chuong 14 tong cau va tong cung

24
NGUYÊN LÝ KINH THC Chương 14 – Tng cu và tng cung 1 CHƯƠNG 14 TNG CU VÀ TNG CUNG Hot động kinh t ế bi ến động t năm này qua năm khác. Nhìn chung, sn l ượng hàng hoá và dch vliên t c t ăng lên theo thi gian. Do có s gia t ăng ca l c l ượng lao động, t ư bn và ti ến bcông ngh, nn kinh t ế ngày càng có thsn xut nhi u hơn. St ăng trưởng này cho phép mi người hưởng thmc s ng cao hơn. Trung bình trong 50 năm qua, sn l ượng c a nn kinh t ế Mtính bng GDP thc t ế t ăng tr ưởng khong 3 phn tr ăm mi năm. Tuy nhiên, trong mt snăm, stăng trưởng bình thường này đã không xy ra. Các doanh nghip không bán được hết hàng hoá và dch vvà quyết định ct gim mc sn xut. Nhiu công nhân bsa thi, tltht nghip tăng cao và nhiu nhà máy bbkhông. Khi nn kinh tế sn xut hàng hoá và dch vít hơn, GDP thc tế và các đại lượng phn ánh thu nhp khác gim đi. Nhng thi kthu nhp gim trong khi tht nghip tăng cao được gi là suy thoái nếu tình hình không nghiêm trng, và được gi là khng hong nếu vn đề thc snghiêm trng. Điu gì đã gây ra biến động ca hot động kinh tế trong ngn hn? Các chính sách công cng có thlàm gì để ngăn chn các thi kthu nhp gim và tht nghip tăng cao? Khi kinh tế suy gim hoc suy thoái xy ra, các nhà hoch định chính sách có thlàm gì để gim bt độ dài và mc độ trm trng ca chúng? Đây là nhng câu hi mà chúng ta xem xét trong chương này và hai chương tiếp theo. Các biến smà chúng ta nghiên cu trong các chương tiếp theo phn ln là các biến schúng ta đã biết. Đó là GDP, tht nghip, lãi sut, tgiá hi đoái và mc giá. Các công cchính sách ca chính phnhư chi tiêu, thuế và cung ng tin tcũng đã quen thuc vi chúng ta. Đim khác bit trong các chương tiếp theo là khong thi gian phân tích. Trng tâm ca by chương va ri là nn kinh tế trong dài hn. Giđây, chúng ta quan tâm đến nhng biến động trong ngn hn xung quanh xu hướng dài hn ca nn kinh tế. Mc dù còn có stranh lun gia các nhà kinh tế vphương pháp phân tích biến động kinh tế trong ngn hn, nhưng hu hết các nhà kinh tế đều sdng mô hình tng cu và tng cung. Hc cách vn dng mô hình này để phân tích nh hưởng ca các chính sách là nhim vchyếu sp ti ca chúng ta. Trong chương này, chúng ta bàn đến hai mng then cht ca mô hình là tng cu và tng cung. Sau khi có cái nhìn tng quan vhình trong chương này, chúng ta snghiên cu khơn trong hai chương tiếp theo. BA ĐẶC ĐIM CƠ BN VBIN ĐỘNG KINH TNhng biến động trong ngn hn ca các hot động kinh tế din ra tt ccác nước và mi thi đại trong sut chiu dài lch s. Để đim khi đầu cho vic tìm hiu nhng biến động tnăm này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày mt vài tính cht quan trng nht ca chúng. Đặc đim 1: Các biến động kinh tế din ra bt thường và không thdbáo Biến động ca nn kinh tế thường được gi là chu kkinh doanh. Như thut ngnày cho thy, biến động kinh tế gn lin vi nhng thay đổi trong điu kin kinh doanh. Khi GDP tăng trưởng nhanh, hot động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghip có nhiu khách hàng và li nhun ngày càng tăng. Ngược li, khi GDP thc tế gim, các doanh nghip gp nhiu khó khăn. Trong thi khot động kinh tế suy gim, hu hết các doanh nghip

Upload: trang-chuon-chuon

Post on 21-Jun-2015

909 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 1

CHƯƠNG 14

TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG Hoạt động kinh tế biến động từ năm này qua năm khác. Nhìn chung, sản lượng hàng hoá và dịch vụ liên tục tăng lên theo thời gian. Do có sự gia tăng của lực lượng lao động, tư bản và tiến bộ công nghệ, nền kinh tế ngày càng có thể sản xuất nhiều hơn. Sự tăng trưởng này cho phép mọi người hưởng thụ mức sống cao hơn. Trung bình trong 50 năm qua, sản lượng của nền kinh tế Mỹ tính bằng GDP thực tế tăng trưởng khoảng 3 phần trăm mỗi năm. Tuy nhiên, trong một số năm, sự tăng trưởng bình thường này đã không xảy ra. Các doanh nghiệp không bán được hết hàng hoá và dịch vụ và quyết định cắt giảm mức sản xuất. Nhiều công nhân bị sa thải, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và nhiều nhà máy bị bỏ không. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá và dịch vụ ít hơn, GDP thực tế và các đại lượng phản ánh thu nhập khác giảm đi. Những thời kỳ thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng cao được gọi là suy thoái nếu tình hình không nghiêm trọng, và được gọi là khủng hoảng nếu vấn đề thực sự nghiêm trọng. Điều gì đã gây ra biến động của hoạt động kinh tế trong ngắn hạn? Các chính sách công cộng có thể làm gì để ngăn chặn các thời kỳ thu nhập giảm và thất nghiệp tăng cao? Khi kinh tế suy giảm hoặc suy thoái xảy ra, các nhà hoạch định chính sách có thể làm gì để giảm bớt độ dài và mức độ trầm trọng của chúng? Đây là những câu hỏi mà chúng ta xem xét trong chương này và hai chương tiếp theo. Các biến số mà chúng ta nghiên cứu trong các chương tiếp theo phần lớn là các biến số mà chúng ta đã biết. Đó là GDP, thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái và mức giá. Các công cụ chính sách của chính phủ như chi tiêu, thuế và cung ứng tiền tệ cũng đã quen thuộc với chúng ta. Điểm khác biệt ở trong các chương tiếp theo là khoảng thời gian phân tích. Trọng tâm của bảy chương vừa rồi là nền kinh tế trong dài hạn. Giờ đây, chúng ta quan tâm đến những biến động trong ngắn hạn xung quanh xu hướng dài hạn của nền kinh tế. Mặc dù còn có sự tranh luận giữa các nhà kinh tế về phương pháp phân tích biến động kinh tế trong ngắn hạn, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều sử dụng mô hình tổng cầu và tổng cung. Học cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các chính sách là nhiệm vụ chủ yếu sắp tới của chúng ta. Trong chương này, chúng ta bàn đến hai mảng then chốt của mô hình là tổng cầu và tổng cung. Sau khi có cái nhìn tổng quan về mô hình trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn trong hai chương tiếp theo.

BA ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỘNG KINH TẾ

Những biến động trong ngắn hạn của các hoạt động kinh tế diễn ra ở tất cả các nước và mọi thời đại trong suốt chiều dài lịch sử. Để có điểm khởi đầu cho việc tìm hiểu những biến động từ năm này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày một vài tính chất quan trọng nhất của chúng.

Đặc điểm 1: Các biến động kinh tế diễn ra bất thường và không thể dự báo

Biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh doanh. Như thuật ngữ này cho thấy, biến động kinh tế gắn liền với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh. Khi GDP tăng trưởng nhanh, hoạt động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghiệp có nhiều khách hàng và lợi nhuận ngày càng tăng. Ngược lại, khi GDP thực tế giảm, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hoạt động kinh tế suy giảm, hầu hết các doanh nghiệp

Page 2: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 2

bán được ít hàng hơn và kiếm được ít lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, thuật ngữ chu kỳ kinh doanh có thể dẫn tới sự hiểu lầm, vì nó có vẻ hàm ý rằng biến động kinh tế diễn ra theo một quy luật và có thể dự báo được. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh không hề có tính chất định kỳ và không thể dự báo với độ chính xác cao. Phần (a) của hình 1 biểu thị GDP của Mỹ từ năm 1965. Phần có mầu tối chỉ ra những thời kỳ suy thoái. Như biểu đồ này cho thấy, các đợt suy thoái không diễn ra đều đặn theo thời gian. Đôi khi các đợt suy thoái diễn ra gần nhau như trong năm 1980 và 1982. Song trong nhiều năm khác, nền kinh tế lại không trải qua đợt suy thoái nào.

Hình 1. Quan sát biến động kinh tế ngắn hạn. Hình này biểu thị GDP thực tế trong phần (a), chi tiêu cho đầu tư trong phần (b), và tỷ lệ thất nghiệp trong phần (c) của nền kinh tế Mỹ

Suy thoái

(a) GDP thực tế Tỷ đô la 1992

1965 1970 1975 1980 1985 1990 19952.500 3.000 3.500 4.000 4.500 5.000 5.500 6.000 6.500

$7.000 GDP thực tế

(b) Chi tiêu cho đầu tưTỷ đô la 1992

300 400 500 600 700 800 900

1,000 $1,100

Chi tiêu cho đầu tư

1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995

Suy thoái

(c) Tỷ lệ thất nghiệp

Tỷ lệ thất nghiệp

0

2

4

6

8

10

12

1965 1970 1975 1980 1985 1990 1995

Phần trăm lực lượng lao động

Suy thoái

Page 3: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 3

với số liệu quý từ năm 1965. Các cuộc suy thoái được đánh dấu bởi các vùng màu tối. Hãy chú ý rằng, GDP thực tế và chi tiêu cho đầu tư giảm trong thời kỳ suy thoái, trong khi thất nghiệp tăng. Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ, Bộ lao động Mỹ.

