ĐỀ tÀi khoa hỌc cẤp trƢỜng chủ nhiệm đề tài ths. vũ minh...
Post on 31-Aug-2019
4 Views
Preview:
TRANSCRIPT
1
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG
Tên đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP DO NGƢỜI PHẠM TỘI
LÀ CÁN BỘ THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP THỰC HIỆN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY”
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Vũ Minh Hằng
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp
(CQTP) là điều kiện cần thiết để bảo đảm duy trì công lý nói chung cũng như để
bảo đảm sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, vì
nhiều lý do khác nhau mà hoạt động đúng đắn của các CQTP có thể bị chính
những người là cán bộ thuộc các cơ quan này hoặc các cá nhân khác thông qua
những hành vi nguy hiểm làm sai lệch đi. Nói cách khác, tính đúng đắn của các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các CQTP có thể bị những
hành vi phạm tội “Xâm phạm hoạt động tư pháp” (XPHĐTP) xâm hại, làm cho
kết quả giải quyết vụ án bị oan, sai, không đúng pháp luật.
Thời gian qua, các tội phạm XPHĐTP ở nước ta có những diễn biến phức
tạp cả về cơ cấu, tính chất cũng như mức độ nguy hiểm của tội phạm. Theo
thống kê của VKSND tối cao, từ năm 2009 đến 2013, đã khởi tố, điều tra 876 vụ
án về tội XPHĐTP. Điều đáng lưu ý là, trong số 876 vụ án này lại có tới 205 vụ
án do cán bộ của các CQTP thực hiện hoặc có liên quan đến hoạt động tư pháp
(chiếm tỉ lệ 23,40%) và loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng với tính
chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Nhiều hành vi phạm tội XPHĐTP của
cán bộ các CQTP không chỉ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng như gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản, danh dự, nhân phẩm của công dân mà còn gây ra nhiều dư luận xấu trong xã
hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các CQTP.
Do đó, đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPHĐTP nói chung, các tội phạm
do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện luôn là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước
ta và đã trở thành một yêu cầu cấp thiết trong tiến trình cải cách tư pháp. Tại
2
Nghị quyết số 49 – NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, Đảng ta nêu rõ quan điểm đấu tranh phòng, chống các tội
phạm do cán bộ có chức vụ, quyền hạn thực hiện và các tội XPHĐTP nói riêng
như sau: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội
phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho
người khác”.
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền điều tra, xử lý các tội XPHĐTP
mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thuộc về trách nhiệm của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao.
Thực hiện chủ trương của Đảng, những năm qua, Cơ quan điều tra
VKSND tối cao đã tích cực phát hiện và điều tra, xử lý nhiều vụ án XPHĐTP và
đạt được những kết quả nhất định. Theo đó đã góp phần làm trong sạch đội ngũ
cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, qua thực tiễn, công tác điều tra của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: Tỷ lệ điều tra, giải quyết án do
người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện còn thấp, nhiều vụ xử lý
chưa nghiêm minh, còn bỏ lọt tội phạm gây bức xúc trong dư luận xã hội…
Thực trạng này là do một số nguyên nhân khách quan như: Thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra VKSND tối cao chưa được pháp luật quy định một cách cụ
thể; tổ chức và hoạt động của cơ quan này hiện nay chưa phù hợp với nhiệm vụ
được giao...Ngoài ra, còn do các nguyên nhân chủ quan là: Tội XPHĐTP là một
trong những tội phức tạp cả về nghiên cứu lý luận và cả về thực tiễn áp dụng
pháp luật nhưng lại ít được các CQTP quan tâm nghiên cứu, đánh giá để kịp thời
dự báo và đưa ra các giải pháp đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm.
Chính vì vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải nghiên cứu một cách
tổng thể và toàn diện các vấn đề lý luận về các tội phạm XPHĐTP nói chung và
các tội phạm XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện nói riêng; nghiên
cứu về tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội XPHĐTP của cán
bộ thuộc các CQTP và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP của
Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong thời gian qua, dưới góc độ khoa học luật
hình sự và tội phạm học để có được những dự báo chính xác, khoa học về xu
hướng phát triển của tội phạm, trên cơ sở đó, đề xuất những biện pháp đấu tranh
phòng chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này. Vì vậy, tôi lựa chọn nghiên
cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp phòng, chống các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực
hiện ở Việt Nam hiện nay” nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng,
3
chống các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP trong điều
kiện cải cách tư pháp ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội
XPHĐTP và đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP của các nhà khoa học và
những người làm công tác thực tiễn được công bố như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ (1997), Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
và việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân, VKSND tối cao, Hà Nội.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (1998), Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp và trách nhiệm của VKSND các cấp trong cuộc đấu tranh chống các
loại tội phạm này, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội.
- Nguyễn Tất Viễn (2005), Các tội XPHĐTP trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
- Phạm Thị Minh Thúy (2009), Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia (Khu vực II).
- Nguyễn Thị Thu Trang (2012), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
Ngoài ra, còn có các tài liệu tham khảo, giáo trình trong các cơ sở đào tạo
của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao hay một số bài viết công bố trên
các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp
chí Luật học…cũng đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Các công trình khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị khoa
học và thực tiễn cao. Nhiều công trình đã nghiên cứu khá sâu sắc và toàn diện về
các tội XPHĐTP và đã đưa ra nhiều giải pháp mang tính tổng thể về mặt pháp
luật, về tổ chức thực hiện…nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các tội
XPHĐTP. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về các tội
XPHĐTP mà chủ thể là cán bộ thuộc các CQTP để đưa ra giải pháp nâng cao
chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này. Do
vậy, về phương diện lý luận, việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp
phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do người phạm tội là cán
bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực hiện ở Việt Nam hiện nay” không bị trùng
lặp với các công trình khoa học trước đây.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật hình
sự về các tội XPHĐTP, đồng thời thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực
trạng diễn biến tình hình tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc
các CQTP thực hiện và công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này của
Cơ quan điều tra VKSND tối cao để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của đề tài: Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận,
tạo nhận thức chung về các tội XPHĐTP và các tội XPHĐTP mà người phạm
tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng; nghiên cứu tình hình tội phạm XPHĐTP
do cán bộ các CQTP thực hiện để làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội;
nghiên cứu thực trạng hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP của Cơ quan điều
tra VKSND tối cao trong những năm qua để tìm ra nguyên nhân của tồn tại, hạn
chế trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, từ đó đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP
thực hiện và thực tiễn hoạt động điều tra các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra VKSND tối cao trên phạm vi toàn quốc, trong giai đoạn từ năm
2009 đến năm 2013.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội
phạm. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát, tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học góp
phần làm phong phú thêm lý luận về các tội XPHĐTP nói chung và công tác đấu
tranh phòng, chống các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cho các cán
bộ, ĐTV, Kiểm sát viên đang tham gia công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, nhất là trực tiếp đấu tranh phòng chống các tội XPHĐTP. Ngoài ra, đề tài
còn có thể phục vụ cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập nghiệp vụ
điều tra tại các cơ sở đào tạo của ngành Kiểm sát.
5
7. Kết cấu, bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp
- Chƣơng 2: Thực trạng tình hình tội phạm của các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp và công
tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này ở Việt Nam hiện nay
- Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các cơ quan tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG
TƢ PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ
THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP
1. Một số vấn đề lý luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong
Bộ luật hình sự Việt Nam
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS), các tội XPHĐTP
là nhóm tội, được quy định từ Điều 292 đến Điều 314 của Chương XXII. Trong
đó, khái niệm tội XPHĐTP được quy định tại Điều 292 như sau: “Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của
các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.
Để hiểu rõ khái niệm tội XPHĐTP thì cần phải làm rõ một số khái niệm
liên quan như khái niệm tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp.
- Khái niệm tư pháp: Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tư pháp là việc xét xử
theo pháp luật”, còn theo nghĩa Hán - Việt, “Tư pháp là trông coi, gìn giữ pháp
luật hay bảo vệ pháp luật”.
Theo quan điểm của thuyết “Tam quyền phân lập”, tư pháp là một trong
ba nhánh quyền lực của Nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp.
Trong đó, tư pháp là quyền xét xử, phán xét về các tranh chấp, vi phạm pháp
luật được giao cho Tòa án thực hiện độc lập với các quyền khác.
Như vậy, khái niệm “tư pháp” có hai cách hiểu: Thứ nhất, tư pháp là hoạt
động bảo vệ pháp luật, giải quyết các tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật; thứ
hai, tư pháp là thuật ngữ dùng để chỉ các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải
quyết các tranh chấp, xung đột giữa các quan hệ xã hội.
- Khái niệm cơ quan tư pháp: Từ trước đến nay, có rất nhiều quan niệm
khác nhau về CQTP. Trên thực tế, tùy thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội
và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước mà mỗi quốc gia có những
quan niệm khác nhau về CQTP.
Ở những nước theo thuyết “Tam quyền phân lập”, quyền lực Nhà nước
được phân chia thành ba nhánh: Quyền lập pháp được giao cho Nghị viện hoặc
Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính phủ và quyền tư pháp được giao cho
Tòa án thực hiện, các cơ quan này hoạt động độc lập và có khả năng chế ước lẫn
nhau để tránh lạm quyền. Vì vậy, ở các nước này, CQTP chỉ bao gồm hệ thống
7
cơ quan xét xử là Tòa án các cấp. Có thể nói, đây là điển hình của quan niệm về
CQTP theo nghĩa hẹp: CQTP là Tòa án (Cơ quan xét xử).
Ở Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước ta đã có quan niệm về
CQTP theo nghĩa rộng. Theo các quy định của Hiến pháp năm 1946 và các Sắc
lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số
131/SL ngày 20/7/1946 thì, cùng với Tòa án các cấp, cơ quan Công tố cũng dần
dần được hình thành trong bộ máy nhà nước. Thời kỳ đầu, hệ thống cơ quan
Công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do Bộ Tư pháp quản lý. Khái
niệm CQTP lúc đó đã được hiểu là bao gồm các cơ quan làm công tác xét xử và
cơ quan làm công tác điều tra, truy tố (công tố).
Sau khi Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban
hành, VKSND được thành lập, đặt dưới sự giám sát của Quốc hội. Cho đến nay,
VKSND luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành nhánh quyền lực thứ ba của
Nhà nước ta - Quyền tư pháp.
Ngày nay, với chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối
hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, từ các Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/ 2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ IX, X, XI, Đảng ta đã thể hiện rất rõ quan niệm về CQTP thông qua việc
đề ra những nhiệm vụ chính của cải cách tư pháp như sau: Thứ nhất, sắp xếp lại
tổ chức và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của các CQTP như: Tòa án
nhân dân (TAND), VKSND và CQĐT, kiện toàn tổ chức thi hành án, trong đó
lấy Tòa án làm trung tâm; thứ hai, hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, củng
cố và tăng cường các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. Các quan điểm của Đảng
về CQTP đã tiếp tục được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Như vậy, có
thể thấy, từ trước đến nay, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về CQTP luôn
được đề cập đến theo nghĩa rộng, đó là những cơ quan có nhiệm vụ tiến hành
các hoạt động tố tụng để giải quyết các tranh chấp, vi phạm pháp luật và tội
phạm. Hệ thống Các CQTP bao gồm CQĐT, VKS, Tòa án, Cơ quan thi hành án.
Vì vậy, có thể hiểu: “CQTP là cơ quan do Nhà nước lập ra, có chức
năng, nhiệm vụ tiến hành hoạt động tố tụng nhằm giải quyết các tranh chấp
giữa các chủ thể của các quan hệ pháp luật khác nhau để bảo vệ quyền lợi của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
- Khái niệm hoạt động tư pháp: Hiện tại, đang có nhiều cách hiểu khác
nhau về HĐTP nhưng đa số các nhà nghiên cứu lý luận và những người làm
8
công tác thực tiễn đều thừa nhận quan điểm cho rằng: HĐTP là tập hợp những
việc làm cụ thể do CQTP thực hiện trong tố tụng, trực tiếp liên quan và hướng
tới mục đích giải quyết các vụ án một cách đúng đắn khách quan.
