bài thuyết minh city tour hà nội

32
Bài thuyết minh city tour Hà Nội ,Mục lục Lời mở đầu I. Hồ Gươm ( Vũ Thị Ngọc Yến ) II. Phố cổ Hà Nội ( Ngô Thị Quỳnh Trang ) III. Thành cổ Hà Nội ( Đỗ Thị Thu Trang- Phạm Diệu Thùy- Nguyễn Thanh Tú ) IV. Quảng trường Ba Đình ( Hoàng Anh Thơ ) V. Văn miếu Quốc Tử Giám ( Trương Thị Tú- Định Thị Vân- Tống Thị Xuân ) Tài liệu tham khảo Lời mở đầu Hà Nội nơi hội tụ ngàn năm văn hiến - trái tim ca cả nưc - nim tin và hy vọng. Th đô Hà Nội xut hiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam vào năm 1010 vi tên gọi Thăng Long mang ngha “Rồng bay lên”, tưng trưng cho kh thế vươn lên ca dân tộc, mở đầu cho một giai đoạn phát trin ca đt nưc. Vi gần 1000 năm tuổi nên c rt nhiu chùa chin và thng cảnh cổ knh thiêng liêng. Hà Nội cũng là mảnh đt anh dũng và hào hùng trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống Pháp và chống M. Hà Nội cũng là thành phố c v đp kiến trúc cổ đin kiu Pháp, hiện đại kiu M. Chnh vì vậy mà công ty Viettravel chúng tôi xin đưc đưa ra tour du lịch mang tên: Hà Nội những du n vàng son vi những đim du lịch mà chúng tôi ly làm đim nhn: Hồ Gươm( du n ca lịch sử và truyn thuyết), phố cổ Hà Nội( du n ca mảnh đt kinh kì sầm ut, phồn hoa và đô hội), Hoàng Thành Thăng Long( du n ca lịch sử các triu đại và cung đình), Quảng trường Ba Đình( du n ca cách mạng và danh nhân) và cuối cùng là Văn Miếu Quốc Tử Giám( mang du n ca văn ha). Tôi hi vọng khi hòa mình vào chương trình này qu khách sẽ cảm thy bổ ch và l thú. Cung đường Tour: Bãi đỗTừ khách sạn Mã Mây( nhà cổ Hàng Bạc Đinh Lễ Cầu Gỗ xe Hồ Hoàn Kiếm( Gần Hàm cá mập) Đm đỗ xe ô tô Lương Văn Can Hàng Cân Lãn Ông Hàng Buồm 87) Phan Hoàng Diệu( Hoàng Thành Thăng Long) Điện Biên Ph Tràng Thi Thái Tổ Quán Thánh Hàng Bún xe đn Khách tại quán ăn Đình Phùng( Đi bộ ra Phở 24) Văn Miếu Nguyễn Thái Học Chu Văn An Hùng Vương( Quảng trường Ba Đình) kết thúc tour trở v vp CtyQuốc Tử Giám( Khu di tch Văn Miếu) Chương trình du lịch Hà Nội những du n vàng son Sáng: 7h30 Xe ô tô đn qu khách tại khách sạn khởi hành thăm quan khu vực hồ Hoàn Kiếm 8h30 thăm khu phố cổ Hà Nội ( 36 phố phường xưa và nay), phương tiện di chuyn là bằng xch lô. Qu khách sẽ đưc đến vi kiến trúc ca nhà cổ 87 Mã Mây. 9h30 Xe ôtô sẽ tiếp tục đưa qu khách đến thăm cum di tch Thành cổ Hà Nội trên đường Hoàng Diệu 11h30 Ăn trưa tại nhà hàng Phở 24 Chiu: 1

Upload: phamtruongtimeline

Post on 20-Jun-2015

189 views

Category:

Travel


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bài thuyết minh city tour hà nội

Bài thuyết minh city tour Hà Nội

,Mục lụcLời mở đầuI. Hồ Gươm ( Vũ Thị Ngọc Yến )II. Phố cổ Hà Nội ( Ngô Thị Quỳnh Trang )III. Thành cổ Hà Nội ( Đỗ Thị Thu Trang- Phạm Diệu Thùy- Nguyễn Thanh Tú )IV. Quảng trường Ba Đình ( Hoàng Anh Thơ )V. Văn miếu Quốc Tử Giám ( Trương Thị Tú- Định Thị Vân- Tống Thị Xuân )Tài liệu tham khảo

Lời mở đầuHà Nội nơi hội tụ ngàn năm văn hiến - trái tim cua cả nươc - niêm tin và hy vọng. Thu đô Hà Nội xuât hiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam vào năm 1010 vơi tên gọi Thăng Long mang y nghia “Rồng bay lên”, tương trưng cho khi thế vươn lên cua dân tộc, mở đầu cho một giai đoạn phát triên cua đât nươc. Vơi gần 1000 năm tuổi nên co rât nhiêu chùa chiên và thăng cảnh cổ kinh thiêng liêng. Hà Nội cũng là mảnh đât anh dũng và hào hùng trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống Pháp và chống My. Hà Nội cũng là thành phố co ve đep kiến trúc cổ điên kiêu Pháp, hiện đại kiêu My. Chinh vì vậy mà công ty Viettravel chúng tôi xin đươc đưa ra tour du lịch mang tên: Hà Nội những dâu ân vàng son vơi những điêm du lịch mà chúng tôi lây làm điêm nhân: Hồ Gươm( dâu ân cua lịch sử và truyên thuyết), phố cổ Hà Nội( dâu ân cua mảnh đât kinh kì sầm uât, phồn hoa và đô hội), Hoàng Thành Thăng Long( dâu ân cua lịch sử các triêu đại và cung đình), Quảng trường Ba Đình( dâu ân cua cách mạng và danh nhân) và cuối cùng là Văn Miếu Quốc Tử Giám( mang dâu ân cua văn hoa). Tôi hi vọng khi hòa mình vào chương trình này quy khách sẽ cảm thây bổ ich và ly thú.Cung đường Tour: Bãi đỗTừ khách sạn Mã Mây( nhà cổ Hàng Bạc Đinh Lễ Cầu Gỗ xe Hồ Hoàn Kiếm( Gần Hàm cá mập) Đêm đỗ xe ô tô Lương Văn Can Hàng Cân Lãn Ông Hàng Buồm 87) Lê Phan Hoàng Diệu( Hoàng Thành Thăng Long) Điện Biên Phu Tràng Thi Thái Tổ Quán Thánh Hàng Bún xe đon Khách tại quán ăn Đình Phùng( Đi bộ ra Phở 24) Văn Miếu Nguyễn Thái Học Chu Văn An Hùng Vương( Quảng trường Ba Đình) kết thúc tour trở vê vp CtyQuốc Tử Giám( Khu di tich Văn Miếu) Chương trình du lịch Hà Nội những dâu ân vàng sonSáng: 7h30 Xe ô tô đon quy khách tại khách sạn khởi hành thăm quan khu vực hồ Hoàn Kiếm8h30 thăm khu phố cổ Hà Nội ( 36 phố phường xưa và nay), phương tiện di chuyên là bằng xich lô. Quy khách sẽ đươc đến vơi kiến trúc cua nhà cổ 87 Mã Mây.9h30 Xe ôtô sẽ tiếp tục đưa quy khách đến thăm cum di tich Thành cổ Hà Nội trên đường Hoàng Diệu11h30 Ăn trưa tại nhà hàng Phở 24Chiêu: 13h00 Tiếp tục thăm Quảng trường Ba Đình lịch sử- nơi đã găn liên vơi dâu mốc vàng son cua cuộc chiến đâu giành độc lập cho dân tộc. Hành trình tiếp theo sẽ đưa quy khách tơi thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám (ngôi trường đại học đầu tiên cua Việt Nam). Tại Văn Miếu quy khách sẽ đươc thưởng thức chương trình âm nhạc do dàn nhạc dân tộc tại di tich biêu diễn. Kết thúc tour thăm quan, xe trả quy khách tại văn phòng công ty.GIÁ CHO 01 KHÁCH DU LỊCH : 28USD/ 1 kháchGIÁ VÉ BAO GỒM1. Vận chuyên: Xe đời mơi co máy lạnh (đưa đon tham quan theo chương trình) Phi thuê xe xich lô trong phố cổ2. Ăn trưa tại nhà hàng trong phố cổ Hà nội3. Hương dẫn viên thuyết minh trong suốt hành trình4. Vé Tham quan: Khách đươc trả tiên vé vào cửa các thăng cảnhGIÁ KHÔNG BAO GỒM

1

Page 2: Bài thuyết minh city tour hà nội

Đồ uống, bảo hiêm du lịch, các chi phi ngoài chương trình.GHI CHÚ:. Tre em 1 - 4 tuổi: miễn phi; 5 - 10 tuổi: tinh ½ suât. Quy khách ăn mặc lịch sự khi tham gia tour

I. Hồ GươmXin chào quy khách đã đến vơi Thu đô Hà Nội!

Chúng tôi vui mừng đươc đon quy khách tham gia chương trình du lịch văn hoa mang tên “Hà Nội, những dâu ân vàng son”. Trươc hết tôi xin trân trọng noi lời cảm ơn tơi tât cả quy vị đã co mặt tại đây. Tôi xin tự giơi thiệu, tôi là Ngọc Yến – hương dẫn viên cua công ty du lịch

13C.Như trưởng đoàn đã giơi thiệu tơi quy khách ở trên. Điêm du lịch đầu tiên cua chúng ta ngày

hôm nay là thăng cảnh Hồ Gươm!Thưa quy khách,biết đến Thu đô thân yêu cua chúng ta co thê nhăc đến Chùa Một Cột- dáng sen vươn lên từ bùn lầy nghìn năm Băc thuộc- tiêu biêu cho y thức tự cường cua dân tộc, hay

Khuê Văn Các- viên ngọc Minh châu kết tinh cua một nên khoa bảng ngàn đời… Nhưng chúng ta nhăc đến Hồ Gươm nhiêu hơn cả, nằm trong lòng Hà Nội, thành phố nhân văn,

thành phố vì hòa bình, thành phố ngàn năm văn hiến. Tháp Rùa tương trưng cho khát vọng hòa bình, Nghiên Bút nhăc đến nên văn vật. Chỉ vơi hai biêu tương đo, Kiếm Hồ đã xứng

đáng là trái tim cua Thu đô rồi! Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi chọn nơi đây là điêm đầu tiên cho chương trình vô cùng y nghia này. Hồ Gươm không chỉ là thăng cảnh tô điêm thêm ve xinh tươi, duyên dáng cua Thu đô, mà còn là một trong những dâu ân tiêu

biêu cua lịch sử ngàn năm văn hiến đât kinh kỳ Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội!Thưa quy khách, chúng ta đang ở hồ Gươm, nơi chúng ta đang đứng đây co thê nhìn bao

quát hồ, ngăm tháp Rùa, đên Ngọc Sơn và những điêm nổi bật quanh bờ hồ.Trươc khi giơi thiệu vê hồ Gươm, xin mời quy khách hương ra mặt hồ ngay sau mình và tôi

xin tặng quy khách một đoạn thơ trong bài “Lại vê” cua cố thi si Tố Hữu:Hồ Gươm xanh thăm quanh bờ,

Thiên thu hồn nươc mong chờ bây nay.Bây giờ đây lại là đây,

Quốc kỳ đỉnh tháp, sao bay mặt hồ.Hồn Nươc – là tâm hồn đât nươc, là linh hồn cua đât nươc cũng co nghia là cái truyên thống, cốt cách cua dân tộc Việt Nam. Và hồ Gươm - theo tác giả - chinh là cái hình hài vật chât cua

cái hồn Nươc từ nghìn thu xưa lưu lại, đê chúng ta tự hào vê lịch sử cua dân tộc mình. Hồ Gươm co thê noi là một không gian thiêng cua Hà Nội và cua cả nươc ta.

Toàn bộ diện tich cua hồ Gươm là 12 ha, dài 700m theo hương Nam Băc và rộng 200m theo hương Đông Tây. Theo con măt cua những nhà địa chât, Hồ Gươn là non quà cua sông Hồng từ xa xưa, thua sông Cái còn lươn sâu vào đât này từ vài ngàn năm trươc. Hiện tương sông

bỏ dòng như vậy rât thường xảy ra. Thực ra tên gọi Hồ Gươm mơi co khoảng một thế kỷ nay. Trươc đo tên phổ biến là hồ Hoàn

Kiếm. Còn trươc đo nữa Hồ còn co nhiêu tên gọi khác nhau. Thua xa xưa do hồ co màu nươc quanh năm xanh nên còn co tên là hồ Lục Thuy (nghia là Nươc Xanh). Chuyện kê rằng khi vua Lê Thái Tổ khởi binh chống quân Minh xâm lươc, Vua co băt đươc một thanh gươm, vũ khi đo theo vua suốt cuộc trường trinh mười năm và cuối cùng Vua đánh đuổi đươc giặc,

giành lại nên độc lập. Đong đô ở Hà Nội khi đo gọi là Thăng Long, một hôm vua dong thuyên đi chơi trên hồ Lục Thuy thì co rùa vàng nổi lên, vua tuốt gươm chỉ vào rùa thì rùa liên ngậm

cây gươm mà lặn xuống nươc. Nghi rằng đo là khi trươc Trời cho mươn gươm đê dep giặc, nay giặc tan thì sai rùa thần đến đòi lại gươm trả lại cho Trời. Từ đo vua đổi tên hồ thành hồ Hoàn Kiếm tức hồ Trả Gươm mà ngày nay chúng ta gọi tăt là hồ Gươm. Phải chăng truyên

thuyết trả gươm đo muốn noi lên khát vọng hòa bình cua cả dân tộc Việt Nam. Khi dep xong giặc thì gác vũ khi lại đê lo sản xuât làm ăn, vì một nên hòa bình lâu dài. Như đứng trên trụ

cao, tương đài vua Lê đội mũ bình thiên chỉ gươm xuống tuyên bố: “Dân tộc ta sẽ không đúc, rèn vũ khi nữa, chỉ dành công sức tạo nên cuộc sống, nhân danh trăm họ, Trẫm xin hoàn lại

thanh gươm chiến thăng”. Truyên thuyết còn co một y nghia sâu xa nữa, theo dân gian, thanh gươm là biêu tương cua

2

Page 3: Bài thuyết minh city tour hà nội

Lửa. nhúng gươm xuống nươc là biêu thị cua nghi lễ hòa hơp nươc lửa. Vâng thưa quy khách, co lẽ chưa ở nơi đâu như mảnh đât này lại đươc xây dựng trên huyên thoại và truyên thuyết

hòa quện suốt chiêu dài lịch sử. Từ lúc vua Ly Thái Tổ thây rồng bay lên khi đậu thuyên ở chân thành Đại La, và đến khi Lê Thái Tổ giữ nươc thành công, chuyện trả gươm như gạch nối xứng đáng nhât đê tạo nên nét đối xứng tuyệt diệu – Dương: Rồng bay. Âm: Rùa lặn!

theo giáo sư Trần Quốc Vương, bản săc cua Thăng Long – Đại Việt là tổng hòa những giá trị hư và thực, thực mà hư. Huyên mà thực, thực mà huyên!

Thưa quy khách, hồ Gươm đươc gọi phổ biến vơi cái tên Hoàn Kiếm từ đo, nhưng cũng co lúc hồ co tên là Vọng, chia hai phần tả-hữu. Theo sử sách, hồ Gươm xa xưa rộng mênh mông,

truyên thuyết hồ Gươm co kê tiếp rằng dù sao Vua cũng muốn tìm ra rùa Vàng nên sai quân linh đăp đập ngăn hồ Lục Thuy thành hai nửa, ban đầu cho tát nươc từ bên này sang bên kia không tìm thây rùa, lại tát ngươc lại, vẫn không thây rùa bèn cho là rùa Thần. Sau đo cái đập đươc giữ lại, nửa hồ phia băc đươc gọi là hồ Tả Vọng, phần còn lại phia nam gọi là Hữu Vọng,

sau này phần hồ Hữu Vọng bị Tây lâp, hồ Gươm giờ là một phần Tả Vọng. Hồ sau này thời chúa Trịnh còn đươc dùng làm chỗ tập luyện thuy quân nên còn gọi là hồ Thuy Quân.