Đặc điểm 2: Hầu hết các biến số kinh tế vĩ mô cùng biến động

GDP thực tế là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để theo dõi những thay đổi trong ngắn hạn của nền kinh tế vì nó là chỉ tiêu toàn diện nhất về hoạt động kinh tế. GDP thực tế phản ánh giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Nó cũng phản ánh tổng thu nhập (đã loại trừ lạm phát) của mọi người trong nền kinh tế. Nhưng thực ra khi theo dõi biến động kinh tế ngắn hạn, việc sử dụng chỉ tiêu nào để phản ánh hoạt động kinh tế mà chúng ta theo dõi không quan trọng. Phần lớn các biến số kinh tế vĩ mô đo lường thu nhập, chi tiêu hay mức sản xuất, cùng biến động. Khi GDP giảm trong thời kỳ suy thoái, thì thu nhập cá nhân, lợi nhuận công ty, tiêu dùng, đầu tư, sản lượng công nghiệp, doanh số bán lẻ, quy mô mua bán nhà cửa và ô tô cũng giảm xuống. Do suy thoái là một hiện tượng xảy ra trong toàn nền kinh tế, nên nó biểu thị trong nhiều nguồn số liệu vĩ mô khác nhau. Mặc dù các biến số kinh tế vĩ mô cùng biến động, song chúng biến động với quy mô khác nhau. Cụ thể, như trong phần (b) của hình 1 cho thấy, đầu tư biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Mặc dù đầu tư chỉ bằng khoảng một phần bảy GDP, nhưng sự suy giảm trong đầu tư đóng góp vào hai phần ba mức suy giảm GDP trong thời kỳ suy thoái. Nói cách khác, khi các điều kiện kinh tế xấu đi, phần lớn mức suy giảm đều bắt nguồn từ sự giảm sút chi tiêu để xây dựng nhà máy, nhà ở và bổ sung thêm hàng tồn kho mới.

Đặc điểm 3: Khi sản lượng giảm thì thất nghiệp tăng

Những thay đổi trong sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế gắn chặt với những thay đổi trong việc sử dụng lực lượng lao động của nền kinh tế. Nói cách khác, khi GDP thực tế giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên: khi các doanh nghiệp sản xuất ít hàng hoá và dịch vụ hơn, họ sa thải bớt công nhân và số người thất nghiệp tăng. Phần (c) trong hình 1 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế Mỹ từ năm 1965. Một lần nữa, các thời kỳ suy thoái được đánh dấu bằng các vùng màu tối. Biểu đồ cho thấy tác động rõ rệt của suy thoái lên thất nghiệp. Trong mỗi đợt suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên rất cao. Khi suy thoái kết thúc và sản lượng bắt đầu tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp không bao giờ giảm xuống bằng không, mà thường biến động xung quanh tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên bằng khoảng 5 phần trăm. Kiểm tra nhanh: Hãy nêu và giải thích ba đặc điểm then chốt của những biến động kinh tế.

LÝ GIẢI NHỮNG BIẾN ĐỘNG KINH TẾ NGẮN HẠN

Việc mô tả xu thế định kỳ mà nền kinh tế trải qua khi nó biến động theo thời gian là một công việc đơn giản. Song việc lý giải nguyên nhân gây ra những biến động đó khó khăn hơn nhiều. Tuy nhiên, nếu so với các chủ đề mà chúng ta đã nghiên cứu trong các chương trước, lý thuyết về biến động kinh tế vẫn còn tranh luận nhiều. Trong chương này và hai chương tiếp theo, chúng ta sẽ phát triển mô hình mà phần lớn các nhà kinh tế sử dụng để lý giải các biến động kinh tế ngắn hạn.

Ngắn hạn và dài hạn khác nhau như thế nào

Trong các chương trước, chúng ta đã xây dựng những mô hình xác định các biến số kinh tế vĩ

Page 4: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 4

mô quan trọng nhất trong dài hạn. Chương 24 lý giải thích quy mô và tốc độ tăng năng suất và GDP thực tế. Chương 25 lý giải việc lãi suất điều chỉnh như thế nào để cân bằng đầu tư và tiết kiệm. Chương 26 lý giải tại sao luôn có thất nghiệp trong nền kinh tế. Chương 27 và 28 trình bày hệ thống tiền tệ và những thay đổi trong cung ứng tiền tệ ảnh hưởng đến mức giá, lạm phát và lãi suất danh nghĩa như thế nào. Chương 29 và 30 mở rộng phân tích này cho nền kinh tế mở để lý giải cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái.

Tất cả những phân tích này trong phần trên đều dựa vào hai ý tưởng có quan hệ với nhau là sự phân đôi cổ điển và tính trung lập của tiền. Nhớ lại rằng sự phân đôi cổ điển là sự tách biệt giữa các biến thực tế (tính bằng lượng hay giá tương đối) và các biến danh nghĩa (tính bằng tiền). Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển, sự thay đổi trong cung ứng tiền tệ chỉ ảnh hưởng đến các biến danh nghĩa, chứ không ảnh hưởng đến các biến thực tế. Với tính trung lập của tiền, chương 24, 25 và 26 có thể xem xét các yếu tố quyết định những biến thực tế (GDP thực tế, lãi suất thực tế và thất nghiệp) mà không cần đưa vào các biến danh nghĩa như cung ứng tiền tệ và mức giá. Những giả định này của kinh tế học vĩ mô cổ điển có thể áp dụng vào thế giới mà chúng ta đang sống không? Lời giải đáp cho câu hỏi này có vai trò quyết định trong việc tìm hiểu phương thức vận hành của nền kinh tế: Hầu hết các nhà kinh tế cho rằng lý thuyết kinh tế cổ điển mô tả thế giới trong dài hạn, chứ không phải trong ngắn hạn. Sau vài năm, thay đổi trong cung ứng tiền tệ ảnh hưởng đến mức giá và các biến danh nghĩa khác, nhưng không ảnh hưởng đến GDP thực tế, thất nghiệp hay các biến thực tế khác. Khi nghiên cứu về những thay đổi từ năm này qua năm khác, giả định về tính trung lập của tiền không còn đúng nữa. Phần lớn các nhà kinh tế cho rằng trong ngắn hạn, các biến thực tế và danh nghĩa liên quan với nhau. Đặc biệt, thay đổi trong cung ứng tiền tệ có thể tạm thời đẩy sản lượng ra khỏi xu thế dài hạn của nó. Do đó, để hiểu nền kinh tế trong ngắn hạn, chúng ta cần một mô hình mới. Để xây dựng mô hình này, chúng ta dựa vào những công cụ đã phát triển trong các chương trước và không dựa vào sự phân đôi cổ điển và tính trung lập của tiền.

Mô hình cơ bản về biến động kinh tế

Mô hình của chúng ta về các biến động kinh tế ngắn hạn tập trung vào hành vi của hai biến số. Biến thứ nhất là sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế tính bằng GDP thực tế. Biến thứ hai là mức giá chung tính bằng CPI hoặc chỉ số điều chỉnh GDP. Cần chú ý rằng sản lượng là biến thực tế trong khi mức giá là biến danh nghĩa. Do đó, bằng cách tập trung vào mối quan hệ giữa hai biến số này, có nghĩa chúng ta thừa nhận không có sự phân đôi cổ điển. Hình 2. Tổng cầu và tổng cung. Các nhà kinh tế sử dụng mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các biến động kinh tế. Trên trục tung là mức giá chung. Trên trục hoành là tổng

Sản lượng cân bằng

Sản lượng

Mức giá

0

Mức giá cân bằng

Tổng cung

Tổng cầu

Page 5: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 5

lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế sản xuất ra. Sản lượng và mức giá điều chỉnh đến điểm mà tại đó đường tổng cầu và tổng cung cắt nhau. Chúng ta phân tích biến động của cả nền kinh tế với tư cách một tổng thể bằng mô hình tổng cầu và tổng cung được minh họa trong hình 2. Trên trục tung là mức giá chung trong nền kinh tế. Trên trục hoành là tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ. Đường tổng cầu cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ muốn mua tại mỗi mức giá. Đường tổng cung cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp muốn bán ra tại mỗi mức giá. Theo mô hình này, mức giá và sản lượng điều chỉnh để cân bằng tổng cầu và tổng cung. Chúng ta có thể muốn coi mô hình này chẳng qua là hình ảnh phóng to của mô hình cung và cầu thị trường đã được đề cập trong chương 4. Tuy nhiên trên thực tế, mô hình này khác hẳn. Khi chúng ta xem xét cung và cầu trên một thị trường cụ thể, chẳng hạn thị trường kem, hành vi của người mua và bán phụ thuộc vào khả năng di chuyển nguồn lực từ thị trường này qua thị trường khác. Khi giá kem tăng lên, lượng cầu giảm đi vì người tiêu dùng muốn mua sản phẩm khác. Tương tự như vậy, khi giá kem tăng, lượng cung tăng do các nhà sản xuất có thể tăng sản lượng bằng cách thuê thêm lao động từ các bộ phận khác của nền kinh tế. Sự thay thế mang tính kinh tế vi mô từ thị trường này sang thị trường kia không có ý nghĩa khi chúng ta phân tích cho cả nền kinh tế. Xét cho cùng, lượng hàng mà mô hình của chúng ta tìm cách lý giải - GDP thực tế - phản ánh tổng lượng hàng hoá sản xuất trên tất cả các thị trường. Để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống và đường tổng cung dốc lên, chúng ta cần có lý thuyết kinh tế vĩ mô. Nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là xây dựng một lý thuyết như vậy. Kiểm tra nhanh: Hành vi của nền kinh tế trong ngắn hạn khác với hành vi của nó trong dài hạn như thế nào? Hãy vẽ mô hình tổng cầu và tổng cung. Các biến số nào nằm ở trên hai trục?

ĐƯỜNG TỔNG CẦU

Đường tổng cầu cho biết tổng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tại mức giá bất kỳ cho trước. Hình 3 cho thấy đường tổng cầu dốc xuống. Điều này có nghĩa là nếu những cái khác không thay đổi, sự giảm sút mức giá chung của nền kinh tế, ví dụ từ P1 xuống P2, có xu hướng làm cho lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng, chẳng hạn từ Y1 lên Y2 . Tại sao đường tổng cầu dốc xuống Tại sao sự giảm sút mức giá chung lại làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhớ lại rằng GDP thực tế (Y) bằng tổng của tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX): Y = C + I + G + NX Các thành tố này đều đóng góp vào tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Bây giờ, chúng ta giả định rằng, chi tiêu của chính phủ được cố định bởi chính sách. Ba thành tố còn lại - tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng - phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, cụ thể là mức giá chung. Bởi vậy, để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống, chúng ta phải xem mức giá ảnh hưởng đến lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ cho tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng như thế nào.

Page 6: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 6

Hình 3. Đường tổng cầu. Sự giảm sút mức giá từ P1 xuống P2 làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ từ Y1 lên Y2. Mối quan hệ nghịch này do ba nguyên nhân gây ra. Khi mức giá giảm, của cải thực tế tăng, lãi suất giảm và tỷ giá hối đoái giảm. Các hiệu ứng này kích thích tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng. Tăng chi tiêu cho các thành tố của sản lượng có nghĩa là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn hơn.

Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng của cải. Hãy nhìn vào khoản tiền trong ví hay tài khoản ngân hàng của bạn. Giá trị danh nghĩa của những khoản tiền này cố định, nhưng giá trị thực tế của nó thì không. Khi mức giá giảm, những đồng tiền này có giá hơn vì chúng có thể mua được nhiều hàng hoá hơn. Như vậy, sự giảm sút mức giá làm cho người tiêu dùng cảm thấy mình có nhiều của cải hơn và điều này khuyến khích họ mua nhiều hơn. Chi cho tiêu dùng tăng lên có nghĩa là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn hơn.

Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng lãi suất. Như đã thảo luận trong chương 28, mức giá là một trong những yếu tố quyết định của lượng cầu về tiền. Với mức giá thấp hơn, mọi người cần ít tiền hơn cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy khi mức giá giảm, các hộ gia đình sẽ tìm cách giảm lượng tiền nắm giữ bằng cách cho vay một phần số tiền hiện có. Ví dụ, một hộ gia đình nào đó có thể dùng số tiền dôi ra của mình để mua trái phiếu có lãi. Hoặc họ có thể gửi vào tài khoản tiết kiệm và ngân hàng lại dùng khoản tiền này để cho vay. Trong cả hai trường hợp, do các hộ gia đình chuyển một phần số tiền nắm giữ thành các tài sản sinh lãi, họ làm cho lãi suất giảm xuống. Lãi suất giảm đến lượt nó lại kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào nhà xưởng và thiết bị mới hoặc các hộ gia đình mua nhà ở mới. Do vậy, mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu mua hàng đầu tư và qua đó làm tăng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ.

Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng tỷ giá hối đoái. Như chúng ta vừa thảo luận, mức giá thấp hơn ở Mỹ làm cho lãi suất ở Mỹ thấp hơn. Điều này làm cho một số nhà đầu tư muốn đầu tư nhiều hơn ra nước ngoài. Ví dụ, khi lãi suất trái phiếu chính phủ giảm, một quỹ hỗ tương bán trái phiếu chính phủ Mỹ để mua trái phiếu chính phủ Đức. Khi quỹ hỗ tương chuyển tài sản ra nước ngoài, nó làm tăng cung về đô la trên thị trường ngoại tệ. Sự tăng cung về đô la làm cho đồng đô la giảm giá so với các đồng tiền khác. Vì một đô la giờ đây mua được ít đơn vị ngoại tệ hơn, hàng hoá nước ngoài trở nên đắt hơn hàng hoá và dịch vụ Mỹ. Sự thay đổi này trong tỷ giá hối đoái thực tế (giá tương đối của hàng nội so với hàng ngoại) làm tăng xuất khẩu và làm giảm nhập khẩu. Xuất khẩu ròng (bằng xuất khẩu trừ nhập khẩu) sẽ tăng lên. Như vậy, khi sự giảm sút mức giá làm cho lãi suất giảm, tỷ giá hối đoái

Sản lượng

Mức giá

0

Tổng cầu

P1

Y1 Y2

P2

2. ...làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ

1. Sự giảm sút trong mức giá

Page 7: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 7

thực tế giảm, dẫn đến xuất khẩu ròng tăng và qua đó làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ.

Tóm tắt. Như vậy có ba lý do có quan hệ với nhau lý giải tại sao khi mức giá giảm, lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng: (1) Người tiêu dùng cảm thấy mình có nhiều tài sản hơn nên tăng cầu về hàng tiêu dùng. (2) Lãi suất giảm và điều này kích thích cầu về hàng hoá đầu tư. (3) Tỷ giá hối đoái thực tế giảm, kích thích nhu cầu về xuất khẩu ròng. Vì cả ba lý do này mà đường tổng cầu dốc xuống. Điều quan trọng là cần nhớ rằng, đường tổng cầu cũng giống như các đường cầu khác được xác định khi giữ cho “các yếu tố khác không đổi”. Đặc biệt, cả ba cách lý giải của chúng ta về đường tổng cầu dốc xuống đều giả định rằng cung ứng tiền tệ không thay đổi. Nghĩa là chúng ta đang xét xem sự thay đổi của mức giá ảnh hưởng như thế nào đến nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trong khi giữ cho lượng tiền trong nền kinh tế không thay đổi. Như chúng ta sẽ thấy, sự thay đổi trong lượng tiền sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu. Hiện tại hãy nhớ rằng đường tổng cầu được vẽ cho một lượng tiền nhất định. Tại sao đường tổng cầu có thể dịch chuyển Sự dốc xuống của đường tổng cầu cho biết rằng sự suy giảm mức giá làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ tại một mức giá cho trước. Khi một trong những yếu tố này thay đổi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển. Chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ về những biến cố làm dịch chuyển đường tổng cầu. Chúng ta có thể phân loại chúng theo thành tố chi tiêu trực tiếp bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Sự dịch chuyển phát sinh từ tiêu dùng. Giả sử người Mỹ đột nhiên trở nên quan tâm nhiều hơn đến tiết kiệm cho khi nghỉ hưu, và kết quả là họ giảm mức chi tiêu hiện tai. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mỗi mức giá thấp hơn, nên đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Ngược lại, hãy tưởng tượng rằng sự bùng nổ của thị trường chứng khoán làm cho người ta trở nên giàu có và ít quan tâm đến tiết kiệm hơn. Việc chi tiêu cho tiêu dùng tăng lên phát sinh từ đó có nghĩa là lượng cầu lớn hơn tại mỗi mức giá, do vậy đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải.

Vì vậy, bất cứ sự kiện nào làm thay đổi tiêu dùng tại một mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Một biến chính sách có ảnh hưởng như vậy là mức thuế. Khi chính phủ cắt giảm thuế thì điều đó đã khuyến khích mọi người tiêu dùng nhiều hơn, do đó đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Khi chính phủ tăng thuế, mọi người tiêu dùng ít hơn, và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái.

Sự dịch chuyển phát sinh từ đầu tư. Bất cứ sự kiện nào làm thay đổi đầu tư của các doanh nghiệp tại một mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Ví dụ, ngành sản xuất máy tính cho ra mắt một dòng máy có tốc độ cao hơn và nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào các hệ thống máy tính mới này. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mỗi mức giá cao hơn, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Ngược lại, nếu các hãng bi quan về điều kiện kinh doanh trong tương lai thì họ có thể cắt giảm chi tiêu đầu tư và điều này làm đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.

Chính sách thuế cũng có thể ảnh hưởng tới tổng cầu thông qua đầu tư. Như chúng ta đã thấy trong chương 25, chính sách giảm thuế đầu tư (tức là chính phủ giảm thuế khi các doanh

Page 8: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 8

nghiệp chi tiêu cho đầu tư) làm tăng lượng cầu về hàng đầu tư của các doanh nghiệp tại bất kỳ mức giá nào. Bởi vậy, nó làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải. Việc huỷ bỏ chính sách giảm thuế đầu tư làm giảm đầu tư và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Một biến chính sách khác có thể ảnh hưởng đến đầu tư và tổng cầu là cung ứng tiền tệ. Như chúng ta sẽ thảo luận đầy đủ hơn trong chương sau, sự gia tăng cung ứng tiền tệ làm cho lãi suất giảm trong ngắn hạn. Điều này làm cho khoản vay trở nên ít tốn kém hơn, nó kích thích chi đầu tư và do đó đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Trái lại, khi cung ứng tiền tệ giảm, lãi suất tăng lên, làm cho nhu cầu đầu tư giảm xuống và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Nhiều nhà kinh tế tin rằng trong suốt lịch sử nước Mỹ, thay đổi trong chính sách tiền tệ là một nguyên nhân quan trọng gây ra sự dịch chuyển trong tổng cầu.

Sự dịch chuyển phát sinh từ chi tiêu của chính phủ. Một trong những cách trực tiếp mà các nhà hoạch định chính sách có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu là thông qua chi tiêu chính phủ. Ví dụ như quốc hội quyết định giảm mua sắm các hệ thống vũ khí mới. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ thấp hơn tại mọi mức giá, nên đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái. Ngược lại, nếu các chính quyền bang khởi công xây dựng nhiều đường cao tốc hơn, kết quả là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ cao hơn tại mọi mức giá và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải.

Sự dịch chuyển phát sinh từ xuất khẩu ròng. Bất cứ biến cố nào làm thay đổi xuất khẩu ròng tại một mức giá nhất định đều làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Ví dụ khi châu Âu bước vào thời kỳ suy thoái, nó mua ít hàng hoá hơn từ Mỹ. Điều này làm giảm xuất khẩu ròng của Mỹ và dịch chuyển đường tổng cầu của nền kinh tế Mỹ sang bên trái. Khi nền kinh tế châu Âu hồi phục và lại mua hàng hoá của Mỹ, nó sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải.

Xuất khẩu ròng nhiều khi cũng thay đổi do những biến động trong tỷ giá hối đoái. Giả sử các nhà đầu cơ quốc tế đẩy giá trị đồng đô la lên trên thị trường ngoại tệ. Sự lên giá này của đồng đô la làm cho hàng hoá của Mỹ đắt đỏ hơn so với hàng ngoại. Điều đó kìm hãm xuất khẩu, khiến đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Ngược lại, sự mất giá của đồng đô la sẽ thúc đẩy xuất khẩu ròng và dịch chuyển đường tổng cầu về bên phải.

Tóm tắt. Trong chương sau, chúng ta sẽ phân tích đường tổng cầu chi tiết hơn. Chúng ta sẽ xem xét chính xác hơn các công cụ của chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu như thế nào và liệu các nhà làm chính sách có nên dùng những công cụ này cho mục đích đó không. Nhưng ở đây, bạn cũng nên biết qua tại sao đường tổng cầu dốc xuống và loại biến cố và chính sách nào có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu. Bảng 1 tóm tắt những gì chúng ta vừa học.

Tại sao đường tổng cầu dốc xuống? 1. Hiệu ứng của cải: Mức giá thấp hơn làm tăng của cải thực tế, kích thích chi tiêu cho tiêu

dùng. 2. Hiệu ứng lãi suất: Mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu cho đầu tư. 3. Hiệu ứng tỷ giá hối đoái: Mức giá thấp hơn làm giảm tỷ giá hối đoái thực tế, thúc đẩy xuất

khẩu ròng.