Đồng tình với quan điểm này, tác giả cho rằng, xuất phát từ quan điểm
của Đảng ta về CQTP thì HĐTP được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước do các CQTP, do các cán bộ tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng
và được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng. HĐTP là hoạt động trực tiếp liên
quan tới việc giải quyết một vụ án cụ thể cũng như việc thi hành bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do đó HĐTP có thể hiểu theo nghĩa là
“hoạt động tố tụng”, tức là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Từ việc nghiên cứu, làm rõ các khái niệm tư pháp, CQTP, HĐTP, có thể
đưa ra khái niệm cụ thể hơn về các tội XPHĐTP như sau: “Các tội XPHĐTP là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các
cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án trong quá trình tiến hành tố tụng
và thông qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp, của tổ chức, công dân”.
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp
Các tội XPHĐTP được quy định tại Chương XXII BLHS với 23 điều (từ
Điều 292 đến Điều 314). Trong đó, Điều 292 quy định về khái niệm tội
XPHĐTP, 22 điều luật còn lại quy định về các tội phạm cụ thể, bao gồm: Tội
truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) người không có tội (Điều 293); Tội không
truy cứu TNHS người có tội (Điều 294); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295);
Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm
trái pháp luật (Điều 297); Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội bức cung (Điều
299); Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (Điều 300); Tội thiếu trách nhiệm để người bị
giam, giữ trốn (Điều 301); Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ (Điều
302); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều
303); Tội không chấp hành án (Điều 304); Tội không thi hành án (Điều 305);
Tội cản trở việc thi hành án (Điều 306); Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài
liệu sai sự thật (Điều 307); Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc
từ chối cung cấp tài liệu (Điều 308); Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (Điều 309); Tội vi phạm việc
niêm phong, kê biên tài sản (Điều 310); Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn
khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311); Tội đánh tháo người bị giam,
giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (Điều 312): Tội che giấu tội
phạm (Điều 313); Tội không tố giác tội phạm (Điều 314).
9
Nghiên cứu 22 tội phạm cụ thể quy định trong chương XXII BLHS về các
tội XPHĐTP thì thấy, các tội được sắp xếp theo một trật tự nhất định, trên cơ sở
đặc điểm chung của từng nhóm tội, liên quan đến chủ thể của tội phạm. Theo đó,
có thể chia 22 tội danh của chương này thành bốn nhóm tội sau:
Nhóm 1: Các tội XPHĐTP do những người có chức vụ, quyền hạn trong
HĐTP thực hiện, bao gồm các tội được quy định tại các điều 293, 294, 295, 296,
298, 299, 300, 301, 302, 303 và Điều 305 BLHS.
Nhóm 2: Các tội XPHĐTP được thực hiện bởi những người có nghĩa vụ
phải giúp các CQTP trong HĐTP, bao gồm các tội quy định tại các điều 307,
308 và Điều 310 BLHS.
Nhóm 3: Các tội XPHĐTP mà chủ thể là đối tượng của các bản án hoặc
quyết định của CQTP, đó là các tội quy định tại các điều 304, 311 BLHS.
Nhóm 4: Các tội XPHĐTP khác, bao gồm các tội được quy định tại các
điều 297, 306, 309, 312, 313 và Điều 314 BLHS.
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 và Luật này có hiệu lực từ
ngày 01/01/2010. Trong lần sửa đổi này, các quy định của Chương XXII BLHS
năm 1999 vẫn được giữ nguyên. Điều đó cho thấy quy định về các tội XPHĐTP
trong BLHS năm 1999 về cơ bản đã phù hợp với thực tiễn.
2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp và của
nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tƣ pháp
2.1. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
So với các loại tội phạm khác, các tội XPHĐTP có những đặc điểm riêng
biệt được thể hiện qua các dấu hiệu pháp lý như sau:
- Khách thể của tội phạm: Các hành vi phạm tội XPHĐTP đã xâm phạm
đến hoạt động đúng đắn của các CQTP trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án để bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân. Đồng thời hành vi phạm tội XPHĐTP còn xâm
phạm đến nhiều quan hệ xã hội khác được luật hình sự bảo vệ như quan hệ nhân
thân, quan hệ sở hữu v.v.
- Mặt khách quan của tội phạm: Các tội XPHĐTP được thực hiện thông
qua những hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực HĐTP và
thông qua đó, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước;
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Hành vi phạm tội của nhóm tội
này được thể hiện ở các dạng sau:
10
+ Hành vi XPHĐTP của các cán bộ thuộc các CQTP hoặc của những
người thuộc các tổ chức, cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định, tổ chức
luật sư v.v;
+ Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc bằng các thủ đoạn khác tác
động đến HĐTP nhằm làm cho các hoạt động này được thực hiện sai quy định
của pháp luật;
+ Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
phán quyết hay quyết định của các CQTP.
+ Hành vi không thực hiện nghĩa vụ công dân trong việc giúp đỡ các
CQTP thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hậu quả mà các hành vi phạm tội XPHĐTP gây ra có thể là thiệt hại cho
HĐTP như làm sai lệch tiến trình tố tụng, cản trở hoạt động tố tụng, làm ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc gây thiệt
hại về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức v.v.
- Chủ thể của tội phạm: Có thể là chủ thể đặc biệt hay chủ thể thường.
Tùy từng tội phạm cụ thể mà chủ thể của các tội XPHĐTP có thể là: Người của
CQTP có trách nhiệm thực hiện HĐTP; người của cơ quan, tổ chức bổ trợ tư
pháp có nghĩa vụ thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp; các cá nhân khác có
chức vụ, quyền hạn hoặc không có chức vụ, quyền hạn.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Hầu hết các tội XPHĐTP đều được thực
hiện với lỗi cố ý (trừ tội Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn).
Kết quả nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội XPHĐTP là
cơ sở để nhận thức đầy đủ hơn về đặc điểm pháp lý của nhóm tội XPHĐTP mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Nhóm tội thứ nhất).
2.2. Đặc điểm pháp lý của nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp
Trong số các tội phạm cụ thể được quy định ở Chương XXII của BLHS
về các tội XPHĐTP thì chỉ có 11 tội có dấu hiệu chủ thể tội phạm là cán bộ
thuộc các CQTP (chủ thể đặc biệt). Đó là những tội quy định tại các điều 293,
294, 295, 296, 298, 299, 300, 301, 302, 303 và Điều 305 của BLHS. Theo quy
định tại Khoản 3 Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự đây là nhóm tội thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Vì vậy, trong giới hạn của
đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội danh và thực tiễn
hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đối với nhóm tội này.
Khi nghiên cứu cấu thành tội phạm của 11 tội XPHĐTP thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói trên có thể nhận thấy,
11
nhóm tội phạm này có một số đặc điểm chung về dấu hiệu khách thể, dấu hiệu
chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể là:
+ Về dấu hiệu khách thể: Các tội XPHĐTP do các cán bộ thuộc các
CQTP thực hiện có tính nguy hiểm cao cho xã hội, bởi hành vi phạm tội đã xâm
hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tố tụng như hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tội phạm trực tiếp xâm phạm đến tính đúng
đắn trong HĐTP của các CQTP và không chỉ gây tổn hại đến uy tín cũng như
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các CQTP mà còn xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
+ Về chủ thể: Chủ thể của nhóm tội phạm này là chủ thể đặc biệt, đó là
những cán bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng, có kiến thức
chuyên sâu về công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên…Những đối tượng này không chỉ có
kiến thức pháp luật mà còn có trình độ nghiệp vụ chuyên ngành nên thủ đoạn
phạm tội cũng như việc che giấu hành vi phạm tội rất tinh vi.
Khác với việc phát hiện, điều tra một số loại tội phạm khác như giết
người, trộm cắp, cướp tài sản…việc xác định, truy tìm người phạm tội ban đầu
có thể gặp khó khăn nhưng đối với nhóm tội XPHĐTP do các cán bộ CQTP
thực hiện ngay từ đầu đã có thể xác định được người thực hiện hành vi phạm tội
(Ví dụ: Tội ra bản án trái pháp luật - Chủ thể chỉ có thể là Thẩm phán, Hội thẩm;
Tội Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội - Chủ thể chỉ có thể là
người có thẩm quyền trong việc truy cứu TNHS như Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, ĐTV, KSV). Tuy nhiên, quá
trình chứng minh tội phạm cũng như đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của họ
lại là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có phương pháp cũng
như chiến thuật điều tra linh hoạt. Thậm chí, ngay cả đã làm rõ hành vi phạm
tội, việc xử lý tội phạm cũng gặp nhiều khó khăn vì đối tượng thường lợi dụng
các mối quan hệ để “chạy chọt” gây cản trở cho quá trình xử lý vụ án.
+ Về mặt chủ quan: Ngoài tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ
trốn” (Điều 301 BLHS) được thực hiện với lỗi vô ý, các tội còn lại được người
phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ, mục đích phạm tội đều không phải là
dấu hiệu bắt buộc để định tội đối với loại tội phạm này nhưng lại có ý nghĩa
quanm trọng trong việc xem xét quyết định hình phạt đối với người phạm tội .
Tuy không được quy định trực tiếp trong điều luật nhưng qua thực tiễn xét xử thì
đa số cán bộ CQTP phạm tội XPHĐTP là do tham nhũng, tư lợi, chạy theo
thành tích, hay sĩ diện cá nhân...
12
Ngoài ra, mỗi cấu thành tội phạm của từng tội phạm cụ thể trong nhóm tội
này cũng có sự khác nhau về dấu hiệu chủ thể và hành vi khách quan của tội
phạm như sau:
Tội “Truy cứu TNHS người không có tội” (Điều 293 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện qua hành vi của người có
thẩm quyền đã cố ý truy cứu TNHS đối với người mà mình biết rõ là không có
tội. Quyền truy cứu TNHS người không có tội có thể là quyền khởi tố bị can,
quyền đề nghị truy tố, quyền truy tố đối với người không có tội.
Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt và chỉ có thể là người có thẩm
quyền trong việc truy cứu TNHS như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKS, ĐTV, KSV. Những cán bộ, nhân viên trong cơ
quan xét xử và thi hành án không phải là chủ thể của tội phạm này.
Tội “Không truy cứu TNHS người có tội” (Điều 294 BLHS):
Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm là hành vi của người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự cố ý không khởi tố, không truy tố đối với
người mà mình biết rõ là có tội. Đặc trưng của dấu hiệu khách quan là hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người thẩm quyền truy cứu TNHS nhưng đã
không truy cứu TNHS người có tội. Tội phạm được coi là hoàn thành tại thời
điểm người có thẩm quyền biết rõ là có đủ cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS
người phạm tội nhưng đã không thực hiện việc truy cứu TNHS đối với họ. Đó
có thể là hành vi: không ra quyết định khởi tố bị can hoặc ra quyết định không
khởi tố bị can, không đề nghị truy tố…Hoặc là ra quyết định đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án đối với người có hành vi phạm tội.
Về chủ thể: Cũng giống như Tội truy cứu TNHS người không có tội, chủ
thể của tội phạm này chỉ có thể là người có thẩm quyền truy cứu TNHS.
Tội “Ra bản án trái pháp luật” (Điều 295 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm được biểu hiện ở hành vi của Thẩm
phán hoặc Hội thẩm đã ra bản án mà họ biết rõ là trái pháp luật. Tính trái pháp
luật của bản án thể hiện ở chỗ: Nội dung bản án không phù hợp với thực tế
khách quan, không có căn cứ pháp luật…Tội phạm hoàn thành tại thời điểm
Thẩm phán hoặc Hội thẩm ký vào biên bản nghị án.
Chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là Thẩm phán hoặc Hội thẩm.
Tội “Ra quyết định trái pháp luật” (Điều 296 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm được biểu hiện là hành vi của người có
thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã ra quyết định
mà biết rõ là trái pháp luật. Bao gồm các quyết định mà họ có quyền ký và ban
hành theo quy định của BLTTHS. Quyết định được coi là trái pháp luật khi thiếu
13
căn cứ và không hợp pháp. Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại về vật chất
và phi vật chất do hành vi ra quyết định trái pháp luật đã gây ra cho quyền và lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức và công dân. Hậu quả thiệt hại là yếu tố bắt buộc
của cấu thành tội phạm này
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt - là người có thẩm quyền ra
quyết định trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Tội “Dùng nhục hình” (Điều 298 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở chỗ, chỉ cần người phạm tội
có hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Hành vi dùng nhục hình
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là những hành vi có tính
chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác, xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của
người khác như: đánh đập, không cho ăn, uống, bắt đứng hay ngồi, nằm ở tư thế
không tự nhiên…
Chủ thể của tội phạm này là những người có chức vụ, quyền hạn trong
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật.
Chủ thể của tội phạm có thể là ĐTV, KSV, cán bộ quản lý trại giam…
Tội “Bức cung” (Điều 299 BLHS):
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi của người có thẩm
quyền trong điều tra, truy tố, xét xử đã sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật buộc
người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật. Bao gồm các phương thức, thủ đoạn mà
người phạm tội sử dụng nhằm cưỡng ép người bị thẩm vấn khai sai sự thật. Đó
là những biện pháp tác động đến tinh thần hoặc thể chất của người bị thẩm vấn
để ép buộc họ phải khai báo sai sự thật, ngoài ý muốn. Ví dụ: đe dọa dùng nhục
hình, đối xử tàn tệ trong khi giam, giữ, truy ép về tâm lý…Đối tượng bị bức
cung có thể là người bị tình nghi, bị can, bị cáo…Hành vi bức cung đã gây hậu
quả nghiêm trọng là làm cho người bị thẩm vấn phải khai báo sai dẫn đến việc
bắt giam hoặc truy tố, xét xử oan, sai…Hậu quả nghiêm trọng là yếu tố bắt buộc
của cấu thành tội phạm này.
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, là người có trách nhiệm tiến
hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử như ĐTV, KSV, Thẩm phán hoặc những
người khác có quyền thẩm vấn.
Tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” (Điều 300 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi của người có liên quan đến
quản lý hồ sơ vụ án đã cố ý thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, tiêu hủy, làm hư hỏng
tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch hồ sơ,
nội dung của vụ án.
14
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt - là người có liên quan đến
việc quản lý hồ sơ vụ án khi họ tham gia vào hoạt động tố tụng. Đó là ĐTV,
KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án v.v.
Tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” (Điều 301 BLHS):
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi thiếu trách nhiệm
của người được giao trách nhiệm quản lý, canh gác hoặc dẫn giải người bị giam,
giữ nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp
luật dẫn đến việc người đó trốn. Hậu quả nghiêm trọng là yếu tố bắt buộc của
cấu thành tội phạm. Hậu quả này có thể là những thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần. Ví dụ: Người bỏ trốn đã phạm tội mới hoặc trả thù người khác…
Chủ thể của tội phạm là những người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải
người bị giam, giữ như: Cán bộ quản lý nhà tạm giữ, giám thị trại giam, cảnh sát
tư pháp dẫn giải người bị tạm giam…
Tội “Tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ” (Điều 302 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ. Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ là hành vi lợi dụng thẩm
quyền ra lệnh tha người đang bị giam, giữ khi không có đủ căn cứ theo quy định
của pháp luật. Lạm quyền tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ là hành vi
của người không có thẩm quyền ra lệnh tha nhưng đã tha người bị giam, giữ
vượt ra khỏi quyền hạn của mình.
Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn trong việc tha người
bị giam, giữ hoặc là người có trách nhiệm nhất định liên quan đến việc quản lý
người bị giam, giữ như: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó
Chánh án, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Giám thị trại giam…
Tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giam, giữ người trái pháp luật”
(Điều 303 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn cố ý không ra quyết định hoặc không chấp hành quyết định trả tự
do cho người bị giam, giữ thông qua các dạng hành vi như: Không ra quyết định
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc quyết định trả tự do; không thực hiện quyết
định trả tự do đối với người bị giam, giữ theo quy định của pháp luật.
Tội phạm có chủ thể đặc biệt tương tự như chủ thể của tội “Tha trái pháp
luật người đang bị giam, giữ”.
Tội “Không thi hành án” (Điều 305 BLHS):
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi của người có thẩm
quyền đã cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định
15
thi hành án và hành vi đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó đã bị
xử lý kỷ luật về hành vi không thi hành án mà còn vi phạm.
Chủ thể tội phạm là người có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc
là người có trách nhiệm thi hành quyết định đó theo pháp luật quy định.
Kết luận Chƣơng 1
Trong Chương 1, trên cơ sở các quy định của BLHS và các văn bản pháp
luật khác có liên quan, đề tài đã tập trung phân tích, làm sáng tỏ khái niệm các
tội XPHĐTP, các đặc điểm pháp lý của tội phạm XPHĐTP. Trong đó, tập trung
làm rõ các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ
của các CQTP làm cơ sở để phân tích, đánh giá diễn biến tình hình tội phạm,
nguyên nhân, điều kiện thực hiện các tội XPHĐTP của cán bộ các CQTP và
công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này ở nước ta trong
thời gian từ năm 2009 đến 2013.
16
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TỘI PHẠM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ
THUỘC CÁC CƠ QUAN TƢ PHÁP VÀ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG NHÓM TỘI PHẠM NÀY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng tình hình tội phạm của các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp ở Việt Nam
hiện nay
1.1. Phần tội phạm đã rõ
Tình hình tội phạm (THTP) là hiện tượng xã hội tiêu cực, được cấu thành
bởi tổng thể các tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn, trong một khoảng thời gian
nhất định. Do đó, THTP về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các CQTP ở Việt Nam hiện nay có thể được hiểu là sự phản ánh tổng hợp về các
tội phạm thuộc nhóm tội này xảy ra trên toàn quốc trong thời gian từ năm 2009
đến năm 2013.
Khi nghiên cứu, đánh giá về THTP cần phải dựa trên các tiêu chí liên
quan đến bản chất của nó như: Mức độ của THTP (trong đó phải xem xét tổng
số các tội phạm đã xảy ra, gồm tội phạm đã được phát hiện - “tội phạm đã rõ” và
cả tội phạm không được phát hiện - “tội phạm ẩn”); Cơ cấu và diễn biến của
THTP. Sau cùng là đánh giá mức độ thiệt hại mà THTP đã gây ra cho xã hội.
Việc nghiên cứu THTP nói chung và tình hình tội phạm XPHĐTP mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng chủ yếu được dựa trên các
thống kê tội phạm. Thông qua các số liệu này mới có thể đưa ra những thông tin
chính xác, khoa học về tình hình, thực trạng phạm tội, về cơ cấu, diễn biến, xu
hướng phát triển cũng như nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu, đánh giá những số
liệu thống kê liên quan đến tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ các
CQTP thực hiện trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. Các số liệu thống
kê tội phạm của Cục Điều tra VKSND tối cao đã cơ bản phản ánh phần tội phạm
đã rõ của THTP về các tội phạm XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc
các CQTP thực hiện trong 5 năm qua.
1.1.1. Mức độ, diễn biến của tình hình tội phạm về các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện
Dấu hiệu mức độ của THTP về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là
cán bộ của các CQTP được thể hiện qua các thông số về tổng số các vụ phạm tội
17
và người phạm tội trên toàn quốc trong thời gian từ 2009 đến 2013 và diễn biến
(động thái) của nó cũng sẽ được phản ánh ở sự tăng hay giảm hoặc ổn định
tương đối của các tội phạm này trên toàn quốc trong 5 năm qua. Sự tăng hay
giảm trong cơ cấu của THTP được phản ánh thông qua các số liệu về các vụ
phạm tội và người phạm tội sẽ giúp chúng ta đánh giá được sự tăng hay giảm
của tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đối với xã hội.
Nghiên cứu diễn biến của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ của các
CQTP thực hiện giúp cho việc dự đoán xu hướng vận động của các tội phạm này
trong thời gian tiếp theo, trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Theo số liệu thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao thì hàng năm số
lượng tội phạm và người phạm tội XPHĐTP bị khởi tố, điều tra chiếm tỉ lệ rất
nhỏ so với tổng số tội phạm và người phạm tội trên toàn quốc. Trong 5 năm qua,
các CQĐT đã khởi tố 876 vụ án về tội XPHĐTP (chiếm tỉ lệ khoảng 0,25 % trên
tổng số vụ án hình sự). Điều đáng nói là, trong số các vụ phạm tội XPHĐTP thì
số vụ án XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện lại chiếm một tỉ lệ không
nhỏ. Từ năm 2009 đến 2013, CQĐT của VKSND tối cao đã khởi tố 205 vụ/234
bị can (chiếm tỉ lệ khoảng 23,4 % trên tổng số vụ án và 13,3% trên tổng số bị
can bị khởi tố về tội XPHĐTP). Trung bình mỗi năm khởi tố 41 vụ/46,8 bị can.
Cụ thể là:
- Năm 2009, khởi tố 16 vụ/21 bị can (giảm 2 vụ, 8 bị can so với 2008).
- Năm 2010, khởi tố 21 vụ/42 bị can (tăng 5 vụ, 21 bị can so với 2009).
- Năm 2011, khởi tố 52 vụ/70 bị can (tăng 31 vụ, 28 so với 2010).
- Năm 2012, có 66 vụ/68 bị can (tăng14 vụ, giảm 2 bị can so với 2011).
- Năm 2013, khởi tố 50 vụ/33 bị can (giảm 16 vụ, 02 bị can so với 2012).
Như vậy, có thể thấy, tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ của các
CQTP thực hiện đang có những diễn biến phức tạp, tăng, giảm không đồng đều
nhưng tăng là xu hướng chung. Trong đó, năm 2011 có số bị can tăng cao nhất
và năm 2012 có số vụ án khởi tố tăng cao nhất. Nếu lấy số vụ án và bị can đã
khởi tố năm 2009 làm mốc là 100% thì năm có số vụ án tăng cao nhất lên tới
412,5% (năm 2012) và năm có số bị can tăng cao nhất lên tới 333,3% (năm
2011). Trung bình trong 5 năm đã tăng gấp 3 lần về số vụ và 3,5 lần về số bị
can. Riêng năm 2013, cả số vụ và số bị can đều giảm so với hai năm trước đó.
Điều đó cho thấy diễn biến phức tạp của nhóm tội phạm này.
Trong số 205 vụ với 234 bị can nói trên thì số tội phạm XPHĐTP mà
người phạm tội là cán bộ các CQTP là 103 vụ/121 bị can; ngoài ra số vụ phạm
tội khác phát sinh từ HĐTP do các cán bộ các CQTP thực hiện hoặc có liên quan
18
đến những vụ án mà CQĐT của VKSND tối cao đang khởi tố, điều tra là 102
vụ/113 bị can. Như vậy, có thể thấy, từ năm 2009 đến năm 2013, số lượng vụ án
XPHĐTP mà bị can là cán bộ của các CQTP chiếm một tỉ lệ đáng kể (khoảng
50%) trong tổng số các vụ án và bị can mà Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã
khởi tố, điều tra theo thẩm quyền. Điều này cho thấy, cũng như nhiều loại tội
phạm khác, các tội XPHĐTP đang có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ do những
ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, xã hội theo quy luật kinh tế thị trường. Vì
thế, công tác đấu tranh phòng, chống các hành vi phạm tội XPHĐTP của các cán
bộ tư pháp sẽ là một công việc khó khăn, lâu dài và phức tạp, đòi hỏi phải có sự
kết hợp đồng bộ, thường xuyên các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung
và biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử loại tội
phạm nguy hiểm này.