Ngày nay hồ Gươm xanh tươi quanh năm vơi hàng cây đươc trồng quanh bờ hồ, đã co thi sy vi hồ Gươm như song măt biếc và hàng cây xanh như hàng mi cua hồ Gươm- hàng mi cua

đôi măt người thiếu nữ?Chăc quy khách đang ngăm nhìn tháp rùa ở phia xa giữa hồ? Vâng thưa quy khách, tháp rùa đã từ lâu trở thành biêu tương thân thiết cua thu đô Hà Nội, mặc dù tháp chỉ đươc xây vào

nửa cuối thế kỷ 19. Gọi là tháp Rùa vì tháp đươc xây trên đảo rùa, là gò đât nhỏ nổi lên giữa hồ làm nơi rùa hồ Gươm thường lên phơi năng hay đe trứng, gò đât này các cụ vẫn gọi no là Quy Sơn tuy chỉ cao hơn mặt nươc hồ 60cm (vì theo thuật phong thuy “ cao một tâc thì cũng là một ngọn núi”). Vê sự tich xuât hiện tháp Rùa cũng rât ly thú, truyên thuyết kê lại rằng, trên đảo rùa co huyệt quy, nếu đem hài cốt song thân tang vào đo thì con cái đời đời vinh hiên. Năm 1884, Pháp đã làm chu Hà Nội. Một tên tay sai cua thực dân là Bá Kim xin đươc xây tháp trên gò rùa và lén đặt hài cốt cha me mình vào đo, nhưng sự việc không thành

nhưng đã hứa vơi mọi người là xây tháp nên hăn đành ngậm bò hòn làm ngọt xây nốt tháp rùa. Đê thưởng công cho Bá Kim, thực dân Pháp đặt tên tháp là tháp Bá Kim, nhưng nhân

dân Thu đô vẫn gọi là tháp Rùa. Tuy truyên thuyết Bá Kim xây tháp rùa đê tang hài cốt cha me chỉ là truyên thuyết dân gian, đươc lưu truyên và phần nào đo tạo nên tinh thiêng liêng,

ly kì cua tháp Rùa!Hơi xa một chút nhưng chăc quy khách cũng co thê thây, tháp rùa đươc xây theo hình chữ

nhật, co ba tầng và một đỉnh.Tầng một xây trên mong cao 80cm, tầng này hình chữ nhật, mỗi mặt tháp đêu co những ô cửa hình vòm, mặt chiêu dài co 3 cửa, mặt chiêu rộng co 2 cửa, tổng cộng bên ngoài co 10 cửa. Bên trong tháp tầng 1 còn đươc phân ra làm ba gian và co 4 cửa thông vơi nhau. Vậy

tổng cộng tầng một co 14 cửa.Tầng hai cũng tương tự nhưng diện tich nhỏ hơn.

Tầng ba nhỏ hơn nữa, chỉ co 1 cửa hình tròn ở mặt phia Đông. Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu, vuông vức. trên tường mặt phia Đông co ba chữ Quy Sơn

Tháp tức Tháp Núi Rùa.Như vậy, Tháp Rùa tuổi đã dư một thế kỷ, dù lịch sử không co gì đáng kê, cũng đã là mtj bộ

phận hữu cơ cảu hồ Gươm, là một phần cua tâm hồn Hà Nội. Thưa quy khách, ngoài Quy Sơn co Tháp Rùa, hồ Gươm còn co một núi nữa đo là Ngọc Sơn,

noi đến Hồ Gươm, noi đến Tháp Rùa thì không thê không nhăc đến Đên Ngọc Sơn. Vâng, thưa quy khách, quy khách co thê dễ dàng nhận ra rât gần bên trái trươc mặt cua chúng ta

là hai chữ Ngọc Sơn đươc viết sơn màu đỏ trên tâm bình phong cua Đên quay mặt phia chúng ta. Cũng thật kho khi đứng xa mà miêu tả quần thê kiến trúc vừa co y nghia sâu xa,

vừa co câu tạo đep đẽ này! Tôi xin đươc giơi thiệu đôi nét nổi bật nhât vê quần thê đên Ngọc Sơn

Đên Ngọc Sơn tọa lạc trên đảo Ngọc, giữa song hồ. đảo co tên là Ngọc vì theo truyên thuyết co tiên xuống tăm. sau này đươc gọi là Ngọc Sơn vào thời Trần. Ở đây vốn co ngôi đên thờ những liệt sy hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đên lâu ngày tự đổ. Đến thời Lê Chiêu Thống, co nhà nho tên là Tin Trai xây ngôi chùa đặt tên là chùa Ngọc Sơn. Sau này

3

Page 4: Bài thuyết minh city tour hà nội

thời Nguyễn, năm vua Thiệu Trị thứ ba chùa đươc nhường cho một hội từ thiện đổi làm đên Tam Thánh thờ Văn Xương Đế Quân và gọi là Đên Ngọc Sơn như bây giờ. Năm Tự Đức, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đên, kiến trúc ngày nay còn lại chu yếu là từ lần

trùng tu lơn này!

II.Phố Cổ Hà Nội

Xin kinh chào quy khách, tiếp theo tôi xin đươc giơi thiệu cho quy khách vê phố cổ Hà Nội. Trươc tiên, tôi xin tự giơi thiệu tôi là Ngô Thị Quỳnh Trang, đến từ công ty du lịch Việt Travel.

Vừa rồi,quy khách đã đươc thăm quan Hồ Gươm, sau đây chúng ta tiếp tục hành trình vơi khu vực phố cổ Hà Nội. Kinh chúc quy khách co những giây phút thú vị, y nghia và bổ ich trong hành trình tiếp theo cua chuyến thăm quan khu vực phố cổ. Việt Nam thi văn hơp

tuyên cua Dương Quảng Hàm co ghi lại ca dao vê 36 sáu phố ở Hà Nội như sau:Ru nhau chơi khăp Long thành

Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,

Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,Mã Vi, hàng Điếu, hàng Giầy

Hàng Lờ, hàng Cot, hàng Mây, hàng Đàn,Phố Mơi, Phúc Kiến, hàng Ngang,

Hàng Mã, hàng Măm, hàng Than, hàng Đồng,Hàng Muối, hàng Non, cầu Đông,

Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,

Hàng Vôi, hàng Giây, hàng The, hàng Gà,Quanh đi đến phố hàng Da,

Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.Phồn hoa thứ nhât Long thành,

Phố giăng măc cửi, đường quanh bàn cờ.Người vê nhơ cảnh ngẩn ngơ,

Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyên.

Thưa quy khách, khu "Hà Nội 36 phố phường" là một cách gọi không chinh xác cua khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ươc lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ. Đây là một khu vực đô thị co từ lâu đời cua Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiêu thu công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghê đặc trưng, mang những nét truyên thống riêng biệt cua cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điêm đến hâp dẫn cho những ai muốn tìm hiêu vê Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uât này đã đươc hình thành từ thời Ly - Trần, nằm ở phia đông cua hoàng thành Thăng Long ra đến sát sông Hồng. Đầu đời đời Lê, trong sách Dư Địa Chi, Nguyễn Trãi cũng đã đê cập đến tên một số phường nghê tại đây. Dươi thời Lê, đặt phu Phụng Thiên gồm hai huyện là Vinh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn tổng Túc cua huyện Thọ Xương là Tiên Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La co trổ các cửa ô. Thời Lê, giữa khu này co một số đầm hồ, lơn nhât là hồ Thái Cực. Sông Tô Lịch nối vơi hào thành, các đầm hồ, thông vơi hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đo hoàn toàn bị lâp, nhưng vẫn còn đê lại dâu tich qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông. Thời Ly - Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Băc Bộ tụ tập vê khu vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhât kinh thành. Đến đời Lê, dần dần đã co một số Hoa kiêu buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu. Thời Pháp thuộc, sau khi lâp toàn bộ các đầm hồ, khu phố đươc chỉnh trang, người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chơ nhỏ đươc giải tỏa đê lập chơ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ - Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua đây. Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhât cua Hà Nội. Tuyến phố đi bộ cũng đươc mở tại đây.

4

Page 5: Bài thuyết minh city tour hà nội

Đặc trưng nổi tiếng nhât cua khu phố cổ là các phố nghê. Thơ thu công từ các làng nghê quanh Thăng Long xưa tụ tập vê đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghê cua mình. Các thuyên buôn co thê vào giữa phố đê buôn bán trao đổi, khiến các phố nghê càng phát triên. Và chinh sản phẩm đươc buôn bán trở thành tên phố, vơi chữ "Hàng" đằng trươc, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng.Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ đươc sản phẩm truyên thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, phố Thuốc Băc, ... Ngoài ra một số phố tuy không giữ nghê truyên thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại hàng hoa, như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, phố Hàng Buồm bán bánh keo, phố Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch...* Phố Hàng Mã ngày xưa chuyên buôn bán đồ vàng mã đê thờ cúng, bao gồm tiên giây âm phu, vàng giây âm phu, sau mở rộng thêm các tương giây hình các quan, hình nhà cửa... đê đốt cúng cho người âm. Ngày nay phố Hàng Mã tập trung nhộn nhịp vào các dịp lễ, tết Trung Thu, Nguyên Đán vơi các mặt hàng phong phú vê đồ chơi. Ngoai ra, tại đây cũng là nơi bán các hàng trang tri phông màn đám cươi vơi các hình căt cô dâu, chú rê làm tự bọt xốp nhiêu màu săc.* Liên quan đến phố Hàng Mã còn co phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai phố xưa: phố Hàng Mã và phố Hàng Mây. Đoạn phố Hàng Mây nằm giáp phố Hàng Buồm, trên bờ sông Nhị, nơi tập trung thuyên bè miên ngươc chở các mặt hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa...* Phố Hàng Bạc do ông Lưu Xuân Tin đươc nhà vua cho phép mở lò đúc bạc thành nén cho triêu đình[2], kéo người trong họ hàng và nguời làng Trâu Khê (huyện Bình Giang - Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường đúc ở số nhà 58 Hàng Bạc.* Phố Hàng Đào là nơi buôn tơ, bán vải voc (chữ vải điêu chỉ màu đỏ đươc đọc chệch thành chữ đào)* Phố Hàng Lươc nối từ phố Hàng Cot đến phố Chả Cá, vốn là nơi co nhiêu nhà buôn bán lươc: lươcgỗ, lươc sừng và sau này là lươc nhựa cât cho các cửa hàng xén bán cho các cô làm đồ trang điêm * Phố Hàng Chai không phải là nơi sản xuât, buôn bán chai lọ; phố này là một đoạn ngõ nhỏ nối phố Hàng Rươi và Hàng Cot, đây là nơi tập trung dân nghèo làm nghê "ve chai", chuyên thu lươm các đồ phế liệu, đồ bỏ (rác) * Phố Hàng Gà chạy từ phố Hàng Điếu đến phố Hàng Cot, vốn là nơi tập trung các cửa hàng bán đồ gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây... * Phố Hàng Chinh đươc người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại Chậu), vốn thông ra bờ sông, là bến đậu các thuyên chở vại, chậu bằng sành cua làng Phù Lãng, nồi đât, chum vại, tiêu sành từ Hương Canh, bằng gốm từ Thổ Hà * Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp co tên chung là Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Đoạn Hàng Đồng và Hàng Mã trươc thuộc thôn Yên Phú, co nghê gốc bán đồ đồng (chứ không phải đồ đồng nát) như mâm, nồi, đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ...Khác vơi nhà cổ Hội An- loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đo co một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quy, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rât cầu kỳ, nhà cổ Hà Nội chu yếu là nhà ống, mái ngoi nghiêng, mặt tiên là cửa hàng buôn bán thò thụt không đêu. Hình ảnh nhà cổ và mái ngoi đã đi vào hội họa, thơ ca. Những ngôi nhà này chu yếu đươc dựng vào thế kỉ 18 - 19, trươc đo hầu hết là nhà mái tranh, chỉ co một số nhà giàu co, nhà cua Hoa kiêu mơi lơp mái ngoi. Thời kì toàn quốc kháng chiến, đê tránh đụng độ trực tiếp vơi quân Pháp và linh Lê dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần người ta co thê đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần phải xuống đường. Từ cuối thế kỉ 20, các nhà cổ dần dần biến mât. Thay vào đo là các ngôi nhà ống xây mơi phá vỡ cảnh quan vốn co cua phố cổ. Tuy vậy, bên trong các ngôi nhà vẫn là hệ thống đường đi chằng chịt.Trong khu vực phố cổ co rât nhiêu di tich lịch sử lâu đời, gồm đình, đên, chùa, hội quán.* Đình: mỗi phố nghê thường co một đình đê thờ tổ nghê hoặc thành hoàng làng nguyên quán. Đình ở khu này đặc biệt là tầng dươi vẫn làm cửa hàng cho thuê, tầng trên mơi làm nơi thờ cúng. Qua thời gian, các đình bị lân chiếm nhiêu, rât kho tìm ra dâu.* Đên: tương tự như đình, nhiêu đên cũng chỉ đặt trên tầng, phia dươi làm cửa hàng. Một số

5

Page 6: Bài thuyết minh city tour hà nội

đên còn giữ đươc là: đên Mã Mây, đên Nhân Nội, đên Bà Chúa,* Chùa: trong khu phố cổ còn một số ngôi chùa, tuy đã bị lân chiếm nhiêu: chùa Cầu Đông, chùa Kim Cổ, chùa Thái Cam.* Hội quán: khi người Hoa đến buôn bán, đã lập ra hai hội quán: Hội quán Quảng Đông và Hội quán Phúc Kiến.Tại khu vực khu phố cổ xưa kia co các cửa ô: ô Phúc Lâm, ô Thanh Hà (ô Quan Chưởng), ô Trừng Thanh, ô My Lộc. Hiện chỉ còn lại ô Quan Chưởng là còn nguyên ven.Bên cạnh các phố nghê, khu phố cổ cũng co một số chơ đê tập trung bán các loại hàng hoa phục vụ đời sống, như chơ Đồng Xuân - Băc Qua, chơ Hàng Da, chơ Hàng Bè.Sau đây, chúng ta se đi vào thăm quan khu vực phố cổ. Quy khách sẽ đi xich lô vòng qua các con phố cổ và tơi thăm ngôi nhà cổ 87 Mã Mây. Xin mời quy khách….Như đã giơi thiệu vơi quy khách ở trên, khu Phố cổ Hà Nội đươc hình thành và phát triên theo sự phát triên cua kinh kỳ Thăng Long xưa và Thu đô Hà Nội ngày nay. Khu Phố cổ Hà Nội là một quần thê kiến trúc độc đáo mang đậm bản săc dân tộc Việt Nam noi chung và mang tinh đặc trưng cho riêng Hà Nội. Xen lẫn vơi các công trình tôn giáo, lịch sử, văn hoav.v. là các công trình kiến trúc nhà ở. Những công trình kiến trúc nhà ở chu yếu đươc xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dựa trên cơ sở nên mong đươc hình thành từ những thế kỷ trươc. Đo là những ngôi nhà co kiến trúc truyên thống, nhà hình ống và co nhiêu lơp nhà; giữa các lơp nhà co sân đê lây ánh sáng và không khi, đây cũng là nơi bày cây cảnh, uống nươc, ngăm trăng. Kết câu chu yếu chu yếu cua công trình là gỗ, mái lơp ngoi vơi hệ thống vì kèo gỗ và co nhiêu hoạ tiết trang tri. Nhìn vào những ngôi nhà ở này ta vẫn dễ dàng nhận thây là những ngôi nhà ba hoặc năm gian đã co biến đổi đi, đươc bố tri thành nhiêu lơp cách nhau bằng một sân nhỏ phát triên chu yếu theo nhu cầu cụ thê cuộc sống một gia đình co người vơ là tiêu thương hay người chồng là thơ thu công chuyên nghiệp.Do yêu cầu vê việc buôn bán ở thành thị nên việc mở cửa hàng đê bán hàng ở những nhà co mặt cửa hàng rộng quay ra phố là một vân đê quan trọng và tât yếu. Vì vậy, đại đa số các nhà chỉ co bê ngang từ 2m đến 6m, tức là bằng bê rộng một gian trong ngôi nhà 3 hoặc 5 gian khi xưa, nhưng lại đươc phát triên mạnh theo chiêu sâu mà vẫn dùng kết câu mái cũ cua nhà dân gian nên không gian mái sẽ lơn và đê tận dụng người ta thường làm thêm những gác lửng leo lên bằng cách đê lỗ sàn và gác một cầu thang một vế vơi độ dốc 70° đến 75° làm bằng gỗ.Gác lửng đê chứa hàng dự trữ hay kê giường ngu nên co độ cao không quá 2, 2m. Nếu cần phát triên hơn nữa vê diện tich đê ở thì họ phát triên theo chiêu cao nhà đê thành những tầng nhà hẳn hoi, do đo ta thây co những nhà chiêu ngang chỉ một vài mét nhưng làm cao đến 2, 3 tầng và co chiêu sâu đến vài chục mét. Chinh vì vậy mà no đươc gọi vơi cái tên là “nhà hình ống”. Kiêu kiến trúc đo nhằm đảm bảo thông gio và lây sáng tốt cho các buồng - phòng, lơp trong cùng tiếp xúc vơi sân bếp, khu vệ sinh và chỗ ở cua người giúp việc gia đình.Quan hệ nội bộ các phòng đêu là quan hệ xuyên phòng, lơi dụng khoảng không kê đồ sát một mặt tường dọc làm lối đi.Nhu cầu ở cua người dân lúc đo còn đơn giản, họ chưa cần những khoảng không gian riêng tư như ngày nay vì vậy việc xuyên suốt từ không gian phòng này tơi phòng khác là đặc trưng nổi bật không gian nhà ở trong khu 36 phố phường.Đê thich nghi vơi cuộc sống gia đình co vơ buôn bán hoặc chồng làm thơ thu công, người ta vẩy thêm một mái đua ra phố dùng làm cửa hàng buôn bán.Co thê thây ở đây không gian sản xuât, kinh doanh ngành nghê thu công đan xen dươi cùng một mái nhà cùng vơi không gian ở. Phù hơp vơi tập quán cua người dân là: ở + sản xuât + kinh doanh buôn bán nhỏ.Các giai đoạn hình thành và phát triên kiêu nhà ở kiêm bán hàng trong khu Phố cổ Hà Nội (khu “36 phố phường”):- Nhà xây trươc năm 1890 :Là loại nhà ở cổ truyên thống cua khu Phố cổ Hà Nội, loại này co đặc điêm chung sau:Đây là loại nhà hình ống, phát triên theo chiêu sâu, tường nhà nọ liên kê vơi tường nhà kia.

