhi ra. Người đỡ đẻ __
một phụ
nữ biết chút đỉnh về công việc này nhờ đã chứng
kiến hoặc phụ đỡ đẻ __
dùng mẻ chai để cắt
rốn.Thời 1940 đã có các nhà hộ sanh do các cô mụ
phụ trách, nỗi tiếng nhất là bà Tôn thất Chí nhiều
kinh nghiệm lại hiền đức. Các sản phụ thường
phải đi bộ ra nên bà sẵn sàng cho phòng chờ hai
ba ngày miễn phí vì sợ đẻ rớt dọc đường. Trước
khi cắt rốn họ đặt cuống nhau đến đầu gối hài nhi
từ đó vuốt ngược cuống nhau đến rốn ba lần, cột
rún rồi gập lại trong miếng băng và dùng loại băng
rốn quấn chặt vào bụng cả tháng đến khi rốn rụng.
Trời lạnh và phải lo làm nhiều việc khác, các bà
mẹ quấn mền xung quanh con rồi cho ngồi trong
cái thúng để gần bếp cho ấm. Họ vừa làm vừa nhai
cơm để “ trún” cho con khi vừa bỏ bú. Cơm trún
được người mẹ nhai thật nhuyễn, cả nửa giờ, đặc
sệt vì nước miếng thấm vào cơm. Bồng con ngửa
lên, dụ cho đứa bé hả miệng ra, họ nhè ra một chút
cơm lấy lưỡi cắt ngọn cơm thành cục tròn rồi dùng
lưỡi đưa vào miệng con. Khi đã quen bà mẹ trún
và đứa bé ăn thật nhịp nhàng. Bây giờ ta nghĩ là
thiếu vệ sinh, nhưng khi nhìn thấy nét mặt rạng rỡ
vui sướng của hai mẹ con, tôi nghĩ là tình mẫu tử
của họ đậm đà hơn là cho bú chai như hiện nay.
Có vài sản phụ hoặc bị bệnh mà mất sữa hoặc phải
ra chợ buôn bán phải nuôi người vú. Người vú là
một sản phụ khác khỏe mạnh có nhiều sữa được
người sản phụ giàu mướn về để cho con chủ bú
trước và con mình bú sau. Chỉ những nhà giàu mới
có thể mua sữa đặc có đường cho con bú hoặc khi
con bị đau yếu.Thuốc men rất hiếm. Không biết
cạo gió như trong Nam, bị cảm cúm thì dùng aspi-
rine hay “Tiêu Ban Lộ” của tiệm Con Cua, xông
hơi với các loại lá thơm, rồi ăn cháo cảm, (cháo
trắng vơi tiêu gừng, trứng gà và hành tăm rất cay)
hoặc lể. Muốn lể họ dùng một miếng mẻ chai sắc
nhọn mới được đập bể, cắt một chút da tại một số
huyệt đạo rồi nặn máu ra. Đau bụng thì nhai các
đọt ổi, đọt chè xanh hay ngải cứu, đau nặng hơn
thì mua thuốc tây Thiazomide, Dagénan, thần
dược đương thời. Rất nhiều người, nhất là các sản
phụ bị thủng __
toàn thân sưng vù nhất là hai
chân__
phải xuống Phan Rang mua cám về ăn.
Bệnh đau mắt hột tràn lan trong các trường học vì
rất dễ lây. Hai bệnh lao và tiêm la là đáng sợ nhất.
Bị ho lao vì thiếu ăn, thiếu mặc mà làm việc nặng
nhọc. Bị tiêm la vì nam giới đi làm xa nhà cần giải
quyết sinh lý.
Chưa có nha sĩ thỉnh thoảng có những
người nhổ răng dạo bảo đảm không đau tại sân
chợ Hòa Bình. Đồ nghề của họ để trong một cái va
ly nhỏ vỏn vẹn gồm có một chai thuốc tê, ống
chích, kềm nhổ răng loại của nha sĩ, bông gòn và
một chai răng đã nhổ như để chứng minh tài nghề
của mình. Người có răng đau được ngồi trên ghế
đẩu cao, người lớn được chích thuốc tê, trẻ em
được thoa và ngậm một cục bông gòn có tẩm
Dalat & Người Xưa Trang 20
thuốc một lúc chờ thuốc ngấm. Người thợ nhổ cái
răng hư gọn gàng không đau trước sự thán phục
của mọi người.