Page 9: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 9

Tại sao đường tổng cầu có thể dịch chuyển? 1. Sự dịch chuyển phát sinh từ tiêu dùng: Một biến cố thúc đẩy người tiêu dùng chi tiêu

nhiều hơn tại một mức giá cho trước (giảm thuế, thị trường chứng khoán bùng nổ) làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Một biến cố làm cho người tiêu dùng chi tiêu ít hơn tại một mức giá cho trước (tăng thuế, sự sa sút của thị trường chứng khoán) làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.

2. Sự dịch chuyển phát sinh từ đầu tư: Một biến cố khiến các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn tại một mức giá cho trước (lạc quan về tương lai, giảm lãi suất do cung ứng tiền tệ tăng) dịch chuyển đường tổng cầu về bên phải. Một sự kiện khiến các doanh nghiệp đầu tư ít đi ở một mức giá cho trước (bi quan về tương lai, lãi suất tăng do giảm cung ứng tiền tệ) dịch chuyển đường tổng cầu về bên trái.

3. Sự dịch chuyển phát sinh từ mua sắm chính phủ: Sự gia tăng mua sắm chính phủ về hàng hoá và dịch vụ (chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng hoặc xây dựng các đường cao tốc) làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải. Giảm mua sắm hàng hoá và dịch vụ của chính phủ (giảm chi cho quốc phòng và làm đường) làm dịch chuyển đường tổng cầu sang trái.

4. Sự dịch chuyển phát sinh từ xuất khẩu ròng: Một biến cố làm tăng chi tiêu cho xuất khẩu ròng tại một mức giá cho trước (bùng nổ kinh tế ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái giảm) sẽ dịch chuyển đường tổng cầu sang phải. Một biến cố làm giảm chi tiêu cho xuất khẩu ròng (suy thoái ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng) sẽ dịch chuyển đường tổng cầu sang trái.

Bảng 1. Đường tổng cầu: Tóm tắt.

Kiểm tra nhanh: Hãy giải thích ba nguyên nhân làm cho đường tổng cầu dốc xuống. Hãy nêu một ví dụ về một hiện tượng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Sự kiện này làm cho nó dịch chuyển theo hướng nào?

ĐƯỜNG TỔNG CUNG

Đường tổng cung cho biết tổng lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất ra và muốn bán tại mỗi mức giá cho trước bất kỳ. Không giống như đường tổng cầu lúc nào cũng dốc xuống, đường tổng cung biểu thị một mối quan hệ về cơ bản phụ thuộc vào khoảng thời gian nghiên cứu. Trong dài hạn, đường tổng cung thẳng đứng; còn trong ngắn hạn, đường tổng cung dốc lên. Để hiểu những biến động kinh tế ngắn hạn và sự chệch khỏi vị trí dài hạn của nền kinh tế trong ngắn hạn, chúng ta cần nghiên cứu cả đường tổng cung dài hạn và đường tổng cung ngắn hạn.

Tại sao đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn

Nhân tố nào quyết định lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong dài hạn? Chúng ta đã ngầm trả lời câu hỏi này trong phần đầu của cuốn sách khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong dài hạn, sản lượng hàng hoá và dịch vụ của một nền kinh tế (GDP thực tế của nó) phụ thuộc vào nguồn cung về lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ dùng để chuyển các yếu tố sản suất này thành các hàng hoá và dịch vụ. Do mức giá không ảnh hưởng đến các yếu tố quyết định GDP thực tế trong dài hạn, nên đường tổng cung dài hạn thẳng đứng như trong hình 4. Nói cách khác, trong dài hạn nguồn lao động, tư bản, tài nguyên thiên

Page 10: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 10

nhiên của nền kinh tế và công nghệ quyết định tổng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ, lượng cung vẫn sẽ giữ nguyên bất kể mức giá thay đổi ra sao.

Hình 4. Đường tổng cung dài hạn. Trong dài hạn, lượng cung về sản phẩm phụ thuộc vào lượng lao động, tư bản và tài nguyên thiên nhiên của nền kinh tế và công nghệ dùng để chuyển các đầu vào này thành sản lượng. Lượng cung ứng không phụ thuộc vào mức mức giá chung. Kết quả là, đường tổng cung dài hạn thẳng đứng tại mức sản lượng tự nhiên. Về thực chất, đường tổng cung thẳng đứng chỉ là một cách áp dụng sự phân đôi cổ điển và tính trung lập của tiền. Như chúng ta đã thảo luận, lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển dựa trên giả định cho rằng các biến thực tế không phụ thuộc vào các biến danh nghĩa. Đường tổng cung thẳng đứng phù hợp với tư tưởng này, vì nó hàm ý rằng sản lượng (biến thực tế) không phụ thuộc vào mức giá (biến danh nghĩa). Như đã lưu ý trước đây, hầu hết các nhà kinh tế tin rằng nguyên lý này đúng khi nghiên cứu nền kinh tế trong thời kỳ dài nhiều năm và không còn đúng nếu nghiên cứu sự thay đổi từ năm này qua năm khác. Do vậy, đường tổng cung chỉ thẳng đứng trong dài hạn. Người ta có thể băn khoăn rằng tại sao đường cung về các mặt hàng cụ thể có thể dốc lên nếu đường tổng cung dài hạn thẳng đứng. Lý do là cung về hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc vào giá tương đối - tức giá của hàng hoá và dịch vụ đó so với các giá khác trong nền kinh tế. Ví dụ khi giá kem tăng lên, các nhà sản xuất kem sẽ tăng sản lượng và lấy đi lao động, sữa, sô cô la và các đầu vào khác từ sản xuất các sản phẩm khác, chẳng hạn sữa chua. Trái lại, tổng sản lượng của cả nền kinh tế bị giới hạn bởi lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ. Do đó, nếu giá cả của tất cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế cùng tăng lên thì tổng lượng cung về hàng hóa và dịch vụ sẽ không thay đổi .

Tại sao đường tổng cung dài hạn có thể dịch chuyển

Vị trí của đường tổng cung dài hạn cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ được lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển dự báo. Mức sản lượng này thường được gọi là sản lượng tiềm năng hay sản lượng toàn dụng. Nói chính xác hơn, ta gọi đó là mức sản lượng tự nhiên vì nó cho biết nền kinh tế sản xuất ra bao nhiêu khi thất nghiệp ở mức tự nhiên hay bình thường. Mức sản lượng tự nhiên là mức sản lượng mà nền kinh tế hướng tới trong dài hạn.

Sản lượng Mức sản lượng tự nhiên

Mức giá

0

Tổng cung dài hạn

P1

P2

2. ...không ảnh hưởng đến lượng cung về hàng hoá dịch vụ c trong dài hạn 1. Sự thay đổi

trong mức giá

Page 11: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 11

Bất kỳ một thay đổi nào trong nền kinh tế mà làm thay đổi mức sản lượng tự nhiên cũng làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn. Do sản lượng trong mô hình cổ điển phụ thuộc vào lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ, nên chúng ta có thể phân loại những dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn theo các nguồn gốc này.

Những thay đổi phát sinh từ lao động. Hãy tưởng tượng ra rằng nền kinh tế có sự gia tăng làn sóng nhập cư từ nước ngoài. Do có nhiều lao động hơn, lượng cung về hàng hoá và dịch vụ tăng lên. Kết quả là, đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải. Ngược lại, nếu nhiều công nhân rời bỏ nền kinh tế để ra nước ngoài, đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang trái.

Vị trí của đường tổng cung dài hạn còn phụ thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, nên bất kỳ sự thay đổi nào trong tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên này cũng dịch chuyển đường tổng cung dài hạn. Ví dụ nếu Quốc hội cần phải tăng đáng kể mức lương tối thiểu lên, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tăng và nền kinh tế sẽ sản xuất ra một lượng hàng hoá và dịch vụ nhỏ hơn. Kết quả là đường tổng cung dài hạn sẽ dịch chuyển sang bên trái. Ngược lại, nếu cải cách trong hệ thống bảo hiểm thất nghiệp khuyến khích người thất nghiệp nỗ lực tìm việc làm hơn, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ giảm, và đường tổng cung dài hạn sẽ dịch chuyển sang phải.

Những thay đổi phát sinh từ tư bản. Sự gia tăng khối lượng tư bản trong nền kinh tế làm tăng năng suất, và do đó làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ. Kết quả là đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Ngược lại, sự suy giảm trong khối lượng tư bản làm giảm năng suất, giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ, làm cho đường tổng cung dài hạn dịch sang trái.

Cần chú ý rằng lô gích trên áp dụng cho cả trường hợp tư bản hiện vật và vốn nhân lực. Sự gia tăng khối lượng máy móc hay số người tốt nghiệp đại học đều nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, chúng đều làm cho đường tổng cung dài hạn dịch sang phải.

Những thay đổi phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên. Nền sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của nó bao gồm đất đai, khoáng sản và thời tiết. Việc khám phá ra một mỏ khoáng sản có thể làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn sang bên phải. Sự thay đổi thời tiết có thể làm cho hoạt động canh tác khó khăn hơn và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang trái.

Ở nhiều nước, những tài nguyên thiên nhiên quan trọng được nhập từ các nước khác. Sự thay đổi trong nguồn tài nguyên thiên nhiên này cũng làm dịch chuyển đường tổng cung. Như chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau của chương này, các biến cố trên thị trường dầu khí thế giới là một tác nhân quan trọng làm dịch chuyển đường tổng cung.

Những thay đổi phát sinh từ tri thức công nghệ. Có lẽ lý do quan trọng nhất để hiện nay chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn thế hệ trước là sự tiến bộ trong tri thức công nghệ. Việc phát minh ra máy tính đã giúp chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn với lượng lao động, tư bản và tài nguyên thiên nhiên như cũ. Kết quả là đường tổng cung dịch chuyển sang phải.

Tuy nhiên, còn có nhiều những biến cố khác có ảnh hưởng giống như thay đổi công nghệ mặc dù chúng không phải là công nghệ. Như chương 9 đã giải thích, việc mở cửa thương mại có tác dụng như việc phát hiện ra quy trình sản xuất mới và làm dịch chuyển đường

Page 12: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 12

tổng cung sang phải. Ngược lại, nếu chính phủ thông qua một số quy định hạn chế doanh nghiệp sử dụng một phương pháp sản xuất nào đó, có thể vì chúng quá nguy hiểm đối với công nhân, thì đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang trái.