6

Page 7: Bài thuyết minh city tour hà nội

Mặt tiên hương ra phố bê ngang chỉ khoảng 2 mét đến 5 mét và sâu từ 20 mét đến 60 mét. Bên trong nhà co các sân trong đê lây ánh sáng thông thoáng. Số sân phục thuộc vào chiêu sâu nhà thường co phổ biến từ 1 đến 2 sân trong.Hình dáng kiến trúc phổ biến là nhà lơp mái.? hai đầu đỉnh mái ngoi cua ngôi nhà là hai khối nhô lên hình chữ nhật, xây bằng gạch gọi là trụ đâu mái. Tường giữa mái nhà nọ vơi nhà kia xây gạch cao lên 1, 0 mét đến 1, 5 mét hình tam câp đê chống cháy lan, chống thâm cho tường, nhà loại cổ nhât đa phần co 1 tầng, hoặc 1 tầng co gác xép nhỏ ở trên đê làm kho chứa hàng.Tường ngoài gác xép thường bịt đặc hoặc co lỗ hoa đê thông thoáng lây ánh sáng. - Nhà xây từ 1890 - 1930 :Đến cuối thế kỷ 19, lịch sử Việt Nam đã co những biến đổi rõ rệt và mạnh mẽ. Nhưng trong khu Phố cổ Hà Nội nhà cửa vẫn còn đu sức tồn tại, thường cua những thương nhân.Như vậy những ngôi nhà xây trươc 1890 co thê coi là nhà cổ truyên. Nhìn chung những ngôi nhà này đươc xây dựng vuông goc vơi đường phố.Thời kỳ thực dân Pháp xâm lươc nươc ta và Hà Nội đươc chọn là trung tâm kinh tế chinh trị cho toàn bộ Đông Nam Á. Khu 36 phố phường đươc mở rộng như một trung tâm buôn bán, do vậy loại nhà co cửa hàng đươc phổ biến rộng rãi, băt đầu ở khu Phố cổ, phần lơn là nhà 2 tầng (trong đo 1 tầng dành riêng cho cửa hàng).Trong nhom này, một đặc điêm đặc trưng nhât là các cầu thang bằng gỗ hay gạch cổ thay cho những thang gỗ di động trươc kia. Một số ngôi nhà sử dụng gạch đúc sẵn. Đôi khi bê tông đươc dùng cho mái chảy, không gian cổ truyên là như trươc nhưng ky thuật xây dựng tiên tiến hơn.- Nhà xây từ 1931 - 1954 :Những phương thức xây dựng nhà truyên thống vẫn tương tự như trươc,.-Nhà xây từ 1955 - 1975 :Do ảnh hưởng cua chiến tranh, nhà cửa thời gian này không đươc phát triên. Vật liệu vẫn là vật liệu cổ truyên như trươc. -Nhà xây từ sau năm 1975 :Là những nhà co hình thức kiến trúc cổ truyên đươc xây dựng, cải tạo theo hình thức kiến trúc hiện đại trung bình là 2 tầng vơi sàn bê tông và bât cứ nơi nào co thê vơi những goc mái đua thêm đê tăng diện tich ở. Những cửa ván gỗ thay bằng cửa săt kéo. Ky thuật đá rửa, gạch ốp lát và kinh đươc sử dụng rộng rãi đôi khi không phù hơp vơikhông gian cảnh quan kiến trúc truyên thống. Trải qua bao thăng trầm cua lịch sử, những ngôi nhà truyên thống trong khu phố cổ Hà Nội đã bị biến đổi nên số lương còn lại không nhiêu, nhiêu nhà đã thay đổi hình thức mặt tiên tuy nhiên kết câu mặt bằng và công năng các nếp nhà vẫn cơ bản đươc gìn giữ. Một trong 14 ngôi nhà (theo số liệu thống kê điêu tra vê giá trị kiến trúc năm 2001) co giá trị đươc bảo tồn toàn bộ vê mặt giá trị kiến trúc ở phố Mã Mây là ngôi nhà số 87.

Ngôi nhà 87 Mã Mây đươc xây dựng vào đầu thế kỷ XIX theo kiêu kiến trúc truyên thống Việt Nam vơi chức năng sử dụng đê ở và bán hàngGia chu nhà 87 Mã Mây trươc năm 1945 ở đây và bán hàng gạo, sau năm 1945 đã bán lại cho một gia đình người Hoa ở và bán thuốc Băc.Năm 1954, gia đình người Hoa di cư vào Nam, đê lại ngôi nhà dươi sự quản ly cua nhà nươc. Năm 1954, Sở Nhà đât bố tri cho 5 gia đình đến sinh sống tại ngôi nhà này.Ngôi nhà đã đươc cải tạo làm thi điêm năm 1999 vơi sự hơp tác giữa thành phố Hà nội (Việt nam) và thành phố Toulouse (CH Pháp) trong dự án “Bảo tồn, tôn tạo phố cổ Hà nội”. Hiện nay, thuộc sự quản ly cua UBND thành phố Hà Nội là ngôi nhà mẫu cua ngôi nhà truyên thống trong khu Phố cổ Hà Nội đươc bảo tồn tốt. Nhà 87 Mã Mây là loại nhà ở truyên thống cua khu Phố cổ Hà Nội - nhà hình ống, co những đặc điêm kiến trúc cua nhà xây dựng thời kỳ năm 1890. Ngôi nhà co diện tich là 157,6 m2, đươc xây dựng vuông goc vơi đường phố ; co chiêu dài đât là 28m, chiêu rộng mặt tiên 5m và chiêu rộng cua mặt hậu là 6m. Vì vậy hình thức cua miếng đât là "nở hậu", mảnh đât "nở hậu" như vậy sẽ mang lại phúc lộc vê hậu vận.Mặt bằng co cơ câu không gian kiến trúc kiêu nhà truyên thống phố cổ Hà Nội, đo là :

7

Page 8: Bài thuyết minh city tour hà nội

Nhà 1 - Sân 1 - Nhà 2 -Sân 2- Bếp - Nhà 3 (vệ sinh, kho)

Như vậy không gian kiến trúc cua ngôi nhà đươc phân chia bởi từng lơp nhà và sân: - Lơp nhà ngoài (lơp nhà 1): tầng 1 đê bán hàng, tầng 2 gian tiếp khách và gian thờ.- Lơp nhà trong (lơp nhà 2): tầng 1 gồm nơi cât giữ hàng hoá và nơi dành cho người giúp việc; tầng 2 là phòng ngu cua chu nhà vơi hiên trươc co mái là nơi ngồi uống trà hay chơi cờ tương cua gia chu và hiên sau là sân phơi thuốc băc.Hai lơp nhà này đươc cách nhau bằng sân rộng đê lây ánh sáng và thông thoáng cho toàn bộ ngôi nhà.? sân thứ nhât (sân 1, đươc gọi là sân khô), gia chu trang tri bằng các chậu cây cảnh bonsai đê mang thêm nét thiên nhiên vào không gian nhà. Sân thứ 2; một phần co mái che là nơi nâu nương (bếp), phần còn lại cua sân là bê chứa nươc mưa và sân đê giặt giũ (đươc gọi là sân nươc). - Lơp nhà trong cùng (lơp nhà 3) là khu phụ gồm vệ sinh và kho.Vơi cách bài tri không gian như vậy ngôi nhà hình ống này co điêu kiện tiện nghi rât tốt vê thông gio và lây sáng. Đây là 1 trong những ưu điêm lơn trong việc bố cục không gian nhà ở truyên thống Việt Nam noi chung và cua phố cổ Hà Nội noi riêng trong việc thich nghi và phù hơp vơi điêu kiện khi hậu địa phương.* Kết câu chịu lực chinh là gỗ, gồm hệ thống cột gỗ và dầm gỗ, vì kèo gỗ tạo. Tường bao là tường gạch vơi ky thuật xây dựng truyên thống (gạch đặc đúc thu công xây bằng vữa vôi: vôi và cát, không sử dụng xi măng). Hệ thống kết câu mái là hệ thống vì kèo gỗ theo kiêu nhà dân gian truyên thống (chồng rường). Mái dốc 2 phia đươc lơp bằng ngoi ta, 2 lơp ngoi: lơp ngoi lot là ngoi chiếu và lơp ngoi trên là ngoi mũi hài. * Các chi tiết kiến trúc cua ngôi nhà rât đặc trưng cua kiến trúc nhà truyên thống phố cổ Hà nội đươc chú y đến đầu tiên là mặt đứng chinh vơi hình thức đối xứng, cửa đi chinh ở giữa (cửa tâm) và 2 bên là cửa sổ rộng làm nơi bán hàng. Cửa sổ rộng giáp mặt phố là cửa lùa bằng gỗ ván đặc theo chiêu đứng tháo ra đươc; còn các cửa đi là cửa bức bàn co ngõng cửa co then cài. Cửa đi tầng 2 lơp nhà 2 đươc thiết kế theo kiêu cửa thương song hạ bản co trang tri hình khăc gỗ tứ quy. Phia trên cửa đi và cửa bán hàng là phần ô cửa thông thoáng trang tri bằng các con tiện gỗ chạy suốt mặt tiên. Vì vậy khi phần cửa dươi đươc đong toàn bộ thì phần cửa thoáng trên chinh là đê lây sáng và thông gio cho toàn nhà. Trên tầng 2 co 2 cửa số nhỏ đối xứng. Lan can cầu thang cũng đươc trang tri bằng con tiện gỗ hình thức giống như con tiện ở ô thoáng mặt tiên. Các lan can ngoài trời đươc xây bằng trụ gạch và trang tri bằng gạch men hình hoa chanh trạm thuỷ.Mái hiên trươc phòng ngu tầng 2 co kết câu vì mái hình thức vì vỏ cua theo kiến trúc cua Trung Quốc.Ở 2 đầu đỉnh mái ngoi co hai khối nhô lên hình chữ nhật xây bằng gạch là trụ đâu mái. Tường hồi giáp vơi 2 nhà liên kê xây cao 1m dật tam câp đê trang tri, giảm chiêu cao cũng như đê chống cháy lan và chống thâm. Từ bờ noc mái tơi trụ đâu mái, tường giật câp đêu trang tri gờ chỉ. *Phần nội thât cua ngôi nhà đươc bài tri bởi đồ gỗ cổ đặc biệt là phòng khách và phòng ngu. Vơi y nghia phòng khách là nơi trang trọng nên gia chu đã đặt bàn thờ tổ tiên vơi hoành phi câu đối và bộ trường kỷ tiếp khách; trên tường treo bộ tứ quy khăc gỗ.Phòng ngu cũng đươc bài tri một cách cẩn thận, gọn gàng đê tiết kiệm diện tich vơi bộ sập gụ, tu chè và 1 bộ bàn ghế đê gia chu uống nươc, ăn và tiếp khách thân thiết. Phia trươc và phia sau phòng ngu co hiên và sân trời là nơi gia chu ngồi uống trà hay chơi cờ tương.*Vê trang tri nghệ thuật kiến trúc:Trang tri nghệ thuật nhà 87 Mã Mây tập trung chinh trên vì vỏ cua hiên khối nhà 2 tầng. Đê tài trang tri là các văn thực vật đươc chạm nổi khối, mêm mại, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Ngoài ra nghệ thuật trang tri còn đươc thê hiện trên diêm mái và hệ thống cửa bức bàn.Đây là di tich kiến trúc dân dụng nên các hiện vật co trong di tich là đồ gia dụng trong ngôi nhà, đặc biệt là các hoành phi câu đối ở gian thờ và các đồ nội thât bằng gỗ lim.Thưa quy khách, ngôi nhà mang trong mình giá trị lịch sử, văn hoa nghệ thuật to lơn. Vê lịch

8

Page 9: Bài thuyết minh city tour hà nội

sử, no đánh dâu sự hình thành lịch sử kiến trúc cua khu Phố cổ Hà Nội. Xét vê không gian đo thị và quần thê kiến trúc, ngôi nhà 87 Mã Mây co bố cục không gian đặc trưng cho kiến trúc nhà ở kiêm bán hàng đươc xây dựng đầu thế kỷ XIX. Vơi kiêu nhà bám theo mặt phố đê tiện lơi cho việc buôn bán, bố cục là nhà hình ống, chia thành nhiêu lơp nhà co chức năng sử dụng khác nhau và đươc thông gio và lây sáng tự nhiên bằng các sân trời. Mặt tiên đươc trang tri bằng các con tiện gỗ và các chi tiết kiến trúc đặc trưng cua nhà ở thời kỳ bây giờ như cửa lùa gỗ, cửa tâm, tường hồi xây giật tam câp, trụ đâu mái xây bằng gạch, chi tiết trang tri diêm mái, v.v... Cùng vơi nhà số 87, các ngôi nhà khác đươc xây dựng vơi câu trúc không gian cua nhà hình ống trong phố Mã Mây đã tạo nên một quần thê kiến trúc độc đáo cho không gian kiến trúc cuả phố cổ Hà Nội. Vê ky thuật xây dựng, no đã thê hiện đươc ky thuật và nghệ thuật xây dựng nhà truyên thống Phố cổ Hà Nội. Đo là nghệ thuật xây dựng cổ truyên vơi các hệ vì kèo gỗ trang tri trạm khăc, ky thuật xây tường gạch chịu lực, hệ thống sàn vỉa gạch trên dầm gỗ (lát sàn gạch trên dầm gỗ). Co thê noi, giá trị vê phương pháp xây dựng ở giai đoạn lịch sử này đã đươc gìn giữ cùng vơi hình thức kiến trúc đã đươc sáng tạo ra trên cốt cách cua ky thuật truyên thống đã đươc sử dụng.Như quy khách đã thây, hiện nay ngôi nhà là nơi tham quan giơi thiệu kiến trúc truyên thống Phố cổ Hà Nội. Năm 1999, triên lãm giơi thiệu vê kiến trúc- văn hoa- xã hội cua thành phố Toulouse (CH Pháp). Năm 2000, tổ chức triễn lãm “Hà Nội xưa và nay” do Bộ Văn hoa tổ chức kết hơp vơi Ban quản ly Phố cổ Hà Nội. Đây là nơi thường xuyên tổ chức các cuộc triên lãm vê kiến trúc, văn hoá cũng như các cuộc hội thảo nhỏ trong nươc và nươc ngoài.Bây giờ xin mời quy khách tự do thăm quan ngôi nhà, và chụp những bức ảnh lưu niệm. Sau 15’, chúng ta se ra xe xich lô, dạo vòng quanh khu phố cổ và ra điêm đỗ ô tô tiếp tục chuyến thăm quan

III. Thành Cổ Hà Nội

1. Giơi thiệu chungXin kinh chào các vị khách qui. Tôi là hương dẫn viên Nguyễn Thanh Tú,tôi rât vinh dự đươc là người đồng hành cùng qui khách ngày hôm nay. Vâng,qui khách đã đươc tham quan, thưởng ngoạn ve đep rât thơ mộng cua Hồ Gươm, cũng như phần nào hiêu đươc giá trị văn hoa lịch sử lâu đời qua các di tich. Người Hà Nội co câu:“Dù co đi bốn phương trời, lòng vẫn nhơ vê Hà Nội. Hà Nội cua ta,thu đô yêu dâu,một thời đạn bom,1thời hòa bình”Hà Nội đep không chỉ bởi cành mà Hà Nội còn mang trong mình những câu chuyện lịch sử. Và đê qui khách hiêu rõ hơn vê 1 thời kỳ vàng son cua Kinh thành xưa kia, chúng ta sẽ cùng đến thăm Hoàng Thành Thăng Long. Chút nữa đây thôi, tôi sẽ giơi thiệu cho qui khách vê Hoàng Thành.Còn bây giờ, chúng ta,cùng ngăm lại Hồ Gươm trong 1buổi sáng đep trời như ngày hôm nay. Bên tay phải cua qui vị là ANZ Bank, nếu qui vị nào co nhu cầu giao dịch tiên tệ,thì đây là một địa chỉ cho qui vị. Chúng ta sẽ đi khoảng 2 con phố nữa là sẽ tơi Hoàng Thành…Qui vị đã đươc biết,Hà Nội là những dâu ân vàng son, chinh vì vậy 1nhà thơ nổi tiếng cua chúng tôi đã viết:“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảoNên cũ lâu đài bong tịch dương”Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia,suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe cua các ông hoàng bà chúa hay những xe tứ mã cua các vương công quốc thich. Trên đât Thăng Long đã từng toạ lạc một toà Hoàng thành hoa lệ,vơi những cung điện nguy nga,những lầu son gác tia,những bệ ngọc hành cung huy hoàng . Theo tài liệu lịch sử thì mùa thu năm 1010, Ly Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư vê Đại La và đổi tên là Thăng Long, đồng thời cho xây một kinh thành tại đây. Thành Thăng Long co câu trúc tam trùng thành quách, bao gồm 3 lơp: Lơp ngoài cùng co tên là Kinh thành, đươc đăp bằng đât, là nơi dân cư sinh sống vơi các ngành nghê thu công và hoạt động thương nghiệp và còn là nơi bảo vệ vành ngoài.Tiếp theo là Hoàng thành hay khu triêu chinh. Đây là nơi ở và làm việc cua các quan lại cao câp trong triêu đình. Lơp cuối cùng là Tử Câm thành - nơi dành cho vua, hoàng hậu và cung tần my nữ ở. Tử Câm thành co nhiêu tên gọi khác nhau qua các triêu đại: Cung thành (thời nhà Ly), Long Phương thành (thời nhà Trần) và Câm thành (thời nhà Hậu Lê).