Giữa thập niên 30 có BS Lemoine, gần
trường Yersin, khám bệnh chủ yếu cho người
Pháp và từ khi san lại cho BS Sohier, khá đông
khách Việt. Đầu thập niên 40 có một số đốc tờ tư
Việt (Du, Diệu, Phán, Lương). Họ là những méde-
cin indochinois nhưng dân chúng xem là đốc tờ có
phòng mạch riêng hoặc đến xem mạch tại nhà cho
các bệnh nhân quen. Các đốc tơ này hoặc một số
phụ nữ học sage de femme (nữ hộ sinh) mở nhà hộ
sinh tư, nổi tiếng nhất là nhà hộ sinh của bà Tôn
thất Chí. Cũng có một số y tá đi chích dạo các
loại thuốc do đốc tờ cho toa hoặc họ tự bán. Khu
chợ Hòa Bình có ba tiệm thuốc tây: Doumart sau
san lại cho ông Hoàng hy Tuần, Võ đình Dần
đóng cửa sau 1945 và Barth. Họ bắt đầu mua lá
artichaut khô __
chỉ lá chứ không dùng cọng, gốc
và rể như sau này __
chuyển về Saigon bào chế
thuốc đau gan. Thuốc sát trùng nhẹ là thuốc tím,
tên được gọi theo màu, và nặng là teinture d’iode
xức vào vết thương rát vô cùng. Học sinh thường
bị ghẻ. Hàng tháng thầy cô phải dẫn học sinh lên
nhà thương thoa nước diêm sinh, màu vàng nghệ
có mùi hôi nồng nặc. Nhà thương nào cũng nồng
nặc một mùi khó chịu là diêm sinh nói trên và
nước crésyl pha loãng có màu trắng bạc. Nhiều bà
mẹ cho người sản phụ mới sanh uống nước tiểu
của con trai nhỏ, hoặc thoa bóp những nơi bị bầm
máu do té và bôi nghệ khắp người vì nghệ tốt cho
da. Người phụ nữ nào cũng biết dùng nước tiểu để
giặt sạch quần lót khi có kinh nguyệt. Phụ nữ gội
đầu bằng nước bồ kết, chanh tươi hay lá hương
nhu. Bỏ trái bồ kết đã nướng vào chậu thau nước
nóng, bồ kết cho ra một loại nước có bọt như xà
bong. Gội đầu vừa sạch vừa thơm dịu và hơi hăng
hắc. Gội chanh vừa sạch và thơm dịu hơn.
Về nhà vệ sinh phức tạp hơn, tôi dùng
đường Cầu Quẹo làm chuẩn. Với các nhà phía bên
mương cái thường thường họ bắc hai tấm ván ra
mương, che xung quanh và mái làm nhà vệ sinh.
Các nhà phía bên đồi phải ra nhà vệ sinh công
cộng, có hai chữ WC ( Water Closet) to tướng, đặt
rải rác tại những nơi thích hợp do thành phố cất và
duy trì. Mỗi nhà vệ sinh này, xây cao gần 1m với
bậc thang phía trước, có khoảng 3-5 căn, che kín 3
mặt, phía trước có cửa. Phần dưới phía sau trống.
Mỗi căn có một thùng gỗ và nhân công phụ trách
vệ sinh thay thùng hằng ngày khi trời chưa sáng.
Nhà vệ sinh tại vườn rau nhà ba tôi cũng tương tự.