Tóm tắt. Đường tổng cung dài hạn phản ánh mô hình cổ điển về nền kinh tế đã phát triển trong các chương trước. Bất cứ chính sách hay biến cố nào làm tăng GDP thực tế trong các chương trước, thì giờ đây đều có thể coi là làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Bất cứ chính sách hay biến cố nào làm giảm GDP thực tế được đề cập trong các chương trước đều có thể được coi là làm giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ và làm cho đường tổng cung về hàng hoá và dịch vụ dịch chuyển sang trái.

Một cách mới để mô tả tăng trưởng dài hạn và lạm phát

Sau khi đã giới thiệu đường tổng cầu và tổng cung dài hạn của nền kinh tế, bây giờ chúng ta có một cách mới để mô tả xu thế dài hạn của nền kinh tế. Hình 5 mô tả những thay đổi đối với nền kinh tế qua các những năm. Cần chú ý rằng cả hai đường đều dịch chuyển. Mặc dù có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế trong dài hạn, và về nguyên tắc có thể đã gây ra những sự dịch chuyển đó, nhưng hai yếu tố quan trọng nhất trong thực tế vẫn là công nghệ và chính sách tiền tệ. Tiến bộ công nghệ nâng cao khả năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế và điều này làm cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Cùng lúc đó do Quỹ dự trữ Liên bang Mỹ liên tục tăng cung ứng tiền tệ, nên đường tổng cầu cũng dịch sang phải. Như hình này cho thấy, kết quả là sự tăng trưởng theo xu thế của sản lượng (biểu thị bằng sự gia tăng của Y) và lạm phát liên tục (biểu thị bằng sự gia tăng của P). Đây là một cách khác để biểu thị sự phân tích cổ điển về tăng trưởng và lạm phát trình bày trong chương 24 và 28. Tuy nhiên, mục tiêu phát triển đường tổng cầu và tổng cung không phải là để khoác chiếc áo mới cho những kết luận dài hạn. Thay vào đó, nó cung cấp cho chúng ta một khuôn khổ để phân tích ngắn hạn như sẽ thấy ngay sau đây. Khi xây dựng mô hình ngắn hạn, chúng ta giữ cho phân tích đơn giản bằng cách không xem xét sự tăng trưởng và lạm phát liên tục trong hình 5. Tuy nhiên luôn nhớ rằng, các xu thế dài hạn tạo ra nền tảng cho các biến động ngắn hạn. Biến động ngắn hạn trong sản lượng và mức giá nên được coi là những sai lệch so với xu thế dài hạn diễn ra liên tục.

1. Trong dài hạn, tiến bộ công nghệ làm dịch chuyển đưởng tổng cung

LRAS2000 LRAS1990

Sản lượng

Mức giá

0

P1980

Y1980

AD1980

P2000

P1990

LRAS1980

2. ...và sự gia tăng cung tiền làm dịch chuyển đường tổng cầu...

AD2000

AD1990

4 ...và lạm phát tiếp diễn

Y1990 Y2000

3 ...dẫn đến sự táng trưởng của sản lượng

Page 13: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 13

Hình 5. Tăng trưởng dài hạn và lạm phát trong mô hình tổng cầu và tổng cung . Khi nền kinh tế có khả năng sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn theo thời gian, trước hết là nhờ tiến bộ công nghệ, đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Đồng thời, khi Quỹ dự trữ Liên bang tăng cung ứng tiền tệ, đường tổng cầu cũng dịch chuyển sang phải. Trong hình này, sản lượng tăng từ Y1980 lên Y1990, và sau đó lên Y2000, còn mức giá tăng từ P1980 lên P1990 và sau đó lên P2000. Như vậy, mô hình tổng cầu và tổng cung đem lại cho chúng ta phương pháp mới để mô tả các phân tích cổ điển về tăng trưởng và lạm phát. Tại sao đường tổng cung lại dốc lên trong ngắn hạn Bây giờ chúng ta đi đến điểm khác nhau then chốt giữa nền kinh tế trong ngắn hạn và trong dài hạn: hành vi của tổng cung. Như chúng ta đã thảo luận, đường tổng cung dài hạn thẳng đứng. Trái lại trong ngắn hạn, đường tổng cung lại dốc lên như trong hình 6. Nghĩa là, trong vòng một hay hai năm, sự gia tăng trong mức giá chung có xu hướng làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế và sự giảm sút mức giá có xu hướng làm giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ. Yếu tố nào gây ra mối quan hệ thuận này giữa mức giá và sản lượng? Các nhà kinh tế vĩ mô đã đưa ra ba lý thuyết để giải thích cho sự dốc lên của đường tổng cung ngắn hạn. Trong mỗi lý thuyết đó, một sự không hoàn hảo của thị trường làm cho mặt cung của nền kinh tế trong ngắn hạn có biểu hiện khác với trong dài hạn. Mặc dù các lý thuyết này khác nhau về chi tiết, nhưng chúng có một kết luận chung: lượng cung về sản lượng chệch khỏi mức dài hạn hay tự nhiên khi mức giá chệch khỏi mức giá mà mọi người dự kiến. Khi mức giá vượt quá mức dự kiến, sản lượng sẽ vượt quá mức tự nhiên và khi mức giá thấp hơn mức dự kiến, sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên của nó. Hình 6. Đường tổng cung ngắn hạn. Trong ngắn hạn một sự giảm giá từ P1 xuống P2 làm giảm tổng cung từ Y1 xuống Y2. Mối quan hệ thuận này có thể do nhận thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc, hay giá cả cứng nhắc. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh, do đó mối quan hệ thuận này chỉ có tính tạm thời.

Lý thuyết nhận thức sai lầm. Một cách tiếp cận đối với đường tổng cung ngắn hạn là lý thuyết nhận thức sai lầm. Theo lý thuyết này, sự thay đổi trong mức giá chung có thể tạm thời làm cho các nhà cung cấp nhận thức sai lầm về tình hình diễn ra trên các thị trường cá biệt, mà ở đó họ bán sản phẩm của mình. Do nhận thức sai lầm trong ngắn hạn, các nhà cung

Sản lượng

Mức giá

0

Tổng cung ngắn hạn

Y1

P1

Y2

2. ...làm giảm cung về hàng hoá và dịch vụ trong ngắn hạn.

P2 1.Sự giảm sút của mức giá

Page 14: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 14

cấp phản ứng lại những thay đổi trong mức giá và phản ứng này dẫn đến đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn.

Để hiểu quá trình này diễn ra như thế nào, chúng ta hãy giả sử mức giá chung giảm xuống dưới mức mà mọi người dự kiến. Khi các nhà cung cấp thấy giá sản phẩm của mình giảm, họ có thể lầm tưởng rằng giá tương đối đã giảm. Ví dụ, người nông dân trồng lúa mì có thể nhận thấy giá lúa mì giảm trước khi biết rằng giá của nhiều hàng tiêu dùng mà họ mua giảm. Từ kết quả quan sát này, họ có thể suy luận rằng giá lúa mỳ là thấp tạm thời và họ có thể phản ứng lại bằng cách cắt giảm lượng lúa mỳ mà họ cung ứng. Tương tự như vậy, công nhân có thể nhận thấy lương danh nghĩa của họ giảm trước khi nhận ra rằng giá hàng hoá mà họ mua giảm. Họ có thể suy luận rằng mức thù lao lao động tạm thời thấp và họ phản ứng bằng cách cắt giảm lượng lao động mà họ cung ứng. Trong cả hai trường hợp, mức giá thấp hơn gây ra nhận thức sai lầm về giá tương đối và nhận thức sai lầm này làm cho các nhà cung cấp phản ứng lại mức giá thấp hơn bằng cách cắt giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ.

Lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Cách lý giải thứ hai cho đường tổng cung ngắn hạn dốc lên là lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Theo lý thuyết này, đường tổng cung ngắn hạn dốc lên vì tiền lương danh nghĩa điều chỉnh chậm chạp hay “cứng nhắc” trong ngắn hạn. Trong một chừng mực nào đó, sự điều chỉnh chậm chạp của tiền lương danh nghĩa có nguyên nhân ở các hợp đồng dài hạn giữa doanh nghiệp và công nhân. Các hợp đồng này thường cố định tiền lương danh nghĩa, đôi khi đến ba năm. Ngoài ra, sự điều chỉnh chậm chạp này còn có thể có nguyên nhân ở các quy chuẩn xã hội hay cảm nhận về sự công bằng, những yếu tố này ảnh hưởng đến việc xác lập mức tiền lương và chậm thay đổi.

Để biết tiền lương danh nghĩa cứng nhắc có ý nghĩa như thế nào đối với tổng cung, chúng ta hãy tưởng tượng ra một doanh nghiệp đồng ý trả cho công nhân mức tiền lương phù hợp với nhận định của anh ta về mức giá. Nếu mức giá (P) thấp hơn dự kiến và tiền lương cứng nhắc ở W, tiền lương thực tế W/P sẽ tăng lên cao hơn mức mà doanh nghiệp định trả cho công nhân. Do tiền lương chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất, nên tiền lương thực tế tăng có nghĩa là chi phí thực tế tăng. Doanh nghiệp phản ứng lại việc tăng chi phí này bằng cách thuê ít lao động hơn và sản xuất lượng hàng hoá và dịch vụ nhỏ hơn. Nói cách khác, do tiền lương không điều chỉnh ngay theo sự thay đổi mức giá, nên mức giá thấp hơn làm cho việc làm và sản xuất đem lại ít lợi nhuận hơn và điều này làm cho các doanh nghiệp giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ.

Lý thuyết giá cả cứng nhắc. Gần đây, một số nhà kinh tế vĩ mô đưa ra cách tiếp cận thứ ba đối với đường tổng cung ngắn hạn gọi là lý thuyết giá cả cứng nhắc. Như chúng ta đã thảo luận, lý thuyết tiền lương cứng nhắc nhấn mạnh rằng tiền lương chậm thay đổi. Lý thuyết giá cả cứng nhắc nhấn mạnh rằng giá cả hàng hoá và dịch vụ cũng chậm điều chỉnh để đáp lại các điều kiện kinh tế thay đổi. Sự thay đổi chậm chạp trong giá cả một phần là do chi phí để điều chỉnh giá cả, gọi là chi phí thực đơn. Những chi phí này, bao gồm chi phí in và phân phối các catalô và thời gian để thay đổi các nhãn giá. Vì lý do này, giá cả và tiền lương có thể cứng nhắc trong ngắn hạn.