9

Page 10: Bài thuyết minh city tour hà nội

Hai lơp tường thành bên trong đươc xây bằng gạch. Các tường thành liên hệ vơi nhau bằng các cửa ô. Tử Câm thành nối vơi Hoàng thành duy nhât bằng cửa Đoan Môn. Hoàng thành nối vơi Kinh thành bằng rât nhiêu cửa, nhưng hiện nay chỉ còn lại cửa Băc Môn. Ô Quan chưởng là cửa ô còn sot lại hiện nay thuộc mạng lươi các cửa ô liên hệ giữa Kinh thành và Hoàng thành.Trải qua 8 thế kỷ, toà thành đã trở thành trung tâm chinh trị và đô thị phồn thịnh nhât Ðại Việt. Cuối triêu Ly, hoàng cung Thăng Long bị đốt cháy. Tơi triêu Trần, thành Thăng Long đươc xây dựng lại nhưng rồi lại bị lũ xâm lươc Nguyên - Mông dày xéo, tàn phá. Sau khi đánh đuổi giặc Minh năm 1428, Lê Thái Tổ cho xây dựng lại Thăng Long và đổi tên là Ðông Ðô rồi Ðông Kinh... Tât nhiên,qua bao cuộc chiến tranh và cuối cùng là sự phá hoại cua thực dân Pháp, toà thành cổ kinh mang tên Thăng Long - Hà Nội không còn nguyên ven như ngày xưa nữa,những những di tich hiện tại mà chúng ta lát nữa sẽ tham quan,cũng đu đê chứng tỏ đo là một trung tâm quyên lực chinh trị cổ, đong vai trò quan trọng bậc nhât trong quá trình trao đổi những giá trị nhân loại.Vâng,kinh thưa qui khách,chúng ta đang đứng trươc di tich Đoan Môn. Ngay bây giờ qui khách sẽ băt đầu tham quan cụm di tich Thành cổ Hà Nội.2. Cột cờ Hà Nội – Đoan Môn – Điện Kinh Thiên- Hậu Lâu• Kỳ ĐàiĐiêm tham quan đầu tiên thuộc cụm di tich Thành cổ Hà nội sẽ là Kì Đài hay còn gọi là Cột cờ Hà Nội. Xưa kia, Cột Cờ và Cửa Băc đươc coi như vị tri đánh dâu điêm đầu và điêm cuối cua trục chinh tâm, trục thần đạo, trục thiêng không chỉ cua thành Hà Nội mà còn cua câm thành Thăng Long xưa. Ngày nay, cột cờ Hà Nôi nằm ở đường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, trong khuôn viên bảo tàng lịch sử Quân Sự. Sử sách kê lại rằng, sau khi lên ngôi, vua Ly Thái Tổ cho xây thành Thăng Long trên vị tri cua thành Đại la. Đến năm 1805, sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn và lên ngôi, mở đầu nhà Nguyễn, vua Gia Long cho xây dựng kinh đô ở Huế, phá bỏ thành Thăng Long và cho xây dựng lại theo kiến trúc Vauban cua Pháp. Vơi kiến trúc này, thành đươc xây co nhiêu goc tạo thành Pháo đài ( hỏa lâu ) liên kết vơi nhau. Trên noc các cổng thành co lầu canh ( thú lâu ) do một số cơ binh thay nhau canh gác ngày đêm. Năm 1812, vua Gia Long cho xây Kỳ Đài. Hiện nay, dươi chân Kỳ Đài co trưng bày các khẩu pháo thuộc thế kỷ XIX.Cột cờ Hà Nội xây dựng năm 1805, là một trong 3 cột cờ cua nươc ta đươc xây dựng từ thế kỷ 19 (Hà Nội, Huế, Gia Định) nhưng nay cột cờ thành Gia Định đã bị mât tich, chỉ còn cột cờ Hà Nội và Huế. Cột cờ Hà Nội từng chứng kiến cuộc đâu tranh anh dũng cua quân ta chống thực dân Pháp vơi sự kiện tử tiết cua Nguyễn Tri Phương (1800-1873) và sự tuẫn tiết cua Hoàng Diệu (1820-1882).Sau cách mạng, Cột Cờ đươc xây dựng vào năm 1812, đời Vua Gia Long. Đây là công trình cao nhât ở Hà Nội thời bây giờ. Năm 1882, sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, quân đội Pháp đã xây thêm một cái chop mái ở trên đỉnh, biến phần nở rộng thành một căn phòng làm trạm thu phát đê liên lạc truyên tin đến các tòa thành lân cận như Băc Ninh (cách 30km), Sơn Tây (cách 40km).Kì đài cao hơn 40m, gồm ba tầng đế vuông và một thân cột. Các tầng đế co dạng hình chop cụt chồng lên nhau, nhỏ dần, xung quanh xây ốp gạch. Tầng thứ nhât co cạnh 42,5m; co hai cầu thang gạch dẫn lên. Tầng thứ hai co cạnh 27m; cao 3,7m. Tầng thứ ba co cạnh 12,8m; cao 8,1m. kyd đài bao gồm bốn cửa : - Cửa hương Đông trên co đăp hai chữ: “ Nghênh Húc ” ( Đon ánh năng ban mai).- Cửa hương Tây: “ Hồi Quang ” ( Ánh năng phản chiếu ).- Cửa phia nam: “ Hương Minh ” ( Hương vê ánh sáng ).- Cửa Băc không đê chữ và co hai khẩu đại bác hai bênTrên đế thứ ba là thân trụ hình bát giác , trên cùng là lầu noc co căm cột cờ. Trong thân trụ co cầu thang vơi 54 bậc xoáy trôn ốc lên tơi đỉnh. Đê tạo sự thông thoáng và cho ánh sáng mặt trời lọt vào, mỗi mặt trên thân cột cờ co đến 4-5 ô hình hoa thị, vị tri cao nhât mỗi mặt co 1 ô hình rẽ quạt. lầu noc là mổt trụ bát giác, co nhiêu ô cửa quan sát theo tám hương. Trên đỉnh lầu noc co chỗ căm trụ treo cờ. Nếu tinh luôn cả trụ treo cờ thì Kỳ Đài cao trên 41m.

10

Page 11: Bài thuyết minh city tour hà nội

Tháng 8-1945, trên cột đã phâp phơi lá cờ đỏ sao vàng. Sau kháng chiến chống Pháp (1954) đến nay, cờ đỏ sao vàng hiên ngang tung bay trên cột cờ. Thực tế, lịch sử 1000 năm HN trải qua các cuộc chiến tranh nên các công trình bị phá hoại rât nhiêu, di tich kiến trúc xưa còn lại rât it. Ngày 10/10/1954, quân đội ta vê tiếp quản thu đô, tại đây, vào lúc 3 giờ chiêu đã tổ chức lễ chào cờ hết sức trọng thê, vơi sự tham gia cua các đơn vị quân đội tiếp quản, cùng hàng vạn nhân dân thu đô và đồng bào ngoại thành. Nhìn phia sau kỳ đài vê hương Băc là Đoan Môn. Từ sau ngày giải phong thu đô đến nay, Kỳ đài đươc trùng tu hai lần, vào tháng 12/1959 và tháng 11/1989.• Đoan MônTiếp đến , xin mời quy khách tiếp tục cuộc hành trình thăm cụm di tich Hoàng thành Thăng Long sáng nay vơi điêm di tich Đoan Môn- Một trong năm di tich còn lại cua thành Hà Nội, nằm trên đường Hoàng Diệu, quận Ba Đình.Tên gọi Đoan Môn đươc sử dụng phổ biến trong sách sử xưa nay. Dựa theo kiến trúc mở 5 cửa ra vào, một số tư liệu thời hậu Lê và thời Nguyễn còn ghi là cửa Nghi Môn. Cửa Đoan Môn dành riêng đê nhà vua qua lại. Trong quy hoạch tổng thê, kinh thành Thăng Long gồm ba vòng thành: La Thành rộng lơn bao quanh phia ngoài, tiép đến là Hòang Thành, trong cùng là Câm Thành nơi ở cua Hoàng Đế. Đoan Môn là lần cửa trong cùng dẫn vào cung vua. Đoan Môn theo chinh sử ở triêu Nguyễn đã khẳng định là di tich co từ thời Ly. Một số học giả Hà Nội cũng cho rằng Hai chữ Hán "Đoan Môn" khăc trên biên đá trươc cửa Đoan Môn co từ thời Ly. Ở thời Lê Trung hưng, cửa Đoan Môn đựoc ghi chép nhiêu vơi cả hai tên gọi: Đoan Môn và Ngũ Môn. Căn cứ vào vật liệu xây dựng và kiến trúc hiện còn cua di tich, co thê khẳng định di tich Đoan Môn đựoc xây dựng từ đầu thời Lê và đươc tu bổ, sưa sang ở thời Nguyễn. Đoan Môn hiện còn tương đối nguyên ven. Di tich nằm ở hương nam cua điện Kinh Thiên, thẳng trục vơi Cột cờ Hà Nội. Đoan Môn đươc xây dựng theo chiêu ngang, vật liệu chu yếu là gạch vồ, loại gạch phổ biến cua thời Lê(Thế kỷ XV) và đá cuốn vòm cửa. Kiến trúc chinh cua Đoan Môn là kiêu vọng lâu, vơi ba cửa vòm cuốn. Cửa giữa lơn nhât giành riêng cho nhà vua, hai bên co bốn cửa nhỏ hơn đê các quan và hoàng thân quốc thich ra vào cung câm, khi co lệnh vời hoặc tham dự các nghi lễ lơn tại điện Kinh Thiên do hoàng đế tiến hành… Đoan Môn là một kiến trúc rât quan trọng cua kinh thành thuộc thời Ly-Trần-Lê, cả thành Hà Nội và cả khi chỉ còn là một vị tri cua tỉnh thành. Trải qua hơn 1000 năm, nhiêu triêu đại thay đổi, bao phen bị tàn phá nhưng Đoan Môn luôn đươc tu sửa, xây dựng vê thế, nguy nga, bao giờ cũng xứng vơi vị thế quan trọng cua mình. Khảo cổ học xác nhận rằng tìm thây Đoan Môn là tìm thây phần trung tâm cua cả một đô thành.Theo các nhà khoa học, căn cứ vào di tich còn lại tơi nay, căn cứ vào bản đồ Hồng Đức vẽ năm 1490 và những bản đồ vẽ lại sau đo, co thê hiêu rằng Đoan Môn là cửa mở ở phia nam Hoàng thành, là cửa chinh cua Hoàng Thành và cũng là nơi diễn ra nhiêu sự kiện Quốc gia quan trọng.Ngoài những việc hòang đế ra khỏi Hoàng thành thì co kiệu, nghị trương , bảo vệ rât chu đáo và long trọng đi theo đường ngự đạo ra cửa giữa Đoan môn, nhiêu sự kiện quan trọng cũng đi qua đường ngự đạo đê vào trươc thêm rồng cử hành các nghi thức quan trọng.Đoan môn cũng là cửa đê đon người vào hành danh Tiến si. Đoan Môn đã đươc thành phố Hà Nội trùng tu lơn nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội. Hơn thế việc trùng tu Đoan Môn kịp mở cửa cùng các di tich Hậu Lâu, Băc Môn phục vụ khách thăm quan trong và ngoài

• Điện Kinh ThiênSau khi chiêm ngưỡng nét cổ kinh và ve đep kiến trúc cua Kỳ đài và Băc Môn, bây giờ xin kinh mời Quy khách theo tôi, chúng ta sẽ tiếp tục chuyến tham quan vào buổi sáng ngày hôm nay bằng việc đi vào trung tâm cua Hoàng thành, thăm nên điện Kinh Thiên, là một trong những điện trung tâm và lơn bậc nhât cua Kinh thành Thăng Long buổi xưa.Từ cổng Đoan Môn, đi theo con đường gạch đá hoa chanh, sẽ dẫn chúng ta đến nên điện Kinh Thiên. Trong quá khứ, điện Kinh Thiên đươc xây dựng tại vị tri trung tâm cua thành Thăng Long, là cung điện uy nghi, tráng lệ và quan trọng bậc nhât cua thành Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội xưa.

11

Page 12: Bài thuyết minh city tour hà nội

Hiện tại, chúng ta đang đứng trươc nên điện Kinh Thiên, tôi sẽ trình bày qua một vài nét vê lịch sử cua cung điện nguy nga bậc nhât trong quá khứ này.Vào năm 1010, Ly Coong Uẩn cho xây dựng điện Càn Nguyên trên núi Nùng, là nơi hội tụ khi thiêng cua đât trời làm nơi thiết triêu. Tương truyên rằng, ở dươi ngọn núi này co một lỗ thông vơi một cái đầm , nên núi này co tên “ Long đỗ ” ( Rốn rồng ). Nhưng đến năm 1017, điện Càn Nguyên bị sét đánh làm cho hư hại.Đến năm 1028, vua Ly Thánh Tông cho xây dựng lại các cung điện trung tâm trên nên cũ, co mở rộng thêm và đổi tên “ Thiên An ”. Vê sau điện Thiên An lại đổi thành điện Phụng Thiên.Đầu triêu Trần, trên khu đât điện Phụng Thiên, vua Trần cho xây các điện Thiên An, Bát Giác và Diên Hiên. Ba điện này là nơi vua làm việc, thiết triêu và thiết yến bá quan văn võ.Cuối thời Trần và thời Hồ, do những biến động chinh trị, do giặc ngoại xâm, những cung điện trên đêu bị phá huy.Đến thời Lê, vua Lê Thái Tổ ( 1428 – 1433 ) đã cho dựng điện Kinh Thiên, điện Càn Chánh, Tả Điện, Hữu Điện và điện Vạn Thọ trên nên điện Càn Nguyên – Thiên An – Phụng Thiên thời Ly – Trần. Điện Kinh Thiên ở giữa Hoàng thành, phia trươc co long trì dẫn tơi Đoan Môn.1465, Vua Lê Thánh Tông cho mở rộng quy mô, tu sửa điện Kinh Thiên tráng lệ, uy nghi hơn và làm thêm đôi rồng đá chạm trổ tinh xảo ở hai bên bậc cầu thang lên xuống cua cung điện. Rồng đá điện Kinh Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biêu cho nghệ thuât điêu khăc thời Lê sơ.Hai con rồng mang phong cách rồng triêu Lê, co ảnh hưởng phong cách Trung Hoa : Măt lồi, miệng rộng, sừng nai hai chạc, tai thú, cổ răn, vẩy cá chép, chân co 5 mong, bờm lươn ra sau,miệng ngậm hạt ngọc.Thân rồng uốn lươn mêm mại thành nhiêu vòng cung, nhỏ dần vê phia nên điện, trên lưng co đường vây dài nhâp nhô như vân mây, tia lửa. Hai bậc ở hai bên thêm điện là hai khối đá chạy dài , chinh là hai con rồng đươc cách điệu hoa. Nên điện Kinh Thiên và đôi rồng chầu đã phần nào phản ánh đươc quy mô hoành tráng cua điện Kinh Thiên xưa.Thông qua tâm ảnh cua Thực dân Pháp chụp vào cuối thế kỷ XIX, chúng ta co thê nhận thây rằng , Điện Kinh Thiên là một công trình co phân lơn kiến trúc bằng gỗ và co ảnh hưởng bởi yếu tố trung Quốc, xây theo hình chữ Nhị, hai tầng và tám mái. Ở trên đỉnh mái, co hai đôi “ Rồng chầu nguyệt ”, xung quanh đươc bao bọc bởi hàng rào bằng gạch và những sân lơn.Theo nguồn Tài liệu, khi xem bức ảnh trong cuốn “ Một chiến dịch ở Băc Kỳ ” cua Hocquard, co thê thây rằng kiến trúc điện Kinh Thiên co nhiêu nét giống vơi kiến trúc điện Thái Hòa ở Kinh thành Huế. Tuy nhiên, điện Kinh Thiên co năm gian, 2 chái trong khi điện Thái Hòa co bảy gian, hai chái.Năm 1886, thực dân Pháp đã phá bỏ điện Kinh Thiên chỉ còn lại nên điện cùng đôi rồng đá và xây dựng tòa nhà hai tầng , bảy gian làm Sở chỉ huy Pháo binh.Sau tháng 10/1954, khu vực điện Kinh Thiên, nhà con Rồng noi riêng và Thành cổ Hà Nội noi chung là nơi làm việc cua Bộ Quốc Phòng. Những di tich cổ đươc bảo vệ, giữ gìn, tôn tạo. • Hậu Lâu Lầu Tinh Băc (Tinh Băc lâu) là một toà lầu xây phia sau cụm kiến trúc điện Kinh Thiên là hành cung cua thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phia băc, xây vơi y đồ phong thuỷ giữ yên bình phia băc hành cung, nên mơi co tên là Tinh Băc lâu và còn co tên là Hậu lâu (lầu phia sau), hoặc là lầu Công chúa do cho rằng đây là nơi nghỉ ngơi cua các cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự giá Băc thành.3. Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu-"Nơi trung tâm cua trung tâm"Di tich này bao gồm tầng dươi cùng là một phần bên phia đông cua thành Đại La dươi thời Cao Biên, nhà Đường, tầng trên là cung điện nhà Ly và nhà Trần, tiếp theo là một phần trung tâm cua đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần cua trung tâm tòa thành tỉnh Hà Nội thế kỷ 19.Giáo sư Nguyễn Thừa Hỷ noi riêng vê bê mặt Ly-Trần ở tầng hai co rât nhiêu hiện vật đươc phát hiện, như những nên cung điện, co kich thươc một chiêu hơn 60 mét, chiêu kia 27 mét. Co 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. "Co tương rồng, phương mà đươc các nhà nghiên cứu my thuật khẳng định là mô tip hoa văn thời Ly. Rồi đến những tầng lơp bên trên, thời Lê, Nguyễn đêu tìm đươc nhiêu hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. "Khi tiến hành khai quật ở hố B16 (400m2) thuộc địa điêm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mơi, nhà khảo cổ học Bùi Vinh (Viện khảo cổ học) đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4