Tôi đâu ngờ loại nhà vệ sinh này cũng nhập cảng
từ Pháp khi thấy một nhà vệ sinh tương tự tại một
nông trại Mỹ, và là một di tích lịch sử của tiểu
bang South Dakota. Về các nhà riêng trên lưng đồi
không có suối gần và nhà cửa thưa thớt không có
nhà vệ sinh công cộng, mỗi nhà có nhà vệ sinh
riêng. Xin xem nhà vệ sinh tại cư xá nhân viên
Nha Địa Dư (1944) do một bác sĩ kể lại “Cuối
vườn sau, cách nhà mươi lăm thước, đào một hố
sâu, bắc ngang một tấm ván ngang hố, đóng 4 cọc
gỗ, trên lợp tôn che mưa nắng, chung quanh quây
lại bằng gỗ, một cánh cửa nhỏ cột bằng giây kẽm,
vừa đủ kín, vừa mát mẻ. Chưa có “Kiss me” (hiệu
giấy đi cầu) dùng giấy báo. Khi nào hố đã lưng
lưng đầy đổ vào một ít đất hay tro, xịt nước crésyl
trăng trắng đục đục có mùi hăng hắc. Thế là như
mới”.
Tuy nhiên có vài cư xá có hầm tiêu như cư
xá nhân viên viện Pasteur, dãy Nhà Thiếc phía
trên sân vận động, nơi thân phụ tôi ở và khui hầm
cầu này thí nghiệm trồng rau. Vì các bà ở trong cư
xá, kể cả mẹ tôi, thấy và phản đối mạnh mẽ nên ba
tôi phải bỏ cuộc mặc dầu xem đó là nguồn phân
vô tận cho ngành này. Trước 1945 heo được dân
chúng nuôi với nước rác lấy từ các nhà hàng ăn về
cho heo ăn, hoặc do người Mọi nuôi, hoặc chở từ
Phan Rang lên với heo thả hoang ăn đủ thứ nên
thường có sán lãi. Sán lãi sống sẵn trong ruột heo
hay nguy hại hơn là thành cụm trứng, màu trắng
giống hột gạo, nằm trong thịt. Do đó những lái
buôn heo kéo lưỡi heo ra nếu thấy lưỡi có đốm
trắng là heo có gạo. Họ vẫn mua với giá rẻ để bán
lậu cho các nhà hàng mặc dầu ngày nào cũng có
thanh tra kiểm phẩm tại nhà ba toa (abattoir).
Loại heo này nhỏ lông đen lưng oằn xuống nhưng
thịt ngon hơn. Sau 1945 dân chúng bắt đầu nuôi
heo giống nhập cảng nặng ký hơn với thức ăn hỗn
hợp nên nạn heo gạo từ từ chấm dứt. Bệnh sán lãi
Dalat & Người Xưa Trang 21
__ sán kim, sán lãi và sán xơ mít
__ do heo gạo lan
tràn, thì dùng thuốc xổ bằng dầu đu đủ, rất khó
uống có nhiều người uống xong là mửa.
Ngành an ninh trật tự.
Trước 1945 dân chúng hình như không
biết Công an (Sureté) và cũng không biết nhiều về
kháng chiến quân chống Pháp đang âm thầm hoạt
động. Khi Việt Minh nắm chánh quyền dân chúng
mới biết họ, phần nhiều là người Quảng, vào làm
công siêng năng dễ mến đã kín đáo nằm vùng từ
lâu. Sau 1945 mới có những bót Công an đặt tại
các ấp. Năm 1949 có một số thanh niên và học
sinh Yersin tham gia vào chiến khu, một số được
đưa ra Bắc, một số ở lại hoạt động, một số bị Pháp
giết tại Cam Ly và gần nhà thương. Kháng chiến
quân vẫn âm thầm hoạt động nhưng dân chúng chỉ
biết khi họ bị bắt đặc biệt là tại ấp Nghệ Tĩnh công
an đã bắt giam bảy người một lần. Công an tuyển
dụng một số người làm điềm chỉ viên (lính kín
hoặc là mật thám) hoạt động kín đáo. Dân chúng
rất ghét thành phần này nhưng vẫn phải vui tươi
niềm nở với họ. Công an thường đưa đi an trí một
số tình nghi là Việt gian, một cụm từ lắt léo. Đối
với chánh quyền, Việt gian là những người theo
Việt Minh, đối với dân chúng, là những tay điểm
chỉ viên làm việc cho mật thám. Mãi mấy năm sau
một anh công an làm rể ấp Nghệ Tĩnh kể chúng tôi
mới biết trước khi được điều động lên Dalat trong
chương trình huấn luyện họ được dặn dò phải cẩn
thận thành phần Nghệ Tĩnh. Khi đi cầu phải có
một người canh chừng phía bên ngoài. Hai bên
đều sợ nhau.