Tuy nhiên, mức độ, diễn biến của THTP cũng mới chỉ là sự phản ánh
hình thức bề ngoài mà chưa lột tả hết bản chất của THTP. Cho nên để có thể đưa
ra những nhận định, đánh giá kết luận chính xác về tính chất, mức độ nghiêm
trọng của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện cần
phải nghiên cứu các mặt bên trong nói lên bản chất của nó. Mặt bên trong đó
chính là các chỉ số về cơ cấu của từng loại tội phạm và tính chất của THTP.
1.1.2. Cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm về các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện
- Về cơ cấu: Cơ cấu của THTP về tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP
thực hiện được thể hiện qua những số liệu phản ánh sự tương quan về tỷ lệ giữa
các loại tội phạm và người phạm tội trong tổng số chung của THTP của nhóm
tội phạm này. Theo thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao, từ năm 2009 đến
2013, loại tội phạm chiếm số lượng nhiều nhất là: Tội Thiếu trách nhiệm để
người bị giam, giữ trốn 41vụ/46 bị can (chiếm tỉ lệ 39,8% về số vụ và 38% số bị
can); thứ hai là tội Dùng nhục hình 18 vụ/24 bị can (chiếm tỉ lệ 17,5% về số vụ
và 19,8% số bị can) ; tiếp theo là các tội Ra quyết định trái pháp luật là 17 vụ/19
bị can (chiếm tỉ lệ 16,5% về số vụ và 15,7% số bị can); tội Làm sai lệch hồ sơ
vụ án là 11 vụ/12 bị can (chiếm tỉ lệ 10,7% về số vụ và 9,9% số bị can). Những
tội phạm XPHĐTP khác có số lượng vụ án và bị can chiếm tỉ lệ thấp. Cá biệt, có
một số tội phạm trong 5 năm chỉ khởi tố được 1 vụ/1 bị can hoặc không khởi tố,
điều tra vụ nào như: Tội “Ra bản án trái pháp luật”, tội “Bức cung”…
Nghiên cứu số liệu về những tội phạm cụ thể đã được thống kê nói trên thì
thấy rằng, tội phạm XPHĐTP do các cán bộ CQTP thực hiện có thể xảy ra ở tất
cả các CQTP. Theo báo cáo của ngành Kiểm sát thì số vụ phạm tội và số người
phạm tội thuộc ngành Công an là 42 vụ/56 bị can (chiếm 40,7% số vụ và 46,2%
19
số bị can); thuộc ngành Toà án là 25 vụ/23 bị can (chiếm 24,3% số vụ và 19%
số bị can); thuộc ngành Kiểm sát là 8 vụ/10 bị can (chiếm 7,7% số vụ và 8,3%
số bị can); thuộc cơ quan Thi hành án là 28 vụ/32 bị can (chiếm 27,1% số vụ và
26,5% số bị can). Trong đó, các vụ phạm tội chủ yếu xảy ra ở cấp huyện (65%),
ở cấp tỉnh (33%), ở cấp trung ương (2%).
Đánh giá về tình hình vi phạm, tội phạm XPHĐTP, CQĐT của VKSND
tối cao đã đưa ra nhận định rằng: “Đánh giá chung về tình hình vi phạm, tội
phạm XPHĐTP trong thời gian qua cho thấy số vụ vi phạm, tội phạm xảy ra có
diễn biến khá phức tạp. Đối tượng phạm tội chủ yếu là cán bộ thuộc các cơ
quan tư pháp; nhiều người giữ cương vị lãnh đạo các cơ quan tư pháp như: Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh; Phó Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh; Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp huyện” [1].
- Về tính chất: Khi xem xét tính chất nguy hiểm của THTP về nhóm tội
XPHĐTP do các cán bộ của các CQTP thực hiện thì không thể chỉ dừng lại ở
việc đánh giá các dấu hiệu về mức độ, cơ cấu, diễn biến của nó mà còn phải dựa
vào dấu hiệu thiệt hại do THTP gây ra để đánh giá đúng tính chất của THTP.
Cho đến nay vẫn chưa có thống kê riêng về những hậu quả do các tội
phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ tư pháp gây ra, nhưng qua kết quả
khảo sát thực tiễn chúng tôi nhận thấy, trong 5 năm qua, loại tội phạm này
không chỉ có chiều hướng gia tăng về số vụ án và số bị can mà tính chất của tội
phạm cũng ngày càng nguy hiểm hơn. Đã có nhiều vụ án oan, sai do hành vi
phạm tội XPHĐTP của các cán bộ tư pháp gây ra, xâm hại nghiêm trọng đến lợi
ích của Nhà nước, đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, gây bức xúc
trong dư luận xã hội. Điển hình như, năm 2011 đã xảy ra 04 vụ dùng nhục hình
gây ra hậu quả làm chết 02 người, gây thương tích cho 5 người khác với tỉ lệ
thương tật từ 12% đến 40%; 09 vụ phạm tội Thiếu trách nhiệm để 17 bị can bỏ
trốn khỏi nơi giam, giữ; 04 vụ ra quyết định trái pháp luật trong thi hành án đã
gây thiệt hại cho các đương sự tới 48 tỉ đồng. Ngoài ra, còn có những hành vi
phạm tội XPHĐTP khác như: Làm sai lệch hồ sơ vụ án, không truy cứu trách
nhiệm hình sự người có tội đã làm cho việc giải quyết vụ án bị oan, sai, bỏ lọt
tội phạm. Ví dụ: Vụ án T. N. C (nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án) đã
ra quyết định kê biên, bán đấu giá trái pháp luật căn nhà số 194 ở Phố Huế, quận
HBT, Hà Nội, gây thiệt hại cho đương sự hàng chục tỉ đồng; vụ án Ph. T. T. T.
(nguyên KSV VKSND thành phố VT, tỉnh HG) đã làm sai lệch hồ sơ vụ án mua
bán trái phép chất ma túy để giao trả trái pháp luật vật chứng của vụ án là số tài
sản trị giá trêm ba trăm triệu đồng cho bị can, đồng thời còn cho 3 bị can được
bảo lĩnh, tại ngoại, dẫn đến việc bị can đầu vụ bỏ trốn; Vụ án dùng nhục hình
20
của 5 Điều tra viên Công an thành phố TH, tỉnh PY đối với bị can N.T. K., làm
bị can chết…đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cán bộ tư pháp,
các CQTP, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào công lý. Chính vì vậy, khi
đánh giá về những tồn tại, hạn chế trong công tác tư pháp ở nước ta thời gian
qua, Nghị quyết số 08 –NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu: “còn
nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự
do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và các CQTP”. Qua đó có thể kết luận, tình trạng phạm tội XPHĐTP
của các cán bộ thuộc các CQTP trong 5 năm qua có những diễn biến phức tạp,
tác động trên phạm vi rộng và đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng như
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu tại Hội nghị Tổng kết công tác năm
2002 và triển khai công tác năm 2003 của ngành Kiểm sát nhân dân: “Sai phạm
nào cũng có thiệt hại, nhưng sai phạm của cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật
là hậu quả rất nặng nề”[2]. Do đó, việc tăng cường hơn nữa những biện pháp
đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này là hết sức cần thiết.
1.2. Phần tội phạm ẩn
Tình hình tội phạm của nhóm tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực
hiện còn được xem xét ở yếu tố tội phạm ẩn. Tội phạm ẩn trong nhóm các tội
XPHĐTP do người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thực hiện có thể tồn tại
dưới ba dạng cơ bản sau: Tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và tội
phạm ẩn thống kê. Cụ thể như sau:
+ Tội phạm ẩn tự nhiên là một khái niệm dùng để chỉ tất cả những tội
phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng các cơ quan chức năng như công an, kiểm sát,
tòa án không phát hiện ra được vì không có thông tin gì về chúng.Tội phạm ẩn
tự nhiên trong trong số các tội phạm XPHĐTp do cán bộ của các CQTP thực
hiện chiếm tỉ lệ đáng kể là do có nguyên nhân từ việc che giấu hành vi phạm tội
rất tinh vi của các cán bộ tư pháp, bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ
chủ thể tội phạm đã tạo ra những cản trở để khỏi bị phát hiện. Ngoài ra còn có
nguyên nhân từ chính những người bị hại, nạn nhân đã không tố giác tội phạm vì
những lý do khác nhau như sợ bị trả thù hoặc vì muốn giảm trách nhiệm.
+ Tội phạm ẩn nhân tạo: Khác với tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn
nhân tạo lại có nguồn gốc từ phía chủ thể áp dụng pháp luật. Đó là những tội
phạm thực tế xảy ra, các cơ quan chức năng đã nắm được nhưng vì các nguyên
nhân khác nhau mà hành vi phạm tội đó không bị xử lý theo pháp luật hoặc có
thể do các cơ quan tiến hành tố tụng đã không khởi tố vụ án theo đúng yêu cầu
của pháp luật. Việc hành vi phạm tội đã bị phát hiện nhưng không bị xử lý theo
pháp luật là do có một hành vi phạm tội khác che đậy. Đối với tội phạm
XPHĐTP có chủ thể là các cán bộ tư pháp có thể xảy ra ở các giai đoạn tố tụng
21
hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn như, trường hợp các cơ
quan Công an trong quá trình thực hiện việc giam, giữ, dẫn giải đã thiếu trách
nhiệm để cho người phạm tội bỏ trốn nhưng đã che giấu không báo cáo mà tự tổ
chức đi tìm để trốn tránh trách nhiệm hoặc người có thẩm quyền vì một lý do
nào đó đã không truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật mà quyết
định đình chỉ điều tra với lý do miễn trách nhiệm hình sự.
+ Tội phạm ẩn thống kê là có những hành vi phạm tội và người phạm tội
tuy đã được xử lý bằng chế tài hình sự nhưng không được đưa vào thống kê.
Nguyên nhân gây ra tình trạng này là hiện nay những quy định về thống kê báo
cáo cũng như việc thực hiện các quy định này giữa các CQTP còn có sự không
thống nhất. Ví dụ: Ngành Kiểm sát lấy số liệu tổng kết công tác năm từ ngày
01/12 đến ngày 30/11 của năm sau nhưng ngành Tòa án lại lấy số liệu từ ngày
01/10 đến ngày 30/9 của năm sau. Trong thực tế số liệu của các CQTP lệch nhau
không lớn nhưng vẫn xảy ra. Việc làm lọt số lượng tội phạm đã bị phát hiện,
điều tra, xử lý trong các số liệu thống kê tội phạm làm cho việc đánh giá THTP
trong thực tế là không chính xác, làm ảnh hưởng đến sự phân tích, đánh giá và
dẫn đến những sai lệch trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Theo GS. TSKH Đào Trí Úc thì: “Trong khoa học về tội phạm, kiểm soát
về tội phạm được hiểu như là khả năng nắm bắt tình hình tội phạm thực tế của
các cơ quan quản lý hữu quan của Nhà nước và mức độ phản ánh thực tế của
Nhà nước đối với tội phạm” [3]. Như vậy, có thể khẳng định, tỷ lệ tội phạm ẩn
trong THTP nói chung và trong nhóm tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP
thực hiện nói riêng phản ánh khả năng kiểm soát tội phạm của các cơ quan bảo
vệ pháp luật ở nước ta còn có sự hạn chế. Qua tìm hiểu ở các cơ quan chức năng
chúng tôi thấy rằng, phần lớn các tội phạm XPHĐTP thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đều có độ ẩn rất cao. Tuy không thể thống
kê các vụ tội phạm ẩn nhưng trong báo cáo tổng kết công tác của Cục điều tra
VKSND tối cao hàng năm đều có chung đánh giá là: Mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng hoạt động của CQĐT của VKSND tối cao mới chỉ đáp ứng được
một phần yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm XPHĐTP trong tình hình
hiện nay, tỉ lệ vụ án và bị can được khởi tố, điều tra còn thấp so với số lượng tội
phạm xảy ra trên thực tế [4]. Vì vậy, việc nghiên cứu tội phạm ẩn sẽ góp phần
quan trọng vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa các tội XPHĐTP nói chung
trong công cuộc cải cách và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, qua nghiên cứu THTP của các tội XPHĐTP thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao cho thấy, mặc dù nhóm tội phạm
này chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với tổng số tội phạm xảy ra hàng năm trên toàn quốc,
nhưng lại đang có chiều hướng tăng nhanh và diễn biến phức tạp. Điều đáng lưu
ý là phần lớn các tội phạm thuộc nhóm này có độ ẩn cao, khó bị phát hiện, vì
22
vậy việc tăng cường công tác phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi phạm tội này
trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.
2. Nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
do cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp thực hiện
Nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung là tổng hợp những ảnh
hưởng và quá trình xã hội làm phát sinh THTP. Đó là sự tác động một cách tổng
thể các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật và tâm lý con người
làm phát sinh, thay đổi mức độ, động thái, cơ cấu, tính chất của THTP. Là một
bộ phận của THTH nói chung nên các nguyên nhân, điều kiện chung này đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến nguyên nhân và điều kiện của các tội XPHĐTP do cán bộ
thuộc các CQTP thực hiện nói riêng.
Qua nghiên cứu, khảo sát tình trạng phạm tội XPHĐTP của cán bộ thuộc
các CQTP ở nước ta trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân, điều
kiện dẫn đến nảy sinh các tội phạm này do nhiều hiện tượng, quá trình xã hội
khác nhau. Do đó, có thể có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu nguyên nhân, điều
kiện của nhóm tội này nhưng căn cứ vào đặc điểm về chủ thể của các tội phạm
XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện, chúng tôi chọn cách tiếp cận là
tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của nhóm tội phạm này dựa vào tính đặc thù về
chủ thể của các tội phạm này.
Kết quả phân tích các quy định của pháp luật về các tội XPHĐTP thuộc
thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSND tối cao trong Chương 1 của đề tài
này đã cho thấy đây là những tội phạm có chủ thể đặc biệt là các cán bộ tư pháp
như ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Chấp hành viên - những
người đã được nhà nước trao cho nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để tiến hành
các hoạt động tố tụng để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có
không ít cán bộ tư pháp không nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, trách nhiệm
của mình hoặc bị cám dỗ bởi đồng tiền mà cố tình làm sai lệch các hoạt động tố
tụng, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Qua nghiên cứu các hồ sơ điều tra
về tội XPHĐTP có thể rút ra những nguyên nhân, điều kiện chủ yếu dẫn các cán
bộ của các CQTP đến con đường phạm tội là:
Thứ nhất, đa số người phạm tội có nhận thức sai lệch về tầm quan trọng
của vị trí công tác, quyền hạn của mình, cho rằng mình là người đang nắm và
thừa hành pháp luật nên có thái độ cửa quyền, hách dịch, coi thường tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bị can, bị cáo hay của các đương
sự….Điển hình như vụ án T. B.T, N. V. Q.– nguyên Điều tra viên công an
Thành phố NT đã đánh đập bà T. T. L. để lấy lời khai, chỉ vì nghi ngờ bà L.
23
trộm cắp tiền của chủ nhà. Hậu quả bà L. đã bị thương tích nặng nhưng sau khi
xác minh thì bà L. không phải là thủ phạm [5].
Thứ hai, bên cạnh những cán bộ tư pháp tận tâm, hết lòng vì công việc
chung thì có nhiều cán bộ tư pháp còn vì tư lợi cá nhân mà phạm tội, thuộc
trường hợp này là những người phạm các tội tham nhũng, hối lộ trong hoạt động
tư pháp. Ví dụ: P.T.T.T – nguyên Kiểm sát viên huyện VT, tỉnh HG đã nhận hối
lộ của các bị can phạm tội ma túy để làm sai lệch hồ sơ vụ án bằng cách tạo
dựng biên bản lấy lời khai, giả mạo chữ ký của nhân chứng, từ đó đã trả trái
phép 11 lượng vàng cho bị can N.T.H., đồng thời đã đề xuất cho bị can này
được bảo lĩnh tại ngoại và xử phạt dưới khung hình phạt của điều luật [6].
Thứ ba, một số cán bộ tư pháp đã mắc căn bệnh “thành tích” hoặc nóng
vội, chủ quan, vì sức ép của công việc mà nôn nóng muốn hoàn thành công việc
sớm, dẫn đến phạm tội. Điển hình là vụ án dùng nhục hình xảy ra tại Công an
Thành phố TH, tỉnh PY vào tháng 5 năm 2012: Khi bắt được N.T.K là nghi can
trong vụ trộm cắp xe máy có tính chuyên nghiệp, do nôn nóng muốn phá được
băng nhóm trộm cắp chuyên nghiệp này mà năm cán bộ, ĐTV đã đánh đập đối
tượng Kiều để lấy lời khai, làm cho đối tượng bị tử vong và chết trên đường đi
cấp cứu ngay trong ngày 13/5/2012 [7].
Thứ tư, một số cán bộ tư pháp có thái độ thờ ơ, bàng quan trước nhiệm
vụ của mình, trước các trách nhiệm mà pháp luật đã quy định dẫn đến tắc trách,
lơ là, tùy tiện trong công tác quản lý, điều hành các hoạt động tư pháp hay khi
trực tiếp tiến hành những hoạt động tố tụng…nên đã gây ra hậu quả nghiêm
trọng từ sự thiếu trách nhiệm đó. Điển hình như trường hợp T.V.V. và một số
cán bộ trại giam Công an tỉnh TH đã thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra
buồng giam để các bị can mang nhiều lưỡi cưa sắt vào phòng giam, làm công cụ
để cắt song sắt ô thoáng, phá cửa 04 buồng giam để 04 bị can đang bị giam về
các tội phạm rất nghiêm trọng trốn khỏi nơi giam đêm 03/11/2010. Hoặc như
H.V.C - nguyên cán bộ quản giáo trại giam HT vì thiếu trách nhiệm nên đã để
một phạm nhân bỏ trốn khỏi trại giam sau đó phạm tội giết người [8].
Thứ năm, hiện tại vẫn còn có những cán bộ số cán bộ phạm tội do trình
độ nghiệp vụ thấp kém vì không được đào tạo bài bản, kiến thức pháp luật, kiến
thức chuyên môn còn chắp vá, trình độ nghiệp vụ còn non kém, trong khi hoạt
động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, có ảnh hưởng trực tiếp
đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của con người, đòi hỏi những người
thực hiện hoạt động này ngoài phẩm chất chính trị và đạo đức cần thiết còn phải
được đào tạo một cách chính quy và bài bản để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ
24
quan, chúng ta chưa có được đội ngũ cán bộ điều tra, truy tố, xét xử hay thi hành
án ngang tầm nhiệm vụ. Nhận xét về hạn chế của đội ngũ cán bộ các CQTP hiện
nay, Nghị quyết số 49- NQ/TW năm 2005 của Đảng về Chiến lược Cải cách tư
pháp đã nêu: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp
vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán
bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp”.
Thứ sáu, chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức nói chung và
cán bộ tư pháp nói riêng còn nhiều hạn chế, đời sống của nhiều cán bộ gặp khó
khăn và ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức của các cán bộ tư pháp là sức cám dỗ
của đồng tiền. Điển hình là vụ N.T.P, N.V.N (Lãnh đạo phòng Cảnh sát điều tra
Công an TG) đã chỉ đạo cho các cán bộ, ĐTV dưới quyền đem số tiền trên 5 tỉ
đồng thu giữ trong vụ án 502X gửi ngân hàng để lấy lãi chia nhau, phục vụ đời
sống của một nhóm cán bộ. Hoặc vụ N.V.H, Chấp hành viên Chi cục Thi hành
án huyện NG, tỉnh HD đã nhận 405 triệu đồng của người thi hành án nhưng
không nộp vào quỹ của Chi cục mà sử dụng cho cá nhân. Đây là vấn đề cần
được xem xét kỹ hơn trong tình hình xã hội hiện nay, khi các hiện tượng tiêu
cực hàng ngày len lỏi vào đội ngũ cán bộ, viên chức, trong đó có đội ngũ cán bộ
tư pháp [9].
Ngoài ra, còn có nguyên nhân là sự yếu kém trong công tác quản lý cán
bộ của một số CQTP chưa thật chặt chẽ, khen thưởng, kỷ luật chưa nghiêm
minh, chưa thường xuyên giáo dục ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp cho
cán bộ. Thậm chí có một số lãnh đạo cơ quan còn có tư tưởng cục bộ, bao che
cho cán bộ khi phát hiện có sai phạm thì tìm cách che giấu để xử lý nội bộ.
Chính điều này đã làm cản trở việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm,
phạm tội XPHĐTP của các cán bộ tư pháp.
Những nguyên nhân, điều kiện nói trên đã làm phát sinh và tạo điều kiện
thuận lợi cho sự gia tăng của THTP về các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các
CQTP thực hiện.
3. Công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp do cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp thực hiện
Kết quả nghiên cứu về THTP của nhóm tội XPHĐTP mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các CQTP đã cho thấy, các tội phạm XPHĐTP do cán bộ thuộc
các CQTP thực hiện trong 5 năm qua đã có những diễn biến hết sức phức tạp,
tăng, giảm không ổn định nhưng có chiều hướng gia tăng, mặc dù công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP nói riêng đã được
Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Trong Nghị quyết số 49 năm 2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta nêu rõ quan điểm đấu tranh
25
phòng, chống các tội phạm do các cán bộ có chức vụ, quyền hạn thực hiện và
các tội XPHĐTP nói riêng như sau: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc
hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật,
những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng
cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm
khắc để làm gương cho người khác”. Điều đó thể hiện sự nỗ lực và quyết tâm
của Đảng, Nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
các tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng.
Không chỉ dừng lại ở việc đề ra chủ trương, đường lối đấu tranh phòng
chống tội phạm mà Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật cần thiết
cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự v.v quy định rõ thẩm quyền điều tra,
truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong
đó, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao được trao cho thẩm quyền:“Điều tra
một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các cơ quan tư pháp” (Khoản 3 Điều 110 BLTTHS). Vì vậy, kết quả đấu tranh
phòng, chống các tội XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện được thể hiện chủ
yếu qua kết quả hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi
đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát công tác điều tra của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao trong 5 năm (từ 2009 đến 2013) và nhận thấy như sau:
3.1. Những kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các
cơ quan tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội và
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, những năm qua, CQĐT của
VKSND tối cao đã tích cực phối hợp với các CQTP khác đấu tranh kiên quyết
đối với loại tội phạm XPHĐTP do cán bộ các CQTP thực hiện, điều tra, khám
phá nhiều vụ án, góp phần ngăn chặn tình trạng vi phạm, phạm tội trong hoạt
động tư pháp, đảm bảo hoạt động đúng đắn của các CQTP trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử.