12

Page 13: Bài thuyết minh city tour hà nội

mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tich xâp xỉ 1000m2 (hai chiêu ngang dọc, mỗi chiêu dài trên 30m) thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa.Theo đánh giá cua ông Bùi Vinh thì đây là công trình đầu tiên, co tầm cỡ và giá trị nhât đươc tìm thây từ trươc đến nay ở VN.Việc phát hiện ra lâu đài này đươc coi là bằng chứng rõ ràng nhât vê sự hoành tráng cua kinh thành Thăng Long từ thời Ly-Trần.Mặc dù trươc đây các nhà khảo cổ đã đoán định đươc di chỉ này nằm trong khu vực hoàng thành, thậm chi là câm thành Thăng Long suốt từ thời Ly, Trần đến Lê nhưng do tiến hành khai quật quá nhanh khiến cho nhiêu tầng lơp kiến trúc không thê hiện rõ.Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10, A11, A12, A13 trong các lơp đât ở độ sâu trung bình trên dươi – 1, 50m so vơi “cốt” cao độ cua mặt bậc thêm đá Đoan Môn, (đươc lây làm “cốt” chuẩn 0. 00 cho cả khu vực khai quật) xuât lộ những ô sỏi trộn lẫn đât sét. Sỏi ở đây khá thống nhât vê kich thươc, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn đầu ngon chân cái, chứng tỏ đã đươc chọn lọc. Hiện vật thu đươc trong các lơp đât này đươc xác định co niên đại thời Ly. Các ô sỏi này thường co hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1, 30m và ăn sâu xuống các lơp dươi, dày trên dươi 1, 00m. Điêu này chứng tỏ đây là các hố đào co chu đich đê đầm - nhồi sỏi cuộn vơi đât sét. Đáy cua các hố sỏi này nằm trong lơp đât chứa các hiện vật đươc xác định co niên đại Đinh - Tiên Lê.Các ô sỏi noi trên xuât hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng co tât cả 40 ô sỏi, xếp thành 04 hàng dọc (hai hàng phia đông co 10 ô trong một hàng, hai hàng phia tây mỗi hàng chỉ co 09 ô). Co lẽ đây chinh lá các hố sỏi gia cố dươi các chân tảng đá kê dươi chân các cột. Noi chinh xác, theo ngôn ngữ kiến trúc – xây dựng, đo là các mong trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định đây là phế tich cua một kiến trúc co bộ khung chịu lực bằng gỗ co 04 hàng chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân vơi các cột Cái là khoảng 3, 00m. Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6, 00m. Từ Băc xuống Nam đã xác định đươc 10 vì, nghia là it nhât kiến trúc này co 09 gian. Tuy nhiên, chưa thê khẳng định vê số gian bởi dâu vết cua kiến trúc này còn phát triên kéo dài vê phia Băc, ngoài khu vực khai quật.Bươc gian (khoảng cách giữa hai vì) cua kiến trúc này rât lơn, khoảng 5, 80m – 6, 00m. Trên thực tế, bươc gian cua các di tich kiến trúc bằng gỗ cổ truyên hiện còn đứng vững trên mặt đât thường nhỏ hơn. Tuy nhiên, theo PGS. Trần Lâm Biên hai di tich chùa Thầy (Hà Tây) và đên Lê (Thanh Hoá) cũng co bươc gian 6, 00m.Chưa ly giải đươc nguyên nhân cua sự chênh lệch vê số lương các mong trụ cua các hàng mong trụ phia Tây nhưng ở đây chăc chăn đã co 04 mong trụ sỏi gia cố cho 01 chân tảng cột Cái và 03 chân tảng cột Quân. Khoảng cách giữa hai hàng mong trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4, 1m chứng tỏ đây chinh là không gian cua chái phia Nam.Cách tim cua các mong trụ gia cố chân tảng cột Quân phia Đông khoảng 4, 5m và chạy dài suốt chiêu rộng cua “toà nhà nhiêu gian” noi trên còn thây xuât lộ một cống thoát nươc đươc xây-xếp bằng gạch (hoàn toàn không thây dâu vết cua chât kết dinh dạng vôi vữa), lòng cống rộng 0, 17m – sâu 0, 20m. Ngoài lơp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên thành cua rãnh thoát nươc này đươc xếp nghiêng hai lơp gạch. Kich thươc trung bình cua gạch ở đây là 0, 36m x 0, 20m x 0, 05m). Vê phia Đông, sát cạnh cống thoát nươc này là một thêm gạch rộng 0, 76m chạy dọc suốt chiêu dài đường cống. Gạch lát thêm là gạch vuông 0, 38m x 0, 38m x 0, 07m. Co chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa.Cách tim cua các mong trụ gia cố chân tảng cột Quân phia tây khoảng 2, 5m cũng xuât lộ một cống thoát nươc khác. Dâu vết cua cống phia tây bị đứt quãng ở goc Tây Nam “toà nhà nhiêu gian”, khu vực bị mât 04 mong trụ gia cố chân tảng. Gạch xây-xếp cống thoát nươc này là loại chuyên dụng, đươc sản xuât chỉ đê dùng làm cống-rãnh. Các viên dùng lát đáy co mặt căt hình thang cân (cạnh ngăn 0, 16m - cạnh dài 0, 22m - dầy 0, 08). Những viên dựng hai bên thành co hình bình hành (cạnh ngăn 0, 07m, cạnh dài 2, 44m). Vơi hình dáng đặc biệt như vậy nên chỉ cần đào rãnh, đặt các viên gạch chuyên dụng này xuống là thành cống (đáy rộng 0, 22m - miệng rộng 0, 32m – sâu 0, 30m).Cách tim cua các hố sỏi gia cố chân tảng cột Quân phia nam khoảng 4, 5m lại cũng xuât lộ một đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng tương tự. Các đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng phia tây và phia nam “toà nhà nhiêu gian” nếu còn nguyên ven sẽ “băt” vuông goc chái Tây Nam.

13

Page 14: Bài thuyết minh city tour hà nội

Các đường cống này chinh là các rãnh thoát nươc mưa cua “toà nhà nhiêu gian”. Các cống này đêu không co năp đê co thê hứng nươc mưa rơi thẳng xuống từ hàng ngoi lơp cuối cùng cua mái (dân gian thường gọi là giọt gianh). Nghia là các rãnh thoát nươc mưa này chinh là giơi hạn cua mặt bằng mái. Noi cách khác, số đo giữa các rãnh thoát nươc này cho biết vê chiêu rộng và chiêu dài cua công trình kiến trúc. Khoảng cách từ tim rãnh thoát nươc phia Tây đến tim rãnh thoát nươc phia Đông là 17, 65m. Đo chinh là kich thươc chiêu rộng cua “toà nhà nhiêu gian” này. Chiêu dài cua kiến trúc này hiện chưa khẳng định đươc. Nhưng nếu giả định “toà nhà nhiêu gian” co 09 gian thì kich thươc này sẽ là khoảng 67m.Theo số đo, phế tich này cho thây một công trình kiến trúc to lơn theo đúng nghia đen. Tuy nhiên chưa thê xác định công năng cua kiến trúc này. Chỉ biết rằng “toà nhà nhiêu gian” này chạy dài theo trục Băc – Nam, mở cửa ra cả hai hương Đông và Tây.Vê phia Tây cua toà nhà nhiêu gian, cách tim các mong trụ sỏi gia cố hàng chân tảng cột Quân phia tây 4, 90m, đã tìm thây những mong trụ gia cố chân tảng khác. Vật liệu gia cố co phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như sỏi ở các hố đã nêu trên) còn co cả ngoi vỡ vụn, đươc nhồi đầm theo chu kỳ 1 lơp sỏi lại 1 lơp ngoi vụn. Hình dạng cua các hố đào cũng khác, co hố tròn (đường kinh từ 1, 10m đến 1, 30m), co hố vuông (1, 20m x 1, 20m). Bố cục cua các mong trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ mong tròn quây quanh một số trụ mong ở chinh giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim cua các mong trụ tròn (làm thành một hình lục giác gần đêu) là khoảng 1, 30m. Tim mong trụ vuông trùng vơi tâm cua đường tròn ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các mong trụ tròn một khoảng 1, 30mCác cụm mong trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phia tây cua toà nhà nhiêu gian. Khoảng cách giữa các cụm (đếm đươc tât cả 11 cụm), không thật đêu, xê xich từ 8, 00m đến 12, 00m. Theo các nhà khảo cổ, một cụm mong trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tich cua một kiêu lầu lục giác nhỏ, đươc dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn.Theo GS. Trần Quốc Vương, Việt Sử lươc co ghi nhận vê loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà đình. Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuât lộ nhiêu mong trụ sỏi.Ngay gần chái phia Nam cua toà nhà nhiêu gian thuộc phạm vi hố A19 co một số mong chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định đươc thật rõ ràng vê kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phia Băc hố A20 xuât lộ hai hàng mong trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 mong trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3, 40m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc co hương chạy dài theo trục Đông - Tây (vuông goc vơi toà nhà nhiêu gian). Số đo bươc gian đo đươc cua kiến trúc này theo chiêu từ Đông sang Tây là: 3, 30m - 5, 45m - 5, 30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định đươc vì một số mong trụ sỏi đã bị mât và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài vê phia Đông, ra ngoài khu vực khai quật. Các nhà khảo cổ cho rằng đây co lẽ là phế tich cua một toà nhà co 3 gian hai chái.Ở phia Nam hố A20 đã xuât lộ một cụm phế tich rõ ràng hơn.Khác vơi các phế tich vừa mô tả, cụm phế tich này còn cả chân tảng đá đặt nguyên vị tri (in situ) trên hố gia cố. Thực tế này đã khẳng định chinh xác vê công năng cua các hố sỏi. Hố gia cố chân tảng ở đây hình vuông (1, 30m x 1, 30m). Vật liệu gia cố hỗn hơp cả sỏi nhỏ, gạch, đá vụn. Tât cả còn 09 chân tảng, xếp hành 04 hàng. Theo trục Đông - Tây, các chân tảng cách đêu nhau một khoảng 5, 75m.Các chân tảng đêu đươc làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Ly. Đường kinh trong cua vành hoa sen này là 0, 49m. Trên mặt nhiêu chân tảng còn rât rõ dâu vết cho biết cột gỗ dựng trên đo co đường kinh 0, 43m. Tuy nhiên ở vị tri sẽ đặt xà ngưỡng, mặt tảng đê trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây) một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0, 38m x 0, 15m x 0, 11m) cua hàng gạch đỡ dươi xà ngưỡng. Vơi dâu vết cua các xà ngưỡng này cho thây co lẽ đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây. Đặc biệt, cụm phế tich này còn giữ nguyên ven một số đoạn thêm hiên lát gạch ở phia ngoài xà ngưỡng, rộng trên dươi 1, 00m tinh từ tim chân tảng. Thêm gạch này đươc xây xếp bởi 8 hàng gạch (0, 39m x 0, 20m x 0, 05m) cao hơn mặt sân 0, 36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này đươc lát gạch vuông (0, 38m x 0, 38m x 0, 06m).Theo các nhận định ban đầu cho rằng các phế tich kiến trúc ở phia Băc khu A là cua một tổ hơp kiến trúc co liên quan mật thiết vơi nhau, bao gồm: một tòa nhà nhiêu gian co chiêu rộng 17, 65m, chạy dài it nhât 09 gian (khoảng 67m) và một dãy các lầu lục giác. Điêu đáng

14

Page 15: Bài thuyết minh city tour hà nội

quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rât rõ một số mảng nên lát gạch vuông (0, 38m x 0, 38m x 0, 08m), nối liên từ mép rãnh thoát nươc phia Tây tòa nhà nhiêu gian vơi các lầu lục giác.Chiêu rộng cua nên gạch này đo đươc 2, 60m. Nhiêu viên gạch vuông cua nên gạch noi trên đã đươc căt chéo đê lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39m x 0, 18m x 0, 06m) xây nghiêng bao quanh mặt nên cua lầu lục giác.Căn cứ vào dâu vết cua nên lát gạch vuông này, các nhà khảo cổ nhận định khả năng tòa nhà nhiêu gian và các lầu lục giác co cùng một niên đại khởi dựng.Vê niên đại: Đê định niên đại cho các dâu tich kiến trúc đã xác định ở khu A, các nhà khảo cổ dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hơp, kết hơp vơi việc phân tich địa tầng.Trươc hết các nhà khảo cổ tập trung vào các trụ mong sỏi co chuẩn niên đại tương đối. Như đã trình bày, ở khu A20 còn co 8 trụ mong sỏi còn nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đêu bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đep tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Ly ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)... Chiêu rộng cua nên gạch này đo đươc 2, 60m. Nhiêu viên gạch vuông cua nên gạch noi trên đã đươc căt chéo đê lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39m x 0, 18m x 0, 06m) xây nghiêng bao quanh mặt nên cua lầu lục giác.Đồng thời tại khu vực hố A20 co khá nhiêu các di vật lá đê và gốm sứ thời Ly. Các loại gạch co thêm hiên nhà đêu còn nguyên ven và dáng hình, săc màu đêu giống hệt như các viên gạch xây các tháp Ly vừa dẫn. Từ các dẫn liệu trên đây chúng tôi tin rằng đây là dâu tich kiến trúc cua thời Ly. Niên đại này đươc cung cố khi so sánh mặt bằng cua hai kiến trúc này là tương đương vơi địa tầng chuẩn Ly - Trần ở Đoan Môn đêu ở độ sâu khoảng 2m. Khi đo co các mong trụ co niên đại tương đối ta co thê so sánh tìm hiêu niên đại cua các mong trụ khác. Ta sẽ thây, mong trụ sỏi ở kiến trúc nhiêu gian, ở lầu lục giác giống hệt vê ky thuật, vật liệu, kich thươc vơi các trụ mong sỏi Ly ở khu A20.Vê địa tầng các trụ mong đo cùng độ sâu 1, 80m - 2, 20m vơi các kiến trúc ở A20, tức là đêu nằm trong khoảng niên đại khoảng thời Ly. Hơn nữa xét vê mặt ky thuật xây dựng, các mong trụ ở đây cũng đêu thuộc ky thuật cua thời Ly và thời Trần. Trong thời Ly, ky thuật gia cố sỏi đặc biệt thây rõ ở chùa Lạng (Hưng Yên), tháp Chương Sơn (Nam Định), tháp Phổ Minh (Nam Định).Các trụ mong sỏi ở thời Ly thường đươc gia cố rât chặt chẽ. Điêu này khác vơi các trụ mong sỏi thời muộn hơn (co thê là thời Lê), co gia cố sỏi nhưng sơ sài hơn rât nhiêu và ở độ sâu cao hơn. Noi cách khác các trụ mong sỏi Lê nằm ở mặt bằng cao hơn mặt bằng Ly - Trần. Hơn nữa, như đã noi trên, phu trên mặt bằng cua khu vực cua các trụ mong thời Ly là một lơp di vật co niên đại Ly nên co thế tin rằng hầu hết các trụ mong ở đây đêu thuộc thời Ly.Điêu này còn đươc khẳng định thêm khi phát hiện một hồ nươc cổ hình chữ nhật phia Nam khu kiến trúc nhiêu gian bị lâp đầy vật liệu Ly, Trần. Điêu này chứng tỏ hồ nươc này đã bị lâp trong thời Trần. Hồ nươc này đã phá vào mong kiến trúc lầu lục giác và một phần mong trụ cua 'kiến trúc nhiêu gian. Các nhà khảo cổ cho rằng hồ này đươc đào vào đầu thời Trần và bỏ đi vào khoảng cuối thời Trần. Do đo ta cũng thây các trụ mong sỏi đã xuât lộ ở cùng mặt bằng đêu thuộc thời Ly.