Để hiểu các hàm ý của giá cả cứng nhắc đối với tổng cung, chúng ta hãy giả sử rằng mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thông báo giá cả cho các sản phẩm của họ trước dựa trên những dự báo về các điều kiện kinh tế. Nhưng sau khi giá cả đã được công bố, nền kinh tế trải qua thời kỳ thu hẹp cung ứng tiền tệ nằm ngoài dự kiến và điều này làm giảm mức giá

Page 15: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 15

chung trong dài hạn. Mặc dù có thể có một số doanh nghiệp giảm giá ngay để phản ứng lại những thay đổi trong nền kinh tế, song các doanh nghiệp khác có thể tạm thời không điều chỉnh gì cả do không muốn chịu thêm chi phí thực đơn. Vì giá của các doanh nghiệp này quá cao, doanh thu bán của họ giảm xuống. Sự giảm sút doanh thu đến lượt nó lại làm cho các doanh nghiệp này cắt giảm sản xuất và việc làm. Nói cách khác, do không phải tất cả giá cả đều điều chỉnh ngay lập tức khi điều kiện kinh tế thay đổi, nên sự giảm sút bất ngờ của trong mức giá có thể làm cho một số doanh nghiệp có giá bán cao hơn mức mong muốn, và điều này làm giảm doanh số bán ra và lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất.

Tóm tắt. Có ba cách lý giải khác nhau về sự dốc lên của đường tổng cung ngắn hạn: (1) nhận thức sai lầm, (2) tiền lương cứng nhắc, (3) giá cả cứng nhắc. Các nhà kinh tế tranh luận với nhau về việc lý thuyết nào đúng. Để phục vụ cho mục đích của chúng ta trong cuốn sách này, những mặt giống nhau giữa chúng còn quan trọng hơn là sự khác biệt. Cả ba lý thuyết nói rằng sản lượng sẽ chệch khỏi mức tự nhiên khi mức giá lệch khỏi mức dự kiến. Chúng ta có thể biểu thị nhận định này bằng công thức toán học như sau:

Sản lượng cung ứng = Mức sản lượng tự nhiên + a (Mức giá thực tế - Mức giá dự kiến) Trong đó a là con số cho biết sản lượng phản ứng như thế nào trước sự thay đổi ngoài dự kiến của mức giá. Cần chú ý rằng cả ba cách lý giải đường tổng cung ngắn hạn đều tập trung vào một vấn đề có thể chỉ mang tính tạm thời. Cho dù sự dốc lên của đường tổng cung phụ thuộc vào nhận thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc hay giá cả cứng nhắc, thì các điều kiện này không phải lúc nào cũng tồn tại. Có thể cuối cùng, khi mọi người điều chỉnh kỳ vọng của họ, nhận thức sai lầm sẽ được sửa đổi, tiền lương danh nghĩa được điều chỉnh và giá cả không còn cứng nhắc nữa. Nói cách khác, trong dài hạn mức giá thực tế và dự kiến bằng nhau và khi đó đường tổng cung thẳng đứng, chứ không dốc lên.

Tại sao đường tổng cung ngắn hạn có thể dịch chuyển

Đường tổng cung ngắn hạn cho chúng ta biết lượng cung về hàng hoá và dịch vụ tại mỗi mức giá. Chúng ta có thể coi đường này tương tự như đường tổng cung dài hạn, nhưng bị làm cho dốc lên bởi nhận thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc và giá cả cứng nhắc. Do đó khi xem xét các yếu tố làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn, chúng ta phải xem xét tất cả các yếu tố làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn, cộng thêm một biến mới - mức giá dự kiến – một yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc và giá cả cứng nhắc. Chúng ta hãy bắt đầu bằng những hiểu biết của mình về đường tổng cung dài hạn. Như đã thảo luận trước đây, sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn phát sinh từ những thay đổi trong lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Các biến số này cũng làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn. Ví dụ khi sự gia tăng khối lượng tư bản làm tăng năng suất, cả đường tổng cung ngắn và dài hạn đều dịch chuyển sang phải. Khi sự gia tăng tiền lương tối thiểu làm tăng tỷ lệ thất ngiệp tự nhiên, cả đường tổng cung dài hạn và đường tổng cung ngắn hạn này đều dịch chuyển sang trái. Một biến số mới quan trọng tác động đến vị trí của đường tổng cung ngắn hạn là kỳ vọng của mọi người về mức giá. Như chúng ta đã thảo luận, lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong ngắn hạn phụ thuộc vào nhận thức sai lầm, tiền lương cứng nhắc và giá cả cứng nhắc. Thế nhưng nhận thức, tiền lương và giá cả đều được xây dựng dựa vào kỳ vọng về mức giá. Cho nên khi kỳ vọng thay đổi, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển.

Page 16: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 16

Để làm cho ý tưởng này cụ thể hơn, chúng ta hãy xem xét một lý thuyết cụ thể về tổng cung - đó là lý thuyết tiền lương cứng nhắc. Theo lý thuyết này, nếu mọi người dự báo mức giá cao, họ sẽ quy định tiền lương cao. Tiền lương tăng làm tăng chi phí của doanh nghiệp, và tại mức giá thực tế bất kỳ cho trước, nó làm giảm lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp cung ứng. Do vậy, khi mức giá dự kiến tăng, tiền lương sẽ tăng, chi phí sẽ tăng và các doanh nghiệp quyết định cung ứng ít hàng hoá và dịch vụ hơn tại bất kỳ mức giá thực tế cho trước nào. Do vậy, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Ngược lại, khi mức giá dự kiến giảm, tiền lương sẽ giảm, chi phí sẽ giảm, các doanh nghiệp tăng sản lượng và đường tổng cung ngắn hạn dịch sang bên phải. Lô gích tương tự cũng được áp dụng cho các lý thuyết khác. Bài học chung là: Sự gia tăng mức giá dự kiến làm giảm lượng cung hàng hoá và dịch vụ. qua đó dịch chuyển đưòng tổng cung ngắn hạn sang bên trái. Sự giảm sút mức giá dự kiến làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ, qua đó dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn sang phải. Như chúng ta sẽ thấy trong phần sau, ảnh hưởng này của kỳ vọng về mức giá đối với vị trí của đường tổng cung ngắn hạn đóng vai trò then chốt trong việc điều hòa hành vi của nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, kỳ vọng được cố định và nền kinh tế nằm ở giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung ngắn hạn. Trong dài hạn, kỳ vọng được điều chỉnh và đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển. Sự dịch chuyển này cuối cùng sẽ đưa nền kinh tế đến giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn. Bây giờ bạn đã hiểu tại sao đường tổng cung ngắn hạn dốc lên, cũng như các biến cố và chính sách có thể làm đường này dịch chuyển như thế nào. Bảng 2 tóm tắt phần trình bày này.

Tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại dốc lên 1. Lý thuyết nhận thức sai lầm: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho một số nhà cung cấp

nghĩ rằng giá tương đối của họ giảm và do vậy họ cắt giảm sản lượng. 2. Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho tiền lương thực tế

tăng lên, làm cho các doanh nghiệp thuê ít lao động hơn và sản xuất ra một lượng hàng hoá và dịch vụ nhỏ hơn.

3. Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho một số doanh nghiệp có giá cả cao hơn giá mong muốn, điều này làm giảm doanh số bán ra của họ khiến họ cắt giảm sản xuất.

Tại sao đường tổng cung ngắn hạn có thể dịch chuyển

1. Những thay đổi phát sinh từ lao động: Sự gia tăng của lượng lao động hiện có (có lẽ là do tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên giảm) làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút lượng lao động hiện có (có lẽ là do tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng) làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

2. Những thay đổi phát sinh từ tư bản: Sự gia tăng khối lượng tư bản hiện vật hoặc vốn nhân lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang bên phải. Sự giảm sút khối lượng tư bản hiện vật hoặc vốn nhân lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

3. Những thay đổi phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên: Việc khai phá thêm nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên mới làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

Page 17: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 17

4. Những thay đổi phát sinh từ công nghệ: Tiến bộ trong tri thức công nghệ làm cho đường tổng cung dịch chuyển sang bên phải. Sự giảm sút của công nghệ (do quy định của chính phủ) làm cho đường tổng cung dịch sang trái.

5. Những thay đổi phát sinh từ mức giá kỳ vọng: Sự giảm sút của mức giá dự kiến làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự gia tăng mức giá dự kiến làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.

Bảng 2. Đường tổng cung ngắn hạn: Tóm tắt. Kiểm tra nhanh: Hãy lý giải tại sao đường tổng cung dài hạn lại thẳng đứng. Hãy giải thích ba lý thuyết lý giải tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại dốc lên.

HAI NGUYÊN NHÂN GÂY RA BIẾN ĐỘNG KINH TẾ

Bây giờ, sau khi đã giới thiệu mô hình tổng cầu và tổng cung, chúng ta đã có những công cụ cơ bản để phân tích các biến động trong hoạt động kinh tế. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ học cách sử dụng các công cụ này kỹ hơn. Nhưng ngay lúc này đây, chúng ta có thể vận dụng những gì đã học về tổng cầu và tổng cung để xem xét hai nguyên nhân cơ bản gây ra các biến động kinh tế ngắn hạn. Hình 7. Trạng thái cân bằng dài hạn. Điểm cân bằng dài hạn của nền kinh tế nằm ở giao điểm giữa đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn (điểm A). Khi nền kinh tế đạt tới điểm cân bằng dài hạn thì nhận thức, tiền lương và giá cả sẽ điều chỉnh để đường tổng cung ngắn hạn cũng đi qua điểm này. Hình 7 biểu thị nền kinh tế đang nằm trong trạng thái cân bằng dài hạn. Sản lượng và mức giá cân bằng được xác định tại giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn, như điểm A trong hình vẽ. Tại đây, sản lượng ở mức tự nhiên. Đường tổng cung ngắn hạn cũng đi qua điểm này cho thấy rằng tiền lương và giá cả đã được điều chỉnh hoàn toàn để đạt tới điểm cân bằng dài hạn. Nghĩa là khi nền kinh tế ở mức cân bằng dài hạn, nhận thức, tiền lương và giá cả đã phải điều chỉnh để giao điểm giữa đường tổng cầu và đường tổng cung ngắn hạn trùng với giao điểm của đường tổng cầu và tổng cung dài hạn.