Trước hết, để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm,
Cục Điều tra VKSND tối cao đã quan tâm đến công tác xây dựng và hoàn thiện
cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động, về việc phối hợp phân loại, xử lý thông
tin về tội phạm XPHĐTP (nhất là đối với loại tội phạm XPHĐTP do các cán bộ
tư pháp thực hiện) trong nội bộ ngành cũng như các cơ quan hữu quan của các
ngành khác. Do đó, đã ban hành một số quy chế quan trọng như: Quy chế Tổ
26
chức và hoạt động của Cục Điều tra VKSND tối cao” năm 2010; Quy chế Tiếp
nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền
giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao” năm 2011. Dựa trên các cơ sở
pháp lý này, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã tiến hành các hoạt động điều
tra theo thẩm quyền và đã đạt được những kết quả như sau:
3.1.1. Kết quả tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố
Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt
động “mở đầu” cho quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm nên
lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã hết chú trọng đến hoạt động này
bằng việc thường xuyên chỉ đạo các phòng nghiệp vụ tăng cường và nâng cao
chất lượng công tác tiếp nhận, thu thập tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố thuộc thẩm quyền nhằm đảm bảo mọi hành vi tội phạm XPHĐTP do các
cán bộ tư pháp thực hiện được phát hiện và xử lý kịp thời.
Để làm tốt nhiệm vụ này, các phòng nghiệp vụ của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao đã tích cực và có nhiều biện pháp để chủ động phát hiện, thu
thập tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền xảy ra trên địa bàn được
phân công; thực hiện có hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ nhằm phát hiện tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Cụ thể, trên cơ sở các thông tin về tội
phạm đã tiếp nhận, thu thập; trọng tâm là các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố mà dư luận xã hội quan tâm, được đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng hoặc do các cơ quan Đảng, Nhà nước và lãnh đạo VKSND
tối cao chỉ đạo giải quyết; các Điều tra viên tập trung nghiên cứu, phân loại, tổ
chức kiểm tra xác minh. Đối với những thông tin về tội phạm chưa rõ thẩm
quyền thì phối hợp với Viện kiểm sát địa phương để xác minh, làm rõ. Đồng
thời triển khai thực hiện Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối
cao (Quy chế 116), xây dựng mạng lưới cộng tác viên cơ sở ở các địa bàn; duy
trì hộp thư tố giác, tin báo tội phạm, phát triển hộp thư điện tử trên Website của
ngành Kiểm sát; đảm bảo quá trình xác minh tố giác, tin báo về tội phạm
XPHĐTP theo đúng trình tự, quy định của BLTTHS.
Theo kết quả khảo sát, trong 5 năm qua, CQĐT của VKSND tối cao đã tiếp
nhận 789 tin báo, tố giác và đã tiến hành thụ lý, xác minh giải quyết 455 tin (đạt
tỉ lệ 57,66%), số vụ việc chuyển cơ quan khác hoặc chờ địa phương xử lý, chờ
kết quả xét xử (giám đốc thẩm) của Tòa án hoặc chờ kết quả xác minh là 334 tin
(chiếm tỉ lệ 42,34%).
27
Theo thống kê của Cục Điều tra VKSND tối cao, trong tổng số 205 vụ án
đã khởi tố thì số vụ án khởi tố về các tội tham nhũng, chức vụ trong hoạt động
tư pháp là 102 vụ, chiếm tỉ lệ 49,8%; số vụ án về tội XPHĐTP mà người phạm
tội là cán bộ của các CQTP là 103 vụ, chiếm tỉ lệ 50,2%.
Thông qua kết quả điều tra, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã có những
kiến nghị xử lý vi phạm, xử lý đối với cán bộ tư pháp vi phạm pháp luật nhưng
chưa đến mức xử lý hình sự hoặc do chính sách hình sự mà không truy tố. Chỉ
tính riêng năm 2010, Cục Điều tra đã ban hành 25 bản kiến nghị, trong đó có 11
bản kiến nghị với Giám đốc Công an tỉnh, 06 kiến nghị với Chánh án Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, 04 kiến nghị với Cục trưởng Cục Thi hành án và Tổng cục
trưởng Cục Thi hành án Bộ Tư pháp; 03 kiến nghị với Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh ở một số địa phương để yêu cầu xử lý kỷ luật cán bộ vi phạm. Ví dụ, Cục
Điều tra VKSND tối cao đã kiến nghị Chánh án TAND Thành phố HP, yêu cầu
xử lý kỷ luật Thẩm phán N.V.C vì hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án dân sự hoặc
có kiến nghị với Giám đốc Công an tỉnh BP yêu cầu xử lý hành chính đối với
Điều tra viên vì đã làm sai lệch hồ sơ vụ án; kiến nghị với Viện trưởng VKSND
Thành phố HCM yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của Viện trưởng VKSND
Quận TĐ vì thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý cán bộ [10] Các kiến nghị
của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã được các cơ quan hữu quan tiếp thu,
thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm.
3.1.2. Kết quả hoạt động khởi tố, điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Hoạt động điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra của
VKSND tối cao có một số đặc điểm là: Địa bàn hoạt động rộng (trên phạm vi cả
nước); đối tượng điều tra là cán bộ có chức danh pháp lý như Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên…Đây là những người am hiểu pháp
luật, có kinh nghiệm trong hoạt động tư pháp nên có nhiều khả năng đối phó với
các cơ quan bảo vệ pháp luật; Đa số các Điều tra viên của Cục Điều tra chưa
được đào tạo bài bản về nghiệp vụ điều tra mà chủ yếu từ các khâu công tác
kiểm sát khác chuyển sang, lực lượng Điều tra viên còn mỏng; các công cụ
phương tiện phục vụ hoạt động điều tra còn thiếu…Tuy nhiên, với quyết tâm
kiên quyết đẩy lùi tình trạng phạm tội của các cán bộ tư pháp, những năm qua,
các Điều tra viên của VKSND tối cao đã nỗ lực tiến hành các hoạt động phát
hiện, điều tra các vụ phạm tội thuộc thẩm quyền nên đã đạt được những kết quả
nhất định. Một số vụ án được Cơ quan điều tra VKSND tối cao phát hiện, điều
tra, xử lý kịp thời, được dư luận đồng tình. Ví dụ: Năm 2010, đã khởi tố, điều tra
28
N.V.T (Phó Cục trưởng Cục Thi hành án) và N.T.T (Chấp hành viên Cục Thi
hành án tỉnh TG) về tội Ra quyết định trái pháp luật, các bị can đã bị truy tố và
xét xử với mức án nghiêm khắc, được nhân dân địa phương đồng tình; Năm
2012, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã khởi tố, điều tra và đề nghị truy tố 5
bị can là các Điều tra viên, sĩ quan Công an của Công an thành phố TH, tỉnh PY
về tội “Dùng nhục hình” được dư luận đánh giá cao.
Theo các báo cáo tổng kết công tác của Cục Điều tra VKSND tối cao, trong
5 năm qua, số vụ án CQĐT đề nghị truy tố không có vụ án nào bị đình chỉ điều
tra vì không phạm tội, không có bị cáo nào bị Tòa án tuyên không phạm tội.
Kết quả khởi tố, điều tra các vụ án XPHĐTP của Cơ quan điều tra VKSND
tối cao không những đã đáp ứng việc thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát,
yêu cầu phòng, chống tội phạm và công tác đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi
phạm tội XPHĐTP của cán bộ các CQTP mà còn đáp ứng việc giải quyết những
khiếu kiện, bức xúc của công dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
3.2. Những hạn chế, tồn tại trong công tác đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ
quan tư pháp
Có thể thấy, những kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng,
chống các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP là rất tích
cực, thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung
và CQĐT của VKSND nói riêng trong đấu tranh, phòng ngừa nhóm tội phạm
nguy hiểm này. Tuy nhiên, thực tế đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP
cũng còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại như sau :
Một là, số vụ án, số bị can được CQĐT của VKSND tối cao khởi tố, điều
tra về tội XPHĐTP còn thấp trong khi số lượng kiến nghị với các CQTP đề nghị
xử lý kỷ luật, xử lý hành chính đối với cán bộ tư pháp còn nhiều cho thấy vẫn
còn có những hành vi XPHĐTP của cán bộ tư pháp chưa được xử lý đúng mức.
Hai là, CQĐT của VKSND tối cao chưa quản lý được đầy đủ tình hình tội
XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện, trên toàn quốc. Một số địa phương
xảy ra tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT này nhưng VKSND địa
phương vẫn “làm ngơ” để CQĐT khác điều tra, không chuyển cho CQĐT của
VKSND tối cao, chỉ đến khi vụ việc trở nên phức tạp, địa phương không giải
quyết được mới thông tin, báo cáo đến cơ quan có thẩm quyền.
Ba là, hoạt động điều tra của CQĐT Viện KSND tối cao chưa thực sự
hiệu quả. Các vụ án điều tra thường kéo dài hoặc phải gia hạn điều tra. Tỉ lệ vụ
án, bị can phải đình chỉ điều tra còn cao. Theo thống kê, trong số 103 vụ án
được điều tra thì đã có tới 11 vụ án phải đình chỉ điều tra (chiếm tỉ lệ 10,6%)
29
phần nào chứng tỏ trong hoạt động phát hiện, xử lý các đối tượng phạm tội còn
tồn tại cách xử lý mang tính chất ‟nội bộ”, cho qua.
Bốn là, hoạt truy tố, xét xử đối với một số vụ án về tội XPHĐTP của cán
bộ các CQTP chưa thực sự nghiêm minh, mức án áp dụng đối với nhiều bị cáo
còn chưa tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội nên không
đủ sức răn đe. Điển hình là vụ án “Dùng nhục hình” dẫn đến chết người xảy ra
tại tỉnh PY thì 5 bị cáo là cán bộ, Điều tra viên chỉ bị xử phạt mức án từ 1 năm
đến 5 năm tù , trong đó bị cáo bị xử phạt mức án nhẹ nhất là 1 năm tù cho hưởng
án treo nên bản án này đã bị hủy để điều tra lại [11].
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ thuộc các cơ quan tư pháp
Công tác đấu tranh phòng, chống các tội XPHĐTP do cán bộ của các
CQTP thực hiện còn có những tồn tại, hạn chế nhất định là do những nguyên
nhân chủ yếu sau đây :
Thứ nhất, do những quy định của pháp luật về thẩm quyền điều tra các tội
XPHĐTP là chưa rõ ràng, cụ thể.
Điều 110 BLTTHS quy định: Thẩm quyền điều tra các tội XPHĐTP mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP thuộc về CQĐT của VKSND tối cao,
đồng thời cũng quy định thẩm quyền điều tra đối với các tội XPHĐTP nói chung
(các tội phạm quy định tại Chương XXII BLHS) cho CQĐT của ngành Công an.
Điều này dẫn đến sự chồng chéo trong thẩm quyền và làm mất đi tính chủ động,
khách quan của các CQĐT trong quá trình phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các
hành vi phạm tội XPHĐTP nói chung và nhóm tội phạm do các cán bộ của
CQTP thực hiện nói riêng. Trong thực tế, có những tội phạm XPHĐTP xảy ra
nhưng không có cơ quan nào tiến hành điều tra hoặc mất nhiều thời gian để xác
định thẩm quyền dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc điều tra không kịp thời.
Thứ hai, công tác phát hiện, điều tra các tội XPHĐTP mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các CQTP trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn so với việc phát
hiện, điều tra các loại tội phạm khác trong khi đội ngũ Điều tra viên chưa được
đào tạo chuyên sâu về phương pháp phát hiện, điều tra loại tội phạm này. Các
trang thiết bị, công cụ, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác điều tra của
CQĐT Viện KSND tối cao còn thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ ba, một số CQTP chưa nhận thức đúng đắn về yêu cầu của công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP trong nội bộ cơ quan, tổ chức của
mình; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp
30
cho cán bộ dẫn đến một bộ phận cán bộ bị suy thoái về tư tưởng, đạo đức nên dễ
dàng sa ngã trước sự cám dỗ của đồng tiền và sa vào con đường phạm tội.