Kiến trúc cổ truyên Việt là các công trình co hệ chịu lực bằng khung gỗ, vơi câu kiện cơ bản là hệ thống cột. Vì vậy, người Việt chỉ chú trọng gia cố nên mà không cần đến mong. Sức nặng cua công trình đươc phân tán qua hệ cột nên chân các cột đá đươc gia cố bằng các chân tảng đá co kich thươc lơn gâp nhiêu lần đường kinh cột.Hiện trạng khảo cổ học (tầng văn hoá, hiện vật) và kết quả khảo sát địa chât khu vực này cho phép khẳng định co một dòng chảy cổ (theo hương Băc - Nam) ở phia Tây các phế tich noi trên. Nên đât tự nhiên chịu tải kém nên các công trình kiến trúc ở đây đêu co hệ thống hố gia cố chân tảng. Đây là một thành tựu, một tiến bộ ky thuật cua người Việt trong xây dựng. Vơi khảo cổ học kiến trúc (hay khảo cổ học đô thị), các phế tich noi trên còn cung câp những hiêu biết mơi, co tinh chât ly thuyết vê việc gia cố chân tảng, vê cách thức xác định kich thươc - quy mô cua một kiến trúc qua các dâu vết cua phế tich. Ky thuật này đã đươc thây ở cố đô Hoa Lư thời Đinh - Lê. Ở ky thuật xây trụ mong đươc thực hiện bằng các mong bè bằng gỗ lim cao 5 lơp kết hơp vơi lơp mong trụ đá ở bên trên. Đến thời Ly và thời Trần, ky thuật này bây giờ xử ly hoàn toàn bằng sỏi và gạch vụn, sành vụn. Mong trụ bằng sỏi thời Ly

15

Page 16: Bài thuyết minh city tour hà nội

và thời Trần co quy mô và chăc chăn nhât trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.Các phế tich kiến trúc ở khu A còn cần đươc nghiên cứu ky hơn. Kiến giải cua các nhà khảo cổ vê một số phế tich chỉ là những nhận định ban đầu. Tuy chưa thê khẳng định vê quy mô và công năng cua tât cả các công trình nhưng rõ ràng các phế tich này cho thây một quần thê kiến trúc toà ngang dãy dọc khá phong phú. Dung mạo cua một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long xưa đã hiên hiện qua dâu vết vật chât chứ không chỉ là hình ảnh cua sách vở, chữ nghia.Cùng những phát hiện quan trọng vê các dâu tich kiến trúc, một số lương lơn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiêu thời kỳ cũng đươc tìm thây. Những khám phá này đã thực sự mở ra một cánh cửa mơi cho việc nghiên cứu vê gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triêu đại.Cửa BăcTên Hán Việt là Băc Môn, là một trong năm cổng cua thành Hà Nội thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành Hà Nội chúng giữ lại cửa Băc vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyên Pháp băn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành Hà Nội lần 2

IV. Quảng trường Ba Đình

Rât vui khi đươc gặp lại quy khách trong chặng tiếp theo cua cuộc hành trình!Kinh thưa quy khách, chúng ta vừa trải qua những giây phút thư giãn trong không gian cua Phở 24. Tôi hi vọng mọi người đã co một bữa trưa ngon miệng khi thưởng thức sự tinh túy cua ẩm thực thu đô.Chúng ta vừa đi qua Hàng Bún, tạm chia tay vơi phố cổ sầm uât đê đến vơi trái tim cua Hà Nội. Con đường mà xe chúng ta đang đi qua là Quán Thánh. Không phải đơn giản mà con đường này co cái tên ây, khu vực này tập trung rât nhiêu đên chùa, những di tich mang đậm tinh tôn giáo Việt. Quán Thánh co nghia là nơi tụ, mảnh đât cua thánh thần. Không thê không nhăc đến đên Quán Thánh- 1 trong Thăng Long tứ trân, cụm di tich Hồ Tây… đã tạo ra 1 thương hiệu du lịch cua Thu đô. Đối vơi người dân Việt Nam, Thu đô Hà Nội không chỉ là trung tâm chinh trị, kinh tế, văn hoa cua cả nươc, mà Hà Nội còn lưu giữ trong mình rât nhiêu di tich lịch sử, di tich văn hoa và cách mạng. Chúng ta đang tiến lại gần vơi Quảng trường Ba Đình, nơi 63 năm trươc đã chứng kiến giờ phút lịch sử trọng đại cua dân tộc ngày Tuyên bố độc lập 2-9-1945, nơi găn liên vơi tên tuổi cua Chu tịch Hồ Chi Minh. Trươc măt chúng ta là Phu Chu Tịch, nơi làm việc cua Chu tịch nươc Cộng hòa xã hội chu nghia Việt Nam. Cuối thế kỷ 19, trong quá trình xâm lươc Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phu toàn quyên Đông Dương; ở các kỳ là Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc; ở các tỉnh là các Công sứ... nhằm phục vụ cho việc cai trị Việt Nam. Sau khi chiếm đươc Hà Nội vào năm 1883, người Pháp đã tiến hành xây dựng thành phố Hà Nội mơi, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, trong đo co trụ sở Phu toàn quyên Đông Dương, phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhât.Phu toàn quyên Đông Dương (co tên tiếng Pháp là Gouvernement Général de L'Indochine) do kiến trúc sư Ch. Lichtenfelder thiết kế và đươc xây dựng trong những năm 1901-1906 vơi quy mô hoành tráng, uy nghiêm và quyên lực. Co nguồn cho biết người phụ trách xây dựng phu là Auguste Henri Vildieu.Năm 1954, Việt Nam đánh bại Pháp tại chiến dịch Điện Biên Phu và chuyên chinh quyên Việt Nam Dân chu Cộng hòa vê Hà Nội. Ngày 3 tháng 10 năm 1945, Chu tịch Hồ Chi Minh đã ky săc lệnh bãi bỏ toàn bộ các cơ quan thuộc Phu Toàn quyên Đông Dương và thiết lập một hệ thống cơ quan phục vụ chinh phu lâm thời Việt Nam tại đây.Tuy nhiên Hồ Chi Minh không sống trong Phu; ông chỉ tiếp khách tại đây và sống trong một nhà sàn bên cạnh hồ nươc gần đo.Hiện nay tòa nhà này là Phu Chu tịch, nơi diễn ra các hoạt động lễ nghi, đối ngoại trọng đại cua Việt Nam. Xung quanh là khu di tich lịch sử; và gần đo co Lăng Hồ Chi Minh, bảo tàng Hồ Chi Minh, chùa Một Cột. Phu không mở tự do cho công chúng, tuy nhiên co thê trả tiên đê vào tham quan khu vườn.Hiện nay Phu Chu tịch co một phần đươc tách riêng, đo là Khu di tich cua Chu tịch Hồ Chi Minh tại Phu Chu tịch, gọi tăt là Khu di tich Phu Chu tịch.Vâng thưa quy khách, chúng ta đang đứng trươc quảng trường Ba Đình lịch sử. Khu vực trươc

16

Page 17: Bài thuyết minh city tour hà nội

lăng là Vườn Hồng, một công viên nhỏ cua người dân thu đô mỗi tối đến xem lễ hạ cờ, nơi đây trồng rât nhiêu hoa đào và hoa hồng, tạo ra một cảnh săc đep cho Lăng Bác suốt bốn mùa trong năm.Mùa thu Tháng Tám cách đây vừa tròn 63 năm, dươi ngọn cờ cua Đảng cộng sản Việt Nam, theo lời kêu gọi cua Chu tịch Hồ Chi Minh toàn dân tộc ta từ Băc chi Nam triệu người như một đã nhât tê đứng lên Tổng khởi nghia giành chinh quyên trong cả nươc. Ngày 19-8-1945, hàng chục vạn người dân Hà Nội sau khi tham dự mit tinh ở Quảng trường Nhà hát Lơn thành phố, đã rầm rập tỏa đi các ngả, chiếm các cơ quan, công sở cua chinh quyên bù nhìn thân Nhật, giành trọn ven chinh quyên vê tay nhân dân. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công trong cả nươc, ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, giữa rừng cờ đỏ sao vàng và giữa rừng người dân Việt Nam vừa mơi thoát khỏi ách nô lệ cua đế quốc, thực dân, Chu tịch Hồ Chi Minh đã thay mặt Chinh phu lâm thời long trọng đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nươc Việt Nam dân chu cộng hòa - Nhà nươc dân chu nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.Thế là từ một khu đât còn trống văng và hoang sơ cua Hà Nội cũ dươi thời Pháp thuộc, sau ngày Tuyên bố độc lập, Quảng trường Ba Đình đã đi vào lịch sử cua dân tộc ta và trở thành nơi khai sinh ra nươc Việt Nam mơi.Quảng trường Ba Đình trươc cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn gọi là Quảng trường Tròn (Rond Point Puginier) hay còn gọi là Quảng trường Puginier - tên một cha cố người Pháp. Đo là một khu đât gồm những bãi đât hoang và hồ ao mơi lâp bằng, rộng hàng chục héc-ta cạnh Phu toàn quyên Pháp. Khu vực Quảng trường Tròn này trong một thời gian dài hầu như chẳng co gì thay đổi cả. Mặc dù đã hai lần co hai kiến trúc sư người Pháp là Hebrat và Cerruti đưa ra kế hoạch tổng thê đê cải tạo và quy hoạch lại Quảng trường Tròn. Và sau đo vào năm 1922, rồi năm 1938, phu Toàn quyên Pháp cũng đã co y định quy hoạch lại Quảng trường Tròn. Song không hiêu vì ly do gì mà các dự án cải tạo Quảng trường Tròn vẫn chỉ nằm trên giây. Tuy vậy, không phải là không co gì thay đổi. Vào năm 1930, người Pháp cũng đã cho xây dựng một công trình ở mé Quảng trường Tròn (đầu đường Cột Cờ ngày nay), đo là Nha Tài chinh và Trươc bạ. Ngôi nhà xây khá đep, đươc thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp Cerruti và do Hãng Aviat thầu và thi công. Người Pháp cũng đã dự kiến làm một công viên lơn thuộc khu đât cua Quảng trường Tròn và đường Hoàng Diệu. Con đường dự kiến đo trên bản đồ mang tên Rue Paul Dounmer (tên một Toàn quyên Pháp ở Đông Dương), sau Cách mạng Tháng Tám đổi thành phố Nguyễn Lâm. Như vậy là trong nửa đầu thế kỷ XX, Quảng trường Tròn này chưa co gì đáng chú y lăm, chung quanh còn co nhiêu bãi rộng đầy cát sỏi, hầu như không co cây cối, là những khoảng đât chờ đươc xây dựng.Cách mạng Tháng Tám thành công, nươc Việt Nam dân chu Cộng hòa ra đời, các tên phố phường và vườn hoa, công viên ở Hà Nội cũng co nhiêu sự thay đổi. Quảng trường Tròn đươc gọi là Vườn hoa Ba Đình. Sở di gọi là Vườn hoa Ba Đình hay Quảng trường Ba Đình là đê tưởng nhơ cuộc khởi nghia chống Pháp cua nhân dân Thanh Hoa cuối thế kỷ XIX do Đinh Công Tráng lãnh đạo. Co phải ngẫu nhiên hay không mà Ban Tổ chức buổi lễ Tuyên bố độc lập và giơi thiệu Chinh phu lâm thời lại chọn Quảng trường Ba Đình, tức là dẫn no đến một sứ mệnh huy hoàng, làm cho no trở thành một trong những địa danh lịch sử quan trọng cua đât nươc? Theo yêu cầu cua Chinh phu lâm thời hồi đo, Ban tổ chức buổi lễ Tuyên bố độc lập (do mây người trong Ban Văn hoa cứu quốc phụ trách - Trưởng ban là Phạm Văn Khoa, kiến trúc sư Ngô Huy Huỳnh và họa si Nguyễn Đinh Hàm) đi tìm một địa điêm rộng đu cho một cuộc mit tinh lơn co thê tập trung đươc mây chục vạn người. Ban đầu những người trong Ban tổ chức định chọn khu Quần Ngựa hoặc Đông Dương học xá, song lại thây no quá xa trung tâm Thành phố. Còn địa điêm trung tâm là Quảng trường Nhà hát Lơn thì lại quá chật chội. Vì vậy cuối cùng, Ban tổ chức đã quyết định chọn Quảng trường Ba Đình, tuy rằng lúc này xung quanh đo còn những địa điêm như Phu Toàn quyên, Thành Hà Nội... vẫn còn những lực lương thù địch chiếm đong. Buổi lễ trọng đại ngày 2-9-1945, giữa Quảng trường Ba Đình, Ban tổ chức đặt một bục gỗ cao, chung quanh quân vải, dán khẩu hiệu, trên bục co cột cờ. Giữa trời năng chang chang tháng tám (ta), khi Chu tịch Hồ Chi Minh lên phát biêu phải co người đứng sau che ô.Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947 - 1954), Phu Toàn quyên Pháp đã đổi tên Vườn hoa Ba Đình thành Vườn hoa Hồng Bàng. Năm 1954, khi bộ đội ta vê tiếp quản Thu đô, Dinh

17

Page 18: Bài thuyết minh city tour hà nội

Toàn quyên cũ cạnh Quảng trường Ba Đình trở thành Phu Chu tịch, Quảng trường Ba Đình là nơi thường xuyên co những cuộc mit tinh lơn trong các ngày kỷ niệm lịch sử, hoặc đê tiếp đon và chào mừng các phái đoàn quốc tế đến thăm Việt Nam. Vài năm sau, phia bên kia cua Quảng trường, Chinh phu ta đã cho xây dựng Hội trường Quốc hội (nay là Hội trường Ba Đình) và cạnh đo sau này là Đài tưởng niệm các liệt sy đã hy sinh vì Tổ quốc.Ngày 2-9-1969 Chu tịch Hồ Chi Minh từ trần, Quảng trường Ba Đình cũng là nơi chứng kiến Lễ truy điệu Người. Sau đo không lâu, Đảng và Nhà nươc ta đã quyết định chọn Quảng trường Ba Đình làm nơi xây Lăng Chu tịch Hồ Chi Minh. Vào năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh cua Người, một công trình kiến trúc lịch sử nữa cũng đươc ra đời bên cạnh Quảng trường Ba Đình, đo là Bảo tàng Hồ Chi Minh. Công trình này cũng gop phần làm cho quần thê kiến trúc khu Lăng thêm hoàn chỉnh. Như vậy là Quảng trường Ba Đình, trươc đo đã co sẵn giá trị là một địa điêm vinh quang, sau hơn nửa thế kỷ đã co thêm Hội trường Ba Đình, Lăng Chu tịch Hồ Chi Minh, Bảo tàng mang tên Người, rồi Đài Tưởng niệm các liệt si cùng nhiêu di tich lịch sử và cách mạng khác đã và đang trở thành một cái tên quen thuộc và thiêng liêng, một niêm tự hào không chỉ cua người dân Thu đô, mà còn là niêm tự hào và vinh quang chung cho nhân dân cả nươc.

V) V¨n MiÕu - Quèc Tö Gi¸m

Kinh thưa quy khách, điêm đến tiếp theo trong chuyến du lịch đầy y nghia “Hà Nội - những dâu ân vàng son” cua chúng ta hôm nay sẽ là Văn Miếu Quốc Tử Giám – Nơi thờ Khổng Tử, trường Đại học đầu tiên cua Việt Nam.Năm 1010, vua Ly Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại la, lập lên kinh đô Thăng Long - đế đô muôn đời. Đê xây dựng quốc gia độc lập, tự chu và hưng thịnh cần phải co hệ thống triết học làm nên tảng, một thê chế tổ chức xã hội vững mạnh và một nên giáo dục tiên tiến đê đào tạo nhân tài cho đât nươc. Đáp ứng nhu cầu đo, nhà Ly đã chọn Nho giáo, một học thuyết chinh trị, đạo đức đã ra đời trươc thời đo hơn 1500 năm, đã gop phần to lơn tạo lập nên nươc Trung Hoa trật tự, kỷ cương vơi nên văn hoá phát triên rực rỡ và đã đươc du nhập vào nươc ta từ lâu.Sự kiện mở đầu cho quá trình lựa chọn đo đươc trịnh trọng ghi trong Đại Việt sử ky toàn thư :“Năm Canh Tuât, niên hiệu Thần Vũ thứ hai (1070) đời Ly Thánh Tông, mùa thu, tháng Tám, dựng Văn Miếu, đăp tương Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tương Thât Thập Nhị hiên, bốn mùa cúng tế. hoàng Thái Tử đến học ở đo”. Năm 1075 mở khoa thi đầu tiên đê chọn nhân tài và năm 1076 vua Ly Nhân Tông đã cho lập Quốc Tử Giám – Ban đầu đây là trường học dành riêng cho con em trong hoàng tộc, con em các vị đại thần quan lại trong triêu đình, sau mơi mở rộng đến đến các tầng lơp nhân dân bên ngoài.Trươc khi vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám, chúng ta hãy cùng dừng lại bên tâm bia nhỏ, tuy nhỏ nhưng no ghi lại một tập tục rât giàu y nghia: “Cả hai tâm bia đêu mang hai chữ “Hạ Mã” và đươc đặt ở trong toà miếu này. Trươc tiên, tâm bia khẳng định: Chỗ này là cột mốc đánh dâu từ đây trở đi chúng ta co địa giơi, co giơi hạn cua một vùng đât thiêng rât đáng quy trọng. Thứ hai, đặt ra một yêu cầu đối vơi mọi người vê việc bày tỏ tâm lòng tôn kinh cua mình vơi nơi thiêng liêng này và sự nê trọng cua mình đối vơi nơi trung tâm cua Hà Nội – Thăng Long nghìn năm văn hiến. “Hạ mã” tức là dù quyên cao chức trọng đến đâu, cao sang đến đâu, khi cưỡi ngựa qua đây thì đêu phải xuống ngựa.Bây giờ, chúng ta hãy cùng vào thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám.Quần thê kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm Hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám. • Hồ VănTrươc mặt Văn Miếu là Hồ Văn vơi diện tich 12.247m2, giữa hồ co gò Kim Châu, trên gò co dựng Phán Thuỷ đường, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ cua nho si kinh thành xưa. Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò hiện còn lại một tâm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn do Hoàng giáp khoa Tân Hơi, bố chánh Hà Nội Lê Hữu Thanh soạn. Sau này, trong thời Pháp thuộc, Tứ Trụ bị chia căt vơi Hồ Văn bởi