Sản lượng

Mức giá

0

Tổng cung ngắn hạn

Tổng cung dài hạn

Tổng cầu

AGiá cân bằng

Mức sản lượng tự nhiên

Page 18: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 18

Những ảnh hưởng do sự thay đổi của tổng cầu

Giả sử rằng vì một lý do nào đó mà một làn sóng bi quan lan ra toàn nền kinh tế. Lý do có thể là một vụ xì căng đan ở Nhà Trắng, sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán hay sự bùng nổ một cuộc chiến tranh ở nước ngoài. Do biến cố này, nhiều người mất lòng tin vào tương lai và thay đổi kế hoạch của họ. Các hộ gia đình giảm tiêu dùng, trì hoãn các khoản mua sắm lớn và các doanh nghiệp tạm ngừng việc mua thiết bị mới.

Làn sóng bi quan này ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào? Một biến cố như thế sẽ làm giảm tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nghĩa là, tại bất cứ mức giá nào, các hộ gia đình và các doanh nghiệp giờ đây cũng muốn mua ít hàng hoá và dịch vụ hơn. Như hình 8 cho thấy, đường tổng cầu dịch sang trái và từ AD1 đến AD2. Trong hình này, chúng ta có thể xem xét các ảnh hưởng của sự suy giảm tổng cầu. Trong ngắn hạn, Hình 8. Sự suy giảm tổng cầu. Sự suy giảm tổng cầu, có thể do làn sóng bi quan trong nền kinh tế gây ra, được biểu diễn bằng sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu từ AD1 đến AD2. Nền kinh tế chuyển từ điểm A đến điểm B. Sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá giảm từ P1 xuống P2. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2, và nền kinh tế đạt tới điểm C, nơi đường tổng cầu mới cắt đường tổng cung dài hạn. Mức giá giảm xuống P3, và sản lượng quay về mức tự nhiên Y1. nền kinh tế di chuyển dọc từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1 . Khi nền kinh tế chuyển từ A dến B, sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế rơi vào suy thoái. Mặc dù không được biểu thị trong hình vẽ, các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm. Do vậy, sự bi quan khiến cho đường tổng cầu dịch chuyển, trong một chừng mực nào đó lại chính là do tự bản thân chúng ta: nghĩa là sự bi quan về tương lai làm cho thu nhập giảm và thất nghiệp tăng.

1. Sự giảm xuống của tổng cầu

AD2

Sản lượng

Mức giá

0

Tổng cung ngắn hạn, AS1 Tổng cung dài hạn

Tổng cầu, AD1

A P1

Y1

B P2

Y2

2. ...làm sản lượng giảm trong ngắn hạn...

AS2

C P3

3. ...nhưng theo thời gian, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển...

4. ...và sản lượng trở về mức tự nhiên

Page 19: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 19

Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc suy thoái như vậy? Một khả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu. Như chúng ta đã nhấn mạnh ở phần trước, sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ hay cung ứng tiền tệ đều làm tăng tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mọi mức giá, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà hoạch định chính sách hành động kịp thời và chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng cầu, đẩy nó trở về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn về cách mà chính sách tài khoá và tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu và những khó khăn trong việc sử dụng những chính sách này trong thực tế. Ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái cũng sẽ tự phục hồi sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm xuống. Có thể, kỳ vọng bắt theo kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của mức giá dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong hình 8. Theo thời gian, quá trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn. Tại điểm cân bằng dài hạn C, sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để triệt tiêu sự dịch chuyển của đường tổng cầu. Như vậy trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà không có một ảnh hưởng nào tới sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ không phải làm thay đổi biến thực tế (sản lượng như cũ). Tóm lại, sự dịch chuyển của đường tổng cầu đem lại cho chúng ta hai bài học quan trọng:

Trong ngắn hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu gây ra sự biến động về sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế.

Trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu ảnh hưởng tới mức giá chung, nhưng không ảnh hưởng đến sản lượng.

Những ảnh hưởng do sự thay đổi của tổng cung

Một lần nữa, bạn hãy tưởng tượng ra một nền kinh tế đang nằm trong trạng thái cân bằng dài hạn. Giả sử một số doanh nghiệp đột nhiên phải đối mặt với chi phí sản xuất cao hơn. Ví dụ ở những bang sản xuất nông nghiệp, thời tiết xấu phá họai mùa màng, làm chi phí sản xuất lương thực tăng. Hoặc cuộc chiến nổ ra ở vùng Vịnh làm tắc nghẽn việc vận chuyển dầu, đẩy chi phí sản xuất các sản phẩm dầu mỏ lên cao.

1. Sự dịch chuyển bất lợi của đường tổng cung ngăn hạn...

AS2 Tổng cung

dài hạn Tổng cung ngắn

hạn, AS1

Sản lượng

Mức giá

0

Tổng cầu

A

Y1

P1

3. ...và mức giá tăng lên.

P2

2. ...làm sản lượng giảm...

B

Y2

Page 20: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 20

Hình 10. Sự dịch chuyển bất lợi trong tổng cung. Khi biến cố nào đó làm tăng chi phí của các doanh nghiệp, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2. Nền kinh tế chuyển từ điểm A đến điểm B. Kết quả là hiện tượng lạm phát kèm suy thoái: sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô của sự gia tăng chi phí sản xuất là gì? Ở mỗi mức giá bất kỳ cho trước, các doanh nghiệp muốn cung ứng ra ít hàng hoá và dịch vụ hơn. Như trong hình 10 cho thấy, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. (Tuỳ theo biến cố, đường tổng cung dài hạn cũng có thể dịch chuyển. Nhưng để giữ cho sự việc đơn giản, chúng ta giả định nó không dịch chuyển.) Trong hình này, chúng ta có thể theo dõi những ảnh hưởng của việc đường tổng cung dịch chuyển sang trái. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm) và vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Hình 11. Thích ứng với sự dịch chuyển bất lợi của đường tổng cung. Trước sự dịch chuyển bất lợi của đường tổng cung từ AS1 đến AS2, các nhà hoạch định chính sách - những người có khả năng ảnh hưởng đến tổng cầu - dịch chuyển đường tổng cầu từ AD1 đến AD2. Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm A tới C. Chính sách này có thể ngăn chặn không cho sự dịch chuyển trong cung làm giảm sản lượng trong ngắn hạn, nhưng mức giá sẽ tăng từ P1 lên P2 và duy trì ở mức đó. Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi phải đối mặt với tình trạng suy thoái kèm lạm phát? Như chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn trong phần sau của cuốn sách này, không có những lựa chọn dễ dàng. Một khả năng là không làm gì cả. Trong trường hợp này, sản lượng hàng hoá và dịch vụ tiếp tục ở mức thấp Y2 trong một thời gian. Nhưng cuối cùng, tình trạng suy thoái sẽ tự hiệu chỉnh khi nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh đối với chi phí sản xuất cao hơn. Ví dụ, thời kỳ có sản lượng thấp và thất nghiệp cao gây áp lực làm cho tiền lương công nhân giảm. Đến lượt nó, tiền lương thấp hơn làm tăng sản lượng. Theo thời gian khi mà đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển trở lại AS1, mức giá giảm và sản lượng tiến tới mức

AS2

1. Khi tổng cung ngắn hạn giảm...

Sản lượng Mức sản lượng tự nhiên

Mức giá

0

Tổng cung ngắn hạn, AS1

Tổng cầu, AD1

Tổng cung dài hạn

A P1

P2

P3

3....điều này làm cho giá cả tăng hơn nữa

4. ... nhưng lại giữ sản lượng ở mức tiềm năng.

C 2. ... các nhà họach định chính sách có thể xử lý sự dịch chuyển này bằng kích thích tổng cầu...

AD2

Page 21: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 21

tự nhiên. Trong dài hạn, nền kinh tế trở lại điểm A, nơi đường tổng cầu cắt đường tổng cung dài hạn. Phương án khác là các nhà hoạch định chính sách –những người nắm quyền kiểm soát chính sách tài khóa và tiền tệ- có thể muốn triệt tiêu ảnh hưởng của sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn bằng cách làm dịch chuyển đường tổng cầu. Khả năng này được biểu diễn trong hình 11. Trong trường hợp này, những thay đổi trong chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, vừa đủ để ngăn chặn không cho sự dịch chuyển đường tổng cung tác động đến sản lượng. Nền kinh tế di chuyển trực tiếp từ điểm A đến điểm C. Sản lượng duy trì ở mức tự nhiên và mức giá tăng từ P1 đến P3. Trong trường hợp này, các nhà hoạch định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của đường tổng cung, bởi vì họ cho phép sự gia tăng chi phí ảnh hưởng lâu dài tới mức giá. Tóm lại, sự dịch chuyển của đường tổng cung có hai hàm ý quan trọng:

Sự dịch chuyển của đường tổng cung có thể gây ra lạm phát đi kèm suy thoái, tức là kết hợp giữa suy thoái (sản lượng giảm) và lạm phát (mức giá tăng).