Thứ tư, về cơ cấu tổ chức của CQĐT Viện KSND tối cao hiện chỉ có ở
cấp trung ương, không có lực lượng hỗ trợ tư pháp để giúp thực hiện các hoạt
động xác minh, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và điều tra tội phạm. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động điều tra của CQĐT Viện
KSND tối cao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Kết luận Chƣơng 2
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh và khảo sát
thực tiễn, trong Chương 2, chúng tôi đã làm rõ thực trạng, diễn biến tình hình tội
phạm về các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP, làm rõ
những nguyên nhân, điều kiện của nó, trên cơ sở đó để xem xét, đánh giá kết
quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm nguy hiểm này ở nước ta
trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2013, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong công
tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này, đồng thời chỉ ra những nguyên
nhân khách quan và chủ quan của những tồn tại, hạn chế đó. Đây là cơ sở thực
tiễn quan trọng để dự báo chính xác tình hình tội phạm XPHĐTP do cán bộ
thuộc các CQTP thực hiện trong thời gian tới và đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này
trong Chương 3.
31
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƢ
PHÁP MÀ NGƢỜI PHẠM TỘI LÀ CÁN BỘ THUỘC CÁC CƠ QUAN
TƢ PHÁP NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời
phạm tội là cán bộ thuộc các Cơ quan tƣ pháp trong thời gian tới
1.1. Cơ sở dự báo
Tình hình tội phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các
CQTP là một phần trong bức tranh tổng thể của tình hình tội phạm nói chung.
Chính vì vậy, những yếu tố tác động đến THTP chung cũng sẽ là những yếu tố
ảnh hưởng đến THTP của các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực
hiện. Do đó, để có thể đưa ra những dự báo về tình hình diễn biến của nhóm tội
phạm này, trước hết, phải nhận biết được các yếu tố tác động đến THTP nói
chung ở nước ta hiện nay.
Tình hình tội phạm luôn có liên quan chặt chẽ với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
một khoảng thời gian nhất định. Vì thế, THTP nói chung ở nước ta và THTP của
các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP nói riêng, trong
thời gian tới sẽ có những biến động bởi những nhân tố chủ yếu sau đây:
+ Một là, những tác động về kinh tế - xã hội: Trong xu thế hội nhập quốc
tế và phát triển kinh tế theo quy luật kinh tế thị trường, đã có một bộ phận không
nhỏ người dân nước ta chịu ảnh hưởng của những tư tưởng lệch lạc về các giá trị
văn hóa, lối sống thực dụng dẫn đến thích hưởng thụ, lười lao động, coi trọng
các nhu cầu của cá nhân mà xem nhẹ lợi ích của cộng đồng.
+ Hai là, công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội còn những hạn chế,
bất cập như: Công tác quản lý xã hội trong nhiều lĩnh vực còn nhiều sơ hở, thiếu
sót, nhất là trong quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, quản lý cư trú, quản lý cán
bộ; công tác quản lý giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư chưa được
các cấp, các ngành quan tâm đúng mức, còn nhiều sơ hở, bất cập…
+ Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách về kinh tế - xã hội chưa hoàn
thiện, đồng bộ, còn nhiều sơ hở, thiếu sót và chậm được hướng dẫn thi hành, các
chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe và còn nhiều bất cập trong khi phương thức thủ
đoạn của bọn tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp.
32
+ Bốn là, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
có lúc, có nơi, có việc chưa kịp thời và hiệu quả. Nhất là công tác phát hiện, xử
lý các vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng, chức vụ chưa được thường
xuyên, kịp thời và nghiêm minh, còn tình trạng nể nang, né tránh nên hiệu lực
phòng ngừa thấp. Vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa được phát huy
cao nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
+ Năm là, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sự non kém về bản lĩnh chính trị và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ; ý thức trách nhiệm và tinh thần làm việc của cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước chưa cao, nhiều trường hợp tiêu cực, vi
phạm pháp luật, một số trường hợp còn phạm tội, trong đó có một bộ phận cán
bộ tư pháp.
Chính vì những lý do trên mà trong các báo cáo của các cơ quan CQTP
về THTP đều có chung dự báo là: THTP nhìn chung tiếp tục có những diễn biến
hết sức phức tạp với những phương thức thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng
tội phạm luôn có xu hướng gia tăng cả về quy mô và tính chất. Là một bộ phận
cấu thành của THTP thì tình hình tội phạm XPHĐTP do các cán bộ tư pháp thực
hiện trong thời gian tới ở nước ta cũng sẽ có những biến động gia tăng tương
ứng với những biến động của THTP nói chung.
1.2. Nội dung dự báo
Trên cơ sở phân tích những yếu tố tác động đến THTP nói chung, có thể
đưa ra các dự báo về THTP của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các CQTP, trong thời gian tới như sau:
Một là, THTP của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các CQTP sẽ biến động gia tăng tương ứng với sự biến động của tình hình tội
phạm nói chung.
Hai là, tội “Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” sẽ tiếp tục gia
tăng trong lĩnh vực giam, giữ, thi hành án phạt tù. Bởi lẽ, trên thực tế, công tác
tạm giữ, tạm giam và thi hành án phạt tù hiện đang gặp rất nhiều khó khăn,
vướng mắc: Thứ nhất, các nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam hiện nay đang
quá tải trong khi cơ sở vật chất phục vụ cho việc giam, giữ còn thiếu và một số
nơi đang ở trong tình trạng xuống cấp; thứ hai, do thiếu biên chế cán bộ làm
công tác quản lý giam, giữ nên một số nơi giam, giữ phải huy động cả chiến sỹ
nghĩa vụ tham gia công tác; đa số cán bộ, chiến sỹ chưa được đào tạo chuyên
sâu về chuyên môn nghiệp vụ quản lý giam, giữ, tinh thần cảnh giác, ý thức
trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ, chiến sỹ trong khi làm
nhiệm vụ chưa cao, thậm chí có trường hợp còn lơ là, tắc trách và vụ lợi, chế độ
33
đãi ngộ đối với cán bộ, chiến sỹ làm công tác này chưa tương xứng với tính chất
công việc được giao; thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát của VKS đối với công
tác này chưa thường xuyên, liên tục; việc áp dụng các chế tài để xử lý đối với
loại tội phạm này những năm qua là chưa nghiêm khắc nên không đủ sức răn đe.
Đây là những nguyên nhân, điều kiện chủ yếu làm phát sinh tội phạm này.
Tiếp theo, các tội phạm XPHĐTP có thể phát sinh trong lĩnh vực thi hành
án dân sự như: Tội “Ra quyết định trái pháp luật”; tội “Không thi hành án”…
cũng sẽ tăng nhanh và có những diễn biến phức tạp. Bởi vì, hoạt động thi hành
án dân sự là một lĩnh vực HĐTP hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, liên quan tới những tài sản thuộc về các tổ chức xã hội và công dân
như tiền, nhà ở, đất đai…Trong khi đó, thể chế pháp luật và văn bản hướng dẫn
về thi hành án dân sự hiện nay còn có quá nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa rõ
ràng nên có nhiều “kẽ hở” pháp luật bị các cán bộ CQTHA dân sự lợi dụng để
làm sai mà không dễ phát hiện. Mặt khác, trong thi hành án dân sự, cả người
được thi hành án và người phải thi hành án đều có chung một tâm lý là muốn
được lợi ích cao nhất từ việc thi hành án nên thường sử dụng chiêu bài “hối lộ”
cho cán bộ thi hành án để hưởng lợi. Trên thực tế, nhiều cán bộ thi hành án dân
sự đã bị sa ngã bởi những đề nghị “hấp dẫn” từ phía các đương sự, cộng với việc
thường xuyên phải tiếp xúc với tiền bạc và những tài sản giá trị lớn như trong thi
hành án nên dễ làm phát sinh lòng tham dẫn đến việc phạm tội vì trục lợi.
Ba là, trong thời gian tới, một số tội phạm gắn với hành vi của những
người có thẩm quyền ra các quyết định trong HĐTP như: Tội “Không truy cứu
TNHS người có tội”, tội “Ra quyết định pháp luật” cũng có chiều hướng gia
tăng. Vì theo quy định của pháp luật hiện hành, các ĐTV, KSV, Thẩm phán,
Chấp hành viên là những người trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng. Tuy
nhiên, những người đứng đầu các CQTP như Viện trưởng VKS, Thủ trưởng
CQĐT, Chánh án Tòa án, Thủ trưởng CQTHA dân sự lại là những người có vai
trò quyết định hoặc có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định xử lý, giải quyết các vụ
án. Nhưng hiện tại, các quy định của pháp luật về trách nhiệm cá nhân của người
đứng đầu các CQTP và những người trực tiếp tiến hành tố tụng chưa đầy đủ, rõ
ràng nên rất dễ bị lợi dụng để ra những quyết định sai trái mà không sợ phải chịu
trách nhiệm.
Bên cạnh những tội phạm XPHĐTP có chiều hướng gia tăng thì từ thực tế
công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm XPHĐTP của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao có thể thấy xu hướng giảm trong thời gian tới của tội phạm
“Dùng nhục hình”. Bởi lẽ trong 5 năm qua, nhiều tội phạm dùng nhục hình đã bị
phát hiện, điều tra và xử lý nghiêm minh; đồng thời tội phạm này khi xảy ra thì
34
thường gây nên sự căm phẫn trước hành vi trái pháp luật, vô đạo đức và thiếu
lương tâm của người phạm tội nên luôn bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ. Mặt
khác, nguyên nhân dẫn đến tội phạm này của các cán bộ CQTP chủ yếu là do
bộc phát, nhất thời, nóng vội, muốn lập thành tích trong quá trình phá án, do coi
thường tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng hiện tại các CQTP đang tích
cực đẩy mạnh các hoạt động phòng chống vi phạm, tội phạm, đẩy mạnh công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, văn hóa ứng xử, tinh
thần và trách nhiệm trong nghề nghiệp của các cán bộ tư pháp như: Cuộc vận
động “Xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên vững về chính trị, giỏi về nghiệp
vụ, tinh thông về pháp luật; công tâm, bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” của
ngành Kiểm sát; phong trào thi đua “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều
lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ” của ngành Công an v.v.
nên những hành vi trái pháp luật và phi đạo đức trong hoạt động tư pháp của cán
bộ các CQTP như trong các vụ án “Dùng nhục hình” chắc chắn sẽ bị đẩy lùi.
Tóm lại, từ những dự báo trên, có thể thấy, trong thời gian tới, nhóm tội
phạm XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện sẽ có những diễn biến phức
tạp theo chiều hướng gia tăng. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình mới.
2. Yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm
phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ
pháp trong điều kiện cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay
Hoạt động tư pháp là hoạt động quyền lực nên đòi hỏi các cán bộ tư pháp,
các CQTP phải là sự mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp là “Xây dựng
các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại” để thực hiện
mục tiêu: “Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc” [13].
Trên cơ sở chủ trương, định hướng cải cách tư pháp, việc đấu tranh phòng,
chống các tội XPHĐTP trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các CQTP trong việc
phòng, chống các tội XPHĐTP phải dựa trên quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, với mục tiêu tăng cường sự phối hợp, phân
công, kiểm soát quyền lực trong hoạt động tư pháp, bảo đảm các điều kiện để
các CQTP thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
35
Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức và hoạt động của các CQTP đáp
ứng phải đáp ứng được tính chất đặc thù đấu tranh phòng, chống tội phạm
XPHĐTP nói chung và nhóm tội phạm XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ
của các CQTP nói riêng với phương châm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh
các hành vi có dấu hiệu tội phạm, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm để kiến nghị các giải pháp phòng ngừa, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật.
Thứ ba, đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của cán
bộ, nhân viên tư pháp; giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự
giác của công dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp.
3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các
cơ quan tƣ pháp ở Việt Nam trong thời gian tới
Như trên đã phân tích, các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ thuộc
các CQTP xảy ra là do có những nguyên nhân nhất định. Để có thể đưa ra những
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này cần phải dựa trên kết quả nghiên cứu những nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế của công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong
thời gian qua và những yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm XPHĐTP
nói chung trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau đây:
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm trước hết phải kể đến biện pháp
pháp luật. Việc không ngừng hoàn thiện pháp luật, ban hành pháp luật kịp thời
và chặt chẽ, tránh được những sơ hở, khiếm khuyết trong áp dụng pháp luật sẽ là
biện pháp phòng ngừa tích cực.