18

Page 19: Bài thuyết minh city tour hà nội

phố Quốc Tử Giám chạy ngang, như quy vị đang nhìn thây. Và do điêu kiện thời gian không cho phép, điêm đến chinh cua chúng ta hôm nay sẽ là khu nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám, còn khu Hồ Văn xin đươc hân hạn giơi thiệu tơi quy vị vào một dịp khác.• Khu Văn Miếu – Quốc Tử GiámQuy khách đang đứng trươc “Văn Miếu - Quốc Tử Giám” - Kiến trúc chu thê cua di tich. Chúng ta thường gọi chung chung công trình này là Văn Miếu Quốc Tử Giám, nhưng đây thực chât là hai công trình đươc xây dựng vào hai thời điêm khác nhau. Công trình thứ nhât – Văn Miếu chinh là nơi thờ Văn Tuyên Công hay là Văn Tuyên Vương, chinh là Khổng Tử, đươc Ly Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1070. Ly Thánh Tông là Ly gia đệ tam đế - phụ hoàng cua Ly Nhân Tông (Ly gia đệ tứ đế). Và chinh Ly Nhân Tông là người cho xây công trình thứ 2 – Quốc Tử Giám năm 1076. Do đo chúng ta co một tổ hơp kiến trúc vừa đê thờ Khổng Tử, vừa đê làm trường Đại học đầu tiên cua nên văn hoa và khoa học dân tộc chúng ta. Ghép lại thành Văn Miếu – Quốc Tử Giám.Văn Miếu - Quốc Tử Giám đươc chia làm 5 khu rõ rệt, song liên hoàn vơi nhau theo một tổng thê kiến trúc hài hoà qua trục đường thần đạo nối từ đầu đến cuối khuôn viên. Khuôn viên co chiêu dài 31 thươc, chiêu rộng 46 thươc. Mặt chinh cua công trình quay vê hương Nam theo quan niệm “Thánh nhân Nam diện nhi trị thiên hạ” (bậc Thánh nhân quay mặt vê phương Nam đê cai trị thiên hạ). Khu tiên án là khoảng không gian mở ra phia trươc tạo cho Văn Miếu dáng ve bê thế, uy nghi. Khu này đươc băt đầu bằng tứ trụ (nghi môn) và hai tâm bia Hạ Mã y nghia ở hai bên mà chúng ta vừa thây.Quy khách đang đứng trươc “tứ trụ” - Cổng chinh cua Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Trươc đây tứ trụ nằm soi bong xuống mặt Hồ Văn trong xanh theo quan niệm phong thuỷ Á Đông “âm – dương đối ngẫu” thường đươc thê hiện ở các kiến trúc tôn giáo. Tứ trụ xây bằng gạch, hai cột giữa xây cao hơn, trên co hình hai con nghê chầu vào. Nghê là con vật biêu trưng mang yếu tố huyên thoại, dũng mãnh, thiên biến vạn hoa, tương trưng cho tri tuệ, là biến thê từ sư tử và cho dữ, co sức mạnh như chúa tê muôn loài. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là con vật linh thiêng co khả năng nhận ra ke ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đăp nổi hình bốn con chim phương xoè cánh chăp đuôi vào nhau. “Nghê chầu phương múa” là một môtif trang tri quen thuộc thường đươc thây ở các đình miếu cổ thê hiện sự thiêng liêng và ve hoa my cua di tich quy giá. Những câu đối đê ở Tứ Trụ đêu co y nghia ngơi ca đạo học trong chốn nhân gian:“ Cao vững mây tầng chở chuyên biết bao đạo lyNgong trông vạn thưở nguy nga một trốn học đường”“Đông, tây, nam, băc tư do đạoCông khanh, phu si, xuât xuât thử đồ”Kinh thưa quy khách, qua cổng Tứ Trụ, quy khách đang bươc trên đoạn đầu cua con đường thần đạo - đoạn nối giữa tứ trụ và tam quan.Tam quan Văn Miếu - Quốc Tử Giám cao 2 tầng, 8 mái mở ra ba cửa biêu trưng cho cách nhìn cua nhà Phật vê 3 thế giơi quá khứ - hiện tại - tương lai. Trên cổng Tam Quan co ba chữ đại tự “Văn Miếu Môn”, đỉnh đăp hình “lưỡng long chầu nguyệt” - một motif trang tri rât co y nghia và khá quen thuộc tại các công trình kiến trúc cổ cua Việt Nam. Co rât nhiêu cách giải thich khác nhau cho hình tương nghệ thuật độc đáo này. Rồng là một hình tương co vị tri đặc biệt trong văn hoá, tin ngưỡng cua dân tộc Việt Nam, là linh vật đứng vào hàng bậc nhât trong tứ linh “long, ly, quy, phương”. Rồng tương trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh cua dân tộc, cho uy quyên tuyệt đối cua đâng thiên tử, cua nhà nươc phong kiến, trang tri rồng chỉ dùng ở những nơi trang trọng như cung vua, các công trình lơn cua quốc gia hay các công trình tôn giáo. "Lưỡng long tranh châu" gồm hai con rồng nằm ngang hai bên, ở giữa là "quả cầu lửa" mà theo một số nhà nghiên cứu là “viên ngọc”. Do đo, no còn đươc gọi là "Rồng giỡn hột châu", hoặc là “mặt trời” (nên gọi là lưỡng long chầu nhật), biêu hiện cho sức mạnh vương giả vơi chi khi tranh hùng tranh bá.Bên cạnh đo, hình tròn co ngọn lửa còn đươc giải thich là tương trưng cho sâm sét, nguồn nươc, bản thân rồng cũng găn liên vơi mây mưa, mang đến mùa màng tươi tốt. Và như vậy, lưỡng long chầu nguyệt còn biêu trưng cho tin ngưỡng cầu mưa cua người Việt - những cư dân nông nghiệp.

19

Page 20: Bài thuyết minh city tour hà nội

Điêm đặc biệt trong motif trang tri “lưỡng long chầu nhật” cua người Việt đo là viên ngọc không hoàn toàn chạm vào miệng rồng và rồng không ngậm no. Viên ngọc là biêu trưng cho nhân văn, tri thức và lòng cao thương. Điêu đo cho thây dân tộc ta luôn coi tri thức là vô hạn, những đức tinh tốt đep là điêu luôn phải học hỏi, rèn giũa. Đây là điêm khác biệt đối vơi trang tri rồng - ngọc cua Trung Hoa. Rồng Trung Hoa luôn giữ viên ngọc ở chân thê hiện y muốn làm chu. Đây phần nào thê hiện sự khác biệt giữa hai nên văn hoá. Chinh nhờ ve đep cân đối cùng vơi y nghia sâu xa mà “lưỡng long chầu nhật" trở thành một đê tài trang tri rât phổ biến tại các công trình kiến trúc cổ tại Việt Nam và quy khách sẽ gặp lại no trong nhiêu hạng mục khác cua di tich này.Phia trươc cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai đôi rồng đo là hình tương biêu trưng cho truyên thống tốt đep “uống nươc nhơ nguồn” cua dân tộc ta: Các nho si sau khi học thành tài, ra giúp đời, thành danh, quay trở lại thê hiện lòng tôn kinh, biết ơn đối vơi thầy cua mình.Bên trái cổng tam quan đăp hình “long ngư tụ hội” (cá rồng ẩn hiện trong mây) vi như cảnh thanh vân đăc lộ cua các nho sinh thành tài. Bên phải là cảnh mãnh hổ hạ sơn (hổ lơn hùng dũng xuống núi) ngụ y như những bậc thứ giả vững bươc vào thời cuộc mơi.Hai mặt cổng tam quan đêu đăp nổi câu đối chữ Hán vơi y nghia đê cao kết quả cua sự học trong chốn nhân gian. Co câu mang đại y:

1. Áo mũ xênh xang nhà cửa bá quan như nươc chảyTam quan bê thế học đường bao lơp tựa núi cao2. Đại quốc bât dịch giáo, bât biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tin tư văn nguyên hữu dụngNgô nho yêu sthông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thương tư thánh huân vinh tương đôn(Nươc lơn không thay nên giáo hoá, không biến đổi phong tục màtôn sùng đạo nho và tin tưởng tư văn vốn co ich.Nhà nho phải thông hiêu kinh sách, phải thức thời, không nên câu nệ, cố châp, nghi rằng lời giáo huân cua thánh hiên mãi mãi đươc đê cao).3. Sy phu báo đáp vị hà tai, triêu đình tuyên cựu tri ân, quốc gia sùng thương chi y.Thế đạo duy trì thị thử nhi, lễ nhạc y quan sở tuỵ, thanh danh văn vật sở đô.(Bậc thánh nhân phải báo đáp như thế nào ân tuyên chọn cua triêu đình, y tôn sùng cua quốc gia.Thế đạo phải duy trì như thế đây, phải thây nơi này là lễ nhạc, y quan, là nơi tập trung thanhdanh văn vật).Cổng chinh cua tam quan chỉ đươc mở cho các bậc môn quân đi trong các dịp đại lễ. Các môn sinh và thứ dân chỉ đi bằng hai cửa nhỏ hai bên.Khu nội tự cua Văn Miếu thiêng liêng đươc ngăn cách vơi không gian bên ngoài bằng hệ thống tường gạch vồ vững chãi và chia thành năm lơp không gian khác nhau. Mỗi lơp không gian lại đươc giơi hạn bởi một bức tường gạch chạy hết chiêu ngang và co cửa thông nhau. Năm khu tương ứng vơi ngũ hành (kim – mộc – thuy – hỏa – thổ) theo quan niệm sự phối tác năm yếu tố cơ bản hình thành lên vũ trụ cua triết học phương Đông cổ truyên.Quy khách đang ở lơp không gian đầu tiên giữa tam quan và cửa Đại Trung đươc gọi là “khu nhập đạo”. Nơi đây co hai khuôn hồ lơn ở vị tri như hai ao măt rồng tại các khu đình chùa vùng nông thôn Băc Bộ. Đường thần đạo chinh giữa dẫn vào cửa chinh cua cửa Đại Trung. Song song vơi đường thần đạo là hai lối nhỏ dẫn thẳng đến hai cửa nhỏ nằm hai bên phải và trái cua cửa Đại Trung mang tên cửa Thành Đức và cửa Đạt Tài vơi y nghia sâu xa là đạo học sẽ đào tạo môn sinh thành những con người toàn diện co cả đức và tài, co khả năng đem tài đức ra thi thố trong xã hội đê phục vụ triêu đình và chúng dân muôn nhà. Trong năm lơp không gian cua khu Văn Miếu Quốc Tử Giám, không gian khu nhập đạo mà quy khách đang đứng đây co cảnh quan môi trường tươi đep và thoáng đạt nhât. Bao gồm một hệ thống cây cổ thụ co tuổi đời vài trăm năm tuổi, các loại cây cho bong mát và cho hoa nở suốt bốn mùa xuân, hạ , thu, đông. Cửa Đại Trung gồm ba gian, xây trên nên gạch cao, mái lơp ngoi mũi hài, co hai hàng cột chống hiên trươc và hiên sau, ở giữa là hàng cột chống noc. Cửa sơn màu đỏ biêu trưng cho sự thành đạt và may mănQua cửa Đại Trung, chúng ta sẽ đến vơi lơp không gian thứ ba cua Văn Miếu Quốc Tử Giám đươc tiếp nối bởi gác Khuê Văn và hai cửa nhỏ Bi Văn và Súc Văn ở hai bên. Bi Văn và Súc

20

Page 21: Bài thuyết minh city tour hà nội

Văn hàm y ca ngơi những ve đep cua văn chương: Súc tich, trau chuốt và sáng sua. Gác Khuê Văn là lầu gác tám mái một noc, thê hiện điêm cực dương, đươc xây dựng vào năm 1805 dươi thời Nguyễn Gia Long do quan tổng trân Băc thành – Nguyễn Văn Thành chỉ đạo thiết kế thi công. Gác đươc xây trên nên vuông cao lát gạch Bát Tràng, vơi kiêu dáng kiến trúc khá độc đáo: Tầng dươi là bốn trụ gạch, bốn bê trống không, tầng trên là kiến trúc gỗ hai tầng, mái lơp ngoi ống, trang tri bốn goc bằng đât nung. Sàn gỗ chừa ra một khoảng đê băc thang lên gác, bốn cạnh co diêm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn mặt gác trổ bốn cửa sổ tròn xung quanh co những thanh gỗ con tiện tương trưng cho những tia cua sao Khuê tỏa sáng. Tuy ra đời không cùng thời vơi các hạng mục khác trong Văn Miếu Quốc Tử Giám song như quy khách thây, kiến trúc gác Khuê Văn rât hài hòa vơi tổng thê kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám và từ lâu đã trở thành một điêm nhân kiến trúc thu hút sự chú y cua du khách trong và ngoài nươc. Ba chữ đại tự “Khuê Văn Các” đươc đê cả ở mặt trươc và sau cua lầu gác. Xung quanh gác Khuê Văn đêu co đê những đôi câu đối ca tụng ve đep và y nghia cua đạo học và văn chương trong trời đât. Đại y:“Sao Khuê sáng giữa trời nhân văn rạng tỏSông Bich đươm săc xuân đạo học dài lâu”

“Đời thịnh tô điêm nên văn trịLầu gác lộng lẫy lưu giữ ve đep”“Khuê Văn” theo cách ly giải truyên thống vê thiên thê là tên một ngôi sao trong chòm sao sáng nhât cua bầu trời gồm 28 ngôi gọi là nhị thập bát tú. Trong sách “hiếu kinh” co ghi: “Sao Khuê chu vê văn chương, văn học, giáo dục, khoa cử”. Cho nên đặt công trình co tinh chât biêu trưng, biêu tương này vào đây, nội dung tư tưởng hoàn toàn phù hơp vơi Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Vê mặt vật thê thì những đường nét kiến trúc và kiêu dáng kiến trúc cũng hoàn toàn hài hòa ăn nhập vào bối cảnh chung cua vùng này. Hình mặt trời tương trưng cho đạo học và những gì thiêng liêng cao cao quy. Gác Khuê Văn xinh xăn, kiến trúc giản dị, tao nhã, soi mình duyên dáng xuống mặt nươc Thiên Quang Tỉnh tức giếng Ánh Sáng Mặt Trời càng làm tăng thêm ve đep cua no.Giếng Thiên Quang hình vuông, co lan can gạch bao quanh, quanh năm nươc đâỳ, mặt nươc phẳng lặng, vừa tạo một nhịp tiếp nối kiến trúc hài hòa nơi trung tâm cho tổng thê kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám, vừa co y nghia như một hồ nươc điêu hòa không khi. Và giếng Thiên Quang còn đong vai trò một mặt gương thiên nhiên rộng lơn và sáng tỏ. Theo quan niệm cua người xưa, giếng hình vuông tương trưng cho mặt đât xanh tươi, cửa sổ hình tròn cua Khuê Văn Các và các tia sáng xòe rộng xung quanh tươn trưng cho mặt trời rực rỡ. Hàm y nơi đây là chốn hội tụ tinh hoa cua trời đât, ngụ y đê cao một trung tâm văn hoa giáo dục lơn nhât và danh tiếng nhât cua đât nươc.82 bia tiến sy ở hai bên khu vực này thực sự là kho tàng vô giá lưu trữ không chỉ là tên tuổi cua những người đã đỗ đạt trong các khoa thi thời nhà Lê hơn ba trăm năm, mà no còn là nơi giữ gìn và biêu đạt cả hệ thống tư tưởng và văn hoa cua nươc Việt Nam trung cổ và cổ truyên. Trong đo co cả tư tưởng mà đến tận bây giờ tât cả mọi người đêu khâm phục, đo là lời cua Thân Nhân Trung viết theo lệnh cua vua Lê Thánh Tông, khăc trên tâm bia khoa thi năm Đại Bảo 1442 : “hiên tài là nguyên khi cua quốc gia”. Điêu đặc săc là những hàng bia ây soi trên mặt Thiên Quang Tỉnh (Giếng ánh sáng trời). Các sy tử cũng như các quan khách từ ngoài vào trong khu chinh này đêu phải đi qua đây. Và họ phải soi bong mình xuống tâm gương này đê lây ánh sáng trời “thiên quang” đê chỉnh đốn tư tưởng cua mình, cũng như là lây luôn làn nươc xanh này làm nơi sửa sang lại y quan áo mũ cho chỉnh tê. Lây ánh sáng trời mà rèn tạo, thanh lọc những điêu gì không xứng đáng ở trong mình trươc khi vào nơi thiêng liêng quan trọng nhât ở trong kia.Vườn bia :Khu vực vườn bia là một di tich co giá trị bậc nhât ở đây, gồm 82 bia, dựng ở 2 bên phải trái cua Thiên Quang Tỉnh, mỗi bên co 41 tâm bia dựng thành hàng nằm ngang quay mặt vê phia giếng ( 82 tâm bia này đê ghi khăc họ tên, quê quán cua 1307 vị tiến si…).Ý tưởng dựng bia ghi tên các tiến si đươc khởi sự từ đời Lê Thánh Tông (1484) – một vị hoàng đế tài cao, học rộng quan tâm đến việc xây dựng nên văn hoa dân gian cua dân tộc và các