Cảnh sát (dân chúng gọi là pô lít) lo phần trật tự
dưới sự điều hành của ông Cò Pháp. Bót cảnh sát
nằm gần nhà thờ Con Gà. Dân chúng không mấy
lưu tâm đến những cơ quan khác như Công
Chánh, Kho Bạc, Thông Tin, Du Lịch v…v… .
Ngành điện nước
Do công ty Company des Eaux et Élétricité
(CEE) đảm trách. Nhà máy nước nhỏ đầu tiên
(1920) và nhà đèn (1928) cung cấp điện nước
thường xuyên cho các công sở, khách sạn lớn,
bệnh viện, khu Pháp kiều và các tiệm xung quanh
chợ Hòa Bình.Về sau có thêm nhà máy nước hồ
Than Thở (1938) và nhà máy hồ Xuân Hương
(1949) cung cấp. Các tiệm trên các đường nhỏ kể
cả các đường Cầu Quẹo, Annam, Maréchal Foch
đều phải ra phông ten (fontaine), nơi cung cấp
nước công cộng, gánh nước về dùng. Tại các ấp
phải dùng giếng như thôn quê. Dalat ngoài sân sau
cầu ông Đạo còn có thêm một bến giặt thiên nhiên
với những hòn đá lớn khá bằng cao hơn mặt nước
để chà xà bong cục, những hòn đá ngầm để đứng
xả xà bong, một nguồn nước nhiều trong sạch từ
hồ Xuân Hương chảy ra. Đó góc hữu ngạn suối
Cam Ly và đường lên nhà đèn.
Hồ Than Thở xưa và nay
Những nhà hơi khá giả dùng đèn dầu hôi,
người nghèo dùng đèn bằng sành với mỡ bò hay
dầu chai. Đèn này, có hai phần: đế đèn, giống như
chân đèn cầy và bình chứa dầu. Bình chứa dầu
tương tự như ấm trà nhỏ có vòi, nơi đó là đầu bấc
để thắp. Dầu chai là loại dầu ép từ trái một cây
cùng loại với cây đu đủ tía. Loại đèn này cho ánh
sáng leo lét chỉ đủ sáng cho những sinh hoạt bình
thường và bốc khói đen. Học trò phải dùng đèn
dầu hôi lớn. Đèn dầu hôi có hai loại. Loại nhỏ có
ánh sáng giống như đèn dầu chai được gọi là đèn
Dalat & Người Xưa Trang 22
Hoa Kỳ. Tôi nghe nói đã lâu lắm rồi, có một công
ty người Hoa Kỳ muốn quảng cáo loại đèn dầu hôi
tại Việt Nam đã biếu không cho dân thành phố cả
đèn lẫn dầu để dùng thử trước khi bán đèn loại
lớn. Đèn Hoa kỳ làm bằng thủy tinh chứa được rất
ít dầu. Có một bộ phận bằng thiếc chụp lên miệng
đèn để gắn bóng đèn, ở giữa có một ống nhỏ với
một răng cưa để vặn bấc lên xuống. Đèn lớn có
cùng kết cấu, với bình đựng dầu bằng thiếc giá rẻ
cho người bình dân, bình bằng thủy tinh đắt hơn
cho các nhà giàu. Dầu hôi được bán trong những
thùng bằng thiếc 20 lít hoặc từng lít một. Sau 1945
có đèn măng xông (manchon) sáng như đèn điện
được các nhà giàu sử dụng khi có đình đám. Đèn
dùng dầu hôi, khi mới đốt, đèn chưa sáng lắm.