Các nhà hoạch định chính sách, những người có thể ảnh hưởng đến tổng cầu, không thể đồng thời làm triệt tiêu cả hai ảnh hưởng bất lợi này.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: DẦU MỎ VÀ NỀN KINH TẾ Một số biến động kinh tế lớn nhất ở Mỹ từ năm 1970 có nguồn gốc ở các mỏ dầu ở Trung Đông. Dầu thô là một đầu vào rất quan trọng trong quá trình sản xuất của nhiều hàng hoá và dịch vụ, và phần lớn dầu mỏ của thế giới được khai thác ở Ảrập Xêút, Cô oét và các nước Trung Đông khác. Khi một biến cố nào đó (thường là có nguồn gốc chính trị) làm giảm lượng dầu được cung ứng từ khu vực này, giá dầu trên toàn thế giới sẽ tăng. Các doanh nghiệp của Mỹ sản xuất ra xăng, săm lốp và nhiều sản phẩm khác phải chịu chi phí cao hơn. Kết quả là sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cung và điều này dẫn đến hiện tượng lạm phát kèm suy thoái. Hiện tượng này xuất hiện lần đầu tiên vào giữa những năm 1970. Các nước có trữ lượng dầu lớn đã nhóm họp lại với nhau với tư cách là thành viên của OPEC, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ. OPEC là một các-ten - tức một nhóm người bán tìm cách ngăn cản cạnh tranh và giảm sản lượng để tăng giá. Và quả thực, giá dầu tăng lên đáng kể. Từ năm 1973 đến 1975, giá dầu tăng gần gấp đôi. Các nước nhập khẩu dầu mỏ trên toàn thế giới phải chịu đồng thời cả lạm phát và suy thoái. Lạm phát ở Mỹ tính bằng chỉ số CPI lần đầu tiên vượt quá 10 phần trăm sau nhiều thập kỷ. Thất nghiệp tăng từ 4,9 phần trăm trong năm 1973 lên 8,5 phần trăm trong năm 1975. Một vài năm sau, tình hình lại xảy ra gần như tương tự. Cuối những năm 1970, các nước OPEC lại hạn chế lượng cung về dầu mỏ để tăng giá. Từ 1978 đến 1981, giá dầu cao hơn gấp đôi. Một lần nữa, kết quả lại là lạm phát kèm suy thoái. Lạm phát, sau khi đã giảm bớt phần nào sau sự kiện OPEC thứ nhất, lại tăng hơn 10 phần trăm một năm. Nhưng do Quỹ dự trữ Liên bang Mỹ không định xử lý sự gia tăng nhanh chóng như vậy của lạm phát, nên ngay sau đó xuất hiện tình trạng suy thoái. Thất nghiệp tăng từ 6 phần trăm trong năm 1978 và 1979 lên khoảng 10 phần trăm một vài năm sau đó. Thị trường dầu mỏ thế giới cũng có thể là nguồn gốc gây ra sự dịch chuyển thuận lợi trong tổng cung. Trong năm 1986, cuộc cãi vã đã nổ ra giữa các nước thành viên của OPEC. Các nước thành viên đã bội ước không tuân thủ những thoả thuận về hạn chế sản lượng dầu khai

Page 22: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 22

thác. Trên thị trường dầu thế giới, giá dầu giảm khoảng một nửa. Sự giảm giá dầu này làm giảm chi phí cho các doanh nghiệp của Mỹ và làm cho đường tổng cung dịch chuyển sang phải. Kết quả là, nền kinh tế Mỹ trải qua trạng thái ngược lại của lạm phát kèm suy thoái: Sản lượng tăng nhanh, thất nghiệp giảm và tỷ lệ lạm phát đạt mức thấp nhất sau nhiều năm. Trong những năm gần đây, thị trường dầu mỏ thế giới tương đối yên tĩnh. Ngoại lệ duy nhất là một thời kỳ ngắn trong những năm 1990, ngay trước Cuộc chiến tranh vùng Vịnh, khi mà giá dầu tạm thời tăng vì người ta lo sợ rằng cuộc xung đột quân sự kéo dài có thể làm ngừng trệ sản xuất dầu. Tuy nhiên, sự yên tĩnh này không có nghĩa là nước Mỹ không cần phải lo đến giá dầu nữa. Những rắc rối chính trị ở Trung Đông (hay sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các thành viên OPEC) luôn có thể đẩy giá dầu lên cao. Kết quả kinh tế vĩ mô của sự gia tăng mạnh trong giá dầu có thể dễ dàng giống với tình trạng lạm phát kèm suy thoái của những năm 1970. KẾT LUẬN: NGUỒN GỐC CỦA TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG

Chương này đã đạt được hai mục tiêu chính. Thứ nhất, chúng ta đã thảo luận một số đặc điểm quan trọng về các biến động kinh tế ngắn hạn. Thứ hai, chúng ta đã giới thiệu mô hình cơ bản để giải thích những biến động kinh tế, gọi là mô hình tổng cầu và tổng cung. Trong hai chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét từng mảng của mô hình này chi tiết hơn để hiểu rõ hơn các yếu tố nào gây ra những biến động trong nền kinh tế và các nhà hoạch định chính sách đối phó với chúng ra sao. Bây giờ chúng ta đã có những hiểu biết sơ bộ về mô hình này và cũng nên nhìn lại lịch sử của nó. Mô hình về các biến động kinh tế ngắn hạn hình thành như thế nào? Câu trả lời là, về cơ bản nó là sản phẩm phụ của cuộc Đại suy khủng hoảng kinh tế trong những năm 1930. Các nhà kinh tế và hoạch định chính sách vào thời gian này rất bối rối, không hiểu được nguyên nhân của thảm họa này và không biết đối phó với nó như thế nào. Năm 1936, nhà kinh tế John Maynard Keynes xuất bản cuốn sách có tiêu đề Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ để lý giải những biến động kinh tế trong ngắn hạn nói chung và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế nói riêng. Thông điệp cơ bản của Keynes là suy thoái và đại khủng hoảng có thể xảy ra vì tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ thấp. Từ lâu Keynes đã phê phán lý thuyết kinh tế cổ điển - trình bày từ chương 24 đến 30 - vì nó chỉ giải thích được những ảnh hưởng dài hạn của chính sách. Một vài năm trước khi đưa ra cuốn Lý thuyết tổng quát, Keynes đã viết về kinh tế học cổ điển như sau: Dài hạn là sự định hướng sai lầm cho các vấn đề hiện tại. Trong dài hạn, tất cả chúng ta đều sẽ chết. Các nhà kinh tế tự đặt cho mình một nhiệm vụ quá dễ dãi, quá vô tích sự nếu như trong mùa giông bão, họ chỉ có thể nói với chúng ta khi nào bão táp đã qua thì biển sẽ lặng. Thông điệp của Keynes nhằm vào cả các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh tế. Khi nền kinh tế thế giới phải chịu mức thất nghiệp cao, Keynes ủng hộ các chính sách kích thích tổng cầu, trong đó có chi tiêu chính phủ cho các chương trình việc làm công cộng. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ kiểm tra xem các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng chính sách tiền tệ và tài khoá như thế nào để tác động vào tổng cầu. Các phân tích trong chương sau và cũng như chương này đều là di sản của John Maynard Keynes.

Page 23: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 23

TÓM TẮT

Tất cả các xã hội đều trải qua những biến động kinh tế ngắn hạn xung quanh xu thế phát triển dài hạn. Những biến động này thất thường và phần lớn không dự báo được. Khi suy thoái diễn ra, GDP thực tế và các đại lượng khác phản ánh thu nhập, chi tiêu, và sản xuất giảm và thất nghiệp tăng.

Các nhà kinh tế phân tích biến động kinh tế ngắn hạn bằng cách sử dụng mô hình tổng cầu và tổng cung. Theo mô hình này, sản lượng hàng hoá và dịch vụ, cũng như mức giá chung điều chỉnh để cân bằng tổng cầu và tổng cung.

Đường tổng cầu dốc xuống vì ba lý do. Thứ nhất, mức giá thấp hơn làm tăng giá trị thực tế của số tiền mà các hộ gia đình nắm giữ và điều này kích thích chi cho tiêu dùng. Thứ hai, mức giá thấp hơn làm giảm lượng tiền mà các hộ muốn nắm giữ và do các hộ gia đình tìm cách đổi từ tiền mặt sang các tài sản đem lại lãi suất, lãi suất sẽ giảm và điều này khuyến khích chi cho đầu tư. Thứ ba, vì mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, đồng đô la mất giá trên thị trường ngoại tệ, điều này kích thích xuất khẩu ròng.

Bất cứ biến cố hay chính sách nào làm tăng tiêu dùng, đầu tư, mua sắm của chính phủ, hay xuất khẩu ròng tại một mức giá bất kỳ cho trước, đều làm tăng tổng cầu. Bất cứ biến cố hay chính sách nào làm giảm tiêu dùng, đầu tư, mua sắm của chính phủ, hay xuất khẩu ròng tại một mức giá cho trước, đều làm giảm tổng cầu.

Đường tổng cung dài hạn nằm thẳng đứng. Trong dài hạn, lượng hàng hoá và dịch vụ cung ứng ra phụ thuộc vào lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ của nền kinh tế, chứ không phụ thuộc vào mức giá chung.

Có ba lý thuyết được đưa ra để lý giải tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại dốc lên. Theo lý thuyết nhận thức sai lầm, sự suy giảm ngoài dự kiến của mức giá làm cho các nhà cung cấp tin một cách lầm lẫn rằng giá tương đối của họ đã giảm, điều khiến họ cắt giảm sản lượng. Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, sự giảm sút mức giá ngoài dự kiến tạm thời làm tăng tiền lương thực tế, điều khiến các doanh nghiệp thuê ít lao động hơn, và cắt giảm sản lượng. Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, sự giảm sút mức giá ngoài dự kiến làm cho một số doanh nghiệp có giá tạm thời quá cao, nó làm giảm doanh số bán ra và làm các doanh nghiệp cắt giảm sản lượng. Cả ba lý thuyết này đều hàm ý rằng sản lượng lệch khỏi mức tự nhiên của nó khi mức giá lệch khỏi mức giá mà mọi người dự kiến.

Các biến cố làm thay đổi năng lực sản xuất của nền kinh tế, như thay đổi trong lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên hoặc công nghệ, làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn (và có thể làm dịch chuyển cả đường tổng cung dài hạn). Ngoài ra, vị trí của đường tổng cung ngắn hạn còn phụ thuộc vào mức giá dự kiến.

Một trong những nguyên nhân có thể gây ra biến động kinh tế là sự dịch chuyển của đường tổng cầu. Ví dụ khi đường tổng cầu dịch chuyển sang trái, sản lượng và giá cả giảm trong ngắn hạn. Theo thời gian, khi sự thay đổi trong mức giá dự kiến làm cho nhận thức, tiền lương, và giá cả điều chỉnh, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang phải và nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tự nhiên với mức giá mới thấp hơn.

Nguyên nhân thứ hai của các biến động kinh tế ngắn hạn có thể là sự dịch chuyển của đường tổng cung. Khi đường tổng cung dịch chuyển sang trái, tác động trong ngắn hạn là sản lượng giảm và giá cả tăng - sự kết hợp được gọi là lạm phát kèm suy thoái. Theo thời

Page 24: Chuong 14 tong cau va tong cung

NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 24

gian, khi nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh, mức giá giảm xuống mức ban đầu và sản lượng phục hồi.

CÁC THUẬT NGỮ CƠ BẢN

Khủng hoảng Depression Suy thoái Recesion Mô hình tổng cầu và tổng cung Model of aggregate demand and aggregate supply Đường tổng cầu Aggregate demand curve Đường tổng cung Aggregate supply curve Lạm phát kèm suy thoái Stagflation