21

Page 22: Bài thuyết minh city tour hà nội

đời vua kế tiếp đã cho dựng bia tiến si ở Văn Miếu – Quốc Tử Giam nhằm mục đich biêu dương các Nho giáo si đỗ đạt và khich lệ việc học hành thi cử. Ở hai khu vườn bia, mỗi bên co một tòa đình vuông, bốn mặt bỏ trống, nên cao giữa các bệ, cửa đêu trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho cua nươc ta mà quy tinh cao danh còn khăc trên bia đá. 82 tâm bia tiến si là những di vật quy giá, co giá trị bậc nhât cua di tich Văn Miếu – Quốc Tử Giam, là niêm tự hào cua nên văn hoa giáo dục dân tộc đã tạo nên và lưu giữ đươc một pho “ Sử đá” co giá trị vê mọi mặt. 82 tâm bia tiến si là 82 phong cách điêu khăc, tuy kich thươc khác nhau nhưng bia nào cũng đươc dựng trên lưng một con Rùa, cổ ngẩng cao, bốn chân xoài ra trong tư thế đang bò lên. Theo một số cách giải thich thì trong quan niệm cua người Việt Nam thì Rùa từ xa xưa đã găn vơi đât nươc Việt Nam : Đo là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa, trong truyên thuyết Hồ Hoàn Kiếm, Rùa còn là sứ giả cua Thuy Vương giúp Lê Lơi đại phá quân Minh… Rùa là con vật đươc hơp lại bởi cả âm và dương : bụng phẳng tương trưng cho đât mang yếu tố âm, mai khum tương trưng cho trời đât – mang yếu tố dương. Ngoài ra, no còn co y nghia là chịu đựng và sống lâu vinh hằng. Bia đá dặt trên lưng Rùa nhằm khẳng định sự trường tồn cua tri tuệ, cua tinh hoa dân tộc. Đồng thời đo cũng là tâm gương nhăc nhở cho con cháu hôm nay và mai sau cùng học tập, phân đâu theo gương ông cha ta thuở trươc. 82 tâm bia ghi tên 1805 nhân vật, trong đo co 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoáng giáp và 938 tiến si.Qua văn bia, ta biết rõ đươc họ tên cua các tiến si mà ngày nay danh tiếng vẫn còn lưu truyên mãi như : nhà sử học Ngô Si Liên - tiến si năm 1442; nhà sử học, nhà quân sự, chinh trị, văn hoa, nhà thuật học tài năng lỗi lạc Lê Qúy Đôn - khoa thi năm 1752, nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm tiến si khoa 1775…người đầu tiên đươc khăc tên trên bia đá là trạng nguyên Nguyễn Trực người xã Bối Khuê, huyện Thanh Oai, Hà Tây, đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuât niên hiệu Bảo Đại thứ Ba (1442) đời vua Lê Thánh Tông. Người cuối cùng đươc ghi trên bia đá là tiến si Phạm Huy Ôn vào khoa thi Kỷ Hơi (1779) và cũng là khoa thi cuối cùng đươc dựng tại bia Văn Miếu – Quốc Tử Giam. Vê sau, vào thời vua Gia Long và trong kinh thành Phú Xuân – Huế. Nhìn vào hai vườn bia, ta nhận thây sự khác nhau giữa các bia – đo là do ở mỗi thời kỳ đươc khăc lại co những nét kiến trúc riêng cho mỗi loại : Những tâm bia đươc khăc vào thế kỷ 15 ( 14 chiếc) co trán bằng, mỏng, thâp, co hình hoa lá mây trăng, co ảnh hưởng cua tam giáo Đồng nguyên. Trang tri hoa sen - ảnh hưởng cua Phật giáo, con Rùa đầu hình chim, măt co lông mày, mồm như mỏ chim, đầu ngẩng cao, đôi khi co răng, mai trơn, chân rụt lại. Những tâm bia đươc khăc vào thế kỷ 17 (25 chiếc). Trên bia co xuât hiện sừng tê, ngưu bát bảo ( Đạo giáo), bia co hình mặt nguyệt , kich thươc cao. Co thê noi nghệ thuật chạm khăc ở đây đã tiến cao hơn một bậc. Bố cục cân xứng. Những tâm bia loại ba đươc xây dựng vào thế kỷ 18. Bia to cao, trang tri cách điệu nghệ thuật thì khô cứng, duy nhât co một tâm bia chạm khăc hình người và trâu, rùa co giống đầu Rùa thật, mai cong vồng lên, co gò sống lưng chạm hình sáu cạnh.Ngoài ra còn một số bia ngoại lệ, không thuộc phong cách nào cả.* Đại Thành Môn: Qua cửa Đại Thành là khu vực thứ 4 cua Văn Miếu – đây chinh là khu vực thờ Khổng Tử và các bậc hiên triết, bao gồm Đại Thành, nhà Bái Đường và hai dãy Đông Vũ và Tây Vũ.Cửa Đại Thành ba gian vơi hai cột hiên trươc và sau giống nhau như cửa Đại Trung, một hàng giữa đỡ xà noc, ba gian đêu đươc lăp cửa gỗ sơn đỏ trên co họa tiết rồng, mây. Gian giữa treo bức hoành phi đê ba chữ “ Đại Thành Môn". Cửa Đại Thành là cửa cua sự thành đạt lơn lao mở đầu cho khu vực cua những kiến trúc chinh mang một cái tên đầy y nghia vê học vân, đạo đức.Bươc qua cửa Đại Thành là tơi một sân rộng lát gạch Bát Tràng. Hai bên chân là hai dãy nhà Tả - Hữu vu. Chinh trươc mặt là tòa Đại Bái Đường lơn, rộng và thâm nghiêm, trải suốt chiếu rộng nối vơi đầu hồi cua Tả - Hữu vu tạo thành hình chữ U rât cổ kinh và truyên thống. Sau Đại Bái Đường là tòa Thương Điện bằng một tiêu hình vuông. Nếu tách riêng ba cụm kiến trúc này ra thì chúng đươc xây theo hình chữ Công (I) mà tiêu đình chinh là nét giữa Đại Bái và Tòa Thương Điện là hai nét ngang trên và dươi.Tòa Bái Đường gồm chin gian vơi bốn cột chồng mái, chồng rường, bịt hai đầu mái ngoi mũi hài, trên đăp nổi hai con Rồng chầu nguyệt. Hai gian đầu hồi mặt trươc và mặt sau là cửa gỗ

22

Page 23: Bài thuyết minh city tour hà nội

găn song con tiện, phia dươi là nững bức phù điêu gỗ thời Lê khăc nổi hình Rồng bay cao rât đep. Toàn bộ cột gỗ tàu trên mái đêu đươc sơn son thiếp vàn, hai hàng cột ở giữa co trang tri mơi đây vào năm 1994 lơp lại ngoi, năm 1995 sơn thiếp các kết câu gỗ. Đây là nơi dùng đê tổ chức các nghi lễ lơn. Do vậy, chinh giữa tòa Đại Bái đặt một hương án lơn, trên bày đồ thờ. Phia trên hương án co bức hoành phi " Vạn Thế Sư Biêu" tức " Người thày cua muôn đời” đươc làm vào năm 1888 trong lần tu sửa Văn Miếu. Ở gian đầu hồi phia Đông treo bức hoành phi " Cổ kim nhật nguyệt" tức " Ánh sáng muôn thua" và chuông Bich Ung đêu cua tư Nghiệp Quốc Tử Giam quân quận công Nguyễn Nghiễm ( cha cua đại thi hào Nguyễn Du) – 1768.Nơi đây cũng đê thờ Chu Văn An ( 1293 – 1370), ông là một nhà Nho nổi tiếng vê đạo đức và tài năng học vân. Năm 1328 đươc vua Trần Minh Tông mời vê kinh đê dạy cho Thái tử và sau đo đươc bổ giữ chức vụ tư nghiệp Quốc Tử Giam. Sau khi ông mât, vua Trần Nhân Tông ban húy là Khánh Tiết cho thờ tại đây. Tại nơi đặt bàn thờ co hai con hạc đứng trên lưng hai con Rùa ở hai bên – thê hiện cho sự hài hòa âm – dươngĐiện Đại Thành chạy song song vơi nhà Đại Bái. Điện gồm chin gian, xây kin ba mặt, phia trươc co cửa – bức màn đong kin 7 gian giữa, hai gian đầu hồi co cửa co chăn song co con tiện cố định mang phông cách kiến trúc thời Lê. Điện là nơi thờ Khổng Tử và Tứ Phối. Gian chinh là tương Khổng Tử quay mặt vê hương Nam, phái sau là khám thờ trên co ngai và bài vị "Đại Thành Chi Thánh Tiên Sư Khổng Tử Bài Vị". Tư thế tay cua Khổng Tử là thế tay cua một người trên khoan thai lăng nghe người dươi trình bày, tâu bẩm một vân đê nào đo. Trươc mặt là mười chiếc giáo, trên chuỗi giáo là phia trái cua Khổng Tử co đê chữ “ tránh ra”, trên phia phỉa chuỗi giáo đê chữ “ Một người nghiêm túc". Trên mỗi bàn thờ co hình hai con hạc – Đo là ngựa cua Đạo si đê lên trời. Trươc bàn thời cua Khổng Tử co hai con Voi – Đo là biêu tương cho sức mạnh chân ly tuyệt đối.Tòa Đại Bái và Điện Thánh là nơi các triêu đại Ly, Trần, Lê hàng năm Xuân thu hai lần chọn ngày Đinh thứ hai và thứ tám đê tế lễ do vua làm chu tế hoặc các Hòang Thân, đại thần tế. Khi Kinh đô chuyên vào Huế hàng năm ở Văn Miếu Băc Thành do quan Tổng đốc tiến hành nghi thức tế lễ. Hai dãy Đông Vu và Tây Vu ở hai bên sân Đại Bái đêu gồm chin gian, trươc đây mỗi dãy đêu xây dựng lại vào năm 1954. Thưa quy khách chúng ta đã thăm xong điện thánh, sau điện thánh co cổng dẫn sang nhà Thái Học – Khu thứ 5 cua di tich này. Và bây giờ chúng ta sẽ đi thăm khu di tich này.Thưa quy khách! Khu thái học đường này co tuổi đời it nhât trong năm phần cua nội tự bởi mơi chỉ đươc khánh thành vào năm 2000. Ngày tại vị tri này khi xưa là Quốc Tử Giám, co các giảng đường Đông – Tây, chinh giữa là nhà Minh Luận kho bi thư( tức thư viện chứa sách và các ván khác in sách), sát phia cuối là dãy nhà cho các sy tử ở. Đến thời nhà Nguyễn, kinh đô rời vào Huế(1802) vua Gia Long cho dựng Văn Miếu ở Huế, văn miếu Hà Nội trở thành học phu cua phu Hoài Đức(sau thuộc Hà Nội) và xây đên Khải Thánh thờ phụ thân cua Khổng Tử. Đến năm 1947 toàn quốc kháng chiến toàn bộ khu này bị đốt phá hoàn toàn. Vì vậy Thái học đường ngày nay là kết quả cua dự án trùng tu, bảo tồn di tich cua Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2000. Tuy nhiên du khách khi vào thăm khu di tich này sẽ không bị lạc lõng bởi tuy đươc trùng tu lại nhưng vẫn giữ nét kiến trúc cở bản và dáng ve xưa kia cua Văn Miếu, đo là quần thê kiến trúc tương tự như khu Đại Thành: Toà nhà trung tâm ở giữa là nơi tôn vinh các danh nhân co công xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng như các bậc thầy đạo đức trọng: Ly Thánh Tông, Ly Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Chu Văn An…Ngoài ra còn là nơi giơi thiệu các tư liệu liên quan đến việc học hành thi cử, giáo dục đào tạo thời phong kiến. Đây cũng là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá, khoa học như hội thảo, lễ kỷ niệm danh nhân, trưng bày chuyên đê…Hai bên toà nhà chinh là hai dãy nhà làm việc thư viện, trưng bày toàn bộ cồg trình hoàn toàn theo kiêu kiến trúc cổ.Thưa quy khách! Việc dựng tương thờ 4 vị danh nhân không chỉ nhằm tưởng nhơ những người co công lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám mà còn nhằm tôn vinh truyên thống hiếu học cua dân tộc ta.Thưa quy khách! Vua Ly Nhân Tông (1023 - 1072) là người đặt quốc hiệu Đại Việt và là vị vua co công khai sáng và đặt nên mong cho nên giáo dục nho học khoa cử Việt Nam, mặc dù thời Ly luôn đươc coi là thời kỳ tam giáo đồng nguyên trong đo Đạo Phật phát triên hơn

23

Page 24: Bài thuyết minh city tour hà nội

cả, nhưng đê tồn tại, phát triên và cung cố chế độ, thì phải co sự cải tổ phật giáo và phát triên nho giáo. Năm 1070 vua Ly Thánh Tông(1066-1072) cho xây dựng Văn Miếu, đúc tương Chu Công, Khổng Tử và vẽ tranh 72 vị hiên si đê thờ vơi mong muốn khai hoa cho dân và thê hiện sự coi trọng cua nhà vua đối vơi hiên tài. Vua còn cho hoàng tử đến đây đê học hàng ngày. Vua Lê Thánh Tông chinh là người sáng lập ra Văn Miếu và là người đặt nên mong cho Quốc Tử Giám ra đời.Vua Ly Nhân Tông chinh là vị hoàng tử đươc đến học tại Văn Miếu Và sau này là người sáng lập ra Quốc Tử Giám - trường Đại học đầu tiên cua nươc ta và là người mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam, đo là kỳ thi “Minh kinh bác học”Vua Lê Thánh Tông là người đã phát triên Văn Miếu - Quốc Tử Giám đến mức rực rỡ nhât: Mở rộng quy mô, nâng cao chât lương học hành thi cử và đêu đặn mở 3 năm một lần kì thi hội tại kinh đô. Chinh vua Lê Thánh Tông là người cho dựng Văn bia tiến sy đâù tiên tại Văn Miếu (1484), sáng lập ra hội tao đàn gồm 28 tiến sy gỏi thơ văn nhât thời đo.Thưa quy klhách thật là thiếu xot nếu như đến thăm Văn Miếu mà không tìm hiêu xem hình thức và nội dung thi cử, cũng nhử thầy giáo và sinh viên đã từng học ở đây. Tôi xin đươc giơi thiệu cho quy khách một vài nội dung sơ lươc như sau:Chế độ thi cử cua kinh thành Thăng Long từ khi co Văn Miếu - Quốc Tử Giám gồm ba kỳ:- Thi Hương: Đươc tổ chức theo một vùng gồm nhiêu Trân hay Lộ do triêu đình quy định. Thi sinh tham dự thi hương phải dự 4 kỳ thi: Kinh ngiã, thơ phú, chế chiếu biêu, văn sách. Dươi thời Lê người đỗ cả bốn kỳ đươc gọi là Hương cống, đỗ ba kỳ thi gọi là Sinh đồ. Những người đỗ bốn kỳ thi thì đươc học trong Quốc Tử Giám đê thi hội và thi đình. Thi đình diễn ra tại Văn Miếu, đê do nhà vua soạn ra, thi sinh phải làm một bài văn sách đê phân tài cao thâp, những người đỗ kỳ thi này đươc chia làm 3 giáp.

+ Đệ nhât giáp: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa(tối đa ba người - tam khôi)+ Đệ nhị giáp: Tiến sy xuât thân.+ Đệ tam giác: Đồng tiến sy xuât thânSau khi đỗ đươc vào học trong Quốc Tử Giám. Bộ máy quản ly cua Quốc Tử Giám từ trên xuiống dươi là: Quan tế tử, tư nghiệp, tập thê giáo thụ, trực giảng, trơ giáo và minh kinh báo sy. Trong lịch sử co nhiêu nho sy nổi tiếng phụ trách Quốc Tử Giám: Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh....Học sinh ở đây lúc đầu chỉ là hoàng thái tử, hoàng tử, con vua quan quy tộc. Từ thời Lê, đươc mở rộng ra bao gồm cả những học sinh xuât săc co nguồn gốc bình dân. Điêu này thê hiện tư tưởng tiến bộ cua triêu đình trọng người tài. Chương trình học chu yếu dựa vào sách kinh điên cua nho giáo: Tứ thư: Trung dung- luận ngữ Mạnh Tử và Ngũ kinh: kinh dịch, thư, lễ, xuân, thu.Thưa quy khách! chuing ta vừa tham quan xong khu di tich Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Hỵ vọng chuyến đi này sẽ giúp quy khách co thêm nhiêu thông tin vê nên giáo dục nươc nhà từ thời phong kiến xưa. Đã đến lúc chúng ta phải chia tay vơi Văn Miếu, tôi hy vọng sẽ đươc gặp quy khách trong những chuyến du lịch tham quan Hà Nội lần sau. Chào thân ái!

Tài liệu tham khảo

1. Văn Miếu- Quốc Tử Giám2. Non nươc Việt Nam3. Di tich Hoàng Thành Hà Nội –NXB Khoa Học Xã Hội4. Hà Nội 36 Phố Phường – Thạch Lam5. Miếng Ngon Hà Nội – Vũ Bằng6. Phố cổ Hà Nội – NXB Thế Giơi 20047. Tuyến điêm du lịch Việt Nam – NXB Giáo Dục 2008. Trang Web : www.wikipedia.com9. Trang Web chinh thức cua Tổng Cục Du Lịch Việt Nam.10. Hà Nội Ngàn Năm Văn Hiến – GS. Trần Quốc Vương

24

Page 25: Bài thuyết minh city tour hà nội

25