Bình dầu có cái bơm. Khi ta bơm hơi vào bình, áp
suất trong bình gia tăng làm đèn sáng lên, nên
thỉnh thoảng phải bơm thêm cho đủ áp suất. Măng
xông, bộ phận chính của đèn, là một cái lưới, bằng
vật liệu gì tôi không rõ, được gắn vào phần trên
của đèn, và nằm trong một lồng thủy tinh. Cái lưới
này khi được đốt lần đầu căng phồng lên và từ đó
sẽ giữ nguyên hình dạng này. Khi sử dụng cần nhẹ
tay nếu đèn bị lay động mạnh lưới bị bể là phải
thay cái mới. Đèn bão, dùng dầu hôi, có lồng
kiếng che gió nên rất tiện để đi đêm thay vì phải
dùng ngo. Ngo là phần gỗ thông màu vàng cam vì
có nhiều nhựa rất dể cháy. Dân chúng chẻ nhỏ để
nhúm lửa.
Ngành thể dục thể thao và du lịch.
Các môn chơi thường xuyên tại sân tơ nít
của Cercle Sportif (Câu lạc Bộ thể dục của Pháp)
và sân vận động gần hồ Xuân Hương cho đá banh
và bóng rổ giữa các trường Grand Lycée, Adran
và Tân Sanh của người Hoa. Hằng năm vào lễ Độc
Lập của Pháp, ngày 14 tháng Bảy, có tổ chức các
trò chơi, tranh giải bóng tròn, đua xe đạp, chạy bộ
xung quanh hồ Xuân Hương v…v…. Có lần tổ
chức lễ tưởng niệm Jeanne d’Arc và nhiều trò chơi
khác được tổ chức nơi khu đất trống gần nhà thủy
tạ và Langbian hotel ( nay đã được rào và thuộc về
khách sạn Novotel,).
Tôi còn nhớ có vài trò chơi như liếm chảo
và leo cột mỡ, được các nhà trí thức Dalat bất bình
phản đối vì có tính chất hạ nhục dân ta.Với trò
chơi liếm chảo, một cái chảo lớn được thoa mỡ
heo treo trên cái giá vừa ngang tầm miệng người
lớn. Tay người dự thi bị buộc chặt sau lưng. Ai
liếm sạch mỡ thì được thưởng. Về leo cột, một cây
cột tròn cao cở 4-5 m được thoa mỡ bò, giải
thưởng được treo trên đầu cột. Ai trèo lên được thì
lấy giải thưởng nhưng rất khó vì càng trưa nắng
lên làm chảy mỡ càng trơn. Các hình diễn tả trò
chơi này được trích trong Tuyết Xưa của BS Trần
ngọc Ninh, chứng tỏ người Pháp đã bày trò chơi
này tại nhiều nơi.
Một môn thể thao mà người dân Việt khó
ước mơ: săn bắn. Dalat đương thời còn hoang vu
có khá nhiều dã thú như cọp beo nai, heo rừng, bò
tót, cà tông, đỏ, chim trĩ, gà rừng v…v…Do đó
người Pháp đã cho thực hiện một con đường bao
bọc khu săn bắn có tên Tour de Chasse (Vòng
Lâm Viên). Đường này chỉ là con đường đất lồi
lõm hoặc có trải đá những nơi thường bị xói mòn
hoặc dốc, bắt đầu từ bờ hồ Xuân Hương vòng vào
chân núi Langbian và vòng về khu Saint Benoit (
Chi Lăng).
Dalat & Người Xưa Trang 23
Ngành du lịch chưa được phát triển mạnh.