Để hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho
việc xử lý chính xác, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội XPHĐTP của các cán
bộ tư pháp, theo chúng tôi cần bổ sung thêm tội quy định về hành vi của cán bộ
tư pháp đã cố ý để các bị can thông cung với nhau gây hậu quả nghiêm trọng,
đồng thời cần ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của Chương XXII
BLHS về các tội XPHĐTP, đặc biệt là các dấu hiệu“gây hậu quả nghiêm
trọng”;“gây hậu quả rất nghiêm trọng”và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”
trong các tình tiết định khung của các điều luật cụ thể.
Về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự để khắc phục những vướng mắc,
bất cập trong các quy định về thẩm quyền điều tra của CQĐT Viện KSND tối
36
cao, đồng thời tăng cường kiểm soát hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước
trong hoạt động tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa
các tội XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện thì BLTTHS nên quy định
cho CQĐT của VKSND tối cao thẩm quyền điều tra tất cả tội phạm XPHĐTP
thay vì chỉ quy định thẩm quyền điều quyền điều tra “một số loại tội phạm
XPHĐTP” như hiện nay. Đồng thời mở rộng thẩm quyền điều tra các tội phạm
tham nhũng, chức vụ khác mà cán bộ các CQTP có thể thực hiện khi các hành vi
tham nhũng này có liên quan đến hoạt động tư pháp của các CQTP.
Thứ hai, cần bổ sung những quy định cụ thể về chức trách, nhiệm vụ của
từng cơ quan khi thực hiện mối quan hệ phối hợp trong vấn đề tiếp nhận và giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP do người phạm
tội là cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng.
Thứ ba, phân biệt rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng các cơ quan
tư pháp như CQĐT, VKS, Tòa án, cơ quan Thi hành án trong việc tổ chức, chỉ
đạo hoạt động tố tụng và trong tiến hành tố tụng đối với vụ án cụ thể. tăng
cường quyền hạn, trách nhiệm của các cán bộ tư pháp có chức danh pháp lý như
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…
3.2. Nhóm giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các
hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp và các cán bộ thuộc cơ quan tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước (quyền tư
pháp), do vậy hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra giám sát của nhiều cơ chế
khác nhau (trong đó có cơ chế kiểm tra từ bên trong mỗi hệ thống CQTP và cơ
chế giám sát từ bên ngoài hệ thống CQTP). Cơ chế kiểm tra từ bên trong của
mỗi hệ thống CQTP là cơ chế kiểm tra, giám sát do chủ thể thực thi quyền tư
pháp đặt ra để kiểm tra, giám sát các bộ phận thuộc hệ thống của mình trong quá
trình thực thi thẩm quyền tư pháp. Đó là các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm
tra của bộ phận thanh tra, kiểm tra công vụ; hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ
quan tiến hành tố tụng cấp trung ương đối với cơ quan tiến hành tố tụng ở địa
phương, của cấp trên đối với cấp dưới nhằm đảm bảo cho hệ thống đó hoạt động
đúng chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định. Cơ chế giám sát từ bên
ngoài bao gồm hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước (hoạt động giám
sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Viện kiểm sát) đối với các cơ quan thực
thi quyền tư pháp, còn gọi là giám sát nhà nước và giám sát do các tổ chức chính
trị và tổ chức chính trị - xã hội thực hiện, gọi là giám sát xã hội. Tuy nhiên trong
khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung đề xuất các biện pháp tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát. Bởi vì, VKSND là cơ quan duy
nhất được Nhà nước giao cho chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt
37
động kiểm sát của VKSND đối với các hoạt động tư pháp thực chất là việc sử
dụng các quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho để hạn chế sự lạm quyền
của chính các cơ quan Nhà nước (các CQTP). Mục đích của kiểm sát các hoạt
động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và
thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong quá
trình kiểm sát các hoạt động tố tụng của các CQTP, Viện kiểm sát có quyền áp
dụng những biện pháp luật định để phát hiện, loại trừ những hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm của bất kỳ CQTP nào, bất kỳ cán bộ tư pháp nào. Do đó,
kiểm sát các hoạt động tư pháp là hoạt động phòng ngừa có hiệu quả nhất đối
với các tội XPHĐTP. Viện kiểm sát có vai trò rất quan trọng trong đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm XPHĐTP và cũng là cơ quan có điều kiện thuận lợi nhất
để phát hiện, đấu tranh với những hành vi XPHĐTP của các cán bộ tư pháp.
Để hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp có hiệu quả cao, cần phải tiến
hành một số biện pháp sau:
Một là, tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của VKSND các cấp đối với các
công tác kiểm sát thực hiện chức năng.
Hai là, VKSND các cấp phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình thông
quan các khâu công tác kiểm sát, kịp thời phát hiện những dấu hiệu sai phạm
của những người tiến hành tố tụng, những người có chức vụ quyền hạn trong
hoạt động tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ chống oan, sai, chống lọt, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, của tập
thể, quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Ba là, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và thường
xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, ý thức trách nhiệm cho các cán bộ, Kiểm sát
viên để đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên của ngành Kiểm sát thực sự là những
người gương mẫu trong việc chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật,
xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của đảng, Nhà nước và nhân dân trong đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và các tội XPHĐTP nói riêng.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp giữa VKSND các cấp với các cơ quan, đơn
vị có liên quan trong việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra VKSND.
Năm là, tăng cường trang thiết bị, phương tiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
của VKSND các cấp, có chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp để động viên đội
ngũ cán bộ ngành Kiểm sát hoàn thành tốt nhiệm vụ.
3.3. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, tăng
cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan tư pháp, các chế độ chính
sách đãi ngộ đối với cán bộ các cơ quan tư pháp.
38
Một trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh tội phạm trong lĩnh vực
hoạt động tư pháp là đội ngũ cán bộ tư pháp ở nước ta hiện nay còn thiếu về số
lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ và còn gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ tư pháp còn có biểu hiện tiêu cực, thiếu tinh
thần trách nhiệm, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp và sa sút về phẩm chất đạo đức.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ này, trước tiên phải đổi mới quy trình
tuyển chọn các chức danh tư pháp. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến tư cách đạo
đức, bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người, để đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay. Bên cạnh việc tuyển
chọn cán bộ kỹ càng thì cần phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ, chuyên môn pháp lý, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp
cho cán bộ tư pháp nhất là đối với những người có chức danh pháp lý. Đồng thời
cần tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho CQĐT, VKS, Tòa án
và Cơ quan Thi hành án cũng như có chính sách tiền lương, phụ cấp và các
khoản đãi ngộ đặc thù đảm bảo cho cán bộ tư pháp có điều kiện ổn định cuộc
sống, yên tâm công tác, không bị dao động, sa ngã trước mọi tác động cám dỗ,
mua chuộc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
3.4. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với các tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp do cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thực hiện.
Theo quy định của pháp luật, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao là
CQĐT chuyên trách có thẩm quyền điều tra các tội XPHĐTP mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các CQTP. Vì vậy chất lượng hoạt động của CQĐT này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này. Thời
gian qua, CQĐT của VKSND tối cao đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc phát
hiện, điều tra, xử lý các tội XPHĐTP do cán bộ thuộc các CQTP thực hiện còn
có những hạn chế nhất định, hiệu quả công tác điều tra chưa cao. Để khắc phục
tình trạng này, thì cần phải có những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của
CQĐT này để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp như sau:
Một là, đổi mới tổ chức bộ máy của CQĐT của VKSND tối cao theo hướng
tổ chức thêm các đơn vị nghiệp vụ đóng trên một số vùng, miền. Hiện tại, ngoài
trụ sở chính đóng tại Hà Nội, CQĐT Viện KSND tối cao còn có 02 cơ quan đại
diện thường trực tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên (đóng ở Đà Nẵng) và
miền Nam (tại Thành phố Hồ Chí Minh). Nhưng trên thực tế với phạm vi hoạt
động trên toàn lãnh thổ Việt Nam thì CQĐT này cần phải có thêm các đơn vị
39
hoạt động ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nam bộ thì mới đảm bảo kịp thời
nắm bắt và xử lý thông tin vi phạm, tội phạm xảy ra trong quá trình tiến hành tố
tụng của các CQTP trên cả nước.
Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần bổ sung đội ngũ cán bộ làm
công tác điều tra cho CQĐT Viện KSND tối cao. Hiện tại, CQĐT chỉ có tổng số
82 biên chế, trong đó Điều tra viên các cấp là 55 người nhưng phải theo dõi
thông tin vi phạm của các CQTP trung ương, các CQTP ở 63 tỉnh, thành phố và
các CQTP của 698 huyện, thị xã trên toàn quốc nên không thể kịp thời nắm bắt
và xử lý những tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền. Trên thực tế hoạt
động cảu CQĐT Viện KSND tối cao đã bị hạn chế rất nhiều khi không nắm
được đầy đủ thông tin về tình hình tội phạm XPHĐTP xảy ra trong cả nước.
Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động của CQĐT Viện KSND tối cao bằng
việc thực hiện đồng bộ các biện pháp sau đây:
- Nâng cao chất lượng hoạt động tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về
các tội phạm XPHĐTP.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án XPHĐTP
thuộc thẩm quyền.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT của VKSND tối cao với
các cơ quan, đơn vị hữu quan trong quá trình điều tra các vụ án XPHĐTP mà
người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
Cuối cùng, ngoài việc nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ trong ngành
nói chung thì đối với CQĐT ngành Kiểm sát cần tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị phù hợp với tính đặc thù trong công tác của CQĐT này.
40
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt
kinh tế, xã hội thì THTP nói chung và tội phạm XPHĐTP nói riêng, đặc biệt là
nhóm tội XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện cũng có những diễn biến
phức tạp. Tính chất nghiêm trọng của nhóm tội phạm này thể hiện ở chỗ chúng
không những có thể xâm hại đến các lợi ích của Nhà nước, đến quyền và lợi ích
chính đáng của công dân mà còn làm giảm sút uy tín của các CQTP, gây mất
lòng tin của nhân dân vào các hoạt động bảo vệ pháp luật, từ đó làm giảm hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, việc nâng cao chất lượng
của công tác đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này có một ý nghĩa rất
quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay.
Để đấu tranh có hiệu quả đối với các tội XPHĐTP nói chung và các tội
XPHĐT do cán bộ các CQTP thực hiện nói riêng thì cần phải có nhận thức đúng
đắn những vấn đề lý luận về loại tội phạm XPHĐTP nói chung cũng như những
đặc điểm pháp lý đặc trưng của các tội XPHĐTP mà người phạm tội là cán bộ
các ơ quan tư pháp cũng như nắm bắt được thực trạng, diễn biến tình hình tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và công tác đấu tranh phòng
chống loại tội phạm này ở Việt Nam trong thời gian qua, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
này, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Đây cũng chính là nhiệm
vụ và mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Bằng cách nghiên cứu, tiếp cận vấn đề dưới góc độ khoa học luật hình sự
và khoa học tội phạm học, tác giả đề tài đã cố gắng làm sáng tỏ các vấn đề nêu
trên cả về mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn. Qua đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống các tội
XPHĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống loại tội phạm này nói riêng ở
Việt Nam hiện nay.
Dù đã rất cố gắng nhưng đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng
nhưng trong một thời gian nghiên cứu không dài và khả năng nghiên cứu, phân
tích của tác giả còn hạn chế nên chắc chắn sẽ còn có những thiếu sót trong kết
quả nghiên cứu. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thành
viên Hội đồng khoa học và các đồng nghiệp để đề tài thêm hoàn thiện./.
top related