Để thúc đẫy ngành này Langbian Palace được
trang bị thật đẹp với tiện nghi tối tân như hình
phòng trên. Du khách có thể mướn ngựa cỡi dạo
xung quanh hồ, mướn xe ô tô, xe ngựa đến chân
núi Bà rồi đi bộ lên hoặc mướn ngựa lên thẳng đến
đỉnh. Thác Cam Ly còn rất nhiều nước là địa điểm
ăn khách nhất vì có nhiều lộ trình đi qua rừng
thông đầy mơ mộng, gần đó có lăng ông Nguyễn
hữu Hào, cha của hoàng hậu Nam Phương.
Để thay đổi không khí xin kể vài chuyện
vui về thú rừng. Một người bồi hớt hải chạy vào
nhà vừa chỉ vừa báo cho ông chủ Tây” Lui comme
boeuf, n’est pas boeuf, lui manger moi, manger
vous aussi” . Ông này lật đật xách súng chạy theo
người bồi. Câu trên là “nó giống con bò mà
không phải bò, nó ăn tôi và ăn cả ông”.
Ấp Nghệ Tĩnh nằm dưới một thung lũng
với nhiều mương thoát nước. Đỏ, một thú rừng
giống nai nhưng lông đỏ và nhỏ hơn, thường về ăn
cỏ ở ấp. Khi thấy nó, dân trong ấp kêu nhau “ đỏ
về !! đỏ về`” Vậy là đàn ông gần đó chạy vòng lên
núi lùa con đỏ xuống vườn xúm nhau rượt bắt, đàn
bà con nít lấy thùng thiếc đập um trời. Con đỏ
phải nhảy qua mương một hồi đuối sức bị bắt. Thế
là trong xóm có bữa cơm trưa ngon lành.
Ngành viễn thông
Bưu điện Đông Dương bắt đầu dùng tem
(1862). Tem cho Nam kỳ (1880) Trung và Bắc kỳ
(1888) toàn Đông Dương (1889). Riêng cho Việt
Nam (1945) và thời Quốc Trưởng Bảo Đại (1951).
Thơ từ có 3 loại: thơ thường, dán tem trước, thơ
người nhận trả tiền, không tem (để giúp cho những
người quá nghèo có thể liên lạc với người nhà), và
thơ bảo đảm. Loại thơ bảo đảm được nhà bưu điện
đổ một lớp khằn nơi mép dán thơ. Khằn là một
chất nhựa màu đỏ đốt chảy và nhân viên bưu điện
đóng dấu bưu điện để người nhận biết là thơ chưa
có ai mở khi dấu khằn còn nguyên vẹn.
Năm 1907 Năm 1943 Năm 1951
Lúc đó Nha Hỏa Xa dùng Morse để
chuyển tin tức về hành trình của các chuyến xe lửa
theo những đường giây bằng thép gắn vào các cột
sắt dọc theo đường xe lửa nên dân chúng gọi điện
tín là “giây thép” và gởi tiền qua bưu điện là gởi
măng đa (mandat). Gần trường Bùi thị Xuân ngày
nay có một trạm Télégraphe Sans Fil (TSF) tức là
vô tuyến điện mà dân chúng gọi là nhà giây thép
gió phụ trách về truyền tin giữa các cơ quan công
quyền để liên lạc với Nha Trang và Saigon. Dalat
đã có đài phát thanh từ năm 1949, một trong bốn
đài đài sớm nhất của cả nước.
Người con gái ông trưởng trạm TSF, bạn
đồng lớp Yersin, cho tôi biết xung quanh cơ sở
này có một hàng rào bằng cây dứa Tây, gọi vậy vì
nó được người Pháp đem qua, hơi giống cây thơm
và người trưởng trạm là người Bắc. Cây này thật
sự giống cây Alovera nhưng to lớn hơn nhiều. Bẹ
lá dày to lớn cở 20 cm với gai nhỏ dọc theo mép lá
và một gai cứng nhọn cuối lá nên làm hàng rào rất
đẹp, sạch sẽ và không phải tu bổ gì nhiều. Chị cho
tôi nhiều tin về Dalat nhưng lại vĩnh viễn ra đi
trước ngày tạp ghi nay hoàn tất. Tôi cố tìm cây
này trong tập hình xưa về miền Bắc để tưởng nhớ
chị.